Table of Contents

Dhammapada-aṭṭhakathā

Edit
565
1. Sāmāvatīvatthu
1. The Story of Sāmāvatī
1. Câu chuyện về Sāmāvatī
566
Appamādo amatapadanti imaṃ dhammadesanaṃ satthā kosambiṃ upanissāya ghositārāme viharanto sāmāvatippamukhānaṃ pañcannaṃ itthisatānaṃ, māgaṇḍiyappamukhānañca etissā pañcannaṃ ñātisatānaṃ maraṇabyasanaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher delivered this discourse on Dhamma, "Appamādo amatapadaṃ" (Heedfulness is the path to the Deathless), while residing at Ghositārāma near Kosambī, concerning the calamity of death that befell five hundred women, led by Sāmāvatī, and five hundred of her relatives, led by Māgaṇḍiyā.
Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng bài pháp này, Appamādo amatapadanti (Không buông lung là con đường bất tử), khi Ngài trú tại Ghositārāma gần Kosambī, liên quan đến sự diệt vong của năm trăm phụ nữ do Sāmāvatī đứng đầu và năm trăm thân quyến của Māgaṇḍiyā.
567
Tatrāyaṃ anupubbikathā – atīte allakapparaṭṭhe allakapparājā nāma, veṭhadīpakaraṭṭhe veṭhadīpakarājā nāmāti ime dve daharakālato paṭṭhāya sahāyakā hutvā ekācariyakule sippaṃ uggaṇhitvā attano attano pitūnaṃ accayena chattaṃ ussāpetvā āyāmena dasadasayojanike raṭṭhe rājāno ahesuṃ.
The sequential story here is as follows: In the past, there were two kings who were friends from their youth, King Allakappa in the country of Allakappa, and King Veṭhadīpaka in the country of Veṭhadīpaka. They learned crafts in the same teacher's family and, upon the passing of their respective fathers, raised the royal parasol, becoming kings over realms ten yojanas in length.
Đây là câu chuyện tuần tự về sự việc đó: Trong quá khứ, tại vương quốc Allakappa có một vị vua tên là Allakappa, và tại vương quốc Veṭhadīpaka có một vị vua tên là Veṭhadīpaka. Hai vị vua này là bạn thân từ thuở nhỏ, cùng học nghề tại nhà một vị thầy. Sau khi cha của họ qua đời, họ lên ngôi vua, mỗi người cai trị một vương quốc rộng mười yojana.
Te kālena kālaṃ samāgantvā ekato tiṭṭhantā nisīdantā nipajjantā mahājanaṃ jāyamānañca jīyamānañca mīyamānañca disvā ‘‘paralokaṃ gacchantaṃ anugacchanto nāma natthi, antamaso attano sarīrampi nānugacchati, sabbaṃ pahāya gantabbaṃ, kiṃ no gharāvāsena, pabbajissāmā’’ti mantetvā rajjāni puttadārānaṃ niyyādetvā isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantappadese vasantā mantayiṃsu – ‘‘mayaṃ rajjaṃ pahāya pabbajitā, na jīvituṃ asakkontā.
From time to time, they would meet and, standing, sitting, or lying together, they saw the multitude being born, aging, and dying, and thought: "No one follows another to the other world; not even one's own body follows. Everything must be abandoned and departed from. What is the use of household life for us? We shall go forth." Having thus consulted, they entrusted their kingdoms to their sons and wives, and went forth into the ascetic life. While dwelling in the Himalayan region, they consulted: "We have abandoned our kingdoms and gone forth, not because we were unable to live.
Thỉnh thoảng, họ gặp gỡ, cùng đứng, ngồi, nằm, và khi nhìn thấy chúng sinh sinh ra, già đi và chết đi, họ suy nghĩ: “Không ai đi theo người ra đi về thế giới bên kia, ngay cả thân thể của mình cũng không theo được. Tất cả đều phải bỏ lại mà đi. Chúng ta ở nhà thì có ích gì? Chúng ta hãy xuất gia!” Sau khi bàn bạc, họ giao lại vương quốc cho con cái và vợ, rồi xuất gia làm đạo sĩ (isi). Khi đang sống ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, họ lại bàn bạc:
Te mayaṃ ekaṭṭhāne vasantā apabbajitasadisāyeva homa, tasmā visuṃ vasissāma.
While living together in one place, we are just like laypeople; therefore, we shall live separately.
“Chúng ta đã bỏ vương quốc để xuất gia, không phải vì không thể sống được.
Tvaṃ etasmiṃ pabbate vasa, ahaṃ imasmiṃ pabbate vasissāmi.
You reside on that mountain, and I will reside on this mountain.
Nếu chúng ta sống chung một chỗ, chúng ta cũng sẽ giống như những người chưa xuất gia. Vậy nên, chúng ta hãy sống riêng rẽ.
Anvaḍḍhamāsaṃ pana uposathadivase ekato bhavissāmā’’ti.
But on the Uposatha day, every half-month, we shall come together.”
Ngươi hãy sống trên ngọn núi này, còn ta sẽ sống trên ngọn núi kia.
Atha kho nesaṃ etadahosi – ‘‘evampi no gaṇasaṅgaṇikāva bhavissati, tvaṃ pana tava pabbate aggiṃ jāleyyāsi, ahaṃ mama pabbate aggiṃ jālessāmi, tāya saññāya atthibhāvaṃ jānissāmā’’ti.
Then it occurred to them: “Even this will be merely association with a group. You should light a fire on your mountain, and I will light a fire on my mountain. By that sign, we will know of each other's existence.”
Tuy nhiên, cứ mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, chúng ta sẽ gặp nhau.”
Te tathā kariṃsu.
They did so.
Rồi họ nghĩ: “Nếu vậy, chúng ta vẫn sẽ có sự tụ tập. Vậy thì, ngươi hãy đốt lửa trên núi của ngươi, ta sẽ đốt lửa trên núi của ta, chúng ta sẽ biết sự hiện diện của nhau bằng dấu hiệu đó.” Họ đã làm như vậy.
568
Atha aparabhāge veṭhadīpakatāpaso kālaṃ katvā mahesakkho devarājā hutvā nibbatto.
Later, the ascetic of Veṭhadīpa passed away and was reborn as a powerful king of devas.
Sau đó, đạo sĩ Veṭhadīpaka qua đời và tái sinh thành một vị thiên vương (devarājā) có oai lực lớn.
Tato aḍḍhamāse sampatte aggiṃ adisvāva itaro ‘‘sahāyako me kālakato’’ti aññāsi.
When half a month had passed, the other ascetic, seeing no fire, knew, “My friend has passed away.”
Nửa tháng sau, khi không thấy lửa cháy, vị đạo sĩ kia (Allakappa) biết rằng “Bạn ta đã qua đời.”
Itaropi nibbattakkhaṇeyeva attano devasiriṃ oloketvā kammaṃ upadhārento nikkhamanato paṭṭhāya attano tapacariyaṃ disvā ‘‘gantvā mama sahāyakaṃ passissāmī’’ti taṃ attabhāvaṃ vijahitvā maggikapuriso viya tassa santikaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
The other, upon being reborn, looked upon his divine glory and, reflecting on his actions, saw his ascetic practice since leaving home. He thought, “I will go and see my friend,” and abandoning that divine form, he went to the ascetic like a traveler, paid homage, and stood to one side.
Vị thiên vương kia, ngay khi tái sinh, nhìn thấy sự huy hoàng của mình và quán xét nghiệp thiện đã tạo. Từ khi xuất gia, Ngài thấy được sự thực hành khổ hạnh của mình. Ngài nghĩ: “Ta sẽ đi thăm bạn ta.” Rồi Ngài bỏ thân thiên nhân ấy, giống như một người lữ hành, đến chỗ bạn mình, đảnh lễ và đứng sang một bên.
Atha naṃ so āha – ‘‘kuto āgatosī’’ti?
Then the ascetic said to him, “Where have you come from?”
Khi ấy, vị đạo sĩ kia hỏi Ngài: “Ngươi từ đâu đến?”
‘‘Maggikapuriso ahaṃ, bhante, dūratova āgatomhi.
“I am a traveler, venerable sir, come from afar.
“Bạch Ngài, con là một người lữ hành, con đến từ rất xa.”
Kiṃ pana, bhante, ayyo imasmiṃ ṭhāne ekakova vasati, aññopi koci atthī’’ti?
But, venerable sir, do you live alone in this place? Is there anyone else?”
“Bạch Ngài, Ngài sống một mình ở đây sao? Có ai khác nữa không?”
‘‘Atthi me eko sahāyako’’ti.
“I have a friend,” he replied.
“Ta có một người bạn.”
‘‘Kuhiṃ so’’ti?
“Where is he?”
“Ngài ấy ở đâu?”
‘‘Etasmiṃ pabbate vasati, uposathadivase pana aggiṃ na jāleti, mato nūna bhavissatī’’ti.
“He lives on that mountain, but he does not light a fire on the Uposatha day; he must have died.”
“Ngài ấy sống trên ngọn núi kia, nhưng vào ngày Uposatha, Ngài ấy không đốt lửa. Chắc Ngài ấy đã qua đời rồi.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti?
“Is that so, venerable sir?”
“Bạch Ngài, đúng vậy sao?”
‘‘Evamāvuso’’ti.
“Yes, friend.”
“Này hiền giả, đúng vậy.”
‘‘Ahaṃ so, bhante’’ti.
“Venerable sir, I am that friend,” he said.
“Bạch Ngài, con chính là người bạn ấy.”
‘‘Kuhiṃ nibbattosī’’ti?
“Where were you reborn?”
“Ngươi đã tái sinh ở đâu?”
‘‘Devaloke mahesakkho devarājā hutvā nibbattosmi, bhante, ‘ayyaṃ passissāmī’ti puna āgatomhi.
“Venerable sir, I was reborn as a powerful king of devas in the deva world. I came back again to see the venerable one.
“Bạch Ngài, con đã tái sinh làm một vị thiên vương (devarājā) có oai lực lớn trong cõi trời. Con đã trở lại để thăm Ngài.”
Api nu kho ayyānaṃ imasmiṃ ṭhāne vasantānaṃ koci upaddavo atthī’’ti?
Is there any trouble for you, venerable one, living in this place?”
Thưa Tôn giả, có chăng các ngài đang sống ở nơi đây gặp phải bất kỳ tai họa nào không?
‘‘Āma, āvuso, hatthī nissāya kilamāmī’’ti.
“Yes, friend, I am troubled by elephants.”
“Vâng, này Hiền giả, tôi mệt mỏi vì lũ voi.”
‘‘Kiṃ vo, bhante, hatthī karontī’’ti?
“Venerable sir, what do the elephants do to you?”
“Thưa Tôn giả, lũ voi làm gì các ngài?”
‘‘Sammajjanaṭṭhāne laṇḍaṃ pātenti, pādehi bhūmiyaṃ paharitvā paṃsuṃ uddharanti, svāhaṃ laṇḍaṃ chaḍḍento paṃsuṃ samaṃ karonto kilamāmī’’ti.
“They drop dung in the sweeping area, and they kick the ground with their feet, raising dust. So I get tired sweeping away the dung and leveling the dust.”
“Chúng phóng uế ở nơi quét dọn, dùng chân giẫm đạp đất làm bụi bay lên, và tôi mệt mỏi vì phải dọn dẹp phân và san phẳng đất.”
‘‘Kiṃ pana tesaṃ anāgamanaṃ icchathā’’ti?
“Do you wish for them not to come?”
“Vậy các ngài có muốn chúng không đến nữa không?”
‘‘Āmāvuso’’ti.
“Yes, friend,” he replied.
“Vâng, này Hiền giả.”
‘‘Tena hi tesaṃ anāgamanaṃ karissāmī’’ti tāpasassa hatthikantavīṇañceva hatthikantamantañca adāsi.
“In that case, I will make them not come,” and he gave the ascetic a lute that charmed elephants and a mantra that charmed elephants.
“Vậy thì tôi sẽ làm cho chúng không đến nữa,” nói rồi, vị thần ấy trao cho vị ẩn sĩ cây đàn vīṇā mê hoặc voi và thần chú mê hoặc voi.
Dadanto ca pana vīṇāya tisso tantiyo dassetvā tayo mante uggaṇhāpetvā ‘‘imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte nivattitvā oloketumpi asakkontā hatthī palāyanti, imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte nivattitvā pacchato olokentā olokentā palāyanti, imaṃ tantiṃ paharitvā imasmiṃ mante vutte hatthiyūthapati piṭṭhiṃ upanāmento āgacchatī’’ti ācikkhitvā, ‘‘yaṃ vo ruccati, taṃ kareyyāthā’’ti vatvā tāpasaṃ vanditvā pakkāmi.
As he gave them, he showed him the three strings of the lute and taught him the three mantras, explaining, “If you strike this string and recite this mantra, the elephants will flee without being able to turn back even to look. If you strike this string and recite this mantra, they will flee, continually looking back. If you strike this string and recite this mantra, the elephant herd leader will come, bending its back.” After explaining this, he said, “Do whichever you prefer,” then paid homage to the ascetic and departed.
Khi trao, vị thần ấy chỉ ba dây đàn vīṇā và dạy ba thần chú, nói: “Nếu đánh dây này và niệm thần chú này, lũ voi sẽ bỏ chạy mà không thể quay đầu nhìn lại; nếu đánh dây này và niệm thần chú này, chúng sẽ bỏ chạy vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại; nếu đánh dây này và niệm thần chú này, con voi đầu đàn sẽ đến cúi lưng xuống.” Vị thần ấy nói: “Các ngài thích gì thì hãy làm điều đó,” rồi đảnh lễ vị ẩn sĩ và rời đi.
Tāpaso palāyanamantaṃ vatvā palāyanatantiṃ paharitvā hatthī palāpetvā vasi.
The ascetic recited the mantra of fleeing and struck the string of fleeing, causing the elephants to flee, and he lived in peace.
Vị ẩn sĩ niệm thần chú xua đuổi voi và đánh dây đàn xua đuổi voi, khiến lũ voi bỏ chạy và sống yên ổn.
569
Tasmiṃ samaye kosambiyaṃ pūrantappo nāma rājā hoti.
At that time, in Kosambī, there was a king named Pūrantappa.
Vào thời điểm đó, tại Kosambī có một vị vua tên là Pūrantappa.
So ekadivasaṃ gabbhiniyā deviyā saddhiṃ bālasūriyatapaṃ tappamāno abbhokāsatale nisīdi.
One day, he sat with his pregnant queen in an open space, basking in the morning sun.
Một ngày nọ, nhà vua cùng với hoàng hậu đang mang thai ngồi ngoài trời để tắm nắng sớm.
Devī rañño pārupanaṃ satasahassagghanikaṃ rattakambalaṃ pārupitvā nisinnā raññā saddhiṃ samullapamānā rañño aṅgulito satasahassagghanikaṃ rājamuddikaṃ nīharitvā attano aṅguliyaṃ pilandhi.
The queen, covered in a red woolen blanket worth a hundred thousand, sat conversing with the king and removed the royal ring, also worth a hundred thousand, from the king’s finger and placed it on her own finger.
Hoàng hậu, đang mặc chiếc chăn đỏ trị giá một trăm ngàn đồng của nhà vua, ngồi trò chuyện với nhà vua, rồi tháo chiếc nhẫn hoàng gia trị giá một trăm ngàn đồng từ ngón tay của nhà vua và đeo vào ngón tay của mình.
Tasmiṃ samaye hatthiliṅgasakuṇo ākāsena gacchanto dūrato rattakambalapārupanaṃ deviṃ disvā ‘‘maṃsapesī’’ti saññāya pakkhe vissajjetvā otari.
At that moment, an elephant-bird flying through the sky saw the queen covered in the red blanket from afar and, mistaking her for a piece of meat, spread its wings and descended.
Vào lúc đó, một con chim voi (hatthiliṅgasakuṇa) đang bay trên trời, từ xa nhìn thấy hoàng hậu mặc chăn đỏ, tưởng là một miếng thịt nên xò cánh hạ xuống.
Rājā tassa otaraṇasaddena bhīto uṭṭhāya antonivesanaṃ pāvisi.
The king, frightened by its descending sound, rose and entered the inner palace.
Nhà vua, sợ hãi vì tiếng chim hạ xuống, đứng dậy và đi vào nội cung.
Devī garugabbhatāya ceva bhīrukajātikatāya ca vegena gantuṃ nāsakkhi.
The queen, due to her heavy pregnancy and timid nature, could not move quickly.
Hoàng hậu, vì đang mang thai nặng và bản tính nhút nhát, không thể đi nhanh được.
Atha naṃ so sakuṇo ajjhappatto nakhapañjare nisīdāpetvā ākāsaṃ pakkhandi.
Then the bird swooped down, seized her in its talons, and soared into the sky.
Sau đó, con chim ấy đến gần, dùng móng vuốt kẹp lấy bà và bay lên trời.
Te kira sakuṇā pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārenti.
It is said that these birds possess the strength of five elephants.
Người ta nói rằng những con chim ấy có sức mạnh của năm con voi.
Tasmā ākāsena netvā yathārucitaṭṭhāne nisīditvā maṃsaṃ khādanti.
Therefore, they carry their prey through the sky, land in a desired spot, and eat the meat.
Vì vậy, chúng mang con mồi lên trời, rồi đậu ở nơi chúng thích và ăn thịt.
Sāpi tena nīyamānā maraṇabhayabhītā cintesi – ‘‘sacāhaṃ viravissāmi, manussasaddo nāma tiracchānagatānaṃ ubbejanīyo, taṃ sutvā maṃ chaḍḍessati.
As she was being carried by it, terrified by the fear of death, she thought: “If I scream, a human voice is alarming to animals, and hearing it, the bird will drop me.
Hoàng hậu, đang bị con chim mang đi, sợ hãi cái chết và nghĩ: “Nếu ta la lên, tiếng người sẽ làm cho loài vật hoảng sợ, nghe thấy tiếng ta, nó sẽ thả ta xuống.
Evaṃ sante saha gabbhena jīvitakkhayaṃ pāpuṇissāmi, yasmiṃ pana ṭhāne nisīditvā maṃ khādituṃ ārabhissati, tatra naṃ saddaṃ katvā palāpessāmī’’ti.
In that case, I will lose my life along with my unborn child. But when it lands somewhere to eat me, I will make a sound there and scare it away.”
Trong trường hợp đó, ta sẽ mất mạng cùng với đứa con trong bụng. Vậy thì, ở nơi nào nó định đậu xuống để ăn thịt ta, ta sẽ la lên để xua đuổi nó.”
Sā attano paṇḍitatāya adhivāsesi.
Being wise, she endured.
Bà, với sự thông minh của mình, đã nhẫn nại chịu đựng.
570
Tadā ca himavantapadese thokaṃ vaḍḍhitvā maṇḍapākārena ṭhito eko mahānigrodho hoti.
At that time, in the Himālaya region, there was a great banyan tree that had grown a little and stood in the shape of a pavilion.
Vào lúc đó, ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, có một cây đa lớn đã lớn lên một chút và có hình dáng như một cái lều.
So sakuṇo migarūpādīni tattha netvā khādati, tasmā tampi tattheva netvā viṭapabbhantare ṭhapetvā āgatamaggaṃ olokesi.
The bird used to bring deer and other animals there to eat, so it carried her there too, placed her in the fork of the branches, and looked back at the path it had come.
Con chim ấy thường mang các loài thú săn đến đó để ăn, vì vậy nó cũng mang hoàng hậu đến đó, đặt bà vào giữa các cành cây và nhìn lại con đường đã đến.
Āgatamaggolokanaṃ kira tesaṃ dhammatā.
It is their custom, apparently, to look back at the path they have come.
Người ta nói rằng việc nhìn lại con đường đã đến là thói quen của chúng.
Tasmiṃ khaṇe devī, ‘‘idāni imaṃ palāpetuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā ubho hatthe ukkhipitvā pāṇisaddañceva mukhasaddañca katvā taṃ palāpesi.
At that moment, the queen, thinking, “Now is the time to scare this bird away,” raised both her hands, made clapping and vocal sounds, and scared it away.
Vào khoảnh khắc đó, hoàng hậu nghĩ: “Bây giờ là lúc phải xua đuổi con chim này,” rồi giơ hai tay lên, vỗ tay và la lớn, xua đuổi nó đi.
Athassā sūriyatthaṅgamanakāle gabbhe kammajavātā caliṃsu.
Then, at sunset, the karmic winds stirred in her womb.
Sau đó, vào lúc mặt trời lặn, những cơn gió do nghiệp trong bụng bà bắt đầu chuyển động.
Sabbadisāsu gajjanto mahāmegho uṭṭhahi.
A great cloud rose, thundering in all directions.
Một đám mây lớn nổi lên, gầm thét khắp mọi hướng.
Sukhedhitāya rājamahesiyā ‘‘mā bhāyi, ayye’’ti vacanamattampi alabhamānāya dukkhaparetāya sabbarattiṃ niddā nāma nāhosi.
The royal queen, who had been brought up in comfort, could not even get a single comforting word like “Do not be afraid, madam,” and was overcome by suffering; she had no sleep throughout the entire night.
Hoàng hậu, vốn được nuôi dưỡng trong sung sướng, không nhận được dù chỉ một lời an ủi “Đừng sợ, này quý nương,” nên chìm trong đau khổ, suốt đêm không thể ngủ được.
Vibhātāya pana rattiyā valāhakavigamo ca aruṇuggamanañca tassā gabbhavuṭṭhānañca ekakkhaṇeyeva ahosi.
But at daybreak, the dispersal of the clouds, the rising of the dawn, and her childbirth happened simultaneously.
Tuy nhiên, khi đêm tàn, sự tan biến của mây, sự mọc lên của bình minh, và sự ra đời của đứa con trong bụng bà đều xảy ra cùng một lúc.
Sā meghautuñca pabbatautuñca aruṇautuñca gahetvā jātattā puttassa utenoti nāmaṃ akāsi.
Because her son was born taking into account the season of clouds, the season of mountains, and the season of dawn, she named him Utena.
Vì đứa con được sinh ra vào mùa mưa, mùa núi và mùa bình minh, bà đặt tên cho con là Utena.
571
Allakappatāpasassapi kho tato avidūre vasanaṭṭhānaṃ hoti.
The ascetic of Allakappa also had his dwelling not far from there.
Nơi ở của ẩn sĩ Allakappa cũng không xa đó.
So pakatiyāva vassadivase sītabhayena phalāphalatthāya vanaṃ na pavisati, taṃ rukkhamūlaṃ gantvā sakuṇehi khāditamaṃsānaṃ aṭṭhiṃ āharitvā koṭṭetvā rasaṃ katvā pivati.
By nature, on rainy days, due to fear of cold, he would not enter the forest for fruits. He would go to the foot of that tree, bring bones from animals eaten by birds, crush them, make a juice, and drink it.
Vị ấy vốn dĩ không vào rừng để tìm trái cây vào những ngày mưa vì sợ lạnh, mà đi đến gốc cây đó, lấy xương của những con vật bị chim ăn, nghiền nát, làm thành nước và uống.
Tasmā taṃ divasaṃ ‘‘aṭṭhiṃ āharissāmī’’ti tattha gantvā rukkhamūle aṭṭhiṃ pariyesento upari dārakasaddaṃ sutvā ullokento deviṃ disvā ‘‘kāsi tva’’nti vatvā ‘‘mānusitthimhī’’ti.
Therefore, on that day, intending to bring bones, he went there, searched for bones at the foot of the tree, and hearing the sound of a child above, he looked up, saw the queen, and asked, “Who are you?” She replied, “I am a human woman.”
Vì vậy, vào ngày đó, vị ấy nghĩ: “Ta sẽ đi lấy xương,” rồi đến đó, đang tìm xương dưới gốc cây thì nghe thấy tiếng trẻ con ở trên, ngước lên nhìn thấy hoàng hậu và hỏi: “Ngươi là ai?” Bà đáp: “Tôi là người phụ nữ.”
‘‘Kathaṃ āgatāsī’’ti?
“How did you get here?” he asked.
“Ngươi đến đây bằng cách nào?”
‘‘Hatthiliṅgasakuṇenānītāmhī’’ti vutte ‘‘otarāhī’’ti āha.
When she replied, “I was brought by an elephant-bird,” he said, “Come down.”
Khi bà nói: “Tôi bị chim voi mang đến,” vị ấy bảo: “Hãy xuống đi.”
‘‘Jātisambhedato bhāyāmi, ayyā’’ti.
“I am afraid of mixing castes, venerable sir,” she said.
“Thưa Tôn giả, tôi sợ sự pha tạp chủng tộc.”
‘‘Kāsi tva’’nti?
“What is your caste?” he asked.
“Ngươi thuộc chủng tộc nào?”
‘‘Khattiyāmhī’’ti.
“I am a Khattiya,” she replied.
“Tôi là dòng Sát-đế-lỵ.”
‘‘Ahampi khattiyoyevā’’ti.
“I am also a Khattiya,” he said.
“Ta cũng là dòng Sát-đế-lỵ.”
‘‘Tena hi khattiyamāyaṃ kathehī’’ti.
“Then tell me the Khattiya-māyā (royal deceit),” she said.
“Vậy thì hãy nói về mánh lới của dòng Sát-đế-lỵ.”
So khattiyamāyaṃ kathesi.
So he told her the Khattiya-māyā.
Vị ấy đã nói về mánh lới của dòng Sát-đế-lỵ.
‘‘Tena hi āruyha puttaṃ me otārehī’’ti.
“Then climb up and bring my son down for me,” she said.
“Vậy thì hãy trèo lên và đưa con của tôi xuống.”
So ekena passena abhiruhanamaggaṃ katvā abhiruhitvā dārakaṃ gaṇhi.
He made a climbing path on one side, climbed up, and took the child.
Vị ấy tạo một lối đi lên ở một bên, rồi trèo lên và bế đứa bé.
‘‘Mā maṃ hatthena chupī’’ti ca vutte taṃ achupitvāva dārakaṃ otāresi.
When she said, “Do not touch me with your hand,” he brought the child down without touching her.
Khi bà nói: “Đừng chạm vào tôi bằng tay,” vị ấy đã không chạm vào bà mà đưa đứa bé xuống.
Devīpi otari.
The queen also descended.
Hoàng hậu cũng xuống.
Atha naṃ assamapadaṃ netvā sīlabhedaṃ akatvāva anukampāya paṭijaggi, nimmakkhikamadhuṃ āharitvā sayaṃjātasāliṃ āharitvā yāguṃ pacitvā adāsi.
Then, taking her to the hermitage, he cared for her out of compassion without violating his sīla. He brought pure honey and self-grown rice, cooked porridge, and gave it to her.
Sau đó, vị ấy đưa bà đến am thất, chăm sóc bà bằng lòng từ bi mà không phá vỡ giới hạnh, mang mật ong không có ruồi, mang lúa gạo tự mọc, nấu cháo và dâng cho bà.
Evaṃ tasmiṃ paṭijaggante sā aparabhāge cintesi – ‘‘ahaṃ neva āgatamaggaṃ jānāmi, na gamanamaggaṃ jānāmi, imināpi me saddhiṃ vissāsamattampi natthi.
As he cared for her in this way, she later thought: "I do not know the way I came, nor do I know the way to go back, and I have no familiarity whatsoever with this ascetic.
Khi vị ấy đang chăm sóc bà như vậy, sau đó bà nghĩ: “Ta không biết đường đến, cũng không biết đường về, và ta cũng không có chút tin tưởng nào vào vị này.
Sace panāyaṃ amhe pahāya katthaci gamissati, ubhopi idheva maraṇaṃ pāpuṇissāma, yaṃkiñci katvā imassa sīlaṃ bhinditvā yathā maṃ na muñcati, tathā taṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
If he should abandon us and go somewhere, both of us will die right here. It is proper to do whatever it takes to break his sīla so that he will not abandon me."
Nếu vị này bỏ chúng ta mà đi đâu đó, cả hai chúng ta sẽ chết ở đây. Ta phải làm gì đó để phá vỡ giới hạnh của vị này, để vị ấy không bỏ rơi ta.”
Atha naṃ dunnivatthaduppārutadassanena palobhetvā sīlavināsaṃ pāpesi.
Then, by showing herself improperly dressed and improperly covered, she enticed him and caused him to lose his sīla.
Sau đó, bà quyến rũ vị ấy bằng cách ăn mặc hở hang và làm cho giới hạnh của vị ấy bị phá vỡ.
Tato paṭṭhāya dvepi samaggavāsaṃ vasiṃsu.
From then on, both of them lived together harmoniously.
Từ đó trở đi, cả hai cùng sống hòa hợp.
572
Athekadivasaṃ tāpaso nakkhattayogaṃ ullokento pūrantappassa nakkhattamilāyanaṃ disvā ‘‘bhadde kosambiyaṃ pūrantapparājā mato’’ti āha.
Then one day, the ascetic, observing the conjunction of the constellations, saw the waning of King Pūrantappa's constellation and said, "My dear, King Pūrantappa has died in Kosambī."
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ nhìn các chòm sao, thấy chòm sao của vua Pūrantappa bị lu mờ, bèn nói: “Này hiền nữ, vua Pūrantappa ở Kosambī đã băng hà.”
‘‘Kasmā, ayya, evaṃ vadesi?
"Why, venerable sir, do you say so?
“Thưa Tôn giả, tại sao ngài nói như vậy?
Kiṃ te tena saddhiṃ āghāto atthī’’ti?
Do you have any enmity towards him?"
Ngài có thù oán gì với ông ấy không?”
‘‘Natthi, bhadde, nakkhattamilāyanamassa disvā evaṃ vadāmī’’ti, sā parodi.
"No, my dear, I say so because I saw the waning of his constellation," she wept.
“Không, này hiền nữ, ta nói như vậy vì thấy chòm sao của ông ấy bị lu mờ.” Bà liền khóc.
Atha naṃ ‘‘kasmā rodasī’’ti pucchitvā tāya tassa attano sāmikabhāve akkhāte āha – ‘‘mā, bhadde, rodi, jātassa nāma niyato maccū’’ti.
Then, having asked her why she was weeping, and after she had told him that he was her husband, he said, "Do not weep, my dear, death is certain for one who is born."
Sau đó, vị ấy hỏi: “Tại sao ngươi khóc?” Khi bà kể rằng ông ấy là chồng mình, vị ấy nói: “Này hiền nữ, đừng khóc, cái chết là điều chắc chắn đối với người đã sinh ra.”
‘‘Jānāmi, ayyā’’ti vutte ‘‘atha kasmā rodasī’’ti?
When she said, "I know, venerable sir," he asked, "Then why do you weep?"
Khi bà nói: “Tôi biết, thưa Tôn giả,” vị ấy hỏi: “Vậy tại sao ngươi lại khóc?”
‘‘Putto me kulasantakassa rajjassa anucchaviko, ‘sace tatra abhavissa, setacchattaṃ ussāpayissa.
"My son is worthy of the royal inheritance of the family. 'If he were there, he would raise the white parasol.
“Con trai tôi xứng đáng với vương quốc của dòng tộc. Nếu nó ở đó, nó đã có thể giương cao lọng trắng.
Idāni mahājāniko vata jāto’ti sokena rodāmi, ayyā’’ti.
Now, a great loss has indeed occurred!' I weep from sorrow, venerable sir."
Bây giờ nó đã trở thành một kẻ bất hạnh lớn lao. Tôi khóc vì nỗi buồn đó, thưa Tôn giả.”
‘‘Hotu, bhadde, mā cintayi, sacassa rajjaṃ patthesi, ahamassa rajjalabhanākāraṃ karissāmī’’ti.
"Let it be, good lady, do not worry. If you desire the kingdom for him, I will arrange for him to obtain the kingdom."
“Thôi được, này hiền nữ, đừng lo lắng. Nếu ngươi mong muốn vương quốc cho con trai mình, ta sẽ làm cho nó có được vương quốc.”
Athassa hatthikantavīṇañceva hatthikantamante ca adāsi.
Then he gave him the elephant-charming lute and the elephant-charming mantras.
Sau đó, vị ấy trao cho đứa bé cây đàn vīṇā mê hoặc voi và các thần chú mê hoặc voi.
Tadā anekāni hatthisahassāni āgantvā vaṭarukkhamūle nisīdanti.
At that time, thousands of elephants came and sat at the foot of the banyan tree.
Vào lúc đó, hàng ngàn con voi đến và ngồi dưới gốc cây đa.
Atha naṃ āha – ‘‘hatthīsu anāgatesuyeva rukkhaṃ abhiruhitvā tesu āgatesu imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahara, sabbe nivattitvā oloketumpi asakkontā palāyissanti, atha otaritvā āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to him, "Climb the tree before the elephants arrive, and when they come, recite this mantra and strike this string. All of them will turn back and flee without even being able to look. Then you may descend and come."
Sau đó, vị ấy bảo đứa bé: “Khi lũ voi chưa đến, hãy trèo lên cây. Khi chúng đến, hãy niệm thần chú này và đánh dây đàn này, tất cả chúng sẽ bỏ chạy mà không thể quay đầu nhìn lại. Sau đó, con hãy xuống và đến đây.”
So tathā katvā āgantvā taṃ pavattiṃ ārocesi.
He did so and, having returned, reported the incident.
Đứa bé làm theo như vậy, rồi đến và kể lại sự việc.
Atha naṃ dutiyadivase āha – ‘‘ajja imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahareyyāsi, sabbe nivattitvā olokentā palāyissantī’’ti.
Then on the second day, he said to him, "Today, recite this mantra and strike this string. All of them will turn back, look, and then flee."
Sau đó, vào ngày thứ hai, vị ấy bảo đứa bé: “Hôm nay, con hãy niệm thần chú này và đánh dây đàn này, tất cả chúng sẽ bỏ chạy vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại.”
Tadāpi tathā katvā āgantvā ārocesi.
He did so again and, having returned, reported it.
Vào lúc đó, đứa bé cũng làm theo như vậy, rồi đến và kể lại.
Atha naṃ tatiyadivase āha – ‘‘ajja imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahareyyāsi, yūthapati piṭṭhiṃ upanāmento āgamissatī’’ti.
Then on the third day, he said to him, "Today, recite this mantra and strike this string. The leader of the herd will come, bending his back towards you."
Sau đó, vào ngày thứ ba, ông ta nói với hoàng tử: “Hôm nay, con hãy đọc thần chú này và đánh đàn này, vị thủ lĩnh voi sẽ đến, cúi lưng xuống cho con.”
Tadāpi tathā katvā ārocesi.
He did so again and reported it.
Lúc đó, hoàng tử cũng làm như vậy và báo cáo lại.
573
Athassa mātaraṃ āmantetvā, ‘‘bhadde, puttassa te sāsanaṃ vadehi, ettova gantvā rājā bhavissatī’’ti āha.
Then, calling his mother, he said, "Good lady, give your son a message. He will go from here and become king."
Sau đó, vị đạo sĩ gọi mẹ của hoàng tử và nói: “Này cô nương, hãy nói lời dặn dò của con trai cô, nó sẽ đi từ đây và trở thành vua.”
Sā puttaṃ āmantetvā, ‘‘tāta, tvaṃ kosambiyaṃ pūrantapparañño putto, maṃ sagabbhaṃ hatthiliṅgasakuṇo ānesī’’ti vatvā senāpatiādīnaṃ nāmāni ācikkhitvā ‘‘asaddahantānaṃ imaṃ pitu pārupanakambalañceva pilandhanamuddikañca dasseyyāsī’’ti vatvā uyyojesi.
She called her son and said, "My dear, you are the son of King Pūrantappa in Kosambī. A hatthiliṅga bird carried me away while I was pregnant." Having told him the names of the general and others, she sent him off, saying, "Show this father's cloak and signet ring to those who do not believe."
Bà ấy gọi con trai và nói: “Con trai, con là con của vua Pūrantappa ở Kosambi, chim voi đã mang mẹ đi khi mẹ đang mang thai.” Sau khi nói tên của các vị tướng lĩnh và những người khác, bà nói: “Hãy cho những người không tin xem chiếc áo choàng và chiếc nhẫn của cha con,” rồi tiễn hoàng tử đi.
Kumāro tāpasaṃ ‘‘idāni kiṃ karomī’’ti āha.
The prince asked the ascetic, "What shall I do now?"
Hoàng tử hỏi vị đạo sĩ: “Bây giờ con phải làm gì?”
‘‘Rukkhassa heṭṭhimasākhāya nisīditvā imaṃ mantaṃ vatvā imaṃ tantiṃ pahara, jeṭṭhakahatthī te piṭṭhiṃ upanāpetvā upasaṅkamissati, tassa piṭṭhiyaṃ nisinnova raṭṭhaṃ gantvā rajjaṃ gaṇhāhī’’ti.
"Sit on the lowest branch of the tree, recite this mantra, and strike this string. The chief elephant will approach you, lowering its back. Sitting on its back, go to the country and take the kingship."
Vị đạo sĩ nói: “Hãy ngồi trên cành cây thấp nhất, đọc thần chú này và đánh đàn này. Con voi chúa sẽ đến gần con, cúi lưng xuống. Hãy ngồi trên lưng nó, đi đến vương quốc và chiếm lấy ngai vàng.”
So mātāpitaro vanditvā tathā katvā āgatassa hatthino piṭṭhiyaṃ nisīditvā kaṇṇe mantayi – ‘‘ahaṃ kosambiyaṃ pūrantapparañño putto, pettikaṃ me rajjaṃ gaṇhitvā dehi sāmī’’ti.
He paid homage to his parents, did as instructed, and sitting on the back of the elephant that had arrived, he whispered into its ear, "I am the son of King Pūrantappa in Kosambī. Master, take my ancestral kingdom and give it to me."
Hoàng tử vái chào cha mẹ, rồi làm như vậy. Khi con voi đến, hoàng tử ngồi trên lưng nó và thì thầm vào tai nó: “Ta là con của vua Pūrantappa ở Kosambi, thưa chủ nhân, hãy lấy lại vương quốc của cha ta và trao cho ta.”
So taṃ sutvā ‘‘anekāni hatthisahassāni sannipatantū’’ti hatthiravaṃ ravi, anekāni hatthisahassāni sannipatiṃsu.
Hearing that, the elephant king trumpeted an elephant's roar, "Let thousands of elephants gather!" And thousands of elephants gathered.
Nghe vậy, con voi gầm lên tiếng voi: “Hàng ngàn con voi hãy tụ tập!” Hàng ngàn con voi liền tụ tập.
Puna ‘‘jiṇṇā hatthī paṭikkamantū’’ti hatthiravaṃ ravi, jiṇṇā hatthī paṭikkamiṃsu.
Again, he trumpeted an elephant's roar, "Let the old elephants retreat!" And the old elephants retreated.
Nó lại gầm lên tiếng voi: “Những con voi già hãy rút lui!” Những con voi già liền rút lui.
Puna ‘‘atitaruṇā hatthī nivattantū’’ti hatthiravaṃ ravi, tepi nivattiṃsu.
Again, he trumpeted an elephant's roar, "Let the very young elephants turn back!" And they too turned back.
Nó lại gầm lên tiếng voi: “Những con voi quá non hãy quay lại!” Chúng cũng quay lại.
So anekehi yūthahatthisahasseheva parivuto paccantagāmaṃ patvā ‘‘ahaṃ rañño putto, sampattiṃ patthayamānā mayā saddhiṃ āgacchantū’’ti āha.
Surrounded by many thousands of herd elephants, he reached a border village and said, "I am the king's son. Those who desire prosperity, come with me!"
Hoàng tử được hàng ngàn con voi chúa bao quanh, đến một ngôi làng biên giới và nói: “Ta là con của nhà vua. Những ai mong muốn sự thịnh vượng hãy đến với ta.”
‘‘Tato paṭṭhāya manussānaṃ saṅgahaṃ karonto gantvā nagaraṃ parivāretvā ‘yuddhaṃ vā me detu, rajjaṃ vā’’’ti sāsanaṃ pesesi.
From that point onwards, he gathered people, went and surrounded the city, and sent a message: "Either give me battle or the kingdom."
Từ đó trở đi, hoàng tử tập hợp dân chúng, đi vây hãm thành phố và gửi thông điệp: “Hoặc hãy giao chiến với ta, hoặc hãy giao vương quốc cho ta.”
Nāgarā āhaṃsu – ‘‘mayaṃ dvepi na dassāma.
The citizens said, "We will not give either of the two.
Dân thành nói: “Chúng tôi sẽ không giao cả hai.
Amhākañhi devī garugabbhā hatthiliṅgasakuṇena nītā, tassā atthibhāvaṃ vā natthibhāvaṃ vā mayaṃ na jānāma.
Our queen, who was heavily pregnant, was carried away by a hatthiliṅga bird, and we do not know whether she is alive or not.
Hoàng hậu của chúng tôi đang mang thai đã bị chim voi mang đi, chúng tôi không biết bà ấy còn sống hay đã chết.
Yāva tassā pavattiṃ na suṇāma.
Until we hear news of her,
Cho đến khi chúng tôi nghe được tin tức về bà ấy,
Tāva neva yuddhaṃ dassāma, na rajja’’nti.
we will neither give battle nor the kingdom."
chúng tôi sẽ không giao chiến, cũng không giao vương quốc.”
Tadā kira taṃ paveṇirajjaṃ ahosi.
It is said that at that time, it was an inherited kingdom.
Nghe nói, đó là một vương quốc truyền thống.
Tato kumāro ‘‘ahaṃ tassā putto’’ti vatvā senāpatiādīnaṃ nāmāni kathetvā tathāpi asaddahantānaṃ kambalañca muddikañca dassesi.
Then the prince said, "I am her son," and recounted the names of the general and others, and to those who still did not believe, he showed the cloak and the ring.
Sau đó, hoàng tử nói: “Ta là con trai của bà ấy,” và kể tên các vị tướng lĩnh cùng những người khác. Khi họ vẫn không tin, hoàng tử cho họ xem chiếc áo choàng và chiếc nhẫn.
Te kambalañca muddikañca sañjānitvā nikkaṅkhā hutvā dvāraṃ vivaritvā taṃ rajje abhisiñciṃsu.
Recognizing the cloak and the ring, they became free from doubt, opened the gate, and consecrated him in the kingship.
Họ nhận ra chiếc áo choàng và chiếc nhẫn, không còn nghi ngờ gì nữa, liền mở cổng thành và làm lễ tấn phong hoàng tử lên ngôi vua.
Ayaṃ tāva utenassa uppatti.
This is the origin of Utena.
Đó là sự ra đời của Utena.
574
Allakapparaṭṭhe pana dubbhikkhe jīvituṃ asakkonto eko kotuhaliko nāma manusso kāpiṃ nāma taruṇaputtañca kāḷiṃ nāma bhariyañca ādāya ‘‘kosambiṃ gantvā jīvissāmī’’ti pātheyyaṃ gahetvā nikkhami.
In the country of Allakappa, however, a man named Kotuhalika, unable to survive during a famine, took his young son named Kāpi and his wife named Kāḷī, and set out with provisions, thinking, "I will go to Kosambī and make a living."
Ở xứ Allakappa, có một người đàn ông tên Kotuhalika, không thể sống sót qua nạn đói. Ông ta mang theo con trai nhỏ tên Kāpi và vợ tên Kāḷī, lấy lương thực dự trữ và lên đường, nghĩ: “Ta sẽ đến Kosambi và sống ở đó.”
‘‘Ahivātarogena mahājane marante disvā nikkhamī’’tipi vadantiyeva.
Some also say that he left after seeing many people dying from a disease like snake venom or a contagious plague.
Người ta cũng kể rằng ông ta đã nhìn thấy nhiều người chết vì bệnh dịch hạch (ahivātaroga) nên đã ra đi.
Te gacchantā pātheyye parikkhīṇe khudābhibhūtā dārakaṃ vahituṃ nāsakkhiṃsu.
As they went, their provisions ran out, and overcome by hunger, they were unable to carry the child.
Khi họ đi, lương thực dự trữ cạn kiệt, họ bị đói hành hạ và không thể cõng đứa bé.
Atha sāmiko pajāpatiṃ āha – ‘‘bhadde, mayaṃ jīvantā puna puttaṃ labhissāma, chaḍḍetvā naṃ gacchāmā’’ti.
Then the husband said to his wife, "Dear, if we live, we will get another son. Let's abandon him and go."
Lúc đó, người chồng nói với vợ: “Này cô nương, nếu chúng ta sống sót, chúng ta sẽ có con nữa. Hãy bỏ nó lại và đi thôi.”
Mātu hadayaṃ nāma mudukaṃ hoti.
A mother's heart is indeed tender.
Trái tim của người mẹ thì mềm yếu.
Tasmā sā āha – ‘‘nāhaṃ jīvantameva puttaṃ chaḍḍetuṃ sakkhissāmī’’ti.
Therefore, she said, "I cannot abandon my son while he is still alive."
Vì vậy, bà ấy nói: “Tôi không thể bỏ con tôi khi nó còn sống.”
‘‘Atha kiṃ karomā’’ti?
"Then what shall we do?"
“Vậy chúng ta phải làm gì?”
‘‘Vārena naṃ vahāmā’’ti.
"Let's carry him in turns."
“Chúng ta hãy thay phiên nhau cõng nó.”
Mātā attano vāre pupphadāmaṃ viya naṃ ukkhipitvā ure nipajjāpetvā aṅkena vahitvā pituno deti.
During her turn, the mother lifted him like a garland of flowers, laid him on her chest, carried him in her lap, and gave him to the father.
Đến lượt mình, người mẹ bế đứa bé lên như một vòng hoa, đặt nó nằm trên ngực, cõng bằng hông rồi đưa cho người cha.
Tassa taṃ gahetvā gamanakāle chātakatopi balavatarā vedanā uppajji.
When the father took him and walked, a feeling more intense than hunger arose in him.
Khi người cha cõng đứa bé đi, một cảm giác đau đớn mạnh hơn cả cơn đói đã nổi lên.
So punappunaṃ āha – ‘‘bhadde, mayaṃ jīvantā puttaṃ labhissāma, chaḍḍema na’’nti.
He repeatedly said, "Dear, if we live, we will get a son. Let's abandon him."
Ông ta lặp đi lặp lại: “Này cô nương, nếu chúng ta sống sót, chúng ta sẽ có con nữa. Hãy bỏ nó lại đi.”
Sāpi punappunaṃ paṭikkhipitvā paṭivacanaṃ nādāsi.
She, too, repeatedly refused and gave no reply.
Bà ấy cũng lặp đi lặp lại từ chối và không trả lời.
Dārako vārena parivattiyamāno kilanto pitu hatthe niddāyi.
The child, being passed around in turns, grew tired and fell asleep in the father's arms.
Đứa bé mệt mỏi vì bị thay phiên cõng, đã ngủ thiếp đi trong tay người cha.
So tassa niddāyanabhāvaṃ ñatvā mātaraṃ purato katvā ekassa gacchassa heṭṭhā paṇṇasanthare taṃ nipajjāpetvā pāyāsi.
Knowing that he was asleep, the father put his wife in front, laid the child on a bed of leaves under a bush, and departed.
Biết đứa bé đã ngủ, ông ta đặt nó nằm trên một tấm lá trải dưới một bụi cây, để vợ đi trước rồi bỏ đi.
Mātā nivattitvā olokentī puttaṃ adisvā, ‘‘sāmi, kuhiṃ me putto’’ti pucchi.
The mother turned back and looked, and not seeing her son, she asked, "My lord, where is my son?"
Người mẹ quay lại nhìn, không thấy con đâu, liền hỏi: “Chàng ơi, con tôi đâu rồi?”
‘‘Ekassa me gacchassa heṭṭhā nipajjāpito’’ti.
"He was laid down under a bush."
“Tôi đã đặt nó nằm dưới một bụi cây.”
‘‘Sāmi, mā maṃ nāsayi, puttaṃ vinā jīvituṃ na sakkhissāmi, ānehi me putta’’nti uraṃ paharitvā paridevi.
"My lord, do not destroy me; I cannot live without my son. Bring me my son!" she cried, beating her chest and lamenting.
“Chàng ơi, đừng hủy hoại tôi, tôi không thể sống thiếu con. Hãy mang con tôi về!” Bà ấy đấm ngực và than khóc.
Atha naṃ nivattitvā ānesi.
Then he turned back and brought him.
Sau đó, ông ta quay lại và mang đứa bé về.
Puttopi antarāmagge mato hoti.
But the son had died on the way.
Nhưng đứa bé đã chết trên đường.
Iti so ettake ṭhāne puttaṃ chaḍḍetvā tassa nissandena bhavantare satta vāre chaḍḍito.
Thus, because he abandoned his son at that place, as a result of that action, he was abandoned seven times in other existences.
Cứ thế, vì đã bỏ rơi con mình ở nơi đó, do hậu quả của hành động đó, ông ta đã bị bỏ rơi bảy lần trong các kiếp sống khác.
‘‘Pāpakammaṃ nāmetaṃ appaka’’nti na avamaññitabbaṃ.
"This evil deed is small," one should not despise it thus.
“Việc ác này không nên xem thường là nhỏ.”
575
Te gacchantā ekaṃ gopālakulaṃ pāpuṇiṃsu.
As they traveled, they reached the home of a cowherd family.
Khi họ đi, họ đến một gia đình chăn bò.
Taṃ divasañca gopālakassa dhenumaṅgalaṃ hoti.
On that day, it was the cowherd's milking ceremony.
Vào ngày đó, người chăn bò đang tổ chức lễ vắt sữa bò.
Gopālakassa gehe nibaddhaṃ eko paccekabuddho bhuñjati.
A Paccekabuddha regularly ate at the cowherd's house.
Một vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha) thường xuyên thọ thực tại nhà người chăn bò.
So taṃ bhojetvā maṅgalamakāsi.
The cowherd fed him and performed the ceremony.
Người chăn bò đã cúng dường Ngài rồi mới tổ chức lễ.
Bahu pāyāso paṭiyatto hoti.
Much milk-rice had been prepared.
Có rất nhiều món pāyāsa (cháo sữa) đã được chuẩn bị.
Gopālako te āgate disvā, ‘‘kuto āgatatthā’’ti pucchitvā sabbaṃ pavattiṃ sutvā mudujātiko kulaputto tesu anukampaṃ katvā bahukena sappinā pāyāsaṃ dāpesi.
Seeing them arrive, the cowherd asked, "Where have you come from?" and after hearing their entire story, the gentle-natured young man felt compassion for them and had them served milk-rice with plenty of ghee.
Người chăn bò thấy họ đến, hỏi: “Các vị từ đâu đến?” Nghe hết câu chuyện, người con trai gia đình có lòng từ bi, đã cho họ rất nhiều pāyāsa với bơ ghee.
Bhariyā ‘‘sāmi, tayi jīvante ahampi jīvāmi nāma, dīgharattaṃ ūnodarosi, yāvadatthaṃ bhuñjāhī’’ti sappiñca dadhiñca tadabhimukhaññeva katvā attanā mandasappinā thokameva bhuñji.
His wife said, "My lord, if you live, I too live. You have been hungry for a long time, eat as much as you like," and she directed the ghee and curds towards him, while she herself ate only a little milk-rice with scant ghee.
Người vợ nói: “Chàng ơi, nếu chàng còn sống, thiếp cũng coi như còn sống. Chàng đã đói lâu rồi, hãy ăn thỏa thích đi.” Bà ấy đặt bơ ghee và sữa đông trước mặt chồng, còn mình chỉ ăn một ít pāyāsa với ít bơ ghee.
Itaro bahuṃ bhuñjitvā sattaṭṭhadivase chātatāya āhārataṇhaṃ chindituṃ nāsakkhi.
The husband, having eaten much, was unable to satisfy his craving for food due to seven or eight days of hunger.
Người chồng ăn rất nhiều, nhưng vì đã đói bảy, tám ngày nên không thể dứt bỏ lòng thèm ăn.
Gopālako tesaṃ pāyāsaṃ dāpetvā sayaṃ bhuñjituṃ ārabhi.
After having them served milk-rice, the cowherd began to eat himself.
Người chăn bò đã cho họ pāyāsa rồi bắt đầu ăn phần của mình.
Kotuhaliko taṃ olokento nisīditvā heṭṭhāpīṭhe nipannāya sunakhiyā gopālakena vaḍḍhetvā diyyamānaṃ pāyāsapiṇḍaṃ disvā ‘‘puññā vatāyaṃ sunakhī, nibaddhaṃ evarūpaṃ bhojanaṃ labhatī’’ti cintesi.
The husband, watching him curiously, sat and saw the cowherd serving a lump of milk-rice to a female dog lying under a low stool, and he thought, "This female dog is truly fortunate; she always gets such food."
Kotuhalika ngồi nhìn người chăn bò, thấy ông ta múc pāyāsa cho con chó cái đang nằm dưới ghế. Ông ta nghĩ: “Con chó cái này thật có phúc, nó luôn nhận được thức ăn như thế này.”
So rattibhāge taṃ pāyāsaṃ jīrāpetuṃ asakkonto kālaṃ katvā tassā sunakhiyā kucchimhi nibbatti.
Unable to digest that milk-rice during the night, he died and was reborn in the womb of that female dog.
Vào ban đêm, ông ta không tiêu hóa được món pāyāsa đó, nên đã chết và tái sinh vào bụng con chó cái đó.
576
Athassa bhariyā sarīrakiccaṃ katvā tasmiṃyeva gehe bhatiṃ katvā taṇḍulanāḷiṃ labhitvā pacitvā paccekabuddhassa patte patiṭṭhāpetvā, ‘‘dāsassa vo pāpuṇātū’’ti vatvā cintesi – ‘‘mayā idheva vasituṃ vaṭṭati, nibaddhaṃ, ayyo, idhāgacchati, deyyadhammo hotu vā, mā vā, devasikaṃ vandantī veyyāvaccaṃ karontī cittaṃ pasādentī bahuṃ puññaṃ pasavissāmī’’ti.
Then his wife performed the funeral rites, worked for wages in that very house, obtained a measure of rice, cooked it, placed it in the Paccekabuddha's bowl, and said, "May it reach your servant!" She thought, "It is proper for me to live here. The venerable one comes here regularly. Whether there is a gift to be given or not, by bowing daily, performing service, and purifying my mind, I will generate much merit."
Sau đó, người vợ của ông ta làm lễ tang cho chồng, rồi ở lại nhà đó làm thuê. Bà ấy nhận được một nắm gạo, nấu lên và đặt vào bát của vị Độc Giác Phật, rồi nói: “Xin hãy đến với người nô lệ của Ngài.” Bà ấy nghĩ: “Mình nên ở lại đây. Vị Tôn giả thường xuyên đến đây. Dù có vật cúng dường hay không, mình sẽ tích lũy nhiều công đức bằng cách lễ lạy mỗi ngày và làm công việc phục vụ, làm cho tâm mình thanh tịnh.”
Sā tattheva bhatiṃ karontī vasi.
She lived there, working for wages.
Bà ấy cứ thế ở lại đó làm thuê.
Sāpi sunakhī chaṭṭhe vā sattame vā māse ekameva kukkuraṃ vijāyi.
That female dog gave birth to only one puppy in the sixth or seventh month.
Con chó cái đó cũng sinh ra một con chó con duy nhất vào tháng thứ sáu hoặc thứ bảy.
Gopālako tassa ekadhenuyā khīraṃ dāpesi.
The cowherd had it fed the milk of one cow.
Người chăn bò đã cho con chó con đó uống sữa của một con bò cái.
So na cirasseva vaḍḍhi.
It grew quickly.
Nó nhanh chóng lớn lên.
Athassa paccekabuddho bhuñjanto nibaddhaṃ ekaṃ bhattapiṇḍaṃ deti.
Then, while eating, the Paccekabuddha regularly gave it a lump of food.
Sau đó, vị Độc Giác Phật, khi thọ thực, thường xuyên cho nó một viên cơm.
So bhattapiṇḍaṃ nissāya paccekabuddhe sinehamakāsi.
Because of that lump of food, it developed affection for the Paccekabuddha.
Vì viên cơm đó, con chó đã nảy sinh tình cảm với vị Độc Giác Phật.
Gopālakopi nibaddhaṃ dve vāre paccekabuddhassupaṭṭhānaṃ yāti.
The cowherd also went to attend upon the Paccekabuddha twice daily.
Người chăn bò cũng thường xuyên đến phục vụ vị Độc Giác Phật hai lần một ngày.
Gacchantopi antarāmagge vāḷamigaṭṭhāne daṇḍena gacche ca bhūmiñca paharitvā ‘‘susū’’ti tikkhattuṃ saddaṃ katvā vāḷamige palāpeti.
As he went, in places frequented by wild animals, he would strike the bushes and the ground with a stick, making a "susū" sound three times, and scare away the wild animals.
Khi đi, ông ta cũng dùng gậy đập vào bụi cây và mặt đất ở những nơi có thú dữ, rồi kêu “susū” ba lần để xua đuổi chúng.
Sunakhopi tena saddhiṃ gacchati.
The dog also went with him.
Con chó cũng đi cùng ông ta.
577
So ekadivasaṃ paccekabuddhaṃ āha – ‘‘bhante, yadā me okāso na bhavissati, tadā imaṃ sunakhaṃ pesessāmi, tena saññāṇena āgaccheyyāthā’’ti.
So one day, the cowherd said to the Paccekabuddha, “Venerable Sir, when I have no opportunity, I will send this dog, and by that sign, you should come.”
Một ngày nọ, người chăn bò nói với vị Độc Giác Phật: “Bạch Ngài, khi nào con không có thời gian, con sẽ sai con chó này đi. Xin Ngài hãy đến theo dấu hiệu đó.”
Tato paṭṭhāya anokāsadivase, ‘‘gaccha, tāta, ayyaṃ ānehī’’ti sunakhaṃ pesesi.
From that time onwards, on days when he had no opportunity, he would send the dog, saying, “Go, my son, bring the venerable one.”
Từ đó trở đi, vào những ngày không có thời gian, ông ta nói: “Con trai, con hãy đi và thỉnh Ngài đến,” rồi sai con chó đi.
So ekavacaneneva pakkhanditvā sāmikassa gacchapothanabhūmipothanaṭṭhāne tikkhattuṃ bhussitvā tena saddena vāḷamigānaṃ palātabhāvaṃ ñatvā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā paṇṇasālaṃ pavisitvā nisinnassa paccekabuddhassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā paṇṇasāladvāre tikkhattuṃ bhussitvā attano āgatabhāvaṃ jānāpetvā ekamante nipajjati, paccekabuddhe velaṃ sallakkhetvā nikkhante bhussanto purato gacchati.
The dog, at just a single word, would run and bark three times at the places where its master would beat the bushes or stamp the ground. Knowing from that sound that the wild animals had fled, it would attend to its bodily needs early in the morning, go to the Paccekabuddha’s dwelling place, bark three times at the door of the leaf-hut to announce its arrival, and then lie down to one side. When the Paccekabuddha, having noted the time, emerged, the dog would bark and walk ahead.
Nó chỉ với một lời đã chạy đến, sủa ba lần tại nơi chủ nó đập cây, đập đất, biết rằng do tiếng sủa đó mà các loài thú dữ đã bỏ chạy. Rồi ngay từ sáng sớm, làm xong việc vệ sinh thân thể, nó đi đến chỗ ở của vị Độc Giác Phật đang ngồi trong tịnh xá lá, sủa ba lần ở cửa tịnh xá lá để báo cho Ngài biết mình đã đến, rồi nằm xuống một bên. Khi vị Độc Giác Phật ghi nhận rõ thời gian và ra ngoài, nó vừa sủa vừa đi trước.
Antarantarā paccekabuddho taṃ vīmaṃsanto aññaṃ maggaṃ paṭipajjati.
From time to time, the Paccekabuddha, testing it, would take another path.
Thỉnh thoảng, vị Độc Giác Phật muốn thử nó, liền đi theo một con đường khác.
Athassa purato tiriyaṃ ṭhatvā bhussitvā itaramaggameva naṃ āropeti.
Then, standing crosswise in front of him, it would bark and lead him back to the usual path.
Khi đó, nó đứng chắn ngang trước mặt Ngài, sủa lên rồi đưa Ngài trở lại con đường cũ.
Athekadivasaṃ aññaṃ maggaṃ paṭipajjitvā tena purato tiriyaṃ ṭhatvā vāriyamānopi anivattitvā sunakhaṃ pādena paharitvā pāyāsi.
Then one day, he took another path, and even though the dog stood crosswise in front and blocked him, he did not turn back but kicked the dog with his foot and went on his way.
Rồi một ngày nọ, Ngài đi theo một con đường khác, dù bị con chó đứng chắn ngang trước mặt cản lại, Ngài vẫn không quay lại mà đá con chó bằng chân rồi đi tiếp.
Sunakho tassa anivattanabhāvaṃ ñatvā nivāsanakaṇṇe ḍaṃsitvā ākaḍḍhanto itaramaggameva naṃ āropesi.
The dog, knowing that he would not turn back, bit the edge of his lower robe and, pulling him, made him return to the usual path.
Con chó biết Ngài không quay lại, liền cắn vào vạt y dưới và kéo Ngài trở lại con đường cũ.
Evaṃ so tasmiṃ balavasinehaṃ uppādesi.
Thus, the dog developed a strong affection for him.
Như vậy, con chó đã phát sinh lòng yêu mến mãnh liệt đối với Ngài.
578
Tato aparabhāge paccekabuddhassa cīvaraṃ jīri.
Subsequently, the Paccekabuddha’s robe became worn out.
Sau đó, y của vị Độc Giác Phật đã cũ nát.
Athassa gopālako cīvaravatthāni adāsi.
Then the cowherd gave him pieces of cloth for a robe.
Người chăn bò đã dâng các tấm vải làm y cho Ngài.
Tamenaṃ paccekabuddho āha – ‘‘āvuso, cīvaraṃ nāma ekakena kātuṃ dukkaraṃ, phāsukaṭṭhānaṃ gantvā kāressāmī’’ti.
The Paccekabuddha said to him, “Friend, it is difficult to make a robe alone; I will go to a suitable place and have it made.”
Vị Độc Giác Phật nói với người ấy: “Này hiền hữu, việc làm y một mình thì khó, Ta sẽ đi đến nơi tiện lợi để làm y.”
‘‘Idheva, bhante, karothā’’ti.
“Please make it right here, Venerable Sir,” he said.
“Bạch Ngài, xin Ngài cứ làm y tại đây ạ.”
‘‘Na sakkā, āvuso’’ti.
“It is not possible, friend,” he replied.
“Không thể được, này hiền hữu.”
‘‘Tena hi, bhante, mā ciraṃ bahi vasitthā’’ti.
“In that case, Venerable Sir, please do not stay outside for long,” he said.
“Vậy thì, bạch Ngài, xin Ngài đừng ở bên ngoài lâu quá ạ.”
Sunakho tesaṃ kathaṃ suṇantova aṭṭhāsi, paccekabuddhopi ‘‘tiṭṭha, upāsakā’’ti gopālakaṃ nivattāpetvā vehāsaṃ abbhuggantvā gandhamādanābhimukho pāyāsi.
The dog stood listening to their conversation. The Paccekabuddha, saying, “Stay here, lay follower,” made the cowherd turn back, then rose into the air and departed towards Gandhamādana Mountain.
Con chó đứng nghe cuộc đối thoại của họ. Vị Độc Giác Phật cũng nói: “Thôi, thiện tín,” rồi bảo người chăn bò quay lại, Ngài bay lên không trung, hướng về núi Gandhamādana mà đi.
Sunakhassa taṃ ākāsena gacchantaṃ disvā bhukkaritvā ṭhitassa tasmiṃ cakkhupathaṃ vijahante hadayaṃ phalitvā mato.
Seeing him going through the sky, the dog barked, and as he passed out of sight, its heart burst, and it died.
Khi con chó thấy Ngài bay đi trên không, nó sủa lên rồi đứng đó, khi Ngài khuất khỏi tầm mắt, tim nó vỡ tung và nó chết.
Tiracchānā kira nāmete ujujātikā honti akuṭilā.
It is said that animals are by nature straightforward and not crooked.
Các loài súc sinh này quả thật có bản tính ngay thẳng, không quanh co.
Manussā pana aññaṃ hadayena cintenti, aññaṃ mukhena kathenti.
But humans think one thing in their hearts and say another with their mouths.
Còn con người thì nghĩ một đằng trong tâm, nói một nẻo bằng miệng.
Tenevāha – ‘‘gahanañhetaṃ, bhante, yadidaṃ manussā, uttānakañhetaṃ, bhante, yadidaṃ pasavo’’ti (ma. ni. 2.3).
That is why it is said, “This, Venerable Sir, is profound, namely humans; this, Venerable Sir, is superficial, namely animals.”
Chính vì thế mà có lời nói: “Bạch Ngài, con người thật phức tạp, bạch Ngài, súc sinh thật đơn giản” (Ma. Ni. 2.3).
579
Iti so tāya ujucittatāya akuṭilatāya kālaṃ katvā tāvatiṃsabhavane nibbatto accharāsahassaparivuto mahāsampattiṃ anubhosi.
Thus, having died with such a straightforward and uncrooked mind, he was reborn in the Tāvatiṃsa realm, surrounded by a thousand celestial nymphs, and enjoyed great prosperity.
Như vậy, do tâm ngay thẳng và không quanh co đó, sau khi chết, nó được tái sinh trong cõi trời Tāvatiṃsa, được một ngàn tiên nữ vây quanh và hưởng thụ đại phúc báo.
Tassa kaṇṇamūle mantayantassa saddo soḷasayojanaṭṭhānaṃ pharati, pakatikathāsaddo pana sakalaṃ dasayojanasahassaṃ devanagaraṃ chādeti.
The sound of his whispering near his ear reached a distance of sixteen yojanas, while his ordinary speaking voice covered the entire celestial city of ten thousand yojanas.
Tiếng nói thì thầm bên tai của vị thiên tử đó có thể vang xa mười sáu dojana, còn tiếng nói chuyện bình thường thì bao trùm toàn bộ thành phố chư thiên rộng mười ngàn dojana.
Tenevassa ‘‘ghosakadevaputto’’ti nāmaṃ ahosi.
Therefore, his name became Ghosaka Devaputta.
Chính vì thế mà vị ấy có tên là Thiên tử Ghosaka.
‘‘Kissa panesa nissando’’ti.
“What was the result of this?”
“Vậy đây là quả báo của nghiệp gì?”
Paccekabuddhe pemena bhukkaraṇassa nissando.
It was the result of barking with affection for the Paccekabuddha.
Đó là quả báo của việc sủa lên với lòng yêu mến đối với vị Độc Giác Phật.
So tattha na ciraṃ ṭhatvā cavi.
He did not remain there long but passed away.
Vị ấy không ở đó lâu rồi từ cõi trời.
Devalokato hi devaputtā āyukkhayena puññakkhayena āhārakkhayena kopenāti catūhi kāraṇehi cavanti.
Indeed, devas pass away from the deva realm due to four reasons: exhaustion of life-span, exhaustion of merit, exhaustion of food, or anger.
Quả thật, các vị thiên tử từ cõi trời từ bỏ cõi đó do bốn nguyên nhân: hết tuổi thọ, hết phước báu, hết thức ăn, hoặc do sân hận.
580
Tattha yena bahuṃ puññakammaṃ kataṃ hoti, so devaloke uppajjitvā yāvatāyukaṃ ṭhatvā uparūpari nibbattati.
Among these, one who has performed much meritorious kamma is reborn in the deva realm, remains for the duration of his life, and is reborn in higher and higher realms.
Trong đó, người nào đã tạo nhiều thiện nghiệp thì được tái sinh vào cõi trời, ở đó trọn tuổi thọ rồi tái sinh lên các cõi cao hơn.
Evaṃ āyukkhayena cavati nāma.
This is called passing away due to exhaustion of life-span.
Đây gọi là từ cõi trời do hết tuổi thọ.
Yena parittaṃ puññaṃ kataṃ hoti, tassa rājakoṭṭhāgāre pakkhittaṃ ticatunāḷimattaṃ dhaññaṃ viya antarāva taṃ puññaṃkhīyati, antarāva kālaṃ karoti.
One who has performed little merit, like three or four measures of grain placed in a king’s storehouse, exhausts that merit midway and dies midway.
Người nào đã tạo ít phước báu, phước báu của người ấy cạn kiệt giữa chừng, giống như ba hoặc bốn chén lúa được cất trong kho của nhà vua, và người ấy chết giữa chừng.
Evaṃ puññakkhayena cavati nāma.
This is called passing away due to exhaustion of merit.
Đây gọi là từ cõi trời do hết phước báu.
Aparopi kāmaguṇe paribhuñjamāno satisammosena āhāraṃ aparibhuñjitvā kilantakāyo kālaṃ karoti.
Another, while enjoying sense pleasures, becomes forgetful and, without partaking of food, dies with an exhausted body.
Một người khác, khi hưởng thụ các dục lạc, do mất chánh niệm mà không dùng thức ăn, thân thể suy yếu rồi chết.
Evaṃ āhārakkhayena cavati nāma.
This is called passing away due to exhaustion of food.
Đây gọi là từ cõi trời do hết thức ăn.
Aparopi parassa sampattiṃ asahanto kujjhitvā kālaṃ karoti.
Another, unable to bear the prosperity of others, becomes angry and dies.
Một người khác, do không chịu đựng được sự thịnh vượng của người khác, nổi giận rồi chết.
Evaṃ kopena cavati nāma.
This is called passing away due to anger.
Đây gọi là từ cõi trời do sân hận.
581
Ayaṃ pana kāmaguṇe paribhuñjanto muṭṭhassati hutvā āhārakkhayena cavi, cavitvā ca pana kosambiyaṃ nagarasobhiniyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi.
This devaputta, however, while enjoying sense pleasures, became unmindful and passed away due to the exhaustion of food, and having passed away, he took conception in the womb of a courtesan in Kosambī.
Vị này, khi hưởng thụ các dục lạc, đã mất chánh niệm và từ cõi trời do hết thức ăn, sau khi từ cõi trời, đã tái sinh vào bụng của một kỹ nữ ở thành phố Kosambī.
Sāpi jātadivase ‘‘kiṃ eta’’nti dāsiṃ pucchitvā, ‘‘putto, ayye’’ti vutte – ‘‘handa, je, imaṃ dārakaṃ kattarasuppe āropetvā saṅkārakūṭe chaḍḍehī’’ti chaḍḍāpesi.
That courtesan too, on the day of his birth, asked her maid, "What is this?" When told, "Mistress, it is a son," she said, "Go now, my girl, put this child in a worn-out winnowing basket and cast him on the rubbish heap," and so had him cast away.
Vào ngày đứa bé chào đời, cô ta hỏi người hầu gái: “Cái gì đây?”, khi được trả lời: “Là một bé trai, thưa bà chủ”, cô ta nói: “Này con, hãy đặt đứa bé này vào một cái sàng cũ và vứt vào đống rác đi!” và đã sai vứt đi.
Nagarasobhiniyo hi dhītaraṃ paṭijagganti, na puttaṃ.
For courtesans care for a daughter, not a son.
Các kỹ nữ trong thành phố thường chăm sóc con gái, không chăm sóc con trai.
Dhītarā hi tāsaṃ paveṇī ghaṭīyati.
For by a daughter is their lineage continued.
Vì con gái là người nối dõi dòng truyền của họ.
Dārakaṃ kākāpi sunakhāpi parivāretvā nisīdiṃsu.
Crows and dogs surrounded the child and sat down.
Các con quạ và chó vây quanh đứa bé.
Paccekabuddhe sinehappabhavassa bhukkaraṇassa nissandena ekopi upagantuṃ na visahi.
But due to the residual effect of the barking that arose from affection for the Paccekabuddha, not a single one dared to approach.
Nhưng do quả báo của việc sủa lên vì lòng yêu mến đối với vị Độc Giác Phật, không một con quạ hay chó nào dám đến gần.
Tasmiṃ khaṇe eko manusso bahi nikkhanto taṃ kākasunakhasannipātaṃ disvā, ‘‘kiṃ nu kho eta’’nti gantvā dārakaṃ disvā puttasinehaṃ paṭilabhitvā ‘‘putto me laddho’’ti gehaṃ nesi.
At that moment, a man who had gone outside saw that gathering of crows and dogs, and thinking, "What could this be?" he went there, saw the child, felt paternal affection for him, and saying, "I have found a son!" he took him home.
Vào lúc đó, một người đàn ông đi ra ngoài, thấy đám quạ và chó tụ tập, nghĩ: “Cái gì vậy?”, liền đi đến, thấy đứa bé, phát sinh tình thương con, nghĩ: “Mình đã có con!”, rồi mang về nhà.
Tadā kosambakaseṭṭhi rājakulaṃ gacchanto rājanivesanato āgacchantaṃ purohitaṃ disvā, ‘‘kiṃ, ācariya, ajja te tithikaraṇanakkhattayogo olokito’’ti pucchi.
At that time, the Kosambī financier, while on his way to the royal palace, saw the royal chaplain coming from the royal residence and asked, "Teacher, have you examined the planetary conjunctions and auspicious constellations today?"
Khi đó, vị trưởng giả Kosambī đang đi đến hoàng cung, thấy vị đạo sĩ đang từ hoàng cung trở về, liền hỏi: “Thưa đạo sĩ, hôm nay ngài đã xem xét các yếu tố về ngày, giờ và sao chưa?”
‘‘Āma, mahāseṭṭhi, amhākaṃ kiṃ aññaṃ kiccanti?
"Yes, great financier, what other task is there for us?
“Vâng, thưa đại trưởng giả, chúng tôi còn việc gì khác đâu?
Janapadassa kiṃ bhavissatī’’ti?
What will happen to the people of the country?"
Điều gì sẽ xảy ra cho đất nước?”
‘‘Aññaṃ natthi, imasmiṃ pana nagare ajja jātadārako jeṭṭhakaseṭṭhi bhavissatī’’ti.
"Nothing else. But in this city, a child born today will become the chief financier."
“Không có gì khác, nhưng đứa bé nào sinh ra hôm nay trong thành phố này sẽ trở thành đại trưởng giả.”
Tadā seṭṭhino bhariyā garugabbhā hoti.
At that time, the financier's wife was heavily pregnant.
Khi đó, vợ của vị trưởng giả đang mang thai nặng.
Tasmā so sīghaṃ gehaṃ purisaṃ pesesi – ‘‘gaccha bhaṇe, jānāhi naṃ vijātā vā, no vā’’ti.
Therefore, he quickly sent a man home, saying, "Go, fellow, find out whether she has given birth or not."
Vì vậy, ông ta liền sai một người hầu nhanh chóng về nhà: “Này anh, hãy đi xem vợ ta đã sinh chưa hay chưa.”
‘‘Na vijāyatī’’ti sutvā rājānaṃ disvāva vegena gehaṃ gantvā kāḷiṃ nāma dāsiṃ pakkositvā sahassaṃ datvā, ‘‘gaccha je, imasmiṃ nagare upadhāretvā sahassaṃ datvā ajja jātadārakaṃ gaṇhitvā ehī’’ti.
Hearing, "She has not given birth," and after seeing the king, he hurried home, summoned a maid named Kāḷī, gave her a thousand*, and said, "Go, my girl, inquire throughout this city, give a thousand, and bring me a child born today."
Nghe nói “chưa sinh”, ông ta gặp vua xong liền nhanh chóng về nhà, gọi người hầu gái tên Kālī, đưa cho cô ta một ngàn đồng, nói: “Này con, hãy đi tìm kiếm trong thành phố này, đưa một ngàn đồng rồi mang đứa bé nào sinh ra hôm nay về đây.”
Sā upadhārentī taṃ gehaṃ gantvā dārakaṃ disvā, ‘‘ayaṃ dārako kadā jāto’’ti gahapatāniṃ pucchitvā ‘‘ajja jāto’’ti vutte, ‘‘imaṃ mayhaṃ dehī’’ti ekakahāpaṇaṃ ādiṃ katvā mūlaṃ vaḍḍhentī sahassaṃ datvā taṃ ānetvā seṭṭhino dassesi.
While inquiring, she went to that house, saw the child, asked the lady of the house, "When was this child born?" and when told, "Born today," she said, "Give this one to me." Starting with one kahāpaṇa and increasing the price, she gave a thousand and brought him to the financier.
Cô ta đi tìm kiếm, đến nhà đó, thấy đứa bé, hỏi người chủ nhà: “Đứa bé này sinh ra khi nào?”, khi được trả lời: “Sinh ra hôm nay”, cô ta nói: “Hãy đưa đứa bé này cho tôi”, rồi bắt đầu từ một đồng kahāpaṇa, tăng giá lên, đưa một ngàn đồng, mang đứa bé đó về và trình cho vị trưởng giả.
Seṭṭhi ‘‘sace me dhītā vijāyissati, tāya naṃ saddhiṃ nivesetvā seṭṭhiṭṭhānassa sāmikaṃ karissāmi.
The financier thought, "If my wife gives birth to a daughter, I will settle him with her and make him master of the financier's position.
Vị trưởng giả suy nghĩ: “Nếu vợ ta sinh con gái, ta sẽ gả nó cho đứa bé này và để nó làm chủ chức vị trưởng giả.
Sace me putto vijāyissati, māressāmi na’’nti cintetvā taṃ gehe kāresi.
If my wife gives birth to a son, I will kill him," and he kept the child in his house.
Nếu vợ ta sinh con trai, ta sẽ giết đứa bé này”, rồi giữ đứa bé đó trong nhà.
582
Athassa bhariyā katipāhaccayena puttaṃ vijāyi.
Then, a few days later, his wife gave birth to a son.
Rồi vài ngày sau, vợ của vị ấy sinh một bé trai.
Seṭṭhi ‘‘imasmiṃ asati mama puttova seṭṭhiṭṭhānaṃ labhissati, idāneva taṃ māretuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā kāḷiṃ āmantetvā, ‘‘gaccha, je, vajato gunnaṃ nikkhamanavelāya vajadvāramajjhe imaṃ tiriyaṃ nipajjāpehi, gāviyo naṃ madditvā māressanti, madditāmadditabhāvaṃ panassa ñatvā ehī’’ti āha.
The financier thought, "If this child were not here, my son alone would obtain the financier's position. It is appropriate to kill him right now." He called Kāḷī and said, "Go, my girl, at the time the cows leave the pen, lay this child across the middle of the pen's gate. The cows will trample him to death. Come back after knowing whether he has been trampled or not."
Vị trưởng giả nghĩ: “Nếu đứa bé này không còn, con trai của ta sẽ được chức vị trưởng giả. Ngay bây giờ, cần phải giết nó”, liền gọi Kālī, nói: “Này con, hãy đi, vào lúc bò ra khỏi chuồng, đặt đứa bé này nằm ngang giữa cửa chuồng. Các con bò sẽ giẫm đạp và giết nó. Con hãy biết được nó đã bị giẫm đạp hay chưa rồi quay về.”
Sā gantvā gopālakena vajadvāre vivaṭamatteyeva taṃ tathā nipajjāpesi.
She went and laid the child as instructed as soon as the cowherd opened the pen gate.
Cô ta đi đến, ngay khi người chăn bò vừa mở cửa chuồng, liền đặt đứa bé nằm như vậy.
Gogaṇajeṭṭhako usabho aññasmiṃ kāle sabbapacchā nikkhamantopi taṃ divasaṃ sabbapaṭhamaṃ nikkhamitvā dārakaṃ catunnaṃ pādānaṃ antare katvā aṭṭhāsi.
The chief bull, who at other times would leave last, that day left first, positioned the child between its four legs, and stood still.
Con bò đực đầu đàn, bình thường vẫn ra sau cùng, hôm đó lại ra đầu tiên, đặt đứa bé giữa bốn chân rồi đứng yên.
Anekasatagāviyo usabhassa dve passāni ghaṃsantiyo nikkhamiṃsu.
Hundreds of cows rubbed against the bull's sides as they left.
Hàng trăm con bò khác cọ xát hai bên hông con bò đực mà ra ngoài.
Gopālakopi ‘‘ayaṃ usabho pubbe sabbapacchā nikkhamati, ajja pana sabbapaṭhamaṃ nikkhamitvā vajadvāramajjhe niccalova ṭhito, kiṃ nu kho eta’’nti cintetvā gantvā tassa heṭṭhā nipannaṃ dārakaṃ disvā puttasinehaṃ paṭilabhitvā, ‘‘putto me laddho’’ti gehaṃ nesi.
The cowherd, thinking, "This bull usually leaves last, but today it left first and is standing motionless in the middle of the pen gate. What could this be?" went there, saw the child lying beneath it, felt paternal affection for him, and saying, "I have found a son!" he took him home.
Người chăn bò cũng nghĩ: “Con bò đực này trước đây luôn ra sau cùng, nhưng hôm nay lại ra đầu tiên và đứng yên bất động giữa cửa chuồng, không biết có chuyện gì?”, liền đi đến, thấy đứa bé nằm dưới con bò đực, phát sinh tình thương con, nghĩ: “Mình đã có con!”, rồi mang về nhà.
583
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā tamatthaṃ ārocetvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā sahassaṃ datvā puna ānetvā adāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, related the incident. Told, "Go, bring him again for a thousand," she gave a thousand and brought him back.
Kālī trở về, khi bị trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc đó. Bị nói: “Hãy đi, đưa thêm một ngàn đồng rồi mang nó về”, cô ta đưa một ngàn đồng, rồi lại mang đứa bé về và giao cho ông ta.
Atha naṃ āha – ‘‘amma, kāḷi imasmiṃ nagare pañca sakaṭasatāni paccūsakāle uṭṭhāya vāṇijjāya gacchanti, tvaṃ imaṃ netvā cakkamagge nipajjāpehi, goṇā vā naṃ maddissanti, cakkā vā chindissanti, pavattiṃ cassa ñatvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Mother Kāḷī, in this city, five hundred carts set out at dawn for trade. Take this child and lay him on the cart track. The oxen will trample him, or the wheels will crush him. Come back only after knowing what has happened to him."
Rồi ông ta nói với Kāḷī – “Này Kāḷī, ở thành phố này có năm trăm cỗ xe khởi hành vào lúc bình minh để đi buôn bán. Con hãy đưa đứa bé này đến đặt nằm trên đường xe chạy. Hoặc là những con bò sẽ nghiền nát nó, hoặc là những bánh xe sẽ cán đứt nó. Con phải biết rõ tình trạng của nó rồi mới trở về.”
Sā taṃ netvā cakkamagge nipajjāpesi.
She took him and laid him on the cart track.
Cô ta đưa đứa bé đó đến đặt nằm trên đường xe chạy.
Tadā sākaṭikajeṭṭhako purato ahosi.
At that time, the chief carter was in front.
Lúc đó, người đứng đầu đoàn xe đang đi phía trước.
Athassa goṇā taṃ ṭhānaṃ patvā dhuraṃ chaḍḍesuṃ, punappunaṃ āropetvā pājiyamānāpi purato na gacchiṃsu.
Then his oxen, having reached that spot, dropped their yokes. Even when repeatedly loaded and urged, they would not move forward.
Rồi khi những con bò của ông ta đến chỗ đó, chúng bỏ ách ra. Dù bị chất ách lại và thúc giục nhiều lần, chúng vẫn không chịu đi tới.
Evaṃ tassa tehi saddhiṃ vāyamantasseva aruṇaṃ uṭṭhahi.
While he was thus struggling with them, dawn broke.
Trong khi ông ta đang cố gắng với những con bò đó như vậy, bình minh đã ló dạng.
So ‘‘kiṃ nāmetaṃ goṇā kariṃsū’’ti maggaṃ olokento dārakaṃ disvā, ‘‘bhāriyaṃ vata me kamma’’nti cintetvā, ‘‘putto me laddho’’ti tuṭṭhamānaso taṃ gehaṃ nesi.
He thought, "What have these oxen done?" and looking along the road, he saw the child, thought, "What a great deed!" and with a joyful heart, "I have found a son!" he took him home.
Ông ta tự hỏi: “Những con bò này đã làm gì vậy?” Khi nhìn dọc đường, thấy đứa bé, ông ta nghĩ: “Thật là một việc khó khăn cho ta,” rồi với tâm trạng vui mừng: “Ta đã có một đứa con trai!” Ông ta đưa đứa bé về nhà.
584
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, explained the situation. Told, "Go, bring him again for a thousand," she did so.
Kāḷī trở về, khi được trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Atha naṃ so āha – ‘‘idāni naṃ āmakasusānaṃ netvā gacchantare nipajjāpehi, tattha sunakhādīhi vā khādito, amanussehi vā pahaṭo marissati, mātāmatabhāvañcassa jānitvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Now, take him to the charnel ground and lay him in a thicket. There he will be devoured by dogs and the like, or struck down by non-humans, and he will die. Come back only after knowing whether he is dead or alive."
Rồi ông ta bảo cô ta: “Bây giờ, hãy đưa nó đến nghĩa địa hoang, đặt nó nằm giữa bụi cây. Ở đó, nó sẽ bị chó hoặc các loài vật khác ăn thịt, hoặc bị phi nhân đánh chết. Con phải biết rõ nó sống hay chết rồi mới trở về.”
Sā taṃ netvā tattha nipajjāpetvā ekamante aṭṭhāsi.
She took him there, laid him down, and stood to one side.
Cô ta đưa đứa bé đến đó, đặt nằm rồi đứng sang một bên.
Taṃ sunakho vā kāko vā amanusso vā upasaṅkamituṃ nāsakkhi.
No dog, crow, or non-human could approach him.
Chó, quạ, hay phi nhân đều không thể đến gần đứa bé đó.
‘‘Nanu cassa neva mātā na pitā na bhātikādīsu koci rakkhitā nāma atthi, ko taṃ rakkhatī’’ti?
"Indeed, he has neither mother nor father, nor any of his siblings to protect him. Who protects him?"
“Chẳng phải nó không có mẹ, không có cha, cũng không có ai trong số anh em hay người thân bảo vệ sao? Ai đã bảo vệ nó vậy?”
Sunakhakāle paccekabuddhe sinehena pavattitabhukkaraṇamattameva taṃ rakkhati.
Only the barking that arose from affection for the Paccekabuddha in his past life as a dog protected him.
Chính tiếng sủa đầy tình cảm của con chó đối với vị Phật Độc Giác vào thời đó đã bảo vệ đứa bé.
Atheko ajapālako anekasahassā ajā gocaraṃ nento susānapassena gacchati.
Then a goatherd, leading many thousands of goats to pasture, passed by the charnel ground.
Rồi một người chăn dê đang dắt hàng ngàn con dê đi kiếm ăn ngang qua nghĩa địa.
Ekā ajā paṇṇāni khādamānā gacchantaraṃ paviṭṭhā dārakaṃ disvā jaṇṇukehi ṭhatvā dārakassa thanaṃ adāsi, ajapālakena ‘‘he he’’ti sadde katepi na nikkhami.
One goat, eating leaves, entered the thicket, saw the child, knelt down, and gave its teat to the child; even when the goatherd called out "Heh! Heh!" it did not come out.
Một con dê cái đang ăn lá cây, đi vào giữa bụi rậm, thấy đứa bé, liền quỳ gối cho đứa bé bú sữa. Dù người chăn dê kêu “hê hê,” nó vẫn không chịu ra.
So ‘‘yaṭṭhiyā naṃ paharitvā nīharissāmī’’ti gacchantaraṃ paviṭṭho jaṇṇukehi ṭhatvā dārakaṃ khīraṃ pāyantiṃ ajiṃ disvā dārake puttasinehaṃ paṭilabhitvā, ‘‘putto me laddho’’ti ādāya pakkāmi.
He thought, "I will strike it with a stick and drive it out," and entered the thicket. Seeing the goat kneeling and suckling the child, he felt paternal affection for the child, and thinking, "I have found a son!" he picked him up and departed.
Người chăn dê nghĩ: “Ta sẽ đánh nó bằng gậy rồi lôi nó ra.” Khi đi vào giữa bụi rậm, thấy con dê cái đang quỳ gối cho đứa bé bú sữa, ông ta liền nảy sinh tình thương con đối với đứa bé, nghĩ: “Ta đã có một đứa con trai!” Rồi ông ta bế đứa bé đi.
585
Kāḷī gantvā seṭṭhinā pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, taṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went and, when asked by the financier, related the incident. Told, "Go, bring him again for a thousand," she did so.
Kāḷī trở về, khi được trưởng giả hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Atha naṃ āha – ‘‘amma kāḷi, imaṃ ādāya corapapātapabbataṃ abhiruhitvā papāte khipa, pabbatakucchiyaṃ paṭihaññamāno khaṇḍākhaṇḍiko hutvā bhūmiyaṃ patissati, matāmatabhāvañcassa ñatvāva āgaccheyyāsī’’ti.
Then he said to her, "Mother Kāḷī, take this child, climb the mountain where thieves are thrown, and cast him into the chasm. He will strike against the mountainside, break into pieces, and fall to the ground. Come back only after knowing whether he is dead or alive."
Rồi ông ta bảo cô ta: “Này Kāḷī, hãy mang đứa bé này lên núi Corapapāta (núi Ném Kẻ Trộm), rồi ném nó xuống vực thẳm. Nó sẽ va vào vách núi, tan thành từng mảnh rồi rơi xuống đất. Con phải biết rõ nó sống hay chết rồi mới trở về.”
Sā taṃ tattha netvā pabbatamatthake ṭhatvā khipi.
She took him there, stood on the mountaintop, and cast him down.
Cô ta đưa đứa bé đến đó, đứng trên đỉnh núi rồi ném xuống.
Taṃ kho pana pabbatakucchiṃ nissāya mahāveḷugumbo pabbatānusāreneva vaḍḍhi, tassa matthakaṃ ghanajāto jiñjukagumbo avatthari.
Now, clinging to that mountainside, a large bamboo clump had grown along the mountain's slope, and its top was thickly covered by a dense thicket of jiñjuka shrubs.
Nhưng dựa vào vách núi đó, một bụi tre lớn đã mọc dọc theo sườn núi, và ngọn của nó được bao phủ bởi một bụi cây jiñjuka rậm rạp.
Dārako patanto kojavake viya tasmiṃ pati.
The child fell into it as if into a small rug.
Đứa bé rơi xuống, đáp vào bụi cây đó như đáp vào một tấm thảm len.
Taṃ divasañca naḷakārajeṭṭhakassa veḷubali patto hoti.
And that day, it was time for the chief bamboo-worker to collect bamboo tribute.
Vào ngày đó, đến lượt người đứng đầu thợ làm ống tre phải nộp thuế tre.
So puttena saddhiṃ gantvā taṃ veḷugumbaṃ chindituṃ ārabhi.
He went with his son and began to cut that bamboo clump.
Ông ta cùng con trai đi đến đó, bắt đầu chặt bụi tre đó.
Tasmiṃ calante dārako saddamakāsi.
As it swayed, the child made a sound.
Khi bụi tre rung chuyển, đứa bé phát ra tiếng động.
So ‘‘dārakasaddo viyā’’ti ekena passena abhiruhitvā taṃ disvā, ‘‘putto me laddho’’ti tuṭṭhacitto ādāya gato.
He thought, "That sounds like a child!" and climbing up one side, he saw the child. With a joyful heart, "I have found a son!" he took him and went away.
Ông ta nghĩ: “Hình như có tiếng trẻ con!” Rồi leo lên một bên, thấy đứa bé, ông ta vui mừng nghĩ: “Ta đã có một đứa con trai!” Rồi ông ta bế đứa bé đi.
586
Kāḷī seṭṭhissa santikaṃ gantvā tena pucchitā taṃ pavattiṃ ācikkhitvā, ‘‘gaccha, naṃ puna sahassaṃ datvā ānehī’’ti vuttā tathā akāsi.
Kāḷī went to the merchant, and when asked by him, she recounted that event and, being told, "Go, bring him again by giving a thousand (coins)," she did so.
Kāḷī đến gặp trưởng giả, khi được ông ta hỏi, cô ta kể lại sự việc. Trưởng giả nói: “Đi đi, hãy đưa một ngàn (đồng) nữa rồi mang nó về đây.” Cô ta đã làm như vậy.
Seṭṭhino idañcidañca karontasseva dārako vaḍḍhito ‘‘ghosako’’tvevassa nāmaṃ ahosi.
While the merchant was doing this and that, the child grew up, and his name was Ghosaka.
Trong khi trưởng giả làm hết việc này đến việc khác, đứa bé đã lớn lên và có tên là Ghosaka.
So seṭṭhino akkhimhi kaṇṭako viya khāyi, ujukaṃ taṃ oloketumpi na visati.
He became like a thorn in the merchant's eye; he could not even look at him directly.
Nó như cái gai trong mắt trưởng giả; ông ta không thể nhìn thẳng vào nó.
Athassa māraṇūpāyaṃ cintento attano sahāyakassa kumbhakārassa santikaṃ gantvā, ‘‘kadā tvaṃ āvāpaṃ ālimpessasī’’ti pucchitvā – ‘‘sve’’ti vutte, ‘‘tena hi idaṃ sahassaṃ gahetvā mama ekaṃ kammaṃ karohī’’ti āha.
Then, devising a way to kill him, he went to his potter friend and asked, "When will you fire the kiln?" When told, "Tomorrow," he said, "Then take this thousand (coins) and do one task for me."
Rồi ông ta nghĩ cách giết nó, đi đến chỗ người bạn làm gốm của mình, hỏi: “Khi nào ông sẽ đốt lò?” Khi được trả lời: “Ngày mai,” ông ta nói: “Vậy thì hãy nhận một ngàn (đồng) này và làm cho tôi một việc.”
‘‘Kiṃ, sāmī’’ti?
"What, master?"
“Việc gì, thưa chủ nhân?”
‘‘Eko me avajātaputto atthi, taṃ tava santikaṃ pesessāmi, atha naṃ gahetvā gabbhaṃ pavesetvā tikhiṇāya vāsiyā khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinditvā cāṭiyaṃ pakkhipitvā āvāpe paceyyāsi, idaṃ te sahassaṃ saccakārasadisaṃ.
"I have an ill-born son. I will send him to you. Then take him, lead him into the chamber, cut him into pieces with a sharp axe, put him in a pot, and bake him in the kiln. This thousand (coins) is like a pledge to you.
“Tôi có một đứa con trai hư hỏng. Tôi sẽ sai nó đến chỗ ông. Sau đó, ông hãy đưa nó vào trong phòng, dùng rìu sắc chặt nó thành từng mảnh, bỏ vào một cái vại rồi nung trong lò. Một ngàn (đồng) này là tiền đặt cọc cho ông.
Uttariṃ pana te kattabbayuttakaṃ pacchā karissāmī’’ti.
As for what more needs to be done, I will do it later."
Còn những việc cần làm thêm, tôi sẽ làm sau.”
Kumbhakāro ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The potter accepted, saying, "Very well."
Người làm gốm chấp thuận: “Vâng, được.”
Seṭṭhi punadivase ghosakaṃ pakkositvā, ‘‘hiyyo mayā kumbhakāro ekaṃ kammaṃ āṇatto, ehi, tvaṃ tassa santikaṃ gantvā evaṃ vadehi – ‘hiyyo kira me pitarā āṇattaṃ kammaṃ nipphādehī’’’ti pahiṇi.
The next day, the merchant summoned Ghosaka and sent him, saying, "Yesterday I gave an order to the potter. Come, go to him and say, 'My father ordered a task yesterday, please complete it.'"
Ngày hôm sau, trưởng giả gọi Ghosaka đến, nói: “Hôm qua cha có sai người làm gốm một việc. Con hãy đến chỗ ông ta và nói: ‘Cha con dặn việc hôm qua hãy hoàn thành.’” Rồi ông ta sai Ghosaka đi.
So ‘‘sādhū’’ti agamāsi.
He said, "Very well," and went.
Ghosaka nói: “Vâng,” rồi đi.
Taṃ tattha gacchantaṃ itaro seṭṭhino putto dārakehi saddhiṃ guḷaṃ kīḷanto disvā taṃ pakkositvā, ‘‘kuhiṃ gacchasi bhātikā’’ti pucchitvā ‘‘pitu sāsanaṃ gahetvā kumbhakārassa santika’’nti vutte ‘‘ahaṃ tattha gamissāmi.
As he was going there, the merchant's other son, playing ball with other boys, saw him, called him over, and asked, "Where are you going, brother?" When told, "To the potter, with a message from father," he said, "I will go there.
Khi nó đang đi đến đó, con trai khác của trưởng giả đang chơi bi với các đứa trẻ khác, thấy nó liền gọi lại, hỏi: “Anh đi đâu vậy, anh trai?” Khi được trả lời: “Con mang lời cha đến chỗ người làm gốm,” nó nói: “Em sẽ đi đến đó.
Ime maṃ dārakā bahuṃ lakkhaṃ jiniṃsu, taṃ me paṭijinitvā dehī’’ti āha.
These boys have won many stakes from me. Please win them back for me."
Những đứa trẻ này đã thắng em rất nhiều tiền cược, anh hãy thắng lại cho em đi.”
‘‘Ahaṃ pitu bhāyāmī’’ti.
"I am afraid of father," (said Ghosaka).
“Em sợ cha.”
‘‘Mā bhāyi, bhātika, ahaṃ taṃ sāsanaṃ harissāmi.
"Don't be afraid, brother. I will deliver that message.
“Đừng sợ, anh trai, em sẽ mang lời nhắn đó đi.
Bahūhi jito, yāvāhaṃ āgacchāmi, tāva me lakkhaṃ paṭijinā’’ti.
I have lost much to many. While I am away, please win back my stakes."
Em đã thua nhiều rồi, trong khi em đi, anh hãy thắng lại tiền cược cho em.”
587
Ghosako kira guḷakīḷāya cheko, tena naṃ evaṃ nibandhi.
Ghosaka was skilled in playing ball, so he pressed him in this way.
Ghosaka là người giỏi chơi bi, nên nó đã ép buộc Ghosaka như vậy.
Sopi taṃ ‘‘tena hi gantvā kumbhakāraṃ vadehi – ‘pitarā kira me hiyyo ekaṃ kammaṃ āṇattaṃ, taṃ nipphādehī’’’ti vatvā uyyojesi.
So Ghosaka, telling him, "Then go and tell the potter, 'My father ordered a task yesterday, please complete it,'" sent him off.
Vậy là Ghosaka nói với nó: “Vậy thì hãy đi đến chỗ người làm gốm và nói: ‘Cha tôi hôm qua đã sai một việc, xin hãy hoàn thành việc đó,’” rồi sai nó đi.
So tassa santikaṃ gantvā tathā avaca.
He went to the potter and spoke as instructed.
Nó đến chỗ người làm gốm và nói như vậy.
Atha naṃ kumbhakāro seṭṭhinā vuttaniyāmeneva māretvā āvāpe khipi.
Then the potter killed him in the manner prescribed by the merchant and threw him into the kiln.
Rồi người làm gốm đã giết nó theo đúng lời trưởng giả dặn, rồi ném vào lò nung.
Ghosakopi divasabhāgaṃ kīḷitvā sāyanhasamaye gehaṃ gantvā ‘‘kiṃ, tāta, na gatosī’’ti vutte attano agatakāraṇañca kaniṭṭhassa gatakāraṇañca ārocesi.
Ghosaka, having played for the better part of the day, went home in the evening, and when asked, "Why didn't you go, my son?" he reported the reason for his not going and the reason for his younger brother's going.
Còn Ghosaka, sau khi chơi suốt cả ngày, đến chiều tối về nhà, khi được hỏi: “Con trai, sao con không đi?” Nó kể lại lý do mình không đi và lý do em trai mình đã đi.
Taṃ sutvā seṭṭhi ‘‘ahaṃ dhī’’ti mahāviravaṃ viravitvā sakalasarīre pakkuthitalohito viya hutvā, ‘‘ambho, kumbhakāra, mā maṃ nāsayi, mā maṃ nāsayī’’ti bāhā paggayha kandanto tassa santikaṃ agamāsi.
Hearing that, the merchant cried out with a great shout, "Alas, my son!" becoming as if his whole body was boiling with blood, and went to the potter, wailing, raising his arms, "Oh, potter, do not destroy me, do not destroy me!"
Nghe vậy, trưởng giả kêu lên một tiếng thật lớn: “Ôi ta!” như thể máu sôi sục khắp cơ thể, rồi vung tay lên khóc lóc: “Này người làm gốm, đừng hủy hoại ta, đừng hủy hoại ta!” rồi đi đến chỗ ông ta.
Kumbhakāro taṃ tathā āgacchantaṃ disvā, ‘‘sāmi, mā saddaṃ kari, kammaṃ te nipphanna’’nti āha.
Seeing the merchant coming in such a state, the potter said, "Master, do not make a sound, your task is done."
Người làm gốm thấy ông ta đến trong tình trạng như vậy, nói: “Thưa chủ nhân, đừng làm ồn, việc của ông đã xong rồi.”
So pabbatena viya mahantena sokena avatthaṭo hutvā anappakaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedesi.
Overwhelmed by a sorrow as vast as a mountain, he experienced immense grief.
Ông ta bị nỗi buồn lớn như núi đè nặng, cảm thấy vô cùng đau khổ.
Yathā taṃ appaduṭṭhassa padussamāno.
Just as one who wrongs the blameless.
Cũng như kẻ làm hại người vô tội.
Tenāha bhagavā –
Therefore, the Blessed One said:
Do đó, Đức Thế Tôn đã dạy:
588
‘‘Yo daṇḍena adaṇḍesu, appaduṭṭhesu dussati;
"Whoever harms the blameless, those who are without weapons,
Kẻ nào dùng gậy đánh đập người không đáng đánh, kẻ nào làm hại người vô tội;
589
Dasannamaññataraṃ ṭhānaṃ, khippameva nigacchati.
quickly falls into one of these ten states:
Kẻ đó sẽ nhanh chóng rơi vào một trong mười tai họa.
590
‘‘Vedanaṃ pharusaṃ jāniṃ, sarīrassa ca bhedanaṃ;
He suffers harsh pain, great loss, or injury to the body;
Hoặc là bị đau đớn dữ dội, thân thể bị hủy hoại;
591
Garukaṃ vāpi ābādhaṃ, cittakkhepañca pāpuṇe.
or severe illness, or madness.
Hoặc là mắc bệnh nặng, hoặc là bị loạn trí.
592
‘‘Rājato vā upasaggaṃ, abbhakkhānañca dāruṇaṃ;
Or oppression from the king, or a terrible accusation;
Hoặc là bị tai họa từ vua chúa, hoặc là bị vu khống tàn khốc;
593
Parikkhayañca ñātīnaṃ, bhogānañca pabhaṅguraṃ.
loss of relatives, or destruction of wealth.
Hoặc là bị mất mát người thân, hoặc là tài sản bị hủy hoại.
594
‘‘Atha vāssa agārāni, aggi ḍahati pāvako;
Or fire consumes his houses,
Hoặc là nhà cửa của y bị lửa thiêu đốt;
595
Kāyassa bhedā duppañño, nirayaṃ sopapajjatī’’ti.(dha. pa. 137-140);
and when his body breaks up, that foolish one is reborn in hell."
Khi thân hoại mạng chung, kẻ ngu si đó sẽ đọa vào địa ngục.
596
Evaṃ santepi puna naṃ seṭṭhi ujukaṃ oloketuṃ na sakkoti.
Even so, the merchant still could not look at him directly.
Dù vậy, trưởng giả vẫn không thể nhìn thẳng vào Ghosaka.
‘‘Kinti naṃ māreyya’’nti cintento, ‘‘mama gāmasate āyuttakassa santikaṃ pesetvā māressāmī’’ti upāyaṃ disvā, ‘‘ayaṃ me avajātaputto, imaṃ māretvā vaccakūpe khipatu, evaṃ kate ahaṃ mātulassa kattabbayuttakaṃ pacchā jānissāmī’’ti tassa paṇṇaṃ likhitvā, ‘‘tāta ghosaka, amhākaṃ gāmasate āyuttako atthi, imaṃ paṇṇaṃ haritvā tassa dehī’’ti vatvā paṇṇaṃ tassa dussante bandhi.
Thinking, "How can I kill him?" he found a way: "I will send him to the administrator in my hundred villages and have him killed." So he wrote a letter to the administrator saying, "This is my ill-born son. Kill him and throw him into the latrine pit. If this is done, I will later know what is due to my maternal uncle." He then bound the letter to Ghosaka's sash, telling him, "My son Ghosaka, there is an administrator in our hundred villages. Take this letter and give it to him."
Ông ta nghĩ: “Làm sao để giết nó đây?” Rồi tìm ra cách: “Ta sẽ sai nó đến chỗ người quản lý một trăm ngôi làng của ta rồi giết nó.” Ông ta viết một lá thư cho người đó, nói: “Đây là đứa con trai hư hỏng của ta, hãy giết nó rồi ném vào hố phân. Làm như vậy, ta sẽ biết ơn chú sau này.” Rồi ông ta nói: “Này con trai Ghosaka, chúng ta có một người quản lý một trăm ngôi làng, con hãy mang lá thư này đến đưa cho ông ta.” Ông ta buộc lá thư vào vạt áo của Ghosaka.
So pana akkharasamayaṃ na jānāti.
But he did not know how to read or write.
Tuy nhiên, người ấy không biết chữ.
Daharakālato paṭṭhāya hi naṃ mārāpentova seṭṭhi māretuṃ nāsakkhi, kiṃ akkharasamayaṃ sikkhāpessati?
Indeed, since his childhood, the merchant had only sought to kill him; how could he teach him how to read and write?
Quả thật, từ khi còn nhỏ, trưởng giả đã sai người giết cậu ta nhưng không thành, vậy làm sao có thể dạy cậu ta biết chữ được?
Iti so attano mārāpanapaṇṇameva dussante bandhitvā nikkhamanto āha – ‘‘pātheyyaṃ me, tāta, natthī’’ti.
So, with the letter ordering his own death bound to his sash, he left, saying, "Father, I have no provisions for the journey."
Thế là, cậu ta buộc lá thư sai người giết mình vào vạt áo và khi ra đi, cậu nói: “Thưa cha, con không có lương thực dự trữ.”
‘‘Pātheyyena te kammaṃ natthi, antarāmagge ‘asukagāme nāma mamasahāyako seṭṭhi atthi, tassa ghare pātarāsaṃ katvā purato gacchāhī’’’ti.
"You have no need for provisions. Along the way, in a certain village, there is a merchant friend of mine. Have breakfast at his house and proceed."
“Con không cần lương thực dự trữ, giữa đường hãy đến nhà một người bạn trưởng giả của ta ở làng nọ, ăn sáng rồi đi tiếp.”
So ‘‘sādhū’’ti pitaraṃ vanditvā nikkhanto taṃ gāmaṃ patvā seṭṭhissa gharaṃ pucchitvā gantvā seṭṭhijāyaṃ passi.
He said, "Very well," bowed to his father, and departed. Reaching that village, he inquired about the merchant's house, went there, and saw the merchant's wife.
Cậu ta “Vâng” rồi đảnh lễ cha, ra đi, đến làng đó, hỏi nhà trưởng giả rồi đến gặp vợ của trưởng giả.
‘‘Tvaṃ kuto āgatosī’’ti ca vutte, ‘‘antonagarato’’ti āha.
When asked, "Where have you come from?" he said, "From the inner city."
Khi được hỏi: “Con từ đâu đến?”, cậu ta trả lời: “Từ trong thành phố.”
‘‘Kassa puttosī’’ti?
"Whose son are you?"
“Con là con của ai?”
‘‘Tumhākaṃ sahāyakaseṭṭhino, ammā’’ti.
"The son of your merchant friend, mother," he replied.
“Thưa mẹ, con là con của trưởng giả bạn của mẹ.”
‘‘Tvaṃsi ghosako nāmā’’ti?
"Are you Ghosaka?"
“Con có phải là Ghosaka không?”
‘‘Āma, ammā’’ti.
"Yes, mother," he replied.
“Vâng, thưa mẹ.”
Tassā saha dassaneneva tasmiṃ puttasineho uppajji.
Love for a son arose in her immediately upon seeing him.
Ngay khi vừa nhìn thấy cậu ta, tình thương con đã nảy sinh trong bà.
Seṭṭhino panekā dhītā atthi pannarasasoḷasavassuddesikā abhirūpā pāsādikā, taṃ rakkhituṃ ekameva pesanakārikaṃ dāsiṃ datvā sattabhūmikassa pāsādassa uparimatale sirigabbhe vasāpenti.
Now, the merchant had a daughter, fifteen or sixteen years old, beautiful and charming. To guard her, they had given her only one servant girl and kept her residing in the bridal chamber on the uppermost floor of a seven-story palace.
Trưởng giả có một cô con gái khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, xinh đẹp, khả ái, họ đã giao cho một nữ tỳ duy nhất để bảo vệ và cho cô ấy ở trong phòng ngủ chính trên tầng cao nhất của cung điện bảy tầng.
Seṭṭhidhītā tasmiṃ khaṇe taṃ dāsiṃ antarāpaṇaṃ pesesi.
At that moment, the merchant's daughter sent that servant girl to the market.
Vào lúc đó, con gái trưởng giả sai nữ tỳ đó đi chợ.
Atha naṃ seṭṭhijāyā disvā, ‘‘kuhiṃ gacchasī’’ti pucchitvā, ‘‘ayyadhītāya pesanenā’’ti vutte ‘‘ito tāva ehi, tiṭṭhatu pesanaṃ, puttassa me pīṭhakaṃ attharitvā pāde dhovitvā telaṃ makkhitvā sayanaṃ attharitvā dehi, pacchā pesanaṃ karissasī’’ti āha.
Then the merchant's wife saw her and asked, "Where are you going?" When told, "On an errand for the young mistress," she said, "Come here first. Let the errand wait. Spread a mat for my son, wash his feet, anoint him with oil, and prepare his bed. Afterwards, you can do the errand."
Vợ trưởng giả thấy cô ta liền hỏi: “Con đi đâu vậy?” Khi được trả lời: “Con đi theo lệnh của tiểu thư,” bà nói: “Hãy đến đây trước đã, việc sai vặt cứ để đó. Hãy trải ghế cho con trai ta, rửa chân, xoa dầu và trải giường cho nó, sau đó con hãy làm việc sai vặt.”
Sā tathā akāsi.
She did so.
Cô ta làm theo.
597
Atha naṃ cirenāgataṃ seṭṭhidhītā santajjesi.
Then, when the servant girl returned after a long time, the merchant's daughter rebuked her.
Sau đó, con gái trưởng giả khiển trách cô ta vì về muộn.
Atha naṃ sā āha – ‘‘mā me kujjhi, seṭṭhiputto ghosako āgato, tassa idañcidañca katvā tattha gantvā āgatāmhī’’ti.
Then the servant girl said to her, "Do not be angry with me. Ghosaka, the merchant's son, has arrived. I did this and that for him and then came here."
Cô ta liền nói: “Xin đừng giận con, con trai của trưởng giả Ghosaka đã đến, con đã làm điều này điều nọ cho cậu ấy rồi mới đến đây.”
Seṭṭhidhītāya ‘‘seṭṭhiputto ghosako’’ti nāmaṃ sutvāva pemaṃ chaviyādīni chinditvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca ṭhitaṃ.
Upon hearing the name "Ghosaka, the merchant's son," love, having cut through skin and so forth, stood rooted in her bone marrow.
Ngay khi con gái trưởng giả nghe tên “con trai trưởng giả Ghosaka”, tình yêu đã xuyên qua da thịt và gân cốt, chạm đến tủy xương.
Kotuhalakālasmiñhi sā tassa pajāpatī hutvā nāḷikodanaṃ paccekabuddhassa adāsi, tassānubhāvenāgantvā imasmiṃ seṭṭhikule nibbattā.
Indeed, in a past era, she had been his wife and had offered a nāḷika of cooked rice to a Paccekabuddha; by the power of that merit, she was reborn in this merchant family.
Quả thật, vào thời kỳ Kotuhalika, cô ấy đã là vợ của cậu ta và đã dâng một bát cơm cho một vị Độc Giác Phật, nhờ oai lực đó mà cô ấy tái sinh vào gia đình trưởng giả này.
Iti taṃ so pubbasineho avattharitvā gaṇhi.
Thus, that former affection overwhelmed and seized her.
Như vậy, tình cảm từ kiếp trước đã bao trùm và chiếm lấy cô ấy.
Tenāha bhagavā –
Therefore, the Blessed One said:
Do đó, Đức Thế Tôn đã nói:
598
‘‘Pubbeva sannivāsena, paccuppannahitena vā;
"From dwelling together in the past, or from a present benefit,
“Do sự chung sống từ kiếp trước,
599
Evaṃ taṃ jāyate pemaṃ, uppalaṃva yathodake’’ti.(jā. 1.2.174);
thus love arises, like a lotus in water."
hoặc do lợi ích hiện tại, tình yêu ấy phát sinh, như hoa sen nở trong nước.”
600
Atha naṃ pucchi – ‘‘kuhiṃ so, ammā’’ti?
Then she asked her, "Where is he, mother?"
Sau đó, cô ấy hỏi: “Thưa mẹ, cậu ấy ở đâu?”
‘‘Sayane nipanno niddāyatī’’ti.
"He is lying down in bed, sleeping."
“Đang nằm ngủ trên giường.”
‘‘Atthi panassa hatthe kiñcī’’ti?
"Is there anything in his hand?"
“Trong tay cậu ấy có gì không?”
‘‘Dussante paṇṇaṃ atthī’’ti.
"There is a letter in his sash."
“Có một lá thư trong vạt áo.”
Sā ‘‘kiṃ paṇṇaṃ nu kho eta’’nti tasmiṃ niddāyante mātāpitūnaṃ aññavihitatāya apassantānaṃ otaritvā samīpaṃ gantvā taṃ paṇṇaṃ mocetvā ādāya attano gabbhaṃ pavisitvā dvāraṃ pidhāya vātapānaṃ vivaritvā akkharasamaye kusalatāya paṇṇaṃ vācetvā, ‘‘aho vata bālo, attano maraṇapaṇṇaṃ dussante bandhitvā vicarati, sace mayā na diṭṭhaṃ assa, natthissa jīvita’’nti taṃ paṇṇaṃ phāletvā seṭṭhissa vacanena aparaṃ paṇṇaṃ likhi – ‘‘ayaṃ mama putto ghosako nāma, gāmasatato paṇṇākāraṃ āharāpetvā imassa janapadaseṭṭhino dhītarā saddhiṃ maṅgalaṃ katvā attano vasanagāmassa majjhe dvibhūmakaṃ gehaṃ kāretvā pākāraparikkhepena ceva purisaguttiyā ca susaṃvihitārakkhaṃ karotu, mayhañca ‘idañcidañca mayā kata’nti sāsanaṃ pesetu, evaṃ kate ahaṃ mātulassa kattabbayuttakaṃ pacchā jānissāmī’’ti, likhitvā ca pana saṅgharitvā otaritvā dussanteyevassa bandhi.
That merchant's daughter, thinking, “What kind of letter is this?” while he was sleeping and his parents were preoccupied and not watching, went down to him, untied that letter, took it, entered her own bedchamber, closed the door, opened the window, and being skilled in writing, she read the letter and thought, “Alas, how foolish! He goes about with a letter of his own death tied to his garment. If I had not seen it, he would not have lived.” She tore up that letter and, according to the merchant's instructions, wrote another letter: “Let this son of mine, named Ghosaka, bring tribute from a hundred villages, perform a wedding ceremony with the daughter of this regional chief merchant, and build a two-storied house in the middle of his residential village, and let him arrange for well-organized protection with a fence and a guard of men. Let him also send a message to me saying, ‘This and that has been done by me.’ If this is done, I will know later what is proper for my uncle to do.” Having written it, she folded it, went down, and tied it to his garment.
Cô ấy nghĩ: “Không biết lá thư này là gì?” Khi cậu ta đang ngủ và cha mẹ cậu ta đang bận việc khác không để ý, cô ấy đi xuống, đến gần, tháo lá thư ra, mang vào phòng mình, đóng cửa, mở cửa sổ, và nhờ sự thành thạo về chữ viết, cô ấy đọc lá thư. Cô ấy nghĩ: “Ôi chao, thật là ngu ngốc! Cậu ta mang lá thư sai người giết mình buộc vào vạt áo mà đi. Nếu ta không nhìn thấy thì cậu ta đã không còn mạng sống rồi.” Cô ấy xé lá thư đó và viết một lá thư khác theo lời của trưởng giả: “Đây là con trai tôi tên Ghosaka. Hãy sai người mang cống phẩm từ một trăm ngôi làng đến, làm lễ cưới cho nó với con gái của trưởng giả vùng này, xây một ngôi nhà hai tầng giữa làng của nó, và bố trí bảo vệ cẩn mật với tường rào và lính gác. Hãy gửi tin cho tôi biết ‘tôi đã làm điều này điều nọ’. Khi làm như vậy, sau này tôi sẽ biết điều gì nên làm cho cháu.” Sau khi viết xong, cô ấy gấp lại, đi xuống và buộc vào vạt áo của cậu ta.
601
So divasabhāgaṃ niddāyitvā uṭṭhāya bhuñjitvā pakkāmi.
He slept for a part of the day, then rose, ate, and departed.
Cậu ta ngủ suốt buổi sáng, thức dậy, ăn uống rồi rời đi.
Punadivase pātova taṃ gāmaṃ gantvā āyuttakaṃ gāmakiccaṃ karontaṃyeva passi.
The next day, early in the morning, he went to that village and saw the steward performing village duties.
Sáng hôm sau, cậu ta đến làng đó và thấy người quản lý đang làm công việc của làng.
So taṃ disvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
Seeing him, he asked, “What is it, dear one?”
Người quản lý thấy cậu ta liền hỏi: “Có việc gì vậy, con?”
‘‘Pitarā me tumhākaṃ paṇṇaṃ pesita’’nti.
“My father sent a letter for you,” he replied.
“Cha tôi gửi thư cho chú.”
‘‘Kiṃ paṇṇaṃ, tāta, āharā’’ti paṇṇaṃ gahetvā vācetvā tuṭṭhamānaso ‘‘passatha, bho, mama sāmino mayi sinehaṃ katvā jeṭṭhaputtassa me maṅgalaṃ karotū’’ti mama santikaṃ pahiṇi.
“What letter, dear one? Bring it,” he said. Taking the letter and reading it, he was delighted and exclaimed, “See, sirs, my master, out of affection for me, has sent me word to arrange the wedding of my eldest son!”
“Thư gì vậy, con? Đưa đây.” Người quản lý cầm lá thư, đọc xong thì lòng rất vui mừng. “Này các bạn, hãy xem, chủ của tôi đã thương tôi mà sai người đến đây để làm lễ cưới cho con trai trưởng của tôi.”
‘‘Sīghaṃ dāruādīni āharathā’’ti gahapatike vatvā gāmamajjhe vuttapakāraṃ gehaṃ kārāpetvā gāmasatato paṇṇākāraṃ āharāpetvā janapadaseṭṭhino santikā dhītaraṃ ānetvā maṅgalaṃ katvā seṭṭhissa sāsanaṃ pahiṇi ‘‘idañcidañca mayā kata’’nti.
He told the householders, “Quickly bring wood and other materials,” and had a house of the aforementioned kind built in the middle of the village. He had tribute brought from a hundred villages, brought the chief merchant’s daughter, performed the wedding, and sent a message to the merchant, saying, “This and that has been done by me.”
Nói với các gia chủ: “Mau mang gỗ và các vật liệu khác đến!”, ông ta cho xây một ngôi nhà như đã nói ở giữa làng, sai người mang cống phẩm từ một trăm ngôi làng đến, đón con gái của trưởng giả vùng này về, làm lễ cưới, rồi gửi tin cho trưởng giả: “Tôi đã làm điều này điều nọ.”
602
Taṃ sutvā seṭṭhino ‘‘yaṃ kāremi, taṃ na hoti; yaṃ na kāremi, tadeva hotī’’ti mahantaṃ domanassaṃ uppajji.
Hearing that, great sorrow arose in the merchant, thinking, “What I have done does not come to pass; only what I have not done comes to pass.”
Nghe vậy, trưởng giả vô cùng buồn phiền, nghĩ: “Điều ta sai làm thì không thành, điều ta không sai làm thì lại thành.”
Puttasokena saddhiṃ so soko ekato hutvā kucchiḍāhaṃ uppādetvā atisāraṃ janesi.
That sorrow, combined with his sorrow for his son, caused a burning sensation in his stomach and brought on dysentery.
Nỗi buồn đó cùng với nỗi đau mất con đã gây ra chứng đau bụng và kiết lỵ.
Seṭṭhidhītāpi ‘‘sace koci seṭṭhino santikā āgacchati, mama akathetvā seṭṭhiputtassa paṭhamataraṃ mā kathayitthā’’ti jane āṇāpesi.
The chief merchant’s daughter also instructed her people, “If anyone comes from the merchant, do not tell the chief merchant’s son first without telling me.”
Con gái trưởng giả cũng ra lệnh cho mọi người: “Nếu có ai từ chỗ trưởng giả đến, đừng nói cho con trai trưởng giả trước khi nói cho ta.”
Seṭṭhipi kho ‘‘dāni taṃ duṭṭhaputtaṃ mama sāpateyyassa sāmikaṃ na karissāmī’’ti cintetvā ekaṃ āyuttakaṃ āha – ‘‘mātula, puttaṃ me daṭṭhukāmomhi, ekaṃ pādamūlikaṃ pesetvā mama puttaṃ pakkosāpehī’’ti.
The merchant, thinking, “Now I will not make that wicked son the owner of my wealth,” said to a steward, “Uncle, I wish to see my son. Send a footman to summon my son.”
Trưởng giả nghĩ: “Giờ ta sẽ không để đứa con hư đốn đó làm chủ tài sản của ta nữa,” rồi nói với một người quản lý: “Cậu ơi, ta muốn gặp con trai ta, hãy sai một người hầu đến gọi con trai ta về.”
So ‘‘sādhū’’ti vatvā paṇṇaṃ datvā ekaṃ purisaṃ pesesi.
He said, “Very well,” and sending a man with a letter.
Người quản lý “Vâng” rồi đưa thư và sai một người đi.
Seṭṭhidhītāpi tassa āgantvā dvāre ṭhitabhāvaṃ sutvā taṃ pakkosāpetvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
The chief merchant’s daughter, hearing that he had arrived and was standing at the door, summoned him and asked, “What is it, dear one?”
Con gái trưởng giả nghe tin người đó đã đến đứng ở cổng liền cho gọi vào và hỏi: “Có việc gì vậy, con?”
So āha – ‘‘seṭṭhi gilāno, puttaṃ passituṃ pakkosāpesi, ayye’’ti.
He replied, “The merchant is ill, my lady; he has sent for his son to see him.”
Người đó nói: “Thưa tiểu thư, trưởng giả đang bệnh, sai gọi con trai về để gặp.”
‘‘Kiṃ, tāta, balavā, dubbalo’’ti?
“Is he strong or weak, dear one?”
“Con ơi, ông ấy khỏe hay yếu?”
‘‘Balavā tāva, āhāraṃ bhuñjatiyeva, ayye’’ti.
“He is still strong, my lady; he is still eating food.”
“Thưa tiểu thư, ông ấy vẫn còn khỏe, vẫn còn ăn uống được.”
Sā seṭṭhiputtaṃ ajānāpetvāva tassa nivesanañca paribbayañca dāpetvā ‘‘mayā pesitakāle gamissasi, acchassu tāvā’’ti āha.
Without letting the chief merchant’s son know, she had lodging and expenses given to that man and said, “You will go when I send you; stay here for now.”
Cô ấy không cho con trai trưởng giả biết mà cho người đó chỗ ở và chi phí, rồi nói: “Con sẽ đi khi ta sai, cứ ở lại đây đã.”
Seṭṭhi puna āyuttakaṃ avaca, ‘‘kiṃ, mātula, na te mama puttassa santikaṃ pahita’’nti?
The merchant again said to the steward, “Uncle, have you not sent word to my son?”
Trưởng giả lại hỏi người quản lý: “Cậu ơi, sao chưa sai người đến chỗ con trai ta?”
‘‘Pahitaṃ, sāmi, gatapuriso na tāva etī’’ti.
“It has been sent, master; the man who went has not yet returned.”
“Thưa chủ, đã sai rồi, nhưng người đi chưa về.”
‘‘Tena hi puna aparaṃ pesehī’’ti.
“Then send another one,” he said.
“Vậy thì hãy sai một người khác đi.”
So pesesi.
He sent him.
Ông ta sai đi.
Seṭṭhidhītā tasmimpi tatheva paṭipajji.
The chief merchant’s daughter acted in the same way towards him.
Con gái trưởng giả cũng đối xử với người đó y như lần trước.
Atha seṭṭhino rogo balavā jāto, ekaṃ bhājanaṃ pavisati, ekaṃ nikkhamati.
Then the merchant’s illness became severe; one vessel entered, and another departed.
Sau đó, bệnh của trưởng giả trở nặng, một chén vào, một chén ra (tức là nôn mửa và tiêu chảy liên tục).
Puna seṭṭhi āyuttakaṃ pucchi – ‘‘kiṃ, mātula, na te mama puttassa santikaṃ pahita’’nti?
Again the merchant asked the steward, “Uncle, have you not sent word to my son?”
Trưởng giả lại hỏi người quản lý: “Cậu ơi, sao chưa sai người đến chỗ con trai ta?”
‘‘Pahitaṃ, sāmi, gatapuriso na tāva etī’’ti.
“It has been sent, master; the man who went has not yet returned.”
“Thưa chủ, đã sai rồi, nhưng người đi chưa về.”
‘‘Tena hi puna aparaṃ pesehī’’ti.
“Then send another one,” he said.
“Vậy thì hãy sai một người khác đi.”
So pesesi.
He sent him.
Ông ta sai đi.
Seṭṭhidhītā tatiyavāre āgatampi taṃ pavattiṃ pucchi.
The chief merchant’s daughter also asked that man, who had come for the third time, about the news.
Lần thứ ba người đó đến, con gái trưởng giả cũng hỏi về tình hình.
So ‘‘bāḷhagilāno, ayye, seṭṭhi āhāraṃ pacchinditvā maccuparāyaṇo jāto, ekaṃ bhājanaṃ nikkhamati, ekaṃ pavisatī’’ti āha.
He said, “The merchant is gravely ill, my lady; he has stopped eating and is at the point of death; one vessel is emptied, and another is filled.”
Người đó nói: “Thưa tiểu thư, trưởng giả bệnh rất nặng, đã bỏ ăn và sắp chết rồi, một chén vào, một chén ra.”
Seṭṭhidhītā ‘‘idāni gantuṃ kālo’’ti seṭṭhiputtassa ‘‘pitā te kira gilāno’’ti ārocetvā ‘‘kiṃ vadesi bhadde’’ti vutte ‘‘aphāsukamassa, sāmī’’ti āha.
The chief merchant’s daughter thought, “Now is the time to go.” She informed the chief merchant’s son, “They say your father is ill.” When he asked, “What do you mean, good lady?” she replied, “He is unwell, master.”
Con gái trưởng giả nghĩ: “Bây giờ là lúc phải đi,” liền báo cho con trai trưởng giả: “Nghe nói cha chàng đang bệnh.” Khi được hỏi: “Nàng nói gì vậy, hiền thê?”, cô ấy nói: “Ông ấy không được khỏe, thưa chủ.”
‘‘Idāni kiṃ kātabba’’nti.
“What should be done now?”
“Bây giờ phải làm gì?”
Sāmi?
“Master?”
Thưa chủ?
‘‘Gāmasatato vuṭṭhānakapaṇṇākāraṃ ādāya gantvā passissāma na’’nti.
“Should we take the tribute from the hundred villages and go to see him?”
“Chúng ta hãy mang cống phẩm từ một trăm ngôi làng đến để thăm ông ấy.”
So ‘‘sādhū’’ti paṇṇākāraṃ āharāpetvā sakaṭehi ādāya pakkāmi.
He said, “Very well,” and having the tribute brought, he took it in carts and departed.
Cậu ta “Vâng” rồi cho người mang cống phẩm đến, chất lên xe bò rồi rời đi.
603
Atha naṃ sā ‘‘pitā te dubbalo, ettakaṃ paṇṇākāraṃ gahetvā gacchantānaṃ papañco bhavissati, etaṃ nivattāpehī’’ti vatvā taṃ sabbaṃ attano kulagehaṃ pesetvā puna taṃ āha – ‘‘sāmi, tvaṃ attano pitu pādapasse tiṭṭheyyāsi, ahaṃ ussīsakapasse ṭhassāmī’’ti.
Then she said to him, “Your father is weak. If we go with so much tribute, it will cause delay. Turn it back.” Having sent all of that to her own family home, she then said to him, “Master, you should stand at your father’s feet; I will stand at his head.”
Sau đó, cô ấy nói với cậu ta: “Cha chàng yếu rồi, mang nhiều cống phẩm như vậy đi sẽ gặp rắc rối, hãy cho xe quay về.” Sau khi cho tất cả những thứ đó về nhà cha mẹ mình, cô ấy lại nói với cậu ta: “Chàng ơi, chàng hãy đứng ở phía chân của cha chàng, còn thiếp sẽ đứng ở phía đầu giường.”
Gehaṃ pavisamānāyeva ca ‘‘gehassa purato ca pacchato ca ārakkhaṃ gaṇhathā’’ti attano purise āṇāpesi.
And as she entered the house, she commanded her men, “Guard the front and back of the house.”
Và ngay khi vào nhà, nàng ra lệnh cho những người của mình: “Hãy canh gác phía trước và phía sau nhà!”
Paviṭṭhakāle pana seṭṭhiputto pitu pādapasse aṭṭhāsi, itarā ussīsakapasse.
When they entered, the chief merchant’s son stood at his father’s feet, and the other, the daughter, at his head.
Khi đã vào, con trai của trưởng giả đứng ở phía chân của cha, còn nàng thì đứng ở phía đầu giường.
604
Tasmiṃ khaṇe seṭṭhi uttānako nipanno hoti.
At that moment, the merchant lay on his back.
Vào lúc đó, trưởng giả đang nằm ngửa.
Āyuttako pana tassa pāde parimajjanto ‘‘putto te, sāmi, āgato’’ti āha.
The steward, massaging his feet, said, “Your son has come, master.”
Người quản gia xoa bóp chân ông và nói: “Thưa chủ, con trai của ngài đã về rồi.”
‘‘Kuhiṃ so’’ti?
“Where is he?” he asked.
“Nó ở đâu?”
‘‘Esa pādamūle ṭhito’’ti.
“He is standing at your feet,” he said.
“Nó đang đứng ở phía chân.”
Atha naṃ disvā āyakammikaṃ pakkosāpetvā, ‘‘mama gehe kittakaṃ dhana’’nti pucchi.
Then, seeing him, he sent for the treasurer and asked, “How much wealth is there in my house?”
Rồi thấy cậu, trưởng giả cho gọi người quản lý tài sản và hỏi: “Trong nhà ta có bao nhiêu tài sản?”
‘‘Sāmi, dhanasseva cattālīsakoṭiyo, upabhogaparibhogabhaṇḍānaṃ pana vanagāmakkhettadvipadacatuppadayānavāhanānañca ayañca ayañca paricchedo’’ti vutte, ‘‘ahaṃ ettakaṃ dhanaṃ mama puttassa ghosakassa na demī’’ti vattukāmo ‘‘demī’’ti āha.
When he was told, “Master, there are forty crores of wealth alone. As for articles for enjoyment and use, gardens, villages, fields, two-footed and four-footed creatures, and vehicles, this and this is the extent,” the merchant, wishing to say, “I will not give this much wealth to my son Ghosaka,” mistakenly said, “I will give it.”
Khi được trả lời: “Thưa chủ, chỉ riêng tiền bạc đã có bốn mươi crore, còn về đồ dùng, vật dụng, vườn tược, làng mạc, ruộng đất, hai chân, bốn chân, xe cộ và phương tiện đi lại thì có từng này, từng này,” thì ông ta, muốn nói “Ta không cho Ghosaka, con trai ta, số tài sản lớn như vậy,” lại nói nhầm thành “Ta cho.”
Taṃ sutvā seṭṭhidhītā ‘‘ayaṃ puna kathento aññaṃ kiñci katheyyā’’ti cintetvā sokāturā viya kese vikiritvā rodamānā ‘‘kiṃ nāmetaṃ, tāta, vadetha, idampi nāma vo vacanaṃ suṇoma, alakkhikā vatamhā’’ti vatvā matthakena naṃ uramajjhe paharantī patitvā yathā puna vattuṃ na sakkoti, tathāssa uramajjhe matthakena ghaṃsentī ārodanaṃ dassesi.
Hearing that, the chief merchant’s daughter thought, “If he speaks again, he might say something else.” As if overcome with sorrow, she disheveled her hair and, weeping, said, “What is this, father, that you say? We hear even this word from you. How unfortunate we are!” Saying this, she fell, striking his chest with her head, and rubbed his chest with her head, demonstrating her wailing so that he could not speak again.
Nghe vậy, con gái trưởng giả nghĩ: “Lão này mà nói lại thì có thể nói điều gì khác,” rồi như thể bị nỗi buồn dày vò, nàng xõa tóc và khóc lóc nói: “Cha ơi, cha nói gì vậy? Chúng con nghe những lời này của cha, thật là bất hạnh cho chúng con!” Vừa nói, nàng vừa dùng đầu đập vào giữa ngực ông, rồi ngã xuống và tiếp tục dùng đầu cọ xát vào giữa ngực ông, biểu lộ sự than khóc đến mức ông không thể nói thêm lời nào nữa.
Seṭṭhi taṃkhaṇaññeva kālamakāsi.
The merchant died at that very moment.
Trưởng giả qua đời ngay lúc đó.
‘‘Seṭṭhi mato’’ti gantvā utenassa rañño ārocayiṃsu.
They went and informed King Utena, “The merchant is dead.”
Họ đi báo tin cho vua Udena rằng: “Trưởng giả đã mất.”
Rājā tassa sarīrakiccaṃ kārāpetvā, ‘‘atthi panassa putto vā dhītā vā’’ti pucchi.
The king had the merchant’s funeral rites performed and asked, “Does he have a son or daughter?”
Nhà vua cho tổ chức tang lễ cho ông, rồi hỏi: “Ông ta có con trai hay con gái nào không?”
‘‘Atthi, deva, ghosako nāma tassa putto, sabbaṃ sāpateyyaṃ tassa niyyādetvāva mato, devā’’ti.
“Yes, Your Majesty, he has a son named Ghosaka. He died only after entrusting all his wealth to him, Your Majesty,” they reported.
“Thưa Đại vương, ông ấy có một người con trai tên là Ghosaka. Ông ấy đã trao lại toàn bộ tài sản cho người con trai đó rồi mới qua đời, thưa Đại vương.”
605
Rājā aparabhāge seṭṭhiputtaṃ pakkosāpesi.
Later, the king summoned the chief merchant’s son.
Sau đó, nhà vua cho gọi con trai của trưởng giả.
Tasmiñca divase devo vassi.
On that day, it rained.
Vào ngày đó, trời đổ mưa.
Rājaṅgaṇe tattha tattha udakaṃ saṇṭhāti.
Water collected here and there in the royal courtyard.
Nước đọng lại khắp nơi trong sân hoàng cung.
Seṭṭhiputto ‘‘rājānaṃ passissāmī’’ti pāyāsi.
The chief merchant’s son set out, thinking, “I will see the king.”
Con trai trưởng giả nghĩ: “Ta sẽ gặp nhà vua,” rồi lên đường.
Rājā vātapānaṃ vivaritvā taṃ āgacchantaṃ olokento rājaṅgaṇe udakaṃ laṅghitvā āgacchantaṃ disvā āgantvā vanditvā ṭhitaṃ ‘‘tvaṃ ghosako nāma, tātā’’ti pucchitvā ‘‘āma, devā’’ti vutte ‘‘pitā me matoti mā soci, tava pettikaṃ seṭṭhiṭṭhānaṃ tuyhameva dassāmī’’ti taṃ samassāsetvā ‘‘gaccha, tātā’’ti uyyojesi.
The king opened the window and, looking at Ghosaka coming, saw him leaping over the water in the royal courtyard. When he arrived, paid his respects, and stood there, the king asked, "Are you Ghosaka, my son?" When he replied, "Yes, Your Majesty," the king comforted him, saying, "Do not grieve that my father has died; I will give you your ancestral seṭṭhi position," and then sent him away, saying, "Go, my son."
Nhà vua mở cửa sổ nhìn cậu đi đến, thấy cậu nhảy qua vũng nước trong sân hoàng cung mà đi đến, rồi sau khi đến và đảnh lễ, đứng đó, nhà vua hỏi: “Này con, con tên là Ghosaka phải không?” Khi cậu đáp: “Vâng, thưa Đại vương,” nhà vua an ủi cậu: “Đừng buồn vì cha ta đã mất. Ta sẽ trao lại chức trưởng giả của cha con cho chính con,” rồi nói: “Con về đi, này con,” và tiễn cậu.
Rājā gacchantañca naṃ olokentova aṭṭhāsi.
The king stood there, continuing to watch him as he departed.
Nhà vua đứng nhìn cậu đi về.
So āgamanakāle laṅghitaṃ udakaṃ gamanakāle otaritvā saṇikaṃ agamāsi.
When he had come, he had leapt over the water, but when he departed, he stepped down into it and walked slowly.
Cậu đã nhảy qua vũng nước khi đến, nhưng khi đi về, cậu lại bước xuống và đi chậm rãi.
Atha naṃ rājā tatova pakkosāpetvā, ‘‘kiṃ nu kho, tāta, tvaṃ mama santikaṃ āgacchanto udakaṃ laṅghitvā āgamma gacchanto otaritvā saṇikaṃ gacchasī’’ti pucchi.
Then the king had him called back from that very spot and asked, "Why is it, my son, that when you came to me, you leapt over the water and then when you leave, you step down into it and walk slowly?"
Rồi nhà vua cho gọi cậu trở lại từ đó và hỏi: “Này con, tại sao khi con đến gặp ta, con lại nhảy qua vũng nước, nhưng khi con đi về, con lại bước xuống và đi chậm rãi?”
‘‘Āma, deva, ahaṃ tasmiṃ khaṇe kumārako, kīḷanakālo nāma, so idāni pana me devena ṭhānantaraṃ paṭissutaṃ.
"Yes, Your Majesty, at that time I was a young boy, a time for play. But now, Your Majesty has promised me a position of authority.
“Thưa Đại vương, vâng, khi đó thần còn là một cậu bé, đó là lúc để vui chơi. Nhưng bây giờ, Đại vương đã hứa ban cho thần chức vị.
Tasmā yathā pure acaritvā idāni sannisinnena hutvā carituṃ vaṭṭatī’’ti.
Therefore, it is proper for me to act composedly now, not as before."
Vì vậy, thay vì hành xử như trước, bây giờ thần phải hành xử một cách điềm tĩnh.”
Taṃ sutvā rājā ‘‘dhitimāyaṃ puriso, idānevassa ṭhānantaraṃ dassāmī’’ti pitarā bhuttaṃ bhogaṃ datvā sabbasatena seṭṭhiṭṭhānaṃ adāsi.
Hearing that, the king thought, "This man is resolute; I shall give him the position right now." And so, giving him the wealth enjoyed by his father, he bestowed upon him the seṭṭhi position along with all hundred things.
Nghe vậy, nhà vua nghĩ: “Người này thật kiên cường, ta sẽ trao chức vị cho cậu ta ngay bây giờ,” rồi ban cho cậu tài sản mà cha cậu đã hưởng thụ, và trao chức trưởng giả với toàn bộ tài sản.
606
So rathe ṭhatvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ akāsi.
He sat in his chariot and circumambulated the city.
Cậu ngồi trên xe ngựa và đi vòng quanh thành phố theo chiều kim đồng hồ.
Olokitolokitaṭṭhānaṃ kampati.
Every place he looked, it trembled.
Mỗi nơi cậu nhìn đến đều rung chuyển.
Seṭṭhidhītā kāḷidāsiyā saddhiṃ mantayamānā nisinnā ‘‘amma kāḷi, puttassa te ettikā sampatti maṃ nissāya uppannā’’ti āha.
The seṭṭhi's daughter, sitting and conversing with Kāḷī, the female slave, said, "Mother Kāḷī, this much prosperity for your son has arisen because of me."
Con gái trưởng giả đang ngồi nói chuyện với tớ gái Kāḷī và nói: “Này mẹ Kāḷī, tài sản lớn như vậy của con trai mẹ là do con mà có.”
‘‘Kiṃ kāraṇā, ammā’’ti?
"For what reason, dear child?"
“Vì lý do gì vậy, con gái?”
‘‘Ayañhi attano maraṇapaṇṇaṃ dussante bandhitvā amhākaṃ gharaṃ āgato, athassa mayā taṃ paṇṇaṃ phāletvā mayā saddhiṃ maṅgalakaraṇatthāya aññaṃ paṇṇaṃ likhitvā ettakaṃ kālaṃ tattha ārakkho kato’’ti.
"Because he came to our house with his death warrant tied to the corner of his cloth. Then I tore up that warrant and wrote another one for his wedding with me, and for all this time, I have been its guardian."
“Cậu ấy đã đến nhà chúng ta với một lá thư tử hình buộc vào một góc áo, nhưng con đã xé lá thư đó, viết một lá thư khác để kết hôn với con, và đã canh giữ nó suốt thời gian qua.”
‘‘Amma, tvaṃ ettakaṃ passasi, imaṃ pana seṭṭhi daharakālato paṭṭhāya māretukāmo māretuṃ nāsakkhi, kevalaṃ imaṃ nissāya bahuṃ dhanaṃ khīyī’’ti.
"Daughter, you see only this much. But the seṭṭhi, desiring to kill him from his youth, was unable to do so, and merely because of him, much wealth was wasted."
“Con gái, con chỉ thấy được chừng đó thôi, nhưng trưởng giả này đã muốn giết cậu ấy từ khi còn nhỏ mà không thể giết được, chỉ vì cậu ấy mà rất nhiều tài sản đã bị hao hụt.”
‘‘Amma, atibhāriyaṃ vata seṭṭhinā kata’’nti.
"Mother, indeed the seṭṭhi committed a grave deed!"
“Mẹ ơi, trưởng giả đã làm một việc thật nặng nề!”
Nagaraṃ padakkhiṇaṃ katvā gehaṃ pavisantaṃ pana naṃ disvā, ‘‘ayaṃ ettikā sampatti maṃ nissāya uppannā’’ti hasitaṃ akāsi.
Seeing him enter the house after circumambulating the city, she smiled, thinking, "This much prosperity has arisen because of me."
Khi thấy cậu đi vòng quanh thành phố và vào nhà, nàng mỉm cười và nghĩ: “Tài sản lớn như vậy là do ta mà có.”
Atha naṃ seṭṭhiputto disvā, ‘‘kiṃ kāraṇā hasī’’ti pucchi.
Then the seṭṭhi's son saw her and asked, "Why are you smiling?"
Rồi con trai trưởng giả thấy nàng và hỏi: “Tại sao nàng cười?”
‘‘Ekaṃ kāraṇaṃ nissāyā’’ti.
"Because of a certain reason."
“Vì một lý do nào đó.”
‘‘Kathehi na’’nti?
"Tell me!"
“Hãy nói đi!”
‘‘Sā na kathesi’’.
She did not tell him.
Nàng không nói.
So ‘‘sace na kathessasi, dvidhā taṃ chindissāmī’’ti tajjetvā asiṃ nikkaḍḍhi.
He, threatening her with "If you don't tell me, I will cut you in two," drew his sword.
Cậu đe dọa: “Nếu nàng không nói, ta sẽ chém nàng làm đôi,” rồi rút kiếm ra.
Sā ‘‘ayaṃ ettikā sampatti tayā maṃ nissāya laddhāti cintetvā hasita’’nti āha.
She said, "I smiled thinking that you obtained all this prosperity because of me."
Nàng nói: “Ta cười vì nghĩ rằng tài sản lớn như vậy là do ta mà ngươi có được.”
‘‘Yadi mama pitarā attano santakaṃ mayhaṃ niyyāditaṃ, tvaṃ ettha kiṃ hosī’’ti?
"If my father indeed entrusted his own property to me, what are you here for?"
“Nếu cha ta đã trao tài sản của ông ấy cho ta, thì nàng là gì ở đây?”
So kira ettakaṃ kālaṃ kiñci na jānāti, tenassā vacanaṃ na saddahi.
It is said that he knew nothing all this time, so he did not believe her words.
Cậu ta đã không biết gì suốt thời gian qua, vì vậy cậu không tin lời nàng.
Athassa sā ‘‘tumhākaṃ pitarā maraṇapaṇṇaṃ datvā pesitā, tumhe mayā idañcidañca katvā rakkhitā’’ti sabbaṃ kathesi.
Then she told him everything: "Your father sent men with a death warrant, and I protected you by doing such and such."
Rồi nàng kể hết mọi chuyện cho cậu: “Cha của các người đã gửi những người đàn ông với lá thư tử hình, nhưng ta đã bảo vệ các người bằng cách làm điều này, điều kia.”
‘‘Tvaṃ abhūtaṃ kathesī’’ti asaddahanto ‘‘mātaraṃ kāḷiṃ pucchissāmī’’ti cintetvā ‘‘evaṃ kira, ammā’’ti.
He, disbelieving her and saying, "You speak falsehoods," thought, "I will ask Mother Kāḷī," and asked, "Is it true, Mother, as she says?"
Cậu không tin, nói: “Nàng nói điều không thật,” rồi nghĩ: “Ta sẽ hỏi mẹ Kāḷī,” và hỏi: “Mẹ ơi, có phải như vậy không?”
‘‘Āma, tāta, daharakālato paṭṭhāya taṃ māretukāmo māretuṃ asakkonto taṃ nissāya bahuṃ dhanaṃ khīyi, sattasu ṭhānesu tvaṃ maraṇato mutto, idāni bhogagāmato āgamma sabbasatena saddhiṃ seṭṭhiṭṭhānaṃ patto’’ti.
"Yes, my son, from your childhood, the seṭṭhi wished to kill you but could not. He wasted much wealth because of you. You were saved from death in seven instances, and now you have come from the wealth-village and attained the seṭṭhi position with all hundred things."
“Vâng, con trai, từ khi con còn nhỏ, trưởng giả đã muốn giết con mà không thể giết được, vì con mà rất nhiều tài sản đã bị hao hụt. Con đã thoát chết bảy lần, và bây giờ con đã từ làng Bhogagāma trở về và nhận được chức trưởng giả cùng với toàn bộ tài sản.”
So taṃ sutvā ‘‘bhāriyaṃ vata kammaṃ, evarūpā kho pana maraṇā muttassa mama pamādajīvitaṃ jīvituṃ ayuttaṃ, appamatto bhavissāmī’’ti cintetvā devasikaṃ sahassaṃ vissajjetvā addhikakapaṇādīnaṃ dānaṃ paṭṭhapesi.
Hearing that, he thought, "What a grave action! Indeed, it is improper for me, who has escaped such death, to live a life of heedlessness. I shall be diligent." And so, he spent a thousand (coins) daily and established almsgiving for travelers, the poor, and others.
Nghe vậy, cậu nghĩ: “Thật là một nghiệp nặng nề! Ta đã thoát chết như vậy, vậy thì sống cuộc đời lơ đễnh là không thích hợp. Ta sẽ trở nên không lơ đễnh,” rồi mỗi ngày bố thí một ngàn đồng cho những người hành khất, người nghèo khổ, v.v.
Mitto nāmassa kuṭumbiko dānabyāvaṭo ahosi.
A householder named Mitta was in charge of the almsgiving for him.
Một gia chủ tên là Mitta đã lo liệu việc bố thí cho cậu.
Ayaṃ ghosakaseṭṭhino uppatti.
This is the origin of Ghosaka Seṭṭhi.
Đây là sự xuất hiện của trưởng giả Ghosaka.
607
Tasmiṃ pana kāle bhaddavatīnagare bhaddavatiyaseṭṭhi nāma ghosakaseṭṭhino adiṭṭhapubbasahāyako ahosi.
At that time, in the city of Bhaddavatī, there was a seṭṭhi named Bhaddavatīya, who was an unseen friend of Ghosaka Seṭṭhi.
Vào lúc đó, tại thành phố Bhaddavatī có một trưởng giả tên là Bhaddavatī, là một người bạn chưa từng gặp mặt của trưởng giả Ghosaka.
Bhaddavatīnagarato āgatānaṃ vāṇijānaṃ santike ghosakaseṭṭhi bhaddavatiyaseṭṭhino sampattiñca vayappadesañca sutvā tena saddhiṃ sahāyakabhāvaṃ icchanto paṇṇākāraṃ pesesi.
Ghosaka Seṭṭhi, hearing about the wealth and age of Bhaddavatīya Seṭṭhi from merchants who came from Bhaddavatī, desired to be his friend and sent him a gift.
Trưởng giả Ghosaka nghe các thương nhân từ thành phố Bhaddavatī đến kể về tài sản và tuổi tác của trưởng giả Bhaddavatī, muốn kết bạn với ông, nên đã gửi quà biếu.
Bhaddavatiyaseṭṭhipi kosambito āgatānaṃ vāṇijānaṃ santike ghosakaseṭṭhino sampattiñca vayappadesañca sutvā tena saddhiṃ sahāyakabhāvaṃ icchanto paṇṇākāraṃ pesesi.
Bhaddavatīya Seṭṭhi, likewise, hearing about the wealth and age of Ghosaka Seṭṭhi from merchants who came from Kosambī, desired to be his friend and sent him a gift.
Trưởng giả Bhaddavatī cũng nghe các thương nhân từ Kosambī đến kể về tài sản và tuổi tác của trưởng giả Ghosaka, muốn kết bạn với ông, nên đã gửi quà biếu.
Evaṃ te aññamaññaṃ adiṭṭhapubbasahāyakā hutvā vasiṃsu.
Thus, they lived as unseen friends to each other.
Cứ thế, hai vị trưởng giả là bạn bè chưa từng gặp mặt nhau.
Aparabhāge bhaddavatiyaseṭṭhino gehe ahivātarogo patito.
Later, a plague-like disease (ahivātaroga) fell upon the house of Bhaddavatīya Seṭṭhi.
Sau đó, bệnh dịch hạch (ahivātaroga) bùng phát trong nhà trưởng giả Bhaddavatī.
Tasmiṃ patite paṭhamaṃ makkhikā maranti, tato anukkameneva kīṭā mūsikā kukkuṭā sūkarā gāvo dāsī dāsā sabbapacchā gharamānusakāpi maranti.
When it struck, first flies died, then gradually insects, mice, chickens, pigs, cows, female slaves, and male slaves died, and last of all, the householders also died.
Khi bệnh dịch bùng phát, đầu tiên ruồi chết, rồi dần dần côn trùng, chuột, gà, heo, bò, tớ gái, tớ trai cũng chết, và cuối cùng là những người trong nhà cũng chết.
Tesu ye bhittiṃ bhinditvā palāyanti, te jīvitaṃ labhanti, tadā pana seṭṭhi ca bhariyā ca dhītā cassa tathā palāyitvā ghosakaseṭṭhiṃ passituṃ patthentā kosambimaggaṃ paṭipajjiṃsu.
Among them, those who broke through the wall and fled obtained life. At that time, the seṭṭhi, his wife, and his daughter, having fled in that manner and desiring to see Ghosaka Seṭṭhi, set out on the road to Kosambī.
Trong số đó, những người phá tường bỏ trốn thì sống sót. Lúc đó, trưởng giả, vợ ông và con gái ông cũng bỏ trốn như vậy, muốn gặp trưởng giả Ghosaka, nên đã đi theo con đường đến Kosambī.
Te antarāmaggeyeva khīṇapātheyyā vātātapena ceva khuppipāsāhi ca kilantasarīrā kicchena kosambiṃ patvā udakaphāsukaṭṭhāne ṭhatvā nhatvā nagaradvāre ekaṃ sālaṃ pavisiṃsu.
On the way, their provisions ran out, and their bodies were exhausted by wind, sun, hunger, and thirst. They reached Kosambī with difficulty, stopped at a place where water was easily accessible, bathed, and entered a hall at the city gate.
Trên đường đi, họ hết lương thực, thân thể mệt mỏi vì gió và nắng nóng, cũng như đói khát, nên khó khăn lắm mới đến được Kosambī. Họ dừng lại ở một nơi có nước thuận tiện, tắm rửa, rồi vào một hội trường ở cổng thành.
608
Tato seṭṭhi bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde, iminā nīhārena gacchantā vijātamātuyāpi amanāpā honti, sahāyako kira me addhikakapaṇādīnaṃ devasikaṃ sahassaṃ vissajjetvā dānaṃ dāpesi.
Then the seṭṭhi said to his wife, "My dear, if we go on in this state, we will be unwelcome even to a mother who has just given birth. My friend, Ghosaka, it is said, gives away a thousand (coins) daily in alms to travelers, the poor, and others.
Rồi trưởng giả nói với vợ: “Này hiền thê, nếu chúng ta cứ đi theo cách này, thì ngay cả người mẹ đã sinh ra chúng ta cũng sẽ không hài lòng. Nghe nói bạn ta là trưởng giả Ghosaka mỗi ngày bố thí một ngàn đồng cho những người hành khất, người nghèo khổ, v.v.
Tattha dhītaraṃ pesetvā āhāraṃ āharāpetvā ekāhaṃ dvīhaṃ idheva sarīraṃ santappetvā sahāyakaṃ passissāmā’’ti.
Let's send our daughter there to bring food, and after we have satisfied our bodies here for a day or two, we will go to see our friend."
Chúng ta hãy sai con gái đến đó mang thức ăn về, ở đây một hai ngày để phục hồi sức khỏe, rồi sau đó chúng ta sẽ đi gặp bạn ta.”
Sā ‘‘sādhu, sāmī’’ti.
She replied, "Very well, my lord."
Nàng đáp: “Vâng, thưa chủ.”
Te sālāyameva vasiṃsu.
They stayed in that hall.
Họ ở lại trong hội trường đó.
Punadivase kāle ārocite kapaṇaddhikādīsu āhāratthāya gacchantesu mātāpitaro, ‘‘amma, gantvā amhākaṃ āhāraṃ āharā’’ti dhītaraṃ pesayiṃsu.
The next day, when the time was announced and the poor, travelers, and others went for food, the parents sent their daughter, saying, "Daughter, go and bring us food."
Ngày hôm sau, khi thời gian bố thí được thông báo, trong lúc những người nghèo khổ, khách lữ hành, v.v. đang đi lấy thức ăn, cha mẹ cô gái đã sai con gái mình: "Con ơi, hãy đi lấy thức ăn cho chúng ta."
Mahābhogakulassa dhītā vipattiyā acchinnalajjitāya alajjamānā pātiṃ gahetvā kapaṇajanena saddhiṃ āhāratthāya gantvā ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasi, ammā’’ti puṭṭhā ca pana ‘‘tayo’’ti āha.
The daughter of a wealthy family, not being ashamed of her loss of modesty due to misfortune, took a bowl, went for food with the poor people, and when asked, "How many portions will you take, dear child?" she said, "Three."
Con gái của một gia đình giàu có, không còn cảm thấy xấu hổ vì sự phá sản đã cướp đi sự tự trọng của mình, cầm bát đi cùng những người nghèo để xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Ba phần."
Athassā tayo paṭivīse adāsi.
Then they gave her three portions.
Rồi người ta đã cho cô ba phần.
Tāya bhatte āhaṭe tayopi ekato bhuñjituṃ nisīdiṃsu.
When she brought the food, all three sat down together to eat.
Khi cô mang cơm về, cả ba người cùng ngồi ăn.
609
Atha mātādhītaro seṭṭhiṃ āhaṃsu – ‘‘sāmi, vipatti nāma mahākulānampi uppajjati, mā amhe oloketvā bhuñja, mā cintayī’’ti.
Then the mother and daughter said to the seṭṭhi, "My lord, misfortune befalls even great families. Do not look at us while eating, and do not worry."
Rồi mẹ và con gái nói với vị trưởng giả: "Thưa chủ, sự suy sụp cũng xảy ra với các gia đình lớn. Xin đừng nhìn chúng con mà ăn, đừng lo lắng gì cả."
Iti naṃ nānappakārehi yācitvā bhojesuṃ.
Thus, they entreated him in various ways and made him eat.
Thế là họ đã khẩn cầu ngài bằng nhiều cách khác nhau và mời ngài ăn.
So bhuñjitvā āhāraṃ jīrāpetuṃ asakkonto aruṇe uggacchante kālamakāsi.
After eating, he was unable to digest the food and passed away at dawn.
Ngài ăn xong, không thể tiêu hóa thức ăn, đã qua đời khi bình minh ló dạng.
Mātādhītaro nānappakārehi paridevitvā rodiṃsu.
The mother and daughter wept, lamenting in various ways.
Mẹ và con gái đã than khóc và khóc lóc bằng nhiều cách khác nhau.
Kumārikā punadivase rodamānā āhāratthāya gantvā, ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasī’’ti vuttā, ‘‘dve’’ti vatvā āhāraṃ āharitvā mātaraṃ yācitvā bhojesi.
The next day, the girl, crying, went for food. When asked, "How many portions will you take?" she said, "Two," and bringing the food, she entreated her mother and made her eat.
Ngày hôm sau, cô gái trẻ vừa khóc vừa đi xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Hai phần." Rồi cô mang thức ăn về, khẩn cầu mẹ mình ăn.
Sāpi tāya yāciyamānā bhuñjitvā āhāraṃ jīrāpetuṃ asakkontī taṃ divasameva kālamakāsi.
The mother, too, being entreated by her, ate but was unable to digest the food, and passed away on that same day.
Mẹ cô, được cô khẩn cầu, cũng ăn xong, không thể tiêu hóa thức ăn, và qua đời ngay trong ngày hôm đó.
Kumārikā ekikāva roditvā paridevitvā tāya dukkhuppattiyā ativiya sañjātachātakadukkhā punadivase yācakehi saddhiṃ rodantī āhāratthāya gantvā, ‘‘kati paṭivīse gaṇhissasi, ammā’’ti vuttā ‘‘eka’’nti āha.
The maiden, having cried and lamented alone, and being extremely afflicted by the suffering of hunger due to that misfortune, went the next day with the beggars to get food. When asked, "How many paṭivīsa will you take, mother?" she said, "One."
Cô gái trẻ một mình khóc lóc, than khóc, vì nỗi khổ đói khát cực độ do nỗi đau đó gây ra, ngày hôm sau, cô vừa khóc vừa đi cùng những người ăn xin để xin thức ăn. Khi được hỏi: "Con ơi, con sẽ lấy bao nhiêu phần?", cô đáp: "Một phần."
Mittakuṭumbiko taṃ tayo divase bhattaṃ gaṇhantiṃ sañjānāti, tena taṃ ‘‘apehi nassa, vasali, ajja tava kucchippamāṇaṃ aññāsī’’ti āha.
The householder Mitta recognized her as the one who had been taking food for three days. Therefore, he said to her, "Go away, perish, vasali! Today I have known the measure of your stomach."
Vị gia chủ Mittakuṭumbika nhận ra cô đã lấy cơm trong ba ngày. Vì vậy, ông ta nói với cô: "Đi đi, đồ tiện nữ, hôm nay ta đã biết được lượng bụng của ngươi rồi!"
Hirottappasampannā kuladhītā paccorasmiṃ sattipahāraṃ viya vaṇe khārodakasecanakaṃ viya ca patvā ‘‘kiṃ, sāmī’’ti āha.
The virtuous maiden, filled with shame and moral dread, felt as if she had been struck by a spear in her chest, or as if caustic water had been poured on a wound, and said, "What, master?"
Cô gái gia đình có lòng hổ thẹn và ghê sợ, cảm thấy như bị đâm một ngọn giáo vào ngực, như bị đổ nước muối vào vết thương, liền nói: "Thưa chủ, tại sao vậy ạ?"
‘‘Tayā pure tayo koṭṭhāsā gahitā, hiyyo dve, ajja ekaṃ gaṇhāsi.
"Before, you took three portions; yesterday, two; today, you take one.
"Trước đây ngươi lấy ba phần, hôm qua hai phần, hôm nay ngươi lấy một phần.
Ajja te attano kucchippamāṇaṃ ñāta’’nti.
Today, the measure of your own stomach is known to you."
Hôm nay ngươi đã biết được lượng bụng của mình rồi."
‘‘Mā maṃ, sāmi, ‘attanova atthāya gaṇhī’ti maññitthā’’ti.
"Master, do not think that I took it for my own sake."
"Thưa chủ, xin đừng nghĩ rằng con lấy cho riêng mình."
‘‘Atha kasmā evaṃ gaṇhī’’ti?
"Then why did you take it like that?"
"Vậy thì tại sao ngươi lại lấy như vậy?"
‘‘Pure tayo janā ahumha, sāmi, hiyyo dve, ajja ekikāva jātāmhī’’ti.
"Before, there were three of us, master; yesterday, two; today, I am alone."
"Thưa chủ, trước đây chúng con có ba người, hôm qua hai người, hôm nay con chỉ còn một mình."
So ‘‘kena kāraṇenā’’ti pucchitvā ādito paṭṭhāya tāya kathitaṃ sabbaṃ pavattiṃ sutvā assūni sandhāretuṃ asakkonto sañjātabalavadomanasso hutvā, ‘‘amma, evaṃ sante mā cintayi, tvaṃ bhaddavatiyaseṭṭhino dhītā ajjakālato paṭṭhāya mama dhītāyeva nāmā’’ti vatvā sīse cumbitvā gharaṃ netvā attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapesi.
He asked, "For what reason?" and having heard all the events recounted by her from the beginning, he was unable to hold back his tears and became overwhelmed with strong grief. He said, "Daughter, if that is so, do not worry. You are the daughter of the setthi Bhaddavatiya, and from today onwards, you are my daughter," and having kissed her on the head, he took her home and placed her in the position of his eldest daughter.
Ông ta hỏi: "Vì lý do gì?" và nghe toàn bộ câu chuyện cô kể từ đầu, không thể cầm được nước mắt, lòng tràn đầy nỗi buồn sâu sắc, liền nói: "Con ơi, nếu vậy thì đừng lo lắng. Con là con gái của trưởng giả Bhaddavatiya, từ hôm nay trở đi, con chính là con gái của ta." Nói xong, ông hôn lên đầu cô, đưa cô về nhà và đặt cô vào vị trí con gái lớn của mình.
610
Sā dānagge uccāsaddaṃ mahāsaddaṃ sutvā, ‘‘tāta, kasmā etaṃ janaṃ nissaddaṃ katvā dānaṃ na dethā’’ti āha.
She heard a loud and great noise at the alms-hall and said, "Father, why do you not give alms to these people by making them silent?"
Cô nghe thấy tiếng ồn ào lớn ở nhà bố thí, liền nói: "Cha ơi, tại sao cha không làm cho những người này im lặng rồi bố thí ạ?"
‘‘Na sakkā kātuṃ, ammā’’ti.
"It cannot be done, daughter."
"Không thể làm được đâu con."
‘‘Sakkā, tātā’’ti.
"It can be done, father."
"Có thể làm được mà cha!"
‘‘Kathaṃ sakkā, ammā’’ti?
"How can it be done, daughter?"
"Làm thế nào được hả con?"
‘‘Tāta dānaggaṃ parikkhipitvā ekekasseva pavesanappamāṇena dve dvārāni yojetvā, ‘ekena dvārena pavisitvā ekena nikkhamathā’ti vadetha, evaṃ nissaddā hutvāva gaṇhissantī’’ti.
"Father, enclose the alms-hall and arrange two entrances, each just wide enough for one person to enter, and tell them, 'Enter by one door and exit by the other.' In this way, they will take it silently."
"Cha ơi, hãy bao quanh nhà bố thí và làm hai cửa, mỗi cửa chỉ đủ cho một người đi vào. Rồi cha hãy nói: 'Hãy đi vào bằng một cửa và đi ra bằng một cửa.' Như vậy, họ sẽ nhận thức ăn trong im lặng."
So taṃ sutvā, ‘‘bhaddakova, amma, upāyo’’ti tathā kāresi.
He heard that and said, "Daughter, it is indeed a good method," and he did so.
Nghe vậy, ông nói: "Con ơi, đó là một cách hay!" và làm theo như vậy.
Sāpi pubbe sāmā nāma.
She was formerly named Sāmā.
Trước đây, cô tên là Sāmā.
Vatiyā pana kāritattā sāmāvatī nāma jātā.
However, because she had a fence (vati) built, she became known as Sāmāvatī.
Nhưng vì đã xây dựng hàng rào (vati), nên cô được gọi là Sāmāvatī.
Tato paṭṭhāya dānagge kolāhalaṃ pacchindī.
From that time onwards, the clamor at the alms-hall ceased.
Từ đó trở đi, sự ồn ào ở nhà bố thí đã chấm dứt.
Ghosakaseṭṭhi pubbe taṃ saddaṃ suṇanto ‘‘mayhaṃ dānagge saddo’’ti tussati.
Previously, the setthi Ghosaka, hearing that noise, rejoiced, thinking, "The noise is at my alms-hall."
Trưởng giả Ghosaka trước đây nghe tiếng ồn đó và lấy làm vui mừng: "Có tiếng ồn ở nhà bố thí của ta."
Dvīhatīhaṃ pana saddaṃ asuṇanto mittakuṭumbikaṃ attano upaṭṭhānaṃ āgataṃ pucchi – ‘‘diyyati kapaṇaddhikādīnaṃ dāna’’nti?
However, after two or three days, not hearing the noise, he asked the householder Mitta, who had come to attend upon him, "Are alms being given to the poor and needy?"
Nhưng sau hai hoặc ba ngày không nghe thấy tiếng ồn, ông hỏi người gia chủ Mittakuṭumbika, người đến thăm ông: "Có bố thí cho những người nghèo khổ, khách lữ hành, v.v. không?"
‘‘Āma, sāmī’’ti.
"Yes, master."
"Vâng, thưa chủ."
‘‘Atha kiṃ dvīhatīhaṃ saddo na suyyatī’’ti?
"Then why is no noise heard for two or three days?"
"Vậy tại sao hai ba ngày nay không nghe thấy tiếng ồn?"
‘‘Yathā nissaddā hutvā gaṇhanti, tathā me upāyo kato’’ti.
"I have made a contrivance so that they take it silently."
"Tôi đã dùng một phương pháp để họ nhận thức ăn trong im lặng."
‘‘Atha pubbeva kasmā nākāsī’’ti?
"Then why did you not do it before?"
"Vậy tại sao trước đây ngươi không làm như vậy?"
‘‘Ajānanatāya, sāmī’’ti.
"Because I did not know, master."
"Thưa chủ, vì tôi không biết ạ."
‘‘Idāni kathaṃ te ñāto’’ti?
"How did you come to know it now?"
"Vậy bây giờ làm sao ngươi biết được?"
‘‘Dhītarā me akkhāto, sāmī’’ti.
"My daughter told me, master."
"Thưa chủ, con gái tôi đã nói cho tôi biết ạ."
Mayhaṃ aviditā ‘‘tava dhītā nāma atthī’’ti.
"A daughter of yours exists, unknown to me?"
"Ta không biết rằng ngươi có một người con gái tên là gì."
So ahivātaroguppattito paṭṭhāya sabbaṃ bhaddavatiyaseṭṭhino pavattiṃ ācikkhitvā tassā attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapitabhāvaṃ ārocesi.
Then he recounted all the events of the setthi Bhaddavatiya from the onset of the snake-poison-like wind disease and informed him that she had been placed in the position of his eldest daughter.
Ông gia chủ Mittakuṭumbika kể lại toàn bộ câu chuyện về trưởng giả Bhaddavatiya từ khi bệnh rắn cắn phát sinh, và thông báo rằng cô gái đã được đặt vào vị trí con gái lớn của ông ta.
Atha naṃ seṭṭhi ‘‘evaṃ sante mama kasmā na kathesi, mama sahāyakassa dhītā mama dhītā nāmā’’ti taṃ pakkosāpetvā pucchi – ‘‘amma, seṭṭhino dhītāsī’’ti?
Then the setthi said to him, "If that is so, why did you not tell me? The daughter of my friend is my daughter," and having sent for her, he asked, "Daughter, are you the daughter of the setthi?"
Rồi trưởng giả Ghosaka hỏi ông gia chủ Mittakuṭumbika: "Nếu vậy, tại sao ngươi không nói cho ta biết? Con gái của bạn ta cũng là con gái của ta." Rồi ông cho gọi cô gái đến và hỏi: "Con ơi, con là con gái của vị trưởng giả đó phải không?"
‘‘Āma, tātā’’ti.
"Yes, father."
"Vâng, thưa cha."
‘‘Tena hi mā cintayi, tvaṃ mama dhītāsī’’ti taṃ sīse cumbitvā parivāratthāya tassā pañca itthisatāni datvā taṃ attano jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapesi.
"Then do not worry; you are my daughter," he said, and having kissed her on the head, he gave her five hundred women to be her retinue and placed her in the position of his eldest daughter.
"Vậy thì đừng lo lắng, con là con gái của cha." Nói xong, ông hôn lên đầu cô, ban cho cô năm trăm phụ nữ để làm thị tỳ và đặt cô vào vị trí con gái lớn của mình.
611
Athekadivasaṃ tasmiṃ nagare nakkhattaṃ saṅghuṭṭhaṃ hoti.
Then one day, a festival was proclaimed in that city.
Đây là câu chuyện về sự ra đời của Sāmāvatī.
Tasmiṃ pana nakkhatte bahi anikkhamanakā kuladhītaropi attano parivārena saddhiṃ padasāva nadiṃ gantvā nhāyanti.
At that festival, even maidens of good families who did not usually go out, went to the river on foot with their retinue to bathe.
Một ngày nọ, một lễ hội được công bố trong thành phố đó. Trong lễ hội đó, ngay cả những cô gái gia đình không được phép ra ngoài cũng đi bộ đến sông cùng với đoàn tùy tùng của mình để tắm.
Tasmā taṃ divasaṃ sāmāvatīpi pañcahi itthisatehi parivāritā rājaṅgaṇeneva nhāyituṃ agamāsi.
Therefore, on that day, Sāmāvatī, surrounded by five hundred women, went to bathe directly through the royal courtyard.
Vì vậy, vào ngày hôm đó, Sāmāvatī, được năm trăm phụ nữ vây quanh, cũng đi qua sân hoàng gia để tắm.
Uteno sīhapañjare ṭhito taṃ disvā ‘‘kassimā nāṭakitthiyo’’ti pucchi.
Udena, standing at the lion-window, saw her and asked, "Whose dancing girls are these?"
Vua Udena đang đứng ở cửa sổ sư tử, nhìn thấy cô và hỏi: "Những nữ diễn viên này là của ai vậy?"
‘‘Na kassaci nāṭakitthiyo, devā’’ti.
"They are not anyone's dancing girls, Your Majesty."
"Thưa bệ hạ, họ không phải là nữ diễn viên của ai cả."
‘‘Atha kassa dhītaro’’ti?
"Then whose daughters are they?"
"Vậy thì họ là con gái của ai?"
‘‘Ghosakaseṭṭhino dhītā deva, sāmāvatī nāmesā’’ti.
"She is the daughter of the setthi Ghosaka, Your Majesty; her name is Sāmāvatī."
"Thưa bệ hạ, đó là con gái của trưởng giả Ghosaka, tên là Sāmāvatī."
So disvāva uppannasineho seṭṭhino sāsanaṃ pāhesi – ‘‘dhītaraṃ kira me pesetū’’ti.
He, having seen her and immediately conceived affection, sent a message to the setthi, saying, "Let him send his daughter to me."
Vua vừa nhìn thấy đã nảy sinh tình yêu, liền gửi lời nhắn đến vị trưởng giả: "Hãy gửi con gái ngươi cho ta."
‘‘Na pesemi, devā’’ti.
"I will not send her, Your Majesty."
"Thưa bệ hạ, tôi không gửi được ạ."
‘‘Mā kira evaṃ karotu, pesetuyevā’’ti.
"Please do not do that, just send her."
"Xin đừng làm như vậy, hãy gửi đi!"
‘‘Mayaṃ gahapatikā nāma kumārikānaṃ pothetvā viheṭhetvā kaḍḍhanabhayena na dema, devā’’ti.
"We householders, great king, do not give our daughters out of fear that they will be beaten, tormented, and dragged away."
"Thưa bệ hạ, chúng tôi là các gia chủ, chúng tôi không thể cho con gái vì sợ bị đánh đập, hành hạ và kéo đi."
Rājā kujjhitvā gehaṃ lañchāpetvā seṭṭhiñca bhariyañca hatthe gahetvā bahi kārāpesi.
The king, enraged, had the house sealed and, taking the merchant and his wife by the hands, had them put outside.
Vua nổi giận, cho niêm phong nhà và bắt giữ vị trưởng giả cùng vợ, rồi đưa họ ra ngoài.
Sāmāvatī, nhāyitvā āgantvā gehaṃ pavisituṃ okāsaṃ alabhantī, ‘‘kiṃ etaṃ, tātā’’ti pucchi.
Sāmāvatī, having bathed and returned, found no opportunity to enter the house, and asked, "What is this, father?"
Sāmāvatī, sau khi tắm xong, trở về nhưng không thể vào nhà, liền hỏi: "Cha ơi, chuyện gì vậy ạ?"
‘‘Amma, rājā tava kāraṇā pahiṇi.
"Daughter, the king sent a message because of you.
"Con ơi, nhà vua đã gửi lời đến vì con.
Atha ‘na mayaṃ dassāmā’ti vutte gharaṃ lañchāpetvā amhe bahi kārāpesī’’ti.
Then, when we said, 'We will not give her,' he had the house sealed and us put outside."
Khi chúng ta nói 'chúng tôi không cho', ngài đã cho niêm phong nhà và đưa chúng ta ra ngoài."
‘‘Tāta, bhāriyaṃ vo kammaṃ kataṃ, raññā nāma pahite ‘na, demā’ti avatvā ‘sace me dhītaraṃ saparivāraṃ gaṇhatha, demā’ti vattabbaṃ bhaveyya, tātā’’ti.
"Father, you have done a grave deed. When the king sends a message, one should not say, 'We will not give her,' but rather, 'If you take my daughter with her retinue, we will give her,' father."
"Cha ơi, cha đã làm một việc nghiêm trọng rồi. Khi nhà vua gửi lời đến, cha không nên nói 'chúng tôi không cho', mà nên nói 'nếu bệ hạ lấy con gái của tôi cùng với đoàn tùy tùng của nó, thì chúng tôi sẽ cho', cha ạ."
‘‘Sādhu, amma, tava ruciyā sati evaṃ karissāmī’’ti rañño tathā sāsanaṃ pāhesi.
"Very well, daughter, if it is your wish, I will do so," he said, and sent that message to the king.
"Được thôi con, nếu con muốn, cha sẽ làm như vậy." Rồi ông gửi lời nhắn như vậy đến nhà vua.
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā taṃ saparivāraṃ ānetvā abhisiñcitvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi.
The king accepted, saying, "Very well," and having brought her with her retinue, he consecrated her and established her in the position of chief queen.
Vua chấp nhận lời đó, cho đưa cô cùng đoàn tùy tùng đến, làm lễ tấn phong và đặt cô vào vị trí hoàng hậu chính.
Sesā tassāyeva parivāritthiyo ahesuṃ.
The rest were her own attendant women.
Những phụ nữ còn lại trở thành thị tỳ của cô.
Ayaṃ sāmāvatiyā uppatti.
This is the origin of Sāmāvatī.
Đây là câu chuyện về sự ra đời của Sāmāvatī.
612
Utenassa pana aparāpi vāsuladattā nāma devī ahosi caṇḍapajjotassa dhītā.
Now, Utena also had another queen named Vāsuladattā, the daughter of Caṇḍapajjota.
Ngoài ra, vua Udena còn có một hoàng hậu khác tên là Vāsuladattā, con gái của vua Caṇḍapajjota.
Ujjeniyañhi caṇḍapajjoto nāma rājā ahosi.
Indeed, in Ujjenī there was a king named Caṇḍapajjota.
Vua Caṇḍapajjota là vị vua trị vì ở Ujjenī.
So ekadivasaṃ uyyānato āgacchanto attano sampattiṃ oloketvā, ‘‘atthi nu kho aññassapi kassaci evarūpā sampattī’’ti vatvā taṃ sutvā manussehi ‘‘kiṃ sampatti nāmesā, kosambiyaṃ utenassa rañño atimahatī sampatī’’ti vutte rājā āha – ‘‘tena hi gaṇhissāma na’’nti?
One day, returning from the park, he surveyed his own prosperity and said, "Does anyone else have such prosperity?" When his men heard this and replied, "What is this prosperity? The prosperity of King Utena in Kosambī is exceedingly great," the king said, "Then we will capture him, won't we?"
Một ngày nọ, khi trở về từ vườn thượng uyển, ông nhìn thấy sự giàu có của mình và tự hỏi: "Liệu có ai khác cũng có được sự giàu có như thế này không?" Khi nghe những người hầu nói: "Sự giàu có này là gì chứ? Sự giàu có của vua Udena ở Kosambī là vô cùng lớn lao!", nhà vua liền nói: "Vậy thì chúng ta hãy bắt ông ta!"
‘‘Na sakkā so gahetu’’nti.
"He cannot be captured."
"Không thể bắt được ông ta đâu ạ."
‘‘Kiñci katvā gaṇhissāmayevā’’ti?
"We will capture him by any means!"
"Chúng ta sẽ làm gì đó để bắt được ông ta!"
‘‘Na sakkā devā’’ti.
"It is not possible, great king."
"Không thể được đâu, thưa bệ hạ."
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?"
"Tại sao vậy?"
‘‘So hatthikantaṃ nāma sippaṃ jānāti, mantaṃ parivattetvā hatthikantavīṇaṃ vādento nāge palāpetipi gaṇhātipi.
"He knows the art called 'elephant-charming.' By reciting a mantra and playing the elephant-charming lute, he can make elephants flee or capture them.
"Ông ta biết một kỹ năng tên là 'điều khiển voi'. Ông ta niệm chú và chơi đàn hạc điều khiển voi, có thể khiến voi bỏ chạy hoặc bắt giữ chúng.
Hatthivāhanasampanno tena sadiso nāma natthī’’ti.
There is no one like him in terms of elephant-riding prowess."
Không ai sánh bằng ông ta về việc điều khiển voi."
‘‘Na sakkā mayā so gahetu’’nti.
"I cannot capture him?"
"Vậy thì ta không thể bắt được ông ta sao?"
‘‘Sace te, deva, ekantena ayaṃ nicchayo, tena hi dāruhatthiṃ kāretvā tassāsannaṭṭhānaṃ pesehi.
"If, great king, this is your firm resolve, then have a wooden elephant made and sent to a place near his territory.
"Thưa bệ hạ, nếu ngài kiên quyết muốn bắt ông ta, vậy thì hãy cho làm một con voi gỗ và gửi nó đến gần nơi ông ta ở.
So hatthivāhanaṃ vā assavāhanaṃ vā sutvā dūrampi gacchati.
He travels far, hearing about elephant-riding or horse-riding.
Ông ta, khi nghe tiếng voi hoặc ngựa, sẽ đi xa đến đâu cũng được."
Tattha naṃ āgataṃ gahetuṃ sakkā bhavissatī’’ti.
There, it will be possible to capture him when he arrives."
Ở đó, có thể bắt được ông ấy.”
613
Rājā ‘‘attheso upāyo’’ti dārumayaṃ yantahatthiṃ kārāpetvā bahi pilotikāhi veṭhetvā katacittakammaṃ katvā tassa vijite āsannaṭṭhāne ekasmiṃ saratīre vissajjāpesi.
The king, thinking, "This is a good stratagem," had a mechanical wooden elephant made, wrapped it outside with cloths, decorated it with paintings, and released it by the bank of a certain lake near Utena's domain.
Vua (Caṇḍapajjota) nói: “Đây là một kế sách!” rồi cho làm một con voi máy bằng gỗ, bên ngoài quấn vải cũ, vẽ tranh lên đó, rồi thả nó ở một bờ hồ gần vương quốc của vua Utena.
Hatthino antokucchiyaṃ saṭṭhi purisā aparāparaṃ caṅkamanti, hatthilaṇḍaṃ āharitvā tattha tattha chaḍḍesuṃ.
Sixty men walked back and forth inside the elephant's belly, bringing elephant dung and scattering it here and there.
Sáu mươi người đàn ông đi đi lại lại bên trong bụng voi, mang phân voi ra và rải khắp nơi.
Eko vanacarako hatthiṃ disvā, ‘‘amhākaṃ rañño anucchaviko’’ti cintetvā, gantvā rañño ārocesi – ‘‘deva, mayā sabbaseto kelāsakūṭapaṭibhāgo tumhākaññeva anucchaviko varavāraṇo diṭṭho’’ti.
A forest-dweller, seeing the elephant, thought, "This is suitable for our king," and went to the king, reporting, "Your Majesty, I have seen a magnificent elephant, pure white and resembling Mount Kelāsa, truly fit only for Your Majesty."
Một người sống trong rừng thấy con voi, nghĩ: “Con voi này phù hợp với vua của chúng ta,” rồi đi đến báo cho vua Utena: “Đại vương, tôi đã thấy một con voi tốt nhất, toàn thân trắng như đỉnh núi Kailāsa, rất phù hợp với bệ hạ.”
Uteno tameva maggadesakaṃ katvā hatthiṃ abhiruyha saparivāro nikkhami.
So Utena, taking that very forest-dweller as a guide, mounted an elephant and set forth with his retinue.
Vua Utena lấy người đi rừng đó làm người dẫn đường, cưỡi voi cùng tùy tùng khởi hành.
Tassa āgamanaṃ ñatvā carapurisā gantvā caṇḍapajjotassa ārocesuṃ.
Upon learning of his arrival, the spies went and informed Caṇḍapajjota.
Biết được sự đến của ông ấy, những người do thám đi báo cho vua Caṇḍapajjota.
So āgantvā majjhe tucchaṃ katvā ubhosu passesu balakāyaṃ payojesi.
He came, made the middle empty, and deployed his army on both sides.
Vua Caṇḍapajjota đến, để trống ở giữa, bố trí quân đội hai bên.
Uteno tassāgamanaṃ ajānanto hatthiṃ anubandhi.
Utena, not knowing of his arrival, pursued the elephant.
Vua Utena không biết sự đến của ông ấy, liền đuổi theo con voi.
Anto ṭhitamanussā vegena palāpesuṃ.
The people inside fled swiftly.
Những người ở trong (voi) vội vàng cho voi chạy.
Kaṭṭhahatthī rañño mantaṃ parivattetvā vīṇaṃ vādentassa tantisaddaṃ asuṇanto viya palāyatiyeva.
The wooden elephant, as if not hearing the sound of the strings from the one playing the lute after the king chanted the mantra, kept fleeing.
Con voi gỗ cứ chạy như thể không nghe thấy tiếng dây đàn của nhà vua đang niệm thần chú và chơi đàn vīṇā.
Rājā hatthināgaṃ pāpuṇituṃ asakkonto assaṃ āruyha anubandhi.
The king, unable to reach the elephant, mounted a horse and pursued it.
Vua Utena không thể bắt kịp con voi chúa, liền cưỡi ngựa đuổi theo.
Tasmiṃ vegena anubandhante balakāyo ohīyi.
As he pursued swiftly, his army lagged behind.
Trong khi ông ấy đuổi theo với tốc độ nhanh, quân đội bị bỏ lại phía sau.
Rājā ekakova ahosi.
The king was alone.
Vua Utena chỉ còn một mình.
Atha naṃ ubhosu passesu payuttā caṇḍapajjotassa purisā gaṇhitvā attano rañño adaṃsu.
Then Caṇḍapajjota's men, who had been stationed on both sides, captured him and handed him over to their king.
Lúc đó, những người của vua Caṇḍapajjota đã bố trí hai bên bắt lấy ông ấy và giao cho vua của họ.
Athassa balakāyo amittavasaṃ gatabhāvaṃ ñatvā bahinagareva khandhāvāraṃ nivesetvā acchi.
Then, knowing that his army had fallen into the enemy's hands, he encamped just outside the city and remained there.
Sau đó, quân đội của ông ấy biết được ông ấy đã rơi vào tay kẻ thù, liền đóng quân bên ngoài thành phố và ở lại đó.
614
Caṇḍapajjotopi utenaṃ jīvaggāhameva gāhāpetvā ekasmiṃ coragehe pakkhipitvā dvāraṃ pidahāpetvā tayo divase jayapānaṃ pivi.
Caṇḍapajjota also had Utena captured alive, confined him in a prison for thieves, and had the door shut, then drank a victory celebration for three days.
Vua Caṇḍapajjota cũng cho bắt sống vua Utena, nhốt vào một nhà tù dành cho kẻ trộm, đóng cửa lại, và uống rượu mừng chiến thắng trong ba ngày.
Uteno tatiyadivase ārakkhake pucchi – ‘‘kahaṃ vo, tāta, rājā’’ti?
On the third day, Utena asked the guards, "Where is your king, my friends?"
Đến ngày thứ ba, vua Utena hỏi những người canh gác: “Này các con, vua của các con ở đâu?”
‘‘‘Paccāmitto me gahito’ti jayapānaṃ pivatī’’ti.
"He is drinking a victory celebration, thinking, 'My enemy is captured.'"
Họ đáp: “Ông ấy đang uống rượu mừng chiến thắng vì ‘kẻ thù của ta đã bị bắt’.”
‘‘Kā nāmesā mātugāmassa viya tumhākaṃ rañño kiriyā, nanu paṭirājūnaṃ gahetvā vissajjetuṃ vā māretuṃ vā vaṭṭati, amhe dukkhaṃ nisīdāpetvā jayapānaṃ kira pivatī’’ti.
"What kind of act is this for your king, like that of a woman? Is it not proper to either release or kill rival kings after capturing them? He sits us in distress and drinks a victory celebration, so I hear!"
Vua Utena nói: “Hành động của vua các người giống như hành động của phụ nữ vậy, sao lại không thả hoặc giết các vị vua đối địch sau khi bắt được? Lại còn để chúng ta ngồi chịu khổ mà uống rượu mừng chiến thắng!”
Te gantvā tamatthaṃ rañño ārocesuṃ.
They went and reported that matter to the king.
Họ đi báo lại chuyện đó cho nhà vua.
So āgantvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ evaṃ vadasī’’ti pucchi.
He came and asked, "Is it true that you say such a thing?"
Vua Caṇḍapajjota đến hỏi: “Thật sự ngươi nói như vậy sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, great king."
“Vâng, đại vương.”
‘‘Sādhu taṃ vissajjessāmi, evarūpo kira te manto atthi, taṃ mayhaṃ dassasī’’ti.
"Very well, I shall release you. I hear you have such a mantra; will you give it to me?"
“Tốt, ta sẽ thả ngươi, nhưng nghe nói ngươi có một câu thần chú như vậy, hãy dạy nó cho ta.”
‘‘Sādhu dassāmi, gahaṇasamaye maṃ vanditvā taṃ gaṇhāhi.
"Very well, I will give it. When you learn it, bow to me and take it.
“Được thôi, tôi sẽ dạy. Khi học, hãy lạy tôi rồi học. Nhưng ngài có lạy tôi không?”
Kiṃ pana tvaṃ vandissasī’’ti?
But will you bow to me?"
Ngươi sẽ đảnh lễ ta sao?"
‘‘Kyāhaṃ taṃ vandissāmi, na vandissāmī’’ti?
"Why should I bow to you? I will not bow!"
“Sao ta phải lạy ngươi? Ta sẽ không lạy.”
‘‘Ahampi te na dassāmī’’ti.
"Then I will not give it to you either."
“Vậy thì tôi cũng sẽ không dạy cho ngài.”
‘‘Evaṃ sante rājāṇaṃ te karissāmī’’ti.
"If that is the case, I will impose a royal decree upon you!"
“Nếu vậy, ta sẽ dùng quyền lực vua chúa với ngươi.”
‘‘Karohi, sarīrassa me issaro, na pana cittassā’’ti.
"Do so. You are the master of my body, but not of my mind."
“Cứ làm đi, ngài là chủ thân xác tôi, nhưng không phải chủ tâm trí tôi.”
Rājā tassa sūragajjitaṃ sutvā, ‘‘kathaṃ nu kho imaṃ mantaṃ gaṇhissāmī’’ti cintetvā, ‘‘imaṃ mantaṃ aññaṃ jānāpetuṃ na sakkā, mama dhītaraṃ etassa santike uggaṇhāpetvā ahaṃ tassā santike gaṇhissāmī’’ti.
Hearing his brave roar, the king thought, "How can I obtain this mantra?" and then, "This mantra cannot be taught to anyone else. I will have my daughter learn it from him, and then I will learn it from her."
Vua Caṇḍapajjota nghe lời nói dũng mãnh của ông ấy, suy nghĩ: “Làm sao mình có thể học được câu thần chú này đây?” rồi nghĩ: “Không thể để người khác biết câu thần chú này. Mình sẽ cho con gái mình học từ ông ấy, rồi mình sẽ học từ con gái mình.”
Atha naṃ āha – ‘‘aññassa vanditvā gaṇhantassa dassasī’’ti.
Then he said to him, "Will you give it to one who bows and takes it?"
Sau đó, ông ấy hỏi vua Utena: “Ngươi sẽ dạy cho người khác lạy ngươi rồi học sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, great king."
“Vâng, đại vương.”
‘‘Tena hi amhākaṃ ghare ekā khujjā atthi tassā antosāṇiyaṃ vanditvā nisinnāya tvaṃ bahisāṇiyaṃ ṭhitova mantaṃ vācehī’’ti.
"In that case, we have a hunchback woman in our house. You, standing outside the curtain, should teach the mantra to her while she sits bowing inside the curtain."
“Vậy thì, trong nhà ta có một người phụ nữ lưng gù. Ngươi hãy đứng bên ngoài tấm màn, rồi dạy câu thần chú cho cô ấy khi cô ấy ngồi bên trong tấm màn và lạy ngươi.”
‘‘Sādhu, mahārāja, khujjā vā hotu pīṭhasappi vā, vandantiyā dassāmī’’ti.
"Very well, great king. Let her be a hunchback or a cripple, I will give it to one who bows."
“Được thôi, đại vương. Dù là người lưng gù hay người tàn tật, tôi sẽ dạy cho người nào lạy tôi.”
Tato rājā gantvā dhītaraṃ vāsuladattaṃ āha – ‘‘amma, eko saṅkhakuṭṭhī anagghamantaṃ jānāti, taṃ aññaṃ jānāpetuṃ na sakkā.
Then the king went and said to his daughter, Vāsuladattā, "Daughter, a man with a conch-leprosy knows an invaluable mantra. It cannot be taught to anyone else.
Sau đó, nhà vua đi đến nói với con gái mình là Vāsuladattā: “Này con, có một người bị bệnh phong hủi vỏ ốc biết một câu thần chú vô giá, không thể dạy cho người khác biết được.
Tvaṃ antosāṇiyaṃ nisīditvā taṃ vanditvā mantaṃ gaṇha, so bahisāṇiyaṃ ṭhatvā tuyhaṃ vācessati.
You sit inside the curtain, bow to him, and learn the mantra. He will stand outside the curtain and recite it to you.
Con hãy ngồi bên trong tấm màn, lạy ông ấy rồi học câu thần chú. Ông ấy sẽ đứng bên ngoài tấm màn và dạy cho con.
Tava santikā ahaṃ taṃ gaṇhissāmī’’ti.
I will learn it from you."
Cha sẽ học từ con.”
615
Evaṃ so tesaṃ aññamaññaṃ santhavakaraṇabhayena dhītaraṃ khujjaṃ, itaraṃ saṅkhakuṭṭhiṃ katvā kathesi.
Thus, fearing their mutual intimacy, he misrepresented his daughter as a hunchback and the other as a conch-leper.
Như vậy, để tránh việc họ kết giao với nhau, vua Caṇḍapajjota đã nói dối rằng con gái mình là người lưng gù và người kia là người bị bệnh phong hủi vỏ ốc.
So tassā antosāṇiyaṃ vanditvā nisinnāya bahi ṭhito mantaṃ vācesi.
So he stood outside and recited the mantra to her while she sat bowing inside the curtain.
Vua Utena đứng bên ngoài tấm màn, dạy câu thần chú cho cô ấy khi cô ấy ngồi bên trong tấm màn và lạy ông ấy.
Atha naṃ ekadivasaṃ punappunaṃ vuccamānampi mantapadaṃ vattuṃ asakkontiṃ ‘‘are khujje atibahaloṭṭhakapolaṃ te mukhaṃ, evaṃ nāma vadehī’’ti āha.
Then one day, as she was unable to repeat a mantra phrase despite being told it repeatedly, he said, "Hey, hunchback, your mouth has excessively thick lips and cheeks; speak it thus!"
Một ngày nọ, khi cô ấy không thể phát âm một từ thần chú dù đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ông ấy nói: “Này cô gù, miệng cô có môi và má quá dày, hãy phát âm như thế này!”
‘‘Sā kujjhitvā are duṭṭhasaṅkhakuṭṭhi kiṃ vadesi, kiṃ mādisā khujjā nāma hotī’’ti?
She became angry and retorted, "Hey, wretched conch-leper, what are you saying? How can one like me be a hunchback?"
Cô ấy tức giận nói: “Này tên phong hủi vỏ ốc đáng ghét, ngươi nói gì vậy? Sao một công chúa như ta lại là người lưng gù?”
Sāṇikaṇṇaṃ ukkhipitvā ‘‘kāsi tva’’nti vutte, ‘‘rañño dhītā vāsuladattā nāmāha’’nti āha.
Lifting the edge of the curtain, and being asked, "Who are you?" she replied, "I am Vāsuladattā, the king's daughter."
Khi cô ấy vén mép tấm màn lên và được hỏi: “Ngươi là ai?”, cô ấy đáp: “Tôi là Vāsuladattā, con gái của nhà vua.”
‘‘Pitā te taṃ mayhaṃ kathento ‘khujjā’ti kathesī’’ti.
"Your father, when speaking of you to me, referred to you as a 'hunchback'."
“Cha cô khi nói về cô với tôi đã nói ‘người lưng gù’.”
‘‘Mayhampi kathento taṃ saṅkhakuṭṭhiṃ katvā kathesī’’ti.
"And when he spoke of you to me, he referred to you as a 'conch-leper'."
“Khi nói về ông với tôi, cha tôi cũng nói ông là người bị bệnh phong hủi vỏ ốc.”
Te ubhopi ‘‘tena hi amhākaṃ santhavakaraṇabhayena kathitaṃ bhavissatī’’ti antosāṇiyaññeva santhavaṃ kariṃsu.
Both of them concluded, "Then he must have said that out of fear of our intimacy," and became intimate within the curtain itself.
Cả hai đều nghĩ: “Vậy thì, chắc là ông ấy nói dối vì sợ chúng ta kết giao với nhau,” và họ đã kết giao với nhau ngay bên trong tấm màn.
616
Tato paṭṭhāya mantaggahaṇaṃ vā sippaggahaṇaṃ vā natthi.
From that time onwards, there was no learning of mantras or arts.
Từ đó trở đi, không còn việc học thần chú hay học nghệ thuật nữa.
Rājāpi dhītaraṃ niccaṃ pucchati – ‘‘sippaṃ gaṇhasi, ammā’’ti?
The king also constantly asked his daughter, "Are you learning the art, my dear?"
Vua (Caṇḍapajjota) cũng thường xuyên hỏi con gái: “Này con, con có học nghệ thuật không?”
‘‘Gaṇhāmi, tātā’’ti.
"I am learning it, father."
“Con có học, thưa cha.”
Atha naṃ ekadivasaṃ uteno āha – ‘‘bhadde, sāmikena kattabbaṃ nāma neva mātāpitaro na bhātubhaginiyo kātuṃ sakkonti, sace mayhaṃ jīvitaṃ dassasi, pañca te itthisatāni parivāraṃ datvā aggamahesiṭṭhānaṃ dassāmī’’ti.
Then one day, Utena said to her, "My dear, neither parents nor siblings can perform the duties that a husband must perform. If you grant me my life, I will give you five hundred women as attendants and grant you the position of chief queen."
Một ngày nọ, vua Utena nói với cô ấy: “Này cô gái tốt, những việc mà người chồng phải làm thì cha mẹ hay anh chị em không thể làm được. Nếu cô cứu mạng tôi, tôi sẽ ban cho cô năm trăm người hầu và địa vị hoàng hậu.”
‘‘Sace imasmiṃ vacane patiṭṭhātuṃ sakkhissatha, dassāmi vo jīvita’’nti.
"If you can stand by this promise, I will grant you your life."
Cô ấy đáp: “Nếu ngài có thể giữ lời hứa này, tôi sẽ cứu mạng ngài.”
‘‘Sakkhissāmi, bhadde’’ti.
"I can, my dear."
“Tôi có thể làm được, này cô gái tốt,” ông ấy nói.
Sā ‘‘sādhu, sāmī’’ti pitu santikaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
She said, "Very well, my lord," went to her father, bowed, and stood aside.
Cô ấy nói: “Vâng, thưa ngài,” rồi đi đến chỗ cha, lạy cha và đứng sang một bên.
Atha naṃ so pucchi – ‘‘amma, niṭṭhitaṃ sippa’’nti?
Then he asked her, "Daughter, is the art complete?"
Lúc đó, ông ấy hỏi cô: “Này con, nghệ thuật đã xong chưa?”
‘‘Na tāva niṭṭhitaṃ, tāta, sippa’’nti.
"The art is not yet complete, father."
“Chưa xong, thưa cha.”
Atha naṃ so pucchi – ‘‘kiṃ, ammā’’ti?
Then he asked her, "What is it, daughter?"
Lúc đó, ông ấy hỏi cô: “Tại sao vậy, con?”
‘‘Amhākaṃ ekaṃ dvārañca ekaṃ vāhanañca laddhuṃ vaṭṭati, tātā’’ti.
"Father, it is fitting for us to obtain one gate and one vehicle."
“Thưa cha, chúng con cần có một cánh cửa và một phương tiện di chuyển.”
‘‘Idaṃ kiṃ, ammā’’ti?
"What is this, daughter?"
“Cái này để làm gì, con?”
‘‘Tāta, rattiṃ kira tārakasaññāya mantassa upacāratthāya ekaṃ osadhaṃ gahetabbaṃ atthi.
"Father, at night, it is said there is a certain medicine to be taken for the purpose of the mantra's practice, by the sign of the stars.
“Thưa cha, nghe nói vào ban đêm, để thực hành thần chú theo dấu hiệu của các vì sao, cần phải lấy một loại thuốc.
Tasmā amhākaṃ velāya vā avelāya vā nikkhamanakāle ekaṃ dvārañceva ekaṃ vāhanañca laddhuṃ vaṭṭatī’’ti.
Therefore, it is fitting for us to obtain one gate and one vehicle for our departure, whether at the proper time or not."
Vì vậy, chúng con cần có một cánh cửa và một phương tiện di chuyển để có thể ra vào đúng lúc hoặc không đúng lúc.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king consented, saying, "Very well."
Vua (Caṇḍapajjota) chấp thuận: “Được thôi.”
Te attano abhirucitaṃ ekaṃ dvāraṃ hatthagataṃ kariṃsu.
They secured one gate of their choice.
Họ đã có được một cánh cửa mà họ mong muốn.
Rañño pana pañca vāhanāni ahesuṃ.
The king had five vehicles:
Vua (Caṇḍapajjota) có năm phương tiện di chuyển:
Bhaddavatī nāma kareṇukā ekadivasaṃ paññāsa yojanāni gacchati, kāko nāma dāso saṭṭhi yojanāni gacchati, celakaṭṭhi ca muñcakesī cāti dve assā yojanasataṃ gacchanti, nāḷāgiri hatthī vīsati yojanasatanti.
The female elephant named Bhaddavatī could travel fifty leagues in a day; the slave named Kāka could travel sixty leagues; the two horses, Celakaṭṭhī and Muñcakesī, could travel one hundred leagues; and the elephant Nāḷāgiri could travel one hundred and twenty leagues.
Con voi cái tên Bhaddavatī đi được năm mươi dojana trong một ngày, người nô lệ tên Kāka đi được sáu mươi dojana, hai con ngựa Celakaṭṭhi và Muñcakesī đi được một trăm dojana, và con voi Nāḷāgiri đi được một trăm hai mươi dojana.
617
So kira rājā anuppanne buddhe ekassa issarassa upaṭṭhāko ahosi.
It is said that this king was once a servant of a certain lord before the Buddha appeared.
Nghe nói, vị vua đó (Caṇḍapajjota) trước khi Đức Phật xuất hiện, là người hầu của một vị quan.
Athekadivasaṃ issare bahinagaraṃ gantvā nhatvā āgacchante eko paccekabuddho nagaraṃ piṇḍāya pavisitvā sakalanagaravāsīnaṃ mārena āvaṭṭitattā ekaṃ bhikkhāmpi alabhitvā yathādhotena pattena nikkhami.
Then one day, as the lord was returning after bathing outside the city, a Paccekabuddha entered the city for alms, and because all the city-dwellers had been swayed by Māra, he received not even a spoonful of alms and departed with his bowl as clean as it was.
Một ngày nọ, khi vị quan đó đi ra ngoài thành phố tắm rửa rồi trở về, một vị Độc Giác Phật vào thành khất thực, nhưng vì tất cả cư dân thành phố đã bị Māra lừa dối, nên không nhận được một bát cơm nào, Ngài liền ra đi với bát rỗng.
Atha naṃ nagaradvāraṃ pattakāle māro aññātakavesena upasaṅkamitvā, ‘‘api, bhante, vo kiñci laddha’’nti pucchi.
Then, when he reached the city gate, Māra approached him in a disguised form and asked, "Venerable sir, have you received anything?"
Lúc đó, khi Ngài đến cổng thành, Māra hiện ra dưới hình dạng một người lạ, hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài có nhận được gì không?”
‘‘Kiṃ pana me tvaṃ alabhanākāraṃ karī’’ti?
"But why did you cause me not to receive anything?"
“Tại sao ngươi lại khiến ta không nhận được gì?”
‘‘Tena hi nivattitvā puna pavisatha, idāni na karissāmī’’ti.
"Then turn back and enter again; I will not do it now."
“Vậy thì, xin Ngài hãy quay lại và vào lại, bây giờ tôi sẽ không làm gì nữa.”
‘‘Nāhaṃ puna nivattissāmī’’ti.
"I will not turn back," he said.
“Ta sẽ không quay lại,” Ngài nói.
Sace hi nivatteyya, puna so sakalanagaravāsīnaṃ sarīre adhimuñcitvā pāṇiṃ paharitvā hasanakeḷiṃ kareyya.
For if he were to turn back, Māra would again possess the bodies of all the city-dwellers, clap his hands, and mock him.
Thật vậy, nếu Ngài quay lại, Māra sẽ nhập vào thân thể tất cả cư dân thành phố, vỗ tay và chế nhạo Ngài.
Paccekabuddhe anivattitvā gate māro tattheva antaradhāyi.
When the Paccekabuddha went without turning back, Māra vanished right there.
Khi vị Độc Giác Phật không quay lại mà đi, Māra liền biến mất ngay tại đó.
Atha so issaro yathādhoteneva pattena āgacchantaṃ paccekabuddhaṃ disvā vanditvā, ‘‘api, bhante, kiñci laddha’’nti pucchi.
Then that official, seeing the Paccekabuddha returning with his bowl just as it had been washed, bowed to him and asked, "Has anything been obtained, Venerable Sir?"
Lúc đó, vị quan đó thấy vị Độc Giác Phật trở về với bát rỗng, liền lạy Ngài và hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài có nhận được gì không?”
‘‘Caritvā nikkhantamhāvuso’’ti.
"I have wandered and come out, friend," he replied.
“Này hiền hữu, chúng tôi đã đi khất thực rồi ra về,” Ngài nói.
So cintesi – ‘‘ayyo, mayā pucchitaṃ akathetvā aññaṃ vadati, na kiñci laddhaṃ bhavissatī’’ti.
The official thought, "The Venerable One speaks of something else without answering my question; he must not have obtained anything."
Ông ấy nghĩ: “Thưa Tôn giả, Ngài không trả lời điều con hỏi mà lại nói chuyện khác, chắc là Ngài chưa nhận được gì cả.”
Athassa pattaṃ olokento tucchaṃ disvā gehe bhattassa niṭṭhitāniṭṭhitabhāvaṃ ajānanatāya sūro hutvā pattaṃ gahetuṃ avisahanto ‘‘thokaṃ, bhante, adhivāsethā’’ti vatvā vegena gharaṃ gantvā ‘‘amhākaṃ bhattaṃ niṭṭhita’’nti pucchitvā, ‘‘niṭṭhita’’nti vutte taṃ upaṭṭhākaṃ āha – ‘‘tāta, añño tayā sampannavegataro nāma natthi, sīghena javena bhadantaṃ patvā ‘pattaṃ me, bhante, dethā’ti vatvā pattaṃ gahetvā vegena ehī’’ti.
Then, looking into his bowl and seeing it empty, and not knowing whether the meal at his house was ready or not, he boldly, yet hesitating to take the bowl, said, "Venerable Sir, please wait a little," and quickly went home. After asking, "Is our meal ready?" and being told, "It is ready," he told his attendant, "My boy, there is no one swifter than you. Go quickly to the Venerable One, say 'Venerable Sir, please give me the bowl,' take the bowl, and return quickly."
Khi nhìn thấy bát của Tôn giả trống rỗng, vì không biết bữa ăn ở nhà đã xong hay chưa, ông ta trở nên dũng cảm, không dám tự mình lấy bát, bèn nói: “Bạch Tôn giả, xin Ngài hãy chờ một chút!” Rồi ông ta vội vàng về nhà hỏi: “Bữa ăn của chúng ta đã xong chưa?” Khi được trả lời “Đã xong rồi,” ông ta nói với người hầu: “Này con, không ai nhanh nhẹn bằng con đâu, hãy nhanh chóng đến chỗ Tôn giả, thưa ‘Bạch Tôn giả, xin Ngài cho con cái bát,’ rồi lấy bát và nhanh chóng quay về đây!”
So ekavacaneneva pakkhanditvā pattaṃ gahetvā āhari.
With just that one word, the attendant rushed forth, took the bowl, and brought it back.
Người hầu đó chỉ nghe một lời liền chạy đi, lấy bát và mang về.
Issaropi attano bhojanassa pattaṃ pūretvā ‘‘imaṃ sīghaṃ gantvā ayyassa sampādehi, ahaṃ te ito pattiṃ dammī’’ti āha.
The official also filled his own meal bowl and said, "Go quickly and deliver this to the Venerable One. I will give you a share of the merit from this."
Vị quan cũng đổ đầy bát cơm của mình và nói: “Hãy nhanh chóng mang cái này đến dâng cho Tôn giả, ta sẽ chia phần công đức này cho con.”
618
Sopi taṃ gahetvā javena gantvā paccekabuddhassa pattaṃ datvā pañcapatiṭṭhitena vanditvā, ‘‘bhante, ‘velā upakaṭṭhā’ti ahaṃ atisīghena javena āgato ca gato ca, etassa me javassa phalena yojanānaṃ paṇṇāsasaṭṭhisatavīsasatagamanasamatthāni pañca vāhanāni nibbattantu, āgacchantassa ca me gacchantassa ca sarīraṃ sūriyatejena tatthaṃ, tassa me phalena nibbattanibbattaṭṭhāne āṇā sūriyatejasadisā hotu, imasmiṃ me piṇḍapāte sāminā patti dinnā, tassā me nissandena tumhehi diṭṭhadhammassa bhāgī homī’’ti āha.
That attendant, taking the bowl, went swiftly and, having offered it to the Paccekabuddha and prostrated with the five-point prostration, said, ‘‘Venerable Sir, knowing that ‘the time for almsfood is near,’ I came and went with great speed. By the fruit of this swiftness of mine, may five kinds of conveyances arise that are capable of traveling fifty, sixty, one hundred, or one hundred and twenty leagues. My body became hot from the sun’s heat as I came and went; by the fruit of that deed, may my authority in every existence be like the sun’s radiance. In this almsfood, the master gave me a share of merit; by the consequence of that, may I be a partaker of the Dhamma you have seen.’’
Người hầu đó nhận lấy, nhanh chóng đi đến, dâng bát cho vị Độc Giác Phật, rồi đảnh lễ Ngài bằng năm điểm chạm đất và thưa: “Bạch Tôn giả, con đã đi và về rất nhanh vì biết ‘giờ đã gần rồi.’ Do quả của sự nhanh nhẹn này của con, xin cho con được năm phương tiện đi lại có khả năng đi năm mươi, sáu mươi, một trăm, hai trăm dojana. Và khi con đi và về, thân con đã bị nóng bức bởi sức nóng của mặt trời. Do quả của việc đó, xin cho quyền lực của con ở mỗi nơi con tái sinh đều giống như sức nóng của mặt trời. Chủ của con đã chia phần công đức từ bữa ăn khất thực này cho con. Do sự tiếp nối của công đức đó, xin cho con được chia sẻ Pháp mà Ngài đã chứng ngộ.”
Paccekabuddho ‘‘evaṃ hotū’’ti vatvā –
The Paccekabuddha said, ‘‘So be it,’’ and then –
Đức Độc Giác Phật nói: “Nguyện cho điều đó thành tựu!” rồi:
619
‘‘Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ, sabbameva samijjhatu;
‘‘May all that you wish, all that you aspire for,
“Nguyện vọng và điều mong ước của con, tất cả đều được thành tựu;
620
Sabbe pūrentu saṅkappā, cando pannaraso yathā.(dī. ni. aṭṭha. 2.95 pubbūpanissayasampattikathā; a. ni. aṭṭha. 1.1. 192);
Be fully accomplished, just as the moon on the fifteenth day.
Nguyện cho mọi ý định đều viên mãn, như trăng rằm mười lăm.”
621
‘‘Icchitaṃ patthitaṃ tuyhaṃ, khippameva samijjhatu;
‘‘May all that you wish, all that you aspire for,
“Nguyện vọng và điều mong ước của con, sẽ nhanh chóng thành tựu;
622
Sabbe pūrentu saṅkappā, maṇijotiraso yathā’’ti–
Be swiftly accomplished, just as a wish-fulfilling gem.’’
Nguyện cho mọi ý định đều viên mãn, như ngọc báu Joti Rasa.”
623
Anumodanaṃ akāsi.
He gave his anumodanā.
Ngài đã ban lời tùy hỷ.
Paccekabuddhānaṃ kira idhāva dve gāthā anumodanagāthā nāma honti.
It is said that for Paccekabuddhas, these two verses are indeed the verses of anumodanā.
Được biết, hai bài kệ này là những bài kệ tùy hỷ của các vị Độc Giác Phật ở đây.
Tattha jotirasoti sabbakāmadadaṃ maṇiratanaṃ vuccati.
Here, jotiraso refers to a wish-fulfilling gem.
Trong đó, jotiraso có nghĩa là viên ngọc báu ban mọi điều ước.
Idaṃ tassa pubbacaritaṃ.
This was his past deed.
Đây là hành vi trong quá khứ của ông ta.
So etarahi caṇḍapajjoto ahosi.
He was now King Caṇḍapajjota.
Lúc bấy giờ, ông ta là Caṇḍapajjota.
Tassa ca kammassa nissandena imāni pañca vāhanāni nibbattiṃsu.
And by the consequence of that kamma, these five conveyances arose.
Do quả báo của nghiệp đó, năm phương tiện đi lại này đã phát sinh cho ông.
Athekadivasaṃ rājā uyyānakīḷāya nikkhami.
Then one day, the king went out for a pleasure trip in the garden.
Rồi một ngày nọ, nhà vua đi chơi vườn.
Uteno ‘‘ajja palāyitabba’’nti mahantāmahante cammapasibbake hiraññasuvaṇṇassa pūretvā kareṇukāpiṭṭhe ṭhapetvā vāsuladattaṃ ādāya palāyi.
Utena thought, ‘‘Today I must flee,’’ and filling large and small leather bags with silver and gold, he placed them on the back of a female elephant and fled, taking Vāsuladattā with him.
Utena nghĩ: “Hôm nay phải trốn thoát,” bèn chất đầy vàng bạc vào các túi da lớn nhỏ, đặt lên lưng voi cái, rồi mang theo Vāsuladattā mà chạy trốn.
Antepurapālakā palāyantaṃ taṃ disvā gantvā rañño ārocesuṃ.
The palace guards, seeing him flee, went and reported it to the king.
Các lính gác nội cung thấy ông ta chạy trốn liền đi báo cho nhà vua.
Rājā ‘‘sīghaṃ gacchathā’’ti balaṃ pahiṇi.
The king dispatched his army, saying, ‘‘Go quickly!’’
Nhà vua phái quân lính đi, nói: “Hãy đi nhanh lên!”
Uteno balassa pakkhandabhāvaṃ ñatvā kahāpaṇapasibbakaṃ mocetvā pātesi, manussā kahāpaṇe uccinitvā puna pakkhandiṃsu.
Utena, knowing that the army was pursuing him, untied a bag of kahāpaṇas and dropped it. The men collected the kahāpaṇas and then resumed their pursuit.
Utena biết quân lính đang đuổi theo, bèn tháo túi tiền xu ra và ném xuống; mọi người nhặt tiền xu rồi lại tiếp tục đuổi theo.
Itaro suvaṇṇapasibbakaṃ mocetvā pātetvā nesaṃ suvaṇṇalobhena papañcentānaññeva bahi nivuṭṭhaṃ attano khandhāvāraṃ pāpuṇi.
The other (Utena) untied a bag of gold and dropped it, and while they were delayed by their greed for gold, he reached his own camp stationed outside the city.
Ông ta lại tháo túi vàng ra và ném xuống, và trong khi họ còn đang mãi mê vì lòng tham vàng, ông ta đã đến được doanh trại của mình đang đóng bên ngoài thành phố.
Atha naṃ āgacchantaṃ disvāva attano balakāyo parivāretvā nagaraṃ pavesesi.
Then, seeing him return, his army surrounded him and led him into the city.
Khi thấy ông ta trở về, quân đội của ông ta liền vây quanh và đưa ông ta vào thành.
So patvāva vāsuladattaṃ abhisiñcitvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesīti.
Upon arrival, he immediately consecrated Vāsuladattā and appointed her as his chief queen.
Vừa đến nơi, ông ta liền làm lễ quán đảnh cho Vāsuladattā và phong bà làm hoàng hậu.
Ayaṃ vāsuladattāya uppatti.
This is the origin of Vāsuladattā.
Đây là câu chuyện về Vāsuladattā.
624
Aparā pana māgaṇḍiyā nāma rañño santikā aggamahesiṭṭhānaṃ labhi.
Another queen, Māgaṇḍiyā by name, obtained the position of chief queen from the king.
Còn một người khác tên là Māgaṇḍiyā đã nhận được vị trí hoàng hậu từ nhà vua.
Sā kira kururaṭṭhe māgaṇḍiyabrāhmaṇassa dhītā.
She was the daughter of the brahmin Māgaṇḍiya in the Kuru country.
Được biết, bà là con gái của vị Bà-la-môn Māgaṇḍiya ở xứ Kuru.
Mātāpissā māgaṇḍiyāyeva nāmaṃ.
Her mother was also named Māgaṇḍiyā.
Mẹ của bà cũng tên là Māgaṇḍiyā.
Cūḷapitāpissā māgaṇḍiyova, sā abhirūpā ahosi devaccharapaṭibhāgā.
Her paternal uncle was also Māgaṇḍiya, and she was beautiful, like a celestial nymph.
Chú của bà cũng là Māgaṇḍiya, bà rất xinh đẹp, giống như một vị thần nữ.
Pitā panassā anucchavikaṃ sāmikaṃ alabhanto mahantehi mahantehi kulehi yācitopi ‘‘na mayhaṃ dhītu tumhe anucchavikā’’ti tajjetvā uyyojesi.
Her father, unable to find a suitable husband for her, even when great families sought her hand, would scold them, saying, ‘‘You are not suitable for my daughter,’’ and send them away.
Cha của bà, vì không tìm được người chồng xứng đáng cho con gái mình, dù được các gia đình quyền quý cầu hôn, nhưng ông ta đều mắng mỏ và từ chối, nói: “Các ông không xứng đáng với con gái của ta.”
Athekadivasaṃ satthā paccūsasamaye lokaṃ volokento māgaṇḍiyabrāhmaṇassa sapajāpatikassa anāgāmiphalūpanissayaṃ disvā attano pattacīvaramādāya tassa bahinigame aggiparicaraṇaṭṭhānaṃ agamāsi.
Then one day, the Teacher, surveying the world at dawn, saw the strong supporting condition for the fruit of non-returning (anāgāmi-phala) in the brahmin Māgaṇḍiya and his wife. He took his bowl and robe and went to the place of fire-worship outside their village.
Rồi một ngày nọ, vào lúc bình minh, Đức Thế Tôn quán sát thế gian, thấy được nhân duyên chứng đắc quả Bất Hoàn của vị Bà-la-môn Māgaṇḍiya cùng vợ, bèn mang y bát của mình đến nơi thờ lửa bên ngoài làng của ông ta.
So tathāgatassa rūpasobhaggappattaṃ attabhāvaṃ oloketvā, ‘‘imasmiṃ loke iminā purisena sadiso añño puriso nāma natthi, ayaṃ mayhaṃ dhītu anucchaviko, imassa posāpanatthāya dhītaraṃ dassāmī’’ti cintetvā, ‘‘samaṇa, ekā me dhītā atthi, ahaṃ ettakaṃ kālaṃ tassā anucchavikaṃ purisaṃ na passāmi, tumhe tassā anucchavikā, sā ca tumhākaññeva anucchavikā.
The brahmin, observing the Tathāgata’s body, which had attained the splendor of form, thought, ‘‘There is no other man in this world like this man. He is suitable for my daughter, and she is also suitable for him.
Vị Bà-la-môn nhìn thấy thân tướng của Đức Như Lai vô cùng xinh đẹp, bèn nghĩ: “Trên thế gian này không có người đàn ông nào sánh bằng người này. Người này xứng đáng với con gái của ta. Ta sẽ gả con gái cho người này để người này nuôi dưỡng.” Rồi ông ta nói: “Này Sa-môn, tôi có một cô con gái. Bấy lâu nay tôi chưa tìm được người đàn ông nào xứng đáng với cô ấy. Ngài xứng đáng với cô ấy, và cô ấy cũng xứng đáng với Ngài.
Tumhākañhi pādaparicārikā, tassā ca bhattā laddhuṃ vaṭṭati, taṃ vo ahaṃ dassāmi, yāva mamāgamanā idheva tiṭṭhathā’’ti āha.
Indeed, she is fit to be a handmaiden at your feet, and it is proper for her to have a husband. I will give her to you. Please wait here until I return.’’
Cô ấy xứng đáng làm người hầu hạ chân Ngài, và cũng xứng đáng có Ngài làm chồng. Tôi sẽ gả cô ấy cho Ngài. Xin Ngài hãy ở lại đây cho đến khi tôi trở về.”
Satthā kiñci avatvā tuṇhī ahosi.
The Teacher remained silent without saying anything.
Đức Thế Tôn không nói gì, chỉ im lặng.
Brāhmaṇo vegena gharaṃ gantvā, ‘‘bhoti, bhoti dhītu me anucchaviko puriso diṭṭho, sīghaṃ sīghaṃ naṃ alaṅkarohī’’ti taṃ alaṅkārāpetvā saddhiṃ brāhmaṇiyā ādāya satthu santikaṃ pāyāsi.
The brahmin quickly went home and said, ‘‘My dear, my dear! I have found a suitable man for my daughter. Quickly, quickly adorn her!’’ Having had her adorned, he took her and his brahmin wife and set off towards the Teacher.
Vị Bà-la-môn vội vàng về nhà, nói: “Này vợ, này vợ, ta đã tìm được người đàn ông xứng đáng với con gái ta rồi. Hãy nhanh chóng trang điểm cho con bé!” Ông ta sai trang điểm cho con gái, rồi cùng với vợ dẫn con gái đến chỗ Đức Thế Tôn.
Sakalanagaraṃ saṅkhubhi.
The entire city was stirred.
Cả thành phố xôn xao.
Ayaṃ ‘‘ettakaṃ kālaṃ mayhaṃ dhītu anucchaviko natthī’’ti kassaci adatvā ‘‘ajja me dhītu anucchaviko diṭṭho’’ti kira vadeti, ‘‘kīdiso nu kho so puriso, passissāma na’’nti mahājano teneva saddhiṃ nikkhami.
This brahmin, having not given his daughter to anyone for so long, saying, "There is no suitable man for my daughter," now says, "Today I have seen a suitable man for my daughter." "What kind of man is he? Let's go see him!" So, the great crowd went out with that brahmin.
Người ta nói: “Bấy lâu nay, ông ta không gả con gái cho ai vì nói rằng không có ai xứng đáng với con gái ông ta, vậy mà hôm nay ông ta lại nói đã tìm được người xứng đáng với con gái mình. Người đàn ông đó trông như thế nào nhỉ? Chúng ta hãy cùng đi xem!” Thế là đại chúng cùng đi với ông ta.
625
Tasmiṃ dhītaraṃ gahetvā āgacchante satthā tena vuttaṭṭhāne aṭṭhatvā tattha padacetiyaṃ dassetvā gantvā aññasmiṃ ṭhāne aṭṭhāsi.
As the brahmin was coming, bringing his daughter, the Teacher, without staying at the place the brahmin had mentioned, displayed a footprint shrine there, and then went and stood in another place.
Khi vị Bà-la-môn dẫn con gái đến, Đức Thế Tôn không đứng ở chỗ ông ta đã nói, mà chỉ cho thấy dấu chân của mình ở đó, rồi đi đến một chỗ khác mà đứng.
Buddhānañhi padacetiyaṃ adhiṭṭhahitvā akkantaṭṭhāneyeva paññāyati, na aññattha.
Indeed, the footprint shrine of the Buddhas appears only at the place where they have stepped, having made an aspiration, and not elsewhere.
Thật vậy, dấu chân của chư Phật chỉ hiện rõ ở nơi mà các Ngài đã phát nguyện và bước đến, không ở nơi nào khác.
Yesañcatthāya adhiṭṭhitaṃ hoti, teyeva naṃ passanti.
And only those for whose benefit it was aspired can see it.
Và chỉ những người mà vì lợi ích của họ mà dấu chân được phát nguyện mới thấy được nó.
Tesaṃ pana adassanakaraṇatthaṃ hatthiādayo vā akkamantu, mahāmegho vā pavassatu, verambhavātā vā paharantu, na taṃ koci makkhetuṃ sakkoti.
However, no one can obliterate it, whether elephants or other creatures step on it, or a great rain falls, or tempestuous winds blow, so that those people cannot see it.
Để làm cho họ không thấy được, dù voi và các loài khác có giẫm lên, hay mưa lớn có đổ xuống, hay gió bão có thổi mạnh, cũng không ai có thể xóa nhòa dấu chân đó được.
Atha brāhmaṇī brāhmaṇaṃ āha – ‘‘kuhiṃ so puriso’’ti.
Then the brahmin's wife said to the brahmin, "Where is that man?"
Rồi vị Bà-la-môn nữ hỏi vị Bà-la-môn: “Người đàn ông đó ở đâu?”
‘‘‘Imasmiṃ ṭhāne tiṭṭhāhī’ti naṃ avacaṃ, kuhiṃ nu kho so gato’’ti ito cito olokento padacetiyaṃ disvā ‘‘ayamassa padavalañjo’’ti āha.
"I told him, 'Stay in this place,' but where has he gone?" Looking here and there, he saw the footprint shrine and said, "This is his footprint."
“Ta đã bảo ông ấy ‘Hãy đứng ở chỗ này,’ vậy mà ông ấy đã đi đâu rồi?” Ông ta nhìn quanh đây đó, thấy dấu chân liền nói: “Đây là dấu chân của ông ấy.”
Brāhmaṇī salakkhaṇamantānaṃ tiṇṇaṃ vedānaṃ paguṇatāya lakkhaṇamante parivattetvā padalakkhaṇaṃ upadhāretvā, ‘‘nayidaṃ, brāhmaṇa, pañcakāmaguṇasevino pada’’nti vatvā imaṃ gāthamāha –
The brahmin's wife, being well-versed in the three Vedas with their characteristic mantras, reflected on the characteristic mantras and examined the marks of the footprint. Then, saying, "Brahmin, this is not the footprint of one who indulges in the five sense pleasures," she recited this verse:
Vị Bà-la-môn nữ, vì thông thạo ba bộ Veda về các chú thuật tướng số, đã vận dụng các chú thuật tướng số, xem xét kỹ lưỡng các dấu chân, rồi nói: “Này Bà-la-môn, đây không phải là dấu chân của người hưởng thụ năm dục lạc,” và đọc bài kệ này:
626
‘‘Rattassa hi ukkuṭikaṃ padaṃ bhave,
"Indeed, the footstep of one impassioned would be bent;
“Dấu chân của người tham ái thường cong vênh,
627
Duṭṭhassa hoti sahasānupīḷitaṃ;
That of one malicious is pressed down forcefully;
Của người sân hận thì ấn mạnh một cách thô bạo;
628
Mūḷhassa hoti avakaḍḍhitaṃ padaṃ,
That of one deluded is dragged along;
Dấu chân của người si mê thì bị kéo lê,
629
Vivaṭṭacchadassa idamīdisaṃ pada’’nti.(a. ni. aṭṭha. 1.1.260-261; visuddhi. 1.45);
Such is the footstep of one whose coverings are removed."
Còn đây là dấu chân của người đã mở bỏ màn che (phiền não).”
630
Atha naṃ brāhmaṇo evamāha – ‘‘bhoti tvaṃ udakapātiyaṃ kumbhīlaṃ, gehamajjhe ca pana coraṃ viya mante passanasīlā, tuṇhī hohī’’ti.
Then the brahmin said to her, "Lady, you are accustomed to seeing crocodiles in a water pot and thieves in the middle of the house, and to looking at mantras. Be silent!"
Rồi vị Bà-la-môn nói với bà ta: “Này phu nhân, bà cứ như người nhìn thấy cá sấu trong chậu nước, và như kẻ trộm giữa nhà, bà cứ giỏi xem bói. Hãy im lặng đi!”
Brāhmaṇa, yaṃ icchasi, taṃ vadehi, nayidaṃ pañcakāmaguṇasevino padanti.
"Brahmin, say what you wish, but this is not the footprint of one who indulges in the five sense pleasures."
“Này Bà-la-môn, ông muốn nói gì thì cứ nói, đây không phải là dấu chân của người hưởng thụ năm dục lạc.”
Tato ito cito ca olokento satthāraṃ disvā, ‘‘ayaṃ so puriso’’ti vatvā brāhmaṇo gantvā, ‘‘samaṇa, dhītaraṃ me tava posāpanatthāya demī’’ti āha.
Then, looking here and there, he saw the Teacher and, saying, "This is that man," the brahmin went and said, "Ascetic, I give you my daughter to be maintained by you."
Rồi nhìn quanh đây đó, thấy Đức Thế Tôn, vị Bà-la-môn nói: “Đây chính là người đàn ông đó!” rồi đi đến thưa: “Này Sa-môn, tôi xin gả con gái tôi cho Ngài để Ngài nuôi dưỡng.”
Satthā ‘‘dhītarā te mayhaṃ attho atthi vā natthi vā’’ti avatvāva, ‘‘brāhmaṇa, ekaṃ te kāraṇaṃ kathemī’’ti vatvā, ‘‘kathehi samaṇā’’ti vutte mahābhinikkhamanato paṭṭhāya yāva ajapālanigrodhamūlā mārena anubaddhabhāvaṃ ajapālanigrodhamūle ca pana ‘‘atīto dāni me esa visaya’’nti tassa sokāturassa sokavūpasamanatthaṃ āgatāhi māradhītāhi kumārikavaṇṇādivasena payojitaṃ palobhanaṃ ācikkhitvā, ‘‘tadāpi mayhaṃ chando nāhosī’’ti vatvā –
The Teacher, without saying, "Do I have a need for your daughter or not?" said, "Brahmin, I will tell you one matter." When asked, "Tell me, Ascetic," he recounted how he had been pursued by Māra from the time of his Great Renunciation up to the foot of the Ajapāla Banyan tree. He also described the enticement employed by Māra's daughters, who had come to soothe Māra, who was overcome with sorrow at the foot of the Ajapāla Banyan tree, thinking, "This ascetic has now passed beyond my domain." He then said, "Even then I had no desire," and recited this verse:
Đức Bổn Sư, không nói rằng: “Ta có muốn con gái của ông hay không muốn?”, mà nói: “Này Bà-la-môn, ta sẽ kể cho ông nghe một chuyện.” Khi được hỏi: “Thưa Sa-môn, xin hãy kể!”, Ngài đã kể về việc Ma vương bám theo Ngài từ lúc xuất gia vĩ đại cho đến gốc cây Ajapāla nigrodha, và tại gốc cây Ajapāla nigrodha, để xoa dịu nỗi buồn của Ma vương đang đau khổ vì nghĩ rằng: “Phạm vi của ta đã bị vượt qua rồi”, các cô con gái của Ma vương đã dùng mọi cách quyến rũ với vẻ ngoài của các thiếu nữ, v.v., và nói: “Ngay cả khi đó, ta cũng không có ý muốn dục lạc nào cả” –
631
‘‘Disvāna taṇhaṃ aratiṃ ragañca,
"Having seen Taṇhā, Arati, and Ragā,
“Khi thấy Ái (Taṇhā), Bất mãn (Arati) và Tham dục (Rāga),
632
Nāhosi chando api methunasmiṃ;
I had no desire even for sexual intercourse;
Ta không có ý muốn nào đối với sự giao hợp;
633
Kimevidaṃ muttakarīsapuṇṇaṃ,
What is this, filled with urine and excrement?
Cái gì đây, đầy nước tiểu và phân,
634
Pādāpi naṃ samphusituṃ na icche’’ti.(a. ni. aṭṭha. 1.1.260-261; su. ni. 841) –
I would not even wish to touch it with my foot."
Ta thậm chí không muốn chạm vào bằng chân” –
635
Imaṃ gāthamāha.
He recited this verse.
Ngài đã nói bài kệ này.
Gāthāpariyosāne brāhmaṇo ca brāhmaṇī ca anāgāmiphale patiṭṭhahiṃsu.
At the end of the verse, both the brahmin and the brahmin's wife became established in the fruit of non-returning (Anāgāmi-phala).
Khi bài kệ kết thúc, cả Bà-la-môn và Bà-la-môn ni đều chứng đắc quả Anāgāmi.
Māgaṇḍiyāpi kho ‘‘sacassa mayā attho natthi, anatthikabhāvova vattabbo, ayaṃ pana maṃ muttakarīsapuṇṇaṃ karoti, pādāpi naṃ samphusituṃ na iccheti, hotu, attano jātikulapadesabhogayasavayasampattiṃ āgamma tathārūpaṃ bhattāraṃ labhitvā samaṇassa gotamassa kattabbayuttakaṃ jānissāmī’’ti satthari āghātaṃ bandhi.
Māgaṇḍiyā, however, thought, "If he has no need of me, he should simply say he has no need. But this ascetic calls me 'filled with urine and excrement' and says 'I would not even wish to touch her with my foot.' Well, let it be. Relying on my own birth, family, region, wealth, fame, and youth, I will find a suitable husband and then I will know what should be done to the ascetic Gotama." Thus, she harbored resentment towards the Teacher.
Còn Māgaṇḍiyā thì nghĩ: “Nếu Ngài không muốn ta, Ngài chỉ cần nói là không muốn thôi. Nhưng Ngài lại nói ta đầy nước tiểu và phân, thậm chí không muốn chạm vào bằng chân. Được thôi, ta sẽ dựa vào sự giàu có về dòng tộc, gia đình, địa vị, tài sản, danh tiếng và tuổi tác của mình để tìm một người chồng xứng đáng, rồi ta sẽ biết phải làm gì với Sa-môn Gotama này!” Và cô ta đã ôm mối hận thù với Đức Bổn Sư.
‘‘Kiṃ pana satthā tāya attani āghātuppattiṃ jānāti, no’’ti?
"Did the Teacher know about the arising of her resentment towards him, or not?"
“Vậy Đức Bổn Sư có biết về mối hận thù đó trong cô ta không?”
‘‘Jānātiyeva.
"He knew it."
“Ngài biết chứ.”
Jānanto kasmā gāthamāhā’’ti?
"Knowing it, why did he recite the verse?"
“Biết mà tại sao Ngài lại nói bài kệ đó?”
Itaresaṃ dvinnaṃ vasena.
For the sake of those two others.
“Vì lợi ích của hai người kia (Bà-la-môn và Bà-la-môn ni).”
Buddhā hi āghātaṃ agaṇetvā maggaphalādhigamārahānaṃ vasena dhammaṃ desentiyeva.
Indeed, the Buddhas, disregarding resentment, teach the Dhamma for the sake of those worthy of attaining the path and its fruits.
Đức Phật, không bận tâm đến mối hận thù, chỉ thuyết Pháp vì lợi ích của những người xứng đáng chứng đắc Đạo và Quả.
Mātāpitaro taṃ netvā cūḷamāgaṇḍiyaṃ kaniṭṭhaṃ paṭicchāpetvā pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Her parents took her, entrusted her to her younger uncle Cūḷamāgaṇḍiya, and then went forth and attained Arahantship.
Cha mẹ của Māgaṇḍiyā đã đưa cô ta đi, gả cho người em trai tên Cūḷamāgaṇḍiya, rồi xuất gia và chứng đắc A-la-hán.
Cūḷamāgaṇḍiyopi cintesi – ‘‘mama dhītā omakasattassa na anucchavikā, ekassa raññova anucchavikā’’ti.
Cūḷamāgaṇḍiya also thought, "My daughter is not suitable for an inferior man; she is only suitable for a king."
Cūḷamāgaṇḍiya cũng nghĩ: “Con gái ta không xứng với một người tầm thường, mà chỉ xứng với một vị vua thôi.”
Taṃ ādāya kosambiṃ gantvā sabbālaṅkārehi alaṅkaritvā, ‘‘imaṃ itthiratanaṃ devassa anucchavika’’nti utenassa rañño adāsi.
Taking her, he went to Kosambī, adorned her with all ornaments, and presented her to King Utena, saying, "This jewel of a woman is suitable for Your Majesty."
Ông ta dẫn cô đi đến Kosambī, trang điểm cho cô bằng mọi thứ trang sức, rồi dâng cô cho vua Utena và nói: “Bảo vật nữ nhân này xứng đáng với đức vua.”
So taṃ disvāva uppannabalavasineho abhisekaṃ katvā pañcasatamātugāmaparivāraṃ datvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi.
That King Udena, immediately upon seeing her, felt a strong affection, performed the anointing, gave her a retinue of five hundred women, and placed her in the position of chief queen.
Vua Utena vừa thấy cô đã nảy sinh tình yêu mãnh liệt, liền làm lễ đăng quang, ban cho cô năm trăm người hầu gái và đặt cô vào vị trí Hoàng hậu chính.
Ayaṃ māgaṇḍiyāya uppatti.
This is the origin of Queen Māgaṇḍiyā.
Đây là câu chuyện về sự xuất hiện của Māgaṇḍiyā.
636
Evamassa diyaḍḍhasahassanāṭakitthiparivārā tisso aggamahesiyo ahesuṃ.
Thus, that King Udena had three chief queens with a retinue of fifteen hundred dancing women.
Như vậy, vua Utena có ba vị hoàng hậu chính, được vây quanh bởi một ngàn năm trăm vũ nữ.
Tasmiṃ kho pana samaye ghosakaseṭṭhi kukkuṭaseṭṭhi pāvārikaseṭṭhīti kosambiyaṃ tayo seṭṭhino honti.
At that time, there were three rich men in Kosambī: Ghosaka the rich man, Kukkuṭa the rich man, and Pāvārika the rich man.
Vào thời điểm đó, tại Kosambī có ba vị trưởng giả là Ghosaka, Kukkuṭa và Pāvārika.
Te upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya pañcasatatāpase himavantato āgantvā nagare bhikkhāya carante disvā pasīditvā nisīdāpetvā bhojetvā paṭiññaṃ gahetvā cattāro māse attano santike vasāpetvā puna vassāratte āgamanatthāya paṭijānāpetvā uyyojesuṃ.
When the rainy season retreat was approaching, they saw five hundred ascetics who had come from the Himavanta and were wandering for alms in the city; they were pleased, made them sit down, fed them, obtained a promise, kept them with them for four months, made them promise to return again in the rainy season, and sent them off.
Khi mùa an cư kiết hạ sắp đến, họ thấy năm trăm đạo sĩ từ dãy Hy Mã Lạp Sơn đến thành phố khất thực, liền hoan hỷ mời họ ngồi, cúng dường bữa ăn, rồi thỉnh cầu họ ở lại với mình trong bốn tháng, và sau đó hứa hẹn sẽ trở lại vào mùa mưa tiếp theo, rồi tiễn họ đi.
Tāpasāpi tato paṭṭhāya aṭṭha māse himavante vasitvā cattāro māse tesaṃ santike vasiṃsu.
From that time onwards, the ascetics also lived in the Himavanta for eight months and with those rich men for four months.
Các đạo sĩ cũng từ đó về sau, ở lại Hy Mã Lạp Sơn tám tháng và ở với ba vị trưởng giả kia bốn tháng.
Te aparabhāge himavantato āgacchantā araññāyatane ekaṃ mahānigrodhaṃ disvā tassa mūle nisīdiṃsu.
Later, as they were coming from the Himavanta, they saw a great banyan tree in a forest grove and sat down at its base.
Sau này, khi các đạo sĩ từ Hy Mã Lạp Sơn trở về, họ thấy một cây đa lớn trong khu rừng và ngồi dưới gốc cây đó.
Tesu jeṭṭhakatāpaso cintesi – ‘‘imasmiṃ rukkhe adhivatthā devatā oramattikā na bhavissati, mahesakkhenevettha devarājena bhavitabbaṃ, sādhu vata sacāyaṃ isigaṇassa pānīyaṃ dadeyyā’’ti.
Among them, the eldest ascetic thought: "The deity dwelling in this tree will not be of small power; it must be a Devarāja of great might. How good it would be if this Devarāja were to give drinking water to this assembly of ascetics!"
Trong số đó, vị đạo sĩ lớn tuổi nhất nghĩ: “Vị chư thiên ngự trên cây này chắc chắn không phải là một vị bình thường, mà phải là một vị thiên vương có uy quyền lớn. Thật tốt biết bao nếu vị ấy có thể ban nước uống cho đoàn đạo sĩ này.”
Sopi pānīyaṃ adāsi.
And that Devarāja gave drinking water.
Vị ấy liền ban nước uống.
Tāpaso nhānodakaṃ cintesi, tampi adāsi.
The ascetic thought of bathing water, and that too was given.
Vị đạo sĩ nghĩ đến nước tắm, vị ấy cũng ban nước tắm.
Tato bhojanaṃ cintesi, tampi adāsi.
Then he thought of food, and that too was given.
Sau đó, vị ấy nghĩ đến thức ăn, vị ấy cũng ban thức ăn.
Athassa etadahosi – ‘‘ayaṃ devarājā amhehi cintitaṃ cintitaṃ sabbaṃ deti, aho vata naṃ passeyyāmā’’ti.
Then it occurred to him: "This Devarāja gives everything we wish for. Oh, if only we could see him!"
Rồi vị ấy nghĩ: “Vị thiên vương này ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta nghĩ đến. Ôi, ước gì chúng ta có thể nhìn thấy vị ấy!”
So rukkhakkhandhaṃ padāletvā attānaṃ dassesi.
So he split open the tree trunk and showed himself.
Vị ấy liền tách thân cây ra và hiện thân.
Atha naṃ tāpasā, ‘‘devarāja, mahatī te sampatti, kiṃ nu kho katvā ayaṃ te laddhā’’ti pucchiṃsu.
Then the ascetics asked him: "Devarāja, your prosperity is great. What good deed did you perform to obtain this?"
Rồi các đạo sĩ hỏi vị ấy: “Này Thiên vương, tài sản của ngài thật lớn lao. Ngài đã làm gì để có được điều này?”
‘‘Mā pucchatha, ayyā’’ti.
"Do not ask, sirs," he said.
“Thưa các ngài, xin đừng hỏi.”
‘‘Ācikkha, devarājā’’ti.
"Tell us, Devarāja," they said.
“Xin hãy kể cho chúng tôi nghe, Thiên vương!”
So attanā katakammassa parittakattā lajjamāno kathetuṃ na visahi.
Being ashamed that his good deed was so small, he could not bring himself to tell it.
Vị ấy xấu hổ vì công đức mình đã làm quá ít ỏi nên không dám kể.
Tehi punappunaṃ nippīḷiyamāno pana ‘‘tena hi suṇāthā’’ti vatvā kathesi.
However, being pressed again and again by them, he said, "Then listen," and told his story.
Tuy nhiên, khi bị các đạo sĩ thúc giục nhiều lần, vị ấy nói: “Vậy thì xin hãy lắng nghe!” và kể lại.
637
So kireko duggatamanusso hutvā bhatiṃ pariyesanto anāthapiṇḍikassa santike bhatikammaṃ labhitvā taṃ nissāya jīvikaṃ kappesi.
He was once a poor man, seeking work for hire, and found employment with Anāthapiṇḍika, relying on that to make a living.
Vị ấy kể rằng mình là một người nghèo khó, đi tìm việc làm thuê, được Anāthapiṇḍika nhận vào làm và nhờ đó mà sống qua ngày.
Athekasmiṃ uposathadivase sampatte anāthapiṇḍiko vihārato āgantvā pucchi – ‘‘tassa bhatikassa ajjuposathadivasabhāvo kenaci kathito’’ti?
Then, when a Uposatha day arrived, Anāthapiṇḍika came from the monastery and asked, "Has anyone informed that hired worker about today being Uposatha day?"
Một ngày nọ, đến ngày Uposatha, Anāthapiṇḍika từ tu viện trở về và hỏi: “Có ai nói cho người làm thuê đó biết hôm nay là ngày Uposatha chưa?”
‘‘Na kathito, sāmī’’ti.
"No, master," they replied.
“Thưa chủ, chưa ai nói cả.”
‘‘Tena hissa sāyamāsaṃ pacathā’’ti.
"Then cook his evening meal," he said.
“Vậy thì hãy nấu bữa tối cho anh ta.”
Athassa patthodanaṃ paciṃsu.
So they cooked a measure of rice for him.
Thế là họ nấu một bát cơm cho anh ta.
So divasaṃ araññe kammaṃ katvā sāyaṃ āgantvā bhatte vaḍḍhetvā dinne ‘‘chātomhī’’ti sahasā abhuñjitvāva ‘‘aññesu divasesu imasmiṃ gehe ‘bhattaṃ detha, sūpaṃ detha, byañjanaṃ dethā’ti mahākolāhalaṃ ahosi, ajja te sabbe nissaddā nipajjiṃsu, mayhameva ekassāhāraṃ vaḍḍhayiṃsu, kiṃ nu kho eta’’nti cintetvā pucchi – ‘‘avasesā bhuñjiṃsu, na bhuñjiṃsū’’ti?
Having worked all day in the forest, he returned in the evening, and when the rice was served, he did not eat it hastily, though he was hungry, but thought: "On other days, there was a great clamor in this house, 'Give rice, give curry, give vegetables!' Today, they are all silent and lying down. They have served food only for me. What could be the reason for this?" And he asked, "Have the others eaten, or not?"
Anh ta làm việc cả ngày trong rừng, tối về, khi được dọn cơm ra, anh ta chưa vội ăn ngay dù rất đói, mà nghĩ: “Những ngày khác, trong nhà này ồn ào: ‘Cho cơm đi, cho canh đi, cho thức ăn đi!’, nhưng hôm nay tất cả đều im lặng nằm xuống, chỉ có mình ta được dọn thức ăn. Chuyện gì vậy nhỉ?” Rồi anh ta hỏi: “Những người khác đã ăn chưa, hay chưa ăn?”
‘‘Na bhuñjiṃsu, tātā’’ti.
"They have not eaten, dear one," they replied.
“Này con, họ chưa ăn.”
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?" he asked.
“Vì lý do gì?”
Imasmiṃ gehe uposathadivasesu sāyamāsaṃ na bhuñjanti, sabbeva uposathikā honti.
"In this house, on Uposatha days, no one eats the evening meal; everyone observes the Uposatha.
“Trong nhà này, vào ngày Uposatha, không ai ăn bữa tối cả, tất cả đều giữ Uposatha.
Antamaso thanapāyinopi dārake mukhaṃ vikkhālāpetvā catumadhuraṃ mukhe pakkhipāpetvā mahāseṭṭhi uposathike kāreti.
Even infants who suckle at the breast are made to rinse their mouths and have the four sweet things placed in their mouths, and the great rich man makes them observe the Uposatha.
Ngay cả những đứa trẻ còn bú sữa, Trưởng giả cũng cho súc miệng và đặt một ít tứ mật vào miệng để chúng giữ Uposatha.
Gandhatelappadīpe jālante khuddakamahallakadārakā sayanagatā dvattiṃsākāraṃ sajjhāyanti.
While the scented oil lamps are burning, the young and old children, having gone to bed, recite the thirty-two bodily parts.
Khi đèn dầu thơm được thắp sáng, những đứa trẻ lớn nhỏ nằm trên giường tụng niệm về ba mươi hai thể trược.
Tuyhaṃ pana uposathadivasabhāvaṃ kathetuṃ satiṃ na karimhā.
However, we forgot to tell you that it is Uposatha day.
Nhưng chúng ta đã quên không nói cho con biết hôm nay là ngày Uposatha.
Tasmā taveva bhattaṃ pakkaṃ, naṃ bhuñjassūti.
Therefore, only your food has been cooked; eat it."
Vì vậy, chỉ có cơm của con được nấu thôi, con hãy ăn đi.”
Sace idāni uposathikena bhavituṃ vaṭṭati, ahampi bhaveyyanti.
"If it is proper to observe the Uposatha now, I too would like to observe it."
“Nếu bây giờ có thể giữ Uposatha, con cũng muốn giữ.”
‘‘Idaṃ seṭṭhi jānātī’’ti.
"The rich man knows about this," they said.
“Chuyện này trưởng giả có biết không?”
‘‘Tena hi naṃ pucchathā’’ti.
"Then please ask him," he said.
“Vậy thì hãy hỏi ông ấy.”
Te gantvā seṭṭhiṃ pucchiṃsu.
They went and asked the rich man.
Họ đi hỏi trưởng giả.
So evamāha – ‘‘idāni pana abhuñjitvā mukhaṃ vikkhāletvā uposathaṅgāni adhiṭṭhahanto upaḍḍhaṃ uposathakammaṃ labhissatī’’ti.
He said: "If he now, without eating, rinses his mouth and undertakes the Uposatha precepts, he will obtain half the merit of the Uposatha observance."
Ông ấy nói: “Nếu bây giờ anh ta không ăn, súc miệng và giữ các giới Uposatha, anh ta sẽ nhận được một nửa công đức của việc giữ Uposatha.”
Itaro taṃ sutvā tathā akāsi.
The other, hearing that, did so.
Người làm thuê kia nghe vậy liền làm theo.
638
Tassa sakaladivasaṃ kammaṃ katvā chātassa sarīre vātā kuppiṃsu.
Having worked all day, and being hungry, his bodily humors became agitated.
Sau khi làm việc cả ngày, cơ thể anh ta đói lả, các luồng gió trong người nổi lên.
So yottena uraṃ bandhitvā yottakoṭiyaṃ gahetvā parivattati.
He tied his chest with a rope, held the end of the rope, and writhed in pain.
Anh ta lấy dây buộc quanh ngực, nắm lấy đầu dây và lăn qua lăn lại.
Seṭṭhi taṃ pavattiṃ sutvā ukkāhi dhāriyamānāhi catumadhuraṃ gāhāpetvā tassa santikaṃ āgantvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti pucchi.
The merchant, having heard that news, had the four sweet things brought with torches held aloft, and coming to him, asked, "What is it, my dear?"
Trưởng giả nghe tin đó, liền sai người mang tứ mật đến, với những ngọn đuốc được thắp sáng, rồi đến chỗ anh ta và hỏi: “Có chuyện gì vậy, con trai?”
‘‘Sāmi, vātā me kuppitā’’ti.
"Master, my winds are disturbed."
“Thưa chủ, các luồng gió trong người con đang nổi lên.”
‘‘Tena hi uṭṭhāya idaṃ bhesajjaṃ khādāhī’’ti.
"Then arise and eat this medicine."
“Vậy thì hãy đứng dậy và uống thuốc này đi.”
‘‘Tumhepi khādatha, sāmī’’ti.
"You also eat, master."
“Thưa chủ, xin ngài cũng uống đi ạ.”
‘‘Amhākaṃ aphāsukaṃ natthi, tvaṃ khādāhī’’ti.
"We are not unwell, you eat it."
“Chúng ta không bị bệnh gì cả, con hãy uống đi.”
‘‘Sāmi, ahaṃ uposathakammaṃ karonto sakalaṃ kātuṃ nāsakkhiṃ, upaḍḍhakammampi me vikalaṃ mā ahosī’’ti na icchi.
"Master, I could not complete the entire Uposatha observance; let not even half of my observance be incomplete," he said, and did not wish to eat.
“Thưa chủ, con đã cố gắng giữ Uposatha nhưng không thể hoàn thành trọn vẹn. Con không muốn ngay cả một nửa công đức của việc giữ Uposatha cũng bị mất đi.” Anh ta không muốn uống.
‘‘Mā evaṃ kari, tātā’’ti vuccamānopi anicchitvā aruṇe uṭṭhahante milātamālā viya kālaṃ katvā tasmiṃ nigrodharukkhe devatā hutvā nibbatti.
Even when told, "Do not do so, dear boy," he did not wish to eat, and when dawn broke, he passed away like a withered flower, becoming a deity in that banyan tree.
Dù được khuyên: “Này con, đừng làm vậy!”, anh ta vẫn không muốn uống, và khi bình minh ló dạng, anh ta qua đời như một vòng hoa héo tàn, rồi tái sinh thành một vị thiên nhân trên cây đa đó.
Tasmā imamatthaṃ kathetvā ‘‘so seṭṭhi buddhamāmako, dhammamāmako, saṅghamāmako, taṃ nissāya katassa upaḍḍhuposathakammassa nissandenesā sampatti mayā laddhā’’ti āha.
Therefore, having related this matter, he said, "That merchant was devoted to the Buddha, devoted to the Dhamma, devoted to the Saṅgha; by relying on him, I obtained this prosperity as a result of that half Uposatha observance."
Vì vậy, sau khi kể lại câu chuyện này, vị thiên nhân nói: “Vị trưởng giả kia là một Phật tử thuần thành, một Pháp tử thuần thành, một Tăng tử thuần thành. Nhờ công đức giữ một nửa Uposatha mà ta đã làm theo lời khuyên của ông ấy, ta đã đạt được sự giàu có này.”
639
‘‘Buddho’’ti vacanaṃ sutvāva pañcasatā tāpasā uṭṭhāya devatāya añjaliṃ paggayha ‘‘buddhoti vadesi, buddhoti vadesī’’ti pucchitvā, ‘‘buddhoti vadāmi, buddhoti vadāmī’’ti tikkhattuṃ paṭijānāpetvā ‘‘ghosopi kho eso dullabho lokasmi’’nti udānaṃ udānetvā ‘‘devate anekesu kappasatasahassesu asutapubbaṃ saddaṃ tayā suṇāpitamhā’’ti āhaṃsu.
As soon as they heard the word "Buddha," five hundred ascetics arose, raised their joined hands to the deity, and asked, "Do you say Buddha? Do you say Buddha?" Having made him affirm "I say Buddha, I say Buddha" three times, they exclaimed an udāna, saying, "Indeed, this sound is rare in the world!" and then said, "O deity, you have let us hear a sound never heard before in many hundreds of thousands of eons."
Vừa nghe thấy từ “Phật”, năm trăm đạo sĩ liền đứng dậy, chắp tay cung kính vị thiên nhân và hỏi: “Ngài nói là ‘Phật’ phải không? Ngài nói là ‘Phật’ phải không?” Sau khi được vị ấy xác nhận ba lần: “Tôi nói là ‘Phật’, tôi nói là ‘Phật’”, họ liền thốt lên lời cảm thán: “Thật khó tìm thấy một âm thanh như vậy trên thế gian này!” và nói: “Này thiên nhân, ngài đã cho chúng tôi nghe một âm thanh mà chúng tôi chưa từng nghe trong hàng trăm ngàn kiếp trước đây.”
Atha antevāsino ācariyaṃ etadavocuṃ – ‘‘tena hi satthu santikaṃ gacchāmā’’ti.
Then the disciples said to their teacher, "Then let us go to the Master."
Rồi các đệ tử đến thưa với vị đạo sư rằng: “Vậy thì chúng ta hãy đến với Thế Tôn.”
‘‘Tātā, tayo seṭṭhino amhākaṃ bahūpakārā, sve tesaṃ nivesane bhikkhaṃ gaṇhitvā tesampi ācikkhitvā gamissāma, adhivāsetha, tātā’’ti.
"Dear boys, the three merchants have been very helpful to us. Tomorrow, we will receive alms at their houses, inform them, and then go. Please bear with us, dear boys."
“Này các con, ba vị trưởng giả là những người có nhiều ân đức với chúng ta. Ngày mai, chúng ta hãy thọ thực tại nhà của họ, sau đó sẽ báo cho họ biết rồi đi. Này các con, hãy hoan hỷ chấp thuận.”
Te adhivāsayiṃsu.
They assented.
Các đệ tử đã hoan hỷ chấp thuận.
Punadivase seṭṭhino yāgubhattaṃ sampādetvā āsanāni paññāpetvā ‘‘ajja no ayyānaṃ āgamanadivaso’’ti ñatvā paccuggamanaṃ katvā te ādāya nivesanaṃ gantvā nisīdāpetvā bhikkhaṃ adaṃsu.
The next day, the merchants prepared gruel and food, arranged seats, and knowing, "Today is the day of the venerable ones' arrival," they went out to meet them, escorted them into their houses, seated them, and offered them alms.
Ngày hôm sau, các vị trưởng giả đã chuẩn bị cháo và cơm, sắp đặt chỗ ngồi, biết rằng “Hôm nay là ngày các vị Tôn giả sẽ đến,” bèn ra đón, đưa các vị vào nhà, mời ngồi và dâng cúng vật thực.
Te katabhattakiccā mahāseṭṭhino ‘‘mayaṃ gamissāmā’’ti vadiṃsu.
After completing their meal, those ascetics said to the great merchants, "We shall depart."
Sau khi hoàn tất việc thọ thực, các vị ấy nói với các vị đại trưởng giả rằng: “Chúng tôi sẽ ra đi.”
‘‘Nanu, bhante, tumhehi cattāro vassike māse amhākaṃ gahitāva paṭiññā, idāni kuhiṃ gacchathā’’ti?
"Venerable sirs, did you not make a promise to us for the four months of the rainy season? Where are you going now?"
“Bạch chư Tôn giả, chẳng phải chư Tôn giả đã nhận lời hứa của chúng con trong suốt bốn tháng an cư mùa mưa sao? Bây giờ chư Tôn giả sẽ đi đâu?”
‘‘Loke kira buddho uppanno, dhammo uppanno, saṅgho uppanno, tasmā satthu santikaṃ gamissāmā’’ti.
"Indeed, the Buddha has arisen in the world, the Dhamma has arisen, the Saṅgha has arisen. Therefore, we will go to the Master."
“Được biết, Đức Phật đã xuất hiện trên đời, Pháp đã xuất hiện, Tăng đã xuất hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽ đến với Bậc Đạo Sư.”
‘‘Kiṃ pana tassa satthuno santikaṃ tumhākaññeva gantuṃ vaṭṭatī’’ti?
"Is it only proper for you to go to that Master?"
“Vậy chỉ có chư Tôn giả mới được phép đến với Bậc Đạo Sư ấy thôi sao?”
‘‘Aññesampi avāritaṃ, āvuso’’ti.
"It is not forbidden for others either, friends."
“Này các hiền hữu, những người khác cũng không bị ngăn cấm.”
‘‘Tena hi, bhante, āgametha, mayampi gamanaparivacchaṃ katvā gacchāmā’’ti.
"Then, Venerable Sirs, wait, we too will make preparations for the journey and go."
“Vậy thì, bạch chư Tôn giả, xin hãy chờ đợi, chúng con cũng sẽ chuẩn bị hành trang rồi đi.”
‘‘Tumhesu parivacchaṃ karontesu amhākaṃ papañco hoti, mayaṃ purato gacchāma, tumhe pacchā āgaccheyyāthā’’ti vatvā te puretaraṃ gantvā sammāsambuddhaṃ disvā abhitthavitvā vanditvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
They said, "If you make preparations, it will cause delay for us. We will go ahead; you may come later," and having gone ahead, they saw the Perfectly Enlightened One, praised Him, paid homage, and sat down to one side.
Các vị ấy nói: “Nếu các hiền hữu chuẩn bị hành trang thì chúng tôi sẽ bị chậm trễ. Chúng tôi sẽ đi trước, các hiền hữu hãy đến sau.” Nói vậy rồi, các vị ấy đi trước, nhìn thấy Đức Chánh Đẳng Giác, ca ngợi, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.
Atha nesaṃ satthā anupubbiṃ kathaṃ kathetvā dhammaṃ desesi.
Then the Master delivered a gradual discourse to them and taught the Dhamma.
Sau đó, Đức Đạo Sư đã thuyết giảng giáo pháp theo thứ lớp cho các vị ấy.
Desanāpariyosāne sabbepi saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā pabbajjaṃ yācitvā ‘‘etha, bhikkhavo’’ti vacanasamanantaraṃyeva iddhimayapattacīvaradharā ehibhikkhū ahesuṃ.
At the end of the discourse, all of them attained Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā), and having requested ordination, they immediately became ehi-bhikkhu monks, endowed with robes and alms bowls created by psychic power, as soon as the words "Come, monks!" were uttered.
Khi bài pháp kết thúc, tất cả các vị ấy đều đạt A-la-hán cùng với tứ vô ngại giải, cầu xin xuất gia, và ngay khi Đức Phật nói “Etha, bhikkhavo” (Hãy đến, này các Tỳ-khưu), các vị ấy liền trở thành các Tỳ-khưu với y bát thần thông.
640
Tepi kho tayo seṭṭhino pañcahi pañcahi sakaṭasatehi bhattacchādanasappimadhuphāṇitādīni dānūpakaraṇāni ādāya sāvatthiṃ patvā satthāraṃ vanditvā dhammakathaṃ sutvā kathāpariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhāya addhamāsamattampi dānaṃ dadamānā satthu santike vasitvā kosambiṃ āgamanatthāya satthāraṃ yācitvā satthārā paṭiññaṃ dadantena ‘‘suññāgāre kho gahapatayo tathāgatā abhiramantī’’ti vutte, ‘‘aññātaṃ, bhante, amhehi pahitasāsanena āgantuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā kosambiṃ gantvā ghosakaseṭṭhi ghositārāmaṃ, kukkuṭaseṭṭhi kukkuṭārāmaṃ, pāvārikaseṭṭhi pāvārikārāmanti tayo mahāvihāre kāretvā satthu āgamanatthāya sāsanaṃ pahiṇiṃsu.
Those three merchants, taking offerings such as meals, robes, ghee, honey, and molasses in five hundred carts each, arrived in Sāvatthī, paid homage to the Master, listened to a Dhamma talk, and at the end of the talk, established themselves in the fruit of Stream-entry (sotāpatti), then resided with the Master for about half a month, offering alms. Having requested the Master to come to Kosambī, and when the Master, giving His assent, said, "Householders, Tathāgatas delight in empty dwellings," they replied, "We understand, Venerable Sir, that it is proper to come when a message is sent by us." Then, having gone to Kosambī, Ghosaka the merchant had Ghositārāma built, Kukkuṭa the merchant had Kukkuṭārāma built, and Pāvārika the merchant had Pāvārikārāma built, thus constructing three great monasteries, and sent a message for the Master's arrival.
Ba vị trưởng giả ấy, mang theo các vật dụng cúng dường như cơm, y phục, bơ sữa, mật ong, đường mật, v.v., trên năm trăm cỗ xe, đã đến Sāvatthī, đảnh lễ Đức Đạo Sư, lắng nghe pháp thoại. Khi pháp thoại kết thúc, các vị ấy đã an trú vào quả vị Dự Lưu, và sau khi cúng dường trong suốt nửa tháng, các vị ấy đã ở lại bên Đức Đạo Sư. Sau đó, các vị ấy đã thỉnh cầu Đức Đạo Sư đến Kosambī. Khi Đức Đạo Sư chấp thuận và nói: “Này các gia chủ, các Như Lai thường an trú trong các trú xứ vắng vẻ,” các vị ấy đã thưa: “Bạch Thế Tôn, chúng con đã hiểu. Xin Thế Tôn hãy đến theo lời thỉnh cầu của chúng con.” Sau đó, các vị ấy đã trở về Kosambī và xây dựng ba đại tinh xá: trưởng giả Ghosaka xây Ghositārāma, trưởng giả Kukkuṭa xây Kukkuṭārāma, và trưởng giả Pāvārika xây Pāvārikārāma, rồi gửi lời thỉnh Đức Đạo Sư đến.
Satthā tesaṃ sāsanaṃ sutvā tattha agamāsi.
The Master heard their message and went there.
Đức Đạo Sư nghe lời thỉnh cầu của họ và đã đến đó.
Te paccuggantvā satthāraṃ vihāraṃ pavesetvā vārena vārena paṭijagganti.
They went to meet the Master, led him into the monasteries, and attended to him in turn.
Họ ra đón Đức Đạo Sư, đưa Ngài vào tinh xá, và luân phiên phụng sự Ngài.
Satthā devasikaṃ ekekasmiṃ vihāre vasati.
The Master resided in one monastery each day.
Đức Đạo Sư trú ngụ tại mỗi tinh xá mỗi ngày.
Yassa vihāre vuṭṭho hoti, tasseva gharadvāre piṇḍāya carati.
In whichever merchant's monastery he had spent the night, he would wander for alms at that merchant's house gate.
Ngài khất thực tại cửa nhà của vị trưởng giả nào mà Ngài đã trú ngụ tại tinh xá của vị ấy.
Tesaṃ pana tiṇṇaṃ seṭṭhīnaṃ upaṭṭhāko sumano nāma mālākāro ahosi.
Now, the attendant of those three merchants was a garland-maker named Sumana.
Có một người làm vườn tên là Sumana, là người hầu cận của ba vị trưởng giả ấy.
So te seṭṭhino evamāha – ‘‘ahaṃ tumhākaṃ dīgharattaṃ upakārako, satthāraṃ bhojetukāmomhi, mayhampi ekadivasaṃ satthāraṃ dethā’’ti.
He said to those merchants, "I have been helpful to you for a long time. I wish to offer a meal to the Master. Please let me offer a meal to the Master for one day."
Ông ta nói với các vị trưởng giả ấy rằng: “Tôi đã phụng sự các ngài trong một thời gian dài, tôi muốn cúng dường Đức Đạo Sư, xin các ngài hãy cho tôi cúng dường Đức Đạo Sư một ngày.”
‘‘Tena hi bhaṇe sve bhojehī’’ti.
"Then, friend, offer the meal tomorrow."
“Vậy thì, này anh, ngày mai hãy cúng dường đi.”
‘‘Sādhu, sāmī’’ti so satthāraṃ nimantetvā sakkāraṃ paṭiyādesi.
"Very well, masters," he said, and having invited the Master, he prepared the offering.
“Vâng, thưa các chủ nhân.” Người làm vườn Sumana ấy đã thỉnh Đức Đạo Sư và chuẩn bị lễ vật.
641
Tadā rājā sāmāvatiyā devasikaṃ pupphamūle aṭṭha kahāpaṇe deti.
At that time, the king gave Sāmāvatī eight kahāpaṇas daily for flowers.
Vào thời đó, vua Udena mỗi ngày ban tám đồng tiền vàng cho hoàng hậu Sāmāvatī để mua hoa.
Tassā khujjuttarā nāma dāsī sumanamālākārassa santikaṃ gantvā nibaddhaṃ pupphāni gaṇhāti.
Her maidservant, named Khujjuttarā, regularly went to the garland-maker Sumana and obtained flowers.
Người tỳ nữ Khujjuttarā của hoàng hậu thường đến chỗ người làm vườn Sumana để mua hoa.
Atha naṃ tasmiṃ divase āgataṃ mālākāro āha – ‘‘mayā satthā nimantito, ajja pupphehi satthāraṃ pūjessāmi, tiṭṭha tāva, tvaṃ parivesanāya sahāyikā hutvā dhammaṃ sutvā avasesāni pupphāni gahetvā gamissasī’’ti.
Then, on that day, the garland-maker said to her when she arrived, "I have invited the Master. Today I will honor the Master with flowers. You wait here for a while, become a helper in serving the meal, listen to the Dhamma, and then take the remaining flowers and go."
Vào ngày đó, khi cô ấy đến, người làm vườn nói với cô: “Ta đã thỉnh Đức Đạo Sư, hôm nay ta sẽ cúng dường hoa cho Ngài. Này cô, hãy ở lại một lát, cô hãy giúp ta dâng cúng vật thực, lắng nghe giáo pháp, rồi sau đó hãy mang những bông hoa còn lại về.”
Sā ‘‘sādhū’’ti adhivāsesi.
She assented, saying, "Very well."
Cô ấy nói “Vâng” và chấp thuận.
Sumano buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ parivisitvā anumodanakaraṇatthāya pattaṃ aggahesi.
Sumana served the assembly of bhikkhus headed by the Buddha and then took the bowl to make the anumodanā.
Người làm vườn Sumana đã cúng dường Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, rồi cầm bát để Đức Phật ban phước lành.
Satthā anumodanadhammadesanaṃ ārabhi.
The Master began the Dhamma discourse of anumodanā.
Đức Đạo Sư bắt đầu thuyết pháp ban phước lành.
Khujjuttarāpi satthu dhammakathaṃ suṇantīyeva sotāpattiphale patiṭṭhahi.
Khujjuttarā, while listening to the Master's Dhamma talk, became established in the fruit of Stream-entry.
Khujjuttarā cũng ngay khi nghe pháp thoại của Đức Đạo Sư đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
Sā aññesu divasesu cattāro kahāpaṇe attano gahetvā catūhi pupphāni gahetvā gacchati, taṃ divasaṃ aṭṭhahipi pupphāni gahetvā gatā.
On other days, she would take four kahāpaṇas for herself and buy flowers for four (kahāpaṇas). That day, she took flowers for all eight (kahāpaṇas) and went.
Những ngày khác, cô ấy lấy bốn đồng tiền vàng cho mình và mang về hoa mua bằng bốn đồng tiền vàng còn lại. Ngày hôm đó, cô ấy mang về hoa mua bằng cả tám đồng tiền vàng.
Atha naṃ sāmāvatī āha – ‘‘kiṃ nu kho, amma, ajja amhākaṃ raññā dviguṇaṃ pupphamūlaṃ dinna’’nti?
Then Sāmāvatī said to her, "Mother, has our king given double the price for flowers today?"
Hoàng hậu Sāmāvatī bèn nói với cô: “Này chị, hôm nay nhà vua đã ban gấp đôi tiền hoa cho chúng ta sao?”
‘‘No, ayye’’ti.
"No, mistress."
“Không, thưa chủ mẫu.”
‘‘Atha kasmā bahūni pupphānī’’ti?
"Then why are there so many flowers?"
“Vậy tại sao lại có nhiều hoa thế?”
‘‘Aññesu divasesu ahaṃ cattāro kahāpaṇe attano gahetvā catūhi pupphāni āharāmī’’ti.
"On other days, I would take four kahāpaṇas for myself and bring flowers for four kahāpaṇas."
“Những ngày khác, tôi lấy bốn đồng tiền vàng cho mình và mang về hoa mua bằng bốn đồng tiền vàng.”
‘‘Ajja kasmā na gaṇhī’’ti?
"Why did you not take (any for yourself) today?"
“Hôm nay tại sao lại không lấy?”
‘‘Sammāsambuddhassa dhammakathaṃ sutvā dhammassa adhigatattā’’ti.
"Because I have realized the Dhamma after listening to the discourse of the Perfectly Enlightened One."
“Vì đã chứng đắc Pháp sau khi nghe pháp thoại của Đức Chánh Đẳng Giác.”
Atha naṃ ‘‘are, duṭṭhadāsi ettakaṃ kālaṃ tayā gahitakahāpaṇe me dehī’’ti atajjetvā, ‘‘amma, tayā pivitaṃ amataṃ amhepi pāyehī’’ti vatvā ‘‘tena hi maṃ nhāpehī’’ti vutte soḷasahi gandhodakaghaṭehi nhāpetvā dve maṭṭhasāṭake dāpesi.
Then, without scolding her, "Hey, you wicked maidservant, give me the kahāpaṇas you have taken for so long!" she said, "Mother, make us also drink the nectar that you have drunk," and when told, "Then bathe me," she had her bathed with sixteen perfumed water pots and gave her two clean garments.
Thay vì mắng cô ấy rằng: “Này con tỳ nữ hư hỏng, hãy trả lại số tiền vàng mà ngươi đã lấy bấy lâu nay,” hoàng hậu nói: “Này chị, chị đã uống cam lồ, xin hãy cho chúng tôi uống cam lồ ấy nữa.” Khi cô ấy nói: “Vậy thì xin hãy tắm cho tôi,” hoàng hậu đã cho người tắm cho cô ấy bằng mười sáu bình nước thơm và cho cô ấy hai bộ y phục sạch sẽ.
Sā ekaṃ nivāsetvā ekaṃ ekaṃsaṃ pārupitvā āsanaṃ paññāpetvā ekaṃ bījaniṃ āharāpetvā āsane nisīditvā citrabījaniṃ ādāya pañca mātugāmasatāni āmantetvā tāsaṃ satthārā desitaniyāmeneva dhammaṃ desesi.
She put on one and draped the other over one shoulder, arranged a seat, had a fan brought, and sitting on the seat, took a beautiful fan and addressed five hundred women, teaching them the Dhamma in the very manner taught by the Master.
Cô ấy mặc một bộ, khoác một bộ lên vai, sau khi sắp đặt chỗ ngồi và cho người mang một chiếc quạt đến, cô ấy ngồi trên ghế, cầm chiếc quạt đẹp và mời năm trăm người phụ nữ đến, rồi thuyết giảng giáo pháp cho họ đúng theo cách Đức Đạo Sư đã giảng.
Tassā dhammakathaṃ sutvā tā sabbāpi sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu.
Having heard her Dhamma talk, all of them became established in the fruit of Stream-entry.
Sau khi nghe pháp thoại của cô ấy, tất cả họ đều an trú vào quả vị Dự Lưu.
642
Tā sabbāpi khujjuttaraṃ vanditvā, ‘‘amma, ajjato paṭṭhāya tvaṃ kiliṭṭhakammaṃ mā kari, amhākaṃ mātuṭṭhāne ca ācariyaṭṭhāne ca ṭhatvā satthu santikaṃ gantvā satthārā desitaṃ dhammaṃ sutvā amhākaṃ kathehī’’ti vadiṃsu.
All those women paid homage to Khujjuttarā and said, "Mother, from today onwards, do not do any defiling work. Stay as our mother and teacher, go to the Master, listen to the Dhamma taught by Him, and relate it to us."
Tất cả họ đều đảnh lễ Khujjuttarā và nói: “Này chị, từ nay trở đi, chị đừng làm những công việc vất vả nữa. Xin chị hãy ở vị trí của mẹ và đạo sư của chúng tôi, đến chỗ Đức Đạo Sư, lắng nghe giáo pháp Ngài thuyết giảng rồi về kể lại cho chúng tôi nghe.”
Sā tathā karontī aparabhāge tipiṭakadharā jātā.
That Khujjuttarā, doing as they said, later became one who mastered the Tipiṭaka.
Cô ấy đã làm như vậy và sau này trở thành một người thông thạo Tam Tạng.
Atha naṃ satthā ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvikānaṃ upāsikānaṃ bahussutānaṃ dhammakathikānaṃ yadidaṃ khujjuttarā’’ti etadagge ṭhapesi.
Then the Teacher established her as foremost, saying, "Bhikkhus, among my female disciples who are lay followers, who are learned and skilled in expounding the Dhamma, this Khujjuttarā is the foremost."
Sau đó, Đức Đạo Sư đã đặt cô ấy vào vị trí đệ nhất (Etadagga) và nói: “Này các Tỳ-khưu, trong số các nữ cư sĩ đệ tử của Ta, Khujjuttarā là người đa văn và thiện xảo thuyết pháp bậc nhất.”
Tāpi kho pañcasatā itthiyo taṃ evamāhaṃsu – ‘‘amma, satthāraṃ daṭṭhukāmāmhā, taṃ no dassehi, gandhamālādīhi taṃ pūjessāmā’’ti.
And those five hundred women also said to her, "Mother, we wish to see the Teacher. Please show him to us. We will pay homage to him with scents, garlands, and so forth."
Năm trăm người phụ nữ ấy cũng nói với cô ấy: “Này chị, chúng tôi muốn nhìn thấy Đức Đạo Sư, xin chị hãy cho chúng tôi thấy Ngài, chúng tôi sẽ cúng dường Ngài bằng hương hoa, v.v.”
‘‘Ayye, rājakulaṃ nāma bhāriyaṃ, tumhe gahetvā bahi gantuṃ na sakkā’’ti.
She said, "Ladies, the royal palace is formidable; it is not possible to take you outside."
“Này các chủ mẫu, hoàng cung là nơi nghiêm ngặt, không thể đưa các chủ mẫu ra ngoài được.”
‘‘Amma, no mā nāsehi, dasseheva amhākaṃ satthāra’’nti.
"Mother, do not deny us; just show us the Teacher!"
“Này chị, xin đừng làm chúng tôi thất vọng, xin hãy cho chúng tôi thấy Đức Đạo Sư của chúng tôi.”
‘‘Tena hi tumhākaṃ vasanagabbhānaṃ bhittīsu yattakena oloketuṃ sakkā hoti, tattakaṃ chiddaṃ katvā gandhamālādīni āharāpetvā satthāraṃ tiṇṇaṃ seṭṭhīnaṃ gharadvāraṃ gacchantaṃ tumhe tesu tesu ṭhānesu ṭhatvā oloketha ceva, hatthe ca pasāretvā vandatha, pūjetha cā’’ti.
"In that case, make an opening in the walls of your living quarters, large enough for you to look through. Then, after bringing scents, garlands, and so forth, you may stand in those various places and look at the Teacher as he goes past the doors of the three merchants' houses, and you may stretch out your hands to worship and pay homage to him."
“Vậy thì, tại các bức tường của các phòng ở của các chủ mẫu, hãy khoét một lỗ vừa đủ để có thể nhìn ra, rồi cho người mang hương hoa, v.v. đến. Khi Đức Đạo Sư đi qua cửa nhà của ba vị trưởng giả, các chủ mẫu hãy đứng ở những chỗ ấy để nhìn, đưa tay ra đảnh lễ và cúng dường Ngài.”
Tā tathā katvā satthāraṃ gacchantañca āgacchantañca oloketvā vandiṃsu ceva pūjesuñca.
They did so, and having seen the Teacher going and coming, they both worshipped and paid homage to him.
Họ đã làm như vậy, nhìn thấy Đức Đạo Sư khi Ngài đi và đến, rồi đảnh lễ và cúng dường Ngài.
643
Athekadivasaṃ māgaṇḍiyā attano pāsādatalato nikkhamitvā caṅkamamānā tāsaṃ vasanaṭṭhānaṃ gantvā gabbhesu chiddaṃ disvā, ‘‘idaṃ ki’’nti pucchitvā, tāhi tassā satthari āghātabaddhabhāvaṃ ajānantīhi ‘‘satthā imaṃ nagaraṃ āgato, mayaṃ ettha ṭhatvā satthāraṃ vandāma ceva pūjema cā’’ti vutte, ‘‘āgato nāma imaṃ nagaraṃ samaṇo gotamo, idānissa kattabbaṃ jānissāmi, imāpi tassa upaṭṭhāyikā, imāsampi kattabbaṃ jānissāmī’’ti cintetvā gantvā rañño ārocesi – ‘‘mahārāja, sāmāvatimissikānaṃ bahiddhā patthanā atthi, katipāheneva te jīvitaṃ māressantī’’ti.
Then one day, Māgaṇḍiyā, stepping out from the terrace of her palace and strolling, went to their dwelling place. Seeing the holes in the rooms, she asked, "What is this?" Not knowing that they harbored resentment towards the Teacher, they replied, "The Teacher has arrived in this city, and we stand here to worship and pay homage to him." Thereupon, she thought, "The ascetic Gotama has indeed come to this city. Now I will see what is to be done with him. These women are also his attendants; I will see what is to be done with them too." Thinking this, she went and reported to the king, "Great King, Sāmāvatī and her companions have external aspirations; in a few days, they will take your life."
Một hôm, hoàng hậu Māgaṇḍiyā đi dạo từ sân thượng cung điện của mình, đến chỗ ở của họ, thấy các lỗ trên tường phòng, bèn hỏi: “Đây là gì?” Các phụ nữ ấy, không biết rằng hoàng hậu đã ôm lòng thù hận Đức Đạo Sư, bèn đáp: “Đức Đạo Sư đã đến thành phố này, chúng tôi đứng ở đây để đảnh lễ và cúng dường Ngài.” Hoàng hậu Māgaṇḍiyā bèn nghĩ: “Sa-môn Gotama đã đến thành phố này. Bây giờ ta sẽ biết phải làm gì với ông ta. Những người phụ nữ này cũng là người hầu cận của ông ta, ta cũng sẽ biết phải làm gì với họ.” Nghĩ vậy rồi, cô ta đi báo với nhà vua: “Đại vương, các phụ nữ của Sāmāvatī có ý đồ bên ngoài, trong vài ngày nữa họ sẽ giết hại mạng sống của Đại vương.”
Rājā ‘‘na tā evarūpaṃ karissantī’’ti na saddahi.
The king did not believe her, saying, "They would not do such a thing."
Nhà vua không tin, nói: “Họ sẽ không làm điều như vậy đâu.”
Punappunaṃ vuttepi na saddahi eva.
Even when told repeatedly, he still did not believe her.
Dù đã được tâu đi tâu lại nhiều lần, vua vẫn không tin.
Atha naṃ evaṃ tikkhattuṃ vuttepi asaddahantaṃ ‘‘sace me na saddahasi, tāsaṃ vasanaṭṭhānaṃ gantvā upacārehi, mahārājā’’ti āha.
Then, seeing that he still did not believe even after being told three times, she said to him, "If you do not believe me, Great King, go to their dwelling place and investigate."
Sau đó, khi đã nói như vậy ba lần mà vua vẫn không tin, bà ta nói: “Đại vương, nếu ngài không tin thiếp, xin hãy đến chỗ ở của họ mà điều tra.”
Rājā gantvā gabbhesu chiddaṃ disvā, ‘‘idaṃ ki’’nti pucchitvā, tasmiṃ atthe ārocite tāsaṃ akujjhitvā, kiñci avatvāva chiddāni pidahāpetvā sabbagabbhesu uddhacchiddakavātapānāni kāresi.
The king went and saw the holes in the rooms. When the matter was reported to him, he did not get angry with them. Without saying anything, he had the holes covered and had skylight windows made in all the rooms.
Vua đi đến, thấy các lỗ hổng trong các phòng, hỏi: “Cái này là gì?” Khi được báo cáo về sự việc đó, vua không giận họ, không nói lời nào, chỉ cho bịt các lỗ hổng lại và cho làm các cửa sổ thông hơi phía trên cho tất cả các phòng.
Uddhacchiddakavātapānāni kira tasmiṃ kāle uppannāni.
It is said that skylight windows appeared at that time.
Người ta nói rằng, các cửa sổ thông hơi phía trên đã xuất hiện vào thời điểm đó.
Māgaṇḍiyā tāsaṃ kiñci kātuṃ asakkuṇitvā, ‘‘samaṇassa gotamasseva kattabbaṃ karissāmī’’ti nāgarānaṃ lañjaṃ datvā, ‘‘samaṇaṃ gotamaṃ antonagaraṃ pavisitvā vicarantaṃ dāsakammakaraporisehi akkosetvā paribhāsetvā palāpethā’’ti āṇāpesi.
Māgaṇḍiyā, being unable to do anything to them, thought, "I will do what is to be done to the ascetic Gotama himself." She bribed the townspeople and commanded them, "When the ascetic Gotama enters the city and walks around, let the male and female servants and workers abuse and revile him and make him flee."
Māgaṇḍiyā không thể làm gì được họ, bèn nghĩ: “Ta sẽ làm những gì cần làm đối với Sa-môn Gotama.” Bà ta hối lộ cho dân chúng trong thành và ra lệnh: “Khi Sa-môn Gotama vào thành đi khất thực, hãy sai nô lệ, người làm công, và gia nhân chửi rủa, phỉ báng và xua đuổi Ngài.”
Micchādiṭṭhikā tīsu ratanesu appasannā antonagaraṃ paviṭṭhaṃ satthāraṃ anubandhitvā, ‘‘corosi, bālosi, mūḷhosi, oṭṭhosi, goṇosi, gadrabhosi, nerayikosi, tiracchānagatosi, natthi tuyhaṃ sugati, duggatiyeva tuyhaṃ pāṭikaṅkhā’’ti dasahi akkosavatthūhi akkosanti paribhāsanti.
The wrong-viewed people, who had no faith in the Three Jewels, followed the Teacher as he entered the city, abusing and reviling him with ten kinds of abusive language: "You are a thief, you are foolish, you are deluded, you are a camel, you are an ox, you are a donkey, you are one destined for hell, you are an animal, there is no good destiny for you, only a bad destiny is to be expected for you."
Những người tà kiến, không có niềm tin vào Tam Bảo, đã theo sau Đức Bổn Sư khi Ngài vào thành, chửi rủa và phỉ báng Ngài bằng mười loại lời lẽ thô tục: “Ngươi là kẻ trộm, là kẻ ngu dốt, là kẻ si mê, là lạc đà, là bò, là lừa, là kẻ sẽ đọa địa ngục, là loài súc sinh; không có thiện thú cho ngươi, chỉ có ác thú đang chờ đợi ngươi.”
644
Taṃ sutvā āyasmā ānando satthāraṃ etadavoca – ‘‘bhante, ime nāgarā amhe akkosanti paribhāsanti, ito aññattha gacchāmā’’ti.
Hearing that, Venerable Ānanda said to the Teacher, "Bhante, these townspeople are abusing and reviling us. Let us go elsewhere from here."
Nghe vậy, Tôn giả Ānanda bạch Đức Bổn Sư: “Bạch Thế Tôn, những người dân thành này đang chửi rủa và phỉ báng chúng con, chúng con hãy đi nơi khác, bạch Thế Tôn.”
‘‘Kuhiṃ, ānandoti’’?
"Where, Ānanda?"
“Đi đâu, Ānanda?”
‘‘Aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác, bạch Thế Tôn.”
‘‘Tattha manussesu akkosantesu puna kattha gamissāma, ānando’’ti?
"If the people there also abuse us, where shall we go then, Ānanda?"
“Nếu ở đó người ta cũng chửi rủa, thì chúng ta sẽ đi đâu nữa, Ānanda?”
‘‘Tatopi aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To yet another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác nữa, bạch Thế Tôn.”
‘‘Tatthāpi manussesu akkosantesu kuhiṃ gamissāmā’’ti?
"And if the people there also abuse us, where shall we go?"
“Nếu ở đó người ta cũng chửi rủa, thì chúng ta sẽ đi đâu nữa?”
‘‘Tatopi aññaṃ nagaraṃ, bhante’’ti.
"To yet another city, Bhante."
“Đến một thành phố khác nữa, bạch Thế Tôn.”
‘‘Ānanda, evaṃ kātuṃ na vaṭṭati.
"Ānanda, it is not proper to do so.
“Ānanda, không nên làm như vậy.
Yattha adhikaraṇaṃ uppannaṃ, tattheva tasmiṃ vūpasante aññattha gantuṃ vaṭṭati.
Where a dispute has arisen, it is proper to go elsewhere only after it has subsided there.
Khi một tranh chấp phát sinh ở đâu, thì chỉ nên đi nơi khác sau khi tranh chấp đó đã được giải quyết ở chính nơi đó.
Ke pana te, ānanda, akkosantī’’ti?
And who are those who are abusing us, Ānanda?"
Nhưng này Ānanda, những kẻ đang chửi rủa đó là ai?”
‘‘Bhante, dāsakammakare upādāya sabbe akkosantī’’ti.
"Bhante, all of them are abusing us, from the servants and laborers upwards."
“Bạch Thế Tôn, tất cả mọi người, từ nô lệ cho đến người làm công, đều đang chửi rủa.”
‘‘Ahaṃ, ānanda, saṅgāmaṃ otiṇṇahatthisadiso, saṅgāmaṃ otiṇṇahatthino hi catūhi disāhi āgate sare sahituṃ bhāro, tatheva bahūhi dussīlehi kathitakathānaṃ sahanaṃ nāma mayhaṃ bhāro’’ti vatvā attānaṃ ārabbha dhammaṃ desento imā nāgavagge tisso gāthā abhāsi –
"Ānanda, I am like an elephant entered into battle. Indeed, for an elephant entered into battle, it is its duty to endure arrows coming from all four directions. Similarly, it is my duty to endure the words spoken by many unvirtuous people." Having said this, and intending to preach the Dhamma about himself, he uttered these three verses from the Nāga Vagga:
“Này Ānanda, Ta giống như một con voi đã vào trận chiến. Đối với một con voi đã vào trận chiến, việc chịu đựng những mũi tên bay đến từ bốn phương là một gánh nặng. Cũng vậy, việc chịu đựng những lời nói của nhiều người vô đạo đức là gánh nặng của Ta,” nói xong, Đức Bổn Sư đã thuyết pháp về chính mình, đọc ba bài kệ này trong phẩm Nāga:
645
‘‘Ahaṃ nāgova saṅgāme, cāpato patitaṃ saraṃ;
"As an elephant in battle
Như voi chúa giữa trận tiền,
646
Ativākyaṃ titikkhissaṃ, dussīlo hi bahujjano.
Endures arrows shot from a bow, so will I endure harsh words; for the multitude is ill-behaved."
Chịu đựng mũi tên bắn ra từ cung nỏ,
647
‘‘Dantaṃ nayanti samitiṃ, dantaṃ rājābhirūhati;
"A tamed animal is led to an assembly; a tamed animal the king mounts;
Ta sẽ nhẫn chịu những lời lăng mạ,
648
Danto seṭṭho manussesu, yotivākyaṃ titikkhati.
The tamed is the best among humans, who endures harsh speech."
Vì phần đông quần chúng là kẻ vô đạo đức.
649
‘‘Varamassatarā dantā, ājānīyā ca sindhavā;
"Well-tamed mules are excellent, and noble Sindhu horses,
Người ta dẫn con vật đã được thuần hóa đến hội trường,
650
Kuñjarā ca mahānāgā, attadanto tato vara’’nti.(dha. pa. 320-322);
And great tusker elephants, but one self-tamed is better than these."
Vua cưỡi con vật đã được thuần hóa.
651
Dhammakathā sampattamahājanassa sātthikā ahosi.
The discourse was beneficial to the large assembly that had gathered.
Trong loài người, người đã tự điều phục mình là bậc tối thượng,
Evaṃ dhammaṃ desetvā mā cintayi, ānanda, ete sattāhamattameva akkosissanti, aṭṭhame divase tuṇhī bhavissanti, buddhānañhi uppannaṃ adhikaraṇaṃ sattāhato uttari na gacchati.
Having thus taught the Dhamma, he said, "Ānanda, do not worry. These people will abuse us for only seven days. On the eighth day, they will become silent. Indeed, a dispute that arises for Buddhas does not last beyond seven days."
Người có thể nhẫn chịu lời lăng mạ.
Māgaṇḍiyā satthāraṃ akkosāpetvā palāpetuṃ asakkontī, ‘‘kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintetvā, ‘‘imā etassa upatthambhabhūtā, etāsampi byasanaṃ karissāmī’’ti ekadivasaṃ rañño surāpānaṭṭhāne upaṭṭhānaṃ karontī cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi ‘‘attho me kira kukkuṭehi, aṭṭha matakukkuṭe, aṭṭha sajīvakukkuṭe ca gahetvā āgacchatu, āgantvā ca sopānamatthake ṭhatvā āgatabhāvaṃ nivedetvā ‘pavisatū’ti vuttepi apavisitvā paṭhamaṃ aṭṭha sajīvakukkuṭe pahiṇatu, ‘pacchā itare’’’ti.
Māgaṇḍiyā, being unable to make the Teacher flee by having him abused, thought, "What shall I do now? These women are his support. I will bring misfortune upon them too." One day, while attending to the king in the wine-drinking hall, she sent a message to her paternal uncle, "I need some chickens, please bring eight dead chickens and eight live chickens. When you arrive, stand at the top of the stairs, announce your arrival, and even if told 'enter,' do not enter. First, send in the eight live chickens, and 'afterwards the others'."
Tốt hơn là lừa thuần, ngựa giống Sindhu thuần,
Cūḷāpaṭṭhākassa ca ‘‘mama vacanaṃ kareyyāsī’’ti lañjaṃ adāsi.
She also gave a bribe to the young attendant, saying, "You must obey my words."
Và voi chúa vĩ đại thuần phục.
Māgaṇḍiyo āgantvā, rañño nivedāpetvā, ‘‘pavisatū’’ti vutte, ‘‘rañño āpānabhūmiṃ na pavisissāmī’’ti āha.
Māgaṇḍiya, the paternal uncle, came and, having announced his arrival to the king, was told "enter." He replied, "I will not enter the king's drinking hall."
Người tự điều phục mình còn tốt hơn thế.
Itarā cūḷupaṭṭhākaṃ pahiṇi – ‘‘gaccha, tāta, mama cūḷapitu santika’’nti.
The other Māgaṇḍiyā sent the young attendant,
Bài pháp thoại có lợi ích cho đại chúng đang hiện diện.
So gantvā tena dinne aṭṭha sajīvakukkuṭe ānetvā, ‘‘deva, purohitena paṇṇākāro pahito’’ti āha.
"Go, my boy, to my paternal uncle." He went, brought the eight live chickens given by the uncle, and said, "Your Majesty, the chaplain has sent a present."
Sau khi thuyết pháp như vậy, Đức Bổn Sư nói: “Này Ānanda, đừng lo lắng, những người này sẽ chửi rủa chỉ trong bảy ngày thôi, đến ngày thứ tám họ sẽ im lặng. Thật vậy, một tranh chấp phát sinh đối với chư Phật sẽ không kéo dài quá bảy ngày.”
Rājā ‘‘bhaddako vata no uttaribhaṅgo uppanno, ko nu kho paceyyā’’ti āha.
The king said, "Indeed, a good side dish has come for us. Who will cook it?"
Māgaṇḍiyā không thể khiến Đức Bổn Sư bị chửi rủa và xua đuổi, bèn suy nghĩ: “Ta phải làm gì đây?” Bà ta nghĩ: “Những người phụ nữ này là chỗ dựa của Sa-môn Gotama, ta cũng sẽ gây tai họa cho họ.” Một ngày nọ, khi đang hầu hạ vua tại nơi uống rượu, bà ta sai người gửi tin nhắn cho chú mình: “Xin hãy dùng thuốc độc tẩy sạch nọc độc của một con rắn và gửi đến cho cháu. Sau khi đến, hãy đứng trên đỉnh cầu thang, báo rằng mình đã đến, và dù được bảo ‘Hãy vào,’ cũng đừng vào ngay mà trước tiên hãy gửi tám con gà sống, sau đó mới gửi những con còn lại.”
Māgaṇḍiyā, ‘‘mahārāja, sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo nikkammikā vicaranti, tāsaṃ pesehi, tā pacitvā āharissantī’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Great King, Sāmāvatī and her five hundred women are wandering about idly. Send them to her; they will cook and bring it."
Bà ta cũng hối lộ cho người hầu nhỏ, nói: “Hãy làm theo lời ta.”
Rājā ‘‘gaccha, tāsaṃ datvā aññassa kira hatthe adatvā sayameva māretvā pacantū’’ti pesesi.
The king said, "Go, give these to them. Tell them not to give them to anyone else but to kill and cook them themselves." He sent them.
Chú Māgaṇḍiya đến, báo cho vua, và khi được bảo “Hãy vào,” ông ta nói: “Tôi sẽ không vào nơi uống rượu của vua.”
Cūḷupaṭṭhāko ‘‘sādhu devā’’ti gantvā tathā vatvā tāhi ‘‘mayaṃ pāṇātipātaṃ na karomā’’ti paṭikkhitto āgantvā tamatthaṃ rañño ārocesi.
The young attendant replied, "Yes, Your Majesty," and went. Having said as commanded, he was rejected by them, saying, "We do not take life." He returned and reported the matter to the king.
Bà Māgaṇḍiyā sai người hầu nhỏ đi: “Con trai, hãy đến chỗ chú của ta.”
Māgaṇḍiyā ‘‘diṭṭhaṃ te, mahārāja, idāni tāsaṃ pāṇātipātassa karaṇaṃ vā akaraṇaṃ vā jānissasi, ‘samaṇassa gotamassa pacitvā pesentū’ti vadehi devā’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Have you seen, Great King? Now you will know whether they commit pāṇātipāta or not. Say, Your Majesty, 'Let them cook and send it to the ascetic Gotama.'"
Người đó đi, mang về tám con gà sống do chú Māgaṇḍiya đưa, và tâu: “Thưa Đại vương, vị đạo sĩ đã gửi lễ vật đến.”
Rājā tathā vatvā pesesi.
The king spoke accordingly and sent them.
Vua nói: “Chúng ta có một món ăn kèm thật ngon, ai sẽ nấu đây?”
Itaro te gahetvā gacchanto viya hutvā gantvā te kukkuṭe purohitassa datvā matakukkuṭe tāsaṃ santikaṃ netvā, ‘‘ime kira kukkuṭe pacitvā satthu santikaṃ pahiṇathā’’ti āha.
The other, pretending to take them and go, went and gave those live chickens to the purohita, and bringing the dead chickens to them, said, "Please cook these chickens and send them to the Teacher."
Māgaṇḍiyā tâu: “Đại vương, năm trăm người phụ nữ, đứng đầu là Sāmāvatī, đang sống nhàn rỗi. Xin hãy gửi chúng cho họ, họ sẽ nấu và mang đến.”
Tā, ‘‘sāmi, āhara, idaṃ nāma amhākaṃ kicca’’nti paccuggantvā gaṇhiṃsu.
They, coming forward, took them, saying, "Master, bring them; this is indeed our task."
Vua nói: “Hãy đi, đưa cho họ, và nói rằng họ hãy tự mình giết và nấu, đừng đưa cho người khác.”
So rañño santikaṃ gantvā, ‘‘kiṃ, tātā’’ti puṭṭho, ‘‘samaṇassa gotamassa pacitvā pesethāti vuttamatteyeva paṭimaggaṃ āgantvā gaṇhiṃsū’’ti ācikkhi.
He went to the king and, when asked, "What is it, my dear?", he reported, "As soon as I said 'Cook and send them to Samaṇa Gotama,' they came to meet me on the road and took them."
Người hầu nhỏ nói: “Vâng, thưa Đại vương,” rồi đi và nói như vậy. Bị các người phụ nữ từ chối, nói: “Chúng tôi không sát sinh,” người đó trở về và báo lại sự việc cho vua.
Māgaṇḍiyā ‘‘passa, mahārāja, na tā tumhādisānaṃ karonti, bahiddhā patthanā tāsaṃ atthīti vutte na saddahasī’’ti āha.
Māgaṇḍiyā said, "Look, great king, they do not do it for people like you; they have external desires, and you do not believe it when I tell you."
Māgaṇḍiyā nói: “Đại vương, ngài thấy chưa? Họ không làm việc cho những người như ngài. Ngài không tin khi thiếp nói rằng họ có những ham muốn bên ngoài.”
Rājā taṃ sutvāpi adhivāsetvā tuṇhīyeva ahosi.
The king, even after hearing that, endured it and remained silent.
Vua nghe vậy cũng nhẫn nhịn và im lặng.
Māgaṇḍiyā ‘‘kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintesi.
Māgaṇḍiyā thought, "What shall I do now?"
Māgaṇḍiyā suy nghĩ: “Ta phải làm gì đây?”
652
Tadā pana rājā ‘‘sāmāvatiyā vāsuladattāya māgaṇḍiyāya cā’’ti tissannampi etāsaṃ pāsādatale vārena vārena sattāhaṃ sattāhaṃ vītināmeti.
At that time, the king used to spend seven days each in turn on the palace terrace of Sāmāvatī, Vāsuladattā, and Māgaṇḍiyā.
Lúc đó, nhà vua luân phiên ở trên lầu cung điện của ba người phụ nữ này – Sāmāvatī, Vāsuladattā, và Māgaṇḍiyā – mỗi người bảy ngày.
Atha naṃ ‘‘sve vā parasuve vā sāmāvatiyā pāsādatalaṃ gamissatī’’ti ñatvā māgaṇḍiyā cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘agadena kira dāṭhā dhovitvā ekaṃ sappaṃ pesetū’’ti.
Then, knowing that the king "will go to Sāmāvatī's palace terrace tomorrow or the day after," Māgaṇḍiyā sent a message to her maternal uncle, saying, "Please send a snake whose fangs have been cleansed with an antidote."
Biết rằng vua “sẽ đến lầu cung điện của Sāmāvatī vào ngày mai hoặc ngày kia,” Māgaṇḍiyā sai người gửi tin nhắn cho chú mình: “Xin hãy dùng thuốc giải độc để làm sạch nanh của một con rắn và gửi đến.”
So tathā katvā pesesi.
He did so and sent it.
Ông ta làm như vậy và gửi đến.
Rājā attano gamanaṭṭhānaṃ hatthikantavīṇaṃ ādāyayeva gacchati, tassā pokkhare ekaṃ chiddaṃ atthi.
The king always went to his destination taking his elephant-bellied lute with him; there was a hole in its belly.
Vua thường mang theo cây đàn hạc có hình con voi khi đi đến nơi mình muốn, và có một lỗ trên thân đàn.
Māgaṇḍiyā tena chiddena sappaṃ pavesetvā chiddaṃ mālāguḷena thakesi.
Māgaṇḍiyā inserted the snake through that hole and blocked the hole with a flower garland.
Māgaṇḍiyā nhét con rắn vào qua lỗ đó và bịt lỗ lại bằng một búi hoa.
Sappo dvīhatīhaṃ antovīṇāyameva ahosi.
The snake remained inside the lute for two or three days.
Con rắn ở trong cây đàn hạc hai ba ngày.
Māgaṇḍiyā rañño gamanadivase ‘‘ajja katarissitthiyā pāsādaṃ gamissasi devā’’ti pucchitvā ‘‘sāmāvatiyā’’ti vutte, ‘‘ajja mayā, mahārāja, amanāpo supino diṭṭho.
On the day of the king's departure, Māgaṇḍiyā asked, "Your Majesty, to which woman's palace will you go today?" When he said, "To Sāmāvatī's," she said, "Today, great king, I had an unpleasant dream.
Vào ngày vua đi, Māgaṇḍiyā hỏi: “Đại vương, hôm nay ngài sẽ đến cung điện của người phụ nữ nào?” Khi vua nói: “Của Sāmāvatī,” bà ta nói: “Hôm nay, Đại vương, thiếp đã nằm mơ thấy một giấc mơ không tốt lành.
Na sakkā tattha gantuṃ, devā’’ti?
It is not proper to go there, Your Majesty."
Không thể đến đó được, Đại vương.”
‘‘Gacchāmevā’’ti.
"We shall certainly go."
“Chúng ta cứ đi thôi.”
Sā yāva tatiyaṃ vāretvā, ‘‘evaṃ sante ahampi tumhehi saddhiṃ gamissāmi, devā’’ti vatvā nivattiyamānāpi anivattitvā, ‘‘na jānāmi, kiṃ bhavissati devā’’ti raññā saddhiṃyeva agamāsi.
She tried to dissuade him three times, but when he was not dissuaded, she said, "I do not know what will happen, Your Majesty," and went with the king.
Bà ta ngăn cản đến ba lần, rồi nói: “Nếu vậy, thiếp cũng sẽ đi cùng ngài, Đại vương,” và dù bị bảo quay lại, bà ta vẫn không quay lại, nói: “Thiếp không biết điều gì sẽ xảy ra, Đại vương,” rồi đi cùng vua.
653
Rājā sāmāvatimissikāhi dinnāni vatthapupphagandhābharaṇāni dhāretvā subhojanaṃ bhuñjitvā vīṇaṃ ussīsake ṭhapetvā sayane nipajji.
The king, adorned with clothes, flowers, perfumes, and ornaments given by Sāmāvatī and her attendants, ate a good meal, placed his lute at the head of his bed, and lay down on the couch.
Vua mặc quần áo, hoa, hương liệu và trang sức do Sāmāvatī và các người phụ nữ khác dâng tặng, dùng bữa ăn ngon, đặt cây đàn hạc ở đầu giường và nằm xuống.
Māgaṇḍiyā aparāparaṃ vicarantī viya hutvā vīṇāchiddato pupphaguḷaṃ apanesi.
Māgaṇḍiyā, acting as if she was moving about, removed the flower garland from the hole in the lute.
Māgaṇḍiyā giả vờ đi lại đây đó, rồi rút búi hoa ra khỏi lỗ của cây đàn hạc.
Sappo dvīhatīhaṃ nirāhāro tena chiddena nikkhamitvā passasanto phaṇaṃ katvā sayanapiṭṭhe nipajji.
The snake, having been without food for two or three days, emerged through that hole, hissing, raised its hood, and lay down on the bed.
Con rắn đã nhịn ăn hai ba ngày, chui ra khỏi lỗ đó, thở phì phì, phùng mang và nằm trên giường.
Māgaṇḍiyā taṃ disvā, ‘‘dhī dhī, deva, sappo’’ti mahāsaddaṃ katvā rājānañca tā ca akkosantī, ‘‘ayaṃ andhabālarājā alakkhiko mayhaṃ vacanaṃ na suṇāti, imāpi nissirīkā dubbinītā, kiṃ nāma rañño santikā na labhanti, kiṃ nu tumhe imasmiṃ mateyeva sukhaṃ jīvissatha, jīvante dukkhaṃ jīvatha, ‘ajja mayā pāpasupino diṭṭho, sāmāvatiyā pāsādaṃ gantuṃ na vaṭṭatī’ti vārentiyāpi me vacanaṃ na suṇasi, devā’’ti āha.
Māgaṇḍiyā, seeing it, made a loud noise, crying, "Oh, oh, Your Majesty, a snake!" and reviling both the king and the women, she said, "This blind, foolish king, devoid of auspiciousness, does not listen to my words. These women too are luckless and ill-disciplined. What indeed do they not receive from the king? Do you live happily only when this king is dead, and live miserably while he is alive? Your Majesty, you do not listen to my words, even though I warned you, saying, 'Today I had a bad dream, it is not proper to go to Sāmāvatī's palace.'"
Māgaṇḍiyā thấy con rắn đó liền lớn tiếng kêu lên: “Ôi! Ôi! Tâu Đại vương, rắn!” rồi chửi rủa nhà vua và các nàng ấy: “Vị vua ngu si, mù quáng này thật bất hạnh, không nghe lời ta. Những người đàn bà này cũng bất hạnh và hư hỏng. Các ngươi không nhận được gì từ nhà vua ư? Hay các ngươi sẽ sống sung sướng nếu ngài chết, và sống khổ sở nếu ngài còn sống? Tâu Đại vương, dù ta đã ngăn cản rằng ‘Hôm nay ta đã thấy một điềm ác trong giấc mơ, không nên đến cung điện của Sāmāvatī’, nhưng ngài vẫn không nghe lời ta!”
Rājā sappaṃ disvā maraṇabhayatajjito ‘‘evarūpampi nāma imā karissanti, aho pāpā, ahaṃ imāsaṃ pāpabhāvaṃ ācikkhantiyāpi imissā vacanaṃ na saddahiṃ, paṭhamaṃ attano gabbhesu chiddāni katvā nisinnā, puna mayā pesite kukkuṭe paṭipahiṇiṃsu, ajja sayane sappaṃ vissajjiṃsū’’ti kodhena sampajjalito viya ahosi.
The king, seeing the snake and terrified by the fear of death, became as if ablaze with anger, thinking, "These women would even do such a thing! Oh, how wicked! Even though she told me about their wickedness, I did not believe her words. First, they made holes in their own wombs, then they sent back the chickens I sent, and today they released a snake on the bed."
Nhà vua thấy con rắn, sợ chết run rẩy, nghĩ: “Những người đàn bà này dám làm chuyện như vậy ư? Ôi, thật độc ác! Dù Māgaṇḍiyā đã nói cho ta biết sự độc ác của họ, ta vẫn không tin lời nàng. Trước tiên, họ đã đục lỗ trong các căn phòng của mình và ngồi đó. Sau đó, khi ta sai gà đến, họ lại gửi trả. Hôm nay, họ đã thả rắn vào giường ngủ.” Nhà vua giận dữ như bốc cháy.
654
Sāmāvatīpi pañcannaṃ itthisatānaṃ ovādaṃ adāsi – ‘‘ammā, amhākaṃ aññaṃ paṭisaraṇaṃ natthi, narinde ca deviyā ca attani ca samameva mettacittaṃ pavattetha, mā kassaci kopaṃ karitthā’’ti.
Sāmāvatī also gave advice to the five hundred women: "Mothers, we have no other refuge. Cultivate a mind of loving-kindness equally towards the king, the queen, and yourselves. Do not be angry with anyone."
Sāmāvatī cũng khuyên năm trăm người phụ nữ: “Các chị em, chúng ta không có nơi nương tựa nào khác. Hãy tu dưỡng tâm từ bình đẳng đối với nhà vua, hoàng hậu và chính mình. Đừng nổi giận với bất kỳ ai.”
Rājā sahassathāmaṃ siṅgadhanuṃ ādāya jiyaṃ pothetvā visapītaṃ saraṃ sannayhitvā sāmāvatiṃ dhure katvā sabbā tā paṭipāṭiyā ṭhapāpetvā sāmāvatiyā ure saraṃ vissajjesi.
The king took a horn-bow of a thousand-man power, twanged the string, fitted a poison-tipped arrow, placed Sāmāvatī at the forefront, and having arranged all those women in a line, he shot the arrow at Sāmāvatī's chest.
Nhà vua cầm cây cung sừng có sức mạnh ngàn người, giương dây, lắp mũi tên tẩm độc, đặt Sāmāvatī đứng đầu, rồi sắp xếp tất cả các nàng theo thứ tự và bắn mũi tên vào ngực Sāmāvatī.
So tassā mettānubhāvena paṭinivattitvā āgatamaggābhimukhova hutvā rañño hadayaṃ pavisanto viya aṭṭhāsi.
By the power of her loving-kindness, that arrow turned back, and facing the path it had come, it stood as if entering the king's heart.
Nhờ oai lực của lòng từ bi của nàng, mũi tên quay trở lại và đứng yên như thể đang lao thẳng vào tim nhà vua, theo hướng nó đã đến.
Rājā cintesi – ‘‘mayā khitto saro silampi vinivijjhitvā gacchati, ākāse paṭihananakaṭṭhānaṃ natthi, atha ca panesa nivattitvā mama hadayābhimukho jāto, ayañhi nāma nissatto nijjīvo saropi etissā guṇaṃ jānāti, ahaṃ manussabhūtopi na jānāmī’’ti, so dhanuṃ chaḍḍetvā añjaliṃ paggayha sāmāvatiyā pādamūle ukkuṭikaṃ nisīditvā imaṃ gāthamāha –
The king thought: "An arrow shot by me pierces even stone and passes through; there is no place in the sky for it to be obstructed. Yet, this arrow has turned back and faced my heart. This arrow, being inanimate and lifeless, knows her virtue, but I, being a human, do not know it." So, he cast aside his bow, raised his hands in a gesture of reverence, knelt on one knee at Sāmāvatī's feet, and uttered this verse:
Nhà vua suy nghĩ: “Mũi tên ta bắn ra có thể xuyên thủng cả đá, trên không trung không có vật cản nào có thể chặn nó. Vậy mà nó lại quay trở lại và hướng vào tim ta. Ngay cả mũi tên vô tri, vô giác này cũng biết được đức hạnh của nàng, còn ta là con người mà lại không biết.” Nói rồi, ngài vứt cung xuống, chắp tay, quỳ gối dưới chân Sāmāvatī và đọc bài kệ này:
655
‘‘Sammuyhāmi pamuyhāmi, sabbā muyhanti me disā;
“I am bewildered, utterly bewildered; all directions are confused for me.
“Ta bối rối, ta mê muội, mọi phương hướng đều mờ mịt đối với ta;
656
Sāmāvati maṃ tāyassu, tvañca me saraṇaṃ bhavā’’ti.
Sāmāvatī, protect me, and be my refuge.”
Sāmāvatī, hãy che chở cho ta, nàng hãy là nơi nương tựa của ta.”
657
Sā tassa vacanaṃ sutvā, ‘‘sādhu, deva, maṃ saraṇaṃ gacchā’’ti avatvā, ‘‘yamahaṃ, mahārāja, saraṇaṃ gatā, tameva tvampi saraṇaṃ gacchāhī’’ti idaṃ vatvā sāmāvatī sammāsambuddhasāvikā –
Hearing his words, she did not say, “Very well, Your Majesty, take refuge in me,” but instead, being a female disciple of the Perfectly Self-Enlightened One, Sāmāvatī said, “The one in whom I have taken refuge, O Great King, in that very one should you also take refuge,” and then she said this:
Nghe lời ngài, nàng không nói: “Tâu Đại vương, xin hãy nương tựa vào thiếp,” mà nói: “Tâu Đại vương, Đức Thế Tôn mà thiếp nương tựa, xin ngài cũng hãy nương tựa vào Ngài!” Nói vậy, Sāmāvatī, một đệ tử của Đức Chánh Đẳng Giác,
658
‘‘Mā maṃ tvaṃ saraṇaṃ gaccha, yamahaṃ saraṇaṃ gatā;
“Do not take refuge in me, O Great King, but in whom I have taken refuge;
“Đại vương, xin đừng nương tựa vào thiếp, mà hãy nương tựa vào Đấng mà thiếp đã nương tựa;
659
Esa buddho mahārāja, esa buddho anuttaro;
This Buddha, O Great King, this Buddha is unsurpassed;
Đại vương, đó là Đức Phật, đó là Đức Phật vô thượng;
660
Saraṇaṃ gaccha taṃ buddhaṃ, tvañca me saraṇaṃ bhavā’’ti–
Take refuge in that Buddha, and be my refuge.”
Xin ngài hãy nương tựa vào Đức Phật ấy, và ngài hãy là nơi nương tựa của thiếp.”
661
Āha.
The king, hearing her words, said, “Now I am even more afraid,” and uttered this verse:
Nàng nói.
Rājā tassa vacanaṃ sutvā, ‘‘idānāhaṃ atirekataraṃ bhāyāmī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
“Now I am even more bewildered; all directions are confused for me.
Nghe lời nàng, nhà vua nói: “Giờ đây ta càng sợ hãi hơn,” và đọc bài kệ này:
662
‘‘Esa bhiyyo pamuyhāmi, sabbā muyhanti me disā;
Sāmāvatī, protect me, and be my refuge.”
“Ta càng bối rối hơn, mọi phương hướng đều mờ mịt đối với ta;
663
Sāmāvati maṃ tāyassu, tvañca me saraṇaṃ bhavā’’ti.
Then she rejected him again in the same manner as before. When he said, “In that case, I will take refuge in you and I will take refuge in the Teacher, and I will grant you a boon,” she replied, “Let the boon be accepted, O Great King.”
Sāmāvatī, hãy che chở cho ta, nàng hãy là nơi nương tựa của ta.”
664
Atha naṃ sā purimanayeneva puna paṭikkhipitvā, ‘‘tena hi tvañca saraṇaṃ gacchāmi, satthārañca saraṇaṃ gacchāmi, varañca te dammī’’ti vutte, ‘‘varo gahito hotu, mahārājā’’ti āha.
He went to the Teacher, took refuge, invited him, and offered a great alms-giving for seven days to the Sangha led by the Buddha. Then, calling Sāmāvatī, he said, “Arise, take a boon.”
Sau đó, nàng từ chối ngài theo cách trước đó. Khi ngài nói: “Vậy thì, ta cũng sẽ nương tựa vào nàng, và ta cũng sẽ nương tựa vào Đức Đạo Sư, và ta sẽ ban cho nàng một ân huệ,” nàng đáp: “Tâu Đại vương, xin ân huệ đã được chấp nhận.”
So satthāraṃ upasaṅkamitvā saraṇaṃ gantvā nimantetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa sattāhaṃ mahādānaṃ datvā sāmāvatiṃ āmantetvā, ‘‘uṭṭhehi, varaṃ gaṇhā’’ti āha.
“O Great King, I have no need for gold or other treasures. But grant me this boon: arrange it so that the Teacher, along with five hundred bhikkhus, comes here regularly, so that I may listen to the Dhamma.”
Ngài đến gặp Đức Đạo Sư, nương tựa vào Ngài, rồi cung thỉnh và dâng đại lễ cúng dường chư Tăng do Đức Phật dẫn đầu trong bảy ngày. Sau đó, ngài gọi Sāmāvatī và nói: “Hãy đứng dậy, và nhận ân huệ đi.”
‘‘Mahārāja, mayhaṃ hiraññādīhi attho natthi, imaṃ pana me varaṃ dehi, tathā karohi, yathā satthā nibaddhaṃ pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ idhāgacchati, dhammaṃ suṇissāmī’’ti.
The king bowed to the Teacher and said, “Venerable Sir, please come here regularly with five hundred bhikkhus, for Sāmāvatī and her companions say, ‘We wish to listen to the Dhamma.’”
Nàng đáp: “Tâu Đại vương, thiếp không cần vàng bạc hay những thứ tương tự. Xin ngài hãy ban cho thiếp ân huệ này: hãy sắp xếp sao cho Đức Đạo Sư thường xuyên đến đây cùng năm trăm vị Tỳ-khưu, để chúng thiếp có thể nghe Pháp.”
Rājā satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ nibaddhaṃ idhāgacchatha, sāmāvatimissikā ‘dhammaṃ suṇissāmā’ti vadantī’’ti āha.
“O Great King, it is not proper for Buddhas to go to one place regularly, for the great multitude awaits the Teacher’s coming.”
Nhà vua đảnh lễ Đức Đạo Sư và nói: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy thường xuyên đến đây cùng năm trăm vị Tỳ-khưu. Sāmāvatī và các nàng muốn nghe Pháp.”
‘‘Mahārāja, buddhānaṃ nāma ekasmiṃ ṭhāne nibaddhaṃ gantuṃ na vaṭṭati, mahājano satthāraṃ āgamanatthāya paccāsīsatī’’ti.
“In that case, Venerable Sir, please send one bhikkhu.”
Đức Thế Tôn đáp: “Tâu Đại vương, các vị Phật không nên thường xuyên đến một nơi duy nhất. Đại chúng sẽ mong đợi Đức Đạo Sư đến.”
‘‘Tena hi, bhante, ekaṃ bhikkhuṃ āṇāpethā’’ti.
The Teacher sent the Elder Ānanda.
“Vậy thì, bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy cử một vị Tỳ-khưu đến.”
Satthā ānandattheraṃ āṇāpesi.
From then on, he regularly went to the royal palace with five hundred bhikkhus.
Đức Đạo Sư đã cử Trưởng lão Ānanda.
So tato paṭṭhāya pañca bhikkhusatāni ādāya nibaddhaṃ rājakulaṃ gacchati.
The queens also regularly fed the Elder and his retinue, and listened to the Dhamma.
Kể từ đó, ngài thường xuyên đến cung vua cùng năm trăm vị Tỳ-khưu.
Tāpi deviyo nibaddhaṃ theraṃ saparivāraṃ bhojenti, dhammaṃ suṇanti.
One day, after listening to the Elder’s Dhamma talk, they were pleased and offered five hundred upper robes as an offering to the Dhamma.
Các hoàng hậu cũng thường xuyên cúng dường Trưởng lão và tùy tùng của ngài, và nghe Pháp.
Tā ekadivasaṃ therassa dhammakathaṃ sutvā pasīditvā, pañcahi uttarāsaṅgasatehi dhammapūjaṃ akaṃsu.
Each upper robe was worth five hundred*.
Một ngày nọ, sau khi nghe bài Pháp của Trưởng lão, các nàng hoan hỷ và cúng dường Pháp với năm trăm chiếc y thượng y.
Ekeko uttarāsaṅgo pañca satāni pañca satāni agghati.
Seeing them wearing only one garment, the king asked, “Where are your upper robes?”
Mỗi chiếc y thượng y trị giá năm trăm (đồng tiền).
665
Tā ekavatthā disvā rājā pucchi – ‘‘kuhiṃ vo uttarāsaṅgo’’ti.
“They were given to the venerable one.”
Thấy các nàng chỉ mặc một bộ y, nhà vua hỏi: “Y thượng y của các nàng đâu?”
‘‘Ayyassa no dinnā’’ti.
“So, were all of them taken?”
“Chúng thiếp đã cúng dường cho Ngài Ānanda.”
‘‘Tena sabbe gahitā’’ti?
“Yes, they were taken.”
“Vậy là ngài đã nhận tất cả sao?”
‘‘Āma, gahitā’’ti.
The king approached the Elder, paid homage, and asked about the offering of the upper robes by the queens. Hearing that they had given them and that the Elder had accepted them, he asked, “Venerable Sir, are not these robes too many? What will you do with so many?”
“Vâng, đã nhận hết.”
Rājā theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā tāhi uttarāsaṅgānaṃ dinnabhāvaṃ pucchitvā tāhi dinnabhāvañca therena gahitabhāvañca sutvā, ‘‘nanu, bhante, atibahūni vatthāni, ettakehi kiṃ karissathā’’ti pucchi.
“I will take enough robes for ourselves, O Great King, and give the rest to bhikkhus with worn-out robes.”
Nhà vua đến gặp Trưởng lão, đảnh lễ, hỏi về việc các nàng đã cúng dường y thượng y. Sau khi nghe rằng các nàng đã cúng dường và Trưởng lão đã nhận, ngài hỏi: “Bạch Thế Tôn, chẳng phải y phục quá nhiều sao? Ngài sẽ làm gì với ngần ấy y phục?”
‘‘Amhākaṃ pahonakāni vatthāni gaṇhitvā sesāni jiṇṇacīvarikānaṃ bhikkhūnaṃ dassāmi, mahārājā’’ti.
“What will they do with their own worn-out robes?”
“Tâu Đại vương, chúng tôi sẽ giữ lại những y phục đủ dùng cho mình, còn lại sẽ bố thí cho các Tỳ-khưu có y phục cũ rách.”
‘‘Te attano jiṇṇacīvarāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will give them to bhikkhus with even more worn-out robes.”
“Họ sẽ làm gì với y phục cũ rách của mình?”
‘‘Jiṇṇataracīvarikānaṃ dassantī’’ti.
“What will they do with their own even more worn-out robes?”
“Họ sẽ bố thí cho những vị có y phục cũ rách hơn.”
‘‘Te attano jiṇṇataracīvarāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will make them into coverings.”
“Họ sẽ làm gì với y phục cũ rách hơn của mình?”
‘‘Paccattharaṇāni karissantī’’ti.
“What will they do with the old coverings?”
“Họ sẽ dùng làm chiếu trải.”
‘‘Purāṇapaccattharaṇāni kiṃ karissantī’’ti?
“They will make them into ground coverings.”
“Họ sẽ làm gì với chiếu trải cũ?”
‘‘Bhūmattharaṇāni karissantī’’ti.
‘They will make ground coverings.’
“Họ sẽ dùng làm thảm trải sàn.”
‘‘Purāṇabhūmattharaṇāni kiṃ karissantī’’ti?
‘What will they do with the old ground coverings?’
“Họ sẽ làm gì với thảm trải sàn cũ?”
‘‘Pādapuñchanāni karissanti, mahārājā’’ti.
‘They will make foot-wipers, great king.’
“Họ sẽ dùng làm giẻ lau chân, tâu Đại vương.”
‘‘Purāṇapādapuñchanāni kiṃ karissantī’’ti?
‘What will they do with the old foot-wipers?’
“Họ sẽ làm gì với giẻ lau chân cũ?”
‘‘Khaṇḍākhaṇḍikaṃ koṭṭetvā mattikāya madditvā bhittiṃ limpissantī’’ti.
‘They will cut them into small pieces, pound them, mix them with clay, and plaster the walls with them.’
“Họ sẽ cắt thành từng mảnh nhỏ, trộn với đất sét và trát tường.”
‘‘Bhante, ettakāni katvāpi ayyānaṃ dinnāni na nassantī’’ti?
‘Venerable sir, even after doing all this, the robes given to the noble ones are not wasted, are they?’
“Bạch Thế Tôn, ngay cả khi đã làm tất cả những việc đó, những gì đã cúng dường cho các ngài vẫn không bị mất đi sao?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
‘Yes, great king.’
“Vâng, tâu Đại vương.”
Rājā pasanno aparānipi pañca vatthasatāni āharāpetvā therassa pādamūle ṭhapāpesi.
The king, pleased, had another five hundred robes brought and placed at the Elder’s feet.
Nhà vua hoan hỷ, sai mang thêm năm trăm bộ y phục nữa đến và đặt dưới chân Trưởng lão.
Thero kira pañcasatagghanakāneva vatthāni pañcasatabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni pañcasatakkhattuṃ labhi, sahassagghanakāni sahassabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni sahassakkhattuṃ labhi, satasahassagghanakāni satasahassabhāgena pādamūle ṭhapetvā dinnāni satasahassakkhattuṃ labhi.
The Elder, it is said, received five hundred times the robes worth five hundred, which were placed at his feet; he received a thousand times the robes worth a thousand, which were placed at his feet; and he received a hundred thousand times the robes worth a hundred thousand, which were placed at his feet.
Nghe nói, Trưởng lão đã nhận được y phục trị giá năm trăm (đồng tiền) năm trăm lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ năm trăm; đã nhận được y phục trị giá một ngàn (đồng tiền) một ngàn lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ một ngàn; đã nhận được y phục trị giá một trăm ngàn (đồng tiền) một trăm ngàn lần khi chúng được đặt dưới chân ngài theo tỷ lệ một trăm ngàn.
Ekaṃ dve tīṇi cattāri pañca dasātiādinā nayena laddhānaṃ pana gaṇanā nāma natthi.
However, there is no counting the robes received in the manner of one, two, three, four, five, ten, and so on.
Tuy nhiên, không thể đếm được số lượng y phục đã nhận theo cách một, hai, ba, bốn, năm, mười, v.v.
Tathāgate kira parinibbute thero sakalajambudīpaṃ vicaritvā sabbavihāresu bhikkhūnaṃ attano santakāneva pattacīvarāni adāsi.
It is said that after the Tathāgata had attained final Nibbāna, the Elder traveled throughout the entire Jambudīpa, giving his own bowls and robes to the bhikkhus in all the monasteries.
Nghe nói, sau khi Đức Như Lai nhập Niết-bàn, Trưởng lão đã du hành khắp toàn cõi Jambudīpa và bố thí y bát của chính mình cho các Tỳ-khưu ở tất cả các tu viện.
666
Tadā māgaṇḍiyāpi ‘‘yamahaṃ karomi.
Then Māgaṇḍiyā also thought, “Whatever I do,
Lúc đó, Māgaṇḍiyā cũng nghĩ: “Những gì ta làm đều không thành công mà lại trở thành một cách khác. Giờ ta phải làm gì đây?” Rồi nàng nghĩ: “Có cách này!” Khi nhà vua đi chơi vườn, nàng gửi một thông điệp cho chú của mình:
Taṃ tathā ahutvā aññathāva hoti, idāni kiṃ nu kho karissāmī’’ti cintetvā, ‘‘attheso upāyo’’ti raññe uyyānakīḷaṃ gacchante cūḷapitu sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘sāmāvatiyā pāsādaṃ gantvā, dussakoṭṭhāgārāni ca telakoṭṭhāgārāni ca vivarāpetvā, dussāni telacāṭīsu temetvā temetvā thambhe veṭhetvā tā sabbāpi ekato katvā dvāraṃ pidahitvā bahi yantakaṃ datvā daṇḍadīpikāhi gehe aggiṃ dadamāno otaritvā gacchatū’’ti.
it does not turn out as intended but otherwise. What shall I do now?” Thinking, “There is this stratagem,” she sent a message to the king’s uncle when the king went to play in the park: “Go to Sāmāvatī’s palace, have the cloth storerooms and oil storerooms opened, soak the cloths repeatedly in oil jars, wrap them around the pillars, gather all the women together, close the door, lock it from the outside, and then, setting fire to the house with torches, descend and leave.”
“Hãy đến cung điện của Sāmāvatī, mở các kho chứa y phục và kho chứa dầu, nhúng y phục vào các chum dầu, rồi quấn quanh các cột. Sau đó, gom tất cả các nàng lại một chỗ, đóng cửa, khóa bên ngoài, rồi dùng đuốc châm lửa vào nhà và đi xuống.”
So pāsādaṃ abhiruyha koṭṭhāgārāni vivaritvā vatthāni telacāṭīsu temetvā temetvā thambhe veṭhetuṃ ārabhi.
So he ascended the palace, opened the storerooms, and began to soak cloths repeatedly in oil jars and wrap them around the pillars.
Chú của nàng leo lên cung điện, mở các kho chứa, và bắt đầu nhúng y phục vào các chum dầu rồi quấn quanh các cột.
Atha naṃ sāmāvatippamukhā itthiyo ‘‘kiṃ etaṃ cūḷapitā’’ti vadantiyo upasaṅkamiṃsu.
Then the women, led by Sāmāvatī, approached him, saying, “Uncle, what is this?”
Lúc đó, các nàng phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu đến gần và hỏi: “Chú ơi, cái gì vậy ạ?”
‘‘Ammā, rājā daḷhikammatthāya ime thambhe telapilotikāhi veṭhāpeti, rājagehe nāma suyuttaṃ duyuttaṃ dujjānaṃ, mā me santike hotha, ammā’’ti evaṃ vatvā tā āgatā gabbhe pavesetvā dvārāni pidahitvā bahi yantakaṃ datvā ādito paṭṭhāya aggiṃ dento otari.
He said, “My dear daughters, the king is having these pillars wrapped with oil-soaked cloths for strengthening. In a royal palace, what is proper and what is improper is hard to know. Do not stay near me, my dear daughters.” Having said this, he led the women who had come into the inner chamber, closed the doors, locked them from the outside, and then, setting fire to the house from the beginning, descended.
"Mẹ ơi, nhà vua đang sai quấn những cây cột này bằng vải tẩm dầu để gia cố, trong cung vua thì chuyện đúng sai, chuyện nên hay không nên làm rất khó biết. Mẹ đừng ở gần con, mẹ ơi!" Nói vậy, ông ta đưa những người phụ nữ đã đến vào phòng, đóng cửa lại, khóa chốt bên ngoài, rồi bắt đầu châm lửa từ dưới mà đi xuống.
Sāmāvatī tāsaṃ ovādaṃ adāsi – ‘‘amhākaṃ anamatagge saṃsāre vicarantīnaṃ evameva agginā jhāyamānānaṃ attabhāvānaṃ paricchedo buddhañāṇenapi na sukaro, appamattā hothā’’ti.
Sāmāvatī gave them advice: “For us, wandering in this beginningless Saṃsāra, the limit of our existences, which have been burned by fire in this very way, is not easy to ascertain even with the Buddha’s knowledge. Be diligent!”
Sāmāvatī đã khuyên nhủ họ: "Trong vòng luân hồi vô thủy vô chung của chúng ta, những thân thể bị lửa thiêu đốt như vậy nhiều không kể xiết, ngay cả trí tuệ của Đức Phật cũng khó mà tính hết được. Hãy sống không phóng dật!"
Tā gehe jhāyante vedanāpariggahakammaṭṭhānaṃ manasikarontiyo kāci dutiyaphalaṃ, kāci tatiyaphalaṃ pāpuṇiṃsu.
While the house was burning, they focused on the meditation subject of comprehending feeling, and some attained the second fruit (Sakadāgāmī-phala), and some attained the third fruit (Anāgāmī-phala).
Khi lửa cháy trong nhà, họ đã chú tâm vào đề mục quán thọ, một số đạt được quả vị thứ hai (Nhất Lai), một số đạt được quả vị thứ ba (Bất Hoàn).
Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sambahulā bhikkhū pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘idha, bhante, rañño utenassa uyyānagatassa antepuraṃ daḍḍhaṃ, pañca ca itthisatāni kālakatāni sāmāvatippamukhāni.
Therefore, it was said: “Then, a number of bhikkhus, having returned from their alms-round after their meal, approached the Blessed One. Having approached and paid homage to the Blessed One, they sat down to one side. As they sat to one side, those bhikkhus said to the Blessed One: ‘Here, Venerable sir, while King Udena was in the park, his inner palace was burned down, and five hundred women, led by Sāmāvatī, have passed away.
Vì vậy, đã được nói rằng: "Sau đó, nhiều Tỳ-khưu, sau khi thọ trai và trở về từ khất thực, đã đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy đã bạch với Đức Thế Tôn rằng: 'Bạch Ngài, ở đây, nội cung của vua Utena đã bị cháy, năm trăm người phụ nữ, đứng đầu là Sāmāvatī, đã qua đời.
Tāsaṃ, bhante, upāsikānaṃ kā gati, ko abhisamparāyo’ti?
Venerable sir, what is the destiny of those female lay followers? What is their future state?’
Bạch Ngài, những nữ cư sĩ ấy đã tái sinh vào cảnh giới nào, và tương lai của họ ra sao?'
Santettha, bhikkhave, upāsikāyo sotāpannā, santi sakadāgāmiyo, santi anāgāmiyo, sabbā tā, bhikkhave, upāsikāyo anipphalā kālakatā’’ti.
‘Bhikkhus, among these female lay followers, there are Stream-Enterers, there are Once-Returners, there are Non-Returners. All those female lay followers, bhikkhus, have passed away having achieved their fruits.’
Này các Tỳ-khưu, trong số những nữ cư sĩ này, có những vị đã chứng quả Dự Lưu, có những vị đã chứng quả Nhất Lai, có những vị đã chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỳ-khưu, tất cả những nữ cư sĩ ấy đã qua đời mà không mất đi thành quả (đạo quả) của mình."
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi –
Then, the Blessed One, having understood this matter, on that occasion uttered this solemn utterance (udāna)—
Sau đó, Đức Thế Tôn biết được ý nghĩa này, vào lúc đó, Ngài đã thốt lên lời cảm hứng này:
667
‘‘Mohasambandhano loko, bhabbarūpova dissati;
“The world is bound by delusion; it appears as if it is destined for liberation;
"Thế gian bị trói buộc bởi si mê, dường như có khả năng (giải thoát);
668
Upadhībandhano bālo, tamasā parivārito;
The fool is bound by attachments, enveloped in darkness;
Kẻ ngu bị trói buộc bởi chấp thủ, bị bao phủ bởi bóng tối;
669
Sassatoriva khāyati, passato natthi kiñcana’’nti.(udā. 70);
It appears as eternal, but for one who truly sees, there is nothing at all.”
Dường như vĩnh cửu, nhưng đối với người thấy rõ thì không có gì cả."
670
Evañca pana vatvā, ‘‘bhikkhave, sattā nāma vaṭṭe vicarantā niccakālaṃ appamattā hutvā puññakammameva na karonti, pamādino hutvā pāpakammampi karonti.
And having said this, he taught the Dhamma, saying, “Bhikkhus, beings, while wandering in Saṃsāra, do not always perform only meritorious deeds diligently; being heedless, they also perform evil deeds.
Và sau khi nói như vậy, Ngài đã thuyết Pháp rằng: "Này các Tỳ-khưu, chúng sinh khi luân chuyển trong vòng sinh tử, không phải lúc nào cũng không phóng dật mà chỉ làm việc thiện; họ cũng phóng dật mà làm việc ác.
Tasmā vaṭṭe vicarantā sukhampi dukkhampi anubhavantī’’ti dhammaṃ desesi.
Therefore, while wandering in Saṃsāra, they experience both happiness and suffering.”
Vì vậy, khi luân chuyển trong vòng sinh tử, họ phải trải nghiệm cả hạnh phúc lẫn khổ đau."
671
Rājā ‘‘sāmāvatiyā gehaṃ kira jhāyatī’’ti sutvā vegenāgacchantopi adaḍḍhe sampāpuṇituṃ nāsakkhi.
The king, hearing, "Sāmāvatī's house is burning, it is said," though he came swiftly, could not reach it before it was completely burnt.
Vua nghe nói "Cung điện của Sāmāvatī đang cháy", dù vội vàng đến cũng không kịp đến trước khi lửa thiêu rụi. Đến nơi, vua dập lửa trong cung điện, với nỗi buồn sâu sắc dâng trào, ngồi xuống cùng với đoàn tùy tùng, nhớ lại những đức tính của Sāmāvatī, rồi suy nghĩ: "Đây là nghiệp của ai vậy?" Sau khi biết rằng "Chắc là do Māgaṇḍiyā gây ra", vua nghĩ: "Nếu dọa nạt mà hỏi thì cô ta sẽ không nói đâu, mình sẽ từ từ hỏi bằng mưu mẹo." Rồi vua nói với các quan: "Này các khanh, trước đây ta luôn sống trong nghi ngờ, Sāmāvatī luôn tìm cách hãm hại ta, nhưng bây giờ tâm ta sẽ được an lạc, và ta sẽ có thể sống một cách thoải mái." Các quan hỏi: "Bạch Đức Vua, ai đã làm điều này vậy?"
Āgantvā pana gehaṃ nibbāpento uppannabalavadomanasso amaccagaṇaparivuto nisīditvā sāmāvatiyā guṇe anussaranto, ‘‘kassa nu kho idaṃ kamma’’nti cintetvā – ‘‘māgaṇḍiyāya kāritaṃ bhavissatī’’ti ñatvā, ‘‘tāsetvā pucchiyamānā na kathessati, saṇikaṃ upāyena pucchissāmī’’ti cintetvā amacce āha – ‘‘ambho, ahaṃ ito pubbe uṭṭhāya samuṭṭhāya āsaṅkitaparisaṅkitova homi, sāmāvatī me niccaṃ otārameva gavesati, idāni pana me cittaṃ nibbutaṃ bhavissati, sukhena ca vasituṃ labhissāmī’’ti, te ‘‘kena nu kho, deva, idaṃ kata’’nti āhaṃsu.
Having arrived, he extinguished the fire in the house, and filled with intense grief, surrounded by his retinue of ministers, he sat down, recollecting Sāmāvatī's virtues. He reflected, "Whose deed could this be?" and realizing, "It must have been done by Māgaṇḍiyā," he thought, "If she is questioned through intimidation, she will not confess; I will question her slowly, by stratagem." He then said to his ministers, "Sirs, before this, whenever I arose or stirred, I was always suspicious and apprehensive. Sāmāvatī was always seeking an opportunity against me. But now my mind will be at peace, and I will be able to live happily." They asked, "By whom, O King, was this done?"
"Chắc là do một người nào đó yêu thương ta đã làm."
‘‘Mayi sinehena kenaci kataṃ bhavissatī’’ti.
"It must have been done by someone out of affection for me."
"Chắc là do một người nào đó yêu thương ta đã làm."
Māgaṇḍiyāpi samīpe ṭhitā taṃ sutvā, ‘‘nāñño koci kātuṃ sakkhissati, mayā kataṃ, deva, ahaṃ cūḷapitaraṃ āṇāpetvā kāresi’’nti āha.
Māgaṇḍiyā, who was standing nearby, heard this and said, "No one else could have done it. I did it, O King. I ordered my maternal uncle to do it."
Māgaṇḍiyā đang đứng gần đó, nghe vậy liền nói: "Không ai khác có thể làm được, chính thiếp đã làm, thưa Đức Vua. Thiếp đã sai chú của thiếp làm điều đó."
‘‘Taṃ ṭhapetvā añño mayi sineho satto nāma natthi, pasannosmi, varaṃ te dammi, attano ñātigaṇaṃ pakkosāpehī’’ti.
"Apart from you, there is no other being who has affection for me. I am pleased. I grant you a boon. Summon your relatives."
"Ngoài nàng ra, không có chúng sinh nào yêu thương ta cả. Ta rất hài lòng, ta ban cho nàng một ân huệ, hãy gọi thân quyến của nàng đến."
Sā ñātakānaṃ sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘rājā me pasanno varaṃ deti, sīghaṃ āgacchantū’’ti.
She sent a message to her relatives: "The king is pleased with me and grants me a boon; come quickly!"
Nàng gửi tin cho thân quyến: "Vua đã hài lòng với thiếp và ban cho thiếp một ân huệ, hãy mau đến!"
Rājā āgatāgatānaṃ mahantaṃ sakkāraṃ kāresi.
The king bestowed great honors upon all who arrived.
Vua đã trọng đãi những người đến.
Taṃ disvā tassā aññātakāpi lañjaṃ datvā ‘‘mayaṃ māgaṇḍiyāya ñātakā’’ti āgacchiṃsu.
Seeing this, even those who were not her relatives came, offering bribes and claiming, "We are Māgaṇḍiyā's relatives."
Thấy vậy, những người không phải bà con của nàng cũng hối lộ và nói: "Chúng tôi là bà con của Māgaṇḍiyā" mà đến.
Rājā te sabbe gāhāpetvā rājaṅgaṇe nābhippamāṇe āvāṭe khaṇāpetvā te tattha nisīdāpetvā paṃsūhi pūretvā upari palāle vikirāpetvā aggiṃ dāpesi.
The king had all of them seized, had pits dug in the royal courtyard to the depth of their navels, had them seated there, filled the pits with earth, had straw scattered over them, and had them set on fire.
Vua sai bắt tất cả bọn họ, đào những cái hố sâu ngang rốn trong sân cung điện, bắt họ ngồi vào đó, lấp đất lại, rải rơm lên trên và đốt lửa.
Cammassa daḍḍhakāle ayanaṅgalena kasāpetvā khaṇḍākhaṇḍaṃ hīrāhīraṃ kāresi.
When their skin was burnt, he had them plowed with iron ploughshares, tearing them into pieces and shreds.
Khi da bị cháy, vua sai dùng lưỡi cày sắt cày xới, biến họ thành từng mảnh vụn.
Māgaṇḍiyāya sarīratopi tikhiṇena satthena ghanaghanaṭṭhānesu maṃsaṃ uppāṭetvā telakapālaṃ uddhanaṃ āropetvā pūve viya pacāpetvā tameva khādāpesi.
Also, from Māgaṇḍiyā's body, he had the flesh torn from the thick parts with a sharp knife, had an oil pan placed on a stove, cooked it like cakes, and made her eat it herself.
Từ thân thể của Māgaṇḍiyā, vua sai dùng dao sắc bén cắt từng miếng thịt ở những chỗ dày, đặt nồi dầu lên bếp, chiên như bánh và bắt chính nàng ăn.
672
Dhammasabhāyampi bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ, ‘‘ananucchavikaṃ vata, āvuso, evarūpāya saddhāya pasannāya upāsikāya evarūpaṃ maraṇa’’nti.
In the Dhamma hall too, the bhikkhus raised a discussion, "Friends, such a death is indeed unfitting for a devoted and faithful laywoman of such qualities."
Trong Pháp đường, các Tỳ-khưu cũng khởi lên câu chuyện: "Thật không xứng đáng chút nào, này các Hiền giả, cho một nữ cư sĩ có đức tin trong sạch như vậy lại phải chịu cái chết như thế này."
Satthā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘bhikkhave, imasmiṃ attabhāve sāmāvatippamukhānaṃ itthīnaṃ etaṃ ayuttaṃ sampattaṃ.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you discussing now?" When they replied, "This one," he said, "Bhikkhus, in this very existence, such a fate was unsuitable for women like Sāmāvatī and her companions.
Đức Đạo Sư đến, hỏi: "Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi lại với câu chuyện gì vậy?" Khi được bạch: "Bạch Ngài, với câu chuyện này", Ngài nói: "Này các Tỳ-khưu, trong kiếp sống này, cái chết này đã đến với những người phụ nữ đứng đầu là Sāmāvatī là điều không xứng đáng.
Pubbe katakammassa pana yuttameva etāhi laddha’’nti vatvā, ‘‘kiṃ, bhante, etāhi pubbe kataṃ, taṃ ācikkhathā’’ti tehi yācito atītaṃ āhari –
However, it was indeed fitting for them to receive the result of their past Kamma." When asked by them, "Venerable Sir, what Kamma did they perform in the past? Please relate it," he recounted a past event:
Nhưng vì nghiệp đã tạo trong quá khứ, điều này là xứng đáng mà họ đã nhận được." Khi được các Tỳ-khưu thỉnh cầu: "Bạch Ngài, họ đã làm nghiệp gì trong quá khứ, xin Ngài hãy kể cho chúng con nghe", Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ:
673
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente rājagehe nibaddhaṃ aṭṭha paccekabuddhā bhuñjanti.
In the past, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, eight Paccekabuddhas regularly took their meals in the royal palace.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, tám vị Độc Giác Phật thường xuyên thọ thực tại cung điện của vua.
Pañcasatā itthiyo te upaṭṭhahanti.
Five hundred women attended to them.
Năm trăm người phụ nữ hầu hạ các vị ấy.
Tesu satta paccekabuddhā himavantaṃ gacchanti, eko nadītīre ekaṃ tiṇagahanaṃ atthi, tattha jhānaṃ samāpajjitvā nisīdi.
Of these, seven Paccekabuddhas went to the Himālaya, and one sat down to enter jhāna in a certain thicket of grass on the riverbank.
Trong số đó, bảy vị Độc Giác Phật đã đi đến Himavanta, còn một vị ngồi thiền định trong một bụi cỏ bên bờ sông.
Athekadivasaṃ rājā paccekabuddhesu gatesu tā itthiyo ādāya nadiyaṃ udakakīḷaṃ kīḷituṃ gato.
Then, one day, after the Paccekabuddhas had departed, the king took those women and went to play in the water in the river.
Một ngày nọ, khi các vị Độc Giác Phật đã đi, vua dẫn những người phụ nữ ấy đến sông để vui chơi dưới nước.
Tattha tā itthiyo divasabhāgaṃ udake kīḷitvā uttaritvā sītapīḷitā aggiṃ visibbetukāmā ‘‘amhākaṃ aggikaraṇaṭṭhānaṃ olokethā’’ti aparāparaṃ vicarantiyo taṃ tiṇagahanaṃ disvā, ‘‘tiṇarāsī’’ti saññāya taṃ parivāretvā ṭhitā aggiṃ adaṃsu.
There, after those women had played in the water for a day, they came out, were afflicted by cold, and wished to warm themselves by a fire. As they searched here and there, saying, "Look for a place for us to make a fire," they saw that thicket of grass, and mistaking it for a pile of grass, they surrounded it and lit a fire.
Ở đó, những người phụ nữ ấy đã vui chơi dưới nước suốt cả ngày, rồi lên bờ, vì bị lạnh nên muốn sưởi ấm. Họ đi tìm chỗ đốt lửa, thấy bụi cỏ ấy, lầm tưởng là đống cỏ khô, liền vây quanh và châm lửa.
Tiṇesu jhāyitvā patantesu paccekabuddhaṃ disvā, ‘‘naṭṭhāmhā, amhākaṃ rañño paccekabuddho jhāyati, rājā ñatvā amhe nāsessati, sudaḍḍhaṃ naṃ karissāmā’’ti sabbā tā itthiyo ito cito ca dārūni āharitvā tassa upari dārurāsiṃ kariṃsu.
When the grass burnt down and fell, they saw the Paccekabuddha and exclaimed, "We are ruined! Our king's Paccekabuddha is burning! When the king finds out, he will destroy us! Let's make sure he is thoroughly burnt!" Saying this, all those women brought firewood from here and there and piled it on top of him.
Khi cỏ cháy và tàn lụi, họ thấy vị Độc Giác Phật, liền nói: "Chúng ta tiêu rồi! Đức Độc Giác Phật của vua chúng ta đang bị cháy! Nếu vua biết được, ngài sẽ giết chúng ta. Hãy làm cho ngài ấy cháy thật kỹ!" Tất cả những người phụ nữ ấy liền mang củi từ khắp nơi đến, chất thành đống lớn trên người Ngài.
Mahādārurāsi ahosi.
It became a huge pile of wood.
Đống củi ấy rất lớn.
Atha naṃ ālimpetvā, ‘‘idāni jhāyissatī’’ti pakkamiṃsu.
Then, after setting it ablaze, they left, thinking, "Now he will surely burn."
Sau đó, họ châm lửa vào đống củi, nghĩ: "Bây giờ Ngài sẽ cháy hết", rồi bỏ đi.
Tā paṭhamaṃ asañcetanikā hutvā kammunā na bajjhiṃsu, idāni pacchā sañcetanāya kammunā bajjhiṃsu.
At first, being unintentional, they were not bound by Kamma, but afterwards, through intention, they became bound by Kamma.
Ban đầu, những người phụ nữ ấy không có tác ý nên không bị ràng buộc bởi nghiệp. Nhưng sau đó, với tác ý, họ bị ràng buộc bởi nghiệp.
Paccekabuddhaṃ pana antosamāpattiyaṃ sakaṭasahassehi dārūni āharitvā ālimpentāpi usmākāramattampi gahetuṃ na sakkonti.
However, as the Paccekabuddha was in absorption, even though they brought thousands of cartloads of wood and piled it on him, they could not even generate a trace of heat.
Tuy nhiên, khi một vị Độc Giác Phật đang nhập thiền định, dù người ta có mang hàng ngàn xe củi đến đốt cũng không thể làm ngài nóng dù chỉ một chút hơi ấm.
Tasmā so sattame divase uṭṭhāya yathāsukhaṃ agamāsi.
Therefore, on the seventh day, he arose and departed as he pleased.
Vì vậy, vào ngày thứ bảy, ngài đã xuất thiền và an nhiên rời đi.
Tā tassa kammassa katattā bahūni vassasatasahassāni niraye paccitvā tasseva kammassa vipākāvasesena attabhāvasate imināva niyāmena gehe jhāyamāne jhāyiṃsu.
Because they had performed that Kamma, they suffered in hell for many hundreds of thousands of years, and as a remnant of the result of that very Kamma, in hundreds of existences, they were burnt in houses that caught fire in the same manner.
Do đã tạo nghiệp đó, những người phụ nữ ấy đã phải chịu khổ trong địa ngục suốt hàng trăm ngàn năm, và do quả báo còn sót lại của nghiệp ấy, trong hàng trăm kiếp sống, họ đã bị thiêu cháy trong nhà theo cùng một cách này.
Idaṃ etāsaṃ pubbakammanti.
This was their past Kamma."
Đây là nghiệp quá khứ của những người phụ nữ ấy.
674
Evaṃ vutte bhikkhū satthāraṃ paṭipucchiṃsu – ‘‘khujjuttarā pana, bhante, kena kammena khujjā jātā, kena kammena mahāpaññā, kena kammena sotāpattiphalaṃ adhigatā, kena kammena paresaṃ pesanakāritā jātā’’ti?
When this was said, the bhikkhus in turn asked the Teacher, "Venerable Sir, by what Kamma was Khujjuttarā born hunchbacked? By what Kamma did she acquire great wisdom? By what Kamma did she attain the fruit of Stream-entry? By what Kamma was she born to serve others?"
Khi được hỏi như vậy, các Tỳ-khưu đã hỏi lại Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Khujjuttarā do nghiệp gì mà trở nên lưng gù? Do nghiệp gì mà có trí tuệ lớn? Do nghiệp gì mà chứng đắc quả Dự Lưu? Và do nghiệp gì mà phải làm người sai vặt cho người khác?”
Bhikkhave, tasseva rañño bārāṇasiyaṃ rajjaṃ karaṇakāle sveva paccekabuddho thokaṃ khujjadhātuko ahosi.
"Bhikkhus, when that very King Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, that same Paccekabuddha was slightly hunchbacked.
Này các Tỳ-khưu, vào thời vị vua ấy trị vì ở Bārāṇasī, chính vị Độc Giác Phật ấy có một chút tật lưng gù.
Athekā upaṭṭhāyikā itthī kambalaṃ pārupitvā suvaṇṇasaraṇaṃ gahetvā, ‘‘amhākaṃ paccekabuddho evañca evañca vicaratī’’ti khujjā hutvā tassa vicaraṇākāraṃ dassesi.
Then, a female attendant, wrapping herself in a blanket and holding a golden bowl, demonstrated the manner of that Paccekabuddha's movement, becoming hunchbacked and saying, 'Our Paccekabuddha moves in such and such a way.'
Bấy giờ, một người nữ thị giả, khoác tấm chăn và cầm chén vàng, đã bắt chước dáng đi của vị Độc Giác Phật ấy mà nói: “Độc Giác Phật của chúng ta đi như thế này, như thế này,” rồi cô ta trở nên lưng gù.
Tassa nissandena khujjā jātā.
As a consequence of that, she was born hunchbacked.
Do hậu quả của nghiệp ấy, cô ta đã trở nên lưng gù.
Te pana paccekabuddhe paṭhamadivase rājagehe nisīdāpetvā patte gāhāpetvā pāyāsassa pūretvā dāpesi.
However, on the first day, he had those Paccekabuddhas seated in the royal palace, had them take their bowls, filled them with milk-rice, and offered it.
Tuy nhiên, vào ngày đầu tiên, cô ta đã mời các vị Độc Giác Phật ngồi trong hoàng cung, trao bát cho họ và dâng đầy cơm sữa.
Uṇhapāyāsassa pūre patte paccekabuddhā parivattetvā parivattetvā gaṇhanti.
The Paccekabuddhas had to turn their bowls around and around to take the hot milk-rice.
Các vị Độc Giác Phật phải xoay đi xoay lại bát đầy cơm sữa nóng để nhận lấy.
Sā itthī te tathā karonte disvā attano santakāni aṭṭha dantavalayāni datvā, ‘‘idha ṭhapetvā gaṇhathā’’ti āha.
That woman, seeing them doing so, gave her own eight ivory bracelets and said, "Place these here and take it."
Người phụ nữ ấy, thấy các vị ấy làm như vậy, liền trao tám chiếc vòng ngà của mình và nói: “Xin các ngài hãy đặt ở đây và nhận lấy.”
Tesu tathā katvā taṃ oloketvā ṭhitesu tesaṃ adhippāyaṃ ñatvā, ‘‘natthi, bhante, amhākaṃ etehi attho.
When they had done so, and looked at her, understanding their intention, she said, "Venerable Sirs, we have no need of these.
Khi các vị ấy làm theo lời và đứng nhìn cô, cô hiểu ý của họ và nói: “Bạch các ngài, chúng con không cần những chiếc vòng này.
Tumhākaññeva etāni pariccattāni, gahetvā gacchathā’’ti āha.
These are donated to you yourselves; please take them and go."
Những chiếc vòng này đã được dâng cúng cho chính các ngài. Xin các ngài hãy nhận lấy và đi đi.”
Te gahetvā nandamūlakapabbhāraṃ agamaṃsu.
They took them and went to the Nandamūlaka cave.
Các vị ấy nhận lấy và đi đến hang Nandamūlaka.
Ajjatanāpi tāni valayāni arogāneva.
Even today, those bracelets remain undamaged.
Cho đến ngày nay, những chiếc vòng ấy vẫn còn nguyên vẹn.
Sā tassa kammassa nissandena idāni tipiṭakadharā mahāpaññā jātā.
As a consequence of that Kamma, she is now a great sage who knows the Three Piṭakas.
Do quả báo của nghiệp thiện ấy, bây giờ cô ấy đã trở thành một người thông thạo Tam Tạng, có đại trí tuệ.
Paccekabuddhānaṃ kataupaṭṭhānassa nissandena pana sotāpattiphalaṃ pattā.
But as a consequence of having attended to the Paccekabuddhas, she attained the fruit of Stream-entry.
Còn do quả báo của việc cúng dường các vị Độc Giác Phật, cô ấy đã chứng đắc quả Dự Lưu.
Idamassā buddhantare pubbakammaṃ.
This was her past Kamma between Buddhas."
Đây là nghiệp quá khứ của cô ấy trong khoảng thời gian giữa hai vị Phật.
675
Kassapasammāsambuddhakāle pana ekā bārāṇasiseṭṭhino dhītā vaḍḍhamānakacchāyāya ādāsaṃ gahetvā attānaṃ alaṅkarontī nisīdi.
"Furthermore, in the time of Kassapa Sammāsambuddha, a daughter of a wealthy merchant in Bārāṇasī was sitting, adorning herself with a mirror in the increasing shadow of the evening.
Vào thời Đức Chánh Đẳng Chánh Giác Kassapa, có một cô con gái của trưởng giả ở Bārāṇasī đang ngồi trang điểm cho mình bằng cách cầm gương vào lúc bóng chiều tà.
Athassā vissāsikā ekā khīṇāsavā bhikkhunī taṃ daṭṭhuṃ agamāsi.
Then, a certain female Arahant, who was a close friend of hers, came to see her.
Lúc đó, một nữ Tỳ-khưu ni đã diệt tận các lậu hoặc, là bạn thân của cô ấy, đến thăm cô.
Bhikkhuniyo hi khīṇāsavāpi sāyanhasamaye upaṭṭhākakulāni daṭṭhukāmā honti.
Indeed, even Arahant bhikkhunīs desire to visit supporting families in the evening.
Thật vậy, các nữ Tỳ-khưu ni, dù đã diệt tận các lậu hoặc, vẫn muốn thăm viếng các gia đình hộ độ vào buổi chiều.
Tasmiṃ pana khaṇe seṭṭhidhītāya santike kāci pesanakārikā natthi, sā ‘‘vandāmi, ayye, etaṃ tāva me pasādhanapeḷakaṃ gahetvā dethā’’ti āha.
At that moment, there was no maidservant near the merchant's daughter, so she said, "Venerable One, I pay homage. Please, first, take this ornament casket and give it to me."
Vào lúc ấy, không có người hầu nào ở bên cạnh con gái của trưởng giả. Cô ấy nói: “Bạch Sư cô, con xin đảnh lễ. Xin Sư cô hãy lấy giúp con hộp trang sức này.”
Therī cintesi – ‘‘sacassā imaṃ gaṇhitvā na dassāmi, mayi āghātaṃ katvā niraye nibbattissati.
The Therī thought, "If I take this and do not give it to her, she will conceive hatred towards me and be reborn in hell.
Vị Trưởng lão ni suy nghĩ: “Nếu ta không lấy nó đưa cho cô ấy, cô ấy sẽ oán giận ta và sẽ tái sinh vào địa ngục.
Sace pana dassāmi, parassa pesanakārikā hutvā nibbattissati.
But if I give it to her, she will be reborn as a servant to others.
Nhưng nếu ta đưa cho cô ấy, cô ấy sẽ tái sinh làm người hầu của người khác.
Nirayasantāpato kho pana parassa pesanabhāvova seyyo’’ti.
However, being a servant to others is better than the torment of hell."
Thật vậy, làm người hầu của người khác vẫn tốt hơn là chịu khổ trong địa ngục.”
‘‘Sā anudayaṃ paṭicca taṃ gahetvā tassā adāsi.
Out of compassion, she took it and gave it to her.
Vì lòng từ bi, Sư cô đã lấy và đưa nó cho cô ấy.
Tassa kammassa nissandena paresaṃ pesanakārikā jātā’’ti.
As a consequence of that Kamma, she was born to serve others."
Do quả báo của nghiệp ấy, cô ấy đã trở thành người hầu của người khác.
676
Atha punekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo gehe agginā jhāyiṃsu, māgaṇḍiyāya ñātakā upari palālaggiṃ datvā ayanaṅgalehi bhinnā, māgaṇḍiyā pakkuthitatele pakkā, ke nu kho ettha jīvanti nāma, ke matā nāmā’’ti.
Then, one day, the bhikkhus in the Dhamma hall raised a discussion: "The five hundred women led by Sāmāvatī were burnt by fire in the house; Māgaṇḍiyā's relatives were torn apart by iron ploughshares after straw fires were set on them; Māgaṇḍiyā was cooked in boiling oil. Who among these, then, are considered alive, and who are considered dead?"
Một ngày khác, các Tỳ-khưu khởi lên một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Năm trăm người phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu đã bị thiêu cháy trong nhà; bà con của Māgaṇḍiyā đã bị đâm bằng cày sắt sau khi bị đốt bằng lửa rơm; Māgaṇḍiyā đã bị luộc trong dầu sôi. Ai trong số này còn sống, và ai đã chết?”
Satthā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, ye keci pamattā, te vassasataṃ jīvantāpi matāyeva nāma.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you discussing now?" When they replied, "This one," he said, "Bhikkhus, whoever are negligent, even if they live for a hundred years, are considered dead.
Đức Thế Tôn đến và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Thưa Thế Tôn, về chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, bất cứ ai sống buông lung, dù sống trăm năm cũng coi như đã chết.
Ye appamattā, te matāpi jīvantiyeva.
Whoever are diligent, even if they are dead, are considered alive.
Còn những ai không buông lung, dù đã chết cũng coi như đang sống.
Tasmā māgaṇḍiyā jīvantīpi matāyeva nāma, sāmāvatippamukhā pañcasatā itthiyo matāpi jīvantiyeva nāma.
Therefore, Māgaṇḍiyā, though alive, is considered dead, while the five hundred women led by Sāmāvatī, though dead, are considered alive.
Vì vậy, Māgaṇḍiyā dù sống cũng coi như đã chết, còn năm trăm người phụ nữ do Sāmāvatī dẫn đầu dù đã chết cũng coi như đang sống.
Na hi, bhikkhave, appamattā maranti nāmā’’ti vatvā imā gāthā abhāsi –
For, bhikkhus, the diligent do not die," and he spoke these verses:
Thật vậy, này các Tỳ-khưu, những người không buông lung không bao giờ chết.” Rồi Ngài nói những câu kệ này:
677
21.
21.
21.
678
‘‘Appamādo amatapadaṃ, pamādo maccuno padaṃ;
Diligence is the path to Immortality; negligence, the path to death.
Không phóng dật là con đường bất tử, phóng dật là con đường của tử thần;
679
Appamattā na mīyanti, ye pamattā yathā matā.
The diligent do not die, but the negligent are like the dead.
Những người không phóng dật không chết, những người phóng dật thì như đã chết.
680
22.
22.
22.
681
‘‘Evaṃ visesato ñatvā, appamādamhi paṇḍitā;
Having understood this distinction, the wise delight in diligence;
Biết rõ sự khác biệt này, những người trí tuệ trong sự không phóng dật;
682
Appamāde pamodanti, ariyānaṃ gocare ratā.
They rejoice in diligence, finding joy in the domain of the Noble Ones.
Họ vui mừng trong sự không phóng dật, thích thú trong cảnh giới của các bậc Thánh.
683
23.
23.
23.
684
‘‘Te jhāyino sātatikā, niccaṃ daḷhaparakkamā;
Those wise ones, meditative, steadfast in effort, always resolute,
Những vị ấy là thiền giả thường xuyên, luôn tinh tấn vững chắc;
685
Phusanti dhīrā nibbānaṃ, yogakkhemaṃ anuttara’’nti.
Touch Nibbāna, the unsurpassed security from bondage."
Những người trí tuệ chạm đến Nibbāna, sự an toàn vô thượng khỏi mọi ràng buộc.
686
Tattha appamādoti padaṃ mahantaṃ atthaṃ dīpeti, mahantaṃ atthaṃ gahetvā tiṭṭhati.
Therein, the word appamāda (heedfulness) reveals a great meaning; it holds a profound significance.
Ở đây, từ appamādo (không phóng dật) biểu thị một ý nghĩa rộng lớn, bao hàm một ý nghĩa sâu sắc.
Sakalampi hi tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ āharitvā kathiyamānaṃ appamādapadameva otarati.
Indeed, the entire Tipiṭaka of the Buddha's teachings, when expounded, leads to none other than the concept of appamāda.
Thật vậy, toàn bộ lời dạy của Đức Phật trong Tam Tạng, khi được trình bày, đều quy về ý nghĩa của sự không phóng dật.
Tena vuttaṃ –
Thus it was said:
Do đó, đã được nói:
687
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, yāni kānici jaṅgalānaṃ pāṇānaṃ padajātāni, sabbāni tāni hatthipade samodhānaṃ gacchanti, hatthipadaṃ tesaṃ aggamakkhāyati yadidaṃ mahantattena.
“Just as, bhikkhus, whatever footprints there are of creatures that roam the earth, all of them are encompassed by the elephant’s footprint; the elephant’s footprint is declared to be the foremost among them, that is, on account of its size.
“Này các Tỳ-khưu, ví như tất cả dấu chân của các loài động vật trên đất liền đều quy tụ vào dấu chân voi, dấu chân voi được xem là tối thượng vì sự vĩ đại của nó. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, tất cả các pháp thiện đều có sự không phóng dật làm gốc, quy tụ về sự không phóng dật, sự không phóng dật được xem là tối thượng trong các pháp ấy.”
Evameva kho, bhikkhave, ye keci kusalā dhammā, sabbete appamādamūlakā appamādasamosaraṇā, appamādo tesaṃ dhammānaṃ aggamakkhāyatī’’ti (saṃ. ni. 5.140).
Even so, bhikkhus, whatever wholesome dhammas there are, all of them are rooted in appamāda, converge in appamāda, and appamāda is declared to be the foremost of those dhammas.”
(Saṃ. Ni. 5.140).
688
So panesa atthato satiyā avippavāso nāma.
Furthermore, this (appamāda), in terms of meaning, is non-separation from mindfulness.
Và ý nghĩa của nó là sự không tách rời khỏi chánh niệm.
Niccaṃ upaṭṭhitāya satiyā cetaṃ nāmaṃ.
This is the name for constant mindfulness.
Đây là tên gọi của chánh niệm luôn hiện hữu.
Amatapadanti amataṃ vuccati nibbānaṃ.
Amatapadaṃ (path to the Deathless) — the Deathless is called Nibbāna.
Amatapadaṃ: Bất tử được gọi là Nibbāna.
Tañhi ajātattā nu jīyati na mīyati, tasmā amatanti vuccati.
Indeed, being unborn, it does not age, nor does it die; therefore, it is called the Deathless (amata).
Vì Nibbāna không sinh nên không già, không chết, do đó được gọi là bất tử.
Pajjanti imināti padaṃ, amataṃ pāpuṇantīti attho.
Pajjanti iminā (they reach by this) means "they attain the Deathless."
Con đường mà nhờ đó người ta đến được (Nibbāna) là pada (con đường), nghĩa là đạt đến sự bất tử.
Amatassa padaṃ amatapadaṃ, amatassa adhigamūpāyoti vuttaṃ hoti, pamādoti pamajjanabhāvo, muṭṭhassatisaṅkhātassa satiyā vosaggassetaṃ nāmaṃ.
Amatassa padaṃ is "the path to the Deathless," meaning "the means of attaining the Deathless"; pamādo (heedlessness) means the state of being heedless, it is the name for the relinquishing of mindfulness, characterized by lost mindfulness.
Con đường của sự bất tử là amatapadaṃ, nghĩa là phương tiện để đạt đến sự bất tử. Pamādo là trạng thái phóng dật, đây là tên gọi của sự buông bỏ chánh niệm, tức là sự thất niệm.
Maccunoti maraṇassa.
Maccuno (of death) means of maraṇa (death).
Maccuno là của cái chết.
Padanti upāyo maggo.
Padaṃ (path) means means, way.
Pada là phương tiện, con đường.
Pamatto hi jātiṃ nātivattati, jāto jīyati ceva mīyati cāti pamādo maccuno padaṃ nāma hoti, maraṇaṃ upeti.
For a heedless person does not transcend birth; one who is born ages and dies, thus heedlessness is the path to death, leading to death.
Thật vậy, người phóng dật không vượt qua được sự sinh, người đã sinh thì già và chết, do đó sự phóng dật là con đường của tử thần, dẫn đến cái chết.
Appamattā na mīyantīti satiyā samannāgatā hi appamattā na maranti.
Appamattā na mīyanti (the heedful do not die) means that the heedful, endowed with mindfulness, do not die.
Appamattā na mīyanti: Những người không phóng dật, có chánh niệm, không chết.
Ajarā amarā hontīti na sallakkhetabbaṃ.
It should not be understood that they become free from aging and death.
Không nên hiểu rằng họ trở nên không già không chết.
Na hi koci satto ajaro amaro nāma atthi, pamattassa pana vaṭṭaṃ nāma aparicchinnaṃ, appamattassa paricchinnaṃ.
Indeed, there is no being who is free from aging and death; but for the heedless, saṃsāra is endless, while for the heedful, it is limited.
Thật vậy, không có chúng sinh nào không già không chết, nhưng vòng luân hồi của người phóng dật là vô tận, còn của người không phóng dật là hữu hạn.
Tasmā pamattā jātiādīhi aparimuttattā jīvantāpi matāyeva nāma.
Therefore, the heedless, not being liberated from birth and so on, are considered as dead even while living.
Do đó, những người phóng dật, vì chưa thoát khỏi sự sinh và các khổ khác, dù đang sống cũng coi như đã chết.
Appamattā pana appamādalakkhaṇaṃ vaḍḍhetvā khippaṃ maggaphalāni sacchikatvā dutiyatatiyaattabhāvesu na nibbattanti.
But the heedful, by cultivating the characteristic of appamāda, quickly realize the paths and fruits, and are not reborn in a second or third existence.
Còn những người không phóng dật, sau khi phát triển đặc tính không phóng dật, nhanh chóng chứng đắc các Đạo và Quả, và không tái sinh trong các kiếp thứ hai, thứ ba.
Tasmā te jīvantāpi matāpi na mīyantiyeva nāma.
Therefore, whether living or dead, they are considered as not dying.
Vì vậy, dù họ đang sống hay đã chết, họ vẫn được coi là không chết.
Ye pamattā yathā matāti ye pana sattā pamattā, te pamādamaraṇena matattā, yathā hi jīvitindriyupacchedena matā dārukkhandhasadisā apagataviññāṇā, tatheva honti.
Ye pamattā yathā matā (those who are heedless are as if dead) means that those beings who are heedless, being dead through the death of heedlessness, are like those truly dead by the cutting off of the life-faculty, like blocks of wood, devoid of consciousness.
Ye pamattā yathā matā: Còn những chúng sinh phóng dật, vì đã chết bởi cái chết của sự phóng dật, họ giống như những người đã chết do sự đoạn tuyệt của sinh mạng, giống như khúc gỗ không còn tri giác.
Tesampi hi matānaṃ viya gahaṭṭhānaṃ tāva ‘‘dānaṃ dassāma, sīlaṃ rakkhissāma, uposathakammaṃ karissāmā’’ti ekacittampi na uppajjati, pabbajitānampi ‘‘ācariyupajjhāyavattādīni pūressāma, dhutaṅgāni samādiyissāma, bhāvanaṃ vaḍḍhessāmā’’ti na uppajjatīti matena te kiṃ nānākaraṇāva honti.
For even for these dead-like laypeople, not a single thought arises, "We will give dana, we will observe sila, we will perform uposatha duty"; and for monastics, not a thought arises, "We will fulfill the duties towards teachers and preceptors, we will undertake dhutaṅgas, we will cultivate bhavana." So how are they different from the dead?
Thật vậy, đối với những người đã chết như vậy, ngay cả một ý nghĩ như “Chúng ta sẽ bố thí, chúng ta sẽ giữ giới, chúng ta sẽ thực hành uposatha” cũng không khởi lên đối với những người tại gia, và đối với những người xuất gia, ý nghĩ như “Chúng ta sẽ hoàn thành các bổn phận đối với thầy và A-xà-lê, chúng ta sẽ thọ trì các pháp đầu đà, chúng ta sẽ phát triển thiền định” cũng không khởi lên. Vậy thì họ khác gì người đã chết?
Tena vuttaṃ – ‘‘ye pamattā yathā matā’’ti.
Therefore, it was said: "Those who are heedless are as if dead."
Do đó, đã được nói: “Những người phóng dật thì như đã chết.”
689
Evaṃ visesato ñatvāti pamattassa vaṭṭato nissaraṇaṃ natthi, appamattassa atthīti evaṃ visesatova jānitvā.
Evaṃ visesato ñatvā (having thus distinguished) means having thus distinctly understood that for the heedless there is no escape from saṃsāra, but for the heedful there is.
Evaṃ visesato ñatvā: Biết rõ sự khác biệt này, rằng người phóng dật không thoát khỏi luân hồi, còn người không phóng dật thì có.
Ke panetaṃ visesaṃ jānantīti?
Who then understands this distinction?
Vậy ai là người biết được sự khác biệt này?
Appamādamhi paṇḍitāti ye paṇḍitā medhāvino sappaññā attano appamāde ṭhatvā appamādaṃ vaḍḍhenti, te evaṃ visesakāraṇaṃ jānanti.
Appamādamhi paṇḍitā (the wise in heedfulness) means those wise ones who are sagacious and endowed with wisdom, who, standing in their own appamāda, cultivate appamāda—they understand such a distinguishing cause.
Appamādamhi paṇḍitā: Những người trí tuệ, thông minh, có trí tuệ, sống trong sự không phóng dật của mình và phát triển sự không phóng dật, họ biết được nguyên nhân của sự khác biệt này.
Appamāde pamodantīti te evaṃ ñatvā tasmiṃ attano appamāde pamodanti, pahaṃsitamukhā tuṭṭhapahaṭṭhā honti.
Appamāde pamodanti (they rejoice in heedfulness) means that having understood this, they rejoice in their own appamāda; they become joyful and elated, with radiant faces.
Appamāde pamodanti: Những người ấy, sau khi biết như vậy, vui mừng trong sự không phóng dật của mình, mặt mày hớn hở, hoan hỷ.
Ariyānaṃ gocare ratāti te evaṃ appamāde pamodantā taṃ appamādaṃ vaḍḍhetvā ariyānaṃ buddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ gocarasaṅkhāte catusatipaṭṭhānādibhede sattatiṃsa bodhipakkhiyadhamme navavidhalokuttaradhamme ca ratā niratā, abhiratā hontīti attho.
Ariyānaṃ gocare ratā (delighting in the domain of the Noble Ones) means that those wise ones, thus rejoicing in appamāda and cultivating it, delight and are constantly devoted to the domain of the Noble Ones—Buddhas, Paccekabuddhas, and Disciples of the Buddha—which consists of the thirty-seven factors of enlightenment, such as the four foundations of mindfulness, and the nine kinds of supramundane dhammas; that is the meaning.
Ariyānaṃ gocare ratā: Những người ấy, vui mừng trong sự không phóng dật như vậy, sau khi phát triển sự không phóng dật ấy, thích thú, say mê, và rất mực say mê trong cảnh giới của các bậc Thánh, tức là ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề như Tứ Niệm Xứ, và chín pháp xuất thế gian, là cảnh giới của chư Phật, chư Độc Giác Phật và chư Thanh văn Phật.
690
Te jhāyinoti te appamattā paṇḍitā aṭṭhasamāpattisaṅkhātena ārammaṇūpanijjhānena vipassanāmaggaphalasaṅkhātena lakkhaṇūpanijjhānena cāti duvidhenapi jhānena jhāyino.
Te jhāyino (they are meditators) means those heedful wise ones are meditators through both kinds of jhāna: through object-meditation, which consists of the eight attainments, and through characteristic-meditation, which consists of vipassanā, path, and fruit.
Te jhāyino: Những người trí tuệ không phóng dật ấy là những thiền giả nhờ cả hai loại thiền: thiền quán đối tượng (ārammaṇūpanijjhāna) bao gồm tám cấp thiền định (samāpatti), và thiền quán đặc tính (lakkhaṇūpanijjhāna) bao gồm các Đạo và Quả của thiền quán (vipassanā).
Sātatikāti abhinikkhamanakālato paṭṭhāya yāva arahattamaggā satataṃ pavattakāyikacetasikavīriyā.
Sātatikā (continual in practice) means those who continuously exert physical and mental effort from the time of their renunciation up to the Arahant Path.
Sātatikā: Từ khi xuất gia cho đến A-la-hán Đạo, họ luôn có tinh tấn thân và tâm không ngừng nghỉ.
Niccaṃ daḷhaparakkamāti yaṃ taṃ purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ, na taṃ apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti evarūpena vīriyena antarā anosakkitvā niccappavattena daḷhaparakkamena samannāgatā.
Niccaṃ daḷhaparakkamā (always firm in exertion) means those who are endowed with constant, firm exertion, not relenting halfway, with the determination that the goal to be attained by manly strength, manly energy, and manly effort will not cease until it is achieved.
Niccaṃ daḷhaparakkamā: Họ có tinh tấn vững chắc không ngừng, không bao giờ thoái chí giữa chừng, với ý chí rằng sẽ không dừng lại tinh tấn cho đến khi đạt được điều cần đạt bằng sức mạnh, tinh tấn, và nỗ lực của người nam.
Phusantīti ettha dve phusanā ñāṇaphusanā ca, vipākaphusanā ca.
Phusanti (they attain): Here there are two kinds of attainment: attainment by knowledge and attainment by fruition.
Phusanti: Ở đây có hai loại chạm đến (phusanā): chạm đến bằng trí tuệ (ñāṇaphusanā) và chạm đến bằng quả (vipākaphusanā).
Tattha cattāro maggā ñāṇaphusanā nāma, cattāri phalāni vipākaphusanā nāma.
Among these, the four paths are called attainment by knowledge, and the four fruits are called attainment by fruition.
Trong đó, bốn Đạo là chạm đến bằng trí tuệ, bốn Quả là chạm đến bằng quả.
Tesu idha vipākaphusanā adhippetā.
Here, attainment by fruition is intended.
Ở đây, chạm đến bằng quả được đề cập.
Ariyaphalena nibbānaṃ sacchikaronto dhīrā paṇḍitā tāya vipākaphusanāya phusanti, nibbānaṃ sacchikaronti.
The wise ones, realizing Nibbāna through the Noble Fruit, attain Nibbāna through that attainment by fruition, they realize Nibbāna.
Các bậc trí giả, hiền trí, khi chứng ngộ Niết Bàn bằng Thánh quả, thì chạm đến Niết Bàn bằng sự chạm đến quả dị thục đó, chứng ngộ Niết Bàn.
Yogakkhemaṃ anuttaranti ye cattāro yogā mahājanaṃ vaṭṭe osīdāpenti, tehi khemaṃ nibbhayaṃ sabbehi lokiyalokuttaradhammehi seṭṭhattā anuttaranti.
Yogakkhemaṃ anuttaraṃ (the unsurpassed safety from bondage) refers to that which is safe and fearless from the four bondages (yogā) that drag the multitude into saṃsāra; it is unsurpassed because it is supreme among all mundane and supramundane dhammas. This concludes the explanation of the verse.
Vô thượng sự an toàn khỏi ách buộc – là sự an toàn, không nguy hiểm khỏi bốn ách buộc đã nhấn chìm đại chúng trong vòng luân hồi, và do là tối thượng hơn tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, nên là vô thượng.
691
Desanāpariyosāne bahū sotāpannādayo ahesuṃ.
At the conclusion of the discourse, many attained stream-entry and other stages of sainthood.
Khi bài thuyết pháp kết thúc, nhiều người đã trở thành bậc Dự Lưu và các bậc Thánh khác.
Desanā mahājanassa sātthikā jātāti.
The discourse became beneficial to the multitude.
Bài thuyết pháp đã mang lại lợi ích cho đại chúng.
692
Sāmāvatīvatthu paṭhamaṃ.
The Story of Sāmāvatī, First.
Câu chuyện Sāmāvatī thứ nhất.
693
2. Kumbhaghosakaseṭṭhivatthu
2. The Story of the Householder Kumbhaghosaka
2. Câu chuyện về trưởng giả Kumbhaghosaka
694
Uṭṭhānavatoti imaṃ dhammadesanaṃ satthā veḷuvane viharanto kumbhaghosakaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher delivered this discourse on the Dhamma, Uṭṭhānavato (to one who is energetic), while residing at Veḷuvana, concerning Kumbhaghosaka.
Người có sự tinh tấn – Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp này khi ngài đang ngự tại Trúc Lâm, liên quan đến Kumbhaghosaka.
Rājagahanagarasmiñhi rājagahaseṭṭhino gehe ahivātarogo uppajji, tasmiṃ uppanne makkhikā ādiṃ katvā yāva gāvā paṭhamaṃ tiracchānagatā maranti, tato dāsakammakaro, sabbapacchā gehasāmikā, tasmā so rogo sabbapacchā seṭṭhiñca jāyañca gaṇhi.
Indeed, in the city of Rājagaha, a plague-like disease (ahivāta) broke out in the house of the Rājagaha householder; when it arose, first the animals died, starting from flies up to cows, then the servants and laborers, and last of all the master and mistress of the house, so the disease seized the householder and his wife last.
Quả thật, tại thành Rājagaha, trong nhà của trưởng giả Rājagaha, một dịch bệnh giống như bệnh dịch hạch đã phát sinh. Khi bệnh này xuất hiện, đầu tiên các loài súc vật như ruồi, cho đến bò đều chết; sau đó là các nô lệ và người làm công; cuối cùng, bệnh này lây nhiễm đến chủ nhà và vợ của ông ta.
Te rogena phuṭṭhā puttaṃ santike ṭhitaṃ oloketvā assupuṇṇehi nettehi taṃ āhaṃsu – ‘‘tāta, imasmiṃ kira roge uppanne bhittiṃ bhinditvā palāyantāva jīvitaṃ labhanti, tvaṃ amhe anoloketvā palāyitvā jīvanto punāgantvā amhākaṃ asukaṭṭhāne nāma cattālīsa dhanakoṭiyo nidahitvā ṭhapitā, tā uddharitvā jīvikaṃ kappeyyāsī’’ti.
Afflicted by the disease, they looked at their son, who was standing nearby, and with tear-filled eyes said to him: "My dear son, it is said that when this disease breaks out, only those who break through a wall and flee survive. Do not look at us, but flee and save your life. When you return, forty crores of treasures are hidden in such and such a place for us; take them out and earn your living."
Bị bệnh tật hành hạ, họ nhìn người con trai đang đứng gần đó, và với đôi mắt đẫm lệ, nói với con rằng: “Này con, nghe nói khi bệnh này phát sinh, những ai phá tường mà chạy trốn thì mới sống sót. Con đừng nhìn cha mẹ mà hãy chạy trốn để giữ lấy mạng sống. Sau này con quay lại, hãy lấy bốn mươi triệu kho báu mà cha mẹ đã chôn giấu ở chỗ kia, rồi dùng chúng để sinh sống.”
So tesaṃ vacanaṃ sutvā rudamāno mātāpitaro vanditvā maraṇabhayabhīto bhittiṃ bhinditvā palāyitvā pabbatagahanaṃ gantvā dvādasa vassāni tattha vasitvā mātāpituvasanaṭṭhānaṃ paccāgañchi.
Hearing their words, the son wept, paid homage to his parents, and, terrified by the fear of death, broke through the wall and fled into a mountain wilderness, where he lived for twelve years before returning to his parents' residence.
Nghe lời cha mẹ, người con vừa khóc vừa đảnh lễ cha mẹ, vì sợ hãi cái chết nên đã phá tường trốn đi, vào rừng núi sâu và sống ở đó mười hai năm. Sau đó, anh ta quay trở lại nơi cha mẹ mình đã sống.
695
Atha naṃ daharakāle gantvā parūḷhakesamassukāle āgatattā na koci sañjāni.
Since he had left when young and returned with overgrown hair and beard, no one recognized him.
Lúc đó, vì anh ta đã đi từ khi còn trẻ và trở về khi râu tóc đã mọc dài, nên không ai nhận ra anh ta.
So mātāpitūhi dinnasaññāvasena dhanaṭṭhānaṃ gantvā dhanassa arogabhāvaṃ ñatvā cintesi – ‘‘maṃ na koci sañjānāti, sacāhaṃ dhanaṃ uddharitvā valañjissāmi, ‘ekena duggatena nidhi uddhaṭo’ti maṃ gahetvā viheṭheyyuṃ, yaṃnūnāhaṃ bhatiṃ katvā jīveyya’’nti.
So, following the signs given by his parents, he went to the treasure's location. Realizing the treasure was unharmed, he thought: "No one recognizes me. If I take out and use the treasure, they might seize me, thinking, 'A poor man has unearthed a hidden treasure,' and torment me. What if I were to live by working for wages?"
Anh ta đến nơi cất giấu tài sản theo dấu hiệu cha mẹ đã chỉ dẫn, và biết rằng tài sản vẫn còn nguyên vẹn. Anh ta suy nghĩ: “Không ai nhận ra mình. Nếu mình lấy tài sản ra mà tiêu xài, họ sẽ bắt mình và hành hạ, nói rằng ‘một người nghèo khó đã tìm thấy kho báu’. Chi bằng mình làm thuê để sống.”
Athekaṃ pilotikaṃ nivāsetvā, ‘‘atthi koci bhatakena atthiko’’ti pucchanto bhatakavīthiṃ pāpuṇi.
Then, wearing an old ragged garment, he asked, "Is anyone in need of a wage-laborer?" and reached the street of laborers.
Rồi anh ta mặc một bộ quần áo cũ nát, đi đến khu phố của những người làm thuê, hỏi: “Có ai cần người làm thuê không?”
Atha naṃ bhatakā disvā, ‘‘sace amhākaṃ ekaṃ kammaṃ karissasi, bhattavetanaṃ te dassāmā’’ti āhaṃsu.
Then the employees, seeing him, said, "If you will perform one task for us, we will give you food and wages."
Những người làm thuê thấy anh ta thì nói: “Nếu anh làm một công việc cho chúng tôi, chúng tôi sẽ trả tiền cơm và tiền công cho anh.”
‘‘Kiṃ kammaṃ nāmā’’ti?
"What is the task?"
Anh ta hỏi: “Đó là công việc gì?”
‘‘Pabodhanacodanakammaṃ.
"It is the task of waking and urging.
“Là công việc đánh thức và thúc giục.”
Sace ussahasi, pātova uṭṭhāya ‘tātā, uṭṭhahatha, sakaṭāni sannayhatha, goṇe yojetha, hatthiassānaṃ tiṇatthāya gamanavelā; ammā, tumhepi uṭṭhahatha, yāguṃ pacatha, bhattaṃ pacathā’ti vicaritvā ārocehī’’ti.
If you are able, rising early in the morning, go around announcing: 'Sirs, arise! Harness the carts! Yoke the oxen! It is time for the elephants and horses to go for grass! Mothers, you too arise, cook gruel, cook rice!'"
“Nếu anh có thể làm được, thì sáng sớm hãy dậy và đi khắp nơi thông báo: ‘Này các anh, hãy dậy đi, hãy đóng xe, hãy thắng bò, đã đến lúc voi ngựa phải đi ăn cỏ rồi; Này các chị, các chị cũng hãy dậy đi, hãy nấu cháo, hãy nấu cơm’.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
He accepted, saying, "Very well."
Anh ta nói “Được!” và chấp nhận.
Athassa vasanatthāya ekaṃ gharaṃ adaṃsu.
Then they gave him a house to live in.
Rồi họ cho anh ta một căn nhà để ở.
So devasikaṃ taṃ kammaṃ akāsi.
He performed that task daily.
Anh ta đã làm công việc đó mỗi ngày.
696
Athassa ekadivasaṃ rājā bimbisāro saddamassosi.
Then one day, King Bimbisāra heard his voice.
Một ngày nọ, vua Bimbisāra nghe thấy tiếng của anh ta.
So pana sabbaravaññū ahosi.
He was one who knew all sounds.
Vua là người biết tất cả các âm thanh.
Tasmā ‘‘mahādhanassa purisassesa saddo’’ti āha.
Therefore, he said, "This is the sound of a very wealthy man."
Vì vậy, vua nói: “Đây là tiếng của một người có tài sản lớn.”
Athassa santike ṭhitā ekā paricārikā ‘‘rājā yaṃ vā taṃ vā na kathessati, idaṃ mayā ñātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā – ‘‘gaccha, tāta, etaṃ jānāhī’’ti ekaṃ purisaṃ pahiṇi.
Then a female attendant standing near him, thinking, "The King will not speak idly; I ought to ascertain this," dispatched a man, saying, "Go, my son, and find out about him."
Một người hầu gái đang đứng gần vua suy nghĩ: “Đức vua sẽ không nói điều gì vô cớ. Mình phải tìm hiểu việc này.” Rồi bà ta sai một người đàn ông đi: “Này con, hãy đi tìm hiểu người này.”
So vegena gantvā taṃ disvā āgantvā, ‘‘eko bhatakānaṃ bhatikārako kapaṇamanusso eso’’ti ārocesi.
He went quickly, saw him, and returning, reported, "He is a poor man, a wage-laborer for the employees."
Người đàn ông đó vội vàng đi đến, thấy anh ta rồi quay về báo cáo: “Đó là một người nghèo khó, làm công cho những người làm thuê.”
Rājā tassa vacanaṃ sutvā tuṇhī hutvā dutiyadivasepi tatiyadivasepi taṃ tassa saddaṃ sutvā tatheva āha.
The King, hearing his words, remained silent, but on the second day and the third day, hearing that voice again, he spoke in the same way.
Nghe lời người đàn ông đó, vua im lặng. Đến ngày thứ hai và ngày thứ ba, vua lại nghe thấy tiếng của anh ta và nói y như vậy.
Sāpi paricārikā tatheva cintetvā punappunaṃ pesetvā, ‘‘kapaṇamanusso eso’’ti vutte cintesi – ‘‘rājā ‘kapaṇamanusso eso’ti vacanaṃ sutvāpi na saddahati, punappunaṃ ‘mahādhanassa purisassesa saddo’ti vadati, bhavitabbamettha kāraṇena, yathāsabhāvato etaṃ ñātuṃ vaṭṭatī’’ti.
That female attendant also thought the same and sent him repeatedly, and when told, "He is a poor man," she thought, "The King does not believe this statement 'He is a poor man,' but repeatedly says, 'This is the sound of a very wealthy man'; there must be a reason for this, I ought to ascertain this as it truly is."
Người hầu gái đó cũng suy nghĩ y như vậy, rồi sai người đi nhiều lần, nhưng khi được báo cáo rằng “Đó là một người nghèo khó,” bà ta suy nghĩ: “Đức vua nghe nói ‘đó là một người nghèo khó’ mà vẫn không tin, cứ lặp đi lặp lại ‘đây là tiếng của một người có tài sản lớn’. Chắc chắn có lý do gì đó ở đây. Mình phải tìm hiểu sự thật.”
Sā rājānaṃ āha, ‘‘deva, ahaṃ sahassaṃ labhamānā dhītaraṃ ādāya gantvā etaṃ dhanaṃ rājakulaṃ pavesessāmī’’ti.
She said to the King, "Your Majesty, if I receive a thousand, I will take my daughter and bring this wealth into the royal palace."
Bà ta nói với vua: “Tâu Đại vương, nếu con nhận được một ngàn đồng, con sẽ dẫn con gái đi và mang tài sản này vào hoàng cung.”
Rājā tassā sahassaṃ dāpesi.
The King had a thousand given to her.
Vua đã ra lệnh cấp cho bà ta một ngàn đồng.
697
Sā taṃ gahetvā dhītaraṃ ekaṃ malinadhātukaṃ vatthaṃ nivāsāpetvā tāya saddhiṃ rājagehato nikkhamitvā maggapaṭipannā viya bhatakavīthiṃ gantvā ekaṃ gharaṃ pavisitvā, ‘‘amma, mayaṃ maggapaṭipannā, ekāhadvīhaṃ idha vissamitvā gamissāmā’’ti āha.
Taking it, she dressed her daughter in a dirty garment and, accompanied by her, left the royal palace. As if she were a traveler, she went to the street of the laborers, entered a house, and said, "Mother, we are travelers. We will rest here for a day or two and then depart."
Bà ta nhận tiền, cho con gái mặc một bộ quần áo cũ nát, rồi cùng con gái rời hoàng cung, đi đến khu phố của những người làm thuê như thể đang trên đường đi, vào một căn nhà và nói: “Này mẹ, chúng con là khách bộ hành, xin được nghỉ lại đây một hai ngày rồi sẽ đi.”
‘‘Amma, bahūni gharamānusakāni, na sakkā idha vasituṃ, etaṃ kumbhaghosakassa gehaṃ tucchaṃ, tattha gacchathā’’ti.
"Mother, there are many people in the house; it is not possible to stay here. That house of Kumbhaghosaka is empty; go there."
Người chủ nhà nói: “Này mẹ, nhà này có nhiều người ở, không thể ở lại đây được. Căn nhà của Kumbhaghosaka kia trống, hãy đến đó đi.”
Sā tattha gantvā, ‘‘sāmi, mayaṃ maggapaṭipannakā, ekāhadvīhaṃ idha vasissāmā’’ti vatvā tena punappunaṃ paṭikkhittāpi, ‘‘sāmi, ajjekadivasamattaṃ vasitvā pātova gamissāmā’’ti nikkhamituṃ na icchi.
She went there and, saying, "Master, we are travelers; we will stay here for a day or two," was repeatedly refused by him, but she did not wish to leave, saying, "Master, we will stay only for today and leave early tomorrow."
Bà ta đến đó và nói: “Này chủ, chúng con là khách bộ hành, xin được ở lại đây một hai ngày.” Mặc dù bị anh ta từ chối nhiều lần, bà ta vẫn không muốn rời đi, nói: “Này chủ, hôm nay chỉ một ngày thôi, sáng mai chúng con sẽ đi ngay.”
Sā tattheva vasitvā punadivase tassa araññagamanavelāya, ‘‘sāmi, tava nivāpaṃ datvā yāhi, āhāraṃ te pacissāmī’’ti vatvā, ‘‘alaṃ, amma, ahameva pacitvā bhuñjissāmī’’ti vutte punappunaṃ nibandhitvā tena dinne gahitamattakeyeva katvā antarāpaṇato bhājanāni ceva parisuddhataṇḍulādīni ca āharāpetvā rājakule pacananiyāmena suparisuddhaṃ odanaṃ, sādhurasāni ca dve tīṇi sūpabyañjanāni pacitvā tassa araññato āgatassa adāsi.
She stayed there, and on the next day, at the time for him to go to the forest, she said, "Master, go after giving me your provisions; I will cook your meal." When he said, "No, mother, I will cook and eat myself," she insisted repeatedly. When he handed over the provisions, she took only that amount, had utensils and pure rice, etc., brought from the market, and cooking very pure rice and two or three curries of good taste according to the royal palace's cooking method, she gave them to him when he returned from the forest.
Bà ta ở lại đó. Ngày hôm sau, khi anh ta chuẩn bị đi rừng, bà ta nói: “Này chủ, hãy đưa thức ăn của anh cho tôi rồi đi, tôi sẽ nấu cơm cho anh.” Khi anh ta nói: “Đủ rồi, này mẹ, tôi sẽ tự nấu rồi ăn,” bà ta vẫn khăng khăng nhiều lần. Khi anh ta đưa thức ăn, bà ta chỉ lấy một ít, rồi cho người mang chén bát và gạo sạch từ chợ về, nấu cơm rất sạch sẽ theo cách nấu trong hoàng cung, cùng với hai ba món súp và món ăn ngon, rồi dâng cho anh ta khi anh ta từ rừng trở về.
Atha naṃ bhuñjitvā muducittataṃ āpannaṃ ñatvā, ‘‘sāmi, kilantamha, ekāhadvīhaṃ idheva homā’’ti āha.
Then, knowing that he had eaten and become tender-hearted, she said, "Master, we are tired; let us stay right here for a day or two."
Sau đó, biết rằng anh ta đã ăn xong và tâm trạng đã dịu lại, bà ta nói: “Này chủ, chúng con đã mệt mỏi, xin được ở lại đây một hai ngày nữa.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
He accepted, saying, "Very well."
Anh ta nói “Được!” và chấp nhận.
698
Athassa sāyampi punadivasepi madhurabhattaṃ pacitvā adāsi.
Then, in the evening and on the next day, she cooked sweet rice and gave it to him.
Rồi vào buổi tối hôm đó và sáng hôm sau, bà ta lại nấu cơm ngon ngọt cho anh ta.
Atha muducittataṃ tassa ñatvā ‘‘sāmi, katipāhaṃ idheva vasissāmā’’ti.
Then, knowing his tender-heartedness, she said, "Master, let us stay right here for a few days."
Sau đó, biết rằng tâm trạng anh ta đã dịu lại, bà ta nói: “Này chủ, chúng con sẽ ở lại đây vài ngày nữa.”
Tattha vasamānā tikhiṇena satthena tassa mañcavāṇaṃ heṭṭhāaṭaniyaṃ tahaṃ tahaṃ chindi.
While living there, she cut the bed-ropes of his bed here and there beneath the bed frame with a sharp knife.
Trong khi ở đó, bà ta dùng một con dao sắc bén cắt đứt dây giường ở nhiều chỗ dưới khung giường của anh ta.
Mañco tasmiṃ āgantvā nisinnamatteyeva heṭṭhā olambi.
As soon as he sat on the bed, it sagged down.
Ngay khi anh ta đến ngồi trên giường, chiếc giường liền sụp xuống.
So ‘‘kasmā ayaṃ mañco evaṃ chijjitvā gato’’ti āha.
He said, "Why has this bed broken down in this way?"
Anh ta nói: “Tại sao chiếc giường này lại bị đứt như vậy?”
‘‘Sāmi, daharadārake vāretuṃ na sakkomi, ettheva sannipatantī’’ti.
"Master, I cannot restrain the young children; they gather right here."
“Này mẹ, con không thể ngăn cản lũ trẻ con, chúng cứ tụ tập ở đây.”
‘‘Amma, idaṃ me dukkhaṃ tumhe nissāya jātaṃ.
"Mother, this trouble has arisen for me because of you.
“Này mẹ, nỗi khổ này của con là do các người mà ra.
Ahañhi pubbe katthaci gacchanto dvāraṃ pidahitvā gacchāmī’’ti.
For previously, whenever I went somewhere, I would close the door and go."
Trước đây, khi con đi đâu đó, con đều đóng cửa lại.”
‘‘Kiṃ karomi, tāta, vāretuṃ na sakkomī’’ti.
"What can I do, my son? I cannot stop them."
“Con phải làm gì đây, này con, con không thể ngăn cản được.”
Sā imināva niyāmena dve tayo divase chinditvā tena ujjhāyitvā khīyitvā vuccamānāpi tatheva vatvā puna ekaṃ dve rajjuke ṭhapetvā sese chindi.
In this very manner, she cut it for two or three days. Although he grumbled and complained, she spoke in the same way, and then, leaving one or two ropes, she cut the rest.
Với cách tương tự, bà ta đã cắt đứt dây giường trong hai ba ngày, mặc dù bị anh ta la mắng và chỉ trích, bà ta vẫn nói như vậy. Rồi bà ta chỉ để lại một hai sợi dây, còn lại đều cắt đứt.
Taṃ divasaṃ tasmiṃ nisinnamatteyeva sabbaṃ vāṇaṃ bhūmiyaṃ pati, sīsaṃ jaṇṇukehi saddhiṃ ekato ahosi, so uṭṭhāya, ‘‘kiṃ karomi, idāni kuhiṃ gamissāmi, nipajjanamañcassapi tumhehi asāmiko viya katomhī’’ti āha.
On that day, as soon as he sat on it, all the ropes fell to the ground, and his head was level with his knees. He stood up and said, "What can I do? Where shall I go now? Because of you, I am like one without ownership even of my sleeping couch."
Ngày hôm đó, ngay khi anh ta ngồi xuống, tất cả các sợi dây đều rơi xuống đất, đầu anh ta chạm vào đầu gối. Anh ta đứng dậy và nói: “Con phải làm gì đây, bây giờ con sẽ đi đâu? Các người đã khiến con như một người không có giường để nằm vậy.”
‘‘Tāta, kiṃ karomi, paṭivissakadārake vāretuṃ na sakkomi, hotu, mā cintayi, imāya nāma velāya kuhiṃ gamissasī’’ti dhītaraṃ āmantetvā, ‘‘amma, tava bhātikassa nipajjanokāsaṃ karohī’’ti āha.
"My son, what can I do? I cannot restrain the neighbors' children. Let it be; do not worry. Where will you go at this time?" Saying this, she called her daughter and said, "Daughter, make a sleeping place for your brother."
“Này con, con phải làm gì đây, con không thể ngăn cản lũ trẻ hàng xóm được. Thôi được, đừng lo lắng, vào lúc này con sẽ đi đâu?” Rồi bà ta gọi con gái và nói: “Này con, hãy dọn chỗ ngủ cho anh con đi.”
Sā ekapasse sayitvā ‘‘idhāgaccha, sāmī’’ti āha.
She lay down on one side and said, "Come here, master."
Cô con gái nằm sang một bên và nói: “Này chủ, hãy đến đây.”
Itaropi naṃ ‘‘gaccha, tāta, bhaginiyā saddhiṃ nipajjā’’ti vadesi.
The other (mother) also said to him, "Go, my son, lie down with your sister."
Người phụ nữ kia cũng nói với anh ta: “Này con, hãy đi nằm cùng em gái con đi.”
So tāya saddhiṃ ekamañce nipajjitvā taṃ divasaññeva santhavaṃ akāsi, kumārikā parodi.
He lay down on the same bed with her and became intimate that very day. The maiden cried.
Anh ta nằm cùng cô gái trên cùng một chiếc giường, và ngay ngày hôm đó đã thân mật với cô. Cô gái khóc.
Atha naṃ mātā pucchi – ‘‘kiṃ, amma, rodasī’’ti?
Then her mother asked her, "Why, daughter, are you crying?"
Rồi mẹ cô hỏi: “Này con, sao con khóc?”
‘‘Amma, idaṃ nāma jāta’’nti.
"Mother, this has happened."
“Này mẹ, chuyện này đã xảy ra rồi.”
‘‘Hotu, amma, kiṃ sakkā kātuṃ, tayāpi ekaṃ bhattāraṃ imināpekaṃ pādaparicārikaṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti taṃ jāmātaraṃ akāsi.
"Let it be, daughter, what can be done? You should get a husband, and he should get a foot-servant." Thus, she made him her son-in-law.
“Thôi được, con gái, có thể làm gì được nữa? Con cũng nên có một người chồng, và người này cũng nên có một người vợ hầu hạ dưới chân.” Nói vậy, bà đã biến Kumbhaghosaka thành con rể.
Te samaggavāsaṃ vasiṃsu.
They lived in harmony.
Họ đã sống một cuộc sống hòa hợp.
699
Sā katipāhaccayena rañño sāsanaṃ pesesi – ‘‘bhatakavīthiyaṃ chaṇaṃ karontu.
After a few days, she sent a message to the king, "Let them hold a festival in the laborers' street.
Vài ngày sau, bà gửi thông điệp đến nhà vua – “Hãy tổ chức lễ hội ở khu phố của những người làm thuê.
Yassa pana ghare chaṇo na karīyati, tassa ettako nāma daṇḍoti ghosanaṃ kāretū’’ti.
And let an announcement be made that whoever does not hold a festival in their house will incur such and such a fine."
Nếu nhà ai không tổ chức lễ hội thì sẽ bị phạt một khoản tiền nhất định.”
Rājā tathā kāresi.
The king did so.
Nhà vua đã làm theo.
Atha naṃ sassu āha – ‘‘tāta, bhatakavīthiyaṃ rājāṇāya chaṇo kattabbo jāto, kiṃ karomā’’ti?
Then his mother-in-law said to him, "My son, by the king's command, a festival must be held in the laborers' street. What shall we do?"
Bấy giờ, mẹ vợ nói với chàng: “Này con, theo lệnh vua, phải tổ chức lễ hội ở khu phố của những người làm thuê, chúng ta phải làm gì đây?”
‘‘Amma, ahaṃ bhatiṃ karontopi jīvituṃ na sakkomi, kiṃ karissāmī’’ti?
"Mother, even though I work for wages, I cannot make a living. What shall I do?"
“Mẹ ơi, con làm thuê mà còn không đủ sống, con biết làm gì đây?”
‘‘Tāta, gharāvāsaṃ vasantā nāma iṇampi gaṇhanti, rañño āṇā akātuṃ na labbhā.
"My son, those who live a household life must incur debt; the king's command cannot be left undone.
“Này con, những người sống đời gia đình thì cũng phải vay nợ, không thể không tuân theo lệnh vua.
Iṇato nāma yena kenaci upāyena muccituṃ sakkā, gaccha, kutoci ekaṃ vā dve vā kahāpaṇe āharā’’ti āha.
One can somehow be freed from debt. Go, bring one or two kahāpaṇas from somewhere."
Có thể thoát khỏi nợ nần bằng bất cứ cách nào, con hãy đi và mang về một hoặc hai đồng kahāpaṇa.”
So ujjhāyanto khīyanto gantvā cattālīsakoṭidhanaṭṭhānato ekameva kahāpaṇaṃ āhari.
He went, grumbling and complaining, and brought just one kahāpaṇa from the place of forty crores of wealth.
Chàng ta làu bàu, cằn nhằn, rồi đi và chỉ mang về một đồng kahāpaṇa từ nơi cất giấu bốn mươi crore tài sản.
Sā taṃ kahāpaṇaṃ rañño pesetvā attano kahāpaṇena chaṇaṃ katvā puna katipāhaccayena tatheva sāsanaṃ pahiṇi.
She sent that kahāpaṇa to the king and, having held a festival with her own money, again sent a message in the same way after a few days.
Bà gửi đồng kahāpaṇa đó cho nhà vua, rồi dùng tiền của mình để tổ chức lễ hội, và vài ngày sau lại gửi thông điệp tương tự.
Puna rājā tatheva ‘‘chaṇaṃ karontu, akarontānaṃ ettako daṇḍo’’ti āṇāpesi.
Again, the king commanded, "Let them hold a festival; those who do not will incur such a fine."
Lần nữa, nhà vua lại ra lệnh tương tự: “Hãy tổ chức lễ hội, những ai không làm sẽ bị phạt một khoản tiền nhất định.”
Punapi so tāya tatheva vatvā nippīḷiyamāno gantvā tayo kahāpaṇe āhari.
Again, he was pressured by her, and going as before, he brought three kahāpaṇas.
Lần nữa, chàng ta lại bị bà thúc ép, đi và mang về ba đồng kahāpaṇa.
Sā tepi kahāpaṇe rañño pesetvā puna katipāhaccayena tatheva sāsanaṃ pahiṇi – ‘‘idāni purise pesetvā imaṃ pakkosāpetū’’ti.
She also sent those kahāpaṇas to the king and again sent a message in the same way after a few days, "Now, send men to summon him."
Bà lại gửi những đồng kahāpaṇa đó cho nhà vua, rồi vài ngày sau lại gửi thông điệp tương tự – “Bây giờ hãy sai người đến triệu tập người này.”
Rājā pesesi.
The king sent them.
Nhà vua đã sai người đi.
Purisā gantvā, ‘‘kumbhaghosako nāma kataro’’ti pucchitvā pariyesantā taṃ disvā ‘‘ehi, bho rājā, taṃ pakkosatī’’ti āhaṃsu.
The men went, asking "Who is this Kumbhaghosaka by name?" and searching, they saw him and said, "Come, good sir, the king summons you."
Những người đó đi, hỏi “Ai là Kumbhaghosaka?” rồi tìm kiếm, khi thấy chàng thì nói: “Này ông, hãy đến đây, nhà vua đang triệu tập ông.”
So bhīto ‘‘na maṃ rājā jānātī’’tiādīni vatvā gantuṃ na icchi.
He, being afraid, said, "The king does not know me," and similar things, and did not wish to go.
Chàng ta sợ hãi, nói “Nhà vua không biết tôi,” v.v. và không muốn đi.
Atha naṃ balakkārena hatthādīsu gahetvā ākaḍḍhiṃsu.
Then they forcibly seized him by his hands and other limbs and dragged him along.
Bấy giờ, họ dùng vũ lực nắm lấy tay và các bộ phận khác của chàng mà kéo đi.
Sā itthī te disvā, ‘‘are, dubbinītā, tumhe mama jāmātaraṃ hatthādīsu gahetuṃ ananucchavikā’’ti tajjetvā, ‘‘ehi, tāta, mā bhāyi, rājānaṃ disvā tava hatthādigāhakānaṃ hattheyeva chindāpessāmī’’ti dhītaraṃ ādāya purato hutvā rājagehaṃ patvā vesaṃ parivattetvā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
That woman, seeing them, scolded them, saying, "Oh, you ill-behaved ones! It is improper for you to seize my son-in-law by his hands and other limbs!" Then she said, "Come, my dear, do not be afraid. When we see the king, I will have the hands of those who seized you cut off." Taking her daughter, she went ahead, reached the royal palace, changed her attire, adorned herself with all ornaments, and stood to one side.
Người phụ nữ đó thấy họ, liền quát mắng: “Này những kẻ vô lễ, các ngươi không xứng đáng nắm lấy tay và các bộ phận khác của con rể ta!” Rồi bà nói: “Này con, hãy đến đây, đừng sợ hãi, khi gặp nhà vua, ta sẽ khiến chặt tay những kẻ đã nắm lấy tay con!” Nói vậy, bà dẫn con gái đi trước, đến hoàng cung, thay đổi trang phục, trang điểm lộng lẫy và đứng sang một bên.
Itarampi parikaḍḍhitvā ānayiṃsuyeva.
They also dragged the other man along.
Còn chàng ta thì bị kéo lê đến.
700
Atha naṃ vanditvā ṭhitaṃ rājā āha – ‘‘tvaṃ kumbhaghosako nāmā’’ti?
Then the king said to him, standing reverently, "Are you Kumbhaghosaka by name?"
Bấy giờ, nhà vua nói với chàng đang đứng sau khi đã đảnh lễ: “Ngươi là Kumbhaghosaka phải không?”
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, my lord," he replied.
“Vâng, thưa Bệ hạ.”
‘‘Kiṃ kāraṇā mahādhanaṃ vañcetvā khādasī’’ti?
"For what reason do you deceitfully consume great wealth?"
“Vì lý do gì mà ngươi lại lừa dối và chiếm đoạt tài sản lớn?”
‘‘Kuto me, deva, dhanaṃ bhatiṃ katvā jīvantassā’’ti?
"From where, my lord, do I have wealth, living as a hired laborer?"
“Thưa Bệ hạ, tôi là người sống bằng nghề làm thuê, làm sao có tài sản được?”
‘‘Mā evaṃ kari, kiṃ amhe vañcesī’’ti?
"Do not do that, why do you deceive us?"
“Đừng làm vậy, sao ngươi lại lừa dối chúng ta?”
‘‘Na vañcemi, deva, natthi me dhana’’nti.
"I am not deceiving, my lord. I have no wealth."
“Tôi không lừa dối, thưa Bệ hạ, tôi không có tài sản.”
Athassa rājā te kahāpaṇe dassetvā, ‘‘ime kassa kahāpaṇā’’ti āha.
Then the king showed him those Kahāpaṇas and asked, "Whose Kahāpaṇas are these?"
Bấy giờ, nhà vua cho chàng xem những đồng kahāpaṇa đó và hỏi: “Những đồng kahāpaṇa này là của ai?”
So sañjānitvā, ‘‘aho bālomhi, kathaṃ nu kho ime rañño hatthaṃ pattā’’ti ito cito ca olokento tā dvepi paṭimaṇḍitapasādhanā gabbhadvāramūle ṭhitā disvā, ‘‘bhāriyaṃ vatidaṃ kammaṃ, imāhi raññā payojitāhi bhavitabba’’nti cintesi.
He recognized them and thought, "Oh, I am foolish! How did these reach the king's hand?" Looking here and there, he saw those two women, exquisitely adorned and standing at the entrance to the chamber, and thought, "This is indeed a serious matter; these women must have been sent by the king."
Chàng ta nhận ra, nghĩ: “Ôi mình thật ngu ngốc, làm sao những đồng này lại đến tay nhà vua được?” Chàng nhìn quanh đây đó, thấy hai người phụ nữ kia đang đứng ở cửa phòng, trang điểm lộng lẫy, liền nghĩ: “Việc này thật nghiêm trọng, chắc chắn là do những người phụ nữ này đã được nhà vua sai khiến.”
Atha naṃ rājā ‘‘vadehi, bho, kasmā evaṃ karosī’’ti āha.
Then the king said to him, "Tell me, good sir, why do you act this way?"
Bấy giờ, nhà vua hỏi chàng: “Này ông, nói đi, tại sao ông lại làm như vậy?”
‘‘Nissayo me natthi, devā’’ti.
"I have no patron, my lord," he replied.
“Thưa Bệ hạ, tôi không có chỗ dựa.”
‘‘Mādiso nissayo bhavituṃ na vaṭṭatī’’ti.
"Should not one like me be your patron?"
“Một chỗ dựa như ta thì không được sao?”
‘‘Kalyāṇaṃ, deva, sace me devo avassayo hotī’’ti.
"It would be excellent, my lord, if your majesty were my patron."
“Tốt lắm, thưa Bệ hạ, nếu Bệ hạ là chỗ dựa cho tôi.”
‘‘Homi, bho, kittakaṃ te dhana’’nti?
"I will be, good sir. How much wealth do you have?"
“Được thôi, này ông, ông có bao nhiêu tài sản?”
‘‘Cattālīsakoṭiyo, devā’’ti.
"Forty crores, my lord," he said.
“Bốn mươi crore, thưa Bệ hạ.”
‘‘Kiṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
"What is needed to receive it?"
“Cần gì để lấy ra?”
‘‘Sakaṭāni devā’’ti?
"Carts, my lord."
“Cần xe, thưa Bệ hạ.”
Rājā anekasatāni sakaṭāni yojāpetvā pahiṇitvā taṃ dhanaṃ āharāpetvā rājaṅgaṇe rāsiṃ kārāpetvā rājagahavāsino sannipātāpetvā, ‘‘atthi kassaci imasmiṃ nagare ‘‘ettakaṃ dhana’’nti pucchitvā ‘‘natthi, devā’’ti.
The king had hundreds of carts harnessed and sent them, had the wealth brought, piled it up in the royal courtyard, gathered the residents of Rājagaha, and asked, "Does anyone in this city have such an amount of wealth?" They replied, "No, my lord."
Nhà vua sai chuẩn bị hàng trăm cỗ xe, rồi phái đi mang tài sản đó về, chất thành đống ở sân hoàng cung, triệu tập dân chúng Rajagaha lại, hỏi: “Có ai trong thành phố này có ‘ngần ấy tài sản’ không?” Khi họ đáp: “Không có, thưa Bệ hạ,”
‘‘Kiṃ panassa kātuṃ vaṭṭatī’’ti?
"What should be done for him?"
“Vậy phải làm gì cho người này?”
‘‘Sakkāraṃ, devā’’ti vutte mahantena sakkārena taṃ seṭṭhiṭṭhāne ṭhapetvā dhītaraṃ tasseva datvā tena saddhiṃ satthu santikaṃ gantvā vanditvā ‘‘bhante, passathimaṃ purisaṃ, evarūpo dhitimā nāma natthi, cattālīsakoṭivibhavo hontopi uppilāvitākāraṃ vā asmimānamattaṃ vā na karoti, kapaṇo viya pilotikaṃ nivāsetvā bhatakavīthiyaṃ bhatiṃ katvā jīvanto mayā iminā nāma upāyena ñāto.
When they said, "Honors, my lord," the king, with great honors, appointed him to the position of a setthi, gave his own daughter to him, and then went with him to the Teacher. After paying homage, he said, "Venerable Sir, behold this man! There is no one with such fortitude. Though he possesses forty crores of wealth, he exhibits no signs of arrogance or even a trace of conceit. He lived like a poor man, wearing rags and working for hire in the laborers' quarter, and I came to know him by this means.
Khi họ nói: “Tôn vinh, thưa Bệ hạ,” nhà vua đã tôn vinh chàng một cách trọng thể, đặt chàng vào vị trí trưởng giả, gả con gái mình cho chàng, rồi cùng chàng đến chỗ Đức Bổn Sư, đảnh lễ và thưa: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy xem người đàn ông này, không có người nào có sự kiên định như vậy, dù có tài sản bốn mươi crore nhưng không hề tỏ vẻ kiêu ngạo hay một chút tự mãn nào, sống như một người nghèo khó, mặc quần áo rách rưới, làm thuê ở khu phố làm thuê, con đã biết được chàng bằng cách này.
Jānitvā ca pana pakkosāpetvā sadhanabhāvaṃ sampaṭicchāpetvā taṃ dhanaṃ āharāpetvā seṭṭhiṭṭhāne ṭhapito, dhītā cassa mayā dinnā.
Having learned of it, I had him summoned, persuaded him to acknowledge his wealth, had that wealth brought forth, and appointed him to the position of a setthi. My daughter, too, I gave to him.
Sau khi biết, con đã triệu tập chàng, khiến chàng thừa nhận mình có tài sản, rồi sai mang tài sản đó về và đặt chàng vào vị trí trưởng giả, con gái của con cũng đã gả cho chàng.
Bhante, mayā ca evarūpo dhitimā na diṭṭhapubbo’’ti āha.
Venerable Sir, I have never before seen a man of such fortitude."
Bạch Thế Tôn, con chưa từng thấy một người nào có sự kiên định như vậy trước đây.”
701
Taṃ sutvā satthā ‘‘evaṃ jīvantassa jīvikaṃ dhammikajīvikaṃ nāma, mahārāja, corikādikammaṃ pana idhaloke ceva pīḷeti hiṃseti, paraloke ca, tatonidānaṃ sukhaṃ nāma natthi.
Hearing this, the Teacher said, "Such a livelihood is a righteous livelihood, great king. Acts like thievery, however, oppress and harm one in this world and the next, and no happiness arises from them.
Nghe vậy, Đức Bổn Sư nói: “Này Đại vương, cuộc sống của người sống như vậy là một cuộc sống chân chính (dhammikajīvika). Còn những hành động như trộm cắp, v.v., thì chỉ gây đau khổ và tổn hại ở đời này và cả đời sau, không có hạnh phúc nào từ đó cả.
Purisassa hi dhanapārijuññakāle kasiṃ vā bhatiṃ vā katvā jīvikameva dhammikajīvikaṃ nāma.
Indeed, for a man whose wealth is diminished, a livelihood earned through farming or labor is truly a righteous livelihood.
Khi tài sản của một người suy giảm, việc sống bằng nghề nông hoặc làm thuê là một cuộc sống chân chính.
Evarūpassa hi vīriyasampannassa satisampannassa kāyavācāhi parisuddhakammassa paññāya nisammakārino kāyādīhi saññatassa dhammajīvikaṃ jīvantassa satiavippavāse ṭhitassa issariyaṃ vaḍḍhatiyevā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
For such a person, endowed with energy, endowed with mindfulness, whose bodily and verbal actions are pure, who acts reflectively with wisdom, who is restrained in body and so on, and who lives a righteous life while maintaining unceasing mindfulness, his dominion surely increases," and with that, he uttered this verse:
Đối với người có đầy đủ tinh tấn, đầy đủ chánh niệm, hành động thân khẩu ý thanh tịnh, biết suy xét bằng trí tuệ, tự chế ngự thân khẩu ý, sống một cuộc sống chân chính, và luôn giữ chánh niệm, thì quyền uy của người đó sẽ luôn tăng trưởng.” Nói vậy, Ngài đã thuyết bài kệ này:
702
24.
24.
24.
703
‘‘Uṭṭhānavato satīmato,
"For one who is energetic and mindful,
Người có tinh tấn, có chánh niệm,
704
Sucikammassa nisammakārino;
whose actions are pure and who acts reflectively;
Hành động thanh tịnh, biết suy xét;
705
Saññatassa dhammajīvino,
for one who is restrained, lives righteously,
Tự chế ngự, sống chân chính,
706
Appamattassa yasobhivaḍḍhatī’’ti.
and is diligent, his fame grows."
Người không phóng dật, danh tiếng sẽ tăng trưởng.
707
Tattha uṭṭhānavatoti uṭṭhānavīriyavantassa.
Therein, uṭṭhānavato means one possessing diligent effort.
Trong đó, uṭṭhānavato nghĩa là người có tinh tấn hăng hái.
Satimatoti satisampannassa.
Satimato means one endowed with mindfulness.
Satimato nghĩa là người có đầy đủ chánh niệm.
Sucikammassāti niddosehi niraparādhehi kāyakammādīhi samannāgatassa.
Sucikammassā means one endowed with blameless and faultless bodily actions and so on.
Sucikammassa nghĩa là người có thân nghiệp, v.v. không lỗi lầm, không khuyết điểm.
Nisammakārinoti evañce bhavissati, evaṃ karissāmīti vā, imasmiṃ kamme evaṃ kate idaṃ nāma bhavissatīti vā evaṃ nidānaṃ sallakkhetvā rogatikicchanaṃ viya sabbakammāni nisāmetvā upadhāretvā karontassa.
Nisammakārino means one who acts after careful consideration and reflection on all actions, like treating a disease, pondering: "If it is this way, I will do it this way," or "If this action is done this way, this result will follow."
Nisammakārino nghĩa là người làm mọi việc sau khi đã suy xét kỹ lưỡng, cân nhắc như việc chữa bệnh, chẳng hạn như: “Nếu việc này xảy ra như vậy, tôi sẽ làm thế này,” hoặc “Nếu việc này được làm như thế này, thì kết quả này sẽ xảy ra.”
Saññatassāti kāyādīhi saññatassa nicchiddassa.
Saññatassā means one who is restrained in body and so on, without blemish.
Saññatassa nghĩa là người tự chế ngự thân, v.v., không có lỗ hổng.
Dhammajīvinoti agārikassa tulākūṭādīni vajjetvā kasigorakkhādīhi, anagārikassa vejjakammadūtakammādīni vajjetvā dhammena samena bhikkhācariyāya jīvikaṃ kappentassa.
Dhammajīvino means for a householder, one who avoids fraudulent scales and the like, and maintains a livelihood through farming, cattle-rearing, and so on; for a homeless one, one who avoids practices like medical work and messenger duties, and maintains a livelihood righteously and equitably through alms-round.
Dhammajīvino nghĩa là đối với người cư sĩ, sống bằng nghề nông, chăn nuôi, v.v., tránh xa những việc như gian lận cân đong, v.v.; đối với người xuất gia, sống bằng cách khất thực đúng pháp, công bằng, tránh xa những việc như nghề thầy thuốc, nghề sứ giả, v.v.
Appamattassāti avippavutthasatino.
Appamattassā means one whose mindfulness is not neglected.
Appamattassā nghĩa là người không lơ là chánh niệm.
Yasobhivaḍḍhatīti issariyabhogasampannasaṅkhāto ceva kittivaṇṇabhaṇanasaṅkhāto ca yaso abhivaḍḍhatīti.
Yasobhivaḍḍhatī means that fame, which is counted as being endowed with power and wealth, and also as being spoken of with praise and commendation, greatly increases.
Yasobhivaḍḍhatī nghĩa là danh tiếng, bao gồm sự giàu có, quyền uy và sự ca ngợi, sẽ tăng trưởng.
708
Gāthāpariyosāne kumbhaghosako sotāpattiphale patiṭṭhahi.
At the end of the verse, Kumbhaghosaka was established in the fruit of stream-entry.
Khi bài kệ kết thúc, Kumbhaghosaka đã chứng đắc quả Dự Lưu.
Aññepi bahū sotāpattiphalādīni pāpuṇiṃsu.
Many others also attained the fruits of stream-entry and so on.
Nhiều người khác cũng đã chứng đắc quả Dự Lưu, v.v.
Evaṃ mahājanassa sātthikā dhammadesanā jātāti.
Thus, the Dhamma discourse was beneficial to the great multitude.
Như vậy, bài pháp đã mang lại lợi ích cho đại chúng.
709
Kumbhaghosakaseṭṭhivatthu dutiyaṃ.
The Story of Setthi Kumbhaghosaka, the Second.
Câu chuyện về trưởng giả Kumbhaghosaka, thứ hai.
710
3. Cūḷapanthakattheravatthu
3. The Story of Thera Cūḷapanthaka
3. Câu chuyện về Trưởng lão Cūḷapanthaka
711
Uṭṭhānenappamādenāti imaṃ dhammadesanaṃ satthā veḷuvane viharanto cūḷapanthakattheraṃ ārabbha kathesi.
The Teacher delivered this Dhamma discourse beginning with Uṭṭhānenappamādenā while residing in Veḷuvana, concerning Thera Cūḷapanthaka.
Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp này, bắt đầu với Uṭṭhānenappamādenā (bằng sự tinh tấn không phóng dật), khi Ngài đang trú ngụ tại Veluvana, liên quan đến Trưởng lão Cūḷapanthaka.
712
Rājagahe kira dhanaseṭṭhikulassa dhītā vayappattakāle mātāpitūhi sattabhūmikassa pāsādassa uparimatale ativiya rakkhiyamānā yobbanamadamattatāya purisalolā hutvā attano dāseneva saddhiṃ santhavaṃ katvā, ‘‘aññepi me idaṃ kammaṃ jāneyyu’’nti bhītā evamāha – ‘‘amhehi imasmiṃ ṭhāne na sakkā vasituṃ.
It is said that in Rājagaha, the daughter of a wealthy setthi family, when she reached maturity, was excessively guarded by her parents on the uppermost floor of a seven-storied palace. Deluded by youthful intoxication, she became infatuated with a man and engaged in intimacy with her own slave. Fearing that others might discover this act, she said, "We cannot live in this place.
Tương truyền, con gái của một trưởng giả giàu có ở Rajagaha, khi đến tuổi trưởng thành, được cha mẹ bảo vệ rất kỹ lưỡng trên tầng cao nhất của tòa lâu đài bảy tầng, nhưng vì say mê tuổi trẻ và ham muốn đàn ông, cô đã quan hệ với người hầu của mình, rồi sợ rằng “những người khác sẽ biết việc làm này của mình,” nên cô nói: “Chúng ta không thể sống ở nơi này được.
Sace me mātāpitaro imaṃ dosaṃ jānissanti, khaṇḍākhaṇḍikaṃ maṃ karissanti.
If my parents come to know of this fault, they will cut me into pieces.
Nếu cha mẹ tôi biết được lỗi lầm này, họ sẽ chặt tôi ra từng mảnh.
Videsaṃ gantvā vasissāmā’’ti.
Let us go and live in a foreign land."
Chúng ta hãy đi đến một đất nước khác mà sống.”
Te hatthasāraṃ gahetvā aggadvārena nikkhamitvā, ‘‘yattha vā tattha vā aññehi ajānanaṭṭhānaṃ gantvā vasissāmā’’ti ubhopi agamaṃsu.
They took their belongings and exited through the main gate, both of them leaving, saying, "Let us go and live somewhere where others will not know."
Họ mang theo một ít tài sản trong tay, đi ra cổng chính và cả hai cùng đi, nói: “Chúng ta sẽ đi đến một nơi nào đó mà người khác không biết để sống.”
Tesaṃ ekasmiṃ ṭhāne vasantānaṃ saṃvāsamanvāya tassā kucchismiṃ gabbho patiṭṭhāsi.
As they lived together in one place, she conceived a child in her womb.
Trong khi họ sống chung ở một nơi, một bào thai đã hình thành trong bụng cô ấy.
Sā gabbhaparipākaṃ āgamma tena saddhiṃ mantesi, ‘‘gabbho me paripākaṃ gato, ñātibandhuvirahite ṭhāne gabbhavuṭṭhānaṃ nāma ubhinnampi amhākaṃ dukkhāvahaṃ, kulagehameva gacchāmā’’ti.
As her pregnancy matured, she consulted with him, "My pregnancy is mature. Giving birth in a place devoid of relatives and friends will bring suffering to both of us. Let us go back to my family home."
Khi thai đã lớn, cô ấy bàn với người đàn ông: “Thai của em đã lớn rồi. Việc sinh nở ở một nơi không có bà con thân thuộc sẽ mang lại đau khổ cho cả hai chúng ta. Chúng ta hãy về nhà cha mẹ em.”
So ‘‘sacāhaṃ tattha gamissāmi, jīvitaṃ me natthī’’ti bhayena ‘‘ajja gacchāma, sve gacchāmā’’ti divase atikkāmesi.
He, fearing for his life, thinking, "If I go there, I will not live," kept postponing by saying, "Let's go today, let's go tomorrow."
Vì sợ hãi rằng “nếu tôi về đó, tôi sẽ mất mạng,” người đàn ông đã trì hoãn ngày này qua ngày khác, nói: “Hôm nay chúng ta đi, ngày mai chúng ta đi.”
Sā cintesi – ‘‘ayaṃ bālo attano dosamahantatāya gantuṃ na ussahati, mātāpitaro nāma ekantahitāva, ayaṃ gacchatu vā, mā vā, ahaṃ gamissāmī’’ti.
She thought, "This fool, due to the magnitude of his fault, does not dare to go. Parents are always truly beneficial. Whether he goes or not, I will go."
Cô ấy nghĩ: “Người ngu này không dám đi vì lỗi lầm của mình quá lớn. Cha mẹ thì luôn là người có lợi ích cho con cái. Dù anh ta có đi hay không, tôi cũng sẽ đi.”
Sā tasmiṃ gehā nikkhante gehaparikkhāraṃ paṭisāmetvā attano kulagharaṃ gatabhāvaṃ anantaragehavāsīnaṃ ārocetvā maggaṃ paṭipajji.
When he left the house, she tidied up the household belongings, informed her neighbors that she was returning to her family home, and set out on the road.
Khi người đàn ông ra khỏi nhà, cô ấy đã sắp xếp đồ đạc trong nhà, báo cho những người hàng xóm biết mình đã về nhà cha mẹ, rồi lên đường.
713
Sopi gharaṃ āgantvā taṃ adisvā paṭivissake pucchitvā, ‘‘sā kulagharaṃ gatā’’ti sutvā vegena anubandhitvā antarāmagge sampāpuṇi.
That man also, having come to the house, not seeing her, and having asked the neighbors, heard, "She has gone to her family home," and having swiftly followed, reached her on the way.
Người đàn ông ấy cũng về nhà, không thấy cô ấy đâu, hỏi hàng xóm và nghe nói “cô ấy đã về nhà cha mẹ,” liền vội vàng đuổi theo và gặp cô ấy giữa đường.
Tassāpi tattheva gabbhavuṭṭhānaṃ ahosi.
For her, right there, there was a birth.
Tại đó, cô ấy đã sinh nở.
So ‘‘kiṃ idaṃ, bhadde’’ti pucchi.
He asked, "What is this, my good lady?"
Người đàn ông hỏi: “Này em, chuyện gì thế này?”
‘‘Sāmi, me eko putto jāto’’ti.
"Master, one son is born to me," she said.
“Thưa anh, em đã sinh một đứa con trai.”
‘‘Idāni kiṃ karissāmā’’ti?
"What shall we do now?"
“Bây giờ chúng ta sẽ làm gì?”
‘‘Yassatthāya mayaṃ kulagharaṃ gaccheyyāma, taṃ kammaṃ antarāmaggeva nipphannaṃ, tattha gantvā kiṃ karissāma, nivattissāmā’’ti dvepi ekacittā hutvā nivattiṃsu.
"The purpose for which we would go to the family home has been accomplished right on the way; what shall we do by going there? We shall return," thinking thus, both of them, being of one mind, returned.
“Việc mà chúng ta muốn về nhà cha mẹ để làm thì đã hoàn thành ngay giữa đường rồi. Về đó làm gì nữa? Chúng ta hãy quay về.” Cả hai đều đồng lòng quay trở lại.
Tassa ca dārakassa panthe jātattā panthakoti nāmaṃ kariṃsu.
And because that child was born on the path, they named him Panthaka.
Vì đứa bé sinh ra trên đường, họ đặt tên là Panthaka.
Tassā nacirasseva aparopi gabbho patiṭṭhahi.
Not long after, she conceived another.
Không lâu sau, cô ấy lại mang thai.
Sabbaṃ purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
All should be narrated in the same way as before.
Tất cả mọi chuyện đều được kể lại theo cách cũ.
Tassapi dārakassa panthe jātattā paṭhamajātassa mahāpanthakoti nāmaṃ katvā itarassa cūḷapanthakoti nāmaṃ kariṃsu.
Since that child also was born on the path, they named the firstborn Mahāpanthaka and the other Cūḷapanthaka.
Vì đứa bé ấy cũng sinh ra trên đường, họ đặt tên đứa bé đầu lòng là Mahāpanthaka, và đứa bé kia là Cūḷapanthaka.
Te dvepi dārake gahetvā attano vasanaṭṭhānameva gatā.
Taking those two children, they went back to their own dwelling place.
Họ đưa hai đứa bé ấy về lại nơi mình đang sống.
Tesaṃ tattha vasantānaṃ mahāpanthakadārako aññe dārake ‘‘cūḷapitā mahāpitāti, ayyako ayyikā’’ti ca vadante sutvā mātaraṃ pucchi – ‘‘amma, aññe dārakā ‘ayyako ayyikā’tipi, ‘mahāpitā cūḷapitā’tipi vadanti, kacci amhākaññeva ñātakā natthī’’ti?
While they were living there, the child Mahāpanthaka heard other children saying "junior father, senior father" and "grandfather, grandmother," and he asked his mother, "Mother, other children speak of 'grandfather and grandmother,' and 'senior father and junior father'; do we not have any relatives here?"
Trong khi họ sống ở đó, đứa bé Mahāpanthaka nghe những đứa trẻ khác nói “chú nhỏ, bác lớn, ông nội, bà nội,” liền hỏi mẹ: “Mẹ ơi, những đứa trẻ khác nói ‘ông nội, bà nội,’ và ‘bác lớn, chú nhỏ,’ có phải chúng con không có bà con thân thuộc nào không?”
‘‘Āma, tāta, amhākaṃ ettha ñātakā natthi.
"Indeed, my dear, we have no relatives here.
“Đúng vậy, con trai, chúng ta không có bà con thân thuộc nào ở đây.
Rājagahanagare pana vo dhanaseṭṭhi nāma ayyako, tattha amhākaṃ bahū ñātakā’’ti.
But in the city of Rājagaha, you have a grandfather named Dhanaseṭṭhi, and we have many relatives there," she said.
Nhưng ở thành Rājagaha, ông nội của các con là một vị trưởng giả giàu có, ở đó chúng ta có rất nhiều bà con thân thuộc.”
‘‘Kasmā tattha na gacchatha, ammā’’ti?
"Why don't you go there, Mother?"
“Mẹ ơi, tại sao mẹ không về đó?”
Sā attano agamanakāraṇaṃ puttassa akathetvā puttesu punappunaṃ kathentesu sāmikaṃ āha – ‘‘ime dārakā maṃ ativiya kilamenti, kiṃ no mātāpitaro disvā maṃsaṃ khādissanti, ehi, dārakānaṃ ayyakakulaṃ dassessāmā’’ti?
She did not tell her son the reason for her not going, but when the children repeatedly asked, she said to her husband, "These children trouble me greatly. What will our parents do, will they eat meat? Come, let's show the children their grandfather's home."
Cô ấy không nói lý do không đi cho con trai mình, nhưng khi các con cứ hỏi đi hỏi lại, cô ấy nói với chồng: “Mấy đứa trẻ này làm tôi mệt mỏi quá. Cha mẹ chúng ta có ăn thịt chúng ta đâu? Này anh, chúng ta hãy đưa các con về thăm nhà ông nội.”
‘‘Ahaṃ sammukhā bhavituṃ na sakkhissāmi, te pana nayissāmī’’ti.
"I will not be able to face them, but I will take the children there," he said.
“Tôi không thể đối mặt với họ, nhưng tôi sẽ đưa các con đi.”
‘‘Sādhu yena kenaci upāyena dārakānaṃ ayyakakulameva daṭṭhuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Good, it is fitting that the children should see their grandfather's home by any means," she said.
“Tốt lắm, bằng bất cứ cách nào cũng cần phải cho các con thấy nhà ông nội.”
Dvepi janā dārake ādāya anupubbena rājagahaṃ patvā nagaradvāre ekissā sālāya pavisitvā dārakamātā dve dārake gahetvā attano āgatabhāvaṃ mātāpitūnaṃ ārocāpesi.
Both of them took the children and gradually arrived at Rājagaha, entered a hall at the city gate, and the children's mother made known to her parents that she had come with the two children.
Cả hai người dẫn các con đi, dần dần đến Rājagaha, vào một hội trường ở cổng thành, người mẹ của các đứa trẻ đã báo cho cha mẹ mình biết về việc cô ấy và hai đứa con đã đến.
Te taṃ sāsanaṃ sutvā, ‘‘saṃsāre vicarantānaṃ na putto na dhītā bhūtapubbā nāma natthi, te amhākaṃ mahāparādhikā, na sakkā tehi amhākaṃ cakkhupathe ṭhātuṃ, ettakaṃ nāma dhanaṃ gahetvā dvepi janā phāsukaṭṭhānaṃ gantvā jīvantu, dārake pana idha pesentū’’ti dhanaṃ datvā dūtaṃ pāhesuṃ.
Having heard that message, they thought, "For those wandering in saṃsāra, there has never been anyone who was not a son or a daughter before. These two have committed a great offense against us; they cannot stand in our sight. Let them take this much wealth, and both of them go to a comfortable place and live, but let them send the children here." So they gave the wealth and sent a messenger.
Nghe tin ấy, họ nghĩ: “Trong vòng luân hồi, không có ai chưa từng là con trai hay con gái. Hai người đó đã phạm lỗi lớn với chúng ta, không thể để họ ở trong tầm mắt của chúng ta. Hãy đưa cho họ số tiền này, để cả hai người đi đến một nơi an ổn mà sống, còn các đứa trẻ thì hãy gửi về đây.” Nói vậy rồi, họ đưa tiền và sai sứ giả đi.
714
Tehi pesitaṃ dhanaṃ gahetvā dārake āgatadūtānaññeva hatthe datvā pahiṇiṃsu.
Having received the wealth sent by them, they handed the children over to the messengers who had come and sent them away.
Họ nhận số tiền do cha mẹ gửi đến, giao các con cho chính những sứ giả đã đến, rồi gửi các con đi.
Dārakā ayyakakule vaḍḍhanti.
The children grew up in their grandfather's home.
Các đứa trẻ lớn lên trong nhà ông nội.
Tesu cūḷapanthako atidaharo, mahāpanthako pana ayyakena saddhiṃ dasabalassa dhammakathaṃ sotuṃ gacchati.
Among them, Cūḷapanthaka was very young, but Mahāpanthaka went with his grandfather to listen to the Dhamma talk of the Buddha.
Trong số đó, Cūḷapanthaka còn rất nhỏ, còn Mahāpanthaka thì thường đi cùng ông nội để nghe Đức Phật thuyết pháp.
Tassa niccaṃ satthu santikaṃ gacchantassa pabbajjāya cittaṃ nami.
As he constantly went to the Teacher, his mind inclined towards ordination.
Do thường xuyên đến gần Đức Thế Tôn, tâm của cậu ấy đã hướng về sự xuất gia.
So ayyakaṃ āha – ‘‘sace maṃ anujāneyyātha, ahaṃ pabbajeyya’’nti.
He said to his grandfather, "If you would permit me, I would like to ordain."
Cậu ấy nói với ông nội: “Nếu ông cho phép, con sẽ xuất gia.”
‘‘Kiṃ vadesi, tāta, sakalassa lokassapi me pabbajjāto tava pabbajjā bhaddikā.
"What are you saying, my dear? Your ordination is better than the ordination of anyone in the whole world for me.
“Con nói gì vậy, cháu trai? Đối với ông, sự xuất gia của con còn tốt hơn sự xuất gia của cả thế gian này.
Sace sakkosi pabbajāhī’’ti.
If you can, ordain," he said.
Nếu con có thể, hãy xuất gia đi.”
Taṃ satthu santikaṃ netvā, ‘‘kiṃ, gahapati, dārako te laddho’’ti vutte, ‘‘āma, bhante, ayaṃ me nattā tumhākaṃ santike pabbajitukāmo’’ti āha.
Taking him to the Teacher, when asked, "Householder, have you found a child?" he replied, "Yes, venerable sir, this grandson of mine wishes to ordain with you."
Đưa cậu ấy đến gần Đức Thế Tôn, khi được hỏi: “Này gia chủ, cậu bé của ông đã được nhận chưa?” Ông nói: “Bạch Thế Tôn, đây là cháu nội của con, muốn xuất gia với Ngài.”
Satthā aññataraṃ piṇḍapātacārikaṃ bhikkhuṃ ‘‘imaṃ dārakaṃ pabbājehī’’ti āṇāpesi.
The Teacher instructed a certain alms-gathering monk, "Ordain this child."
Đức Thế Tôn đã ra lệnh cho một vị Tỳ-khưu đi khất thực: “Hãy cho cậu bé này xuất gia.”
Thero tassa tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhitvā pabbājesi.
The elder taught him the five-part meditation subject related to the skin and ordained him.
Vị Trưởng lão đã giảng dạy cho cậu ấy đề mục thiền quán ngũ phần của thân thể và cho cậu ấy xuất gia.
So bahuṃ buddhavacanaṃ uggaṇhitvā paripuṇṇavasso upasampadaṃ labhitvā yonisomanasikārena kammaṭṭhānaṃ karonto arahattaṃ pāpuṇi.
He learned much of the Buddha's word, and having attained full seniority (twenty years) and received the upasampadā, he attained Arahantship by practicing the meditation subject with proper attention.
Cậu ấy đã học thuộc nhiều lời Phật dạy, sau khi đủ tuổi thọ và thọ đại giới, đã thực hành đề mục thiền quán với sự tác ý đúng đắn và đạt được quả A-la-hán.
So jhānasukhena phalasukhena vītināmento cintesi – ‘‘sakkā nu kho idaṃ sukhaṃ cūḷapanthakassa dātu’’nti!
While passing his time with the happiness of jhāna and the happiness of fruition, he thought, "Is it possible to bestow this happiness upon Cūḷapanthaka?"
Vị ấy, trải qua niềm an lạc của thiền định và niềm an lạc của quả vị, đã suy nghĩ: “Liệu có thể trao niềm an lạc này cho Cūḷapanthaka được không?”
Tato ayyakaseṭṭhissa santikaṃ gantvā evamāha – ‘‘mahāseṭṭhi, sace anujāneyyātha, ahaṃ cūḷapanthakaṃ pabbājeyya’’nti.
Then he went to the chief householder, his grandfather, and said, "Great householder, if you would permit, I would ordain Cūḷapanthaka."
Sau đó, vị ấy đến gặp vị trưởng giả ông nội và nói: “Đại trưởng giả, nếu ông cho phép, con sẽ cho Cūḷapanthaka xuất gia.”
‘‘Pabbājetha, bhante’’ti.
"Venerable sir, please ordain him," he said.
“Bạch Đại đức, xin hãy cho xuất gia.”
Seṭṭhi kira sāsane ca suppasanno, ‘‘kataradhītāya vo ete puttā’’ti pucchiyamāno ca ‘‘palātadhītāyā’’ti vattuṃ lajjati, tasmā sukheneva tesaṃ pabbajjaṃ anujāni.
The householder, it is said, was deeply devoted to the Dispensation and was ashamed to say, when asked, "Whose daughter's children are these?" that they were "the children of his runaway daughter," and therefore readily permitted their ordination.
Trưởng giả ấy rất hoan hỷ với giáo pháp, và khi được hỏi: “Các đứa con này là con của người con gái nào của ông?” thì ông xấu hổ khi phải nói: “Là con của người con gái đã bỏ trốn,” vì vậy ông đã dễ dàng cho phép chúng xuất gia.
Thero cūḷapanthakaṃ pabbājetvā sīlesu patiṭṭhāpesi.
The elder ordained Cūḷapanthaka and established him in the precepts.
Vị Trưởng lão đã cho Cūḷapanthaka xuất gia và thiết lập cậu ấy trong các giới hạnh.
So pabbajitvāva dandho ahosi.
But as soon as he was ordained, he became dull-witted.
Ngay sau khi xuất gia, cậu ấy đã trở nên chậm chạp.
715
‘‘Padmaṃ yathā kokanadaṃ sugandhaṃ,
"Like a red lotus, fragrant,
“Như hoa sen đỏ thơm ngát,
716
Pāto siyā phullamavītagandhaṃ;
That at dawn blooms with unfaded scent;
Vào buổi sáng nở rộ mà hương vẫn không phai tàn;
717
Aṅgīrasaṃ passa virocamānaṃ,
Behold the Angīrasa, shining,
Hãy nhìn vị Aṅgīrasa đang tỏa sáng,
718
Tapantamādiccamivantalikkhe’’ti.(saṃ. ni. 1.123; a. ni. 5.195) –
Like the blazing sun in the sky."
Như mặt trời rực rỡ trên bầu trời.”
719
Imaṃ ekaṃ gāthaṃ catūhi māsehi uggaṇhituṃ nāsakkhi.
He was unable to memorize this one verse even in four months.
Cậu ấy không thể học thuộc một bài kệ này trong bốn tháng.
So kira kassapasammāsambuddhakāle pabbajitvā paññavā hutvā aññatarassa dandhabhikkhuno uddesaggahaṇakāle parihāsakeḷiṃ akāsi.
It is said that in the time of Kassapa Sammāsambuddha, he had ordained and was discerning, but he made a jesting remark when another dull-witted bhikkhu was learning the recitation.
Chuyện kể rằng, vào thời Đức Phật Kassapa Chánh Đẳng Giác, cậu ấy đã xuất gia và có trí tuệ. Khi một Tỳ-khưu chậm chạp đang học thuộc bài tụng, cậu ấy đã đùa giỡn.
So bhikkhu tena parihāsena lajjito neva uddesaṃ gaṇhi, na sajjhāyamakāsi.
That bhikkhu, embarrassed by the jest, neither learned the recitation nor practiced chanting.
Vị Tỳ-khưu ấy, vì xấu hổ với lời đùa giỡn đó, đã không học bài tụng nữa và cũng không tụng đọc nữa.
Tena kammena ayaṃ pabbajitvāva dandho jāto, gahitagahitaṃ padaṃ uparūparipadaṃ gaṇhantassa nassati.
Due to that action, this bhikkhu became dull-witted as soon as he ordained; whatever he learned, he would forget when he moved to the next line.
Do nghiệp ấy, vị này sau khi xuất gia đã trở nên chậm lụt, câu cú đã học được liền biến mất khi học đến câu cú tiếp theo.
Tassa imameva gāthaṃ uggahetuṃ vāyamantassa cattāro māsā atikkantā.
While he was striving to learn just this one verse, four months passed.
Đối với vị ấy, trong khi cố gắng học thuộc lòng chính bài kệ này, bốn tháng đã trôi qua.
Atha naṃ mahāpanthako, ‘‘cūḷapanthaka, tvaṃ imasmiṃ sāsane abhabbo, catūhi māsehi ekaṃ gāthampi gaṇhituṃ na sakkosi, pabbajitakiccaṃ pana kathaṃ matthakaṃ pāpessasi, nikkhama ito’’ti vihārā nikkaḍḍhi.
Then Mahāpanthaka said to him, "Cūḷapanthaka, you are not capable in this Dispensation. You cannot even learn one verse in four months. How will you ever bring the duty of an ordained one to completion? Get out of here!" And he expelled him from the monastery.
Bấy giờ, trưởng lão Mahāpanthaka đã đuổi vị ấy ra khỏi tu viện, nói rằng: “Này Cūḷapanthaka, ngươi không có khả năng trong giáo pháp này, trong bốn tháng mà không thể học thuộc nổi một bài kệ, làm sao có thể hoàn thành phận sự của người xuất gia? Hãy đi khỏi đây.”
Cūḷapanthako buddhasāsane sinehena gihibhāvaṃ na pattheti.
Cūḷapanthaka, out of affection for the Buddha's Dispensation, did not desire to return to lay life.
Cūḷapanthaka, vì lòng yêu mến giáo pháp của Đức Phật, không mong muốn trở lại đời sống thế tục.
720
Tasmiñca kāle mahāpanthako bhattuddesako ahosi.
At that time, Mahāpanthaka was the distributor of meals.
Vào thời điểm đó, trưởng lão Mahāpanthaka là người giữ chức vụ sắp xếp vật thực.
Jīvako komārabhacco bahuṃ mālāgandhavilepanaṃ ādāya attano ambavanaṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā dhammaṃ sutvā uṭṭhāyāsanā dasabalaṃ vanditvā mahāpanthakaṃ upasaṅkamitvā, ‘‘kittakā, bhante, satthu santike bhikkhū’’ti pucchi.
Jīvaka Komārabhacca took many garlands, perfumes, and unguents, went to his Mango Grove, honored the Teacher, listened to the Dhamma, and rising from his seat, venerated the Buddha and approached Mahāpanthaka, asking, "Venerable sir, how many bhikkhus are with the Teacher?"
Jīvaka Komārabhacca, mang theo nhiều vòng hoa, hương liệu và thuốc thơm, đến vườn xoài của mình, cúng dường Đức Thế Tôn, nghe pháp, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bậc Thập Lực, đến gần trưởng lão Mahāpanthaka và hỏi: “Bạch ngài, có bao nhiêu vị tỳ-khưu ở gần Đức Thế Tôn?”
‘‘Pañcamattāni bhikkhusatānī’’ti.
"About five hundred bhikkhus," he said.
“Khoảng năm trăm vị tỳ-khưu.”
‘‘Sve, bhante, buddhappamukhāni pañca bhikkhusatāni ādāya amhākaṃ nivesane bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti.
"Tomorrow, venerable sir, please accept alms with five hundred bhikkhus, with the Buddha at the forefront, at our residence," he said.
“Bạch ngài, ngày mai, xin ngài cùng với năm trăm vị tỳ-khưu do Đức Phật dẫn đầu, hãy nhận vật thực tại nhà của chúng con.”
‘‘Upāsaka, cūḷapanthako nāma bhikkhu dandho aviruḷhidhammo, taṃ ṭhapetvā sesānaṃ nimantanaṃ sampaṭicchāmī’’ti thero āha.
The elder said, "Lay follower, the bhikkhu named Cūḷapanthaka is dull-witted and ungrowing in the Dhamma; I will accept the invitation for the others, excluding him."
Trưởng lão đáp: “Này thiện tín, có một vị tỳ-khưu tên là Cūḷapanthaka, chậm lụt, pháp không tăng trưởng, trừ vị ấy ra, tôi nhận lời thỉnh mời cho các vị còn lại.”
Taṃ sutvā cūḷapanthako cintesi – ‘‘thero ettakānaṃ bhikkhūnaṃ nimantanaṃ sampaṭicchanto maṃ bāhiraṃ katvā sampaṭicchati, nissaṃsayaṃ mayhaṃ bhātikassa mayi cittaṃ bhinnaṃ bhavissati, kiṃ dāni mayhaṃ iminā sāsanena, gihī hutvā dānādīni puññāni karonto jīvissāmī’’ti?
Having heard this, Cūḷapanthaka thought, "The elder, while accepting the invitation for so many bhikkhus, accepts it by excluding me. Without a doubt, my brother's mind must have turned against me. What is this Dispensation to me now? I will live as a layman, performing meritorious deeds such as giving alms."
Nghe điều đó, Tôn giả Cūḷapanthaka suy nghĩ: “Trưởng lão nhận lời thỉnh mời của chừng ấy vị Tỳ-khưu, lại gạt bỏ ta ra ngoài mà nhận lời. Chắc chắn tâm của huynh trưởng đối với ta đã tan vỡ. Vậy thì bây giờ ta còn lợi ích gì với giáo pháp này nữa? Ta sẽ sống đời cư sĩ, làm các việc phước thiện như bố thí, v.v.”
So punadivase pātova vibbhamituṃ pāyāsi.
So, early the next morning, he set out to disrobe.
Sáng sớm hôm sau, vị ấy liền đi để hoàn tục.
721
Satthā paccūsakāleyeva lokaṃ volokento imaṃ kāraṇaṃ disvā paṭhamataraṃ gantvā cūḷapanthakassa gamanamagge dvārakoṭṭhake caṅkamanto aṭṭhāsi.
The Teacher, looking over the world at dawn, saw this matter and went first, standing and pacing in the gatehouse on Cūḷapanthaka's path.
Thế Tôn, vào lúc rạng đông, quán sát thế gian, thấy được sự việc này, Ngài đã đi trước và đứng kinh hành tại cổng thành trên con đường đi của Cūḷapanthaka.
Cūḷapanthako gacchanto satthāraṃ disvā upasaṅkamitvā vanditvā aṭṭhāsi.
Cūḷapanthaka, as he was going, saw the Teacher, approached him, paid homage, and stood there.
Cūḷapanthaka đang đi, thấy Thế Tôn liền đến gần, đảnh lễ rồi đứng lại.
Atha naṃ satthā ‘‘kuhiṃ pana tvaṃ, cūḷapanthaka, imāya velāya gacchasī’’ti āha.
Then the Teacher said to him, "Cūḷapanthaka, where are you going at this time?"
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi vị ấy: “Này Cūḷapanthaka, giờ này con đi đâu vậy?”
‘‘Bhātā maṃ, bhante, nikkaḍḍhati, tenāhaṃ vibbhamituṃ gacchāmī’’ti.
"My brother, Venerable Sir, is expelling me, so I am going to wander away."
“Bạch Thế Tôn, huynh trưởng đuổi con đi, do đó con đi để hoàn tục.”
‘‘Cūḷapanthaka, tava pabbajjā nāma mama santakā, bhātarā nikkaḍḍhito kasmā mama santikaṃ nāgañchi, ehi, kiṃ te gihibhāvena, mama santike bhavissasī’’ti cakkaṅkitatalena pāṇinā taṃ sirasi parāmasitvā ādāya gantvā gandhakuṭippamukhe nisīdāpetvā, ‘‘cūḷapanthaka, puratthābhimukho hutvā imaṃ pilotikaṃ ‘rajoharaṇaṃ rajoharaṇa’nti parimajjanto idheva hohī’’ti iddhiyā abhisaṅkhataṃ parisuddhaṃ pilotikaṃ datvā kāle ārocite bhikkhusaṅghaparivuto jīvakassa gehaṃ gantvā paññattāsane nisīdi.
"Cūḷapanthaka, your ordination belongs to me. Why did you not come to me when your brother expelled you? Come, what good is the lay life to you? You shall be with me." Having touched him on the head with his hand, which bore the marks of a wheel, he took him and, going, seated him at the entrance of the Perfumed Chamber. He said, "Cūḷapanthaka, face eastward, and while rubbing this cloth, saying 'dust-remover, dust-remover,' remain right here." Giving him a pure cloth created by his psychic power, when the time for almsfood was announced, he went to Jīvaka's house, surrounded by the assembly of bhikkhus, and sat on the prepared seat.
Thế Tôn nói: “Này Cūḷapanthaka, sự xuất gia của con là thuộc về Ta. Bị huynh trưởng đuổi đi, sao con không đến chỗ Ta? Lại đây, con hoàn tục thì có ích gì? Con hãy ở lại bên Ta.” Nói xong, Ngài dùng bàn tay có dấu bánh xe xoa đầu vị ấy, rồi dẫn đi, cho ngồi ở cổng Hương thất và bảo: “Này Cūḷapanthaka, con hãy xoay mặt về hướng Đông, cầm tấm vải này mà xoa, niệm ‘rajoharaṇaṃ rajoharaṇaṃ’ (vải lau bụi, vải lau bụi) và cứ ở đây.” Ngài ban cho một tấm vải sạch tinh được hóa hiện bằng thần thông. Đến giờ thọ trai, Ngài cùng với chúng Tỳ-khưu đến nhà Jīvaka và ngồi vào chỗ đã được sắp sẵn.
Cūḷapanthakopi sūriyaṃ olokento taṃ pilotikaṃ ‘‘rajoharaṇaṃ rajoharaṇa’’nti parimajjanto nisīdi.
Cūḷapanthaka, too, looking at the sun, sat rubbing that cloth, saying "dust-remover, dust-remover."
Cūḷapanthaka cũng nhìn mặt trời, ngồi xoa tấm vải ấy và niệm “rajoharaṇaṃ rajoharaṇaṃ”.
Tassa taṃ pilotikakhaṇḍaṃ parimajjantassa kiliṭṭhaṃ ahosi.
As he rubbed that piece of cloth, it became soiled.
Khi vị ấy xoa tấm vải đó, nó trở nên dơ bẩn.
Tato cintesi – ‘‘idaṃ pilotikakhaṇḍaṃ ativiya parisuddhaṃ, imaṃ pana attabhāvaṃ nissāya purimapakatiṃ vijahitvā evaṃ kiliṭṭhaṃ jātaṃ, aniccā vata saṅkhārā’’ti khayavayaṃ paṭṭhapento vipassanaṃ vaḍḍhesi.
Then he thought, "This piece of cloth is exceedingly pure, but due to this body, it has abandoned its former purity and become soiled in this way. Truly, impermanent are formations!" Thus, establishing the contemplation of rise and fall, he developed insight.
Từ đó, vị ấy suy nghĩ: “Tấm vải này vốn rất sạch, nhưng vì thân này mà nó đã bỏ trạng thái ban đầu và trở nên dơ bẩn như vậy. Than ôi, các pháp hữu vi thật vô thường!” Vị ấy bắt đầu quán sự hoại diệt và tăng trưởng thiền quán (vipassanā).
Satthā ‘‘cūḷapanthakassa cittaṃ vipassanaṃ āruḷha’’nti ñatvā, ‘‘cūḷapanthaka, tvaṃ pilotikakhaṇḍameva saṃkiliṭṭhaṃ ‘rajaṃ raja’nti mā saññaṃ kari, abbhantare pana te rāgarajādayo atthi, te harāhī’’ti vatvā obhāsaṃ vissajjetvā purato nisinno viya paññāyamānarūpo hutvā imā gāthā abhāsi –
The Teacher, knowing that Cūḷapanthaka's mind had ascended to insight, said, "Cūḷapanthaka, do not perceive only the soiled piece of cloth as 'dust, dust.' Within you, there are the dusts of lust and so forth; remove them!" Having emitted a ray of light, appearing as if seated before him, he recited these verses:
Thế Tôn biết rằng: “Tâm của Cūḷapanthaka đã đạt đến thiền quán,” liền nói: “Này Cūḷapanthaka, con đừng chỉ niệm ‘bụi, bụi’ đối với tấm vải dơ bẩn này. Mà trong nội tâm con có các loại bụi tham, v.v. Hãy loại bỏ chúng đi!” Nói xong, Ngài phóng hào quang, hiện ra như đang ngồi trước mặt và thuyết những bài kệ này:
722
‘‘Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati,
"Lust is dust, and it is not called fine dust;
Tham là bụi, không phải là cát bụi thông thường,
723
Rāgassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
This 'dust' is a designation for lust.
“Bụi” là tên gọi của tham.
724
Etaṃ rajjaṃ vippajahitva bhikkhavo,
Having abandoned this dust, bhikkhus,
Các Tỳ-khưu từ bỏ được bụi này,
725
Viharanti te vigatarajassa sāsane.
They dwell in the teaching of the one free from dust.
Họ sống trong giáo pháp của bậc đã lìa bụi.
726
‘‘Doso rajo na ca pana reṇu vuccati,
"Hatred is dust, and it is not called fine dust;
Sân là bụi, không phải là cát bụi thông thường,
727
Dosassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
This 'dust' is a designation for hatred.
“Bụi” là tên gọi của sân.
728
Etaṃ rajaṃ vippajahitva bhikkhavo,
Having abandoned this dust, bhikkhus,
Các Tỳ-khưu từ bỏ được bụi này,
729
Viharanti te vigatarajassa sāsane.
They dwell in the teaching of the one free from dust.
Họ sống trong giáo pháp của bậc đã lìa bụi.
730
‘‘Moho rajo na ca pana reṇu vuccati,
"Delusion is dust, and it is not called fine dust;
Si là bụi, không phải là cát bụi thông thường,
731
Mohassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
This 'dust' is a designation for delusion.
“Bụi” là tên gọi của si.
732
Etaṃ rajaṃ vippajahitva bhikkhavo,
Having abandoned this dust, bhikkhus,
Các Tỳ-khưu từ bỏ được bụi này,
733
Viharanti te vigatarajassa sāsane’’ti.(mahāni. 209);
They dwell in the Dispensation of the One whose defilements are removed.
Họ sống trong giáo pháp của bậc đã lìa bụi.
734
Gāthāpariyosāne cūḷapanthako saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.
At the end of the verses, Cūḷapanthaka attained Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā).
Khi các bài kệ kết thúc, Cūḷapanthaka đắc A-la-hán cùng với các Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā).
Saha paṭisambhidāhiyevassa tīṇi piṭakāni āgamiṃsu.
For him, the three Piṭakas came into being together with the analytical knowledges (paṭisambhidā).
Cả ba Tạng Pāli cũng tự nhiên hiện rõ trong tâm vị ấy cùng với Tứ Vô Ngại Giải.
735
So kira pubbe rājā hutvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ karonto nalāṭato sede muccante parisuddhena sāṭakena nalāṭantaṃ puñchi, sāṭako kiliṭṭho ahosi.
It is said that he, having been a king in the past, while circumambulating the city, wiped his forehead with a clean cloth as sweat was flowing from his forehead, and the cloth became soiled.
Nghe nói, trước kia vị ấy là một vị vua, khi đi nhiễu quanh thành, mồ hôi chảy ra từ trán, vị ấy dùng một tấm vải sạch để lau trán, tấm vải liền bị dơ.
So ‘‘imaṃ sarīraṃ nissāya evarūpo parisuddho sāṭako pakatiṃ jahitvā kiliṭṭho jāto, aniccā vata saṅkhārā’’ti aniccasaññaṃ paṭilabhi.
He attained the perception of impermanence (anicca-saññā), thinking, "Because of this body, such a clean cloth has abandoned its natural state and become soiled; impermanent indeed are formations (saṅkhārā)!"
Vị ấy liền suy nghĩ: “Vì thân này mà tấm vải sạch tinh như thế đã bỏ trạng thái ban đầu và trở nên dơ bẩn. Than ôi, các pháp hữu vi thật vô thường!” Vị ấy đã đạt được tưởng vô thường (anicca-saññā).
Te kāraṇenassa rajoharaṇameva paccayo jāto.
For him, that cloth for removing dust (rajoharaṇa) became the very condition (for his attainment).
Do nguyên nhân đó, tấm vải lau bụi đã trở thành yếu tố trợ duyên cho vị ấy.
736
Jīvakopi kho komārabhacco dasabalassa dakkhiṇodakaṃ upanāmesi.
Jīvaka, the royal physician (komārabhacca), offered the water of donation to the Buddha (Dasabala).
Y sĩ Jīvaka Komārabhacca cũng dâng nước cúng dường lên Đức Thập Lực.
Satthā ‘‘nanu, jīvaka, vihāre bhikkhū atthī’’ti hatthena pattaṃ pidahi.
The Teacher covered the bowl with his hand, saying, "Jīvaka, are there not bhikkhus in the monastery?"
Thế Tôn dùng tay che bát lại và hỏi: “Này Jīvaka, chẳng phải còn các Tỳ-khưu ở trong tịnh xá sao?”
Mahāpanthako ‘‘nanu, bhante, vihāre bhikkhū natthī’’ti āha.
Mahāpanthaka said, "Venerable Sir, are there no bhikkhus in the monastery?"
Mahāpanthaka nói: “Bạch Thế Tôn, chẳng phải không có các Tỳ-khưu trong tịnh xá sao?”
Satthā ‘‘atthi, jīvakā’’ti āha.
The Teacher said, "There are, Jīvaka."
Thế Tôn nói: “Có chứ, Jīvaka.”
Jīvako ‘‘tena hi bhaṇe gaccha, vihāre bhikkhūnaṃ atthibhāvaṃ vā natthibhāvaṃ vā tvaññeva jānāhī’’ti purisaṃ pesesi.
Jīvaka said, "Then, my good man, go and ascertain for yourself whether there are bhikkhus in the monastery or not," and he sent a man.
Jīvaka nói: “Vậy thì này anh, hãy đi, tự anh hãy biết là có hay không có các Tỳ-khưu trong tịnh xá!” Ông sai một người đi.
Tasmiṃ khaṇe cūḷapanthako ‘‘mayhaṃ bhātiko ‘vihāre bhikkhū natthī’ti bhaṇati, vihāre bhikkhūnaṃ atthibhāvamassa pakāsessāmī’’ti sakalaṃ ambavanaṃ bhikkhūnaññeva pūresi.
At that moment, Cūḷapanthaka thought, "My elder brother says there are no bhikkhus in the monastery; I will make the presence of bhikkhus in the monastery manifest to him," and he filled the entire mango grove with bhikkhus.
Vào lúc đó, Cūḷapanthaka suy nghĩ: “Huynh trưởng của ta nói rằng ‘không có các Tỳ-khưu trong tịnh xá’, ta sẽ cho huynh trưởng thấy sự hiện diện của các Tỳ-khưu trong tịnh xá!” Vị ấy liền biến hóa cả khu vườn xoài đầy ắp các Tỳ-khưu.
Ekacce bhikkhū cīvarakammaṃ karonti, ekacce rajanakammaṃ karonti, ekacce sajjhāyaṃ karonti.
Some bhikkhus were sewing robes, some were dyeing robes, and some were reciting texts.
Một số Tỳ-khưu đang may y, một số đang nhuộm y, một số đang tụng kinh.
Evaṃ aññamaññaasadisaṃ bhikkhusahassaṃ māpesi.
In this way, he created a thousand bhikkhus, each different from the other.
Vị ấy đã hóa hiện một ngàn Tỳ-khưu khác nhau như vậy.
So puriso vihāre bahū bhikkhū disvā nivattitvā, ‘‘ayya, sakalaṃ ambavanaṃ bhikkhūhi paripuṇṇa’’nti jīvakassa ārocesi.
That man, seeing many bhikkhus in the monastery, returned and reported to Jīvaka, "Sir, the entire mango grove is full of bhikkhus."
Người đó thấy nhiều Tỳ-khưu trong tịnh xá, liền quay về báo cho Jīvaka: “Thưa Đại đức, cả khu vườn xoài đều đầy ắp các Tỳ-khưu.”
Theropi kho tattheva –
The Elder, indeed, right there—
Vị Trưởng lão cũng ở ngay đó —
737
‘‘Sahassakkhattumattānaṃ, nimminitvāna panthako;
"Having created a thousand selves, Panthaka,
“Tôn giả Panthaka đã hóa hiện một ngàn thân mình,
738
Nisīdambavane ramme, yāva kālappavedanā’’ti.
Sat in the delightful mango grove until the time was announced."
Và ngồi trong khu vườn xoài tươi đẹp, cho đến khi có người báo giờ.”
739
Atha satthā taṃ purisaṃ āha – ‘‘vihāraṃ gantvā ‘satthā cūḷapanthakaṃ nāma pakkosatī’ti vadehī’’ti.
Then the Teacher said to that man, "Go to the monastery and say, 'The Teacher summons the bhikkhu named Cūḷapanthaka!'"
Bấy giờ, Thế Tôn bảo người đó: “Hãy đi đến tịnh xá và nói rằng ‘Đức Thế Tôn gọi Tỳ-khưu tên Cūḷapanthaka’.”
Tena gantvā tathā vutte, ‘‘ahaṃ cūḷapanthako, ahaṃ cūḷapanthako’’ti mukhasahassaṃ uṭṭhahi.
When he went and said so, a thousand voices arose, saying, "I am Cūḷapanthaka! I am Cūḷapanthaka!"
Khi người đó đi và nói như vậy, một ngàn tiếng nói đồng thanh vang lên: “Tôi là Cūḷapanthaka, tôi là Cūḷapanthaka.”
So puriso puna gantvā, ‘‘sabbepi kira, bhante, cūḷapanthakāyeva nāmā’’ti āha.
That man returned again and said, "Venerable Sir, it seems all of them are named Cūḷapanthaka."
Người đó quay lại và nói: “Bạch Thế Tôn, tất cả đều là Cūḷapanthaka cả.”
‘‘Tena hi gantvā yo ‘ahaṃ cūḷapanthako’ti paṭhamaṃ vadati, taṃ hatthe gaṇha, avasesā antaradhāyissantī’’ti.
"Then go and grasp the hand of the one who says 'I am Cūḷapanthaka' first; the rest will vanish."
“Vậy thì hãy đi, ai nói ‘Tôi là Cūḷapanthaka’ đầu tiên, hãy nắm tay vị ấy, những vị còn lại sẽ biến mất.”
So tathā akāsi.
He did so.
Người đó làm như vậy.
Tāvadeva sahassamattā bhikkhū antaradhāyiṃsu.
Immediately, the thousand bhikkhus vanished.
Ngay lúc đó, một ngàn Tỳ-khưu biến mất.
Theropi tena purisena saddhiṃ agamāsi.
The Elder also went with that man.
Vị Trưởng lão cũng đi cùng với người đó.
Satthā bhattakiccapariyosāne jīvakaṃ āmantesi – ‘‘jīvaka, cūḷapanthakassa pattaṃ gaṇhāhi, ayaṃ te anumodanaṃ karissatī’’ti.
At the end of the meal, the Teacher addressed Jīvaka, "Jīvaka, take Cūḷapanthaka's bowl; he will give the anumodanā (thanksgiving) for you."
Khi buổi thọ trai kết thúc, Thế Tôn gọi Jīvaka và nói: “Này Jīvaka, hãy cầm bát của Cūḷapanthaka, vị ấy sẽ tùy hỷ phúc đức cho con.”
Jīvako tathā akāsi.
Jīvaka did so.
Jīvaka làm theo lời Ngài.
Thero sīhanādaṃ nadanto taruṇasīho viya tīhi piṭakehi saṅkhobhetvā anumodanamakāsi.
The Elder, roaring a lion's roar like a young lion, stirred up (the assembly) with the three Piṭakas and gave the anumodanā.
Vị Trưởng lão rống tiếng sư tử, như một con sư tử non, làm chấn động với ba tạng Pāli và tùy hỷ phúc đức.
Satthā uṭṭhāyāsanā bhikkhusaṅghaparivuto vihāraṃ gantvā bhikkhūhi vatte dassite gandhakuṭippamukhe ṭhatvā bhikkhusaṅghassa sugatovādaṃ datvā kammaṭṭhānaṃ kathetvā bhikkhusaṅghaṃ uyyojetvā surabhigandhavāsitaṃ gandhakuṭiṃ pavisitvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ upagato.
The Teacher rose from his seat, surrounded by the Saṅgha of bhikkhus, went to the monastery, and after the bhikkhus had shown their duties, stood at the entrance of the Perfumed Chamber (Gandhakuṭi), gave the good counsel to the Saṅgha of bhikkhus, taught the meditation subject (kammaṭṭhāna), dismissed the Saṅgha of bhikkhus, and entered the Perfumed Chamber, fragrant with sweet scents, and lay down in the lion's posture on his right side.
Thế Tôn đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cùng với chúng Tỳ-khưu trở về tịnh xá, khi các Tỳ-khưu đã làm xong các bổn phận, Ngài đứng ở cổng Hương thất, ban lời giáo huấn tốt lành cho chúng Tỳ-khưu, thuyết về đề mục thiền định (kammaṭṭhāna), rồi cho chúng Tỳ-khưu giải tán, sau đó Ngài đi vào Hương thất thơm ngát mùi hương, nằm nghiêng về bên phải trong tư thế sư tử nằm.
Atha sāyanhasamaye bhikkhū ito cito ca samosaritvā rattakambalasāṇiyā parikkhittā viya nisīditvā satthu guṇakathaṃ ārabhiṃsu, ‘‘āvuso, mahāpanthako cūḷapanthakassa ajjhāsayaṃ ajānanto catūhi māsehi ekaṃ gāthaṃ uggaṇhāpetuṃ na sakkoti, ‘dandho aya’nti vihārā nikkaḍḍhi, sammāsambuddho pana attano anuttaradhammarājatāya ekasmiṃyevassa antarabhatte saha paṭisambhidāhi arahattaṃ adāsi, tīṇi piṭakāni saha paṭisambhidāhiyeva āgatāni, aho buddhānaṃ balaṃ nāma mahanta’’nti.
Then, in the evening, the bhikkhus gathered from here and there, sat down as if encircled by red woolen blankets, and began to speak of the Buddha's virtues: "Friends, Mahāpanthaka, not knowing Cūḷapanthaka's disposition, was unable to make him learn a single verse in four months, and expelled him from the monastery, saying, 'He is dull-witted.' But the Perfectly Self-Enlightened One, by virtue of his supreme kingship of Dhamma, granted him Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā) within a single mealtime. The three Piṭakas came to him together with the analytical knowledges (paṭisambhidā). Oh, how great is the power of the Buddhas!"
Bấy giờ, vào buổi chiều tối, các Tỳ-khưu tụ họp lại đây đó, ngồi như được bao quanh bởi tấm màn len đỏ, và bắt đầu bàn luận về công đức của Đức Thế Tôn: “Này các hiền giả, Trưởng lão Mahāpanthaka không biết được tâm nguyện của Cūḷapanthaka, đã không thể giúp vị ấy học thuộc một bài kệ trong bốn tháng, rồi đuổi vị ấy ra khỏi tịnh xá vì cho rằng ‘vị này chậm lụt’. Nhưng Đức Chánh Đẳng Giác, với uy lực tối thượng của một vị Vua Pháp, đã ban cho vị ấy quả A-la-hán cùng với Tứ Vô Ngại Giải chỉ trong một buổi thọ trai. Cả ba Tạng Pāli cũng tự nhiên hiện rõ trong tâm vị ấy cùng với Tứ Vô Ngại Giải. Ôi, uy lực của chư Phật thật vĩ đại!”
740
Atha bhagavā dhammasabhāyaṃ imaṃ kathāpavattiṃ ñatvā, ‘‘ajja mayā gantuṃ vaṭṭatī’’ti buddhaseyyāya uṭṭhāya surattadupaṭṭaṃ nivāsetvā vijjulataṃ viya kāyabandhanaṃ bandhitvā rattakambalasadisaṃ sugatamahācīvaraṃ pārupitvā surabhigandhakuṭito nikkhamma mattavaravāraṇasīhavijambhitavilāsena anantāya buddhalīḷāya dhammasabhaṃ gantvā alaṅkatamaṇḍalamāḷamajjhe supaññattavarabuddhāsanaṃ abhiruyha chabbaṇṇabuddharaṃsiyo vissajjento aṇṇavakucchiṃ khobhayamāno yugandharamatthake bālasūriyo viya āsanamajjhe nisīdi.
Then the Blessed One, knowing this course of events in the Dhamma hall, thought, “Today it is fitting for me to go.” Rising from the Buddha's meditative posture (entering the fourth jhana of Arahantship), putting on his well-dyed inner robe with the top and bottom reversed, fastening his waistband like a streak of lightning, donning his great Sugata outer robe resembling a red blanket, he emerged from the fragrant Gandhakuti Vihara. With the majestic gait of an intoxicated elephant or a lion, with infinite Buddha-grace, he proceeded to the Dhamma hall. Ascending the well-arranged noble Buddha-seat in the middle of the decorated circular pavilion, he sat down, radiating six-colored Buddha-rays, disturbing the ocean's depths, like the rising sun atop Mount Yugandhara.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết được câu chuyện này trong Pháp đường, Ngài nghĩ: “Hôm nay Ta phải đi.” Ngài đứng dậy khỏi tư thế nằm của chư Phật, đắp y nội màu đỏ thẫm, thắt lưng y như một tia chớp, khoác đại y của bậc Thiện Thệ màu đỏ như tấm chăn len, rồi ra khỏi Hương thất thơm ngát. Với dáng vẻ oai nghi hùng dũng như voi chúa say sưa hay sư tử vươn vai, Ngài bước đến Pháp đường với phong thái vô biên của chư Phật, rồi ngự lên Pháp tòa cao quý đã được sắp sẵn ở giữa chánh điện trang hoàng lộng lẫy. Ngài tỏa ra sáu màu hào quang Phật, làm chấn động lòng đại dương, và ngồi giữa Pháp tòa như mặt trời non mới mọc trên đỉnh núi Yugandhara.
Sammāsambuddhe pana āgatamatte bhikkhusaṅgho kathaṃ pacchinditvā tuṇhī ahosi.
However, as soon as the Fully Enlightened Buddha arrived, the assembly of monks ceased their conversation and fell silent.
Khi Đức Chánh Đẳng Giác vừa đến, Tăng đoàn đã ngừng câu chuyện và im lặng.
Satthā mudukena mettacittena parisaṃ oloketvā, ‘‘ayaṃ parisā ativiya sobhati, ekassapi hatthakukkuccaṃ vā pādakukkuccaṃ vā ukkāsitasaddo vā khipitasaddo vā natthi, sabbepi ime buddhagāravena sagāravā, buddhatejena tajjitā.
The Teacher looked at the assembly with a gentle and compassionate mind and thought, “This assembly is exceedingly beautiful; there is no restless movement of hands or feet, no coughing, and no sneezing from anyone. All these monks are respectful out of reverence for the Buddha, intimidated by the Buddha's majesty.
Vị Đạo Sư với tâm từ bi dịu dàng nhìn khắp hội chúng và nói: “Hội chúng này thật trang nghiêm, không một ai có cử chỉ tay chân bất kính, không một tiếng ho hay tiếng hắt hơi. Tất cả đều cung kính vì lòng tôn trọng Đức Phật, và bị uy đức của Đức Phật chế ngự.
Mayi āyukappampi akathetvā nisinne paṭhamaṃ kathaṃ samuṭṭhāpetvā na kathessanti.
Even if I were to sit without speaking for an entire eon, they would not initiate a conversation first.
Nếu Ta ngồi im không nói lời nào trong suốt một kiếp sống, họ cũng sẽ không bắt đầu câu chuyện trước.
Kathāsamuṭṭhāpanavattaṃ nāma mayāva jānitabbaṃ, ahameva paṭhamaṃ kathessāmī’’ti madhurena brahmassarena bhikkhū āmantetvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā, kā ca pana vo antarākathā vippakatā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘na, bhikkhave, cūḷapanthako idāneva dandho, pubbepi dandhoyeva.
The custom of initiating a discourse must be known by me, and I shall speak first.” Thus, addressing the monks with his sweet, Brahma-like voice, he asked, “With what discussion, monks, are you now gathered? And what was the intervening conversation that was left unfinished?” When they replied, “It was about this matter,” the Buddha said, “Monks, Cūḷapanthaka is not dull only now; he was dull in the past as well.
Việc bắt đầu câu chuyện này chỉ có Ta mới biết, chính Ta sẽ nói trước.” Rồi với giọng Phạm âm ngọt ngào, Ngài gọi các Tỳ-kheo và hỏi: “Này các Tỳ-kheo, bây giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì, và câu chuyện giữa chừng của các ông là gì?” Khi được trả lời: “Thưa Ngài, là chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, Cūḷapanthaka không phải chỉ bây giờ mới chậm chạp, mà trước đây cũng đã chậm chạp rồi.
Na kevalañcassāhaṃ idāneva avassayo jāto, pubbepi avassayo ahosimeva.
Not only have I become his refuge now, but I was also his refuge in the past.
Không chỉ bây giờ ta mới là chỗ nương tựa của y, mà trước đây ta cũng đã là chỗ nương tựa của y.
Pubbe panāhaṃ imaṃ lokiyakuṭumbassa sāmikaṃ akāsiṃ, idāni lokuttarakuṭumbassā’’ti vatvā tamatthaṃ vitthārato sotukāmehi bhikkhūhi āyācito atītaṃ āhari –
In the past, I made him the master of worldly wealth; now I make him the master of transcendental wealth.” Having said this, and being requested by the monks who wished to hear the full account, he recounted a past event:
Trước đây, ta đã làm cho y trở thành chủ nhân của gia tài thế gian, còn bây giờ là chủ nhân của gia tài xuất thế gian.” Sau khi nói vậy, được các Tỳ-kheo muốn nghe chi tiết câu chuyện ấy thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ:
741
‘‘Atīte, bhikkhave, bārāṇasinagaravāsī eko māṇavo takkasilaṃ gantvā sippuggahaṇatthāya disāpāmokkhassa ācariyassa dhammantevāsiko hutvā pañcannaṃ māṇavakasatānaṃ antare ativiya ācariyassa upakārako ahosi, pādaparikammādīni sabbakiccāni karoti.
“Monks, in the past, a young man from Bārāṇasī went to Takkasilā to learn a skill. He became a resident disciple of a world-renowned teacher and was exceedingly helpful to the teacher among five hundred young men, performing all duties such as foot-massage and other services.
“Này các Tỳ-kheo, thuở xưa, một thanh niên sống ở thành Bārāṇasī đã đến Takkasilā để học nghề, trở thành đệ tử của một vị đạo sư nổi tiếng (disāpāmokkha). Trong số năm trăm thanh niên, y là người giúp việc cho đạo sư một cách tận tụy, làm tất cả mọi việc như xoa bóp chân.
Dandhatāya pana kiñci uggaṇhituṃ na sakko’’ti.
However, due to his dullness, he was unable to learn anything.”
Nhưng vì chậm chạp nên y không thể học được gì.
Ācariyo ‘‘ayaṃ mama bahūpakāro, sikkhāpessāmi na’’nti vāyamantopi kiñci sikkhāpetuṃ na sakkoti.
Even though the teacher thought, “This one is very helpful to me; I will teach him,” and made an effort, he could not teach him anything.
Dù vị đạo sư cố gắng dạy dỗ, nghĩ rằng: ‘Đây là người đã giúp đỡ ta rất nhiều, ta sẽ dạy y,’ nhưng cũng không thể dạy cho y được gì.
So ciraṃ vasitvā ekagāthampi uggaṇhituṃ asakkonto ukkaṇṭhitvā ‘‘gamissāmī’’ti ācariyaṃ āpucchi.
Having stayed for a long time without being able to learn even a single verse, he became disheartened and, thinking “I will leave,” he took leave of his teacher.
Sau khi ở đó một thời gian dài mà không học được dù chỉ một câu kệ, y cảm thấy chán nản và xin phép đạo sư: ‘Con xin đi về.’
Ācariyo cintesi – ‘‘ayaṃ mayhaṃ upakārako, paṇḍitabhāvamassa paccāsīsāmi, na naṃ kātuṃ sakkomi, avassaṃ mayā imassa paccupakāro kātabbo, ekamassa mantaṃ bandhitvā dassāmī’’ti so taṃ araññaṃ netvā ‘‘ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi?
The teacher thought, “This one has been helpful to me. I aspire for him to become wise, but I cannot make him so. I must certainly do him a favor in return. I will compose a mantra for him and give it.” So, he took him to the forest and, teaching him the mantra “Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi? Ahampi taṃ jānāmi jānāmī”ti (You stir, you stir, why do you stir? I too know you, I know you), he made him recite it several hundred times.
Vị đạo sư suy nghĩ: ‘Người này đã giúp đỡ ta, ta mong y trở thành người trí tuệ nhưng không thể làm được điều đó. Ta nhất định phải đền đáp ơn nghĩa cho y, ta sẽ ban cho y một câu thần chú.’ Vậy là vị ấy đưa thanh niên vào rừng và dạy câu thần chú: ‘Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi? Ahampi taṃ jānāmi jānāmi.’ (Ngươi chạm vào, ngươi chạm vào, vì lý do gì mà ngươi chạm vào? Ta cũng biết ngươi, ta cũng biết ngươi).
Ahampi taṃ jānāmi jānāmī’’ti imaṃ mantaṃ bandhitvā uggaṇhāpento anekasatakkhattuṃ parivattāpetvā, ‘‘paññāyati te’’ti pucchitvā, ‘‘āma, paññāyatī’’ti vutte ‘‘dandhena nāma vāyāmaṃ katvā paguṇaṃ kataṃ sippaṃ na palāyatī’’ti cintetvā maggaparibbayaṃ datvā, ‘‘gaccha, imaṃ mantaṃ nissāya jīvissasi, apalāyanatthāya panassa niccaṃ sajjhāyaṃ kareyyāsī’’ti vatvā taṃ uyyojesi.
Then, asking him, “Do you understand it?” and receiving the reply, “Yes, I understand,” the teacher thought, “A dull person, having made effort and mastered a skill, will not lose it.” So, giving him travel expenses, he sent him off, saying, “Go, you will live by relying on this mantra. However, to prevent it from being lost, you should recite it regularly.”
Sau khi bắt y lặp đi lặp lại hàng trăm lần, vị đạo sư hỏi: ‘Con đã hiểu chưa?’ Khi y trả lời: ‘Thưa vâng, con đã hiểu,’ vị đạo sư nghĩ: ‘Một người chậm chạp mà đã cố gắng học thuộc lòng thì kỹ năng đó sẽ không mất đi.’ Rồi vị ấy cho y tiền lộ phí và nói: ‘Con hãy đi đi, con sẽ sống nhờ vào câu thần chú này. Để không quên, con phải thường xuyên tụng niệm nó.’ Nói xong, vị ấy tiễn y ra đi.
Athassa mātā bārāṇasiyaṃ sampattakāle ‘‘putto me sippaṃ sikkhitvā āgato’’ti mahāsakkārasammānaṃ akāsi.
When he arrived back in Bārāṇasī, his mother, thinking, “My son has returned after learning a skill,” accorded him great honor and respect.
Sau đó, khi thanh niên trở về Bārāṇasī, mẹ y đã tổ chức một buổi lễ đón tiếp trọng thể, nghĩ rằng: ‘Con trai ta đã học nghề xong và trở về.’
742
Tadā bārāṇasirājā ‘‘atthi nu kho me kāyakammādīsu koci doso’’ti paccavekkhanto attano aruccanakaṃ kiñci kammaṃ adisvā ‘‘attano vajjaṃ nāma attano na paññāyati, paresaṃ paññāyati, nāgarānaṃ pariggaṇhissāmī’’ti cintetvā sāyaṃ aññātakavesena nikkhamitvā, ‘‘sāyamāsaṃ bhuñjitvā nisinnamanussānaṃ kathāsallāpo nāma nānappakārako hoti, ‘sacāhaṃ adhammena rajjaṃ kāremi, pāpena adhammikena raññā daṇḍabaliādīhi hatamhā’ti vakkhanti.
At that time, the King of Bārāṇasī, reflecting, “Is there any fault in my bodily actions or other conduct?” and finding no deed displeasing to himself, thought, “One's own fault is not apparent to oneself; it is apparent to others. I will observe the citizens.” So, in the evening, he went out in disguise, thinking, “The conversations of people sitting after their evening meal are varied. They will say, ‘If I rule the kingdom unrighteously, we are oppressed by taxes and levies by a wicked, unrighteous king.’
Lúc bấy giờ, vua Bārāṇasī tự xét: “Ta có lỗi lầm nào trong các hành động của thân không?” Không thấy hành động nào của mình mà không vừa ý, vua nghĩ: “Lỗi lầm của mình thì mình không biết, người khác mới biết. Ta sẽ dò hỏi dân chúng.” Chiều tối, vua cải trang đi ra ngoài, nghĩ: “Những người ngồi sau khi ăn tối thường trò chuyện đủ thứ. Nếu ta cai trị bất công, họ sẽ nói: ‘Chúng ta bị áp bức bởi những hình phạt, thuế má của một vị vua độc ác, bất công.’
‘Sace dhammena rajjaṃ kāremi, dīghāyuko hotu no rājā’tiādīni vatvā mama guṇaṃ kathessantī’’ti tesaṃ tesaṃ gehānaṃ bhittianusāreneva vicarati.
‘If I rule righteously, may our king live long,’ and so forth, they will praise my virtues.” Thus, he walked along, following the walls of various houses.
Còn nếu ta cai trị công bằng, họ sẽ nói: ‘Mong đức vua của chúng ta sống lâu!’ và ca ngợi đức hạnh của ta.” Vậy là vua đi dọc theo các bức tường nhà của họ.
743
Tasmiṃ khaṇe umaṅgacorā dvinnaṃ gehānaṃ antare umaṅgaṃ bhindanti ekaumaṅgeneva dve gehāni pavisanatthāya.
At that moment, tunnel-burglars were digging a tunnel between two houses, to enter both houses through a single tunnel.
Đúng lúc đó, bọn trộm đào hầm đang đào một đường hầm giữa hai ngôi nhà để vào cả hai nhà chỉ bằng một đường hầm.
Rājā te disvā gehacchāyāya aṭṭhāsi.
The king saw them and stood in the shadow of a house.
Vua nhìn thấy chúng và đứng nấp trong bóng tối của ngôi nhà.
Tesaṃ umaṅgaṃ bhinditvā gehaṃ pavisitvā bhaṇḍakaṃ olokitakāle māṇavo pabujjhitvā taṃ mantaṃ sajjhāyanto ‘‘ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi?
When they had dug the tunnel, entered the house, and were looking for valuables, the young man awoke and, reciting his mantra, said, “Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi?
Khi bọn trộm đào hầm xong, vào nhà và đang xem xét tài sản, người thanh niên thức dậy và tụng niệm câu thần chú:
Ahampi taṃ jānāmi jānāmī’’ti āha.
Ahampi taṃ jānāmi jānāmī”ti.
“Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi? Ahampi taṃ jānāmi jānāmi.”
Te taṃ sutvā, ‘‘iminā kiramhā ñātā, idāni no nāsessatī’’ti nivatthavatthānipi chaḍḍetvā bhītā sammukhasammukhaṭṭhāneneva palāyiṃsu.
Hearing that, they thought, “He knows us! Now he will destroy us!” and, terrified, they threw off their clothes and fled straight ahead.
Nghe vậy, bọn trộm nghĩ: “Chúng ta đã bị người này phát hiện rồi, bây giờ y sẽ tiêu diệt chúng ta,” liền hoảng sợ vứt bỏ cả quần áo đang mặc và chạy trốn theo hướng đối diện.
Rājā te palāyante disvā itarassa ca mantasajjhāyanasaddaṃ sutvā gehaññeva vavatthapetvā nāgarānaṃ pariggaṇhitvā nivesanaṃ pāvisi.
The king, seeing them flee and hearing the other's mantra recitation, identified the house, observed the citizens, and returned to his palace.
Vua thấy bọn chúng bỏ chạy, lại nghe tiếng người kia tụng niệm thần chú, liền xác định ngôi nhà và dò hỏi dân chúng rồi trở về cung điện.
So vibhātāya pana rattiyā pātovekaṃ purisaṃ pakkositvā āha – ‘‘gaccha bhaṇe, asukavīthiyaṃ nāma yasmiṃ gehe umaṅgo bhinno, tattha takkasilato sippaṃ uggaṇhitvā āgatamāṇavo atthi, taṃ ānehī’’ti.
When the night broke, early in the morning, he summoned a man and said, “Go, friend, to that street, to the house where the tunnel was dug. There is a young man who has returned from Takkasilā after learning a skill. Bring him to me.”
Sáng hôm sau, vua gọi một người đàn ông đến và nói: “Này anh, hãy đi đến con đường kia, trong ngôi nhà bị đào hầm, có một thanh niên đã học nghề từ Takkasilā trở về, hãy dẫn y đến đây.”
So gantvā ‘‘rājā taṃ pakkosatī’’ti vatvā māṇavaṃ ānesi.
He went and, saying, “The king summons you,” brought the young man.
Người ấy đi đến, nói: “Đức vua gọi ngươi,” rồi dẫn thanh niên đến.
Atha naṃ rājā āha – ‘‘tvaṃ, tāta, takkasilato sippaṃ uggaṇhitvā āgatamāṇavo’’ti?
Then the king asked him, “Young man, are you the one who returned from Takkasilā after learning a skill?”
Rồi vua hỏi y: “Này con, ngươi là thanh niên đã học nghề từ Takkasilā trở về phải không?”
‘‘Āma, devā’’ti.
“Yes, Your Majesty,” he replied.
“Thưa bệ hạ, phải ạ.”
‘‘Amhākampi taṃ sippaṃ dehī’’ti.
“Please teach us that skill too.”
“Hãy dạy nghề ấy cho chúng ta nữa.”
‘‘Sādhu, deva, samānāsane nisīditvā gaṇhāhī’’ti.
“Very well, Your Majesty, please sit on a seat equal to mine and learn it.”
“Thưa bệ hạ, được thôi, xin bệ hạ ngồi cùng ghế mà học.”
Rājāpi tathā katvā mantaṃ gahetvā ‘‘ayaṃ te ācariyabhāgo’’ti sahassaṃ adāsi.
The king also did so, learned the mantra, and, saying, “This is your teacher's share,” gave him a thousand coins.
Vua cũng làm như vậy, học xong thần chú, rồi nói: “Đây là phần của thầy,” và ban cho y một ngàn đồng.
744
Tadā senāpati rañño kappakaṃ āha – ‘‘kadā rañño massuṃ karissasī’’ti?
Then the general asked the king's barber, “When will you trim the king's beard?”
Lúc đó, vị tướng quân hỏi người thợ cạo của nhà vua: “Khi nào ngươi sẽ cạo râu cho nhà vua?”
‘‘Sve vā parasuve vā’’ti.
“Tomorrow or the day after tomorrow.”
“Ngày mai hoặc ngày mốt.”
So tassa sahassaṃ datvā ‘‘kiccaṃ me atthī’’ti vatvā, ‘‘kiṃ, sāmī’’ti vutte ‘‘rañño massukammaṃ karonto viya hutvā khuraṃ ativiya pahaṃsitvā galanāḷiṃ chinda, tvaṃ senāpati bhavissasi, ahaṃ rājā’’ti.
The general gave him a thousand coins and, saying, “I have something important to tell you,” and when asked, “What is it, master?” he said, “While trimming the king's beard, sharpen the razor exceedingly well and cut his throat. You will become the general, and I will become king.”
Vị tướng quân đưa cho người thợ cạo một ngàn đồng và nói: “Ta có việc cần.” Khi người thợ cạo hỏi: “Thưa chủ nhân, việc gì ạ?” Vị tướng quân nói: “Ngươi hãy giả vờ cạo râu cho nhà vua, mài dao thật bén rồi cắt cổ họng Ngài. Ngươi sẽ trở thành tướng quân, còn ta sẽ làm vua.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā rañño massukammakaraṇadivase gandhodakena massuṃ temetvā khuraṃ pahaṃsitvā nalāṭante gahetvā, ‘‘khuro thokaṃ kuṇṭhadhāro, ekappahāreneva galanāḷiṃ chindituṃ vaṭṭatī’’ti puna ekamantaṃ ṭhatvā khuraṃ pahaṃsi.
He assented, saying, “Very well.” On the day of the king's beard-trimming, he moistened the beard with perfumed water, sharpened the razor, held it near the forehead, and thought, “The razor's edge is slightly dull; it is necessary to cut the throat with a single stroke.” Then, standing aside, he sharpened the razor again.
Người thợ cạo đồng ý: “Vâng ạ.” Đến ngày cạo râu cho nhà vua, y làm ướt râu bằng nước thơm, mài dao thật bén, rồi cầm dao đặt lên trán vua và nói: “Lưỡi dao hơi cùn, cần phải cắt một nhát dứt khoát vào cổ họng.” Rồi y đứng sang một bên và mài dao lần nữa.
Tasmiṃ khaṇe rājā attano mantaṃ saritvā sajjhāyaṃ karonto ‘‘ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi?
At that moment, the king remembered his mantra and, reciting it, said, “Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi?
Đúng lúc đó, nhà vua nhớ lại câu thần chú của mình, liền tụng niệm:
Ahampi taṃ jānāmi jānāmī’’ti āha.
Ahampi taṃ jānāmi jānāmī”ti.
“Ghaṭṭesi ghaṭṭesi, kiṃ kāraṇā ghaṭṭesi? Ahampi taṃ jānāmi jānāmi.”
Nhāpitassa nalāṭato sedā mucciṃsu.
Sweat broke out on the barber's forehead.
Mồ hôi chảy ra từ trán người thợ cạo.
So ‘‘jānāti mama kāraṇaṃ rājā’’ti bhīto khuraṃ bhūmiyaṃ khipitvā pādamūle urena nipajji.
So, thinking, ‘‘The king knows my secret,’’ he became frightened, threw the razor to the ground, and prostrated himself at his feet with his chest.
Y nghĩ: “Đức vua biết ý đồ của ta,” liền hoảng sợ vứt dao xuống đất và nằm sấp dưới chân vua.
Rājāno nāma chekā honti, tena taṃ evamāha – ‘‘are, duṭṭha, nhāpita, ‘na maṃ rājā jānātī’ti saññaṃ karosī’’ti.
Kings are indeed clever; therefore, he said to him, ‘‘Oh, wicked barber! Do you think, ‘The king does not know me’?"
Các vị vua vốn là những người khôn ngoan, nên Ngài nói với y: “Này, tên thợ cạo độc ác, ngươi nghĩ rằng ‘Đức vua không biết ta’ sao?”
‘‘Abhayaṃ me dehi, devā’’ti.
‘‘Grant me safety, O Lord!’’ he pleaded.
“Thưa bệ hạ, xin ban cho con sự an toàn.”
‘‘Hotu, mā bhāyi, kathehī’’ti.
‘‘Let it be. Do not fear, speak!’’ he said.
“Được rồi, đừng sợ, hãy nói đi.”
Senāpati me, deva, sahassaṃ datvā, ‘‘rañño massuṃ karonto viya galanāḷiṃ chinda, ahaṃ rājā hutvā taṃ senāpatiṃ karissāmī’’ti āhāti.
He replied, ‘‘O Lord, the commander gave me a thousand and said, ‘While attending to the king’s beard, cut his throat. I will become king and make you commander’.’’
Y thưa: “Thưa bệ hạ, tướng quân đã đưa cho con một ngàn đồng và nói: ‘Ngươi hãy giả vờ cạo râu cho nhà vua rồi cắt cổ họng Ngài. Ta sẽ làm vua và phong ngươi làm tướng quân.’”
Rājā taṃ sutvā ‘‘ācariyaṃ me nissāya jīvitaṃ laddha’’nti cintetvā senāpatiṃ pakkosāpetvā, ‘‘ambho, senāpati, kiṃ nāma tayā mama santikā na laddhaṃ, idāni taṃ daṭṭhuṃ na sakkomi, mama raṭṭhā nikkhamāhī’’ti taṃ raṭṭhā pabbājetvā ācariyaṃ pakkosāpetvā, ‘‘ācariya, taṃ nissāya mayā jīvitaṃ laddha’’nti vatvā mahantaṃ sakkāraṃ karitvā tassa senāpatiṭṭhānaṃ adāsi.
Hearing this, the king thought, ‘‘I have received my life through my teacher,’’ and having summoned the commander, he said, ‘‘Oh, commander, what have you not received from me? Now I cannot bear to see you. Depart from my kingdom!’’ Having expelled him from the kingdom, he summoned the teacher and, saying, ‘‘Teacher, I have received my life through you,’’ he performed a great honoring and gave him the position of commander.
Vua nghe vậy, nghĩ: “Ta đã được cứu mạng nhờ vào vị đạo sư của ta,” liền cho gọi tướng quân đến và nói: “Này tướng quân, ngươi còn thiếu gì mà chưa nhận được từ ta? Bây giờ ta không thể nhìn mặt ngươi nữa, hãy rời khỏi đất nước của ta.” Nói xong, Ngài trục xuất tướng quân khỏi đất nước, rồi cho gọi vị đạo sư đến và nói: “Thưa đạo sư, nhờ có Ngài mà con đã được cứu mạng.” Nói xong, Ngài đã ban tặng sự tôn kính lớn lao và phong cho vị thanh niên chức tướng quân.
‘‘So tadā cūḷapanthako ahosi, satthā disāpāmokkho ācariyo’’ti.
‘‘That person was Cūḷapanthaka then, and the Teacher was the world-renowned master.’’
Vị thanh niên ấy chính là Cūḷapanthaka thuở đó, và vị đạo sư nổi tiếng chính là Đạo Sư (Đức Phật) này.”
745
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā, ‘‘evaṃ, bhikkhave, pubbepi cūḷapanthako dandhoyeva ahosi, tadāpissāhaṃ avassayo hutvā taṃ lokiyakuṭumbe patiṭṭhāpesi’’nti vatvā puna ekadivasaṃ ‘‘aho satthā cūḷapanthakassa avassayo jāto’’ti kathāya samuṭṭhitāya cūḷaseṭṭhijātake atītavatthuṃ kathetvā –
Having recounted this past story, the Teacher said, ‘‘Thus, bhikkhus, even in the past, Cūḷapanthaka was indeed slow-witted; even then, I became his refuge and established him in worldly prosperity.’’ Then, one day, when the discussion arose, ‘‘Oh, the Teacher became Cūḷapanthaka’s refuge!’’ the Teacher related the past story from the Cūḷaseṭṭhi Jātaka and then said the stanza:
Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện quá khứ này, rằng: "Này các Tỳ-kheo, trong quá khứ Cūḷapanthaka cũng là người chậm chạp. Khi đó, Ta cũng là chỗ nương tựa của Cūḷapanthaka đó, đã thiết lập cho Cūḷapanthaka đó trong gia đình thế tục." Nói xong như vậy, lại một ngày nọ, khi câu chuyện "Ồ, Đức Bổn Sư đã trở thành chỗ nương tựa của Cūḷapanthaka" khởi lên, Ngài đã kể câu chuyện quá khứ trong Chuyện Tiền Thân Cūḷaseṭṭhi và rồi –
746
‘‘Appakenāpi medhāvī, pābhatena vicakkhaṇo;
‘‘Though with little, a discerning, wise person
"Người trí tuệ, khéo léo,
747
Samuṭṭhāpeti attānaṃ, aṇuṃ aggiṃva sandhama’’nti.(jā. 1.1.4) –
Can raise himself up, as one fans a tiny fire.’’
Dù với chút vốn liếng, vẫn có thể tự mình gây dựng sự nghiệp, như người khéo thổi bùng ngọn lửa nhỏ."
748
Gāthaṃ vatvā, ‘‘na, bhikkhave, idānevāhaṃ imassa avassayo jāto, pubbepi avassayo ahosimeva.
Having recited the stanza, he said, ‘‘Bhikkhus, it is not only now that I have become his refuge; I was his refuge even in the past.
Nói xong bài kệ, Ngài dạy: "Này các Tỳ-kheo, không phải chỉ bây giờ Ta mới là chỗ nương tựa của vị này, mà trong quá khứ Ta cũng đã là chỗ nương tựa.
Pubbe panāhaṃ imaṃ lokiyakuṭumbassa sāmikaṃ akāsiṃ, idāni lokuttarakuṭumbassa.
But in the past, I made him the owner of worldly prosperity; now, of transcendental prosperity.
Trong quá khứ, Ta đã khiến vị này trở thành chủ nhân của gia sản thế tục, còn bây giờ là của gia sản siêu thế.
Tadā hi cūḷantevāsiko cūḷapanthako ahosi, cūḷaseṭṭhi pana paṇḍito byatto nakkhattakovido ahamevā’’ti jātakaṃ samodhānesi.
For at that time, Cūḷantevāsika was Cūḷapanthaka, but I myself was the wise, accomplished, and astrologically skilled Cūḷaseṭṭhi,’’ thus concluding the Jātaka story.
Khi ấy, Cūḷantevāsika là Cūḷapanthaka, còn Cūḷaseṭṭhi, người có trí tuệ, thông minh, tinh thông thiên văn, chính là Ta." Như vậy, Ngài đã kết nối câu chuyện tiền thân.
749
Punekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ, ‘‘āvuso, cūḷapanthako catūhi māsehi catuppadaṃ gāthaṃ gahetuṃ asakkontopi vīriyaṃ anossajjitvāva arahatte patiṭṭhito, idāni lokuttaradhammakuṭumbassa sāmiko jāto’’ti.
Another day, a discussion arose in the Dhamma hall, ‘‘Friends, Cūḷapanthaka, even though he could not grasp a four-lined stanza in four months, established himself in arahantship by not abandoning effort, and now he has become the master of the prosperity of transcendental Dhamma.’’
Lại một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-kheo đã khởi lên câu chuyện: "Thưa các đạo hữu, Cūḷapanthaka dù không thể học thuộc một bài kệ bốn câu trong bốn tháng, nhưng không từ bỏ tinh tấn, đã chứng đắc A-la-hán, nay đã trở thành chủ nhân của gia sản Pháp siêu thế."
Satthā āgantvā, ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā, ‘‘imāya nāmā’’ti vutte, ‘‘bhikkhave, mama sāsane āraddhavīriyo bhikkhu lokuttaradhammassa sāmiko hotiyevā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher came and asked, ‘‘Bhikkhus, what kind of discussion are you engaged in now?’’ When told, ‘‘It is this kind of discussion, venerable sir,’’ he said, ‘‘Bhikkhus, a bhikkhu in my Dispensation who puts forth effort indeed becomes the master of transcendental Dhamma,’’ and then spoke this stanza:
Đức Bổn Sư đến, hỏi: "Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận về câu chuyện gì vậy?" Khi được trả lời: "Về câu chuyện này, thưa Ngài," Ngài dạy: "Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tinh tấn trong giáo pháp của Ta chắc chắn sẽ trở thành chủ nhân của Pháp siêu thế," rồi Ngài nói bài kệ này –
750
25.
25.
25.
751
‘‘Uṭṭhānenappamādena, saṃyamena damena ca;
‘‘By endeavor, by diligence, by restraint, and by taming,
"Bằng sự tinh tấn, không phóng dật,
752
Dīpaṃ kayirātha medhāvī, yaṃ ogho nābhikīratī’’ti.
Let the wise one make an island which the flood cannot overwhelm.’’
Bằng sự tự chế, sự điều phục, người trí tuệ hãy tạo lập một hòn đảo mà dòng lũ không thể cuốn trôi."
753
Tattha dīpaṃ kayirāthāti vīriyasaṅkhātena uṭṭhānena, satiyā avippavāsākārasaṅkhātena appamādena, catupārisuddhisīlasaṅkhātena saṃyamena, indriyadamena cāti imehi kāraṇabhūtehi catūhi dhammehi dhammojapaññāya samannāgato medhāvī imasmiṃ ativiya dullabhapatiṭṭhatāya atigambhīre saṃsārasāgare attano patiṭṭhānabhūtaṃ arahattaphalaṃ dīpaṃ kayirātha kareyya, kātuṃ sakkuṇeyyāti attho.
Here, dīpaṃ kayirātha means that the wise person, endowed with the essence of Dhamma-wisdom, by these four causal qualities—endeavor (which is effort), diligence (which is the non-absence of mindfulness), restraint (which is the fourfold purity of morality), and taming of the faculties—should make the fruit of arahantship as an island, his refuge in this extremely deep ocean of saṃsāra, which is very difficult to establish oneself in. This is the meaning, that he is able to make it.
Ở đây, dīpaṃ kayirāthā có nghĩa là: Bằng bốn pháp là nguyên nhân này—sự tinh tấn gọi là nỗ lực, sự không phóng dật gọi là không rời bỏ chánh niệm, sự tự chế gọi là giới thanh tịnh bốn phần, và sự điều phục các căn—người trí tuệ, đầy đủ trí tuệ Pháp lực, hãy tạo lập (kayirātha kareyya) quả vị A-la-hán, tức là hòn đảo nương tựa cho chính mình trong biển luân hồi vô cùng sâu thẳm này, nơi mà sự nương tựa vô cùng khó đạt được. Có nghĩa là có thể làm được.
Kīdisaṃ?
What kind of island?
Hòn đảo như thế nào?
Yaṃ ogho nābhikīratīti yaṃ catubbidhopi kilesogho abhikirituṃ viddhaṃsetuṃ na sakkoti.
Yaṃ ogho nābhikīratī means that which the fourfold flood of defilements cannot overwhelm or destroy.
Yaṃ ogho nābhikīratī có nghĩa là, hòn đảo mà bốn loại dòng lũ phiền não không thể tràn ngập hay phá hoại.
Na hi sakkā arahattaṃ oghena abhikiritunti.
Indeed, arahantship cannot be overwhelmed by a flood.
Thật vậy, quả vị A-la-hán không thể bị dòng lũ tràn ngập.
754
Gāthāpariyosāne bahū sotāpannādayo ahesuṃ.
At the end of the stanza, many attained stream-entry and other stages.
Khi bài kệ kết thúc, nhiều người đã chứng đắc quả Dự lưu và các quả vị khác.
Evaṃ desanā sampattaparisāya sātthikā jātāti.
Thus, the discourse was fruitful for the assembled audience.
Như vậy, bài pháp đã mang lại lợi ích cho hội chúng.
755
Cūḷapanthakattheravatthu tatiyaṃ.
The Story of Venerable Cūḷapanthaka, the Third.
Chuyện trưởng lão Cūḷapanthaka là thứ ba.
756
4. Bālanakkhattasaṅghuṭṭhavatthu
4. The Story of the Festival of Fools
4. Chuyện về Lễ Hội Ngu Si (Bālanakkhatta)
757
Pamādamanuyuñjantīti imaṃ dhammadesanaṃ satthā jetavane viharanto bālanakkhattaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher delivered this Dhamma discourse, beginning with Pamādamanuyuñjanti (The foolish, dull-witted pursue heedlessness), while residing at Jetavana, concerning the Festival of Fools.
Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp Pamādamanuyuñjantī này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến lễ hội ngu si.
758
Ekasmiñhi samaye sāvatthiyaṃ bālanakkhattaṃ nāma saṅghuṭṭhaṃ.
Indeed, at one time in Sāvatthī, a festival called the Festival of Fools was proclaimed.
Một thời, tại Sāvatthī, một lễ hội tên là Bālanakkhatta được công bố.
Tasmiṃ nakkhatte bālā dummedhino janā chārikāya ceva gomayena ca sarīraṃ makkhetvā sattāhaṃ asabbhaṃ bhaṇantā vicaranti.
During this festival, foolish, dull-witted people smeared their bodies with ash and cow dung and wandered about for seven days speaking vulgarities.
Trong lễ hội đó, những người ngu si, kém trí tuệ, bôi tro và phân bò lên người, nói những lời thô tục trong bảy ngày.
Kiñci ñāti suhajjaṃ vā pabbajitaṃ vā disvā lajjantā nāma natthi.
They felt no shame upon seeing any relative, friend, or renunciant.
Họ không hề biết xấu hổ khi thấy người thân, bạn bè hay người xuất gia.
Dvāre dvāre ṭhatvā asabbhaṃ bhaṇanti.
They stood at every door and spoke vulgarities.
Họ đứng trước từng cánh cửa mà nói những lời thô tục.
Manussā tesaṃ asabbhaṃ sotuṃ asakkontā yathābalaṃ aḍḍhaṃ vā pādaṃ vā kahāpaṇaṃ vā pesenti.
People, unable to endure their vulgarities, would send them a half-kāhāpaṇa, a quarter-kāhāpaṇa, or a full kāhāpaṇa, according to their means.
Con người, không thể chịu đựng được những lời thô tục của họ, đã tùy theo khả năng mà gửi cho họ nửa đồng, một phần tư đồng, hay một đồng kahāpaṇa.
Te tesaṃ dvāre laddhaṃ laddhaṃ gahetvā pakkamanti.
They would take whatever they received at the doors and depart.
Họ nhận những gì được cho ở mỗi cánh cửa rồi bỏ đi.
Tadā pana sāvatthiyaṃ pañca koṭimattā ariyasāvakā vasanti, te satthu santikaṃ sāsanaṃ pesayiṃsu – ‘‘bhagavā, bhante, sattāhaṃ bhikkhusaṅghena saddhiṃ nagaraṃ appavisitvā vihāreyeva hotū’’ti.
At that time, about five crore noble disciples resided in Sāvatthī, and they sent a message to the Teacher: ‘‘Venerable sir, may the Blessed One, together with the Saṅgha of bhikkhus, remain in the monastery for seven days without entering the city.’’
Khi đó, có khoảng năm mươi triệu Thánh đệ tử cư trú tại Sāvatthī, họ đã gửi thông điệp đến Đức Bổn Sư: "Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài cùng Tăng đoàn Tỳ-kheo ở lại trong tịnh xá suốt bảy ngày, đừng vào thành."
Tañca pana sattāhaṃ bhikkhusaṅghassa vihāreyeva yāgubhattādīni sampādetvā pahiṇiṃsu, sayampi gehā na nikkhamiṃsu.
And for those seven days, they prepared and sent gruel, alms, and other provisions to the Saṅgha in the monastery itself, and they themselves did not leave their homes.
Trong bảy ngày đó, họ đã chuẩn bị cháo, cơm và các món ăn khác cho Tăng đoàn Tỳ-kheo ngay tại tịnh xá, và chính họ cũng không ra khỏi nhà.
Te nakkhatte pana pariyosite aṭṭhame divase buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā nagaraṃ pavesetvā mahādānaṃ datvā ekamantaṃ nisinnā, ‘‘bhante, atidukkhena no satta divasāni atikkantāni, bālānaṃ asabbhāni suṇantānaṃ kaṇṇā bhijjanākārappattā honti, koci kassaci na lajjati, tena mayaṃ tumhākaṃ antonagaraṃ pavisituṃ nādamha, mayampi gehato na nikkhamimhā’’ti āhaṃsu.
When the festival ended, on the eighth day, they invited the Saṅgha led by the Buddha, brought them into the city, offered a great alms-giving, and sitting to one side, said, ‘‘Venerable sir, seven days passed with extreme suffering for us. Our ears felt as if they would burst from listening to the vulgarities of fools. No one felt shame towards anyone. Therefore, we did not allow you to enter the city, and we ourselves did not leave our homes.’’
Khi lễ hội kết thúc, vào ngày thứ tám, họ đã thỉnh Đức Phật và Tăng đoàn Tỳ-kheo vào thành, cúng dường đại thí rồi ngồi sang một bên và thưa: "Bạch Đức Thế Tôn, bảy ngày qua chúng con đã trải qua vô cùng khổ sở, tai chúng con gần như muốn vỡ ra khi nghe những lời thô tục của những người ngu si, không ai biết xấu hổ với ai cả, vì vậy chúng con đã không cho phép Ngài và Tăng đoàn vào nội thành, và chính chúng con cũng không ra khỏi nhà."
Satthā tesaṃ kathaṃ sutvā, ‘‘bālānaṃ dummedhānaṃ kiriyā nāma evarūpā hoti, medhāvino pana dhanasāraṃ viya appamādaṃ rakkhitvā amatamahānibbānasampattiṃ pāpuṇantī’’ti vatvā imā gāthā abhāsi –
Hearing their words, the Teacher said, ‘‘Such indeed is the conduct of fools and dull-witted individuals, but the wise, protecting diligence as their most excellent treasure, attain the supreme bliss of deathless Nibbāna,’’ and he spoke these stanzas:
Đức Bổn Sư nghe câu chuyện của họ, dạy: "Hành vi của những người ngu si, kém trí tuệ là như vậy. Còn những người trí tuệ, họ bảo vệ sự không phóng dật như bảo vệ tài sản quý giá nhất, và đạt được hạnh phúc Niết Bàn vĩ đại, bất tử," rồi Ngài nói những bài kệ này –
759
26.
26.
26.
760
‘‘Pamādamanuyuñjanti, bālā dummedhino janā;
‘‘Fools, dull-witted people, pursue heedlessness;
"Những người ngu si, kém trí tuệ, thường theo đuổi sự phóng dật;
761
Appamādañca medhāvī, dhanaṃ seṭṭhaṃva rakkhati.
But the wise one guards diligence as a supreme treasure.
Còn người trí tuệ, bảo vệ sự không phóng dật như bảo vệ tài sản quý giá nhất.
762
27.
27.
27.
763
‘‘Mā pamādamanuyuñjetha, mā kāmaratisanthavaṃ;
‘‘Do not pursue heedlessness, nor intimacy with sensual delight;
"Chớ theo đuổi sự phóng dật, chớ kết giao với sự say đắm dục lạc;
764
Appamatto hi jhāyanto, pappoti vipulaṃ sukha’’nti.
For a diligent one, meditating, attains abundant bliss.’’
Vì người không phóng dật, khi thiền định, sẽ đạt được hạnh phúc rộng lớn."
765
Tattha bālāti bālyena samannāgatā idhalokaparalokatthaṃ ajānantā.
Here, bālā refers to those endowed with foolishness, not knowing what is beneficial for this world or the next.
Ở đây, bālā có nghĩa là những người bị chi phối bởi sự ngu si, không biết lợi ích của đời này và đời sau.
Dummedhinoti nippaññā.
Dummedhino means devoid of wisdom.
Dummedhino có nghĩa là những người không có trí tuệ.
Te pamāde ādīnavaṃ apassantā pamādaṃ anuyuñjanti pavattenti, pamādena kālaṃ vītināmenti.
Not seeing the danger in heedlessness, they pursue heedlessness, they engage in heedlessness, they pass their time in heedlessness.
Họ không thấy sự nguy hiểm trong sự phóng dật, nên họ theo đuổi và duy trì sự phóng dật, họ trải qua thời gian trong sự phóng dật.
Medhāvīti dhammojapaññāya samannāgato pana paṇḍito kulavaṃsāgataṃ seṭṭhaṃ uttamaṃ sattaratanadhanaṃ viya appamādaṃ rakkhati.
Medhāvī refers to the wise person endowed with Dhamma-essence wisdom, who protects diligence as if it were the most excellent treasure, an heirloom of his family, consisting of seven jewels.
Medhāvī có nghĩa là người trí tuệ, tức là người có trí tuệ Pháp lực, bảo vệ sự không phóng dật như bảo vệ tài sản quý giá nhất, tức là bảy loại ngọc quý được truyền thừa trong dòng họ.
Yathā hi uttamaṃ dhanaṃ nissāya ‘‘kāmaguṇasampattiṃ pāpuṇissāma, puttadāraṃ posessāma, paralokagamanamaggaṃ sodhessāmā’’ti dhane ānisaṃsaṃ passantā taṃ rakkhanti, evaṃ paṇḍitopi appamatto ‘‘paṭhamajjhānādīni paṭilabhissāmi, maggaphalādīni pāpuṇissāmi, tisso vijjā, cha abhiññā sampādessāmī’’ti appamāde ānisaṃsaṃ passanto dhanaṃ seṭṭhaṃva appamādaṃ rakkhatīti attho.
Just as people, seeing the benefit in wealth, protect it, thinking, ‘‘By means of this supreme wealth, we will attain the fulfillment of sensual pleasures, we will support our children and wife, we will clear the path to the next world,’’ so too the wise person, being diligent, seeing the benefit in diligence, thinking, ‘‘I will attain the first jhāna and so forth, I will achieve the paths and fruits and so forth, I will accomplish the three knowledges and the six supernormal powers,’’ protects diligence as if it were supreme wealth. This is the meaning.
Thật vậy, như người ta nương tựa vào tài sản quý giá để nghĩ rằng: "Chúng ta sẽ đạt được sự đầy đủ các dục lạc, sẽ nuôi dưỡng con cái và vợ, sẽ thanh lọc con đường đi đến thế giới sau," và nhìn thấy lợi ích trong tài sản mà bảo vệ nó; cũng vậy, người trí tuệ, không phóng dật, nhìn thấy lợi ích trong sự không phóng dật mà bảo vệ sự không phóng dật như bảo vệ tài sản quý giá nhất, nghĩ rằng: "Ta sẽ đạt được các tầng thiền thứ nhất và các tầng thiền khác, sẽ đạt được các đạo quả, sẽ hoàn thành ba minh và sáu thắng trí." Đó là ý nghĩa.
Mā pamādanti tasmā tumhe mā pamādamanuyuñjetha mā pamādena kālaṃ vītināmayittha.
"Do not be heedless" means, therefore, you should not pursue heedlessness; you should not spend your time in heedlessness.
Mā pamāda có nghĩa là: Do đó, các ông chớ theo đuổi sự phóng dật, chớ để thời gian trôi qua trong sự phóng dật.
Mā kāmaratisanthavanti vatthukāmakilesakāmesu ratisaṅkhātaṃ taṇhāsanthavampi mā anuyuñjetha mā cintayittha mā paṭilabhittha.
And do not indulge in the association of delight in sensual pleasures (kāmaratisanthava), which is the association of craving, in sense-objects and defilements; do not contemplate it, do not attain it.
Mā kāmaratisanthava có nghĩa là: Các ông cũng chớ theo đuổi hay suy nghĩ, hay đạt được sự kết giao với ái dục, tức là sự say đắm trong các dục lạc vật chất và dục lạc phiền não.
Appamatto hīti upaṭṭhitassatitāya hi appamatto jhāyanto puggalo vipulaṃ uḷāraṃ nibbānasukhaṃ pāpuṇātīti.
Indeed, the heedful one (appamatto hi), being mindful, a person who meditates, attains the vast and excellent happiness of Nibbāna.
Appamatto hī có nghĩa là: Thật vậy, người không phóng dật, nhờ có chánh niệm hiện tiền, khi thiền định sẽ đạt được hạnh phúc Niết Bàn rộng lớn, cao thượng.
766
Gāthāpariyosāne bahū sotāpannādayo ahesuṃ.
At the conclusion of the verse, many attained stream-entry and other fruits.
Khi bài kệ kết thúc, nhiều người đã chứng đắc quả Dự lưu và các quả vị khác.
Mahājanassa sātthikā dhammadesanā jātāti.
The Dhamma discourse was beneficial to the great multitude.
Bài pháp đã mang lại lợi ích cho đại chúng.
767
Bālanakkhattasaṅghuṭṭhavatthu catutthaṃ.
The Story of the Festival of Fools is the Fourth.
Chuyện về Lễ Hội Ngu Si là thứ tư.
768
5. Mahākassapattheravatthu
5. The Story of the Elder Mahākassapa
5. Chuyện trưởng lão Mahākassapa
769
Pamādaṃ appamādenāti imaṃ dhammadesanaṃ satthā jetavane viharanto mahākassapattheraṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while residing at Jetavana, delivered this Dhamma discourse, beginning with "Heedlessness by heedfulness" (Pamādaṃ appamādenā), concerning the Elder Mahākassapa.
Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp Pamādaṃ appamādenā này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến trưởng lão Mahākassapa.
770
Ekasmiñhi divase thero pipphaliguhāyaṃ viharanto rājagahe piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto ālokaṃ vaḍḍhetvā pamatte ca appamatte ca udakapathavīpabbatādīsu cavanake upapajjanake ca satte dibbena cakkhunā olokento nisīdi.
One day, the Elder, while dwelling in Pipphalī Cave, went for alms in Rājagaha. After his meal, having returned from his alms-round, he increased the light and sat observing with his divine eye beings who were heedless and heedful, and those who were passing away and reappearing in water, on land, on mountains, and so forth.
Một ngày nọ, trưởng lão trú tại hang Pipphali, sau khi đi khất thực ở Rājagaha và trở về từ buổi khất thực, Ngài đã tăng cường ánh sáng (thiền định) và ngồi quán sát bằng thiên nhãn các chúng sinh đang sinh và diệt trong nước, đất, núi, v.v., những người phóng dật và không phóng dật.
Satthā jetavane nisinnakova ‘‘kena nu kho vihārena ajja mama putto kassapo viharatī’’ti dibbena cakkhunā upadhārento ‘‘sattānaṃ cutūpapātaṃ olokento viharatī’’ti ñatvā ‘‘sattānaṃ cutūpapāto nāma buddhañāṇenapi aparicchinno, mātukucchiyaṃ paṭisandhiṃ gahetvā mātāpitaro ajānāpetvā cavanasattānaṃ paricchedo kātuṃ na sakkā, te jānituṃ tava avisayo, kassapa, appamattako tava visayo, sabbaso pana cavante ca upapajjante ca jānituṃ passituṃ buddhānameva visayo’’ti vatvā obhāsaṃ pharitvā sammukhe nisinno viya hutvā imaṃ gāthamāha –
The Teacher, sitting in Jetavana, observed with his divine eye, "By what mode of dwelling is my son Kassapa abiding today?" Knowing that "he is observing the passing away and reappearance of beings," he said, "The passing away and reappearance of beings is immeasurable even by the Buddha's knowledge. It is not possible to determine the passing away of beings who have taken conception in a mother's womb without their parents knowing. To know them is beyond your scope, Kassapa. Your scope is limited. But to know and see all beings passing away and reappearing is solely the scope of the Buddhas." Having said this, he radiated light, and appearing as if seated before him, he uttered this verse:
Đức Thế Tôn, trong khi đang ngự tại Jetavana, với thiên nhãn, Ngài suy xét: “Hôm nay, con trai của ta, Kassapa, đang an trú bằng cách nào?” và biết được rằng: “Vị ấy đang an trú bằng cách quan sát sự sinh diệt của các chúng sanh.” Ngài liền nói: “Sự sinh diệt của chúng sanh là điều không thể phân định được ngay cả với Phật nhãn. Không thể nào phân định được các chúng sanh đã chết mà không cho cha mẹ biết sau khi đã thọ sanh trong lòng mẹ. Việc biết được những điều ấy không phải là phạm vi của con, này Kassapa, phạm vi của con chỉ là sự không dể duôi. Còn việc biết và thấy tất cả các chúng sanh đang chết và đang sanh ra, đó hoàn toàn là phạm vi của chư Phật.” Rồi Ngài phóng quang minh, như thể đang ngồi đối diện, và nói lên bài kệ này:
771
28.
28.
28.
772
‘‘Pamādaṃ appamādena, yadā nudati paṇḍito;
“When the wise one drives away heedlessness with heedfulness,
“Khi bậc trí xua tan dể duôi, bằng không dể duôi;
773
Paññāpāsādamāruyha, asoko sokiniṃ pajaṃ;
Having ascended the palace of wisdom, sorrowless, he surveys the sorrowing multitude;
Lên lầu cao trí tuệ, không sầu, nhìn chúng sanh sầu muộn;
774
Pabbataṭṭhova bhūmaṭṭhe, dhīro bāle avekkhatī’’ti.
Like one standing on a mountain surveys those on the ground, so the wise one surveys the fools.”
Bậc hiền trí nhìn kẻ ngu, như người trên núi nhìn kẻ dưới đất.”
775
Tattha nudatīti yathā nāma pokkharaṇiṃ pavisantaṃ navodakaṃ purāṇodakaṃ khobhetvā tassokāsaṃ adatvā taṃ attano matthakamatthakena palāyantaṃ nudati nīharati, evameva paṇḍito appamādalakkhaṇaṃ brūhento pamādassokāsaṃ adatvā yadā appamādavegena taṃ nudati nīharati, atha so panunnapamādo accuggatatthena parisuddhaṃ dibbacakkhusaṅkhātaṃ paññāpāsādaṃ tassa anucchavikaṃ paṭipadaṃ pūrento tāya paṭipadāya nisseṇiyā pāsādaṃ viya āruyha pahīnasokasallatāya asoko, appahīnasokasallatāya sokiniṃ pajaṃ sattanikāyaṃ cavamānañceva upapajjamānañca dibbacakkhunā avekkhati passati.
Here, drives away (nudati) means: just as new water entering a pond stirs up the old water, and without giving it space, drives it away and expels it as it flees upwards; in the same way, when a wise person, cultivating the characteristic of heedfulness, gives no space to heedlessness and drives it away and expels it with the force of heedfulness, then that person, whose heedlessness has been driven away, having fulfilled the appropriate practice for the palace of wisdom, which is the purified divine eye, by virtue of its extreme elevation, and having ascended it as if ascending a palace by a ladder of that practice, being sorrowless (asoko) due to having abandoned the dart of sorrow, observes with the divine eye the sorrowing multitude (sokiniṃ pajaṃ) of beings, both those passing away and those reappearing, who have not abandoned the dart of sorrow.
Trong đó, xua tan có nghĩa là: ví như nước mới chảy vào hồ làm xáo động nước cũ, không cho nước cũ có chỗ đứng, và đẩy nó đi, làm nó trôi dạt lên trên bề mặt của mình, cũng vậy, bậc trí tuệ, khi phát triển đặc tính không dể duôi, không cho sự dể duôi có cơ hội, khi dùng sức mạnh của không dể duôi để đẩy lui và loại bỏ nó, bấy giờ, người ấy, với sự dể duôi đã được xua tan, hoàn thiện con đường thực hành tương xứng với lầu cao trí tuệ, được gọi là thiên nhãn thanh tịnh vì ý nghĩa vô cùng cao viễn, và bằng con đường thực hành ấy như chiếc thang, leo lên lầu cao. Do đã nhổ bỏ mũi tên sầu muộn, người ấy trở thành không sầu, và bằng thiên nhãn, nhìn thấy chúng sanh, những kẻ còn sầu muộn vì chưa nhổ bỏ mũi tên sầu muộn, đang chết đi và đang sanh ra.
Yathā kiṃ?
Like what?
Ví như điều gì?
Pabbataṭṭhova bhūmaṭṭheti pabbatamuddhani ṭhito bhūmiyaṃ ṭhite, uparipāsāde vā pana ṭhito pāsādapariveṇe ṭhite akicchena avekkhati, tathā sopi dhīro paṇḍito mahākhīṇāsavo asamucchinnavaṭṭabīje bāle cavante ca upapajjante ca akicchena avekkhatīti.
Like one standing on a mountain surveys those on the ground (Pabbataṭṭhova bhūmaṭṭhe): just as one standing on a mountain peak surveys those on the ground, or one standing on the upper floor of a palace surveys those in the palace courtyard with ease, so too that wise, discerning one, the great Arahant, effortlessly surveys the fools—those whose cycle of existence has not been cut off—both as they pass away and as they reappear.
Như người trên núi nhìn kẻ dưới đất: người đứng trên đỉnh núi có thể nhìn thấy những người đứng trên mặt đất một cách dễ dàng, hoặc người đứng trên lầu cao có thể nhìn thấy những người trong khuôn viên lầu đài một cách dễ dàng. Cũng vậy, bậc hiền trí, bậc đại lậu tận A-la-hán ấy, nhìn thấy những kẻ ngu phu, những người chưa đoạn trừ mầm mống luân hồi, đang chết đi và đang sanh ra, một cách dễ dàng.
776
Gāthāpariyosāne bahū sotāpattiphalādīni sacchikariṃsūti.
At the conclusion of the verse, many realized the fruits of stream-entry and so forth.
Khi bài kệ kết thúc, nhiều người đã chứng đắc các quả vị như Tu-đà-hoàn.
777
Mahākassapattheravatthu pañcamaṃ.
The Story of the Elder Mahākassapa is the Fifth.
Câu chuyện về Trưởng lão Mahākassapa là thứ năm.
778
6. Pamattāpamattadvesahāyakavatthu
6. The Story of the Two Friends, the Heedful and the Heedless
6. Câu chuyện về hai vị tỳ-khưu bạn, một người dể duôi và một người không dể duôi
779
Appamatto pamattesūti imaṃ dhammadesanaṃ satthā jetavane viharanto dve sahāyake bhikkhū ārabbha kathesi.
The Teacher, while residing at Jetavana, delivered this Dhamma discourse, beginning with "Heedful among the heedless" (Appamatto pamattesū), concerning two bhikkhu friends.
Không dể duôi giữa những người dể duôi – bài pháp thoại này được Đức Thế Tôn thuyết giảng khi Ngài đang ở tại Jetavana, liên quan đến hai vị tỳ-khưu là bạn của nhau.
780
Te kira satthu santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā āraññakavihāraṃ pavisiṃsu.
It is said that they received a meditation subject from the Teacher and entered a forest monastery.
Nghe nói, hai vị ấy sau khi nhận đề mục thiền từ Đức Thế Tôn đã đi vào một ngôi chùa trong rừng.
Tesu eko kira kālasseva dārūni āharitvā aṅgārakapallaṃ sajjetvā daharasāmaṇerehi saddhiṃ sallapanto paṭhamayāmaṃ visibbamāno nisīdati.
Among them, one bhikkhu would gather firewood early, prepare a brazier, and sit warming himself while conversing with young novices throughout the first watch of the night.
Trong số họ, một vị vào lúc sáng sớm đã mang củi về, chuẩn bị lò than, rồi ngồi sưởi ấm trong canh đầu, trò chuyện cùng các vị sa-di trẻ.
Eko appamatto samaṇadhammaṃ karonto itaraṃ ovadati, ‘‘āvuso, mā evaṃ kari, pamattassa hi cattāro apāyā sakagharasadisā.
The other, being heedful, practiced the ascetic's duties and admonished his companion, "Friend, do not do this. For the heedless, the four lower realms are like their own home.
Một vị không dể duôi, trong khi thực hành pháp của sa-môn, đã khuyên răn vị kia: “Này hiền hữu, đừng làm vậy, đối với người dể duôi, bốn cõi ác giống như nhà của mình.”
Buddhā nāma sāṭheyyena ārādhetuṃ na sakkā’’ti so tassovādaṃ na suṇāti.
Buddhas cannot be pleased by deceit." But the other did not heed his advice.
Chư Phật không thể được làm hài lòng bằng sự gian xảo. Vị kia không nghe lời khuyên của bạn.
Itaro ‘‘nāyaṃ vacanakkhamo’’ti taṃ avatvā appamattova samaṇadhammamakāsi.
The heedful one, thinking, "This one is not amenable to advice," did not speak to him further and continued his ascetic's duties with heedfulness.
Vị còn lại, nghĩ rằng “người này không chịu nghe lời”, đã không nói gì thêm và tự mình không dể duôi thực hành pháp của sa-môn.
Alasattheropi paṭhamayāme visibbetvā itarassa caṅkamitvā gabbhaṃ paviṭṭhakāle pavisitvā, ‘‘mahākusīta, tvaṃ nipajjitvā sayanatthāya araññaṃ paviṭṭhosi, kiṃ buddhānaṃ santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā uṭṭhāya samaṇadhammaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā attano vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā nipajjitvā supati.
The lazy elder, having warmed himself in the first watch, and when the other monk had finished walking and entered his cell, entered it and said, “O great sluggard, you have entered the forest to lie down and sleep! Is it not proper to receive a meditation subject from the Buddhas and rise to practice the ascetic's duty?” Having said this, he entered his own dwelling place, lay down, and slept.
Vị trưởng lão lười biếng, sau khi sưởi ấm trong canh đầu, khi vị kia đi kinh hành xong và vào phòng, liền đi vào và nói: “Này kẻ lười biếng kia, ngươi vào rừng để nằm ngủ sao? Nhận đề mục thiền từ chư Phật rồi, há chẳng nên đứng dậy thực hành pháp của sa-môn sao?” Nói xong, vị ấy trở về chỗ ở của mình, nằm xuống và ngủ.
Itaropi majjhimayāme vissamitvā pacchimayāme paccuṭṭhāya samaṇadhammaṃ karoti.
The other monk, having rested in the middle watch, rose in the last watch and performed the ascetic's duty.
Vị còn lại, sau khi nghỉ ngơi trong canh giữa, đã thức dậy vào canh cuối và thực hành pháp của sa-môn.
So evaṃ appamatto viharanto na cirasseva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.
Dwelling thus diligently, he soon attained Arahantship together with the Paṭisambhidās.
Vị ấy, sống không dể duôi như vậy, không bao lâu đã đắc quả A-la-hán cùng với các tuệ phân tích.
Itaro pamādeneva kālaṃ vītināmesi.
The other monk spent his time in heedlessness.
Vị kia chỉ sống trong dể duôi mà lãng phí thời gian.
Te vuṭṭhavassā satthu santikaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
When the Rains Retreat was over, they went to the Teacher, paid homage to the Teacher, and sat down to one side.
Sau mùa an cư, hai vị đến gặp Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Satthā tehi saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā, ‘‘kacci, bhikkhave, appamattā samaṇadhammaṃ karittha, kacci vo pabbajitakiccaṃ matthakaṃ patta’’nti pucchi.
The Teacher exchanged pleasantries with them and asked, “Monks, did you practice the ascetic's duty diligently? Has your ascetic's task reached its culmination?”
Đức Thế Tôn sau khi thăm hỏi họ, đã hỏi: “Này các tỳ-khưu, các con có không dể duôi thực hành pháp của sa-môn không? Phận sự của người xuất gia của các con đã hoàn thành chưa?”
Paṭhamaṃ pamatto bhikkhu āha – ‘‘kuto, bhante, etassa appamādo, gatakālato paṭṭhāya nipajjitvā niddāyanto kālaṃ vītināmesī’’ti.
First, the heedless monk said, “Venerable Sir, how could there be diligence for him? From the time we arrived, he spent his time lying down and sleeping.”
Đầu tiên, vị tỳ-khưu dể duôi nói: “Bạch Thế Tôn, làm sao vị này có thể không dể duôi được? Từ lúc đến đây, vị ấy chỉ nằm ngủ, lãng phí thời gian.”
‘‘Tvaṃ pana bhikkhū’’ti.
“And you, monk?”
“Còn con thì sao, tỳ-khưu?”
‘‘Ahaṃ, bhante, kālasseva dārūni āharitvā aṅgārakapallaṃ sajjetvā paṭhamayāme visibbento nisīditvā aniddāyantova kālaṃ vītināmesi’’nti.
“Venerable Sir, I brought firewood early, prepared a charcoal brazier, and spent the first watch warming myself, sitting down and not sleeping.”
“Bạch Thế Tôn, con vào lúc sáng sớm đã mang củi về, chuẩn bị lò than, ngồi sưởi ấm trong canh đầu, và đã trải qua thời gian mà không ngủ.”
Atha naṃ satthā ‘‘tvaṃ pamatto kālaṃ vītināmetvā ‘appamattomhī’ti vadasi, appamattaṃ pana pamattaṃ karosī’’ti āha.
Then the Teacher said to him, “You, having spent your time heedlessly, say, ‘I am diligent,’ but you make the diligent one heedless.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vị ấy: “Con đã sống dể duôi mà lại nói rằng ‘tôi không dể duôi’, còn người không dể duôi thì con lại cho là dể duôi.”
Puna pamāde dose, appamāde ānisaṃse pakāsetuṃ, ‘‘tvaṃ mama puttassa santike javacchinno dubbalasso viya, esa pana tava santike sīghajavasso viyā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Again, to explain the faults in heedlessness and the benefits in diligence, he said, “You are like a weak horse whose speed is broken in the presence of my son, but this one is like a swift horse in your presence,” and then uttered this verse:
Để chỉ ra lỗi lầm trong sự dể duôi và lợi ích trong sự không dể duôi, Ngài lại nói: “Con đối với con trai của ta giống như con ngựa yếu đuối, hết tốc lực, còn vị ấy đối với con lại giống như con ngựa có tốc độ nhanh.” Rồi Ngài nói lên bài kệ này:
781
29.
29.
29.
782
‘‘Appamatto pamattesu, suttesu bahujāgaro;
“Among the heedless, diligent, among the sleepers, wide awake,
“Không dể duôi giữa những người dể duôi, rất tỉnh thức giữa những người đang ngủ;
783
Abalassaṃva sīghasso, hitvā yāti sumedhaso’’ti.
The wise one goes, leaving behind the weak horse, like a swift steed.”
Bậc trí tuệ vượt lên, như ngựa hay bỏ lại ngựa yếu.”
784
Tattha appamattoti sativepullappattatāya appamādasampanne khīṇāsavo.
Here, diligent means an Arahant endowed with diligence, due to having attained the fullness of mindfulness.
Trong đó, không dể duôi là bậc lậu tận A-la-hán, người đã đạt được sự viên mãn của chánh niệm nên đầy đủ sự không dể duôi.
Pamattesūti sativosagge ṭhitesu sattesu.
Among the heedless means among beings who are established in abandoning mindfulness.
Giữa những người dể duôi là giữa các chúng sanh đang ở trong tình trạng buông lung chánh niệm.
Suttesūti satijāgariyābhāvena sabbiriyāpathesu niddāyantesu.
Among the sleepers means among beings who are sleeping in all postures due to the absence of mindful wakefulness.
Giữa những người đang ngủ là giữa những người đang ngủ trong mọi oai nghi do thiếu sự tỉnh thức của chánh niệm.
Bahujāgaroti mahante sativepulle jāgariye ṭhito.
Wide awake means established in great fullness of mindfulness, in wakefulness.
Rất tỉnh thức là người an trú trong sự tỉnh thức của chánh niệm vĩ đại, viên mãn.
Abalassaṃvāti kuṇṭhapādaṃ chinnajavaṃ dubbalassaṃ sīghajavo sindhavājānīyo viya.
Leaving behind the weak horse means like a swift Sindhu thoroughbred horse leaving behind a lame-footed, broken-speed, weak horse.
Như ngựa yếu là như con ngựa thuần chủng Sindh có tốc độ nhanh bỏ lại con ngựa yếu, chân què, mất tốc lực.
Sumedhasoti uttamapañño.
The wise one means one with supreme wisdom.
Bậc trí tuệ là người có trí tuệ tối thượng.
Tathārūpaṃ puggalaṃ āgamenapi adhigamenapi hitvā yāti.
Such a person goes, leaving behind (the heedless one), both by learning (āgama) and by realization (adhigama).
Người ấy vượt lên bỏ lại một người như vậy cả về phương diện học tập lẫn chứng đắc.
Mandapaññasmiñhi ekaṃ suttaṃ gahetuṃ vāyamanteyeva sumedhaso ekaṃ vaggaṃ gaṇhāti, evaṃ tāva āgamena hitvā yāti.
Indeed, while a person of dull wisdom is still striving to learn one Sutta, the wise one learns an entire section. Thus, first, he goes, leaving behind, by learning.
Thật vậy, trong khi người có trí tuệ kém cỏi đang cố gắng học thuộc một bài kinh, người có trí tuệ sáng suốt đã học xong một phẩm. Như vậy, trước hết là vượt qua về phương diện học tập.
Mandapaññe pana rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni kātuṃ vāyamanteyeva kammaṭṭhānaṃ uggahetvā sajjhāyanteyeva ca sumedhaso pubbabhāgepi parena kataṃ rattiṭṭhānaṃ vā divāṭṭhānaṃ vā pavisitvā kammaṭṭhānaṃ sammasanto sabbakilese khepetvā neva lokuttaradhamme hatthagate karoti, evaṃ adhigamenapi hitvā yāti.
But while a person of dull wisdom merely strives to establish resting places by night and by day, and while merely learning and reciting the meditation subject, a person of excellent wisdom, even in the early stage, having entered a night or day resting place made by another, reflecting on the meditation subject, having exhausted all defilements, makes the nine transcendent Dhammas attain his hand. Thus, even by attainment, he surpasses and goes forth.
Hơn nữa, trong khi người có trí tuệ kém cỏi đang cố gắng thực hành các phận sự ngày và đêm, hoặc đang học thuộc và đọc tụng đề mục thiền, thì người có trí tuệ sáng suốt, ngay cả trong giai đoạn đầu, đã đi vào một nơi thực hành ngày hoặc đêm do người khác chuẩn bị, quán chiếu đề mục thiền, đoạn trừ tất cả phiền não, và nắm trong tay chín pháp siêu thế. Như vậy, người ấy cũng vượt qua về phương diện chứng đắc.
Vaṭṭe pana naṃ hitvā chaḍḍetvā vaṭṭato nissaranto yātiyevāti.
But in saṃsāra, having abandoned and cast away that (dull-witted person), he goes forth, escaping from saṃsāra indeed.
Còn trong vòng luân hồi, người ấy chắc chắn vượt lên, bỏ lại người kia và thoát khỏi luân hồi.
785
Gāthāpariyosāne bahū sotāpattiphalādīni pāpuṇiṃsūti.
At the conclusion of the stanza, many attained the fruits of stream-entry and so on.
Khi bài kệ kết thúc, nhiều người đã chứng đắc các quả vị như Tu-đà-hoàn.
786
Pamattāpamattadvesahāyakavatthu chaṭṭhaṃ.
6. The Story of the Two Friends, the Heedful and the Heedless
Câu chuyện về hai người bạn, một phóng dật và một không phóng dật, là câu chuyện thứ sáu.
787
7. Maghavatthu
7. The Story of Magha
7. Câu chuyện về Magha
788
Appamādena maghavāti imaṃ dhammadesanaṃ satthā vesāliyaṃ upanissāya kūṭāgārasālāyaṃ viharanto sakkaṃ devarājānaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, dwelling in the Kūṭāgārasālā near Vesālī, taught this Dhamma discourse beginning with “ Appamādena maghavā” concerning Sakka, the king of devas.
Appamādena maghavāti, pháp thoại này, khi đang trú tại Kūṭāgārasālā gần Vesāli, bậc Đạo Sư đã thuyết giảng liên quan đến Sakka, vua của chư thiên.
789
Vesāliyañhi mahāli nāma licchavī vasati, so tathāgatassa sakkapañhasuttantadesanaṃ (dī. ni. 2.344 ādayo) sutvā ‘‘sammāsambuddho sakkasampattiṃ mahatiṃ katvā kathesi, ‘disvā nu kho kathesi, udāhu adisvā.
In Vesālī, there lived a Licchavi named Mahāli. Having heard the Tathāgata's Sakka’s Questions Suttanta discourse, he thought: “The Perfectly Enlightened One spoke extensively of Sakka's prosperity. Did he speak after seeing him, or without seeing him? Does he know Sakka, or not? I will ask him about this.”
Chuyện rằng, tại Vesāli có một vị vua Licchavi tên là Mahāli. Sau khi nghe Đức Như Lai thuyết giảng Kinh Sakkapañha, ông suy nghĩ: "Đức Chánh Đẳng Giác đã thuyết giảng về sự vĩ đại của tài sản của Sakka. Ngài đã thấy rồi mới thuyết giảng, hay chưa thấy mà thuyết giảng? Ngài có biết Sakka hay không?" và ông quyết định sẽ đến hỏi Ngài.
Jānāti nu kho sakkaṃ, udāhu no’ti pucchissāmi na’’nti cintesi.
Then, Mahāli the Licchavi approached the Bhagavā, and having approached and paid homage to the Bhagavā, he sat down to one side. As he sat to one side, Mahāli the Licchavi said to the Bhagavā: “Bhante, has the Bhagavā seen Sakka, king of devas?”
Sau đó, Mahāli người Licchavi đã đến nơi Đức Thế Tôn, sau khi đến, ông đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Mahāli người Licchavi bạch với Đức Thế Tôn rằng:
Atha kho, mahāli, licchavī yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi, ekamantaṃ nisinno kho, mahāli, licchavī bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘diṭṭho kho, bhante, bhagavatā sakko devānamindo’’ti?
“Bhante, has the Bhagavā seen Sakka, king of devas?”
"Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã từng thấy Sakka, vua của chư thiên chưa ạ?"
‘‘Diṭṭho kho me, mahāli, sakko devānamindo’’ti.
“I have indeed seen Sakka, king of devas, Mahāli.”
"Này Mahāli, Ta đã thấy Sakka, vua của chư thiên."
‘‘So hi nuna, bhante, sakkapatirūpako bhavissati.
“Then, Bhante, it must have been an imitation of Sakka.
"Bạch Thế Tôn, vậy chắc hẳn đó là một vị giống như Sakka thôi."
Duddaso hi, bhante, sakko devānamindo’’ti.
For Sakka, king of devas, is difficult to see, Bhante.”
"Bạch Thế Tôn, vì Sakka, vua của chư thiên, rất khó gặp."
‘‘Sakkañca khvāhaṃ, mahāli, pajānāmi sakkakaraṇe ca dhamme, yesaṃ dhammānaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā, tañca pajānāmi’’.
“I know Sakka, Mahāli, and I know the qualities that make one a Sakka, by the practice of which qualities Sakka attained his Sakka-state.”
"Này Mahāli, Ta biết rõ Sakka, và cũng biết rõ các pháp tạo nên địa vị Sakka, những pháp mà nhờ thực hành đầy đủ, Sakka đã đạt được địa vị Sakka. Ta biết rõ điều đó."
790
Sakko, mahāli, devānamindo pubbe manussabhūto samāno magho nāma māṇavo ahosi, tasmā ‘‘maghavā’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, was formerly a human being named Magha, a young man; therefore, he is called “Maghavā.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, là một thanh niên tên là Magha, vì thế được gọi là ‘Maghavā’."
791
Sakko, mahāli, devānamindo pubbe manussabhūto samāno pure dānaṃ adāsi, tasmā ‘‘purindado’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, was formerly a human being who gave donations previously; therefore, he is called “Purindada.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, đã bố thí trước tiên, vì thế được gọi là ‘Purindada’."
792
Sakko, mahāli, devānamindo pubbe manussabhūto samāno sakkaccaṃ dānaṃ adāsi, tasmā ‘‘sakko’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, was formerly a human being who gave donations respectfully; therefore, he is called “Sakka.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, đã bố thí một cách cung kính, vì thế được gọi là ‘Sakka’."
793
Sakko, mahāli, devānamindo pubbe manussabhūto samāno āvasathaṃ adāsi, tasmā ‘‘vāsavo’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, was formerly a human being who gave dwelling places; therefore, he is called “Vāsava.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, đã bố thí nhà nghỉ, vì thế được gọi là ‘Vāsava’."
794
Sakko, mahāli, devānamindo sahassampi atthaṃ muhuttena cinteti, tasmā ‘‘sahassakkho’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, thinks of even a thousand matters in a moment; therefore, he is called “Sahassakkha.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, có thể suy xét cả ngàn vấn đề trong một khoảnh khắc, vì thế được gọi là ‘Sahassakkha’."
795
Sakkassa, mahāli, devānamindassa sujā nāma asurakaññā, pajāpati, tasmā ‘‘sujampatī’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, has an Asura maiden named Sujā as his consort; therefore, he is called “Sujampatī.”
"Này Mahāli, phu nhân của Sakka, vua của chư thiên, là Sujā, con gái của một asura, vì thế được gọi là ‘Sujampati’."
796
Sakko, mahāli, devānamindo devānaṃ tāvatiṃsānaṃ issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kāreti, tasmā ‘‘devānamindo’’ti vuccati.
Sakka, king of devas, Mahāli, rules over the thirty-three devas as their lord and master; therefore, he is called “Devānaminda.”
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, cai quản vương quốc với quyền lực và uy thế tối cao trên chư thiên Tāvatiṃsā, vì thế được gọi là ‘Devānaminda’."
797
Sakkassa, mahāli, devānamindassa pubbe manussabhūtassa satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagā.
When Sakka, king of devas, Mahāli, was formerly a human being, seven vows were fully undertaken by him, by the undertaking of which he attained the Sakka-state.
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, đã thực hành đầy đủ và trọn vẹn bảy điều thệ nguyện, nhờ thực hành đầy đủ những điều đó mà Sakka đã đạt được địa vị Sakka."
Katamāni satta vatapadāni?
What are these seven vows?
"Bảy điều thệ nguyện đó là gì?"
Yāvajīvaṃ mātāpettibharo assaṃ, yāvajīvaṃ kule jeṭṭhāpacāyī assaṃ, yāvajīvaṃ saṇhavāco assaṃ, yāvajīvaṃ apisuṇavāco assaṃ, yāvajīvaṃ vigatamalamaccherena cetasā agāraṃ ajjhāvaseyyaṃ, muttacāgo payatapāṇi vosaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato assaṃ.
“As long as I live, may I be one who supports mother and father. As long as I live, may I be one who honors the elders in the family. As long as I live, may I be one whose speech is gentle. As long as I live, may I be one whose speech is not slanderous. As long as I live, may I dwell in a home with a mind free from the stain of stinginess, open-handed, pure-handed, delighting in relinquishment, amenable to requests, delighting in giving and sharing.
"Trọn đời con sẽ phụng dưỡng cha mẹ. Trọn đời con sẽ kính trọng những người lớn tuổi trong gia đình. Trọn đời con sẽ nói lời hòa nhã. Trọn đời con sẽ không nói lời chia rẽ. Con sẽ sống trong gia đình với tâm không còn vết bẩn của lòng bỏn xẻn, với sự xả ly rộng rãi, tay luôn sẵn sàng cho đi, vui thích trong việc buông bỏ, sẵn sàng đáp ứng lời thỉnh cầu, vui thích trong việc bố thí và chia sẻ."
Yāvajīvaṃ saccavāco assaṃ, yāvajīvaṃ akkodhano assaṃ, ‘‘sacepi me kodho uppajjeyya, khippameva na paṭivineyya’’nti.
As long as I live, may I be one whose speech is truthful. As long as I live, may I be one free from anger; if anger should arise in me, may I quickly suppress it.”
"Trọn đời con sẽ nói lời chân thật. Trọn đời con sẽ không sân giận, ‘nếu sân giận có khởi lên trong con, con sẽ nhanh chóng dẹp tan nó’."
Sakkassa, mahāli, devānamindassa pubbe manussabhūtassa imāni satta vatapadāni samattāni samādinnāni ahesuṃ, yesaṃ samādinnattā sakko sakkattaṃ ajjhagāti.
These, Mahāli, were the seven vows fully undertaken by Sakka, king of devas, when he was formerly a human being, by the undertaking of which he attained the Sakka-state.
"Này Mahāli, Sakka, vua của chư thiên, khi còn là người ở tiền kiếp, đã thực hành đầy đủ và trọn vẹn bảy điều thệ nguyện này, nhờ thực hành đầy đủ những điều đó mà Sakka đã đạt được địa vị Sakka."
798
‘‘Mātāpettibharaṃ jantuṃ, kule jeṭṭhāpacāyinaṃ;
“A being who supports mother and father, who honors the elders in his family,
"Người phụng dưỡng cha mẹ, và kính trọng bậc trưởng thượng trong dòng tộc;"
799
Saṇhaṃ sakhilasambhāsaṃ, pesuṇeyyappahāyinaṃ.
whose speech is gentle and amiable, who has abandoned slander,
"Người nói lời hòa nhã, thân mật, từ bỏ lời nói chia rẽ."
800
‘‘Maccheravinaye yuttaṃ, saccaṃ kodhābhibhuṃ naraṃ;
who is devoted to conquering stinginess, who is truthful and overcomes anger—
"Người nỗ lực chế ngự lòng bỏn xẻn, chân thật, chiến thắng sân hận;"
801
Taṃ ve devā tāvatiṃsā, āhu sappuriso itī’’ti.(saṃ. ni. 1.257) –
him do the Tāvatiṃsā devas truly call a good person.”
"Chư thiên Tāvatiṃsā gọi người như vậy là bậc chân nhân."
802
Idaṃ, mahāli, sakkena maghamāṇavakāle katakammanti vatvā puna tena ‘‘kathaṃ, bhante, maghamāṇavo paṭipajjī’’ti?
Having said that this was the good deed performed by Sakka in the time of the young man Magha, and being asked by Mahāli, who desired to hear his practice in detail, “How, Bhante, did the young man Magha practice?” the Bhagavā said, “Then, Mahāli, listen!” and recounted a past event—
Sau khi nói: "Này Mahāli, đây là nghiệp mà Sakka đã làm khi còn là thanh niên Magha," và khi được ông hỏi: "Bạch Thế Tôn, thanh niên Magha đã thực hành như thế nào?"
Tassa paṭipattiṃ vitthārato sotukāmena puṭṭho ‘‘tena hi, mahāli, suṇāhī’’ti vatvā atītaṃ āhari –
Then, Mahāli, listen!” and recounted a past event—
được hỏi bởi người muốn nghe chi tiết về sự thực hành của ông, Ngài nói: "Vậy thì, này Mahāli, hãy lắng nghe," và kể lại câu chuyện quá khứ.
803
Atīte magadharaṭṭhe macalagāme magho nāma māṇavo gāmakammakaraṇaṭṭhānaṃ gantvā attano ṭhitaṭṭhānaṃ pādantena paṃsuṃ viyūhitvā ramaṇīyaṃ katvā aṭṭhāsi.
In the past, in the Magadha country, in the village of Macala, a young man named Magha went to the village work site, and having cleared the earth with the tip of his foot, he made his standing place pleasant and stood there.
Trong quá khứ, tại làng Macala ở xứ Magadha, có một thanh niên tên là Magha. Khi đến nơi làm việc chung của làng, anh dùng mũi chân san phẳng đám bụi đất nơi mình đứng cho sạch sẽ rồi đứng đó.
Aparo taṃ bāhunā paharitvā tato apanetvā sayaṃ tattha aṭṭhāsi.
Another person struck him with his arm, removed him from there, and stood there himself.
Một người khác đến, dùng tay đẩy anh ra khỏi chỗ đó rồi tự mình đứng vào.
So tassa akujjhitvāva aññaṃ ṭhānaṃ ramaṇīyaṃ katvā ṭhito.
Without getting angry at that person, Magha made another place pleasant and stood there.
Anh không hề tức giận người đó, lại dọn một chỗ khác cho sạch sẽ rồi đứng.
Tatopi naṃ añño āgantvā bāhunā paharitvā apanetvā sayaṃ aṭṭhāsi.
From that place too, another person came, struck him with his arm, removed him, and stood there himself.
Một người khác lại đến, dùng tay đẩy anh ra khỏi chỗ đó rồi tự mình đứng vào.
So tassapi akujjhitvāva aññaṃ ṭhānaṃ ramaṇīyaṃ katvā ṭhito, iti taṃ gehato nikkhantā nikkhantā purisā bāhunā paharitvā ṭhitaṭhitaṭṭhānato apanesuṃ.
Without getting angry at that person either, Magha made another place pleasant and stood there. Thus, men coming out of the house repeatedly struck him with their arms and removed him from every place where he stood.
Anh cũng không hề tức giận người đó, lại dọn một chỗ khác cho sạch sẽ rồi đứng. Cứ như vậy, những người đàn ông từ trong nhà đi ra đều dùng tay đẩy anh ra khỏi chỗ anh đang đứng.
So ‘‘sabbepete maṃ nissāya sukhitā jātā, iminā kammena mayhaṃ sukhadāyakena puññakammena bhavitabba’’nti cintetvā, punadivase kudālaṃ ādāya khalamaṇḍalamattaṃ ṭhānaṃ ramaṇīyaṃ akāsi.
He thought, “All these people have become happy by relying on me. This deed must be a meritorious deed that brings me happiness.” So, the next day, taking a spade, he made a place about the size of a threshing floor pleasant.
Anh nghĩ: "Tất cả những người này nhờ ta mà được an vui. Việc làm này của ta hẳn phải là một việc phước thiện mang lại hạnh phúc," rồi ngày hôm sau, anh lấy cuốc dọn dẹp một khu đất rộng bằng sân đập lúa cho sạch sẽ.
Sabbe gantvā tattheva aṭṭhaṃsu.
Everyone went and stood right there.
Tất cả mọi người đều đến đứng ở đó.
Atha nesaṃ sītasamaye aggiṃ katvā adāsi, gimhakāle udakaṃ.
Then, during the cold season, he made a fire for them and gave it, and in the hot season, water.
Sau đó, vào mùa lạnh, anh đốt lửa cho họ, vào mùa nóng thì cung cấp nước.
Tato ‘‘ramaṇīyaṃ ṭhānaṃ nāma sabbesaṃ piyaṃ, kassaci appiyaṃ nāma natthi, ito paṭṭhāya mayā maggaṃ samaṃ karontena vicarituṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā, pātova nikkhamitvā, maggaṃ samaṃ karonto chinditvā, haritabbayuttakā rukkhasākhā haranto vicarati.
After that, he thought, “A pleasant place is dear to everyone; there is nothing unpleasant to anyone. From now on, it is proper for me to wander making the path smooth.” So, he went out early in the morning, making the path smooth, cutting and removing tree branches that needed to be cut and removed.
Từ đó, anh nghĩ: "Một nơi sạch sẽ thì ai cũng thích, không ai là không thích cả. Từ nay trở đi, ta nên đi làm cho đường sá bằng phẳng," rồi sáng sớm anh ra đi, san bằng đường sá, dọn dẹp những cành cây cần phải dọn.
Atha naṃ aparo disvā āha – ‘‘samma, kiṃ karosī’’ti?
Then another person saw him and said, “Friend, what are you doing?”
Một người khác thấy anh và hỏi: "Này bạn, bạn đang làm gì vậy?"
‘‘Mayhaṃ saggagāminaṃ maggaṃ karomi, sammā’’ti.
“Friend, I am making a path to heaven for myself.”
"Tôi đang làm con đường dẫn đến cõi trời cho mình, bạn ạ."
‘‘Tena hi ahampi te sahāyo homī’’ti.
“Then I too will be your companion.”
"Vậy thì tôi cũng xin làm bạn đồng hành với anh."
‘‘Hohi, samma, saggo nāma bahūnampi manāpo sukhabahulo’’ti.
“Be my companion, friend. Heaven is indeed pleasant and full of happiness for many.”
"Hãy làm đi, bạn ạ. Cõi trời là nơi nhiều người mong muốn và có nhiều hạnh phúc."
Tato paṭṭhāya dve janā ahesuṃ.
From then on, there were two people.
Từ đó, họ có hai người.
Te disvā tatheva pucchitvā ca sutvā ca aparopi tesaṃ sahāyo jāto, evaṃ aparopi aparopīti sabbepi tettiṃsa janā jātā.
Seeing them, another person asked likewise, heard their reply, and became their companion. In this way, one after another, all thirty-three people became companions.
Thấy họ, một người khác cũng hỏi và nghe như vậy rồi trở thành bạn đồng hành của họ. Cứ thế, người này đến người khác, tất cả có ba mươi ba người.
Te sabbepi kudālādihatthā maggaṃ samaṃ karontā ekayojanadviyojanamattaṭṭhānaṃ gacchanti.
All of them, with spades and other tools in hand, making the path smooth, traveled for one or two yojanas.
Tất cả họ, tay cầm cuốc và các dụng cụ khác, đi san bằng đường sá trên một quãng đường dài một, hai do tuần.
804
Te disvā gāmabhojako cintesi – ‘‘ime manussā ayoge yuttā, sace ime araññato macchamaṃsādīni vā āhareyyuṃ.
Seeing them, the village headman thought, “These people are engaged in inappropriate work. If these people were to bring fish, meat, and so on from the forest,
Thấy họ, trưởng làng suy nghĩ: "Những người này đang làm những việc không đâu. Nếu họ vào rừng mang về cá thịt, hoặc nấu rượu uống, hay làm những việc tương tự, ta cũng sẽ được hưởng chút lợi lộc."
Suraṃ vā katvā piveyyuṃ, aññaṃ vā tādisaṃ kammaṃ kareyyuṃ, ahampi kiñci kiñci labheyya’’nti.
or make and drink liquor, or do other such deeds, I too would get something.”
Sau đó, ông cho gọi họ đến và hỏi: "Các ngươi đi làm gì vậy?"
Atha ne pakkosāpetvā pucchi – ‘‘kiṃ karontā vicarathā’’ti?
Then he summoned them and asked, “What are you doing as you wander about?”
"Thưa ngài, chúng tôi làm đường lên cõi trời."
‘‘Saggamaggaṃ, sāmī’’ti.
“The path to heaven, master.”
"Những người sống đời gia đình không nên làm như vậy. Nên vào rừng mang về cá thịt, nấu rượu uống, và làm các công việc khác."
‘‘Gharāvāsaṃ vasantehi nāma evaṃ kātuṃ na vaṭṭati, araññato macchamaṃsādīni āharituṃ, suraṃ katvā pātuṃ, nānappakāre ca kammante kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
‘‘Indeed, those living in a household should not act in this manner. It is proper to bring fish and meat from the forest, to make and drink liquor, and to perform various kinds of deeds.”
Họ từ chối lời của ông. Dù bị nói đi nói lại nhiều lần, họ vẫn từ chối.
Te tassa vacanaṃ paṭikkhipiṃsu, evaṃ punappunaṃ vuccamānāpi paṭikkhipiṃsuyeva.
They rejected his words, and even when spoken to repeatedly in this manner, they continued to reject them.
Ông ta tức giận, nghĩ: "Ta sẽ tiêu diệt chúng," rồi đến gặp vua, tâu rằng: "Tâu đại vương, thần thấy có những tên trộm đang tụ tập thành băng đảng đi lại." Khi được vua phán: "Hãy đi bắt chúng mang về đây," ông ta đã làm theo, bắt trói tất cả họ lại và dẫn đến trình vua.
So kujjhitvā ‘‘nāsessāmi ne’’ti rañño santikaṃ gantvā, ‘‘core te, deva, vaggabandhanena vicarante passāmī’’ti vatvā, ‘‘gaccha, te gahetvā ānehī’’ti vutte tathā katvā sabbe te bandhitvā ānetvā rañño dassesi.
He became angry, thinking, "I will destroy them," and going to the king, he said, "Your Majesty, I see these thieves roaming in groups." When the king said, "Go, seize them and bring them here," he did so, bound all of them, brought them, and showed them to the king.
Vua không điều tra, ra lệnh: "Hãy cho voi giày chết chúng."
Rājā avīmaṃsitvāva ‘‘hatthinā maddāpethā’’ti āṇāpesi.
The king, without investigating, commanded, "Have them trampled by an elephant!"
Magha khuyên những người còn lại: "Các bạn, ngoài tâm từ ra, chúng ta không có nơi nương tựa nào khác. Các bạn đừng sân hận với bất kỳ ai, hãy giữ tâm bình đẳng, tâm từ ái đối với nhà vua, trưởng làng, con voi sẽ giày chúng ta, và cả chính bản thân mình."
Magho sesānaṃ ovādamadāsi – ‘‘sammā, ṭhapetvā mettaṃ añño amhākaṃ avassayo natthi, tumhe katthaci kopaṃ akatvā raññe ca gāmabhojake ca maddanahatthimhi ca attani ca mettacittena samacittāva hothā’’ti.
Magha gave advice to the others: "Friends, apart from metta, there is no other refuge for us. Do not show anger to anyone. Be of equal mind with metta towards the king, the village headman, the trampling elephant, and yourselves."
Họ đã làm như vậy.
Te tathā kariṃsu.
They did as he said.
Nhờ oai lực của tâm từ của họ, con voi thậm chí không dám đến gần.
Atha nesaṃ mettānubhāvena hatthī uppasaṅkamitumpi na visahi.
Then, through the power of their metta, the elephant was unable to even approach them.
Vua nghe chuyện đó, nghĩ: "Thấy nhiều người nên nó không dám giày chăng?"
Rājā tamatthaṃ sutvā bahū manusse disvā maddituṃ na visahissati?
The king, hearing of the matter, thought, "How can it be that it cannot trample many people even upon seeing them?
"Hãy đi, lấy chiếu che chúng lại rồi cho voi giày," ông nói.
‘‘Gacchatha, ne kilañjena paṭicchādetvā maddāpethā’’ti āha.
Go, cover them with mats and have them trampled," he said.
Dù bị che bằng chiếu và bị sai đến để giày, con voi vẫn lùi lại từ xa.
Te kilañjena paṭicchādetvā maddituṃ pesiyamānopi hatthī dūratova paṭikkami.
Even when the elephant was sent to trample them after they were covered with mats, it retreated from a distance.
Dù bị che phủ bằng chiếu và bị sai đến để giẫm đạp, con voi vẫn lùi lại từ xa.
805
Rājā taṃ pavattiṃ sutvā ‘‘kāraṇenettha bhavitabba’’nti te pakkosāpetvā pucchi – ‘‘tātā, maṃ nissāya tumhe kiṃ na labhathā’’ti?
The king, hearing this news, thought, "There must be a reason for this," and summoning them, he asked, "My dear ones, what do you not obtain on my account?"
Vua nghe được câu chuyện ấy, nghĩ rằng: “Hẳn phải có nguyên do trong việc này,” liền cho triệu họ đến và hỏi: “Này các khanh, nương nhờ ta mà các khanh không nhận được điều gì chăng?”
‘‘Kiṃ nāmetaṃ, devā’’ti?
"What is this, Your Majesty?"
“Thưa Đại vương, đó là việc gì vậy?”
‘‘Tumhe kira vaggabandhanena corā hutvā araññe vicarathā’’ti?
"It is said that you are thieves roaming in groups in the forest."
“Nghe nói các khanh lập băng đảng, làm trộm cướp, đi lang thang trong rừng phải không?”
‘‘Ko evamāha, devā’’ti?
"Who said this, Your Majesty?"
“Thưa Đại vương, ai đã nói như vậy?”
‘‘Gāmabhojako, tātā’’ti.
"The village headman, my dear ones."
“Là trưởng làng đó, các khanh.”
‘‘Na mayaṃ, deva, corā, mayaṃ pana attano saggamaggaṃ sodhentā idañcidañca karoma, gāmabhojako amhe akusalakiriyāya niyojetvā attano vacanaṃ akaronte nāsetukāmo kujjhitvā evamāhā’’ti.
"Your Majesty, we are not thieves. We are merely purifying our path to heaven by doing this and that. The village headman, wishing to destroy us for not obeying his command after he urged us to commit unwholesome deeds, became angry and spoke thus."
“Thưa Đại vương, chúng thần không phải là trộm cướp. Chúng thần chỉ đang dọn dẹp con đường lên cõi trời của mình, làm những việc này việc nọ. Trưởng làng đã xúi giục chúng thần làm điều bất thiện, và khi chúng thần không làm theo lời ông ta, ông ta tức giận, muốn hãm hại chúng thần nên đã nói như vậy.”
Atha rājā tesaṃ kathaṃ sutvā somanassappatto hutvā, ‘‘tātā, ayaṃ tiracchāno tumhākaṃ guṇe jānāti, ahaṃ manussabhūto jānituṃ nāsakkhiṃ, khamatha me’’ti.
Then the king, hearing their words, was delighted and said, "My dear ones, this animal knows your virtues, but I, being a human, could not know them. Forgive me."
Bấy giờ, vua nghe lời họ nói, lòng đầy hoan hỷ, phán rằng: “Này các khanh, con vật súc sinh này còn biết được đức hạnh của các khanh, còn ta thân làm người lại không thể biết được. Xin hãy tha thứ cho ta.”
Evañca pana vatvā saputtadāraṃ gāmabhojakaṃ tesaṃ dāsaṃ, hatthiṃ ārohaniyaṃ, tañca gāmaṃ yathāsukhaṃ paribhogaṃ katvā adāsi.
Having said this, he gave them the village headman, with his wife and children, as their slave, the elephant as a mount, and the village to enjoy as they pleased.
Và sau khi nói vậy, vua đã ban trưởng làng cùng vợ con làm nô lệ cho họ, ban con voi để làm vật cưỡi, và ban ngôi làng ấy để họ tùy ý hưởng dụng.
Te ‘‘idheva no katapuññassānisaṃso diṭṭho’’ti bhiyyosomattāya pasannamānasā hutvā taṃ hatthiṃ vārena vārena abhiruyha gacchantā mantayiṃsu ‘‘idāni amhehi atirekataraṃ puññaṃ kātabbaṃ, kiṃ karoma?
They thought, "The fruit of our merits is seen right here," and with minds even more serene, they took turns riding the elephant and discussed, "Now we must perform even more merit. What should we do?
Họ nghĩ: “Ngay tại đây, quả báo của phước thiện chúng ta đã làm đã được thấy rõ,” lòng càng thêm hoan hỷ, tâm ý trong sáng. Họ thay phiên nhau cưỡi voi đi lại và bàn bạc với nhau: “Bây giờ chúng ta nên làm thêm nhiều phước thiện hơn nữa. Chúng ta nên làm gì đây?”
Catumahāpathe thāvaraṃ katvā mahājanassa vissamanasālaṃ karissāmā’’ti.
We will build a permanent rest hall for the public at the crossroad."
“Chúng ta hãy xây một nhà nghỉ kiên cố ở ngã tư đường để cho đại chúng nghỉ ngơi.”
Te vaḍḍhakiṃ pakkosāpetvā sālaṃ paṭṭhapesuṃ.
They summoned a carpenter and started building the hall.
Họ cho gọi thợ mộc đến và xây dựng một hội trường.
Mātugāmesu pana vigatacchandatāya tassā sālāya mātugāmānaṃ pattiṃ nādaṃsu.
However, being displeased with women, they did not grant women a share in that hall.
Nhưng vì không có ý muốn đối với phụ nữ, họ đã không chia phần công đức của hội trường đó cho phụ nữ.
806
Maghassa pana gehe nandā, cittā, sudhammā, sujāti catasso itthiyo honti.
Magha had four wives: Nanda, Citta, Sudhammā, and Sujātī.
Trong nhà của Magha, có bốn người phụ nữ là Nandā, Cittā, Sudhammā và Sujā.
Tāsu sudhammā vaḍḍhakinā saddhiṃ ekato hutvā, ‘‘bhātika, imissā sālāya maṃ jeṭṭhikaṃ karohī’’ti vatvā lañjaṃ adāsi.
Among them, Sudhammā, colluding with the carpenter, said, "Brother, make me the chief of this hall," and gave him a bribe.
Trong số đó, Sudhammā đã cùng với người thợ mộc, nói rằng: “Anh ơi, hãy để tôi làm chủ quản của hội trường này,” rồi đưa hối lộ.
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā paṭhamameva kaṇṇikatthāya rukkhaṃ sukkhāpetvā tacchetvā vijjhitvā kaṇṇikaṃ niṭṭhāpetvā, ‘‘sudhammā nāma ayaṃ sālā’’ti akkharāni chinditvā vatthena paliveṭhetvā ṭhapesi.
He accepted, saying, "Very well," and first dried, trimmed, and carved a tree for the finial, completing it. Then, he carved the words "This hall is named Sudhammā" and wrapped it with cloth, setting it aside.
Người thợ mộc đáp: “Được thôi,” rồi chấp thuận, trước tiên cho cây khô đi, đẽo gọt, đục lỗ để hoàn thành chóp mái, sau đó khắc chữ “Hội trường này tên là Sudhammā” lên đó, rồi quấn vải lại và đặt sang một bên.
Atha ne vaḍḍhakī sālaṃ niṭṭhāpetvā kaṇṇikāropanadivase ‘‘aho, ayyā, ekaṃ karaṇīyaṃ na sarimhā’’ti āha.
Then, after completing the hall, on the day of placing the finial, the carpenter said to them, "Alas, masters, we forgot one task!"
Sau đó, khi người thợ mộc đã hoàn thành hội trường, vào ngày dựng chóp mái, ông ta nói với họ: “Ôi, các ngài, chúng ta đã quên một việc cần làm.”
‘‘Kiṃ nāma, bho’’ti?
"What is it, friend?"
“Việc gì vậy, ông?”
‘‘Kaṇṇika’’nti.
"The finial."
“Chóp mái.”
‘‘Hotu taṃ āharissāmā’’ti.
"Let it be, we will bring it."
“Được rồi, chúng tôi sẽ mang nó đến.”
‘‘Idāni chinnarukkhena kātuṃ na sakkā, pubbeyeva taṃ chinditvā tacchetvā vijjhitvā ṭhapitakaṇṇikā laddhuṃ vaṭṭatī’’ti.
"It cannot be made from a freshly cut tree now. It is proper to obtain a finial that was cut, trimmed, carved, and set aside beforehand."
“Bây giờ không thể làm bằng cây đã đốn được, phải tìm một chóp mái đã được đốn, đẽo gọt và đục lỗ từ trước.”
‘‘Idāni kiṃ kātabba’’nti?
"What should be done now?"
“Vậy bây giờ phải làm gì?”
‘‘Sace kassaci gehe niṭṭhāpetvā ṭhapitā vikkāyikakaṇṇikā atthi, sā pariyesitabbā’’ti.
"If there is a finial for sale, already completed and set aside in anyone's house, it should be sought."
“Nếu có chóp mái nào đã hoàn thành và để sẵn để bán ở nhà ai đó, thì phải tìm nó.”
Te pariyesantā sudhammāya gehe disvā sahassaṃ datvāpi mūlena na labhiṃsu.
Searching, they found one in Sudhammā's house, but they could not obtain it even for a thousand.
Họ tìm kiếm và thấy ở nhà của Sudhammā, nhưng dù trả một ngàn đồng cũng không mua được.
‘‘Sace maṃ sālāya pattiṃ karotha, dassāmī’’ti vutte pana ‘‘mayaṃ mātugāmānaṃ pattiṃ na dammā’’ti āhaṃsu.
When she said, "If you make me a shareholder in the hall, I will give it," they replied, "We do not give shares to women."
Khi cô ấy nói: “Nếu các ngài cho tôi một phần trong hội trường, tôi sẽ đưa,” thì họ đáp: “Chúng tôi không chia phần cho phụ nữ.”
807
Atha ne vaḍḍhakī āha – ‘‘ayyā, tumhe kiṃ kathetha, ṭhapetvā brahmalokaṃ aññaṃ mātugāmarahitaṭṭhānaṃ nāma natthi, gaṇhatha kaṇṇikaṃ.
Then the carpenter said to them, "Masters, what are you saying? Apart from the Brahmaloka, there is no place free of women. Take the finial.
Sau đó, người thợ mộc nói với họ: “Các ngài nói gì vậy? Ngoài cõi Phạm thiên, không có nơi nào không có phụ nữ. Hãy lấy chóp mái đi.
Evaṃ sante amhākaṃ kammaṃ niṭṭhaṃ gamissatī’’ti.
If you do so, our work will be finished."
Nếu vậy, công việc của chúng ta sẽ hoàn thành.”
Te ‘‘sādhū’’ti kaṇṇikaṃ gahetvā sālaṃ niṭṭhāpetvā tidhā vibhajiṃsu.
They said, "Very well," took the finial, completed the hall, and divided it into three sections.
Họ nói: “Được thôi,” rồi lấy chóp mái, hoàn thành hội trường và chia làm ba phần.
Ekasmiṃ koṭṭhāse issarānaṃ vasanaṭṭhānaṃ kariṃsu, ekasmiṃ duggatānaṃ, ekasmiṃ gilānānaṃ.
In one section, they made a dwelling place for the powerful, in another for the poor, and in another for the sick.
Một phần họ làm nơi ở cho những người quyền quý, một phần cho những người nghèo khổ, và một phần cho những người bệnh tật.
Tettiṃsa janā tettiṃsa phalakāni paññapetvā hatthissa saññaṃ adaṃsu – ‘‘āgantuko āgantvā yassa atthataphalake nisīdati, taṃ gahetvā phalakasāmikasseva gehe patiṭṭhapehi, tassa pādaparikammapiṭṭhiparikammapānīyakhādanīyabhojanīyasayanāni sabbāni phalakasāmikasseva bhāro bhavissatī’’ti.
The thirty-three men laid out thirty-three planks and gave a sign to the elephant: "When a visitor comes and sits on the plank that is spread, take that person and escort them to the house of the plank's owner. The foot massage, back massage, drinks, food, meals, and beds—all will be the responsibility of that plank's owner."
Ba mươi ba người đã trải ba mươi ba tấm ván và ra hiệu cho con voi: “Khi một vị khách đến và ngồi trên tấm ván đã trải của ai, hãy đưa vị khách đó về nhà của chính chủ ván, mọi việc như xoa bóp chân, xoa bóp lưng, nước uống, đồ ăn, thức ăn, chỗ ngủ của vị khách đó sẽ là trách nhiệm của chính chủ ván.”
Hatthī āgatāgataṃ gahetvā phalakasāmikasseva gharaṃ neti.
The elephant would take each arriving visitor and lead them to the house of the plank's owner.
Con voi đưa mỗi vị khách đến nhà của chính chủ ván.
So tassa taṃ divasaṃ kattabbaṃ karoti.
That owner would then perform whatever was to be done for the visitor that day.
Người chủ ván làm những việc cần làm cho vị khách đó trong ngày hôm ấy.
Magho sālāya avidūre koviḷārarukkhaṃ ropetvā tassa mūle pāsāṇaphalakaṃ atthari.
Magha planted a Koviḷāra tree not far from the hall and spread a stone slab at its root.
Magha trồng một cây hoa ban (koviḷāra) gần hội trường và trải một tấm đá phiến dưới gốc cây.
Sālaṃ paviṭṭhapaviṭṭhā janā kaṇṇikaṃ oloketvā akkharāni vācetvā, ‘‘sudhammā nāmesā sālā’’ti vadanti.
People who entered the hall would look at the finial, have the letters read, and say, "This hall is named Sudhammā."
Những người vào hội trường nhìn chóp mái, đọc các chữ khắc và nói: “Hội trường này tên là Sudhammā.”
Tettiṃsajanānaṃ nāmaṃ na paññāyati.
The names of the thirty-three men were not evident.
Tên của ba mươi ba người kia không được biết đến.
Nandā cintesi – ‘‘ime sālaṃ karontā amhe apattikā kariṃsu, sudhammā pana attano byattatāya kaṇṇikaṃ katvā pattikā jātā, mayāpi kiñci kātuṃ vaṭṭati, kiṃ nu kho karissāmī’’ti?
Nanda thought, "These men, when building the hall, excluded us. But Sudhammā, through her cleverness, made the finial and became a shareholder. I must also do something. What should I do?"
Nandā suy nghĩ: “Những người này khi xây hội trường đã không cho chúng ta phần công đức, nhưng Sudhammā nhờ sự khéo léo của mình đã làm chóp mái và có phần công đức. Mình cũng nên làm gì đó, không biết nên làm gì đây?”
Athassā etadahosi – ‘‘sālaṃ āgatāgatānaṃ pānīyañceva nhānodakañca laddhuṃ vaṭṭati, pokkharaṇiṃ khaṇāpessāmī’’ti.
Then it occurred to her, "Visitors to the hall should have access to drinking water and bathing water. I will have a pond dug."
Rồi cô ấy nghĩ: “Những người đến hội trường cần có nước uống và nước tắm, mình sẽ cho đào một cái ao.”
Sā pokkharaṇiṃ kāresi.
She had a pond made.
Cô ấy đã cho đào một cái ao.
Cittā cintesi – ‘‘sudhammāya kaṇṇikā dinnā, nandāya pokkharaṇī kāritā, mayāpi kiñci kātuṃ vaṭṭati, kiṃ nu kho karissāmī’’ti?
Cittā thought, "Sudhammā gave the finial, and Nanda had a pond made. I must also do something. What should I do?"
Cittā suy nghĩ: “Sudhammā đã cúng dường chóp mái, Nandā đã cho đào ao, mình cũng nên làm gì đó, không biết nên làm gì đây?”
Athassā etadahosi – ‘‘sālaṃ āgatāgatehi pānīyaṃ pivitvā nhatvā gamanakālepi mālaṃ pilandhitvā gantuṃ vaṭṭati, pupphārāmaṃ kārāpessāmī’’ti.
Then it occurred to her, "Visitors to the hall, after drinking and bathing, should be able to adorn themselves with garlands when they leave. I will have a flower garden made."
Rồi cô ấy nghĩ: “Những người đến hội trường, sau khi uống nước và tắm rửa, khi ra về cũng nên đeo vòng hoa, mình sẽ cho xây một vườn hoa.”
Sā ramaṇīyaṃ pupphārāmaṃ kāresi.
She had a beautiful flower garden made.
Cô ấy đã xây một vườn hoa đẹp đẽ.
Yebhuyyena tasmiṃ ārāme ‘‘asuko nāma pupphūpagaphalūpagarukkho natthī’’ti nāhosi.
Generally, there was no flower-bearing or fruit-bearing tree in that garden that was not present.
Hầu như trong vườn hoa đó không có cây nào mà người ta nói rằng “không có cây ra hoa hay cây ăn quả như vậy.”
808
Sujā pana ‘‘ahaṃ maghassa mātuladhītā ceva pādaparicārikā ca, etena kataṃ kammaṃ mayhameva, mayā kataṃ etassevā’’ti cintetvā, kiñci akatvā attabhāvameva maṇḍayamānā kālaṃ vītināmesi.
However, Sujā, thinking, "I am Magha's maternal cousin and his personal attendant; the work done by him belongs to me, and what I do belongs to him," did nothing but spent her time adorning herself.
Còn Sujā thì nghĩ: “Ta là cháu gái của cậu Magha và là người hầu cận của anh ấy, công việc anh ấy làm là của ta, công việc ta làm là của anh ấy,” rồi không làm gì cả mà chỉ lo trang điểm cho bản thân, và cứ thế thời gian trôi qua.
Maghopi mātāpituupaṭṭhānaṃ kule jeṭṭhāpacāyanakammaṃ saccavācaṃ apharusavācaṃ api, suṇavācaṃ maccheravinayaṃ akkodhananti imāni satta vatapadāni pūretvā –
Magha also fulfilled these seven vows: attending to parents, revering elders in the family, speaking truthfully, speaking gently, speaking no divisive speech, overcoming stinginess, and being free from anger—
Magha cũng đã hoàn thành bảy giới hạnh này: phụng dưỡng cha mẹ, kính trọng người lớn trong gia đình, nói lời chân thật, không nói lời thô tục, không nói lời đâm thọc, loại bỏ sự keo kiệt, và không sân hận –
809
‘‘Mātāpettibharaṃ jantuṃ, kule jeṭṭhāpacāyinaṃ;
“A being who supports mother and father, revering the elders in the family;
“Người phụng dưỡng cha mẹ, kính trọng người lớn trong gia đình,
810
Saṇhaṃ sakhilasambhāsaṃ, pesuṇeyyappahāyinaṃ.
Gentle, with kindly speech, abandoning slander.
Nói lời dịu dàng, hòa nhã, từ bỏ lời nói đâm thọc,
811
‘‘Maccheravinaye yuttaṃ, saccaṃ kodhābhibhuṃ naraṃ;
A person devoted to the suppression of stinginess, truthful, overcoming anger;
Người tinh tấn diệt trừ keo kiệt, nói lời chân thật, không bị sân hận chế ngự;
812
Taṃ ve devā tāvatiṃsā, āhu ‘sappuriso’itī’’ti.(saṃ. ni. 1.257) –
Such a one, truly, the Tāvatiṃsa devas call ‘a good person’.
Chư thiên cõi Tam Thập Tam (Tāvatiṃsa) gọi người ấy là ‘bậc thiện nhân’.”
813
Evaṃ pasaṃsiyabhāvaṃ āpajjitvā jīvitapariyosāne tāvatiṃsabhavane sakko devarājā hutvā nibbatti, tepissa sahāyakā tattheva nibbattiṃsu, vaḍḍhakī vissakammadevaputto hutvā nibbatti.
Thus, having attained a state of being praised, at the end of his life, Sakka became the king of devas in the Tāvatiṃsa realm, and his companions were also reborn there. The carpenter was reborn as the devaputta Vissakamma.
Sau khi đạt được trạng thái đáng khen ngợi như vậy, khi kết thúc cuộc đời, Magha đã tái sinh làm Sakka, vua chư thiên, trong cõi Tam Thập Tam (Tāvatiṃsa); những người bạn của ông cũng tái sinh ở đó; người thợ mộc tái sinh làm thiên tử Vissakamma.
Tadā tāvatiṃsabhavane asurā vasanti.
At that time, the asuras dwelt in the Tāvatiṃsa realm.
Khi đó, các A-tu-la (asura) đang sống trong cõi Tam Thập Tam.
Te ‘‘abhinavā devaputtā nibbattā’’ti dibbapānaṃ sajjayiṃsu.
Thinking, “New devaputtas have been reborn,” they prepared divine drink.
Họ nghĩ: “Các thiên tử mới đã tái sinh,” rồi chuẩn bị thức uống thần thánh.
Sakko attano parisāya kassaci apivanatthāya saññamadāsi.
Sakka gave a sign to his retinue not to drink any of it.
Sakka ra hiệu cho tùy tùng của mình không ai được uống.
Asurā dibbapānaṃ pivitvā majjiṃsu.
The asuras drank the divine drink and became intoxicated.
Các A-tu-la uống thức uống thần thánh và say sưa.
Sakko ‘‘kiṃ me imehi sādhāraṇena rajjenā’’ti attano parisāya saññaṃ datvā te pādesu gāhāpetvā mahāsamudde khipāpesi.
Sakka, thinking, “What good is this shared kingship to me with these asuras?” gave a sign to his retinue, had them seized by the feet, and cast them into the great ocean.
Sakka nghĩ: “Ta cần gì một vương quốc chung với những kẻ này?” rồi ra hiệu cho tùy tùng của mình, bắt họ nắm chân các A-tu-la và ném xuống đại dương.
Te avaṃsirā samudde patiṃsu.
They fell headfirst into the ocean.
Các A-tu-la rơi xuống biển với đầu chúc xuống.
Atha nesaṃ puññānubhāvena sineruno heṭṭhimatale asuravimānaṃ nāma nibbatti, cittapāṭali nāma nibbatti.
Then, through the power of their merit, an asura abode named Asuravimāna was created at the bottom of Mount Sineru, and the Cittapāṭali tree was created.
Sau đó, nhờ năng lực phước báu của họ, một cung điện A-tu-la tên là Asuravimāna đã xuất hiện ở tầng thấp nhất của núi Sineru, cùng với cây Cittapāṭali.
814
Devāsurasaṅgāme pana asuresu parājitesu dasayojanasahassaṃ tāvatiṃsadevanagaraṃ nāma nibbatti.
However, when the asuras were defeated in the war between devas and asuras, a deva city named Tāvatiṃsa Devanagara, ten thousand yojanas in extent, was created.
Trong trận chiến giữa chư thiên và A-tu-la, khi các A-tu-la bị đánh bại, thành phố chư thiên Tāvatiṃsa, rộng mười ngàn dojana, đã xuất hiện.
Tassa pana nagarassa pācīnapacchimadvārānaṃ antarā dasayojanasahassaṃ hoti, tathā dakkhiṇuttaradvārānaṃ.
The distance between the eastern and western gates of that city was ten thousand yojanas, and similarly between the northern and southern gates.
Khoảng cách giữa cổng phía đông và phía tây của thành phố đó là mười ngàn dojana, và giữa cổng phía nam và phía bắc cũng vậy.
Taṃ kho pana nagaraṃ dvārasahassayuttaṃ ahosi ārāmapokkharaṇipaṭimaṇḍitaṃ.
That city was adorned with a thousand gates, gardens, and ponds.
Thành phố đó có một ngàn cổng, được trang hoàng bằng các vườn và ao hồ.
Tassa majjhe sālāya nissandena tiyojanasatubbedhehi dhajehi paṭimaṇḍito sattaratanamayo sattayojanasatubbedho vejayanto nāma pāsādo uggañchi.
In the middle of it, as a result of the hall (sālā), there arose a palace named Vejayanta, seven hundred yojanas high, made of seven precious gems, adorned with banners three hundred yojanas high.
Ở giữa thành phố đó, nhờ công đức của hội trường, một cung điện tên là Vejayanta, cao bảy trăm dojana, làm bằng bảy loại ngọc quý, được trang trí bằng các lá cờ cao ba trăm dojana, đã mọc lên.
Suvaṇṇayaṭṭhīsu maṇidhajā ahesuṃ, maṇiyaṭṭhīsu suvaṇṇadhajā; pavāḷayaṭṭhīsu muttadhajā, muttayaṭṭhīsu pavāḷadhajā; sattaratanamayāsu yaṭṭhīsu sattaratanadhajā, majjhe ṭhito dhajo tiyojanasatubbedho ahosi.
On golden poles were gem-banners, on gem-poles were golden banners; on coral poles were pearl-banners, on pearl-poles were coral banners; on poles made of seven precious gems were banners made of seven precious gems. The central banner was three hundred yojanas high.
Trên các cột cờ bằng vàng có cờ ngọc, trên các cột cờ bằng ngọc có cờ vàng; trên các cột cờ bằng san hô có cờ ngọc trai, trên các cột cờ bằng ngọc trai có cờ san hô; trên các cột cờ làm bằng bảy loại ngọc quý có cờ làm bằng bảy loại ngọc quý; lá cờ ở giữa cao ba trăm dojana.
Iti sālāya nissandena yojanasahassubbedho pāsādo sattaratanamayova hutvā nibbatti, koviḷārarukkhassa nissandena samantā tiyojanasataparimaṇḍalo pāricchattako nibbatti, pāsāṇaphalakassa nissandena pāricchattakamūle dīghato saṭṭhiyojanā puthulato paṇṇāsayojanā bahalato pañcadasayojanā jayasumanarattakambalavaṇṇā paṇḍukambalasilā nibbatti.
Thus, as a result of the hall, a thousand-yojana high palace, entirely of seven precious gems, was created. As a result of the Kovilāra tree (Pāricchattaka), a Pāricchattaka tree three hundred yojanas in circumference was created all around. As a result of the stone slab, at the root of the Pāricchattaka tree, the Paṇḍukambalasilā stone slab, sixty yojanas long, fifty yojanas wide, and fifteen yojanas thick, with the color of a red hibiscus flower and a red blanket, was created.
Như vậy, nhờ công đức của hội trường, cung điện cao một ngàn dojana đã xuất hiện, hoàn toàn làm bằng bảy loại ngọc quý; nhờ công đức của cây hoa ban (koviḷāra), cây Pāricchattaka, chu vi ba trăm dojana, đã xuất hiện xung quanh; nhờ công đức của tấm đá phiến, một tấm đá Paṇḍukambalāsilā, màu đỏ như hoa dâm bụt (jayasumana) và vải len đỏ (rattakambala), dài sáu mươi dojana, rộng năm mươi dojana, dày mười lăm dojana, đã xuất hiện dưới gốc cây Pāricchattaka.
Tattha nisinnakāle upaḍḍhakāyo pavisati, uṭṭhitakāle ūnaṃ paripūrati.
When one sat on it, half the body would sink in, and when one stood up, the sunken part would fill up again.
Khi ngồi trên đó, nửa thân chìm xuống; khi đứng lên, phần chìm xuống lại đầy lên.
815
Hatthī pana erāvaṇo nāma devaputto hutvā nibbatti.
The elephant, however, was reborn as a devaputta named Erāvaṇa.
Còn con voi thì tái sinh làm thiên tử tên là Erāvaṇa.
Devalokasmiñhi tiracchānagatā na honti.
Indeed, there are no animals in the deva world.
Thật vậy, trong cõi trời không có loài súc sinh.
Tasmā so uyyānakīḷāya nikkhamanakāle attabhāvaṃ vijahitvā diyaḍḍhayojanasatiko erāvaṇo nāma hatthī ahosi.
Therefore, when he went out for recreation in the garden, he transformed himself, abandoning his deva-body, into an elephant named Erāvaṇa, one hundred and fifty yojanas tall.
Vì vậy, khi thiên tử đó xuất hành đi dạo trong vườn, ngài đã từ bỏ thân thiên tử và hiện thành một con voi tên là Erāvaṇa, cao một trăm rưỡi dojana.
So tettiṃsajanānaṃ atthāya tettiṃsa kumbhe māpesi āvaṭṭena tigāvutaaḍḍhayojanappamāṇe, sabbesaṃ majjhe sakkassa atthāya sudassanaṃ nāma tiṃsayojanikaṃ kumbhaṃ māpesi.
He created thirty-three heads for thirty-three devas, each three gāvutas and half a yojana in circumference, and in the middle of all of them, he created a Sudassana head, thirty yojanas in size, for Sakka.
Con voi đó đã tạo ra ba mươi ba vòm che cho ba mươi ba vị thiên tử, mỗi vòm có chu vi ba gāvuta và nửa dojana, và ở giữa tất cả, nó đã tạo ra một vòm che tên là Sudassana, rộng ba mươi dojana, dành cho Sakka.
Tassa upari dvādasayojaniko ratanamaṇḍapo hoti.
Above that head was a gem-pavilion twelve yojanas high.
Trên vòm che đó có một lều ngọc (ratanamaṇḍapa) rộng mười hai dojana.
Tattha antarantarā sattaratanamayā yojanubbedhā dhajā uṭṭhahanti.
In between, flags made of seven precious gems, one yojana high, stood upright.
Ở giữa đó, các lá cờ bằng bảy loại ngọc quý, cao một dojana, mọc lên.
Pariyante kiṅkiṇikajālaṃ olambati.
At the edge, a net of small bells hung down.
Ở rìa có một mạng lưới chuông nhỏ (kiṅkiṇikajāla) treo lủng lẳng.
Yassa mandavāteritassa pañcaṅgikatūriyasaddasaṃmisso dibbagītasaddo viya ravo niccharati.
When stirred by a gentle breeze, it emitted a sound like a divine song mingled with the sound of a five-part musical instrument.
Khi gió nhẹ thổi qua, từ đó phát ra âm thanh như tiếng nhạc trời hòa quyện với âm thanh của năm loại nhạc cụ.
Maṇḍapamajjhe sakkassatthāya yojaniko maṇipallaṅko paññatto hoti, tattha sakko nisīdi.
In the middle of the pavilion, a gem-couch one yojana in size was arranged for Sakka, where Sakka sat.
Ở giữa đại sảnh, một bảo tọa bằng ngọc kích thước một do tuần được sắp đặt cho Sakka, và Sakka đã ngồi lên đó.
Tettiṃsa devaputtā attano kumbhe ratanapallaṅke nisīdiṃsu.
The thirty-three devaputtas sat on gem-couches in their respective heads.
Ba mươi ba vị thiên tử ngồi trên các bảo tọa bằng ngọc trên các đỉnh (cung điện) của riêng họ.
Tettiṃsāya kumbhānaṃ ekekasmiṃ kumbhe satta satta dante māpesi.
On each of the thirty-three heads, he created seven tusks.
Trên mỗi đỉnh (cung điện) trong số ba mươi ba đỉnh, Ngài đã tạo ra bảy chiếc ngà.
Tesu ekeko paṇṇāsayojanāyāmo, ekekasmiñcettha dante satta satta pokkharaṇiyo honti, ekekāya pokkharaṇiyā satta satta paduminīgacchāni, ekekasmiṃ gacche satta satta pupphāni honti, ekekasmiṃ pupphe satta satta pattāni, ekekasmiṃ patte satta satta devadhītaro naccanti.
Each of these tusks was fifty yojanas long, and on each tusk, there were seven ponds. In each pond, there were seven lotus bushes, and on each bush, there were seven flowers. On each flower, there were seven petals, and on each petal, seven devadhītās danced.
Trong số đó, mỗi chiếc ngà dài năm mươi do tuần, và trên mỗi chiếc ngà có bảy hồ sen; trên mỗi hồ sen có bảy khóm sen; trên mỗi khóm có bảy bông hoa; trên mỗi bông hoa có bảy cánh; và trên mỗi cánh có bảy thiên nữ đang múa.
Evaṃ samantā paṇṇāsayojanaṭhānesu hatthidantesuyeva naṭasamajjā honti.
Thus, around the fifty-yojana areas, performance assemblies took place solely on the elephant's tusks.
Như vậy, các buổi biểu diễn của các vũ công thiên giới diễn ra trên các ngà voi tại các địa điểm rộng năm mươi do tuần xung quanh.
Evaṃ mahantaṃ yasaṃ anubhavanto sakko devarājā vicarati.
In this way, Sakka, the king of devas, lived experiencing immense glory.
Như thế, Sakka, vua chư thiên, sống với sự vinh quang lớn lao như vậy.
816
Sudhammāpi kālaṃ katvā gantvā tattheva nibbatti.
Sudhammā also passed away and was reborn there. For her, a divine assembly hall named Sudhammā, nine hundred yojanas in size, was created.
Sudhammā cũng từ trần và tái sinh ở đó (cõi trời Tāvatiṃsa).
Tassā sudhammā nāma nava yojanasatikā devasabhā nibbatti.
For her, a divine assembly hall named Sudhammā, nine hundred yojanas in extent, came into existence.
Một hội trường thiên giới tên Sudhammā, rộng chín trăm do tuần, đã xuất hiện cho nàng.
Tato ramaṇīyataraṃ kira aññaṃ ṭhānaṃ nāma natthi, māsassa aṭṭha divase dhammassavanaṃ tattheva hoti.
Indeed, there is no other place more delightful than that divine assembly hall; listening to the Dhamma takes place there for eight days a month.
Nghe nói không có nơi nào đẹp hơn nơi đó, và việc nghe Pháp diễn ra ở đó tám ngày mỗi tháng.
Yāvajjatanā aññataraṃ ramaṇīyaṃ ṭhānaṃ disvā, ‘‘sudhammā devasabhā viyā’’ti vadanti.
Even today, when people see another delightful place, they say, “It is like the Sudhammā divine assembly hall.”
Cho đến ngày nay, khi thấy một nơi nào đó đẹp đẽ, người ta nói: “Giống như hội trường thiên giới Sudhammā vậy!”
Nandāpi kālaṃ katvā gantvā tattheva nibbatti, tassā pañcayojanasatikā nandā nāma pokkharaṇī nibbatti.
Nandā also passed away and was reborn there. For her, a pond named Nandā, five hundred yojanas in size, was created.
Nandā cũng từ trần và tái sinh ở đó, một hồ sen tên Nandā, rộng năm trăm do tuần, đã xuất hiện cho nàng.
Cittāpi kālaṃ katvā gantvā tattheva nibbatti, tassāpi pañcayojanasatikaṃ cittalatāvanaṃ nāma nibbatti, tattha uppannapubbanimitte devaputte netvā mohayamānā vicaranti.
Cittā also passed away and was reborn there. For her, a pleasure grove named Cittalatāvana, five hundred yojanas in size, was created, where devaputtas, having seen omens that arose there, would lead them away and delude them.
Cittā cũng từ trần và tái sinh ở đó, một khu rừng dây leo tên Cittalatāvana, rộng năm trăm do tuần, cũng đã xuất hiện cho nàng, nơi các thiên nữ dẫn dắt và mê hoặc các thiên tử bằng những điềm báo trước xuất hiện ở đó.
Sujā pana kālaṃ katvā ekissā girikandarāya ekā bakasakuṇikā hutvā nibbatti.
Sujā, however, passed away and was reborn as a female crane in a certain mountain cave.
Còn Sujā thì từ trần và tái sinh thành một con cò cái trong một hang núi.
Sakko attano paricārikā olokento ‘‘sudhammā idheva nibbattā, tathā nandā ca cittā ca, sujā nu kho kuhiṃ nibbattā’’ti cintento taṃ tattha nibbattaṃ disvā, ‘‘bālā kiñci puññaṃ akatvā idāni tiracchānayoniyaṃ nibbattā, idāni pana taṃ puññaṃ kāretvā idhānetuṃ vaṭṭatī’’ti attabhāvaṃ vijahitvā aññātakavesena tassā santikaṃ gantvā, ‘‘kiṃ karontī idha vicarasī’’ti pucchi.
Sakka, looking for his female attendants, thought, “Sudhammā was reborn here, and so were Nandā and Cittā. But where was Sujā reborn?” Seeing her reborn there, he thought, “This foolish one, having done no merit, is now reborn in the animal realm. Now it is proper to make her perform merit and bring her here.” So, abandoning his own deva-form, he went to her in an unknown guise and asked, “What are you doing wandering here?”
Sakka, khi quan sát các thị nữ của mình, suy nghĩ: “Sudhammā đã tái sinh ở đây, Nandā và Cittā cũng vậy, còn Sujā thì tái sinh ở đâu?” Khi thấy nàng tái sinh ở đó, Ngài nghĩ: “Người ngu này không làm chút công đức nào nên bây giờ tái sinh vào loài súc sanh. Bây giờ ta nên khiến nàng làm công đức và đưa nàng về đây.” Rồi Ngài từ bỏ thân tướng của mình, đến chỗ nàng dưới lốt một người lạ và hỏi: “Ngươi làm gì mà sống ở đây?”
‘‘Ko pana tvaṃ, sāmī’’ti?
“Who are you, my lord?”
“Thưa chủ nhân, ngài là ai?”
‘‘Ahaṃ te sāmiko magho’’ti.
“I am your husband, Magha.”
“Ta là Magha, chồng của ngươi.”
‘‘Kuhiṃ nibbattosi, sāmī’’ti?
“Where were you reborn, my lord?”
“Thưa chủ nhân, ngài tái sinh ở đâu?”
‘‘Ahaṃ tāvatiṃsadevaloke nibbatto’’.
“I was reborn in the Tāvatiṃsa deva realm.”
“Ta tái sinh ở cõi trời Tāvatiṃsa.”
‘‘Tava sahāyikānaṃ pana nibbattaṭṭhānaṃ jānāsī’’ti?
“Do you know the rebirth place of your companions?”
“Ngài có biết nơi tái sinh của các bạn nàng không?”
‘‘Na jānāmi, sāmī’’ti.
“I do not know, my lord,” she said.
“Thưa chủ nhân, tôi không biết.”
‘‘Tāpi mameva santike nibbattā, passissasi tā sahāyikā’’ti.
“They were also reborn near me. You will see those companions.”
“Họ cũng tái sinh ở chỗ ta. Ngươi sẽ gặp lại các bạn mình.”
‘‘Kathāhaṃ tattha gamissāmī’’ti?
“How shall I go there?”
“Làm sao tôi có thể đến đó được?”
Sakko ‘‘ahaṃ taṃ tattha nessāmī’’ti vatvā hatthatale ṭhapetvā devalokaṃ netvā nandāya pokkharaṇiyā tīre vissajjetvā itarāsaṃ tissannaṃ ārocesi – ‘‘tumhākaṃ sahāyikaṃ sujaṃ passissathā’’ti.
Sakka said, “I will take you there,” and placing her on his palm, he took her to the deva world, released her on the bank of Nandā pond, and announced to the other three, “You will see your companion Sujā.”
Sakka nói: “Ta sẽ đưa ngươi đến đó,” rồi đặt nàng lên lòng bàn tay, đưa nàng đến cõi trời, thả nàng xuống bờ hồ Nandā, và báo cho ba người kia biết: “Các ngươi sẽ thấy bạn mình là Sujā.”
‘‘Kuhiṃ sā, devā’’ti?
“Where is she, Lord?” they asked.
“Thưa chư thiên, nàng ở đâu?”
‘‘Nandāya pokkharaṇiyā tīre ṭhitā’’ti āha.
“She is standing on the bank of Nandā pond,” he said.
Ngài nói: “Nàng đang đứng ở bờ hồ Nandā.”
Tā tissopi gantvā, ‘‘aho ayyāya evarūpaṃ attabhāvamaṇḍanassa phalaṃ, idānissā tuṇḍaṃ passatha, pāde passatha, jaṅghā passatha, sobhati vatassā attabhāvo’’ti keḷiṃ katvā pakkamiṃsu.
All three of them went and, making fun of her, left, saying, “Oh, what a fruit of embellishing her body, lady! Now look at her beak, look at her feet, look at her shanks! How ugly her body is!”
Cả ba người đều đến và nói đùa: “Ôi, đây là quả báo của việc trang sức thân thể của vị phu nhân! Bây giờ hãy nhìn cái mỏ của nàng, nhìn đôi chân của nàng, nhìn cẳng chân của nàng! Thân thể của nàng thật là đẹp!” Rồi họ bỏ đi.
817
Puna sakko tassā santikaṃ gantvā, ‘‘diṭṭhā te sahāyikā’’ti vatvā ‘‘diṭṭhā maṃ uppaṇḍetvā gatā, tattheva maṃ nehī’’ti vutte taṃ tattheva netvā udake vissajjetvā, ‘‘diṭṭhā te tāsaṃ sampattī’’ti pucchi.
Then Sakka went to her again and said, “Did you see your companions?” When she replied, “I saw them; they mocked me and left. Please take me back there,” he took her back to that very place, released her into the water, and asked, “Did you see their prosperity?”
Sau đó, Sakka lại đến chỗ nàng và nói: “Ngươi đã thấy các bạn mình chưa?” Khi nàng đáp: “Tôi đã thấy họ chế giễu tôi rồi bỏ đi. Xin hãy đưa tôi về lại chỗ cũ,” Ngài liền đưa nàng về lại đó, thả nàng xuống nước, và hỏi: “Ngươi đã thấy sự giàu sang của họ chưa?”
‘‘Diṭṭhā, devā’’ti?
“Yes, Lord, I did,” she said.
“Thưa chư thiên, tôi đã thấy rồi.”
‘‘Tayāpi tattha nibbattanūpāyaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
“You too should strive to be reborn there.”
“Ngươi cũng nên làm cách nào để tái sinh ở đó.”
‘‘Kiṃ karomi, devā’’ti?
“What should I do, lord?”
“Thưa chư thiên, tôi phải làm gì?”
‘‘Mayā dinnaṃ ovādaṃ rakkhissasī’’ti.
“Will you protect the advice I have given?”
“Ngươi có giữ lời khuyên mà ta đã ban cho không?”
‘‘Rakkhissāmi, devā’’ti.
“I will protect it, lord.”
“Thưa chư thiên, tôi sẽ giữ.”
Athassā pañca sīlāni datvā, ‘‘appamattā rakkhāhī’’ti vatvā pakkāmi.
Then, having given her the five precepts, he said, “Guard them diligently,” and departed.
Rồi Ngài ban cho nàng năm giới và nói: “Hãy cẩn trọng giữ gìn!” Rồi Ngài bỏ đi.
Sā tato paṭṭhāya sayaṃmatamacchakeyeva pariyesitvā khādati.
From then on, she sought out and ate only fish that had died naturally.
Từ đó trở đi, nàng chỉ tìm những con cá tự chết mà ăn.
Sakko katipāhaccayena tassā vīmaṃsanatthāya gantvā, vālukāpiṭṭhe matamacchako viya hutvā uttāno nipajji.
After a few days, Sakka went to test her, and lay on his back on the sand, appearing like a dead fish.
Vài ngày sau, Sakka đến để thử nàng, Ngài nằm ngửa trên bãi cát như một con cá chết.
Sā taṃ disvā ‘‘matamacchako’’ti saññāya aggahesi.
Seeing him, she took him, perceiving him as a “dead fish.”
Nàng thấy vậy, tưởng là cá chết nên bắt lấy.
Maccho gilanakāle naṅguṭṭhaṃ cālesi.
As the fish was about to be swallowed, it wagged its tail.
Khi sắp nuốt, con cá quẫy đuôi.
Sā ‘‘sajīvamacchako’’ti udake vissajjesi.
She, realizing it was a “live fish,” released it into the water.
Nàng nghĩ: “Đây là cá sống,” rồi thả xuống nước.
So thokaṃ vītināmetvā puna tassā purato uttāno hutvā nipajji.
He waited a short while, then again lay on his back in front of her.
Ngài đợi một lát, rồi lại nằm ngửa trước mặt nàng.
Puna sā ‘‘matamacchako’’ti saññāya gahetvā gilanakāle agganaṅguṭṭhaṃ cālesi.
Again, she took him, perceiving him as a “dead fish,” and as she was about to swallow him, he wagged the tip of his tail.
Nàng lại tưởng là cá chết nên bắt lấy, khi sắp nuốt, nó lại quẫy đuôi.
Taṃ disvā ‘‘sajīvamaccho’’ti vissajjesi.
Seeing that, she released him, realizing it was a “live fish.”
Thấy vậy, nàng nghĩ: “Đây là cá sống,” rồi thả nó ra.
Evaṃ tikkhattuṃ vīmaṃsitvā ‘‘sādhukaṃ sīlaṃ rakkhatī’’ti attānaṃ jānāpetvā ‘‘ahaṃ tava vīmaṃsanatthāya āgato, sādhukaṃ sīlaṃ rakkhasi, evaṃ rakkhamānā na cirasseva mama santike nibbattissasi, appamattā hohī’’ti vatvā pakkāmi.
Having tested her three times in this manner, and having made himself known by saying, “She guards her precepts well,” he said, “I came to test you. You guard your precepts well. If you guard them thus, you will soon be reborn in my presence. Be diligent,” and then departed.
Sau khi thử nàng ba lần như vậy, Ngài tự cho mình biết rằng: “Nàng giữ giới rất tốt,” rồi nói: “Ta đến để thử ngươi. Ngươi giữ giới rất tốt. Nếu tiếp tục giữ như vậy, không lâu nữa ngươi sẽ tái sinh ở chỗ ta. Hãy cẩn trọng nhé!” Rồi Ngài bỏ đi.
818
Sā tato paṭṭhāya pana sayaṃmatamacchaṃ labhati vā, na vā.
From then on, she sometimes found naturally dead fish, and sometimes not.
Từ đó trở đi, nàng có thể tìm được cá tự chết hoặc không.
Alabhamānā katipāhaccayeneva sussitvā kālaṃ katvā tassa sīlassa phalena bārāṇasiyaṃ kumbhakārassa dhītā hutvā nibbatti.
Not getting it, she dried up in just a few days and passed away, and as a result of that virtue, she was reborn in Bārāṇasī as the daughter of a potter.
Nếu không tìm được, chỉ vài ngày sau nàng đã khô héo và từ trần, do quả báo của giới hạnh đó mà tái sinh làm con gái của một người thợ gốm ở Bārāṇasī.
Athassā pannarasasoḷasavassuddesikakāle sakko ‘‘kuhiṃ nu kho sā nibbattā’’ti āvajjento disvā, ‘‘idāni mayā tattha gantuṃ vaṭṭatī’’ti eḷālukavaṇṇena paññāyamānehi sattahi ratanehi yānakaṃ pūretvā taṃ pājento bārāṇasiṃ pavisitvā, ‘‘ammatātā, eḷālukāni gaṇhatha gaṇhathā’’ti ugghosento vīthiṃ paṭipajji.
Then, when she was about fifteen or sixteen years old, Sakka, reflecting, "Where was that female crane reborn?", saw her, and thinking, "Now I must go there," he filled a small vehicle with seven jewels appearing in the form of cucumbers, and driving it, he entered Bārāṇasī and proceeded along the street, shouting, "Mothers and fathers, take these cucumbers, take these cucumbers!"
Khi nàng khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, Sakka quán xét: “Nàng đã tái sinh ở đâu rồi?” Khi thấy nàng, Ngài nghĩ: “Bây giờ ta nên đến đó.” Ngài chất đầy một chiếc xe với bảy loại châu báu có hình dạng như dưa chuột, rồi lái xe đó vào Bārāṇasī, rao lên trên đường: “Thưa các bà, các ông, hãy mua dưa chuột! Hãy mua dưa chuột!”
Muggamāsādīni gahetvā āgate pana ‘‘mūlena na demī’’ti vatvā, ‘‘kathaṃ desī’’ti vutte, ‘‘sīlarakkhikāya itthiyā dammī’’ti āha.
But to those who came to take mung beans and other pulses, he said, "I do not sell them for money." When asked, "How do you sell them?", he replied, "I give them to a woman who observes sīla."
Khi những người đến mua đậu xanh, đậu đen, v.v. thì Ngài nói: “Ta không bán bằng tiền.” Khi họ hỏi: “Vậy ngài bán bằng cách nào?” Ngài đáp: “Ta bán cho người phụ nữ giữ giới.”
‘‘Sīlaṃ nāma, sāmi, kīdisaṃ, kiṃ kāḷaṃ, udāhu nīlādivaṇṇa’’nti?
"Lord, what kind of sīla is it? Is it black, or of a blue or other color?"
“Thưa chủ nhân, giới là gì? Nó có màu đen, hay màu xanh, v.v.?”
‘‘Tumhe ‘sīlaṃ kīdisa’ntipi na jānātha, kimeva naṃ rakkhissatha, sīlarakkhikāya pana dassāmī’’ti.
"You do not even know what sīla is; how will you observe it? I will give it only to a woman who observes sīla."
“Các ngươi còn không biết giới là gì, làm sao mà giữ được nó? Ta chỉ bán cho người giữ giới thôi.”
‘‘Sāmi, esā kumbhakārassa dhītā ‘sīlaṃ rakkhāmī’ti vicarati, etissā dehī’’ti.
"Lord, this potter's daughter goes about saying, 'I observe sīla'; give it to her."
“Thưa chủ nhân, con gái của người thợ gốm này đang giữ giới, xin hãy bán cho nàng.”
Sāpi naṃ ‘‘tena hi mayhaṃ dehi, sāmī’’ti āha.
She also said to him, "Then give them to me, Lord."
Nàng cũng nói với Ngài: “Vậy thì xin hãy bán cho tôi, thưa chủ nhân.”
‘‘Kāsi tva’’nti?
"Who are you?"
“Ngươi là ai?”
‘‘Ahaṃ avijahitapañcasīlā’’ti.
"I am one who has not abandoned the five precepts (pañcasīla)."
“Tôi là người không từ bỏ năm giới.”
‘‘Tuyhamevetāni mayā ānītānī’’ti yānakaṃ pājento tassā gharaṃ gantvā aññehi anāhariyaṃ katvā eḷālukavaṇṇena devadattiyaṃ dhanaṃ datvā attānaṃ jānāpetvā, ‘‘idaṃ te jīvitavuttiyā dhanaṃ, pañcasīlāni akhaṇḍādīni katvā rakkhāhī’’ti vatvā pakkāmi.
"These have been brought by me for you alone," he said, and driving the vehicle to her house, he made it impossible for others to take, gave her divine wealth in the form of cucumbers, revealed his identity, and saying, "This is wealth for your livelihood; observe the five precepts, making them unbroken and so on," he departed.
Sakka nói: “Đây là những thứ ta mang đến cho riêng ngươi,” rồi lái xe đến nhà nàng, trao cho nàng số tài sản do chư thiên ban tặng dưới dạng dưa chuột, mà người khác không thể mang đi được, tự cho nàng biết mình là ai, rồi nói: “Đây là tài sản để ngươi nuôi sống. Hãy giữ gìn năm giới không bị sứt mẻ, v.v.!” Rồi Ngài bỏ đi.
819
Sāpi tato cavitvā asurabhavane asurajeṭṭhakassa dhītā hutvā sakkassa verighare nibbatti.
She, too, having passed away from that existence, was reborn in the realm of the asuras as the daughter of the chief asura, in the enemy's house of Sakka.
Nàng cũng từ bỏ kiếp đó, tái sinh làm con gái của vị thủ lĩnh A-tu-la trong cõi A-tu-la, trong nhà kẻ thù của Sakka.
Dvīsu pana attabhāvesu sīlassa surakkhitattā abhirūpā ahosi suvaṇṇavaṇṇā asādhāraṇāya rūpasiriyā samannāgatā.
Because her sīla had been well-guarded in both existences, she was beautiful, golden-hued, and endowed with an extraordinary splendor of form.
Tuy nhiên, do giới hạnh được giữ gìn cẩn thận trong hai kiếp, nàng trở nên xinh đẹp, có màu da vàng óng, với vẻ đẹp phi thường.
Vepacittiasurindo āgatāgatānaṃ asurānaṃ ‘‘tumhe mama dhītu anucchavikā na hothā’’ti taṃ kassaci adatvā, ‘‘mama dhītā attanāva attano anucchavikaṃ sāmikaṃ gahessatī’’ti asurabalaṃ sannipātāpetvā, ‘‘tuyhaṃ anucchavikaṃ sāmikaṃ gaṇhā’’ti tassā, hatthe pupphadāmaṃ adāsi.
Vepacitti, the Asura King, not giving his daughter to any of the asuras who came, saying, "You are not suitable for my daughter," and thinking, "My daughter herself will choose a husband suitable for her," he assembled the asura host and gave a flower garland into her hand, saying, "Choose a husband suitable for you."
Vepacitti, vua A-tu-la, nói với các A-tu-la đến cầu hôn: “Các ngươi không xứng với con gái ta,” và không gả nàng cho ai. Ngài nghĩ: “Con gái ta sẽ tự chọn một người chồng xứng đáng với mình,” rồi triệu tập quân đội A-tu-la, trao vòng hoa vào tay nàng và nói: “Hãy chọn người chồng xứng đáng với ngươi.”
Tasmiṃ khaṇe sakko tassā nibbattaṭṭhānaṃ olokento taṃ pavattiṃ ñatvā, ‘‘idāni mayā gantvā taṃ ānetuṃ vaṭṭatī’’ti mahallakaasuravaṇṇaṃ nimminitvā gantvā parisapariyante aṭṭhāsi.
At that moment, Sakka, looking at the place where she was reborn, knew of the occurrence, and thinking, "Now I must go and bring her," he created the appearance of an old asura and went and stood at the edge of the assembly.
Vào lúc đó, Sakka quán xét nơi nàng tái sinh, biết được sự việc, Ngài nghĩ: “Bây giờ ta nên đến đó và đưa nàng về.” Ngài hóa phép thành một A-tu-la già, đến và đứng ở rìa đám đông.
Sāpi ito cito ca olokentī taṃ diṭṭhamattāva pubbasannivāsavasena uppannena pemena mahogheneva ajjhotthaṭahadayā hutvā, ‘‘eso me sāmiko’’ti tassa upari pupphadāmaṃ khipi.
She, looking hither and thither, as soon as she saw him, her heart was overwhelmed as if by a great flood of love that arose due to their former association, and saying, "This is my husband," she threw the flower garland over him.
Nàng nhìn quanh đây đó, vừa thấy Ngài, do nghiệp duyên đã sống chung từ kiếp trước, trái tim nàng ngập tràn tình yêu như một dòng lũ lớn, nàng nói: “Đây là chồng của ta,” rồi ném vòng hoa lên người Ngài.
Asurā ‘‘amhākaṃ rājā ettakaṃ kālaṃ dhītu anucchavikaṃ alabhitvā idāni labhi, ayamevassa dhītu pitāmahato mahallako anucchaviko’’ti lajjamānā apakkamiṃsu.
The asuras, ashamed, departed, saying, "Our king, who for so long could not find a suitable husband for his daughter, has now found one; this one is suitable for his daughter, older than a grandfather!"
Các A-tu-la (Asura) thì nói: “Vua của chúng ta đã không tìm được người chồng xứng đáng cho con gái mình trong suốt thời gian dài như vậy, giờ thì đã tìm được rồi, người này còn lớn tuổi hơn cả ông nội của con gái vua, thật xứng đáng!” rồi họ xấu hổ bỏ đi.
Sakkopi taṃ hatthe gahetvā ‘‘sakkohamasmī’’ti naditvā ākāse pakkhandi.
Sakka, taking her by the hand, roared, "I am Sakka!" and soared into the sky.
Sakka (Đế Thích) cũng nắm tay nàng, hô lớn: “Ta là Sakka đây!” rồi bay vút lên không trung.
Asurā ‘‘vañcitamhā jarasakkenā’’ti taṃ anubandhiṃsu.
The asuras pursued him, saying, "We have been deceived by the old Sakka!"
Các A-tu-la (Asura) nói: “Chúng ta đã bị lão Sakka lừa gạt!” rồi đuổi theo ngài.
Mātali, saṅgāhako vejayantarathaṃ āharitvā antarāmagge aṭṭhāsi.
Mātali, the charioteer, brought the Vejayanta chariot and stood in the middle of the road.
Mātali, người đánh xe, đã mang chiếc xe Vejayanta đến và đứng đợi giữa đường.
Sakko taṃ tattha āropetvā devanagarābhimukho pāyāsi.
Sakka placed her in it and proceeded towards the city of devas.
Sakka đưa nàng lên xe ở đó rồi hướng về thành phố chư Thiên mà đi.
Athassa sippalivanaṃ sampattakāle rathasaddaṃ sutvā bhītā garuḷapotakā viraviṃsu.
Then, when he reached the Silk-Cotton Forest, the young garuḷas, hearing the sound of the chariot, cried out in fear.
Bấy giờ, khi xe đến khu rừng sippali, những con chim Garuda non nghe tiếng xe thì hoảng sợ kêu la.
Tesaṃ saddaṃ sutvā sakko mātaliṃ pucchi – ‘‘ke ete viravantī’’ti?
Hearing their cries, Sakka asked Mātali, "Who are these crying out?"
Nghe tiếng của chúng, Sakka hỏi Mātali: “Những con chim này là ai mà kêu la vậy?”
‘‘Garuḷapotakā, devā’’ti.
"They are young garuḷas, Lord."
“Thưa Đại Thiên vương, đó là những con chim Garuda non.”
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
"For what reason?"
“Vì lý do gì?”
‘‘Rathasaddaṃ sutvā maraṇabhayenā’’ti.
"From fear of death, hearing the sound of the chariot."
“Vì sợ chết khi nghe tiếng xe.”
‘‘Maṃ ekaṃ nissāya ettako dijo rathavegena vicuṇṇito mā nassi, nivattehi ratha’’nti.
"Let not so many birds perish, crushed by the speed of the chariot because of me alone; turn back the chariot!"
“Vì một mình ta mà chừng ấy chim chóc bị nghiền nát bởi tốc độ của xe thì đừng để chúng bị hủy hoại. Hãy quay xe lại!”
Sopi sindhavasahassassa daṇḍakasaññaṃ datvā rathaṃ nivattesi.
He then gave the signal with the goad to the thousand Sindh horses and turned back the chariot.
Người đánh xe cũng ra hiệu bằng roi cho một ngàn con ngựa Sindhu rồi quay xe lại.
Taṃ disvā asurā ‘‘jarasakko asurapurato paṭṭhāya palāyanto idāni rathaṃ nivattesi, addhā tena upatthambho laddho bhavissatī’’ti nivattetvā āgamanamaggeneva asurapuraṃ pavisitvā puna sīsaṃ na ukkhipiṃsu.
Seeing that, the asuras thought, "The old Sakka, who was fleeing from the city of the asuras, has now turned back the chariot; surely he must have received support." So they turned back and entered the city of the asuras by the same path they came, and did not raise their heads again.
Thấy vậy, các A-tu-la (Asura) nghĩ: “Lão Sakka đã bỏ chạy từ thành A-tu-la (Asura) mà giờ lại quay xe lại, chắc chắn là ông ta đã nhận được sự hỗ trợ nào đó rồi,” rồi họ quay đầu xe, đi thẳng về thành A-tu-la (Asura) theo con đường cũ và không bao giờ ngẩng đầu lên nữa.
820
Sakkopi sujaṃ asurakaññaṃ devanagaraṃ netvā aḍḍhateyyānaṃ accharākoṭīnaṃ jeṭṭhikaṭṭhāne ṭhapesi.
Sakka then took Sujā, the asura maiden, to the city of devas and placed her in the position of chief among two and a half crores of celestial nymphs.
Sakka cũng đưa nàng Sujā, con gái của A-tu-la (Asura), về thành chư Thiên và đặt nàng vào vị trí trưởng của hai mươi lăm triệu tiên nữ.
Sā sakkaṃ varaṃ yāci – ‘‘mahārāja, mama imasmiṃ devaloke mātāpitaro vā bhātikabhaginiyo vā natthi, yattha yattha gacchasi, tattha tattha maṃ gahetvāva gaccheyyāsī’’ti.
She asked Sakka for a boon: "Great King, I have no parents, brothers, or sisters in this deva-world. Wherever you go, please take me with you."
Nàng đã cầu xin Sakka một điều ước: “Đại Thiên vương, ở cõi trời này con không có cha mẹ hay anh chị em nào cả, xin ngài đi đâu cũng hãy mang con theo đến đó.”
So ‘‘sādhū’’ti tassā paṭiññaṃ adāsi.
He said, "So be it," and granted her the promise.
Ngài đáp: “Được thôi,” và đã hứa với nàng.
Tato paṭṭhāya cittapāṭaliyā pupphitāya asurā ‘‘amhākaṃ nibbattaṭṭhāne dibbapāricchattakassa pupphanakālo’’ti yuddhatthāya saggaṃ abhiruhanti.
From that time onwards, when the coral tree (cittapāṭalī) blossomed, the Asuras ascended to the deva-world for battle, saying, "It is the time for the divine Pāricchattaka tree to blossom in our birthplace."
Từ đó về sau, khi cây Cittapāṭalī nở hoa, các A-tu-la (Asura) nói: “Đây là lúc cây Pāricchattaka thần thánh nở hoa ở nơi chúng ta sinh ra,” rồi họ kéo lên cõi trời để chiến đấu.
Sakko heṭṭhāsamudde nāgānaṃ ārakkhaṃ adāsi, tato supaṇṇānaṃ, tato kumbhaṇḍānaṃ, tato yakkhānaṃ.
Sakka assigned guards to the Nāgas in the lower ocean, then to the Supaṇṇas, then to the Kumbhaṇḍas, then to the Yakkhas.
Sakka đã đặt sự bảo vệ cho các Nāga ở dưới biển, sau đó là cho các Supaṇṇa, sau đó là cho các Kumbhaṇḍa, sau đó là cho các Yakkha.
Tato catunnaṃ mahārājānaṃ.
Then to the Four Great Kings.
Sau đó là cho bốn vị Đại Thiên vương.
Sabbūpari pana upaddavanivattanatthāya devanagaradvāresu vajirahatthā indapaṭimā ṭhapesi.
And at the very top, to avert dangers, he placed images of Sakka holding vajiras at the gates of the city of devas.
Nhưng ở trên cùng, tại các cổng thành chư Thiên, ngài đã đặt các tượng Indra cầm chày kim cương để ngăn chặn mọi tai họa.
Asurā nāgādayo jinitvā āgatāpi indapaṭimā dūrato disvā ‘‘sakko nikkhanto’’ti palāyanti.
Even when the Asuras defeated the Nāgas and others and arrived, upon seeing the images of Sakka from afar, they fled, thinking, "Sakka has come out."
Các A-tu-la (Asura), dù đã chiến thắng các Nāga và những vị khác để đến được đó, nhưng khi thấy các tượng Indra từ xa, họ liền nghĩ: “Sakka đã xuất hiện,” rồi bỏ chạy.
Evaṃ, mahāli, magho māṇavo appamādapaṭipadaṃ paṭipajji.
Thus, Mahāli, the young man Magha practiced the path of heedfulness.
Như vậy, Mahāli, Magha thanh niên đã thực hành con đường của sự không phóng dật.
Evaṃ appamatto panesa evarūpaṃ issariyaṃ patvā dvīsu devalokesu rajjaṃ kāresi.
Being so heedful, he attained such sovereignty and reigned in two deva-worlds.
Và với sự không phóng dật như vậy, người này đã đạt được quyền uy như thế và cai trị ở hai cõi trời.
Appamādo nāmesa buddhādīhi pasattho.
Heedfulness, indeed, is praised by the Buddhas and others.
Sự không phóng dật được các bậc Phật và những vị khác tán dương.
Appamādañhi nissāya sabbesampi lokiyalokuttarānaṃ visesānaṃ adhigamo hotīti vatvā imaṃ gāthamāha –
For it is by relying on heedfulness that all worldly and transcendent attainments are achieved. Having said this, he uttered this verse:
Vì nhờ sự không phóng dật mà tất cả những thành tựu thế gian và siêu thế đều có thể đạt được, sau khi nói vậy, Đức Phật đã đọc bài kệ này:
821
30.
30.
30.
822
‘‘Appamādena maghavā, devānaṃ seṭṭhataṃ gato;
"Through heedfulness, Maghavā attained supremacy among the devas;
“Do không phóng dật, Maghavā đã đạt được địa vị tối thượng trong số các chư Thiên;
823
Appamādaṃ pasaṃsanti, pamādo garahito sadā’’ti.
Heedfulness is praised, heedlessness is always censured."
Người trí tán dương sự không phóng dật, sự phóng dật luôn bị chê trách.”
824
Tattha appamādenāti macalagāme bhūmippadesasodhanaṃ ādiṃ katvā katena appamādena.
Therein, through heedfulness means through the heedfulness practiced, beginning with the clearing of the ground in Macala village.
Trong đó, do không phóng dật (appamādenā) có nghĩa là do sự không phóng dật đã được thực hiện, bắt đầu từ việc dọn dẹp khu đất ở làng Macala.
Maghavāti idāni ‘‘maghavā’’tipaññāto magho māṇavo dvinnaṃ devalokānaṃ rājabhāvena devānaṃ seṭṭhataṃ gato.
Maghavā refers to the young man Magha, now known as "Maghavā," who attained supremacy among the devas by being king of the two deva-worlds.
Maghavā (Maghavā) là Magha thanh niên, người hiện được biết đến với tên “Maghavā”, đã đạt được địa vị tối thượng trong số các chư Thiên với tư cách là vua của hai cõi trời.
Pasaṃsantīti buddhādayo paṇḍitā appamādameva thomenti vaṇṇayanti.
Praise means that the Buddhas and other wise ones commend and extol heedfulness.
Tán dương (pasaṃsanti) là các bậc hiền trí như chư Phật tán dương và ca ngợi sự không phóng dật.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Sabbesaṃ lokiyalokuttarānaṃ visesānaṃ paṭilābhakāraṇattā.
Because it is the cause for the attainment of all worldly and transcendent special qualities.
Vì đó là nguyên nhân để đạt được tất cả những thành tựu đặc biệt, cả thế gian lẫn siêu thế.
Pamādo garahito sadāti pamādo pana tehi ariyehi niccaṃ garahito nindito.
Heedlessness is always censured means that heedlessness is always censured and condemned by those noble ones.
Sự phóng dật luôn bị chê trách (pamādo garahito sadā) có nghĩa là sự phóng dật luôn bị các bậc Thánh đó chê trách và khiển trách.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Sabbavipattīnaṃ mūlabhāvato.
Because it is the root of all misfortunes.
Vì đó là gốc rễ của mọi tai họa.
Manussadobhaggaṃ vā hi apāyuppatti vā sabbā pamādamūlikāyevāti.
For all human wretchedness or birth in the lower realms is rooted in heedlessness.
Sự bất hạnh của con người hay sự tái sinh vào các cõi khổ, tất cả đều bắt nguồn từ sự phóng dật.
825
Gāthāpariyosāne mahāli licchavī sotāpattiphale patiṭṭhahi, sampattaparisāyapi bahū sotāpannādayo jātāti.
At the end of the verse, Mahāli the Licchavī was established in the fruit of stream-entry, and many others in the assembled company also became stream-enterers and so forth.
Khi bài kệ kết thúc, Mahāli Licchavī đã an trú vào quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti), và nhiều người trong hội chúng cũng đã đạt được quả vị Nhập Lưu và các quả vị khác.
826
Maghavatthu sattamaṃ.
The Story of Maghavā is the seventh.
Câu chuyện về Maghavā, thứ bảy.
827
8. Aññatarabhikkhuvatthu
8. The Story of a Certain Bhikkhu
8. Câu chuyện về một Tỳ-khưu (Bhikkhu) khác
828
Appamādarato bhikkhūti imaṃ dhammadesanaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, dwelling in Jetavana, delivered this discourse, "The bhikkhu who delights in heedfulness," concerning a certain bhikkhu.
Đức Bổn Sư, khi trú tại Jetavana, đã thuyết bài pháp này “Tỳ-khưu (Bhikkhu) hoan hỷ trong không phóng dật” liên quan đến một Tỳ-khưu (Bhikkhu) khác.
829
So kira satthu santike yāva arahattā kammaṭṭhānaṃ kathāpetvā araññaṃ pavisitvā ghaṭento vāyamanto arahattaṃ pattuṃ nāsakkhi.
It is said that this bhikkhu, having received a meditation subject from the Teacher up to Arahantship, entered the forest and, though striving and exerting himself, was unable to attain Arahantship.
Nghe nói, vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) đó đã được Đức Bổn Sư giảng cho đề mục thiền quán cho đến khi đạt A-la-hán (arahatta), rồi vào rừng tinh tấn tu tập nhưng không thể đạt được A-la-hán (arahatta).
So ‘‘visesetvā kammaṭṭhānaṃ kathāpessāmī’’ti tato nikkhamitvā satthu santikaṃ āgacchanto antarāmagge mahantaṃ dāvaggiṃ uṭṭhitaṃ disvā vegena ekaṃ muṇḍapabbatamatthakaṃ abhiruyha nisinno araññaṃ ḍayhamānaṃ aggiṃ disvā ārammaṇaṃ gaṇhi – ‘‘yathā ayaṃ aggi mahantāni ca khuddakāni ca upādānāni ḍahanto gacchati, evaṃ ariyamaggañāṇaggināpi mahantāni ca khuddakāni ca saṃyojanāni ḍahantena gantabbaṃ bhavissatī’’ti.
He thought, "I will ask for a special meditation subject," and leaving the forest, he was on his way to the Teacher when he saw a great forest fire blazing along the path. He quickly ascended to the top of a bare mountain and sat down. Seeing the fire burning the forest, he took it as his meditation object: "Just as this fire burns great and small fuels as it goes, so too should the fire of the knowledge of the Noble Path burn great and small fetters as it goes."
Vị ấy nghĩ: “Ta sẽ đến thỉnh Đức Bổn Sư giảng lại đề mục thiền quán một cách đặc biệt hơn,” rồi rời khỏi khu rừng. Trên đường đến gặp Đức Bổn Sư, vị ấy thấy một đám cháy rừng lớn bùng lên. Vị ấy nhanh chóng leo lên đỉnh một ngọn núi trọc và ngồi xuống. Khi nhìn thấy ngọn lửa đang thiêu rụi khu rừng, vị ấy đã lấy đó làm đối tượng thiền quán: “Cũng như ngọn lửa này thiêu rụi những vật liệu cháy lớn và nhỏ mà đi tới, thì ngọn lửa trí tuệ của Đạo Thánh (ariyamaggañāṇa) cũng phải thiêu rụi những kiết sử (saṃyojana) lớn và nhỏ mà đi tới.”
Satthā gandhakuṭiyaṃ nisinnova tassa cittācāraṃ ñatvā, ‘‘evameva, bhikkhu, mahantānipi khuddakānipi upādānāni viya imesaṃ sattānaṃ abbhantare uppajjamānāni aṇuṃthūlāni saṃyojanāni, tāni ñāṇagginā jhāpetvā abhabbuppattikāni kātuṃ vaṭṭatī’’ti vatvā obhāsaṃ vissajjetvā tassa bhikkhuno abhimukhe nisinno viya paññāyamāno imaṃ obhāsagāthamāha –
The Teacher, seated in the Fragrant Hut, knew his mental disposition. He said, "Indeed, bhikkhu, just as there are great and small fuels, so too there are subtle and gross fetters arising within these beings. It is proper to burn them with the fire of knowledge and make them incapable of future arising." Having said this, he emitted a radiant light and, appearing as if seated before that bhikkhu, uttered this radiant verse:
Đức Bổn Sư, đang ngồi trong hương thất (gandhakuṭi), biết được tâm niệm của vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) đó, liền nói: “Này Tỳ-khưu (Bhikkhu), cũng như những vật liệu cháy lớn và nhỏ, trong nội tâm của chúng sinh này cũng phát sinh những kiết sử (saṃyojana) vi tế và thô thiển. Cần phải thiêu rụi những kiết sử (saṃyojana) đó bằng ngọn lửa trí tuệ để chúng không thể tái sinh nữa.” Sau khi nói vậy, Ngài phóng hào quang, hiện ra như đang ngồi đối diện với vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) đó, và đọc bài kệ hào quang này:
830
31.
31.
31.
831
‘‘Appamādarato bhikkhu, pamāde bhayadassi vā;
"The bhikkhu who delights in heedfulness, or sees danger in heedlessness,
“Tỳ-khưu (Bhikkhu) hoan hỷ trong không phóng dật, hoặc thấy sự nguy hiểm trong phóng dật;
832
Saṃyojanaṃ aṇuṃ thūlaṃ, ḍahaṃ aggīva gacchatī’’ti.
Burns fetters, subtle and gross, and goes forth like a fire."
Thiêu rụi kiết sử (saṃyojana) vi tế và thô thiển, như lửa cháy mà đi tới.”
833
Tattha appamādaratoti appamāde rato abhirato, appamādena vītināmentoti attho.
Therein, delights in heedfulness means delighted in heedfulness, greatly delighted, meaning spending time with heedfulness.
Trong đó, hoan hỷ trong không phóng dật (appamādarato) có nghĩa là hoan hỷ, rất hoan hỷ trong sự không phóng dật; tức là sống với sự không phóng dật.
Pamāde bhayadassi vāti nirayuppattiādikaṃ pamāde bhayaṃ bhayato passanto, tāsaṃ vā uppattīnaṃ mūlattā pamādaṃ bhayato passanto.
Or sees danger in heedlessness means seeing danger in heedlessness, such as birth in hell, or seeing heedlessness as danger because it is the root of such births.
Hoặc thấy sự nguy hiểm trong phóng dật (pamāde bhayadassi vā) có nghĩa là thấy sự nguy hiểm trong phóng dật, như sự tái sinh vào địa ngục; hoặc thấy phóng dật là nguy hiểm vì đó là gốc rễ của những sự tái sinh đó.
Saṃyojananti vaṭṭadukkhena saddhiṃ yojanaṃ bandhanaṃ pajānaṃ vaṭṭe osīdāpanasamatthaṃ dasavidhaṃ saṃyojanaṃ.
Saṃyojana means the ten kinds of fetters that bind beings together with the suffering of saṃsāra, capable of sinking them into saṃsāra.
Kiết sử (saṃyojana) là mười loại kiết sử (saṃyojana) có khả năng trói buộc, cột chặt chúng sinh vào vòng luân hồi (vaṭṭa), khiến họ chìm đắm trong khổ đau của luân hồi (vaṭṭadukkha).
Aṇuṃ thūlanti mahantañca khuddakañca.
Small and large means both large and small.
Vi tế và thô thiển (aṇuṃ thūlaṃ) là lớn và nhỏ.
Ḍahaṃ aggīva gacchatīti yathā ayaṃ aggī etaṃ mahantañca khuddakañca upādānaṃ ḍahantova gacchati.
"Burning, like a fire, he goes" means just as this fire goes, burning this large and small fuel.
Thiêu rụi như lửa cháy mà đi tới (ḍahaṃ aggīva gacchatī) có nghĩa là, cũng như ngọn lửa này thiêu rụi những vật liệu cháy lớn và nhỏ mà đi tới.
Evameso appamādarato bhikkhu appamādādhigatena ñāṇagginā etaṃ saṃyojanaṃ ḍahanto abhabbuppattikaṃ karonto gacchatīti attho.
In the same way, this bhikkhu, devoted to diligence, goes burning these fetters with the fire of knowledge attained through diligence, making them incapable of arising again; this is the meaning.
Cũng vậy, vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) hoan hỷ trong không phóng dật này, bằng ngọn lửa trí tuệ đạt được nhờ sự không phóng dật, thiêu rụi những kiết sử (saṃyojana) này, khiến chúng không thể tái sinh nữa mà đi tới.
834
Gāthāpariyosāne so bhikkhu yathānisinnova sabbasaṃyojanāni jhāpetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā ākāsenāgantvā tathāgatassa suvaṇṇavaṇṇaṃ sarīraṃ thometvā vaṇṇetvā vandamānova pakkāmīti.
At the conclusion of the verse, that bhikkhu, just as he was seated, burned all fetters, attained Arahantship together with the analytical knowledges (paṭisambhidā), came through the air, praised and extolled the Tathāgata’s golden-colored body, and departed while still paying homage.
Khi bài kệ kết thúc, vị Tỳ-khưu (Bhikkhu) đó, ngay tại chỗ ngồi của mình, đã thiêu rụi tất cả các kiết sử (saṃyojana), đạt được A-la-hán (arahatta) cùng với các Tuệ Phân Tích (paṭisambhidā), rồi bay đến tán thán, ca ngợi thân vàng của Đức Như Lai (Tathāgata) và đảnh lễ rồi rời đi.
835
Aññatarabhikkhuvatthu aṭṭhamaṃ.
The Story of a Certain Bhikkhu, eighth.
Câu chuyện về một Tỳ-khưu (Bhikkhu) khác, thứ tám.
836
9. Nigamavāsitissattheravatthu
9. The Story of Thera Nigama-vāsī Tissa
9. Câu chuyện về Trưởng lão Tissa trú tại Nigamavāsi
837
Appamādaratoti imaṃ dhammadesanaṃ satthā jetavane viharanto nigamavāsitissattheraṃ nāma ārabbha kathesi.
The Teacher, while residing at Jetavana, delivered this discourse on Dhamma, "Devoted to diligence," concerning the Thera named Nigama-vāsī Tissa.
Đức Bổn Sư, khi trú tại Jetavana, đã thuyết bài pháp này “Hoan hỷ trong không phóng dật” liên quan đến Trưởng lão Tissa trú tại Nigamavāsi.
838
Ekasmiñhi sāvatthito avidūre nigamagāme jātasaṃvaḍḍho eko kulaputto satthu sāsane pabbajitvā laddhūpasampado ‘‘nigamavāsitissatthero nāma appiccho santuṭṭho pavivitto āraddhavīriyo’’ti paññāyi.
A certain young man of good family, born and raised in a market town (nigama-gāma) not far from Sāvatthī, went forth into the Teacher's dispensation, received the higher ordination, and became known as "Thera Nigama-vāsī Tissa, who is of few wishes, content, secluded, and has aroused effort."
Nghe nói, có một thiện nam tử sinh ra và lớn lên ở làng Nigamā, không xa Sāvatthī. Sau khi xuất gia trong giáo pháp của Đức Bổn Sư và thọ Cụ túc giới, vị ấy được biết đến với tên Trưởng lão Tissa trú tại Nigamavāsi, là người thiểu dục, tri túc, ẩn dật và tinh tấn.
So nibaddhaṃ ñātigāmeyeva piṇḍāya vicarati.
He always wandered for alms in his relatives' village.
Vị ấy thường xuyên đi khất thực chỉ trong làng của bà con mình.
Anāthapiṇḍikādīsu mahādānāni karontesu, pasenadikosale asadisadānaṃ karontepi sāvatthiṃ nāgacchati.
Even when Anāthapiṇḍika and others were performing great acts of generosity, and King Pasenadi of Kosala was performing an incomparable donation, he would not come to Sāvatthī.
Ngay cả khi các thí chủ lớn như Anāthapiṇḍika đang thực hiện những lễ cúng dường trọng đại, và vua Pasenadi xứ Kosala đang thực hiện lễ cúng dường vô song (asadisadāna), vị ấy cũng không đến Sāvatthī.
Bhikkhū ‘‘ayaṃ nigamavāsitissatthero uṭṭhāya samuṭṭhāya ñātisaṃsaṭṭho viharati, anāthapiṇḍikādīsu mahādānādīni karontesu, pasenadikosale asadisadānaṃ karontepi neva āgacchatī’’ti kathaṃ samuṭṭhāpetvā satthu ārocayiṃsu.
The bhikkhus, raising a discussion, reported to the Teacher: "This Thera Nigama-vāsī Tissa constantly associates with relatives; even when Anāthapiṇḍika and others are performing great acts of generosity, and King Pasenadi of Kosala is performing an incomparable donation, he does not come."
Các Tỳ-khưu (Bhikkhu) đã bàn tán: “Trưởng lão Tissa trú tại Nigamavāsi này cứ mãi sống gần gũi với bà con, ngay cả khi các thí chủ lớn như Anāthapiṇḍika đang thực hiện những lễ cúng dường trọng đại, và vua Pasenadi xứ Kosala đang thực hiện lễ cúng dường vô song (asadisadāna), vị ấy cũng không đến.” Rồi họ trình bày sự việc lên Đức Bổn Sư.
Satthā taṃ pakkosāpetvā, ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, evaṃ karosī’’ti pucchitvā, ‘‘natthi, bhante, mayhaṃ ñātisaṃsaggo, ahaṃ ete manusse nissāya ajjhoharaṇīyamattaṃ āhāraṃ labhāmi lūkhe vā paṇīte vā.
The Teacher had him summoned and asked, "Is it true, bhikkhu, that you act in this way?" When he replied, "Venerable Sir, I have no association with relatives. Relying on these people, I obtain just enough food to sustain myself, whether it is coarse or fine.
Đức Thế Tôn cho gọi vị ấy đến, hỏi: “Này Tỳ-khưu, có thật là con làm như vậy không?” Vị ấy thưa: “Bạch Thế Tôn, con không có giao du với quyến thuộc. Con chỉ nương nhờ những người này để nhận được vật thực đủ để ăn, dù là thô sơ hay ngon ngọt.
Yāpanamatte laddhe puna kiṃ āhārapariyesanenāti na gacchāmi, ñātīhi pana me saṃsaggo nāma natthi, bhante’’ti vutte satthā pakatiyāpi tassa ajjhāsayaṃ vijānanto – ‘‘sādhu sādhu, bhikkhū’’ti tassa sādhukāraṃ datvā, ‘‘anacchariyaṃ kho panetaṃ bhikkhu, yaṃ tvaṃ mādisaṃ ācariyaṃ labhitvā appiccho ahosi.
Once I have enough to sustain myself, what is the point of searching for more food? Therefore, I do not go. But Venerable Sir, I have no association with relatives," the Teacher, knowing his disposition by nature, exclaimed, "Excellent, excellent, bhikkhu!" and gave him approval, saying, "Bhikkhu, it is not surprising that you, having obtained a teacher like me, are of few wishes.
Khi đã nhận đủ để sống qua ngày, con nghĩ tìm kiếm thêm vật thực để làm gì nữa, nên con không đi đâu khác. Bạch Thế Tôn, con thật sự không có giao du với quyến thuộc.” Khi được nghe như vậy, Đức Thế Tôn, vốn đã biết rõ tâm tính của vị ấy, liền tán thán: “Lành thay, lành thay, Tỳ-khưu!” và nói: “Này Tỳ-khưu, việc con có được bậc Thầy như ta mà trở nên thiểu dục thì không có gì đáng ngạc nhiên.
Ayañhi appicchatā nāma mama tanti, mama paveṇī’’ti vatvā bhikkhūhi yācito atītaṃ āhari –
For this state of having few wishes is my tradition, my lineage." Having said this, being requested by the bhikkhus, he related a past event:
Bởi vì sự thiểu dục này chính là truyền thống của ta, là dòng dõi của ta.” Nói xong, được các Tỳ-khưu thỉnh cầu, Ngài kể lại chuyện quá khứ:
839
Atīte himavante gaṅgātīre ekasmiṃ udumbaravane anekasahassā suvā vasiṃsu.
In the past, many thousands of parrots lived in a fig tree forest on the bank of the Gaṅgā in the Himālaya mountains.
Trong quá khứ, tại dãy Hy-mã-lạp, bên bờ sông Hằng, trong một khu rừng sung, có hàng ngàn con vẹt sinh sống.
Tatreko suvarājā attano nivāsarukkhassa phalesu khīṇesu yaṃ yadeva avasiṭṭhaṃ hoti aṅkuro vā pattaṃ vā taco vā, taṃ taṃ khāditvā gaṅgāyaṃ pānīyaṃ pivitvā paramappiccho santuṭṭho hutvā aññattha na gacchati.
Among them, one parrot king, when the fruits of his dwelling tree were exhausted, would eat whatever remained—be it a sprout, a leaf, or bark—drink water from the Gaṅgā, and being extremely modest and content, would not go elsewhere.
Ở đó, có một con vẹt chúa, khi trái trên cây mình ở đã hết, nó ăn bất cứ thứ gì còn sót lại, dù là chồi, lá hay vỏ cây, rồi uống nước sông Hằng. Nó sống vô cùng thiểu dục và tri túc, không đi đến nơi nào khác.
Tassa appicchasantuṭṭhabhāvaguṇena sakkassa bhavanaṃ kampi.
Due to his virtue of being modest and content, Sakka's abode trembled.
Nhờ đức hạnh thiểu dục và tri túc của nó mà cung điện của Sakka (Đế Thích) bị chấn động.
Sakko āvajjamāno taṃ disvā tassa vīmaṃsanatthaṃ attano ānubhāvena taṃ rukkhaṃ sukkhāpesi.
Sakka, reflecting, saw him and, in order to test him, dried up that tree with his divine power.
Sakka quán xét và thấy được con vẹt ấy, để thử lòng nó, ngài dùng thần lực làm cho cái cây đó khô héo.
Rukkho obhaggo khāṇumatto chiddāvachiddova hutvā vāte paharante ākoṭito viya saddaṃ nicchārento aṭṭhāsi.
The tree, broken down to a mere stump, full of holes, stood making a sound as if being struck when the wind blew.
Cây bị gãy đổ, chỉ còn trơ lại gốc cây đầy lỗ hổng, khi gió thổi qua phát ra tiếng kêu như bị gõ vào.
Tassa chiddehi cuṇṇāni nikkhamanti.
Powder came out from its holes.
Từ các lỗ hổng, bụi gỗ bay ra.
Suvarājā tāni khāditvā gaṅgāyaṃ pānīyaṃ pivitvā aññattha agantvā vātātapaṃ agaṇetvā udumbarakhāṇumatthake nisīdati.
The parrot king ate that powder, drank water from the Gaṅgā, and without going elsewhere, disregarding the wind and sun, sat on top of the fig tree stump.
Vẹt chúa ăn những bụi gỗ ấy, uống nước sông Hằng, không đi nơi khác, không màng gió mưa nắng gắt, cứ đậu trên ngọn cây sung khô héo.
Sakko tassa paramappicchabhāvaṃ ñatvā, ‘‘mittadhammaguṇaṃ kathāpetvā varamassa datvā udumbaraṃ amataphalaṃ katvā āgamissāmī’’ti eko haṃsarājā hutvā sujaṃ asurakaññaṃ purato katvā udumbaravanaṃ gantvā avidūre ekassa rukkhassa sākhāya nisīditvā tena saddhiṃ kathento imaṃ gāthamāha –
Sakka, knowing his extreme modesty, thought, "I will make him speak of the virtue of friendship, grant him a boon, make the fig tree bear immortal fruit, and then return." He transformed into a swan king, placed Sujā, the Asura maiden, in front, went to the fig tree forest, perched on a branch of a tree nearby, and speaking with him, uttered this verse:
Sakka biết được đức tính thiểu dục tột bậc của nó, bèn nghĩ: “Ta sẽ đến để nó nói lên đức hạnh của tình bằng hữu, rồi ban cho nó một điều ước, biến cây sung này thành cây ra quả bất tử, rồi sẽ trở về.” Ngài hóa thành một con thiên nga chúa, dẫn theo nàng Sujā, con gái của a-tu-la, bay đến khu rừng sung, đậu trên cành của một cái cây gần đó, và nói chuyện với vẹt chúa bằng bài kệ này:
840
‘‘Santi rukkhā haripattā, dumānekaphalā bahū;
"There are trees with green leaves, many trees bearing various fruits;
“Có những cây lá xanh tươi, nhiều cây lắm quả ngọt lành;
841
Kasmā nu sukkhe koḷāpe, suvassa nirato mano’’ti.(jā. 1.9.30);
Why, then, is the parrot's mind ever delighted in this dry, hollow stump?"
Cớ sao tâm vẹt an lành, vui trong cây úa, lõi cành khô khan?”
842
Sabbaṃ suvajātakaṃ navakanipāte āgatanayeneva vitthāretabbaṃ.
The entire Suva Jātaka should be elaborated in the same way as it appears in the Navaka Nipāta.
Toàn bộ Suvajātaka nên được trình bày chi tiết theo cách đã được nêu trong phẩm Navakanipāta.
Aṭṭhuppattiyeva hi tattha ca idha ca nānā, sesaṃ tādisameva.
Indeed, the origin story differs here and there, but the rest is the same.
Chỉ có phần nguyên nhân khởi sanh câu chuyện (aṭṭhuppatti) ở đó và ở đây là khác nhau, phần còn lại thì tương tự.
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā, ‘‘tadā sakko ānando ahosi, suvarājā ahamevā’’ti vatvā, ‘‘evaṃ, bhikkhave, appicchatā nāmesā mama tanti, mama paveṇī, anacchariyā mama puttassa nigamavāsitissassa mādisaṃ ācariyaṃ labhitvā appicchatā, bhikkhunā nāma nigamavāsitissena viya appiccheneva bhavitabbaṃ.
The Teacher, having brought this discourse, saying, ‘‘At that time, Sakkha was Ānanda; I myself was the King Parrot,’’ and then saying, ‘‘Thus, bhikkhus, this quality of having few desires is my tradition, my lineage. It is not surprising that my son Nigama-vāsitissa, having obtained a teacher like me, has few desires. A bhikkhu should indeed have few desires, like Nigama-vāsitissa.
Đức Thế Tôn sau khi thuyết giảng bài pháp này, Ngài kết luận: “Khi ấy Sakka chính là Ānanda, còn vẹt chúa chính là ta vậy.” Rồi Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, như vậy, sự thiểu dục này chính là truyền thống của ta, là dòng dõi của ta. Việc Nigamavāsitissa, con trai của ta, có được bậc Thầy như ta mà trở nên thiểu dục là điều không đáng ngạc nhiên. Một vị Tỳ-khưu nên có đức tính thiểu dục như Nigamavāsitissa.
Evarūpo hi bhikkhu abhabbo samathavipassanādhammehi vā maggaphalehi vā parihānāya, aññadatthu nibbānasseva santike hotī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
For such a bhikkhu is incapable of falling away from the qualities of samatha and vipassanā, or from the paths and fruits; rather, he is very close to Nibbāna,’’ spoke this verse—
Một vị Tỳ-khưu như vậy không thể nào bị suy thoái khỏi các pháp samatha-vipassanā hay đạo quả, mà trái lại, vị ấy ở rất gần Nibbāna.” Nói xong, Ngài đọc bài kệ này:
843
32.
32.
32.
844
‘‘Appamādarato bhikkhu, pamāde bhayadassi vā;
‘‘The bhikkhu who delights in diligence, or sees danger in negligence,
“Tỳ-khưu vui thích không dể duôi, hay thấy sợ hãi trong dể duôi;
845
Abhabbo parihānāya, nibbānasseva santike’’ti.
Is incapable of falling away; he is very close to Nibbāna.’’
Không thể bị thoái đọa bao giờ, vị ấy ở gần bên Nibbāna.”
846
Tattha abhabbo parihānāyāti so evarūpo bhikkhu samathavipassanādhammehi vā maggaphalehi vā parihānāya abhabbo, nāpi pattehi parihāyati, na appattāni na pāpuṇāti.
Here, is incapable of falling away means that such a bhikkhu is incapable of falling away from the qualities of samatha and vipassanā, or from the paths and fruits. He does not fall away from what he has attained, nor does he fail to reach what he has not attained.
Trong đó, không thể bị thoái đọa có nghĩa là vị Tỳ-khưu như vậy không thể bị suy thoái khỏi các pháp samatha-vipassanā hay đạo quả. Vị ấy không bị mất đi những gì đã đạt được, và không phải là không thể đạt được những gì chưa đạt được.
Nibbānasseva santiketi kilesaparinibbānassapi anupādāparinibbānassāpi santikeyevāti.
Is very close to Nibbāna means he is very close to both kilesa-parinibbāna and anupādā-parinibbāna.
Ở gần bên Nibbāna có nghĩa là ở rất gần cả kilesaparinibbāna (phiền não Nibbāna) và anupādāparinibbāna (vô thủ trước Nibbāna).
847
Gāthāpariyosāne nigamavāsitissatthero saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.
At the end of the verse, Thera Nigama-vāsitissa attained arahantship together with the paṭisambhidās.
Khi bài kệ kết thúc, Trưởng lão Nigamavāsitissa đã chứng đắc A-la-hán cùng với các tuệ phân tích (paṭisambhidā).
Aññepi bahū sotāpannādayo ahesuṃ.
Many others became stream-enterers and so on.
Nhiều vị khác cũng đắc quả Dự lưu và các quả vị khác.
Mahājanassa sātthikā dhammadesanā jātāti.
The discourse was beneficial to the great multitude.
Bài pháp thoại đã mang lại lợi ích cho đại chúng.
848
Nigamavāsitissattheravatthu navamaṃ.
The Story of Thera Nigama-vāsitissa, the Ninth.
Câu chuyện về Trưởng lão Nigamavāsitissa là câu chuyện thứ chín.
849
*Appamādavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
*The Explanation of the Chapter on Diligence is Finished.
Phần giải về Phẩm Không Dể Duôi kết thúc.
Dutiyo vaggo.*
The Second Chapter.*
Phẩm thứ hai.
Next Page →