So kira gihikāle sāvatthiyaṃ duggatabrāhmaṇo ahosi.
It is said that in his lay life, he was a poor brahmin in Sāvatthī.
Nghe nói, khi còn là cư sĩ ở Sāvatthi, ông là một Bà-la-môn nghèo khó.
So ‘‘bhikkhūnaṃ santike jīvissāmī’’ti cintetvā vihāraṃ gantvā appaharitakaṃ karonto pariveṇaṃ sammajjanto mukhadhovanādīni dadanto antovihāreyeva vasi.
Thinking, “I will live by serving the bhikkhus,” he went to the monastery and resided within it, clearing away green growth, sweeping the precincts, and providing water for washing faces and other services.
Ông ấy nghĩ: “Ta sẽ sống với các Tỳ-khưu,” rồi đến tinh xá, dọn dẹp khu đất không có cây xanh, quét dọn khu vực xung quanh tinh xá, và cung cấp nước rửa mặt cùng các vật dụng khác, ông sống ngay trong tinh xá.
Bhikkhūpi naṃ saṅgaṇhiṃsu, pabbājetuṃ pana na icchanti.
The bhikkhus also supported him, but they did not wish to ordain him.
Các Tỳ-khưu cũng tiếp nhận ông, nhưng không muốn cho ông xuất gia.
So pabbajjaṃ alabhamāno kiso ahosi.
Unable to obtain ordination, he became emaciated.
Vì không được xuất gia, ông trở nên gầy yếu.
Athekadivasaṃ satthā paccūsakāle lokaṃ volokento taṃ brāhmaṇaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho’’ti upadhārento ‘‘arahā bhavissatī’’ti ñatvā sāyanhasamaye vihāracārikaṃ caranto viya brāhmaṇassa santikaṃ gantvā, ‘‘brāhmaṇa, kiṃ karonto vicarasī’’ti āha.
Then one day, at dawn, the Teacher surveyed the world, saw that brahmin, and considering, “What will become of him?” realized, “He will become an Arahant.” In the evening, as if on a tour of the monastery, he went to the brahmin and said, “Brahmin, what are you doing?”
Một ngày nọ, vào lúc rạng đông, Đức Thế Tôn quán sát thế gian, thấy vị Bà-la-môn đó, Ngài suy xét: “Điều gì sẽ xảy ra?” và biết rằng “Ông ấy sẽ trở thành một vị A-la-hán.” Vào buổi chiều, Ngài đi dạo trong tinh xá như thường lệ, đến gần vị Bà-la-môn và hỏi: “Này Bà-la-môn, ông đang làm gì mà đi lại ở đây?”
‘‘Bhikkhūnaṃ vattapaṭivattaṃ karonto, bhante’’ti.
“I am performing the duties and services for the bhikkhus, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, con đang làm các bổn phận lớn nhỏ cho các Tỳ-khưu.”
‘‘Labhasi nesaṃ santikā saṅgaha’’nti?
“Do you receive support from them?”
“Ông có nhận được sự giúp đỡ từ họ không?”
‘‘Āma, bhante, āhāramattaṃ labhāmi, na pana maṃ pabbājentī’’ti.
“Yes, Venerable Sir, I receive only food, but they do not ordain me.”
“Bạch Thế Tôn, vâng, con nhận được thức ăn, nhưng họ không cho con xuất gia.”
Satthā etasmiṃ nidāne bhikkhusaṅghaṃ sannipātāpetvā tamatthaṃ pucchitvā, ‘‘bhikkhave, atthi koci imassa brāhmaṇassa adhikāraṃ saratī’’ti pucchi.
On this occasion, the Teacher assembled the Saṅgha of bhikkhus, inquired about the matter, and asked, “Bhikkhus, is there anyone who remembers a service performed by this brahmin?”
Nhân dịp này, Đức Thế Tôn triệu tập Tăng đoàn, hỏi về sự việc đó, và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, có ai nhớ đến công đức của vị Bà-la-môn này không?”
Sāriputtatthero ‘‘ahaṃ, bhante, sarāmi, ayaṃ me rājagahe piṇḍāya carantassa attano abhihaṭaṃ kaṭacchubhikkhaṃ dāpesi, imamassāhaṃ adhikāraṃ sarāmī’’ti āha.
Thera Sāriputta said, “Venerable Sir, I remember. This man offered me a spoonful of alms-food that he had brought for himself, while I was on alms-round in Rājagaha. I remember this service of his.”
Trưởng lão Sāriputta nói: “Bạch Thế Tôn, con nhớ. Khi con đang đi khất thực ở Rājagaha, ông ấy đã cúng dường cho con một muỗng cơm mà ông đã mang về cho mình. Con nhớ công đức đó của ông ấy.”
So satthārā ‘‘kiṃ pana te, sāriputta, evaṃ katūpakāraṃ dukkhato mocetuṃ na vaṭṭatī’’ti vutte, ‘‘sādhu, bhante, pabbājessāmī’’ti taṃ brāhmaṇaṃ pabbājesi.
When the Teacher said to him, "Sāriputta, is it not proper to liberate from suffering one who has rendered such a service to you?", he replied, "Very well, Venerable Sir, I shall ordain him," and he ordained that brahmin.
Khi Đức Thế Tôn hỏi: “Này Sāriputta, chẳng lẽ ông không nên giải thoát cho người đã có công ơn như vậy khỏi khổ đau sao?”, Trưởng lão đáp: “Lành thay, bạch Thế Tôn, con sẽ cho ông ấy xuất gia,” rồi cho vị Bà-la-môn đó xuất gia.
Tassa bhattagge āsanapariyante āsanaṃ pāpuṇāti, yāgubhattādīhipi kilamati.
For him, a seat was obtained at the edge of the dining hall, and he suffered hardship even with gruel and rice.
Vị ấy được một chỗ ngồi ở cuối hàng ghế trong phòng ăn, và cũng phải chịu khó khăn với cháo, cơm, v.v.
Thero taṃ ādāya cārikaṃ pakkāmi, abhikkhaṇañca naṃ ‘‘idaṃ te kattabbaṃ, idaṃ te na kattabba’’nti ovadi anusāsi.
The Elder took him and set out on a wandering tour, constantly advising and instructing him, "This is what you should do, this is what you should not do."
Trưởng lão dẫn vị ấy đi du hành, và thường xuyên khuyên bảo, giáo huấn vị ấy: “Điều này ông nên làm, điều này ông không nên làm.”
So suvaco ahosi padakkhiṇaggāhī.
He was amenable to advice and accepted it with reverence.
Vị ấy là người dễ vâng lời, luôn tiếp thu lời giáo huấn một cách tôn kính.
Tasmā yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāno katipāheneva arahattaṃ pāpuṇi.
Therefore, by practicing as he was instructed, he attained Arahantship within a few days.
Do đó, khi thực hành theo lời dạy, chỉ sau vài ngày, vị ấy đã đạt được A-la-hán quả.
Thero taṃ ādāya satthu santikaṃ gantvā vanditvā nisīdi.
The Elder took him, went to the Teacher, paid homage, and sat down.
Trưởng lão dẫn vị ấy đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi xuống.
Atha naṃ satthā paṭisanthāraṃ katvā āha – ‘‘suvaco nu kho, sāriputta, te antevāsiko’’ti.
Then the Teacher, after exchanging greetings with him, asked, "Is your pupil, Sāriputta, amenable to advice?"
Bấy giờ, Đức Thế Tôn chào hỏi Trưởng lão và nói: “Này Sāriputta, đệ tử của ông có dễ vâng lời không?”
‘‘Āma, bhante, ativiya suvaco, kismiñci dose vuccamāne na kuddhapubbo’’ti.
"Yes, Venerable Sir, he is exceedingly amenable to advice; he has never been angry when spoken to about any fault."
“Bạch Thế Tôn, vâng, rất dễ vâng lời. Khi bị chỉ trích về bất kỳ lỗi lầm nào, vị ấy chưa bao giờ nổi giận.”
‘‘Sāriputta, evarūpe saddhivihārike labhanto kittake gaṇheyyāsī’’ti?
"Sāriputta, if you were to find such co-residents, how many would you accept?"
“Này Sāriputta, nếu có được những đệ tử như vậy, ông sẽ thâu nhận bao nhiêu người?”
‘‘Bhante, bahukepi gaṇheyyamevā’’ti.
"Venerable Sir, I would accept many indeed."
“Bạch Thế Tôn, con sẽ thâu nhận rất nhiều người.”
Athekadivasaṃ dhammasabhāya kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘sāriputtatthero kira kataññū katavedī, kaṭacchubhikkhāmattaṃ upakāraṃ saritvā duggatabrāhmaṇaṃ pabbājesi.
Then one day, in the Dhamma hall, they raised a discussion: "It is said that Elder Sāriputta is grateful and mindful of past kindnesses; remembering a mere spoonful of alms-food as a kindness, he ordained that poor brahmin.
Một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-khưu khởi lên câu chuyện: “Nghe nói Trưởng lão Sāriputta là người biết ơn và đền ơn. Ngài đã nhớ đến công ơn chỉ một muỗng cơm và cho vị Bà-la-môn nghèo khổ xuất gia.
Theropi ovādakkhamo ovādakkhamameva labhī’’ti.
The Elder, being amenable to advice, also found one who was amenable to advice."
Trưởng lão là người dễ vâng lời, nên cũng nhận được người dễ vâng lời.”
Satthā tesaṃ kathaṃ sutvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi sāriputto kataññū katavedīyevā’’ti vatvā tamatthaṃ pakāsetuṃ –
The Teacher, hearing their discussion, said, "Monks, Sāriputta was not only grateful and mindful of past kindnesses now, but also in the past," and to clarify this matter,
Đức Thế Tôn nghe câu chuyện của họ, nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ, mà ngay cả trong quá khứ, Sāriputta cũng là người biết ơn và đền ơn,” rồi để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, Ngài đã kể chi tiết về Alīnacittajātaka trong Dukanipāta:
Tattha nidhīnanti tattha tattha nidahitvā ṭhapitānaṃ hiraññasuvaṇṇādipūrānaṃ nidhikumbhīnaṃ.
Here, nidhīnaṃ refers to treasure-jars full of silver, gold, etc., hidden and placed here and there.
Thân cận người như vậy, sẽ tốt hơn chứ không xấu đi.”
Pavattāranti kicchajīvike duggatamanusse anukampaṃ katvā ‘‘ehi, sukhena jīvanūpāyaṃ dassessāmī’’ti nidhiṭṭhānaṃ netvā hatthaṃ pasāretvā ‘‘imaṃ gahetvā sukhena jīvā’’ti ācikkhitāraṃ viya.
Pavattāraṃ means like one who, out of compassion for poor people living in hardship, says, "Come, I will show you a way to live happily," leads them to the treasure spot, extends his hand, and says, "Take this and live happily."
Trong đó, nidhīnaṃ (kho báu) là những chum chứa đầy vàng bạc, v.v., được chôn giấu ở khắp nơi.
Vajjadassinanti dve vajjadassino ‘‘iminā naṃ asāruppena vā khalitena vā saṅghamajjhe niggaṇhissāmī’’ti randhagavesako ca, aññātaṃ ñāpanatthāya ñātaṃ anuggahaṇatthāya sīlādīnamassa vuddhikāmatāya taṃ taṃ vajjaṃ olokanena ullumpanasabhāvasaṇṭhito ca.
Vajjadassinaṃ (one who points out faults) refers to two types of fault-finders: one who seeks out flaws thinking, "I will criticize him in the midst of the Saṅgha for this improper act or transgression," and one who, desiring the growth of his sīla (morality) and other qualities, looks at various faults to make the unknown known and to support what is known, thereby having the nature of helping him overcome them. This latter meaning is intended here.
Pavattāraṃ (người chỉ ra) là như người thương xót những kẻ nghèo khó, sống chật vật, nói: “Hãy đến đây, ta sẽ chỉ cho con đường sống an lạc,” rồi dẫn họ đến chỗ kho báu, đưa tay ra nói: “Hãy lấy cái này mà sống an lạc.”
Ayaṃ idha adhippeto.
This latter meaning is intended here.
Vajjadassinaṃ (người chỉ ra lỗi lầm) có hai loại: một là người tìm kiếm sơ hở để chỉ trích, quở trách người khác giữa Tăng đoàn với ý nghĩ: “Ta sẽ quở trách nó về hành vi không phù hợp hoặc lỗi lầm này”; hai là người quan sát lỗi lầm để giúp người khác biết điều chưa biết, hoặc để hỗ trợ điều đã biết, với mong muốn sự phát triển về giới hạnh, v.v. của người đó, có bản chất là nâng đỡ, giúp đỡ.
Yathā hi duggatamanusso ‘‘imaṃ gaṇhāhī’’ti tajjetvāpi pothetvāpi nidhiṃ dassente kopaṃ na karoti, pamudito eva hoti, evameva evarūpe puggale asāruppaṃ vā khalitaṃ vā disvā ācikkhante kopo na kātabbo, tuṭṭheneva bhavitabbaṃ, ‘‘bhante, mahantaṃ vo kammaṃ kataṃ, mayhaṃ ācariyupajjhāyaṭṭhāne ṭhatvā ovadantehi punapi maṃ vadeyyāthā’’ti pavāretabbameva.
Just as a poor person does not get angry when someone shows him a treasure, even if he threatens or strikes him, but is delighted, so too, when such a person sees an improper act or a transgression and points it out, one should not get angry, but should be delighted, and should invite him, saying, "Venerable Sir, you have done a great deed. Please continue to advise me, standing in the place of my teacher and preceptor."
Ở đây, loại thứ hai được hiểu là ý nghĩa của từ này. Cũng như người nghèo khổ không nổi giận khi người chỉ kho báu dọa nạt hay đánh đập để chỉ cho mình kho báu, mà ngược lại còn vui mừng, thì cũng vậy, khi thấy một người như vậy chỉ ra hành vi không phù hợp hay lỗi lầm, không nên nổi giận, mà phải vui vẻ, và thưa: “Bạch chư Tôn giả, chư Tôn giả đã làm một việc lớn lao. Xin chư Tôn giả hãy tiếp tục khuyên bảo con, như một vị thầy hay một vị Hòa thượng.”
Niggayhavādinti ekacco hi saddhivihārikādīnaṃ asāruppaṃ vā khalitaṃ vā disvā ‘‘ayaṃ me mukhodakadānādīhi sakkaccaṃ upaṭṭhahati, sace naṃ vakkhāmi, na maṃ upaṭṭhahissati, evaṃ me parihāni bhavissatī’’ti vatthuṃ avisahanto na niggayhavādī nāma hoti.
Niggayhavādī means: Indeed, some preceptors, seeing an unseemly act or a fault of their co-residents and so forth, think: "This disciple respectfully attends to me with offerings of washing water for the face and so forth. If I speak to him, he will not attend to me, and thus there will be a loss for me." A preceptor who, thinking thus, is unable to speak is not called a niggayhavādī.
Niggayhavādiṃ (người quở trách) là không phải người nào thấy hành vi không phù hợp hay lỗi lầm của đệ tử, v.v., rồi nghĩ: “Người này cung phụng ta chu đáo bằng cách dâng nước rửa mặt, v.v. Nếu ta nói, người ấy sẽ không cung phụng ta nữa, như vậy ta sẽ bị tổn thất,” rồi không dám nói, thì người đó không phải là người quở trách.
So imasmiṃ sāsane kacavaraṃ ākirati.
Such a preceptor scatters rubbish in this Dispensation.
Người như vậy chỉ làm ô uế giáo pháp này.
Yo pana tathārūpaṃ vajjaṃ disvā vajjānurūpaṃ tajjento paṇāmento daṇḍakammaṃ karonto vihārā taṃ nīharanto sikkhāpeti, ayaṃ niggayhavādī nāma seyyathāpi sammāsambuddho.
But a preceptor who, seeing such a fault, admonishes, expels, imposes a penalty, and drives that disciple out of the monastery in accordance with the fault, thus training him, is called a niggayhavādī, just like the Sammāsambuddha.
Còn người nào thấy lỗi lầm như vậy, rồi tùy theo lỗi lầm mà răn đe, đuổi đi, thi hành hình phạt, trục xuất khỏi tinh xá, và dạy dỗ, người đó mới là người quở trách, giống như Đức Sammāsambuddha.
Vuttañhetaṃ – ‘‘niggayha niggayhāhaṃ, ānanda, vakkhāmi, pavayha pavayha, ānanda, vakkhāmi, yo sāro so ṭhassatī’’ti (ma. ni. 3.196).
For it has been said: ‘‘Ananda, I will speak, admonishing and admonishing; Ananda, I will speak, removing and removing faults; what is essential will remain.’’
Điều này đã được nói: “Này Ānanda, ta sẽ quở trách, quở trách. Này Ānanda, ta sẽ loại bỏ, loại bỏ. Cái gì là tinh túy sẽ còn lại.”
Medhāvinti dhammojapaññāya samannāgataṃ.
Medhāvī means one endowed with the wisdom that is the essence of the Dhamma.
Medhāviṃ (bậc trí tuệ) là người có trí tuệ Dhammoja (trí tuệ về tinh túy của Pháp).
Tādisanti evarūpaṃ paṇḍitaṃ bhajeyya payirupāseyya.
Tādisa means one should associate with and attend upon such a paṇḍita (wise person).
Tādisaṃ (người như vậy), paṇḍitaṃ (bậc trí giả) là hãy thân cận, hãy phụng sự người như vậy.
Tādisañhi ācariyaṃ bhajamānassa antevāsikassa seyyo hoti, na pāpiyo vaḍḍhiyeva hoti, no parihānīti.
For an apprentice associating with such a teacher, there is improvement, not deterioration; there is only growth, not decline.
Quả thật, đệ tử nào bhajamānassa (thân cận) vị thầy như vậy, thì seyyo hoti, na pāpiyo (sẽ tốt hơn chứ không xấu đi), chỉ có sự tăng trưởng chứ không có sự suy giảm.
Te kira dve bhikkhū kiñcāpi aggasāvakānaṃ saddhivihārikā, alajjino pana ahesuṃ pāpabhikkhū.
It is said that these two bhikkhus, although disciples of the chief disciples, were shameless and evil bhikkhus.
Nghe nói, hai Tỳ-khưu này, mặc dù là đệ tử của các Đại đệ tử, nhưng lại là những Tỳ-khưu vô liêm sỉ, xấu ác.
Te pāpakehi attano parivārehi pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ kīṭāgirismiṃ viharantā ‘‘mālāvacchaṃ ropentipi ropāpentipī’’tiādikaṃ (pārā. 431; cūḷava. 21) nānappakāraṃ anācāraṃ karontā kuladūsakakammaṃ katvā tato uppannehi paccayehi jīvikaṃ kappentā taṃ āvāsaṃ pesalānaṃ bhikkhūnaṃ anāvāsaṃ akaṃsu.
Residing in Kīṭāgiri with their five hundred evil followers, they committed various improper acts, such as "planting flower plants and having them planted," and by performing acts that corrupted families, they sustained their lives with the requisites arising from that, making that dwelling unsuitable for virtuous bhikkhus.
Cùng với năm trăm Tỳ-khưu đệ tử xấu ác của mình, họ trú tại Kīṭāgiri, thực hiện nhiều hành vi phi pháp khác nhau như “tự trồng cây hoa, hoặc sai người khác trồng cây hoa,” v.v., làm bại hoại các gia đình và sống bằng những vật phẩm thu được từ đó, biến nơi đó thành một nơi không thích hợp cho các Tỳ-khưu đức hạnh.
Satthā taṃ pavattiṃ sutvā tesaṃ pabbājanīyakammakaraṇatthāya saparivāre dve aggasāvake āmantetvā ‘‘gacchatha, sāriputtā, tesu ye tumhākaṃ vacanaṃ na karonti, tesaṃ pabbājanīyakammaṃ karotha, ye pana karonti, te ovadatha anusāsatha.
Hearing of this situation, the Teacher summoned the two chief disciples with their retinues to perform the act of expulsion (pabbājanīyakamma) against those bhikkhus, saying: ‘‘Go, Sāriputta, perform the act of expulsion against those among them who do not obey your words, but admonish and instruct those who do obey.
Đức Thế Tôn nghe được tin đó, Ngài triệu tập hai Đại đệ tử cùng với tùy tùng của họ để thi hành pháp Tẩn xuất (pabbājanīyakamma) đối với những Tỳ-khưu đó, và nói: “Này Sāriputta, hãy đi. Trong số những Tỳ-khưu đó, ai không nghe lời các ông, hãy thi hành pháp Tẩn xuất đối với họ. Còn ai nghe lời, hãy khuyên bảo và giáo huấn họ.
Ovadanto hi anusāsanto apaṇḍitānaṃyeva appiyo hoti amanāpo, paṇḍitānaṃ pana piyo hoti manāpo’’ti anusandhiṃ ghaṭetvā dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
For one who admonishes and instructs is disliked and displeasing only to the foolish, but is dear and pleasing to the wise.’’ Thus connecting the narrative, the Buddha spoke this verse:
Thật vậy, người khuyên dạy, chỉ dạy chỉ không được lòng, không vừa ý những người không có trí tuệ; còn đối với người có trí tuệ thì lại được thương mến, được vừa ý”. Sau khi kết nối mạch lạc như vậy, Ngài thuyết Pháp và nói lên kệ ngôn này:
Tattha ovadeyyāti uppanne vatthusmiṃ vadanto ovadati nāma, anuppanne vatthusmiṃ ‘‘ayasopi te siyā’’tiādivasena anāgataṃ dassento anusāsati nāma.
Therein, ovadeyya means one admonishes by speaking when a matter has arisen; one instructs by showing the future, saying, "This might be a disgrace for you," and so forth, when a matter has not yet arisen.
Trong đó, ovadeyya (nên khuyên dạy) có nghĩa là: khi sự việc đã phát sinh, người nói lời khuyên được gọi là khuyên dạy (ovadati); khi sự việc chưa phát sinh, người chỉ ra tương lai bằng những lời như “ngươi có thể bị tai tiếng” thì được gọi là chỉ bảo (anusāsati).
Sammukhā vadanto ovadati nāma, parammukhā dūtaṃ vā sāsanaṃ vā pesento anusāsati nāma.
One admonishes by speaking face-to-face; one instructs by sending a messenger or a message when out of sight.
Người nói trực diện được gọi là khuyên dạy (ovadati); người nói gián tiếp qua sứ giả hoặc thông điệp được gọi là chỉ bảo (anusāsati).
Sakiṃ vadanto ovadati nāma, punappunaṃ vadanto anusāsati nāma.
One admonishes by speaking once; one instructs by speaking repeatedly.
Người nói một lần được gọi là khuyên dạy (ovadati); người nói đi nói lại nhiều lần được gọi là chỉ bảo (anusāsati).
Ovadanto eva vā anusāsati nāmāti evaṃ ovadeyya anusāseyya.
Or, one who admonishes also instructs; thus, one should admonish and instruct.
Hoặc, người khuyên dạy cũng chính là người chỉ bảo. Như vậy, nên khuyên dạy, nên chỉ bảo.
Asabbhā cāti akusaladhammā ca nivāreyya, kusaladhamme patiṭṭhāpeyyāti attho.
Asabbhā cā means one should restrain from unwholesome states, and establish in wholesome states; this is the meaning.
Asabbhā cā (và điều không tốt lành) có nghĩa là nên ngăn chặn các pháp bất thiện và thiết lập các pháp thiện.
Satañhi so piyo hotīti so evarūpo puggalo buddhādīnaṃ sappurisānaṃ piyo hoti.
Satañhi so piyo hoti means such a person is dear to good people like the Buddhas and so forth.
Satañhi so piyo hoti (vì người ấy được bậc thiện nhân yêu mến) có nghĩa là người như vậy được các bậc thiện nhân như chư Phật yêu mến.
Ye pana adiṭṭhadhammā avitiṇṇaparalokā āmisacakkhukā jīvikatthāya pabbajitā, tesaṃ asataṃ so ovādako anusāsako, ‘‘‘na tvaṃ amhākaṃ upajjhāyo, na ācariyo, kasmā amhe ovadasī’ti evaṃ mukhasattīhi vijjhantānaṃ appiyo hotī’’ti.
But to those who are not good, who have not seen the Dhamma, who have not crossed beyond this world, whose eyes are fixed on material gain, and who have gone forth for the sake of livelihood, that admonisher and instructor is displeasing, as they pierce him with the spears of their mouths, saying, ‘‘You are not our preceptor, you are not our teacher, why do you admonish us?’’
Còn những người chưa thấy Pháp, chưa vượt qua được thế giới bên kia, mắt chỉ nhìn vào vật chất, xuất gia vì mục đích sinh nhai, đối với những asataṃ (kẻ bất thiện) ấy, người khuyên dạy, chỉ bảo đó trở nên không được ưa thích, khi họ dùng lời nói như gươm đao đâm chọc rằng: “Ngươi không phải là thầy tế độ của chúng tôi, không phải là thầy dạy dỗ, tại sao lại khuyên dạy chúng tôi?”.
So kira āyasmā ‘‘ahaṃ amhākaṃ ayyaputtena saddhiṃ mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto tadā aññaṃ ekampi na passāmi, idāni pana ‘ahaṃ sāriputto nāma, ahaṃ moggallāno nāma, mayaṃ aggasāvakamhā’ti vatvā ime vicarantī’’ti dve aggasāvake akkosati.
That Venerable Channa, it is said, abused the two Chief Disciples, saying: 'I went forth into the Great Renunciation with our noble son, and then I saw no one else. But now, these ones go about saying, "I am Sāriputta, I am Moggallāna, we are the Chief Disciples."'"
Vị Trưởng lão ấy đã mắng nhiếc hai vị Thượng thủ Thinh văn rằng: “Ta đã cùng với con trai của chủ nhân chúng ta xuất gia trong cuộc Đại Xuất Gia, lúc đó ta không thấy một ai khác. Nhưng bây giờ, những người này lại đi khắp nơi, nói rằng ‘Ta là Sāriputta, ta là Moggallāna, chúng ta là Thượng thủ Thinh văn’.”
Satthā bhikkhūnaṃ santikā taṃ pavattiṃ sutvā channattheraṃ pakkosāpetvā ovadati.
The Teacher, having heard that account from the bhikkhus, had Thera Channa summoned and admonished him.
Đức Thế Tôn nghe được câu chuyện đó từ các vị tỳ khưu, liền cho gọi Trưởng lão Channa đến và khuyên dạy.
So taṅkhaṇeyeva tuṇhī hutvā puna gantvā there akkosatiyeva.
He remained silent at that moment, but then went and continued to abuse the Theras.
Ngài ấy im lặng ngay lúc đó, nhưng sau khi đi lại tiếp tục mắng nhiếc các vị Trưởng lão.
Evaṃ yāvatatiyaṃ akkosantaṃ pakkosāpetvā satthā ovaditvā ‘‘channa, dve aggasāvakā nāma tuyhaṃ kalyāṇamittā uttamapurisā, evarūpe kalyāṇamitte sevassu bhajassū’’ti vatvā dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
Having summoned him for abusing them even a third time, the Teacher admonished him and, saying, "Channa, the two Chief Disciples are your good friends, supreme men. Associate with and attend upon such good friends," he delivered the Dhamma and uttered this verse:
Đến lần thứ ba ngài mắng nhiếc, Đức Thế Tôn lại cho gọi đến, khuyên dạy và nói: “Này Channa, hai vị Thượng thủ Thinh văn là bạn lành, là bậc thượng nhân của con. Con hãy gần gũi, thân cận những người bạn lành như vậy”. Sau khi nói xong, Ngài thuyết Pháp và đọc lên kệ ngôn này:
Channatthero pana taṃ ovādaṃ sutvāpi purimanayeneva bhikkhū akkosati paribhāsati.
However, Thera Channa, even after hearing that admonition, continued to abuse and revile the bhikkhus in the same manner as before.
Tuy nhiên, Trưởng lão Channa sau khi nghe lời khuyên dạy đó vẫn mắng nhiếc, chửi bới các vị tỳ khưu như trước.
Punapi satthu ārocesuṃ.
They reported it to the Teacher again.
Họ lại trình báo lên Đức Thế Tôn.
Satthā, ‘‘bhikkhave, mayi dharante channaṃ sikkhāpetuṃ na sakkhissatha, mayi pana parinibbute sakkhissathā’’ti vatvā parinibbānakāle āyasmatā ānandena, ‘‘bhante, kathaṃ channatthere amhehi paṭipajjitabba’’nti vutte, ‘‘ānanda, channassa bhikkhuno brahmadaṇḍo dātabbo’’ti āṇāpesi.
The Teacher said, "Bhikkhus, while I am alive, you will not be able to train Channa. But when I have attained Parinibbāna, you will be able to." Then, at the time of his Parinibbāna, when Venerable Ānanda asked, "Bhante, how should we deal with Thera Channa?", the Teacher commanded, "Ānanda, the Brahmadaṇḍa (divine punishment) should be imposed on Bhikkhu Channa."
Đức Thế Tôn nói: “Này các tỳ khưu, khi Ta còn tại thế, các con sẽ không thể dạy dỗ được Channa. Nhưng sau khi Ta nhập diệt, các con sẽ có thể”. Vào lúc sắp nhập diệt, khi Tôn giả Ānanda hỏi: “Bạch Thế Tôn, chúng con phải đối xử với Trưởng lão Channa như thế nào?”, Ngài đã ra lệnh: “Này Ānanda, hãy áp dụng hình phạt Phạm Đàn (brahmadaṇḍa) đối với tỳ khưu Channa”.
So satthari parinibbute ānandattherena ārocitaṃ brahmadaṇḍaṃ sutvā dukkhī dummano tikkhattuṃ mucchito patitvā ‘‘mā maṃ, bhante, nāsayitthā’’ti yācitvā sammā vattaṃ pūrento na cirasseva saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇīti.
When the Teacher had attained Parinibbāna, Thera Channa, hearing of the Brahmadaṇḍa announced by Thera Ānanda, became distressed and dejected. He fainted and fell three times, then pleaded, "Bhante, please do not destroy me!" After that, he conducted himself properly and, before long, attained Arahantship together with the Paṭisambhidā.
Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, khi nghe Trưởng lão Ānanda thông báo về hình phạt Phạm Đàn, ngài đau khổ, buồn rầu, ngất xỉu ba lần rồi ngã xuống, van xin: “Bạch các ngài, xin đừng hủy hoại con”. Sau đó, ngài nỗ lực hoàn thiện các bổn phận và không lâu sau đã chứng đắc A-la-hán cùng với các Tuệ Phân Tích.
Tatrāyaṃ anupubbī kathā – atīte kira āyasmā mahākappino padumuttarabuddhassa pādamūle katābhinīhāro saṃsāre saṃsaranto bārāṇasito avidūre ekasmiṃ pesakāragāme jeṭṭhakapesakāro hutvā nibbatti.
Here is the progressive story: It is said that in the past, Venerable Mahākappina, having made an aspiration at the feet of Padumuttara Buddha, wandered through saṃsāra and was reborn as the chief weaver in a village of weavers not far from Bārāṇasī.
Câu chuyện tuần tự như sau: Trong quá khứ, Tôn giả Mahākappina đã lập nguyện dưới chân Đức Phật Padumuttara. Sau khi luân hồi trong vòng sinh tử, ngài tái sinh làm người thợ dệt trưởng trong một làng thợ dệt không xa thành Bārāṇasī.
Tadā sahassamattā paccekabuddhā aṭṭha māse himavante vasitvā vassike cattāro māse janapade vasanti.
At that time, a thousand Paccekabuddhas, having resided in the Himālaya for eight months, would reside in the populated country for the four months of the rainy season.
Vào thời đó, khoảng một ngàn vị Phật Độc Giác sống tám tháng ở Himavanta và bốn tháng mùa mưa ở các vùng dân cư.
Te ekavāraṃ bārāṇasiyā avidūre otaritvā ‘‘senāsanakaraṇatthāya hatthakammaṃ yācathā’’ti rañño santikaṃ aṭṭha paccekabuddhe pahiṇiṃsu.
Once, they descended near Bārāṇasī and sent eight Paccekabuddhas to the king, saying, "Ask for manual labor to construct a dwelling."
Một lần, các ngài hạ sơn ở một nơi không xa thành Bārāṇasī và đã cử tám vị Phật Độc Giác đến gặp nhà vua để xin giúp đỡ công việc tay chân xây dựng nơi ở.
Tadā pana rañño vappamaṅgalakālo hoti.
At that time, it was the king’s plowing festival.
Lúc đó lại là thời điểm Lễ Hạ điền của nhà vua.
So ‘‘paccekabuddhā kira āgatā’’ti sutvā tasmiṃ khaṇe nikkhamitvā āgatakāraṇaṃ pucchitvā ‘‘ajja, bhante, okāso natthi, sve amhākaṃ vappamaṅgalaṃ, tatiyadivase karissāmī’’ti vatvā paccekabuddhe animantetvāva pāvisi.
Having heard, "It is said that Paccekabuddhas have arrived," he immediately went out, asked the reason for their arrival, and said, "Bhante, there is no opportunity today. Tomorrow is our plowing festival; I will do it on the third day." Having said this, he entered without inviting the Paccekabuddhas.
Khi nghe tin “các vị Phật Độc Giác đã đến”, nhà vua liền ra ngoài, hỏi lý do các ngài đến và nói: “Bạch các ngài, hôm nay không có thời gian, ngày mai là Lễ Hạ điền của trẫm, ngày kia trẫm sẽ làm”. Nói xong, nhà vua vào cung mà không thỉnh mời các vị Phật Độc Giác.
Paccekabuddhā ‘‘aññattha gamissāmā’’ti pakkamiṃsu.
The Paccekabuddhas departed, saying, "We will go elsewhere."
Các vị Phật Độc Giác liền rời đi với ý định “chúng ta sẽ đi nơi khác”.
Tasmiṃ khaṇe jeṭṭhapesakārassa bhariyā kenacideva karaṇīyena bārāṇasiṃ gacchantī te paccekabuddhe disvā vanditvā ‘‘kiṃ, bhante, avelāya, ayyā, āgatā’’ti pucchitvā ādito paṭṭhāya kathesuṃ.
At that moment, the wife of the chief weaver, who was going to Bārāṇasī for some purpose, saw those Paccekabuddhas, paid homage, and asked, "Bhante, why have the Venerables arrived at an untimely hour?" They told her the story from the beginning.
Ngay lúc đó, vợ của người thợ dệt trưởng đang đi đến Bārāṇasī vì một việc gì đó, thấy các vị Phật Độc Giác, bà đảnh lễ và hỏi: “Bạch các ngài, sao các ngài lại đến vào lúc không phải thời?”. Các ngài đã kể lại câu chuyện từ đầu.
Taṃ pavattiṃ sutvā saddhāsampannā ñāṇasampannā itthī ‘‘sve, bhante, amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti nimantesi.
Having heard that account, the woman, endowed with faith and wisdom, invited them, saying, "Bhante, please accept alms from us tomorrow."
Nghe xong câu chuyện, người phụ nữ có đức tin và trí tuệ ấy đã thỉnh mời: “Bạch các ngài, ngày mai xin các ngài nhận vật thực của chúng con”.
‘‘Bahukā mayaṃ bhaginī’’ti.
"Sister, we are many."
“Này chị, chúng tôi đông lắm.”
‘‘Kittakā, bhante’’ti?
"How many, Bhante?"
“Bạch các ngài, bao nhiêu vị ạ?”
‘‘Sahassamattā’’ti.
"There are a thousand."
“Khoảng một ngàn vị.”
‘‘Bhante, imasmiṃ gāme sahassapesakārā vasimha.
"Venerable sirs, in this village, we, a thousand weavers, reside.
“Bạch các ngài, trong làng này chúng con có một ngàn thợ dệt.
Ekeko ekekassa bhikkhaṃ dassati, bhikkhaṃ adhivāsetha, ahameva vo vasanaṭṭhānampi kāressāmī’’ti āha.
Each one will offer alms to one of you. Please accept the alms. I myself will also arrange a dwelling place for you," she said.
Mỗi người sẽ cúng dường vật thực cho một vị, xin các ngài nhận lời. Chính con cũng sẽ lo liệu chỗ ở cho các ngài”, bà nói.
Paccekabuddhā adhivāsayiṃsu.
The Paccekabuddhas accepted.
Các vị Phật Độc Giác đã nhận lời.
Sā gāmaṃ pavisitvā ugghosesi – ‘‘ahaṃ sahassamatte paccekabuddhe disvā nimantayiṃ, ayyānaṃ nisīdanaṭṭhānaṃ saṃvidahatha, yāgubhattādīni sampādethā’’ti.
She entered the village and announced, "I have seen and invited a thousand Paccekabuddhas. Arrange seats for the venerable ones, and prepare gruel, rice, and other provisions."
Bà vào làng và loan báo: “Tôi đã gặp và thỉnh mời một ngàn vị Phật Độc Giác. Xin mọi người hãy chuẩn bị chỗ ngồi cho các ngài, và sửa soạn cháo, cơm, v.v.”.
Gāmamajjhe maṇḍapaṃ kāretvā āsanāni paññāpetvā punadivase paccekabuddhe nisīdāpetvā paṇītena khādanīyena bhojanīyena parivisitvā bhattakiccāvasāne tasmiṃ gāme sabbā itthiyo ādāya tāhi saddhiṃ paccekabuddhe vanditvā, ‘‘bhante, temāsaṃ vasanatthāya paṭiññaṃ dethā’’ti tesaṃ paṭiññaṃ gahetvā puna gāme ugghosesi – ‘‘ammatātā, ekekakulato ekeko puriso pharasuvāsiādīni gahetvā araññaṃ pavisitvā dabbasambhāre āharitvā ayyānaṃ vasanaṭṭhānaṃ karotū’’ti.
Having a pavilion erected in the middle of the village and seats arranged, on the next day, they seated the Paccekabuddhas and served them with exquisite solid and soft foods. At the end of the meal, she gathered all the women in that village, and together with them, paid homage to the Paccekabuddhas, saying, "Venerable sirs, please give your assent to reside for three months." Having received their assent, she again announced in the village, "Mothers and fathers, let each man from each household take axes, adzes, and other tools, enter the forest, bring timber and materials, and construct dwelling places for the venerable ones."
Bà cho dựng một nhà tạ ở giữa làng, trải chỗ ngồi, và vào ngày hôm sau, mời các vị Phật Độc Giác an tọa. Sau khi dâng cúng các món ăn cứng và mềm hảo hạng, khi việc thọ thực đã xong, bà cùng với tất cả phụ nữ trong làng đến đảnh lễ các vị Phật Độc Giác và thỉnh cầu: “Bạch các ngài, xin hãy hứa ở lại trong ba tháng mùa mưa”. Sau khi nhận được lời hứa của các ngài, bà lại loan báo trong làng: “Thưa các bà mẹ, các ông cha, xin mỗi gia đình cử một người đàn ông mang theo rìu, búa, v.v. vào rừng lấy vật liệu về xây dựng chỗ ở cho các ngài”.
Gāmavāsino tassāyeva vacanaṃ sutvā ekeko ekekaṃ katvā saddhiṃ rattiṭṭhānadivāṭṭhānehi paṇṇasālasahassaṃ kāretvā attano attano paṇṇasālāyaṃ vassūpagate paccekabuddhe ‘‘ahaṃ sakkaccaṃ upaṭṭhahissāmi, ahaṃ sakkaccaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti upaṭṭhahiṃsu.
The villagers, hearing her words, each constructed one leaf-hut, making a thousand leaf-huts with night and day quarters. Then, each diligently attended to the Paccekabuddhas who had entered the Rains-residence in their respective leaf-huts, saying, "I will diligently attend, I will diligently attend."
Dân làng nghe lời bà, mỗi người xây một am lá, tổng cộng một ngàn am lá có cả nơi nghỉ ban đêm và ban ngày. Họ đã chăm sóc các vị Phật Độc Giác an cư mùa mưa trong am lá của mình, mỗi người đều nói: “Tôi sẽ chăm sóc cẩn thận, tôi sẽ chăm sóc cẩn thận”.
Vassaṃvuṭṭhakāle ‘‘attano attano paṇṇasālāya vassaṃvuṭṭhānaṃ paccekabuddhānaṃ cīvarasāṭake sajjethā’’ti samādapetvā ekekassa sahassasahassamūlaṃ cīvaraṃ dāpesi.
At the end of the Rains-residence, she exhorted them, "Prepare robes for the Paccekabuddhas who have completed the Rains-residence in their respective leaf-huts," and had them donate robes worth a thousand (coins) for each.
Khi mùa an cư kết thúc, bà lại kêu gọi: “Xin mọi người hãy chuẩn bị vải y cho các vị Phật Độc Giác đã an cư mùa mưa trong am lá của mình”. Bà đã sắp xếp để mỗi vị được cúng dường một bộ y trị giá một ngàn đồng.
Paccekabuddhā vuṭṭhavassā anumodanaṃ katvā pakkamiṃsu.
The Paccekabuddhas, having completed the Rains-residence, gave their appreciation and departed.
Các vị Paccekabuddha, sau khi an cư kiết hạ xong, đã hoan hỷ rồi ra đi.
Gāmavāsinopi idaṃ puññakammaṃ katvā ito cutā tāvatiṃsabhavane nibbattitvā gaṇadevaputtā nāma ahesuṃ.
The villagers, too, having performed this meritorious deed, passed away from this existence and were reborn in the Tāvatiṃsa realm, becoming known as the Gaṇadevaputtas.
Cư dân trong làng, sau khi làm công đức này, đã mệnh chung từ cõi người đó, tái sinh vào cõi trời Tāvatiṃsa và trở thành các vị thiên tử Gaṇadevaputta.
Te tattha dibbasampattiṃ anubhavitvā kassapasammāsambuddhakāle bārāṇasiyaṃ kuṭumbikagehesu nibbattiṃsu.
Having experienced divine prosperity there, they were reborn in the households of householders in Bārāṇasī during the time of Kassapa Sammāsambuddha.
Tại đó, họ hưởng thụ thiên lạc, rồi vào thời Đức Phật Chánh Đẳng Giác Kassapa, họ tái sinh vào các gia đình gia chủ ở thành Bārāṇasī.
Jeṭṭhakapesakāro jeṭṭhakakuṭumbikassa putto ahosi.
The chief weaver became the son of the chief householder.
Người thợ dệt cả là con trai của vị gia chủ lớn nhất.
Bhariyāpissa jeṭṭhakakuṭumbikasseva dhītā ahosi.
His wife was also the daughter of that very chief householder.
Vợ của ông ta cũng là con gái của chính vị gia chủ lớn nhất ấy.
Tā sabbāpi vayappattā parakulaṃ gacchantiyo tesaṃ tesaṃyeva gehāni agamiṃsu.
All of them, upon reaching maturity, went to other families, to the very homes of those (householders' sons).
Tất cả những người phụ nữ ấy, khi đến tuổi trưởng thành, đều về nhà chồng của chính các vị gia chủ ấy.
Athekadivasaṃ vihāre dhammassavanaṃ saṅghuṭṭhaṃ.
Then, one day, a Dhamma discourse was announced at the monastery.
Rồi một ngày nọ, có tiếng hô hào nghe pháp tại tu viện.
‘‘Satthā dhammaṃ desessatī’’ti sutvā sabbepi te kuṭumbikā ‘‘dhammaṃ sossāmā’’ti bhariyāhi saddhiṃ vihāraṃ agamiṃsu.
Hearing, "The Teacher will preach the Dhamma," all those householders went to the monastery with their wives, saying, "We will listen to the Dhamma."
Nghe nói: "Đức Thế Tôn sẽ thuyết pháp", tất cả các gia chủ ấy cùng với vợ mình đã đến tu viện để nghe pháp.
Tesaṃ vihāramajjhaṃ paviṭṭhakkhaṇe vassaṃ uṭṭhahi.
At the moment they entered the middle of the monastery, rain began to fall.
Ngay khi họ vừa bước vào giữa tu viện thì trời đổ mưa.
Yesaṃ kulūpakā vā ñātisāmaṇerādayo vā atthi, te tesaṃ pariveṇāni pavisiṃsu.
Those who had resident monks or novice relatives entered their respective cells.
Những người có thân quyến xuất gia hoặc sa-di thân thuộc thì đi vào các tịnh xá của họ.
Te pana tathārūpānaṃ natthitāya katthaci, pavisituṃ avisahantā vihāramajjheyeva aṭṭhaṃsu.
But as they had no such (relatives), being unable to enter anywhere, they stood right in the middle of the monastery.
Nhưng những người này, vì không có những vị như vậy, nên không thể vào đâu được, đành đứng giữa tu viện.
Atha ne jeṭṭhakakuṭumbiko āha – ‘‘passatha amhākaṃ vippakāraṃ, kulaputtehi nāma ettakena lajjituṃ yutta’’nti.
Then the chief householder said to them, "Look at our predicament! It is proper for noble sons to be ashamed by such a thing."
Bấy giờ, vị gia chủ lớn nhất nói với họ: "Hãy xem sự bất tiện của chúng ta! Đối với những người con của gia đình danh giá như chúng ta, thật đáng hổ thẹn biết bao!"
‘‘Ayya, kiṃ pana karomā’’ti?
"Sir, what can we do?"
"Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì đây?"
‘‘Mayaṃ vissāsikaṭṭhānassa abhāvena imaṃ vippakāraṃ pattā, sabbe dhanaṃ saṃharitvā pariveṇaṃ karomā’’ti.
"We have fallen into this predicament due to the lack of a familiar place. Let us all collect money and build a monastery."
"Chúng ta gặp phải sự bất tiện này vì không có chỗ thân quen. Tất cả chúng ta hãy cùng góp tiền xây một tịnh xá."
‘‘Sādhu, ayyā’’ti jeṭṭhako sahassaṃ adāsi, sesā pañca pañca satāni.
"Very well, sir," said the chief, and he gave a thousand; the others gave five hundred each.
"Vâng, thưa ngài!" Vị trưởng giả đã cúng dường một ngàn, những người còn lại mỗi người năm trăm.
Itthiyo aḍḍhateyyāni aḍḍhateyyāni satāni.
The women gave two hundred and fifty each.
Các phụ nữ mỗi người hai trăm năm mươi.
Te taṃ dhanaṃ saṃharitvā sahassakūṭāgāraparivāraṃ satthu vasanatthāya mahāpariveṇaṃ nāma ārabhiṃsu.
They collected that money and began constructing a great monastery, named Mahāpariveṇa, with a thousand pinnacled dwellings as its enclosure, for the Teacher's residence.
Họ góp số tiền đó lại và bắt đầu xây dựng một đại tịnh xá với một ngàn phòng có mái nhọn để Đức Thế Tôn ở.
Navakammassa mahantatāya dhane appahonte pubbe dinnadhanato puna upaḍḍhūpaḍḍhaṃ adaṃsu.
As the new construction was vast, and the money was insufficient, they again gave half of the previously donated amount.
Vì công trình xây dựng quá lớn mà tiền không đủ, họ lại cúng dường thêm một nửa số tiền đã cúng trước đó.
Niṭṭhite pariveṇe vihāramahaṃ karontā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa sattāhaṃ mahādānaṃ datvā vīsatiyā bhikkhusahassānaṃ cīvarāni sajjiṃsu.
When the monastery was completed, they held a monastery dedication ceremony, gave a great offering for seven days to the Sangha headed by the Buddha, and prepared robes for twenty thousand monks.
Sau khi tịnh xá hoàn thành, họ tổ chức lễ khánh thành tu viện, cúng dường đại thí cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu trong bảy ngày, và sắm sửa y phục cho hai mươi ngàn vị tỳ khưu.
Jeṭṭhakakuṭumbikassa pana bhariyā sabbehi samānaṃ akatvā attano paññāya ṭhitā ‘‘atirekataraṃ katvā satthāraṃ pūjessāmī’’ti anojapupphavaṇṇena sahassamūlena sāṭakena saddhiṃ anojapupphacaṅkoṭakaṃ gahetvā anumodanakāle satthāraṃ anojapupphehi pūjetvā taṃ sāṭakaṃ satthu pādamūle ṭhapetvā, ‘‘bhante, nibbattanibbattaṭṭhāne anojapupphavaṇṇaṃyeva me sarīraṃ hotu, anojā eva ca me nāmaṃ hotū’’ti patthanaṃ paṭṭhapesi.
However, the chief householder's wife, not acting like the others, stood firm in her own wisdom, thinking, "I will honor the Teacher with even greater devotion." Taking a basket of anojā flowers along with a thousand-worth robe the color of anojā flowers, at the time of the anumodanā, she honored the Teacher with anojā flowers and placed that robe at the Teacher's feet, making this aspiration: "Venerable Sir, in every rebirth, may my body be the color of anojā flowers, and may Anojā alone be my name."
Còn vợ của vị gia chủ lớn nhất, không làm giống như mọi người, mà dựa vào trí tuệ của mình, nghĩ: "Ta sẽ cúng dường Đức Thế Tôn một cách đặc biệt hơn", liền mang theo một hộp đựng hoa anojā cùng với một tấm y phục giá một ngàn có màu sắc như hoa anojā. Đến lúc tùy hỷ, bà cúng dường hoa anojā cho Đức Thế Tôn, đặt tấm y phục dưới chân Ngài, rồi phát nguyện: "Bạch Đức Thế Tôn, ở bất cứ nơi nào con tái sinh, thân thể con nguyện có màu sắc như hoa anojā, và tên con cũng nguyện là Anojā."
Satthā ‘‘evaṃ hotū’’ti anumodanaṃ akāsi.
The Teacher gave His blessing, saying, "So be it."
Đức Thế Tôn đã tùy hỷ và nói: "Nguyện được như vậy!"
Te sabbepi yāvatāyukaṃ ṭhatvā tato cutā devaloke nibbattitvā imasmiṃ buddhuppāde devalokā cavitvā jeṭṭhakakuṭumbiko kukkuṭavatīnagare rājakule nibbattitvā vayappatto mahākappinarājā nāma ahosi, sesā amaccakule nibbattiṃsu.
All of them lived for their full lifespan, and passing away from there, were reborn in the deva world. In this Buddha-era, they passed away from the deva world; the chief householder was reborn in a royal family in the city of Kukkuṭavatī and, having reached maturity, became King Mahākappina, while the others were reborn into families of ministers.
Tất cả những người ấy, sau khi sống trọn tuổi thọ, đã mệnh chung từ cõi người đó, tái sinh vào cõi trời. Vào thời Đức Phật xuất hiện này, họ mệnh chung từ cõi trời. Vị gia chủ lớn nhất tái sinh vào dòng dõi hoàng tộc ở thành Kukkuṭavatī, khi trưởng thành trở thành vua Mahākappina. Những người còn lại tái sinh vào dòng dõi quan lại.
Jeṭṭhakakuṭumbikassa bhariyā maddaraṭṭhe sāgalanagare rājakule nibbatti, anojapupphavaṇṇamevassā sarīraṃ ahosi, anojātvevassā nāmaṃ kariṃsu.
The chief householder's wife was reborn into a royal family in Sāgala city in the Madda country; her body was the color of anojā flowers, and they named her Anojā.
Vợ của vị gia chủ lớn nhất tái sinh vào dòng dõi hoàng tộc ở thành Sāgala, xứ Madda; thân thể của bà có màu sắc như hoa anojā, và họ đặt tên bà là Anojā.
Sā vayappattā mahākappinarañño gehaṃ gantvā anojādevī nāma ahosi.
Having reached maturity, she went to the palace of King Mahākappina and became Queen Anojā.
Khi trưởng thành, bà đến cung điện của vua Mahākappina và trở thành hoàng hậu Anojādevī.
Sesitthiyopi amaccakulesu nibbattitvā vayappattā tesaṃyeva amaccaputtānaṃ gehāni agamaṃsu.
The other women were also reborn into families of ministers and, having reached maturity, went to the homes of those very ministers' sons.
Những người phụ nữ còn lại cũng tái sinh vào các gia đình quan lại, khi trưởng thành, họ cũng về nhà của chính các con trai của các vị quan lại ấy.
Te sabbe rañño sampattisadisaṃ sampattiṃ anubhaviṃsu.
All of them enjoyed prosperity similar to the king's prosperity.
Tất cả họ đều hưởng thụ sự giàu sang tương tự như vua.
Yadā rājā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍito hatthiṃ abhiruhitvā vicari, tadā tepi tatheva vicaranti.
When the king, adorned with all ornaments, rode an elephant and traveled, they also traveled in the same manner.
Khi nhà vua, trang điểm đầy đủ mọi trang sức, cưỡi voi đi tuần, thì họ cũng đi tuần như vậy.
Tasmiṃ assena vā rathena vā vicarante tepi tatheva vicaranti?
When he traveled by horse or by chariot, they also traveled in the same manner.
Khi nhà vua cưỡi ngựa hoặc xe đi tuần, thì họ cũng đi tuần như vậy.
Evaṃ te ekato hutvā katānaṃ puññānaṃ ānubhāvena ekatova sampattiṃ anubhaviṃsu.
Thus, they experienced prosperity together due to the power of the merits they had accumulated together.
Như vậy, do năng lực của những công đức đã làm chung, họ cùng nhau hưởng thụ sự giàu sang.
Rañño pana balo, balavāhano, puppho, pupphavāhano, supattoti pañca assā honti.
The king had five horses named Bala, Balavāhana, Puppha, Pupphavāhana, and Supatta.
Nhà vua có năm con ngựa: Bala, Balavāhana, Puppha, Pupphavāhana, và Supatta.
Rājā tesu supattaṃ assaṃ sayaṃ ārohati, itare cattāro assārohānaṃ sāsanāharaṇatthāya adāsi.
The king himself rode the horse Supatta, and he gave the other four horses to the horsemen for carrying messages.
Nhà vua tự mình cưỡi con ngựa Supatta, còn bốn con ngựa kia thì giao cho các kỵ sĩ để mang tin tức.
Rājā te pātova bhojetvā ‘‘gacchatha dve vā tīṇi vā yojanāni āhiṇḍitvā buddhassa vā dhammassa vā saṅghassa vā uppannabhāvaṃ ñatvā mayhaṃ sukhasāsanaṃ āharathā’’ti pesesi.
The king fed them early in the morning and sent them forth, saying, "Go, wander two or three yojanas, and having learned whether the Buddha, the Dhamma, or the Saṅgha has arisen, bring me good news."
Nhà vua cho họ ăn sáng sớm rồi sai đi: "Hãy đi hai hoặc ba dojana, tìm hiểu xem Đức Phật, Pháp, hoặc Tăng đã xuất hiện chưa, rồi mang tin tốt lành về cho ta."
Te catūhi dvārehi nikkhamitvā tīṇi yojanāni āhiṇḍitvā sāsanaṃ alabhitvā paccāgacchanti.
They departed through the four gates, wandered three yojanas, and returned without finding any message.
Họ ra khỏi bốn cổng thành, đi tuần ba dojana, nhưng không tìm được tin tức nào, nên quay về.
Athekadivasaṃ rājā supattaṃ assaṃ āruyha amaccasahassaparivuto uyyānaṃ gacchanto kilantarūpe pañcasatavāṇijake nagaraṃ pavisante disvā ‘‘ime addhānakilantā, addhā imesaṃ santikā ekaṃ bhaddakaṃ sāsanaṃ sossāmī’’ti te pakkosāpetvā ‘‘kuto āgacchathā’’ti pucchi.
Then one day, the king, riding the horse Supatta and surrounded by a thousand ministers, was going to the park when he saw five hundred weary merchants entering the city. Thinking, "These are tired from their journey; surely I will hear some good news from them," he had them called and asked, "Where do you come from?"
Rồi một ngày nọ, nhà vua cưỡi ngựa Supatta, cùng với một ngàn vị quan cận thần, đang đi đến khu vườn, thấy năm trăm thương nhân trông có vẻ mệt mỏi đang đi vào thành, liền nghĩ: "Những người này chắc hẳn đã mệt mỏi vì đường xa, chắc chắn ta sẽ nghe được một tin tốt lành từ họ", bèn cho gọi họ lại và hỏi: "Các con từ đâu đến?"
‘‘Atthi, deva, ito vīsatiyojanasatamatthake sāvatthi nāma nagaraṃ, tato āgacchāmā’’ti.
"Sire, there is a city called Sāvatthī, a hundred and twenty yojanas from here; we come from there."
"Bạch Đức Vua, có một thành phố tên là Sāvatthī, cách đây một trăm hai mươi dojana, chúng con từ đó đến ạ."
‘‘Atthi pana vo padese kiñci sāsanaṃ uppanna’’nti.
"Has any message arisen in your region?"
"Ở xứ sở của các con có tin tức gì mới không?"
‘‘Deva, aññaṃ kiñci natthi, sammāsambuddho pana uppanno’’ti.
"Sire, there is no other news, but the Perfectly Enlightened Buddha has arisen."
"Bạch Đức Vua, không có tin tức gì khác, nhưng Đức Chánh Đẳng Giác đã xuất hiện ạ."
Rājā tāvadeva pañcavaṇṇāya pītiyā phuṭṭhasarīro kiñci sallakkhetuṃ asakkonto muhuttaṃ vītināmetvā, ‘‘tātā, kiṃ vadethā’’ti pucchi.
Immediately, the king's body was pervaded by fivefold rapture, and being unable to discern anything, he let a moment pass and asked, "My dear sirs, what did you say?"
Ngay lập tức, toàn thân nhà vua tràn ngập năm loại hỷ lạc, không thể nhận biết được gì, sau một khoảnh khắc, Ngài hỏi: "Các con nói gì vậy?"
‘‘Buddho, deva, uppanno’’ti.
"Sire, the Buddha has arisen."
"Bạch Đức Vua, Đức Phật đã xuất hiện ạ."
Rājā dutiyampi tatiyampi tatheva vītināmetvā catutthe vāre ‘‘kiṃ vadetha, tātā’’ti pucchitvā ‘‘buddho, deva, uppanno’’ti vutte, ‘‘tātā, vo satasahassaṃ dadāmī’’ti vatvā ‘‘aññampi kiñci sāsanaṃ atthī’’ti pucchi.
The king, for the second and third time, let a moment pass in the same way. On the fourth occasion, having asked, "What did you say, my dear sirs?" and when they said, "Sire, the Buddha has arisen," he declared, "My dear sirs, I give you a hundred thousand!" and then asked, "Is there any other message?"
Nhà vua lại hai lần, ba lần như vậy, sau đó, đến lần thứ tư, khi được hỏi: "Các con nói gì vậy, các con?", và họ trả lời: "Bạch Đức Vua, Đức Phật đã xuất hiện ạ", Ngài liền nói: "Các con, ta sẽ ban cho các con một trăm ngàn", rồi hỏi: "Còn tin tức gì khác nữa không, các con?"
‘‘Atthi, deva, dhammo uppanno’’ti.
"Sire, the Dhamma has arisen."
"Bạch Đức Vua, có Pháp đã xuất hiện ạ."
Rājā tampi sutvā purimanayeneva tayo vāre vītināmetvā catutthe vāre ‘‘dhammo uppanno’’ti vutte ‘‘idhāpi vo satasahassaṃ dammī’’ti vatvā ‘‘aparampi sāsanaṃ atthi, tātā’’ti pucchi.
Hearing this too, the king let three moments pass in the same manner as before. On the fourth occasion, when they said, "The Dhamma has arisen," he declared, "Here too, I give you a hundred thousand!" and asked, "Is there any other message, my dear sirs?"
Nghe vậy, nhà vua cũng ba lần như cách trước, sau đó, đến lần thứ tư, khi được nói: "Pháp đã xuất hiện", Ngài liền nói: "Ở đây ta cũng ban cho các con một trăm ngàn", rồi hỏi: "Còn tin tức gì khác nữa không, các con?"
‘‘Atthi, deva, saṅgharatanaṃ uppanna’’nti.
"Sire, the Jewel of the Saṅgha has arisen."
"Bạch Đức Vua, có Tăng bảo đã xuất hiện ạ."
Rājā tampi sutvā tayo vāre vītināmetvā catutthe vāre ‘‘saṅgho’’ti pade vutte ‘‘idhāpi vo satasahassaṃ dammī’’ti vatvā amaccasahassaṃ oloketvā, ‘‘tātā, kiṃ karissathā’’ti pucchi.
Hearing this too, the king let three moments pass. On the fourth occasion, when the word "Saṅgha" was spoken, he declared, "Here too, I give you a hundred thousand!" and looking at the thousand ministers, he asked, "My dear sirs, what will you do?"
Nghe vậy, nhà vua cũng ba lần như cách trước, sau đó, đến lần thứ tư, khi từ "Tăng" được nói ra, Ngài liền nói: "Ở đây ta cũng ban cho các con một trăm ngàn", rồi nhìn một ngàn vị quan cận thần và hỏi: "Các con sẽ làm gì?"
‘‘Deva, tumhe kiṃ karissathā’’ti?
"Sire, what will you do?"
"Bạch Đức Vua, Ngài sẽ làm gì?"
‘‘Ahaṃ, tātā, ‘buddho uppanno, dhammo uppanno, saṅgho uppanno’ti sutvā na puna nivattissāmi, satthāraṃ uddissa gantvā tassa santike pabbajissāmī’’ti.
“My dear sirs, having heard, ‘The Buddha has arisen, the Dhamma has arisen, the Saṅgha has arisen,’ I will not turn back again. I will go forth, intending for the Teacher, and will ordain in his presence.”
"Các con, ta nghe nói 'Đức Phật đã xuất hiện, Pháp đã xuất hiện, Tăng đã xuất hiện' thì sẽ không quay lại nữa, ta sẽ đi theo Đức Thế Tôn và xuất gia dưới sự hướng dẫn của Ngài."
‘‘Mayampi, deva, tumhehi saddhiṃ pabbajissāmā’’ti.
“Venerable sir, we too will go forth with you.”
"Bạch Đức Vua, chúng tôi cũng sẽ xuất gia cùng với Ngài."
Rājā suvaṇṇapaṭṭe akkharāni likhāpetvā vāṇijake āha – ‘‘anojā nāma devī tumhākaṃ tīṇi satasahassāni dassati, evañca pana naṃ vadeyyātha ‘rañño kira te issariyaṃ vissaṭṭhaṃ, yathāsukhaṃ sampattiṃ paribhuñjāhī’ti, sace pana vo ‘rājā kaha’nti pucchati, ‘satthāraṃ uddissa pabbajissāmīti vatvā gato’ti āroceyyāthā’’ti.
The king had letters inscribed on a golden plate and said to the merchants, “The queen named Anojā will give you three hundred thousand. And you should tell her, ‘It is said that the king has relinquished his sovereignty to you; enjoy the prosperity as you wish.’ But if she asks you, ‘Where is the king?’ you should report, ‘He has gone forth, saying he would ordain for the Teacher.’”
Nhà vua cho khắc chữ lên tấm bảng vàng và nói với các thương nhân: "Hoàng hậu Anojā sẽ ban cho các con ba trăm ngàn. Và hãy nói với bà ấy rằng: 'Đức Vua đã từ bỏ quyền lực của Ngài, xin Hoàng hậu hãy hưởng thụ sự giàu sang tùy ý', nếu bà ấy hỏi: 'Đức Vua ở đâu?', thì hãy báo rằng: 'Ngài đã đi xuất gia theo Đức Thế Tôn rồi'."
Amaccāpi attano attano bhariyānaṃ tatheva sāsanaṃ pahiṇiṃsu.
The ministers also sent the same message to their respective wives.
Các vị quan cận thần cũng gửi tin tức tương tự cho vợ của mình.
Rājā vāṇijake uyyojetvā assaṃ abhiruyha amaccasahassaparivuto taṃ khaṇaṃyeva nikkhami.
The king dismissed the merchants, mounted his horse, and departed at that very moment, surrounded by a thousand ministers.
Nhà vua tiễn các thương nhân đi, rồi cưỡi ngựa, cùng với một ngàn vị quan cận thần, lập tức khởi hành.
Satthāpi taṃ divasaṃ paccūsakāle lokaṃ volokento mahākappinarājānaṃ saparivāraṃ disvā ‘‘ayaṃ mahākappino vāṇijakānaṃ santikā tiṇṇaṃ ratanānaṃ uppannabhāvaṃ sutvā tesaṃ vacanaṃ tīhi satasahassehi pūjetvā rajjaṃ pahāya amaccasahassehi parivuto maṃ uddissa pabbajitukāmo sve nikkhamissati.
That day, the Teacher, too, surveying the world in the early morning, saw King Mahākappina with his retinue and thought, “This Mahākappina, having heard from the merchants about the arising of the Three Jewels, having honored their words with three hundred thousand, and having abandoned his kingdom, will depart tomorrow, surrounded by a thousand ministers, intending to go forth for me.
Đức Thế Tôn cũng vào buổi sáng hôm đó, khi quán sát thế gian, thấy vua Mahākappina cùng tùy tùng, liền nghĩ: "Vua Mahākappina này, sau khi nghe tin về sự xuất hiện của ba viên ngọc quý từ các thương nhân, đã ban thưởng cho lời nói của họ ba trăm ngàn, từ bỏ vương quốc, và cùng với một ngàn vị quan cận thần, muốn xuất gia theo Ta. Ngài sẽ khởi hành vào ngày mai.
So saparivāro saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇissati, paccuggamanamassa karissāmī’’ti punadivase cakkavattī viya khuddakagāmabhojakaṃ paccuggacchanto sayameva pattacīvaraṃ gahetvā vīsayojanasataṃ maggaṃ paccuggantvā candabhāgāya nadiyā tīre nigrodharukkhamūle chabbaṇṇarasmiyo vissajjento nisīdi.
He, together with his retinue, will attain Arahantship with the analytical knowledges. I will go to meet him.” So, the next day, like a Universal Monarch going to meet a petty village headman, he himself took his bowl and robes, went a hundred and twenty yojanas to meet him, and sat down at the bank of the Candabhāgā River at the root of a banyan tree, emitting six-colored rays.
Vị ấy cùng với tùy tùng của mình sẽ chứng đắc A-la-hán quả cùng với các phân tích tuệ (paṭisambhidā). Ta sẽ đi đón vị ấy.” Như vậy, vào ngày hôm sau, Đức Đạo Sư, giống như một vị Chuyển Luân Vương đi đón một người cai quản làng nhỏ, tự mình mang bát và y, đi đón trên quãng đường một trăm hai mươi do tuần, rồi ngồi dưới gốc cây nigrodha bên bờ sông Candabhāgā, phóng ra sáu màu hào quang.
‘‘Rājāpi āgacchanto ekaṃ nadiṃ patvā ‘‘kā nāmesā’’ti pucchi.
The king, too, as he was coming, reached a river and asked, “What is this river called?”
Vua cũng hỏi khi đến một con sông: “Sông này tên gì?”
‘‘Aparacchā nāma, devā’’ti.
“It is called Aparacchā, venerable sir.”
“Tâu Đại vương, tên là Aparacchā.”
‘‘Kimassā parimāṇaṃ, tātā’’ti?
“What is its measure, my dear sirs?”
“Này con, chiều dài của nó là bao nhiêu?”
‘‘Gambhīrato gāvutaṃ, puthulato dve gāvutāni, devā’’ti.
“It is a gāvuta in depth and two gāvutas in width, venerable sir.”
“Tâu Đại vương, sâu một gāvuta, rộng hai gāvuta.”
‘‘Atthi panettha nāvā vā uḷumpo vā’’ti?
“Are there any boats or rafts here?”
“Ở đây có thuyền hay bè gì không?”
‘‘Natthi, devā’’ti.
“No, venerable sir.”
“Tâu Đại vương, không có.”
‘‘Nāvādīni olokente amhe jāti jaraṃ upaneti, jarā maraṇaṃ.
“While we are looking for boats and so on, birth leads us to old age, and old age to death.
“Trong khi chúng ta tìm kiếm thuyền bè v.v., sinh, già đang đến với chúng ta; già, chết đang đến.”
Ahaṃ nibbematiko hutvā tīṇi ratanāni uddissa nikkhanto, tesaṃ me ānubhāvena imaṃ udakaṃ udakaṃ viya mā ahosī’’ti tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇaṃ āvajjetvā ‘‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho’’ti buddhānussatiṃ anussaranto saparivāro assasahassena udakapiṭṭhiṃ pakkhandi.
I have come forth without doubt, intending for the Three Jewels. By their power, may this water not be like water for me!” Thus reflecting on the virtues of the Three Jewels, and recollecting the Buddha (buddhānussati) with the words, “Indeed, that Blessed One is Arahant, Perfectly Self-Enlightened,” he plunged into the water with his thousand horses, accompanied by his retinue.
"Ta không còn nghi ngờ gì nữa, ta đã xuất gia vì Ba Ngôi Tam Bảo. Nhờ oai lực của Ba Ngôi Tam Bảo ấy, nguyện cho nước này đừng như nước đối với ta." Sau khi quán tưởng các đức tính của Ba Ngôi Tam Bảo, và niệm tưởng Phật ân (buddhānussati) rằng: "Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác", vua cùng đoàn tùy tùng với một ngàn con ngựa đã băng qua mặt nước.
Sindhavā piṭṭhipāsāṇe viya pakkhandiṃsu.
The Sindhu horses crossed as if on a slab of rock.
Những con ngựa Sindhu băng qua như thể trên một phiến đá.
Khurānaṃ aggā neva temiṃsu.
The tips of their hooves did not get wet.
Móng của chúng không hề bị ướt.
So taṃ uttaritvā purato gacchanto aparampi nadiṃ disvā ‘‘ayaṃ kā nāmā’’ti pucchi.
Having crossed that river, he went forward and saw another river, and asked, “What is this one called?”
Sau khi vượt qua con sông ấy, vua đi về phía trước và thấy một con sông khác, bèn hỏi: "Con sông này tên gì?"
‘‘Nīlavāhinī nāma, devā’’ti.
“It is called Nīlavāhinī, venerable sir.”
"Thưa bệ hạ, tên là Nīlavāhinī."
‘‘Kimassā parimāṇa’’nti?
“What is its measure?”
"Kích thước của nó là bao nhiêu?"
‘‘Gambhīratopi puthulatopi aḍḍhayojanaṃ, devā’’ti.
“It is half a yojana both in depth and in width, venerable sir.”
"Thưa bệ hạ, cả về độ sâu lẫn chiều rộng đều nửa dojana."
Sesaṃ purimasadisameva.
The rest is the same as before.
Phần còn lại tương tự như trước.
Taṃ pana nadiṃ disvā ‘‘svākkhāto bhagavatā dhammo’’ti dhammānussatiṃ anussaranto pakkhandi.
Seeing that river, he recollected the Dhamma (dhammānussati) with the words, “Well-expounded is the Dhamma by the Blessed One,” and plunged in.
Khi nhìn thấy con sông ấy, vua niệm tưởng Pháp ân (dhammānussati) rằng: "Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng khéo léo", rồi băng qua.
Tampi atikkamitvā gacchanto aparampi nadiṃ disvā ‘‘ayaṃ kā nāmā’’ti pucchi.
Having crossed that too, he went forward and saw another river, and asked, “What is this one called?”
Vượt qua con sông ấy và đi tiếp, vua thấy một con sông khác và hỏi: "Con sông này tên gì?"
‘‘Candabhāgā nāma, devā’’ti.
“It is called Candabhāgā, venerable sir.”
"Thưa bệ hạ, tên là Candabhāgā."
‘‘Kimassā parimāṇa’’nti?
“What is its measure?”
"Kích thước của nó là bao nhiêu?"
‘‘Gambhīratopi puthulatopi yojanaṃ, devā’’ti.
“It is one yojana both in depth and in width, venerable sir.”
"Thưa bệ hạ, cả về độ sâu lẫn chiều rộng đều một dojana."
Sesaṃ purimasadisameva.
The rest is the same as before.
Phần còn lại tương tự như trước.
Imaṃ pana nadiṃ disvā ‘‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho’’ti saṅghānussatiṃ anussaranto pakkhandi.
Seeing this river, he recollected the Saṅgha (saṅghānussati) with the words, “The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is practicing well,” and plunged in.
Khi nhìn thấy con sông này, vua niệm tưởng Tăng ân (saṅghānussati) rằng: "Chúng Tăng đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc hành trì chân chánh", rồi băng qua.
Taṃ pana nadiṃ atikkamitvā gacchanto satthu sarīrato nikkhantā chabbaṇṇarasmiyo addasa.
Having crossed that river, as he was going, he saw the six-colored rays emanating from the Teacher’s body.
Sau khi vượt qua con sông ấy và đi tiếp, vua thấy sáu vầng hào quang rực rỡ phát ra từ thân Đức Đạo Sư.
Nigrodharukkhassa sākhāviṭapapalāsāni sovaṇṇamayāni viya ahesuṃ.
The branches, twigs, and leaves of the banyan tree were as if made of gold.
Các cành, nhánh và lá của cây đa dường như được làm bằng vàng.
Rājā cintesi – ‘‘ayaṃ pana obhāso neva candassa, na sūriyassa, na devamārabrahmanāgasupaṇṇādīnaṃ aññatarassa, addhā ahaṃ satthāraṃ uddissa āgacchanto mahāgotamabuddhena diṭṭho bhavissāmī’’ti.
The king thought, “This radiance is neither of the moon, nor of the sun, nor of any of the devas, Māras, Brahmās, Nāgas, Supaṇṇas, and so on. Surely, I, who am coming for the Teacher, must have been seen by the Great Gotama Buddha.”
Vua suy nghĩ: "Ánh sáng này không phải của mặt trăng, không phải của mặt trời, cũng không phải của các vị trời, chúa tể ma vương, Phạm thiên, long vương, kim sí điểu, v.v., chắc chắn ta đã được Đức Phật Gotama vĩ đại nhìn thấy khi đến để tìm Đức Đạo Sư."
So tāvadeva assapiṭṭhito otaritvā onatasarīro rasmianusārena satthāraṃ upasaṅkamitvā manosilārase nimujjanto viya buddharasmīnaṃ anto pavisitvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi saddhiṃ amaccasahassena, satthā tassa anupubbiṃ kathaṃ kathesi.
At that very moment, he dismounted from the horse's back, and with a bowed body, following the rays, he approached the Teacher. As if sinking into vermillion-colored liquid, he entered among the Buddha's rays, paid homage to the Teacher, and sat down at one side with a thousand ministers. The Teacher then delivered a gradual discourse to him.
Ngay lập tức, vua xuống ngựa, cúi mình, đi theo ánh hào quang đến gần Đức Đạo Sư, như thể đang lặn vào dòng nước đá son, bước vào giữa các vầng hào quang của Đức Phật, đảnh lễ Đức Đạo Sư rồi ngồi xuống một bên cùng với một ngàn vị đại thần. Đức Đạo Sư đã thuyết giảng bài pháp tuần tự cho vua.
Desanāvasāne rājā saparivāro sotāpattiphale patiṭṭhahi.
At the end of the discourse, the king, together with his retinue, was established in the fruit of stream-entry.
Kết thúc bài pháp, vua cùng đoàn tùy tùng đã an trú vào quả vị Dự Lưu (sotāpattiphala).
Atha sabbeva uṭṭhahitvā pabbajjaṃ yāciṃsu.
Then, all of them rose and requested ordination.
Sau đó, tất cả đều đứng dậy và cầu xin được xuất gia.
Satthā ‘‘āgamissati nu kho imesaṃ kulaputtānaṃ iddhimayapattacīvara’’nti upadhārento ‘‘ime kulaputtā paccekabuddhasahassassa cīvarasahassaṃ adaṃsu, kassapasammāsambuddhakāle vīsatiyā bhikkhusahassānampi vīsaticīvarasahassānipi adaṃsu.
The Teacher, considering, "Will robes and alms-bowls made by psychic power come to these noble sons?" and knowing that "These noble sons have offered a thousand robes to a thousand Paccekabuddhas, and in the time of Kassapa Sammāsambuddha, they also offered twenty thousand robes to twenty thousand bhikkhus.
Đức Đạo Sư quán xét: "Liệu y bát thần thông có hiện ra cho các thiện nam tử này không?" Ngài biết: "Các thiện nam tử này đã từng cúng dường một ngàn bộ y cho một ngàn vị Độc Giác Phật. Vào thời Đức Phật Chánh Đẳng Giác Kassapa, họ cũng đã cúng dường hai mươi ngàn bộ y cho hai mươi ngàn vị Tỳ-khưu.
Anacchariyaṃ imesaṃ iddhimayapattacīvarāgamana’’nti ñatvā dakkhiṇahatthaṃ pasāretvā ‘‘etha, bhikkhavo, caratha brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāyā’’ti āha.
It is not surprising for robes and alms-bowls made by psychic power to come to them," stretched out his right hand and said, "Come, bhikkhus! Live the holy life for the complete ending of suffering."
Biết rằng: “Việc y bát thần thông hiện ra cho những thiện nam tử này không có gì lạ lùng”, Ngài duỗi tay phải ra và nói: “Này các Tỳ-khưu, hãy đến đây, hãy thực hành Phạm hạnh để chấm dứt khổ đau một cách chân chánh.”
Te tāvadeva aṭṭhaparikkhāradharā vassasaṭṭhikattherā viya hutvā vehāsaṃ abbhuggantvā paccorohitvā satthāraṃ vanditvā nisīdiṃsu.
At that very moment, they became like Theras of sixty vassas, possessing the eight requisites, rose into the air, descended again, paid homage to the Teacher, and sat down.
Ngay lúc đó, họ trở thành những vị Trưởng lão đã thọ giới sáu mươi hạ lạp, mang theo tám món vật dụng của Sa-môn, rồi bay vút lên không trung, sau đó hạ xuống, đảnh lễ Đức Bổn Sư và ngồi xuống.
Tepi vāṇijakā rājakulaṃ gantvā raññā pahitabhāvaṃ ārocāpetvā deviyā ‘‘āgacchantū’’ti vutte pavisitvā vanditvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.
Those merchants also went to the royal palace, announced that they had been sent by the king, and when the queen said, "Let them come," they entered, paid homage, and stood at one side.
Những người lái buôn ấy cũng đến hoàng cung, trình báo rằng mình được nhà vua phái đến. Khi Hoàng hậu nói: “Hãy vào đi!”, họ liền đi vào, đảnh lễ và đứng sang một bên.
Atha ne devī pucchi – ‘‘tātā, kiṃ kāraṇā āgatātthā’’ti?
Then the queen asked them, "My dear sirs, for what reason have you come?"
Bấy giờ, Hoàng hậu hỏi họ: “Này các con, vì lý do gì mà các con đến đây?”
‘‘Mayaṃ raññā tumhākaṃ santikaṃ pahitā, tīṇi kira no satasahassāni dethā’’ti.
"We have been sent to you by the king. He says, 'Give us three hundred thousand (coins).'"
“Chúng con được nhà vua phái đến chỗ Hoàng hậu, xin Hoàng hậu hãy cấp cho chúng con ba trăm ngàn (đồng tiền) ạ.”
‘‘Tātā, atibahuṃ bhaṇatha, kiṃ tumhehi rañño kataṃ, kismiṃ vo rājā pasanno ettakaṃ dhanaṃ dāpesī’’ti?
"My dear sirs, you speak of a very large sum. What have you done for the king? For what reason was the king pleased with you and had such a large sum of money given?"
“Này các con, các con nói quá nhiều rồi. Các con đã làm gì cho nhà vua, vì việc gì mà nhà vua hài lòng đến mức ban cho các con số tiền lớn như vậy?”
‘‘Devi, na aññaṃ kiñci kataṃ, rañño pana ekaṃ sāsanaṃ ārocayimhā’’ti?
"Your Majesty, we have done nothing else. We only conveyed a message to the king."
“Thưa Hoàng hậu, chúng con không làm gì khác cả, chỉ là đã báo cho nhà vua một tin tức ạ.”
‘‘Sakkā pana, tātā, mayhaṃ ārocetu’’nti.
"Is it possible, my dear sirs, to tell me?"
“Vậy thì, này các con, có thể báo cho ta biết được không?”
‘‘Sakkā, devī’’ti.
"Yes, Your Majesty."
“Thưa Hoàng hậu, có thể ạ.”
‘‘Tena hi, tātā, vadethā’’ti.
"Then, my dear sirs, speak."
“Vậy thì, này các con, hãy nói đi.”
‘‘Devi buddho loke uppanno’’ti.
"Your Majesty, the Buddha has appeared in the world."
“Thưa Hoàng hậu, Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian ạ.”
Sāpi ‘‘taṃ sutvā purimanayeneva pītiyā phuṭṭhasarīrā tikkhattuṃ kiñci asallakkhetvā catutthe vāre ‘buddho’ti padaṃ sutvā, tātā, imasmiṃ pade raññā kiṃ dinna’’nti?
She, too, hearing that, her body was pervaded with joy in the same way as before, and without noticing anything three times, upon hearing the word "Buddha" for the fourth time, asked, "My dear sirs, what did the king give for this word?"
Nghe vậy, Hoàng hậu cũng tràn ngập niềm hoan hỷ như lần trước, không nhận ra điều gì trong ba lần đầu, đến lần thứ tư nghe được từ “Đức Phật”, liền hỏi: “Này các con, vì từ này mà nhà vua đã ban cho bao nhiêu?”
‘‘Satasahassaṃ, devī’’ti.
"A hundred thousand, Your Majesty."
“Thưa Hoàng hậu, một trăm ngàn ạ.”
‘‘Tātā, ananucchavikaṃ raññā kataṃ evarūpaṃ sāsanaṃ sutvā tumhākaṃ satasahassaṃ dadamānena.
"My dear sirs, it was improper for the king to give you only a hundred thousand upon hearing such a message.
“Này các con, nhà vua đã làm một điều không xứng đáng khi nghe một tin tức như vậy mà chỉ ban cho các con một trăm ngàn.
Ahañhi vo mama duggatapaṇṇākāre tīṇi satasahassāni dammi, aparampi tumhehi rañño kiṃ ārocita’’nti?
Indeed, I will give you three hundred thousand as a poor man's gift. What else did you convey to the king?"
Vì ta sẽ ban cho các con ba trăm ngàn (tiền) từ món quà của người nghèo của ta. Các con còn báo gì khác cho nhà vua nữa không?”
Te idañcidañcāti itarānipi dve sāsanāni ārocayiṃsu.
They conveyed the other two messages, saying, "This and that."
Họ liền báo hai tin tức còn lại, cái này và cái kia.
Devī purimanayeneva pītiyā phuṭṭhasarīrā tikkhattuṃ kiñci asallakkhetvā catutthe vāre tatheva sutvā tīṇi tīṇi satasahassāni dāpesi, evaṃ te sabbānipi dvādasa satasahassāni labhiṃsu.
The queen, her body pervaded with joy in the same way as before, without noticing anything three times, heard it likewise on the fourth time and had three hundred thousand given for each, thus they received a total of twelve hundred thousand.
Hoàng hậu cũng tràn ngập niềm hoan hỷ như lần trước, không nhận ra điều gì trong ba lần đầu, đến lần thứ tư nghe như vậy, liền ban cho mỗi tin ba trăm ngàn, như vậy họ đã nhận được tổng cộng mười hai trăm ngàn (một triệu hai trăm ngàn).
Atha ne devī pucchi – ‘‘rājā kahaṃ, tātā’’ti?
Then the queen asked them, "My dear sirs, where is the king?"
Bấy giờ, Hoàng hậu hỏi họ: “Này các con, nhà vua đang ở đâu?”
Devi, ‘‘satthāraṃ uddissa ‘pabbajissāmī’ti gato’’ti.
"Your Majesty, he has gone, saying, 'I will ordain for the sake of the Teacher.'"
“Thưa Hoàng hậu, nhà vua đã đi để xuất gia theo Đức Bổn Sư ạ.”
‘‘Mayhaṃ tena kiṃ sāsanaṃ dinna’’nti?
"What message did he give me?"
“Nhà vua có gửi lời nhắn gì cho ta không?”
‘‘Sabbaṃ kira tena tumhākaṃ issariyaṃ vissaṭṭhaṃ, tumhe kira yathāruciyā sampattiṃ anubhavathā’’ti.
"He has, it seems, relinquished all authority to you, Your Majesty. You may enjoy the royal fortune as you please."
“Thưa Hoàng hậu, nhà vua đã giao phó tất cả quyền hành cho Hoàng hậu, xin Hoàng hậu hãy tận hưởng tài sản theo ý muốn của mình ạ.”
‘‘Amaccā pana kahaṃ, tātā’’ti?
"And where are the ministers, my dear sirs?"
“Thế còn các quan đại thần ở đâu, này các con?”
Tepi ‘‘‘raññā saddhiṃyeva pabbajissāmā’ti gatā, devī’’ti.
"They too, Your Majesty, have gone, saying, 'We will ordain together with the king.'"
“Thưa Hoàng hậu, họ cũng đã đi để xuất gia cùng với nhà vua ạ.”
Sā tesaṃ bhariyāyo pakkosāpetvā, ammā, tumhākaṃ sāmikā ‘‘raññā saddhiṃ pabbajissāmā’’ti gatā, ‘‘tumhe kiṃ karissathā’’ti?
She had their wives summoned and asked, "My ladies, your husbands have gone, saying, 'We will ordain with the king.' What will you do?"
Hoàng hậu cho gọi các phu nhân của họ đến và hỏi: “Này các chị, các ông chồng của các chị đã đi xuất gia cùng với nhà vua rồi, các chị sẽ làm gì?”
‘‘Kiṃ pana tehi amhākaṃ sāsanaṃ pahitaṃ, devī’’ti?
"Your Majesty, what message did they send us?"
“Thưa Hoàng hậu, các ông ấy có gửi lời nhắn gì cho chúng tôi không ạ?”
‘‘Tehi kira attano sampatti tumhākaṃ vissaṭṭhā, tumhe kira taṃ sampattiṃ yathāruci paribhuñjathā’’ti.
"They have, it seems, relinquished their fortune to you. You may enjoy that fortune as you please."
“Các vị ấy đã từ bỏ tài sản của mình cho các cô, các cô hãy hưởng thụ tài sản ấy tùy theo ý muốn của mình.”
‘‘Tumhe pana, devi, kiṃ karissathā’’ti?
"But what will you do, Your Majesty?" they asked.
“Thưa Hoàng hậu, còn các cô thì sẽ làm gì?”
‘‘Ammā, so tāva rājā sāsanaṃ sutvā magge ṭhitakova tīhi satasahassehi tīṇi ratanāni pūjetvā kheḷapiṇḍaṃ viya sampattiṃ pahāya ‘pabbajissāmī’ti nikkhanto, mayā pana tiṇṇaṃ ratanānaṃ sāsanaṃ sutvā tīṇi ratanāni navahi satasahassehi pūjitāni, na kho panesā sampatti nāma raññoyeva dukkhā, mayhampi dukkhāyeva.
"My ladies, that king, upon hearing the message, while still on the road, honored the Three Jewels with three hundred thousand and, abandoning his fortune like a lump of spittle, went forth saying, 'I will ordain.' I, however, upon hearing the message of the Three Jewels, have honored the Three Jewels with nine hundred thousand. This fortune is not only suffering for the king, but also suffering for me.
“Thưa các mẹ, trước hết, vị vua ấy sau khi nghe giáo pháp, đã đứng vững trên con đường, cúng dường Tam Bảo bằng ba trăm ngàn, từ bỏ tài sản như nhổ nước bọt rồi xuất gia với ý định ‘tôi sẽ xuất gia’. Còn tôi, sau khi nghe giáo pháp về Tam Bảo, đã cúng dường Tam Bảo bằng chín trăm ngàn. Hơn nữa, tài sản này không chỉ gây khổ cho nhà vua mà còn gây khổ cho cả tôi nữa.
Ko raññā chaḍḍitakheḷapiṇḍaṃ jāṇukehi patiṭṭhahitvā mukhena gaṇhissati, na mayhaṃ sampattiyā attho, ahampi satthāraṃ uddissa gantvā pabbajissāmī’’ti.
"Who will pick up the king's discarded spittle with his mouth, kneeling on his knees? I have no use for this wealth; I, too, will go forth for the Teacher and become a renunciant."
Ai sẽ quỳ gối xuống mà dùng miệng nhặt lấy cục nước bọt mà nhà vua đã nhổ bỏ? Tôi không cần tài sản, tôi cũng sẽ đi và xuất gia vì Đức Đạo Sư.”
‘‘Devi, mayampi tumheheva saddhiṃ pabbajissāmā’’ti.
"O Queen, we too will go forth with you."
“Thưa Hoàng hậu, chúng tôi cũng sẽ xuất gia cùng với Hoàng hậu.”
‘‘Sace sakkotha, sādhu, ammā’’ti?
"If you are able, then it is good, mothers?"
“Nếu các mẹ có thể, thì tốt lắm, thưa các mẹ.”
‘‘Sakkoma, devī’’ti.
"We are able, O Queen."
“Chúng tôi có thể, thưa Hoàng hậu.”
‘‘Sādhu, ammā, tena hi ethā’’ti rathasahassaṃ yojāpetvā rathaṃ āruyha tāhi saddhiṃ nikkhamitvā antarāmagge paṭhamaṃ nadiṃ disvā yathā raññā puṭṭhaṃ, tatheva pucchitvā sabbapavattiṃ sutvā ‘‘rañño gatamaggaṃ olokethā’’ti vatvā ‘‘sindhavānaṃ padavalañjaṃ na passāma, devī’’ti vutte ‘‘rājā tīṇi ratanāni uddissa nikkhanto saccakiriyaṃ katvā gato bhavissati.
"Good, mothers, then come!" Saying this, she had a thousand chariots prepared, mounted a chariot, and set out with them. On the way, seeing the first river, she questioned as the king had questioned, and having heard all the news, she said, "Look for the path the king took." When they replied, "We do not see the footprints of the Sindhu horses, O Queen," she said, "The king must have gone forth for the Three Jewels, having made an act of truth.
“Tốt lắm, thưa các mẹ, vậy thì hãy đến đây.” Nói vậy, bà cho thắng một ngàn cỗ xe, rồi lên xe cùng với các vị ấy và ra đi. Trên đường đi, lần đầu tiên thấy một con sông, bà hỏi y như nhà vua đã hỏi, sau khi nghe toàn bộ câu chuyện, bà nói: “Hãy nhìn con đường mà nhà vua đã đi qua.” Khi họ nói: “Thưa Hoàng hậu, chúng tôi không thấy dấu chân của những con ngựa Sindhu,” bà nói: “Chắc hẳn nhà vua đã xuất gia vì Tam Bảo và đã đi sau khi thực hiện lời thề chân thật.
Ahampi tīṇi ratanāni uddissa nikkhantā, tesameva anubhāvena idaṃ udakaṃ viya mā ahosī’’ti tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇaṃ anussaritvā rathasahassaṃ pesesi.
I too have gone forth for the Three Jewels; by the power of these, may this water not be like water." Remembering the virtues of the Three Jewels, she sent forth the thousand chariots.
"Ta cũng đã xuất gia vì Ba Ngôi Báu. Do năng lực của chính Ba Ngôi Báu ấy, nguyện cho nước này đừng như nước!" – sau khi niệm tưởng công đức của Ba Ngôi Báu, nàng sai một ngàn cỗ xe đi qua.
Udakaṃ piṭṭhipāsāṇasadisaṃ ahosi.
The water became like a flat rock.
Nước trở nên giống như một tảng đá phẳng.
Cakkānaṃ aggagganemivaṭṭiyo neva temiṃsu.
The very tips of the wheel rims did not get wet.
Vành ngoài cùng của bánh xe không hề bị ướt.
Eteneva upāyena itarā dve nadiyo uttari.
By this same means, she crossed the other two rivers.
Cũng bằng cách ấy, nàng đã vượt qua hai con sông còn lại.
Atha satthā tassāgamanabhāvaṃ ñatvā yathā attano santike nisinnā bhikkhū na paññāyanti, evamakāsi.
Then the Teacher, knowing of her arrival, arranged it so that the bhikkhus seated near him were not visible.
Bấy giờ, Bậc Đạo Sư biết được sự đến của nàng, Ngài đã làm cho các Tỳ-khưu đang ngồi gần Ngài không thể được nhìn thấy.
Sāpi gacchantī gacchantī satthu sarīrato nikkhantā chabbaṇṇarasmiyo disvā tatheva cintetvā satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ ṭhitā pucchi – ‘‘bhante, mahākappino tumhākaṃ uddissa nikkhanto āgatettha maññe, kahaṃ so, amhākampi naṃ dassethā’’ti?
As she proceeded, she saw the six-colored rays emanating from the Teacher's body, and thinking likewise, she approached the Teacher, paid homage, and standing to one side, asked, "Venerable Sir, Mahākappina must have gone forth for you and arrived here. Where is he? Please let us see him too."
Nàng ấy cứ đi, cứ đi, thấy những tia hào quang sáu màu phát ra từ thân của Bậc Đạo Sư, nàng cũng suy nghĩ như vậy, rồi đến gần Bậc Đạo Sư, đảnh lễ và đứng sang một bên, nàng hỏi: "Bạch Thế Tôn, Đại Kappina đã xuất gia vì Ngài, con nghĩ ông ấy đã đến đây rồi, ông ấy ở đâu? Xin Ngài hãy cho chúng con thấy ông ấy."
‘‘Nisīdatha tāva, idheva naṃ passissathā’’ti.
"Sit down for a while; you will see him right here."
"Hãy ngồi xuống trước đã, các con sẽ thấy ông ấy ngay tại đây."
Tā sabbāpi tuṭṭhacittā ‘‘idheva kira nisinnā sāmike passissāmā’’ti nisīdiṃsu.
All of them, with joyful hearts, sat down, thinking, "We will see our husbands right here while sitting."
Tất cả các nàng đều vui mừng trong tâm, nghĩ: "Chúng ta sẽ thấy chồng mình ngay tại đây," rồi các nàng ngồi xuống.
Satthā tāsaṃ anupubbiṃ kathaṃ kathesi, anojādevī desanāvasāne saparivārā sotāpattiphalaṃ pāpuṇi.
The Teacher delivered a graduated discourse to them, and at the end of the discourse, Queen Anojā, with her retinue, attained the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã thuyết Pháp tuần tự cho các nàng, và cuối bài thuyết Pháp, hoàng hậu Anojā cùng tùy tùng đã chứng đắc quả Dự Lưu.
Mahākappinatthero tāsaṃ vaḍḍhitadhammadesanaṃ suṇanto saparivāro saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇi.
As Mahākappina Thera listened to their discourse on the Dhamma that fostered growth, he, with his retinue, attained Arahantship together with the Paṭisambhidās.
Trưởng lão Mahākappina, khi nghe bài Pháp tăng trưởng của các nàng, đã cùng tùy tùng chứng đắc A-la-hán quả với các tuệ phân tích (paṭisambhidā).
Tasmiṃ khaṇe satthā tāsaṃ te bhikkhū arahattappatte dassesi.
At that moment, the Teacher showed those bhikkhus, who had attained Arahantship, to them.
Vào khoảnh khắc ấy, Bậc Đạo Sư đã cho các nàng thấy các Tỳ-khưu ấy đã chứng đắc A-la-hán quả.
Tāsaṃ kira āgatakkhaṇeyeva attano sāmike kāsāvadhare muṇḍakasīse disvā cittaṃ ekaggaṃ na bhaveyya, tena maggaphalāni pattuṃ na sakkuṇeyyuṃ.
For, if they had seen their husbands wearing saffron robes and with shaven heads immediately upon their arrival, their minds would not have become concentrated, and they would not have been able to attain the paths and fruits.
Nếu các nàng thấy chồng mình mặc y vàng, đầu cạo trọc ngay khi vừa đến, tâm các nàng sẽ không thể an định, và do đó, các nàng sẽ không thể chứng đắc Đạo Quả.
Tasmā acalasaddhāya patiṭṭhitakāle tāsaṃ te bhikkhū arahattappatteyeva dassesi.
Therefore, at the time when their unshakable faith was established, he showed them those bhikkhus who had already attained Arahantship.
Vì vậy, khi các nàng đã an trú trong niềm tin bất động, Ngài đã cho các nàng thấy các Tỳ-khưu ấy đã chứng đắc A-la-hán quả.
Tāpi te disvā pañcapatiṭṭhitena vanditvā, ‘‘bhante, tumhākaṃ tāva pabbajitakiccaṃ matthakaṃ patta’’nti vatvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ ṭhitā pabbajjaṃ yāciṃsu.
Seeing them, they bowed down with the five-point prostration and said, "Venerable Sir, your task of renunciation has reached its culmination," and having paid homage to the Teacher, they stood to one side and requested ordination.
Các nàng ấy cũng thấy các vị ấy, đảnh lễ bằng năm điểm chạm đất, rồi nói: "Bạch Thế Tôn, việc xuất gia của các Ngài đã thành tựu viên mãn," sau đó đảnh lễ Bậc Đạo Sư, đứng sang một bên và xin được xuất gia.
Evaṃ kira vutte ‘‘satthā uppalavaṇṇāya āgamanaṃ cintesī’’ti ekacce vadanti.
Some say that when this was said, "the Teacher thought of Uppalavaṇṇā's arrival."
Một số người nói rằng khi được nói như vậy, "Bậc Đạo Sư đã nghĩ đến sự đến của Uppalavaṇṇā."
Satthā pana tā upāsikāyo āha – ‘‘sāvatthiṃ gantvā bhikkhunīupassaye pabbajethā’’ti.
But the Teacher said to those female lay followers, "Go to Sāvatthī and be ordained in the bhikkhunī monastery."
Tuy nhiên, Bậc Đạo Sư đã nói với các nữ cư sĩ ấy: "Hãy đi đến Sāvatthī và xuất gia tại tịnh xá Tỳ-khưu-ni."
Tā anupubbena janapadacārikaṃ caramānā antarāmagge mahājanena abhihaṭasakkārasammānā padasāva vīsayojanasatikaṃ gantvā bhikkhunīupassaye pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
They gradually traveled through the countryside, receiving offerings and honors from the populace along the way, and having walked a distance of one hundred and twenty yojanas, they were ordained in the bhikkhunī monastery and attained Arahantship.
Các nàng tuần tự du hành qua các vùng quê, được đại chúng cúng dường và tôn kính trên đường đi, đã đi bộ một trăm hai mươi do-tuần (yojana), rồi xuất gia tại tịnh xá Tỳ-khưu-ni và chứng đắc A-la-hán quả.
Satthāpi bhikkhusahassaṃ ādāya ākāseneva jetavanaṃ agamāsi.
The Teacher, too, taking a thousand bhikkhus, went to Jetavana through the air.
Bậc Đạo Sư cũng dẫn theo một ngàn Tỳ-khưu, bay trên không trung đến Jetavana.
Tatra sudaṃ āyasmā mahākappino rattiṭṭhānadivāṭṭhānādīsu ‘‘aho sukhaṃ, aho sukha’’nti udānaṃ udānento vicarati.
There, Venerable Mahākappina wandered about, uttering exclamations in his night and day abodes: "Oh, what bliss! Oh, what bliss!"
Tại đó, Tôn giả Mahākappina thường đi lại, thốt lên lời cảm hứng: "Ôi hạnh phúc thay, ôi hạnh phúc thay" ở nơi nghỉ đêm, nơi nghỉ ngày, v.v.
Bhikkhū bhagavato ārocesuṃ – ‘‘bhante, mahākappino ‘aho sukhaṃ, aho sukha’nti udānaṃ udānento vicarati, attano kāmasukhaṃ rajjasukhaṃ ārabbha kathesi maññe’’ti.
The bhikkhus reported to the Blessed One, "Venerable Sir, Mahākappina wanders about uttering exclamations: 'Oh, what bliss! Oh, what bliss!' He must be speaking about his sensual bliss and royal bliss."
Các Tỳ-khưu đã báo cáo với Đức Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Mahākappina đi lại, thốt lên lời cảm hứng: 'Ôi hạnh phúc thay, ôi hạnh phúc thay,' con nghĩ ông ấy nói về hạnh phúc dục lạc, hạnh phúc vương quyền của mình."
Satthā taṃ pakkosāpetvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, kappina, kāmasukhaṃ rajjasukhaṃ ārabbha udānaṃ udānesī’’ti.
The Teacher had him summoned and asked, "Is it true, Kappina, that you uttered an exclamation concerning sensual bliss and royal bliss?"
Bậc Đạo Sư đã cho gọi ông ấy đến và hỏi: "Này Kappina, có thật là ông đã thốt lên lời cảm hứng về hạnh phúc dục lạc, hạnh phúc vương quyền không?"
‘‘Bhagavā me, bhante, taṃ ārabbha udānabhāvaṃ vā anudānabhāvaṃ vā jānātī’’ti?
"Venerable Sir, the Blessed One knows whether I uttered an exclamation concerning that or not."
"Bạch Thế Tôn, Đức Thế Tôn biết rõ con có thốt lên lời cảm hứng về điều ấy hay không thốt lên lời cảm hứng về điều ấy."
Satthā ‘‘na, bhikkhave, mama putto kāmasukhaṃ rajjasukhaṃ ārabbha udānaṃ udāneti, puttassa pana me dhammapīti nāma dhammarati nāma uppajjati, so amatamahānibbānaṃ ārabbha eva udānaṃ udānesī’’ti anusandhiṃ ghaṭetvā dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
The Teacher, connecting the discourse, said, “Monks, my son does not utter an udāna concerning sensual pleasure or the pleasure of kingship. But for my son, a delight in Dhamma, named dhammapīti, a rejoicing in Dhamma, named dhammarati, arises. He indeed uttered an udāna concerning the deathless great Nibbāna,” and while teaching the Dhamma, He said this verse –
Bậc Đạo Sư đã kết nối câu chuyện và thuyết Pháp, đọc bài kệ này:
Tattha dhammapītīti dhammapāyako, dhammaṃ pivantoti attho.
Therein, dhammapīti means one who drinks the Dhamma, that is, one who partakes of the Dhamma.
Ở đây, dhammapītī nghĩa là người uống Pháp, tức là người uống Pháp.
Dhammo ca nāmesa na sakkā bhājanena yāguādīni viya pātuṃ?
And is it not possible to drink the Dhamma like gruel and the like from a bowl?
Pháp thì không thể uống bằng chén như cháo, v.v. được sao?
Navavidhaṃ pana lokuttaradhammaṃ nāmakāyena phusanto ārammaṇato sacchikaronto pariññābhisamayādīhi dukkhādīni ariyasaccāni paṭivijjhanto dhammaṃ pivati nāma.
However, one is said to drink the Dhamma by experiencing the ninefold supramundane Dhamma with the mental body, by realizing it as an object, and by penetrating the Noble Truths of suffering and so forth through comprehension, penetration, and so on.
Tuy nhiên, người chạm đến chín loại Pháp siêu thế bằng danh thân, chứng đạt chúng bằng đối tượng, thấu hiểu Tứ Diệu Đế như Khổ, v.v., bằng sự thấu triệt và giác ngộ, thì được gọi là uống Pháp.
Sukhaṃ setīti desanāmattamevetaṃ, catūhipi iriyāpathehi sukhaṃ viharatīti attho.
Sukhaṃ seti (dwells happily) is merely a manner of teaching; the meaning is that one dwells happily in all four postures.
Sukhaṃ setī đây chỉ là cách diễn đạt, nghĩa là sống an lạc trong cả bốn oai nghi.
Vippasannenāti anāvilena nirupakkilesena.
Vippasannena (utterly serene) means undefiled, without defilements.
Vippasannenā nghĩa là không vẩn đục, không có phiền não.
Ariyappavediteti buddhādīhi ariyehi pavedite satipaṭṭhānādibhede bodhipakkhiyadhamme.
Ariyappavedite (proclaimed by the Noble Ones) refers to the Bodhipakkhiyadhammas, such as the foundations of mindfulness, proclaimed by the Buddhas and other Noble Ones.
Ariyappavedite nghĩa là các Pháp trợ bồ-đề như Tứ Niệm Xứ, v.v., được các bậc Thánh như Đức Phật, v.v., thuyết giảng.
Sadā ramatīti evarūpo dhammapīti vippasannena cetasā viharanto paṇḍiccena samannāgato sadā ramati abhiramatīti.
Sadā ramatī (always delights) means that such a dhammapīti, dwelling with an utterly serene mind, endowed with wisdom, always delights and greatly rejoices.
Sadā ramatī nghĩa là người uống Pháp như vậy, sống với tâm thanh tịnh, được trang bị trí tuệ, luôn hoan hỷ, rất hoan hỷ.
‘‘Upāsakā idha ekacco ‘attano santakameva dātuṃ vaṭṭati, kiṃ parena samādapitenā’ti attanāva dānaṃ deti, paraṃ na samādapeti.
“Lay followers, here, some person thinks, ‘It is proper to give only what one possesses; what is the point of having others encouraged?’ and gives a donation by himself, not encouraging others.
"Này các cư sĩ, ở đời này có người chỉ tự mình bố thí, nghĩ rằng 'chỉ nên bố thí những gì mình có, việc gì phải khuyến khích người khác?' và không khuyến khích người khác.
So nibbattanibbattaṭṭhāne bhogasampadaṃ labhati, no parivārasampadaṃ.
He obtains wealth in every existence he is reborn, but not a retinue.
Người ấy, ở mỗi nơi tái sinh, sẽ đạt được sự giàu có, nhưng không đạt được sự tùy tùng.
Ekacco paraṃ samādapeti, attanā na deti.
Some encourage others, but do not give themselves.
Có người lại khuyến khích người khác, nhưng tự mình không bố thí.
So nibbattanibbattaṭṭhāne parivārasampadaṃ labhati, no bhogasampadaṃ ekacco attanāpi na deti, parampi na samādapeti.
He obtains a retinue in every existence he is reborn, but not wealth. Some neither give themselves nor encourage others.
Người ấy, ở mỗi nơi tái sinh, sẽ đạt được sự tùy tùng, nhưng không đạt được sự giàu có. Có người lại không tự mình bố thí, cũng không khuyến khích người khác.
So nibbattanibbattaṭṭhāne neva bhogasampadaṃ labhati, na parivārasampadaṃ, vighāsādova hutvā jīvati.
He obtains neither wealth nor a retinue in any existence he is reborn, but lives like one who eats scraps.
Người ấy, ở mỗi nơi tái sinh, sẽ không đạt được sự giàu có, cũng không đạt được sự tùy tùng, mà chỉ sống như một kẻ ăn xin.
Ekacco attanā ca deti, parañca samādapeti.
Some give themselves and also encourage others.
Có người lại tự mình bố thí và cũng khuyến khích người khác.
So nibbattanibbattaṭṭhāne bhogasampadampi labhati parivārasampadampī’’ti.
He obtains both wealth and a retinue in every existence he is reborn.”
Người ấy, ở mỗi nơi tái sinh, sẽ đạt được cả sự giàu có và sự tùy tùng."
Taṃ sutvā samīpe ṭhito eko paṇḍitapuriso cintesi – ‘‘ahaṃ dāni tathā karissāmi, yathā me dvepi sampattiyo bhavissantī’’ti.
Hearing that, a wise man standing nearby thought, “Now I will act in such a way that I will have both accomplishments.”
Nghe vậy, một người đàn ông trí tuệ đứng gần đó suy nghĩ: "Bây giờ ta sẽ làm sao để có được cả hai sự thành tựu này."
So satthāraṃ vanditvā āha – ‘‘bhante, svātanāya mayhaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti.
He saluted the Teacher and said, “Venerable Sir, please accept alms for tomorrow from me.”
Ông ta đảnh lễ Bậc Đạo Sư và nói: "Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy thọ nhận bữa ăn của con vào ngày mai."
‘‘Kittakehi te bhikkhūhi attho’’ti?
“How many monks do you need?”
"Ngươi cần bao nhiêu Tỳ-khưu?"
‘‘Kittako pana vo, bhante, parivāro’’ti?
“Venerable Sir, how large is your retinue?”
"Bạch Thế Tôn, tùy tùng của Ngài có bao nhiêu vị?"
‘‘Vīsati bhikkhusahassānī’’ti.
“Twenty thousand monks.”
"Hai mươi ngàn Tỳ-khưu."
‘‘Bhante, sabbehi saddhiṃ svātanāya mayhaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti.
“Venerable Sir, please accept alms for tomorrow from me, together with all of them.”
"Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy thọ nhận bữa ăn của con cùng với tất cả các vị vào ngày mai."
Satthā adhivāsesi.
The Teacher assented.
Bậc Đạo Sư đã chấp thuận.
So gāmaṃ pavisitvā, ‘‘ammatātā, svātanāya mayā buddhappamukho bhikkhusaṅgho nimantito, tumhe yattakānaṃ bhikkhūnaṃ dātuṃ sakkhissatha, tattakānaṃ dānaṃ dethā’’ti ārocetvā vicaranto attano attano balaṃ sallakkhetvā ‘‘mayaṃ dasannaṃ dassāma, mayaṃ vīsatiyā, mayaṃ satassa, mayaṃ pañcasatāna’’nti vutte sabbesaṃ vacanaṃ ādito paṭṭhāya paṇṇe āropesi.
He entered the village and, proclaiming, “Mothers and fathers, I have invited the Saṅgha headed by the Buddha for tomorrow. You all should give alms to as many monks as you are able,” he went around. When people said, “We will give to ten,” “We will give to twenty,” “We will give to a hundred,” “We will give to five hundred,” he recorded everyone’s promise on a leaf from the beginning.
Ông ta đi vào làng, thông báo: "Này các mẹ, các cha, tôi đã thỉnh Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu vào ngày mai. Các vị hãy bố thí cho số Tỳ-khưu mà các vị có thể cúng dường," và khi đi lại, nhận biết khả năng của từng người, khi được nói: "Chúng tôi sẽ cúng dường cho mười vị, chúng tôi cho hai mươi vị, chúng tôi cho một trăm vị, chúng tôi cho năm trăm vị," ông ta đã ghi lại tất cả các lời đó từ đầu vào một tờ giấy.
Tena ca samayena tasmiṃ nagare atiduggatabhāveneva ‘‘mahāduggato’’ti paññāto eko puriso atthi.
At that time, there was a man in that town known as “Mahāduggata” (Greatly Destitute) due to his extreme poverty.
Vào thời điểm đó, trong thành phố ấy có một người đàn ông được biết đến là "Mahāduggata" (Kẻ rất nghèo khổ) vì sự nghèo khổ cùng cực của mình.
So tampi sammukhāgataṃ disvā, samma mahāduggata, mayā svātanāya buddhappamukho bhikkhusaṅgho nimantito, sve nagaravāsino dānaṃ dassanti, ‘‘tvaṃ kati bhikkhū bhojessasī’’ti?
Seeing him approach, the wise man said, “Friend Mahāduggata, I have invited the Saṅgha headed by the Buddha for tomorrow. Tomorrow, the townspeople will give alms. How many monks will you feed?”
Người đàn ông trí tuệ kia cũng thấy ông ta đến trước mặt, bèn hỏi: "Này bạn Mahāduggata, tôi đã thỉnh Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu vào ngày mai. Ngày mai, cư dân thành phố sẽ bố thí. Bạn sẽ cúng dường cho bao nhiêu Tỳ-khưu?"
‘‘Sāmi, mayhaṃ kiṃ bhikkhūhi, bhikkhūhi nāma sadhanānaṃ attho, mayhaṃ pana sve yāguatthāya taṇḍulanāḷimattampi natthi, ahaṃ bhatiṃ katvā jīvāmi, kiṃ me bhikkhūhī’’ti?
“Master, what concern have I with bhikkhus? Bhikkhus are for the wealthy; but I do not even have a nāḷi of rice for tomorrow’s gruel. I live by working for wages. What concern have I with bhikkhus?”
"Thưa ngài, Tỳ-khưu thì có ích gì cho tôi? Tỳ-khưu là dành cho những người có tài sản. Còn tôi, ngày mai đến một nắm gạo để nấu cháo cũng không có, tôi sống bằng cách làm công. Tỳ-khưu thì có ích gì cho tôi?"
Samādapakena nāma byattena bhavitabbaṃ.
One who encourages should be skillful.
Người khuyến khích phải là người khéo léo.
Tasmā so tena ‘‘natthī’’ti vuttepi tuṇhībhūto ahutvā evamāha – ‘‘samma mahāduggata, imasmiṃ nagare subhojanaṃ bhuñjitvā sukhumavatthaṃ nivāsetvā nānābharaṇapaṭimaṇḍitā sirisayane sayamānā bahū janā sampattiṃ anubhavanti, tvaṃ pana divasaṃ bhatiṃ katvā kucchipūraṇamattampi na labhasi, evaṃ santepi ‘ahaṃ pubbe puññaṃ akatattā kiñci na labhāmī’ti na jānāsī’’ti?
Therefore, when the Mahāduggata said, “I have nothing,” the wise man did not remain silent but spoke thus: “Friend Mahāduggata, in this city, many people enjoy prosperity, eating fine food, wearing delicate clothes, adorned with various ornaments, and sleeping on splendid couches. But you, working for wages all day, do not even get enough to fill your stomach. Even so, do you not know that ‘I receive nothing because I did not perform good deeds in the past’?”
Vì vậy, khi người kia nói “không có”, ông ấy không im lặng mà nói như sau: “Này bạn Mahāduggata, trong thành phố này, nhiều người đang hưởng thụ tài sản, ăn thức ăn ngon, mặc y phục mềm mại, và nằm trên giường ngủ sang trọng được trang hoàng bằng nhiều loại trang sức. Còn bạn, dù làm công cả ngày cũng không đủ lấp đầy bụng. Dù vậy, bạn không biết rằng ‘tôi không nhận được gì vì trước đây tôi đã không làm phước’ sao?”
‘‘Jānāmi, sāmī’’ti.
“I know, Master,” he replied.
“Thưa ngài, tôi biết ạ.”
‘‘Atha kasmā idāni puññaṃ na karosi, tvaṃ yuvā balasampanno, kiṃ tayā bhatiṃ katvāpi yathābalaṃ dānaṃ dātuṃ na vaṭṭatī’’ti?
“Then why do you not perform good deeds now? You are young and strong. Is it not proper for you to give alms according to your ability, even by working for wages?”
“Vậy tại sao bây giờ bạn không làm phước? Bạn còn trẻ và đầy sức lực, chẳng lẽ bạn không thể bố thí tùy theo khả năng của mình ngay cả khi làm công sao?”
So tasmiṃ kathenteyeva saṃvegappatto hutvā ‘‘mayhampi ekaṃ bhikkhuṃ paṇṇe āropehi, kiñcideva bhatiṃ katvā ekassa bhikkhaṃ dassāmī’’ti āha.
As the wise man spoke, the Mahāduggata was filled with spiritual urgency and said, “Please list one bhikkhu for me as well. I will give alms to one bhikkhu by working for some wages.”
Ngay khi người ấy đang nói, Mahāduggata cảm thấy xúc động và nói: “Xin hãy ghi tên một vị tỳ khưu cho tôi nữa, tôi sẽ làm công gì đó và sẽ cúng dường một vị tỳ khưu.”
Itaro ‘‘kiṃ ekena bhikkhunā paṇṇe āropitenā’’ti na āropesi?
The other man did not list him, thinking, “What good is listing just one bhikkhu?”
Người kia nghĩ: “Ghi tên một vị tỳ khưu thì có ích gì?” và đã không ghi tên.
Mahāduggatopi gehaṃ gantvā bhariyaṃ āha – ‘‘bhadde, nagaravāsino sve saṅghabhattaṃ karissanti, ahampi samādapakena ‘ekassa bhikkhaṃ dehī’ti vutto, mayampi sve ekassa bhikkhaṃ dassāmā’’ti.
The Mahāduggata went home and said to his wife, “My dear, the townspeople will offer a Saṅgha-meal tomorrow. The one who encourages has told me to ‘give alms to one bhikkhu.’ We too will give alms to one bhikkhu tomorrow.”
Mahāduggata cũng về nhà và nói với vợ: “Này hiền thê, dân thành sẽ cúng dường chư Tăng vào ngày mai. Tôi cũng đã được người điều phối yêu cầu ‘hãy cúng dường một vị tỳ khưu’. Chúng ta cũng sẽ cúng dường một vị tỳ khưu vào ngày mai.”
Athassa bhariyā ‘‘mayaṃ daliddā, kasmā tayā sampaṭicchita’’nti avatvāva, ‘‘sāmi, bhaddakaṃ te kataṃ, mayaṃ pubbepi kiñci adatvā idāni duggatā jātā, mayaṃ ubhopi bhatiṃ katvā ekassa bhikkhaṃ dassāma, sāmī’’ti vatvā ubhopi gehā nikkhamitvā bhatiṭṭhānaṃ agamaṃsu.
His wife, without saying, “We are poor, why did you accept this?”, said, “Master, you have done well. We did not give anything in previous lives, and now we are poor. We both will work for wages and give alms to one bhikkhu, Master.” Having said this, both of them left the house and went to the workplace.
Bấy giờ, vợ của người ấy, không nói: “Chúng ta nghèo, sao chàng lại nhận lời?”, mà nói: “Thưa chồng, chàng đã làm một việc tốt. Chúng ta, vì trước đây không từng bố thí gì, nên nay mới trở thành người khốn khổ. Thưa chồng, cả hai chúng ta sẽ làm công để bố thí cho một vị Tỳ-khưu.” Nói xong, cả hai vợ chồng đi ra khỏi nhà và đến chỗ làm công.
Mahāseṭṭhi taṃ disvā ‘‘kiṃ, samma mahāduggata, bhatiṃ karissasī’’ti pucchi.
The great merchant saw him and asked, “Friend Mahāduggata, will you work for wages?”
Đại Trưởng giả thấy người ấy liền hỏi: “Này anh Mahāduggata, anh sẽ làm công việc gì?”
‘‘Āma, ayyā’’ti.
“Yes, sir,” he replied.
“Vâng, thưa ngài.”
‘‘Kiṃ karissasī’’ti?
“What will you do?”
“Anh sẽ làm gì?”
‘‘Yaṃ tumhe kāressatha, taṃ karissāmī’’ti.
“I will do whatever you instruct me to do.”
“Tôi sẽ làm bất cứ việc gì ngài sai bảo.”
‘‘Tena hi mayaṃ sve dve tīṇi bhikkhusatāni bhojessāma, ehi, dārūni phālehī’’ti vāsipharasuṃ nīharitvā dāpesi.
“Then, we will feed two or three hundred bhikkhus tomorrow. Come, split the firewood.” He brought out an axe and a hatchet and gave them to him.
“Vậy thì, ngày mai chúng tôi sẽ cúng dường hai ba trăm vị Tỳ-khưu. Hãy đến đây, chẻ củi đi!” Nói xong, ông đưa cho người ấy một cái rìu và một cái búa.
Mahāduggato daḷhaṃ kacchaṃ bandhitvā mahussāhappatto vāsiṃ pahāya pharasuṃ gaṇhanto, pharasuṃ pahāya vāsiṃ gaṇhanto dārūni phāleti.
The Mahāduggata firmly tied his loincloth, filled with great energy, dropping the axe and taking the hatchet, then dropping the hatchet and taking the axe, he split the firewood.
Mahāduggata thắt chặt lưng, đầy nhiệt huyết, khi thì bỏ rìu cầm búa, khi thì bỏ búa cầm rìu, chẻ củi.
Atha naṃ seṭṭhi āha – ‘‘samma, tvaṃ ajja ativiya ussāhappatto kammaṃ karosi, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti?
Then the merchant said to him, “Friend, you are working with extreme energy today. What is the reason?”
Bấy giờ, trưởng giả nói với người ấy: “Này anh, hôm nay anh làm việc với sự nhiệt huyết phi thường. Lý do là gì vậy?”
‘‘Sāmi, ahaṃ sve ekaṃ bhikkhuṃ bhojessāmī’’ti.
“Master, I will feed one bhikkhu tomorrow.”
“Thưa ngài, ngày mai tôi sẽ cúng dường một vị Tỳ-khưu.”
Taṃ sutvā seṭṭhi pasannamānaso cintesi – ‘‘aho iminā dukkaraṃ kataṃ, ‘ahaṃ duggato’ti tuṇhībhāvaṃ anāpajjitvā ‘bhatiṃ katvā ekaṃ bhikkhuṃ bhojessāmī’ti vadatī’’ti.
Hearing that, the merchant, with a delighted mind, thought, “Oh, this man has done a difficult thing! He does not remain silent, thinking, ‘I am poor,’ but says, ‘I will feed one bhikkhu by working for wages.’”
Nghe vậy, trưởng giả với tâm hoan hỷ suy nghĩ: “Ôi! Người này đã làm một việc khó làm! Không im lặng vì ‘tôi là người khốn khổ’, mà lại nói ‘tôi sẽ làm công để cúng dường một vị Tỳ-khưu’.”
Seṭṭhibhariyāpi tassa bhariyaṃ disvā, ‘‘amma, kiṃ kammaṃ karissasī’’ti pucchitvā ‘‘yaṃ tumhe kāressatha, taṃ karomī’’ti vutte udukkhalasālaṃ pavesetvā suppamusalādīni dāpesi.
The merchant’s wife also saw his wife, and after asking, “Mother, what work will you do?” and hearing, “I will do whatever you instruct me to do,” she led her into the mortar shed and gave her winnowing baskets, pestles, and other implements.
Vợ của trưởng giả cũng thấy vợ của người ấy, hỏi: “Này cô, cô sẽ làm công việc gì?” Khi cô ấy nói: “Tôi sẽ làm bất cứ việc gì ngài sai bảo,” bà liền dẫn cô ấy vào phòng giã gạo và đưa cho cô ấy sàng, chày, v.v.
Sā naccantī viya tuṭṭhapahaṭṭhā vīhiṃ koṭṭeti ceva ophuṇāti ca.
She, joyful and elated as if dancing, pounded the paddy and winnowed it.
Cô ấy vui mừng khôn xiết, như đang nhảy múa, vừa giã lúa vừa sàng sảy.
Atha naṃ seṭṭhibhariyā pucchi – ‘‘amma, tvaṃ ativiya tuṭṭhapahaṭṭhā kammaṃ karosi, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti?
Then the merchant’s wife asked her, “Mother, you are working with extreme joy and elation. What is the reason?”
Bấy giờ, vợ của trưởng giả hỏi cô ấy: “Này cô, cô làm việc với sự vui mừng khôn xiết. Lý do là gì vậy?”
‘‘Ayye, imaṃ bhatiṃ katvā mayampi ekaṃ bhikkhuṃ bhojessāmā’’ti.
“Lady, by doing this work for wages, we too will feed one bhikkhu.”
“Thưa bà chủ, làm xong công việc này, chúng tôi cũng sẽ cúng dường một vị Tỳ-khưu.”
Taṃ sutvā seṭṭhibhariyāpi tassaṃ ‘‘aho vatāyaṃ dukkarakārikā’’ti pasīdi.
Hearing that, the merchant’s wife was also pleased with her, thinking, “Oh, this woman performs a difficult deed!”
Nghe vậy, vợ của trưởng giả cũng hoan hỷ đối với cô ấy, nghĩ: “Ôi! Cô ấy thật là người làm việc khó làm!”
Seṭṭhi mahāduggatassa dārūnaṃ phālitakāle ‘‘ayaṃ te bhatī’’ti sālīnaṃ catasso nāḷiyo dāpetvā ‘‘ayaṃ te tuṭṭhidāyo’’ti aparāpi catasso nāḷiyo dāpesi.
When the Mahāduggata had finished splitting the firewood, the merchant gave him four nāḷis of rice, saying, “This is your wage,” and then gave him another four nāḷis, saying, “This is your bonus.”
Khi Mahāduggata chẻ xong củi, trưởng giả nói: “Đây là tiền công của anh,” và cho người ấy bốn đấu gạo lúa, rồi nói: “Đây là phần thưởng vì sự hoan hỷ của anh,” và cho thêm bốn đấu nữa.
So gehaṃ gantvā bhariyaṃ āha – ‘‘mayā bhatiṃ katvā sāli laddho, ayaṃ nivāpo bhavissati, tayā laddhāya bhatiyā dadhitelakaṭukabhaṇḍāni gaṇhāhī’’ti.
He went home and said to his wife, “I have received rice by working for wages. This will be the offering. With the wages you received, buy curds, oil, and spices.”
Người ấy về nhà nói với vợ: “Anh đã làm công và nhận được gạo lúa. Đây sẽ là bữa ăn. Em hãy dùng tiền công của em để mua sữa đông, dầu và các loại gia vị cay nóng.”
Seṭṭhibhariyāpi puna tassā ekaṃ sappikaroṭikañceva dadhibhājanañca kaṭukabhaṇḍañca suddhataṇḍuḷināḷiñca dāpesi.
The merchant’s wife then gave her a pot of ghee, a pot of curds, spices, and one nāḷi of pure rice.
Vợ của trưởng giả cũng cho cô ấy một chén bơ sữa, một chén sữa đông, các loại gia vị cay nóng và một đấu gạo lức sạch.
Iti ca ubhinnampi nava taṇḍulanāḷiyo ahesuṃ.
Thus, both of them had nine nāḷis of rice.
Như vậy, cả hai vợ chồng có tổng cộng chín đấu gạo.
Te ‘‘deyyadhammo no laddho’’ti tuṭṭhahaṭṭhā pātova uṭṭhahiṃsu.
They, delighted and joyful, thinking, "We have obtained a gift," rose early in the morning.
Họ vui mừng khôn xiết vì nghĩ: “Chúng ta đã có vật phẩm để bố thí,” và thức dậy từ sáng sớm.
Bhariyā mahāduggataṃ āha – ‘‘gaccha, sāmi, paṇṇaṃ pariyesitvā āharā’’ti.
His wife said to Mahāduggata, "Go, master, search for leaves and bring them."
Người vợ nói với Mahāduggata: “Này chủ nhân, hãy đi tìm rau về đi!”
So antarāpaṇe paṇṇaṃ adisvā nadītīraṃ gantvā ‘‘ajja ayyānaṃ bhojanaṃ dātuṃ labhissāmī’’ti pahaṭṭhamānaso gāyanto paṇṇaṃ uccinati.
Not finding leaves in the market, he went to the riverbank, and with a joyful mind, singing, he gathered leaves, thinking, "Today I shall be able to offer food to the noble ones."
Vì không thấy rau ở chợ, người ấy đi đến bờ sông, với tâm hoan hỷ nghĩ rằng: “Hôm nay mình sẽ được cúng dường bữa ăn cho các bậc Thánh”, vừa hát vừa hái rau.
Mahājālaṃ khipitvā ṭhito kevaṭṭo ‘‘mahāduggatassa saddena bhavitabba’’nti taṃ pakkositvā pucchi – ‘‘ativiya tuṭṭhacitto gāyasi, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti?
A fisherman, who had cast a large net and was standing there, thinking, "That must be Mahāduggata's voice," called him and asked, "You are singing with an exceedingly joyful heart; what is the reason?"
Người đánh cá đang đứng quăng lưới, nghe tiếng nói: “Chắc là tiếng của Mahāduggata”, bèn gọi người ấy lại hỏi: “Ngươi hát với tâm hoan hỷ quá đỗi, nguyên nhân là gì vậy?”
‘‘Paṇṇaṃ uccināmi, sammā’’ti.
"I am gathering leaves, friend," he replied.
“Này bạn, tôi đang hái rau.”
‘‘Kiṃ karissasī’’ti?
"What will you do with them?"
“Ngươi sẽ làm gì?”
‘‘Ekaṃ bhikkhuṃ bhojessāmī’’ti.
"I will feed a bhikkhu."
“Tôi sẽ cúng dường một vị Tỳ-khưu.”
‘‘Aho sukhito, bhikkhu, so tava kiṃ paṇṇaṃ khādissatī’’ti?
"Oh, how fortunate that bhikkhu is! But what will he eat, your leaves?"
“Ôi, vị Tỳ-khưu ấy thật sung sướng! Nhưng vị Tỳ-khưu ấy sẽ ăn rau của ngươi sao?”
‘‘Kiṃ karomi, samma, attanā laddhapaṇṇena bhojessāmī’’ti?
"What can I do, friend? I will feed him with the leaves I have obtained."
“Này bạn, tôi biết làm gì đây? Tôi sẽ cúng dường với rau mà tôi kiếm được.”
‘‘Tena hi ehī’’ti.
"Then come here," he said.
“Nếu vậy thì hãy lại đây!”
‘‘Kiṃ karomi, sammā’’ti?
"What shall I do, friend?"
“Này bạn, tôi làm gì đây?”
‘‘Ime macche gahetvā pādagghanakāni aḍḍhagghanakāni kahāpaṇagghanakāni ca uddānāni karohī’’ti.
"Take these fish and make piles worth a quarter (of a kahāpaṇa), half a kahāpaṇa, and a kahāpaṇa."
“Hãy lấy những con cá này và sắp thành từng đống trị giá một phần tư, nửa phần tư và một đồng tiền vàng (kahāpaṇa).”
So tathā akāsi.
He did so.
Người ấy đã làm như vậy.
Baddhabaddhe macche nagaravāsino nimantitanimantitānaṃ bhikkhūnaṃ atthāya hariṃsu.
The townspeople carried the fish, as they were caught, for the bhikkhus who had been invited.
Dân thành mang những con cá đã được buộc sẵn đến cho các vị Tỳ-khưu đã được thỉnh mời.
Tassa macchuddānāni karontasseva bhikkhācāravelā pāpuṇi.
While he was making piles of fish, the time for alms-round arrived.
Trong lúc người ấy đang sắp những đống cá thì đến giờ đi khất thực.
So velaṃ sallakkhetvā ‘‘gamissāmahaṃ, samma, ayaṃ bhikkhūnaṃ āgamanavelā’’ti āha.
Noticing the time, he said, "I must go, friend, it is the time for the bhikkhus to arrive."
Người ấy nhận ra thời gian và nói: “Này bạn, tôi sẽ đi, đây là giờ các vị Tỳ-khưu đến.”
‘‘Atthi pana kiñci macchuddāna’’nti?
"Are there any piles of fish left?"
“Còn đống cá nào không?”
‘‘Natthi, samma, sabbāni khīṇānī’’ti.
"No, friend, all are gone."
“Không còn nữa, này bạn, tất cả đều đã hết rồi.”
‘‘Tena hi mayā attano atthāya vālukāya nikhaṇitvā cattāro rohitamacchā ṭhapitā, sace bhikkhuṃ bhojetukāmosi, ime gahetvā gacchā’’ti te macche tassa adāsi.
"Then I have buried four rohita fish in the sand for myself; if you wish to feed a bhikkhu, take these and go," and he gave those fish to him.
“Nếu vậy thì tôi đã chôn bốn con cá rohita trong cát để dành cho mình, nếu ngươi muốn cúng dường Tỳ-khưu thì hãy lấy những con này mà đi!” Người ấy đã cho những con cá đó cho Mahāduggata.
Taṃ divasaṃ pana satthā paccūsakāle lokaṃ volokento mahāduggataṃ attano ñāṇajālassa anto paviṭṭhaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho bhavissatī’’ti āvajjento ‘‘mahāduggato ‘ekaṃ bhikkhuṃ bhojessāmī’ti bhariyāya saddhiṃ hiyyo bhatiṃ akāsi, kataraṃ nu kho bhikkhuṃ labhissatī’’ti cintetvā ‘‘manussā paṇṇe āropitasaññāya bhikkhū gahetvā attano attano gehesu nisīdāpessanti, mahāduggato maṃ ṭhapetvā aññaṃ bhikkhuṃ na labhissatī’’ti upadhāresi.
Now, that day, the Teacher, looking over the world in the early morning, saw Mahāduggata enter the net of his knowledge. Reflecting, "What could it be?" he thought, "Yesterday, Mahāduggata, with his wife, worked for wages, intending to feed a bhikkhu. Which bhikkhu will he get?" He considered, "People, having fixed their minds on the leaves, will take bhikkhus and seat them in their respective homes. Mahāduggata will not get any bhikkhu other than me."
Vào ngày hôm đó, Đức Bổn Sư, khi quán sát thế gian vào lúc rạng đông, thấy Mahāduggata đã đi vào mạng lưới trí tuệ của Ngài. Khi Ngài suy xét: “Điều gì sẽ xảy ra đây?”, Ngài nghĩ: “Mahāduggata đã thỏa thuận làm công với vợ mình hôm qua để cúng dường một vị Tỳ-khưu. Vị Tỳ-khưu nào sẽ được cúng dường đây?” Ngài quán sát và biết: “Mọi người sẽ thỉnh các vị Tỳ-khưu đến ngồi tại nhà mình với ý nghĩ đã ghi tên trên danh sách, Mahāduggata sẽ không tìm được vị Tỳ-khưu nào khác ngoài Ta.”
Buddhā kira duggatesu anukampaṃ karonti.
Indeed, Buddhas show compassion to the poor.
Quả thật, các vị Phật luôn có lòng bi mẫn đối với những người nghèo khổ.
Tasmā satthā pātova sarīrapaṭijagganaṃ katvā ‘‘mahāduggataṃ saṅgaṇhissāmī’’ti gandhakuṭiṃ pavisitvā nisīdi.
Therefore, the Teacher, having attended to his bodily needs early in the morning, entered the Perfumed Chamber, thinking, "I will show favor to Mahāduggata," and sat down.
Vì vậy, Đức Bổn Sư, ngay từ sáng sớm, sau khi sửa soạn thân thể, Ngài vào hương thất và ngồi xuống với ý nghĩ: “Ta sẽ giúp đỡ Mahāduggata.”
Mahāduggatepi macche gahetvā gehaṃ pavisante sakkassa paṇḍukambalasilāsanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
When Mahāduggata entered his house with the fish, Sakka's Pāṇḍukambala stone seat showed signs of heat.
Khi Mahāduggata mang cá về nhà, tảng đá Paṇḍukambala-silāsana của Sakka cũng trở nên nóng bức.
So ‘‘kiṃ nu kho kāraṇa’’nti olokento ‘‘hiyyo, mahāduggato ‘ekassa bhikkhuno bhikkhaṃ dassāmī’ti attano bhariyāya saddhiṃ bhatiṃ akāsi, kataraṃ nu kho bhikkhuṃ labhissatī’’ti cintetvā ‘‘natthetassa añño bhikkhu, satthā pana mahāduggatassa saṅgahaṃ karissāmī’’ti gandhakuṭiyaṃ nisinno.
Looking, he thought, "What could be the reason?" He then realized, "Yesterday, Mahāduggata, with his wife, worked for wages, saying, 'I will give alms to one bhikkhu.' Which bhikkhu will he get? There is no other bhikkhu for him. But the Teacher is seated in the Perfumed Chamber, thinking, 'I will show favor to Mahāduggata.'"
Vị ấy (Sakka) đang suy xét “Nguyên nhân gì đây?” và nghĩ rằng “Hôm qua, Mahāduggata đã thỏa thuận với vợ rằng ‘tôi sẽ cúng dường một vị Tỳ-khưu’, vậy vị ấy sẽ nhận được vị Tỳ-khưu nào đây?” Sau khi suy nghĩ như vậy, (vị ấy thấy rằng) “Không có vị Tỳ-khưu nào khác cho người ấy. Nhưng Đức Bổn Sư sẽ giúp đỡ Mahāduggata.” Thế là, Ngài (Đức Bổn Sư) ngồi trong hương thất (gandhakuṭi).
Mahāduggato attano upakappanakaṃ yāgubhattaṃ paṇṇasūpeyyampi tathāgatassa dadeyya, ‘‘yaṃnūnāhaṃ mahāduggatassa gehaṃ gantvā bhattakārakakammaṃ kareyya’’nti aññātakavesena tassa gehasamīpaṃ gantvā ‘‘atthi nu kho kassaci kiñci bhatiyā kātabba’’nti pucchi.
Mahāduggata would offer even his customary rice-gruel and rice, and vegetable curry to the Tathāgata. Thinking, "Why don't I go to Mahāduggata's house and perform the work of a cook?" he went near his house in an unknown guise and asked, "Is there any work to be done for hire by anyone?"
Mahāduggata có thể cúng dường cháo và cơm, thậm chí cả rau súp, cho Đức Như Lai. (Sakka nghĩ:) “Sao ta không đến nhà Mahāduggata và làm công việc nấu thức ăn nhỉ?” Với hóa thân không ai biết, vị ấy đến gần nhà Mahāduggata và hỏi: “Có ai cần làm việc gì với tiền công không?”
Mahāduggato taṃ disvā āha – ‘‘samma, kiṃ kammaṃ karissasī’’ti?
Mahāduggata saw him and said, "Friend, what kind of work will you do?"
Mahāduggata thấy vị ấy bèn nói: “Này bạn, bạn sẽ làm công việc gì?”
‘‘Ahaṃ, sāmi, sabbasippiko, mayhaṃ ajānanasippaṃ nāma natthi, yāgubhattādīnipi sampādetuṃ jānāmī’’ti.
"Master, I am skilled in all crafts; there is no craft I do not know. I also know how to prepare rice-gruel, rice, and so forth."
“Thưa ngài, tôi là người thạo mọi nghề, không có nghề nào tôi không biết. Tôi cũng biết chuẩn bị cháo, cơm và các món khác.”
‘‘Samma, mayaṃ tava kammena atthikā, tuyhaṃ pana kiñci dātabbaṃ bhatiṃ na passāmā’’ti.
"Friend, we are in need of your work, but we do not see any wages to give you."
“Này bạn, chúng tôi cần công việc của bạn, nhưng chúng tôi không thấy có gì để trả công cho bạn.”
‘‘Kiṃ pana te kattabba’’nti?
"What then is to be done by you?"
“Vậy ngài muốn làm gì?”
‘‘Ekassa bhikkhussa bhikkhaṃ dātukāmomhi, tassa yāgubhattasaṃvidhānaṃ icchāmī’’ti.
"I wish to offer alms to a bhikkhu; I desire the preparation of rice-gruel and rice for him."
‘‘Tôi muốn cúng dường một vị Tỳ-khưu, tôi muốn chuẩn bị cháo và cơm cho vị ấy.”
‘‘Sace bhikkhussa bhikkhaṃ dassasi, na me bhatiyā attho, kiṃ mama puññaṃ na vaṭṭatī’’ti?
"If you will give alms to the bhikkhu, then I have no need of wages. Will my merit not accrue?"
‘‘Nếu ông cúng dường Tỳ-khưu, tôi không cần tiền công, chẳng lẽ phước báu của tôi lại không đáng sao?”
‘‘Evaṃ sante sādhu, samma, pavisā’’ti.
"If that is so, then good, friend, please come in."
‘‘Nếu vậy thì tốt, này bạn, hãy vào đi.”
So tassa gehaṃ pavisitvā telataṇḍulādīni āharāpetvā ‘‘gaccha, attano pattabhikkhuṃ ānehī’’ti taṃ uyyojesi.
So, that Sakka entered his house, had oil, rice, and other provisions brought, and sending him off, said, "Go, bring your allotted bhikkhu."
Ông ta (Sakka) vào nhà của người nghèo khổ đó, mang đến dầu, gạo, v.v., rồi bảo: ‘‘Hãy đi, thỉnh vị Tỳ-khưu đã được phân của ông về đây.” rồi sai người nghèo khổ đó đi.
Dānaveyyāvaṭikopi paṇṇe āropitaniyāmeneva tesaṃ tesaṃ gehāni bhikkhū pahiṇi.
The alms-distributor, too, sent bhikkhus to those various houses according to the list written on the slips.
Người quản lý việc bố thí cũng đã phái các vị Tỳ-khưu đến các nhà theo danh sách đã ghi trên giấy.
Mahāduggato tassa santikaṃ gantvā ‘‘mayhaṃ pattabhikkhuṃ dehī’’ti āha.
Mahāduggata went to him and said, "Give me my allotted bhikkhu."
Mahāduggata đến chỗ người quản lý và nói: ‘‘Hãy cho tôi một vị Tỳ-khưu đã được phân.”
So tasmiṃ khaṇe satiṃ labhitvā ‘‘ahaṃ tava bhikkhuṃ pamuṭṭho’’ti āha.
At that moment, he regained his mindfulness and said, "I have forgotten your bhikkhu."
Lúc đó, người quản lý tỉnh trí lại và nói: ‘‘Tôi đã quên mất vị Tỳ-khưu của ông rồi.”
Mahāduggato tikhiṇāya sattiyā kucchiyaṃ pahaṭo viya, ‘‘sāmi, kasmā maṃ nāsesi, ahaṃ tayā hiyyo samādapito bhariyāya saddhiṃ divasaṃ bhatiṃ katvā ajja pātova paṇṇatthāya nadītīre āhiṇḍitvā āgato, dehi me ekaṃ bhikkhu’’nti bāhā paggayha paridevi.
Mahāduggata felt as if struck in the belly by a sharp spear, and raising his arms, he wailed, "Master, why do you ruin me? You made me resolve yesterday, and I, together with my wife, worked for a day's wages, and today, early in the morning, I came after searching for vegetables on the riverbank. Give me one bhikkhu!"
Mahāduggata như bị một mũi giáo sắc nhọn đâm vào bụng, than khóc, giơ tay lên nói: ‘‘Thưa Ngài, tại sao Ngài lại hủy hoại tôi? Hôm qua, Ngài đã khuyến khích tôi cùng vợ làm công cả ngày, và sáng nay tôi đã đi dọc bờ sông để tìm rau. Xin hãy cho tôi một vị Tỳ-khưu.”
Manussā sannipatitvā ‘‘kimetaṃ, mahāduggatā’’ti pucchiṃsu.
People gathered and asked, "What is this, Mahāduggata?"
Mọi người tụ tập lại và hỏi: ‘‘Chuyện gì vậy, Mahāduggata?”
So tamatthaṃ ārocesi.
He reported the matter.
Ông ta kể lại sự việc.
Te veyyāvaṭikaṃ pucchiṃsu – ‘‘saccaṃ kira, samma, tayā esa ‘bhatiṃ katvā ekassa bhikkhussa bhikkhaṃ dehī’ti samādapito’’ti?
They asked the alms-distributor, "Is it true, friend, that you made him resolve, saying, 'Work for wages and give alms to one bhikkhu'?"
Họ hỏi người quản lý: ‘‘Này bạn, có thật là ông đã khuyến khích người này rằng ‘Hãy làm công và cúng dường một vị Tỳ-khưu’ không?”
‘‘Āma, ayyā’’ti.
"Yes, sirs," he replied.
‘‘Vâng, thưa các Ngài.”
‘‘Bhāriyaṃ te kammaṃ kataṃ, yo tvaṃ ettake bhikkhū saṃvidahanto etassa ekaṃ bhikkhuṃ nādāsī’’ti.
"You have done a serious deed, you who, while arranging for so many bhikkhus, did not give one bhikkhu to this man."
‘‘Ông đã làm một việc nặng nề, khi ông sắp xếp nhiều Tỳ-khưu như vậy mà lại không cho người này một vị Tỳ-khưu nào.”
So tesaṃ vacanena maṅkubhūto taṃ āha – ‘‘samma mahāduggata, mā maṃ nāsayi, ahaṃ tava kāraṇā mahāvihesaṃ patto, manussā paṇṇe āropitaniyāmena attano attano pattabhikkhū nayiṃsu, attano gehe nisinnabhikkhuṃ nīharitvā dento nāma natthi, satthā pana mukhaṃ dhovitvā gandhakuṭiyameva nisinno, rājayuvarājasenāpatiādayo satthu gandhakuṭito nikkhamanaṃ olokentā nisinnā satthu pattaṃ gahetvā ‘gamissāmā’ti.
Being ashamed by their words, he said to him, "Friend Mahāduggata, do not ruin me. Because of you, I have suffered great trouble. People took their allotted bhikkhus according to the list. No one takes out a bhikkhu seated in their own house and gives him away. However, the Teacher has washed his face and is seated in the Gandhakuṭi itself. The king, crown prince, general, and others are seated, waiting for the Teacher to emerge from the Gandhakuṭi, intending to take the Teacher's bowl and go.
Người quản lý việc bố thí, vì lời nói của họ mà cảm thấy xấu hổ, liền nói với Mahāduggata: ‘‘Này bạn Mahāduggata, đừng hủy hoại tôi. Vì ông mà tôi đã gặp phải rắc rối lớn. Mọi người đã thỉnh các vị Tỳ-khưu của mình theo danh sách đã ghi trên giấy. Không có ai đưa một vị Tỳ-khưu đang ngồi trong nhà của mình ra cả. Còn Đức Bổn Sư thì đã rửa mặt và đang ngồi trong hương thất (gandhakuṭi). Các vị vua, hoàng tử, tướng quân, v.v., đang ngồi chờ đợi Đức Bổn Sư ra khỏi hương thất để thỉnh bát của Ngài và nói: ‘Chúng tôi sẽ đi’.”
Buddhā nāma duggate anukampaṃ karonti, tvaṃ vihāraṃ gantvā ‘duggatomhi, bhante, mama saṅgahaṃ karothā’ti satthāraṃ vanda, sace te puññaṃ atthi, addhā lacchasī’’ti.
Buddhas are compassionate towards the poor. Go to the monastery, bow to the Teacher, and say, 'Venerable Sir, I am poor; please show me favor, please help me.' If you have merit, you will surely receive it."
Chư Phật thường thương xót những người nghèo khổ. Ông hãy đến tịnh xá, đảnh lễ Đức Bổn Sư và thưa: ‘Bạch Thế Tôn, con là người nghèo khổ nhất trong thành phố này, xin Ngài hãy là nơi nương tựa cho con, xin Ngài hãy giúp đỡ con.’ Nếu ông có phước báu, chắc chắn ông sẽ nhận được.”
So vihāraṃ agamāsi.
He went to the monastery.
Ông ta đi đến tịnh xá.
Atha naṃ aññesu divasesu vihāre vighāsādabhāvena diṭṭhattā rājayuvarājādayo, ‘‘mahāduggata, na tāva bhattakālo, kasmā tvaṃ āgacchasī’’ti āhaṃsu.
Then, because they had seen him on other days at the monastery as a scavenger, the king, crown prince, and others said, "Mahāduggata, it is not yet mealtime; why have you come?"
Khi ấy, các vị vua, hoàng tử, v.v., vì đã thấy Mahāduggata ăn thức ăn thừa trong tịnh xá vào những ngày khác, liền nói: ‘‘Này Mahāduggata, chưa đến giờ ăn, tại sao ông lại đến?”
So ‘‘jānāmi, sāmi, ‘na tāva bhattakālo’ti.
He replied, "I know, master, that it is not yet mealtime.
Ông ta nói: ‘‘Thưa các Ngài, tôi biết ‘chưa đến giờ ăn’.
Satthāraṃ pana vandituṃ āgacchāmī’’ti vadanto gantvā gandhakuṭiyā ummāre sīsaṃ ṭhapetvā pañcapatiṭṭhitena vanditvā, ‘‘bhante, imasmiṃ nagare mayā duggatataro natthi, avassayo me hotha, karotha me saṅgaha’’nti āha.
But I have come to pay homage to the Teacher." Saying this, he went and, placing his head on the threshold of the Gandhakuṭi, bowed with the five-point prostration, and said, "Venerable Sir, there is no one poorer than me in this city. Be my refuge, please show me favor."
Nhưng tôi đến để đảnh lễ Đức Bổn Sư.” Vừa nói, ông ta đi đến, đặt đầu lên ngưỡng cửa hương thất, đảnh lễ bằng năm điểm chạm đất và nói: ‘‘Bạch Thế Tôn, trong thành phố này không có ai nghèo khổ hơn con. Xin Ngài hãy là nơi nương tựa cho con, xin Ngài hãy giúp đỡ con.”
Satthā gandhakuṭidvāraṃ vivaritvā pattaṃ nīharitvā tassa hatthe ṭhapesi.
The Teacher opened the door of the Gandhakuṭi, brought out his bowl, and placed it in his hand.
Đức Bổn Sư mở cửa hương thất, đưa bát ra và đặt vào tay ông ta.
So cakkavattisiriṃ patto viya ahosi, rājayuvarājādayo aññamaññassa mukhāni olokayiṃsu.
He felt as if he had attained the glory of a universal monarch. The king, crown prince, and others looked at each other's faces.
Ông ta cảm thấy như đã đạt được sự vinh quang của một vị Chuyển Luân Vương. Các vị vua, hoàng tử, v.v., nhìn mặt nhau.
Satthārā dinnapattañhi koci issariyavasena gahetuṃ samattho nāma natthi.
For no one is able to take the bowl given by the Teacher by force.
Không ai có thể lấy bát do Đức Bổn Sư đã ban bằng quyền lực của mình.
Evaṃ pana vadiṃsu, ‘‘samma mahāduggata, satthu pattaṃ amhākaṃ dehi ettakaṃ nāma te dhanaṃ dassāma, tvaṃ duggato dhanaṃ gaṇhāhi, kiṃ te pattenā’’ti?
They said, "Friend Mahāduggata, give us the Teacher's bowl. We will give you so much wealth. You are poor, take the wealth. What good is the bowl to you?"
Họ nói: ‘‘Này bạn Mahāduggata, hãy đưa bát của Đức Bổn Sư cho chúng tôi, chúng tôi sẽ cho ông số tiền này. Ông là người nghèo khổ, hãy nhận tiền đi, bát có ích gì cho ông?”
Mahāduggato ‘‘na kassaci dassāmi, na me dhanena attho, satthāraṃyeva bhojessāmī’’ti āha.
Mahāduggata said, "I will not give it to anyone. I have no need for wealth. I will offer alms to the Teacher himself."
Mahāduggata nói: ‘‘Tôi sẽ không đưa cho ai cả. Tôi không cần tiền. Tôi sẽ cúng dường chính Đức Bổn Sư.”
Avasesā taṃ yācitvā pattaṃ alabhitvā nivattiṃsu.
The others, having begged him for the bowl and not obtaining it, returned.
Những người còn lại đã thỉnh cầu ông ta nhưng không được bát, nên họ quay về.
Rājā pana ‘‘mahāduggato dhanena palobhiyamānopi satthu pattaṃ na deti, satthārā ca sayaṃ dinnapattaṃ koci gahetuṃ na sakkoti, imassa deyyadhammo nāma kittako bhavissati, iminā deyyadhammassa dinnakāle satthāraṃ ādāya gehaṃ netvā mayhaṃ sampāditaṃ āhāraṃ dassāmī’’ti cintetvā satthārā saddhiṃyeva agamāsi.
But the king, thinking, "Even though Mahāduggata is tempted by wealth, he does not give the Teacher's bowl. And no one can take the bowl personally given by the Teacher. How much merit must this man have? When he offers his meritorious gift, I will take the Teacher to my palace and offer the food I have prepared," and so he went along with the Teacher.
Còn nhà vua thì suy nghĩ: ‘‘Mahāduggata dù bị cám dỗ bởi tiền bạc cũng không đưa bát của Đức Bổn Sư. Và không ai có thể lấy bát do chính Đức Bổn Sư đã ban. Vậy thì phẩm vật cúng dường của người này sẽ là bao nhiêu? Khi người này cúng dường phẩm vật, ta sẽ thỉnh Đức Bổn Sư về cung điện và cúng dường thức ăn mà ta đã chuẩn bị.” rồi cùng Đức Bổn Sư đi theo.
Sakkopi devarājā yāgukhajjakabhattasūpeyyapaṇṇādīni sampādetvā satthu nisīdanārahaṃ āsanaṃ paññapetvā nisīdi.
Sakka, the king of devas, also prepared gruel, hard food, rice, curries, and vegetables, and having arranged a suitable seat for the Teacher, he sat down.
Đế Thích Thiên Vương (Sakka) cũng đã chuẩn bị cháo, bánh kẹo, cơm, rau, v.v., và sắp đặt chỗ ngồi xứng đáng cho Đức Bổn Sư rồi ngồi xuống.
Mahāduggato satthāraṃ netvā ‘‘pavisatha, bhante’’ti āha.
Mahāduggata led the Teacher and said, "Venerable Sir, please enter."
Mahāduggata dẫn Đức Bổn Sư vào và nói: ‘‘Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy vào.”
Vasanagehañcassa nīcaṃ hoti, anonatena pavisituṃ na sakkā.
His dwelling was low, and it was impossible to enter without bending.
Nhà ở của ông ta thấp, không thể vào mà không cúi mình.
Buddhā ca nāma gehaṃ pavisantā na onamitvā pavisanti.
But Buddhas do not enter a house by bending.
Chư Phật khi vào nhà không cúi mình mà vào.
Gehañhi pavisanakāle mahāpathavī vā heṭṭhā ogacchati, gehaṃ vā uddhaṃ gacchati.
Indeed, at the time of entering, either the great earth sinks downwards, or the house rises upwards.
Khi Ngài vào nhà, hoặc là đại địa sẽ hạ xuống, hoặc là ngôi nhà sẽ nâng lên.
Idaṃ tesaṃ sudinnadānassa phalaṃ.
This is the fruit of their well-offered alms.
Đây là quả báu của sự bố thí đã được cúng dường tốt đẹp của các Ngài.
Puna nikkhamitvā gatakāle sabbaṃ pākatikameva hoti.
Again, when they had departed, everything became normal again.
Khi Ngài rời đi, mọi thứ trở lại bình thường.
Tasmā satthā ṭhitakova gehaṃ pavisitvā sakkena paññattāsane nisīdi.
Therefore, the Teacher, standing, entered the house and sat on the seat arranged by Sakka.
Vì vậy, Đức Bổn Sư đứng thẳng mà vào nhà và ngồi trên chỗ ngồi do Đế Thích đã sắp đặt.
Satthari nisinne rājā āha – ‘‘samma mahāduggata, tayā amhākaṃ yācantānampi satthu patto na dinno, passāma tāva, kīdiso te satthu sakkāro kato’’ti?
When the Teacher was seated, the king said, "Friend Mahāduggata, though we begged, you did not give the Teacher's bowl. Let us see what kind of offerings you have made for the Teacher."
Khi Đức Bổn Sư đã ngồi, nhà vua nói: ‘‘Này bạn Mahāduggata, ông đã không đưa bát của Đức Bổn Sư cho chúng tôi dù chúng tôi đã thỉnh cầu. Chúng tôi hãy xem thử ông đã chuẩn bị sự cúng dường nào cho Đức Bổn Sư.”
Athassa sakko yāgukhajjakādīni vivaritvā dassesi.
Then Sakka opened and showed him the rice gruel, sweetmeats, and other items.
Rồi Đế Thích mở cháo, bánh kẹo, v.v., ra cho nhà vua xem.
Tesaṃ vāsagandho sakalanagaraṃ chādetvā aṭṭhāsi.
The fragrant scent of these covered the entire city.
Mùi hương thơm ngát của chúng bao trùm khắp thành phố.
Rājā yāguādīni oloketvā bhagavantaṃ āha – ‘‘bhante, ‘ahaṃ mahāduggatassa deyyadhammo kittako bhavissati, iminā deyyadhamme dinne satthāraṃ gehaṃ netvā attano sampāditaṃ āhāraṃ dassāmī’ti cintetvā āgato, mayā evarūpo āhāro na diṭṭhapubbo, mayi idha ṭhite mahāduggato kilameyya, gacchāmaha’’nti satthāraṃ vanditvā pakkāmi.
The king looked at the gruel and other items and said to the Blessed One, "Venerable Sir, I came thinking, 'How much will Mahāduggata's offering be? After he has given his offering, I will invite the Teacher to my palace and offer him the food I have prepared.' I have never seen such food before. If I stay here, Mahāduggata might be troubled. Let us go." Having paid homage to the Teacher, he departed.
Nhà vua nhìn cháo, v.v., rồi thưa với Đức Thế Tôn: ‘‘Bạch Thế Tôn, con đã nghĩ ‘phẩm vật cúng dường của Mahāduggata sẽ là bao nhiêu? Khi người này cúng dường phẩm vật, con sẽ thỉnh Đức Bổn Sư về cung điện và cúng dường thức ăn mà con đã chuẩn bị’ rồi đến đây. Con chưa từng thấy loại thức ăn nào như vậy trước đây. Nếu con ở lại đây, Mahāduggata sẽ phải chịu khổ. Con xin phép ra về.” rồi đảnh lễ Đức Bổn Sư và rời đi.
Sakkopi satthāraṃ yāguādīni datvā sakkaccaṃ parivisi.
Sakka also respectfully served the Teacher, offering the gruel and other items.
Đế Thích cũng đã cúng dường cháo, v.v., cho Đức Bổn Sư và hầu hạ Ngài một cách kính cẩn.
Satthāpi katabhattakicco anumodanaṃ katvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
The Teacher, having finished his meal, delivered an anumodanā and departed from his seat.
Đức Bổn Sư sau khi dùng bữa xong, đã thuyết bài tùy hỷ rồi đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
Sakko mahāduggatassa saññaṃ adāsi.
Sakka gave a sign to Mahāduggata.
Đế Thích đã ra hiệu cho Mahāduggata.
So pattaṃ gahetvā satthāraṃ anugacchi.
He took the bowl and followed the Teacher.
Ông ta cầm bát và đi theo Đức Bổn Sư.
Sakko nivattitvā mahāduggatassa gehadvāre ṭhito ākāsaṃ olokesi.
Sakka turned back and stood at Mahāduggata's doorway, looking up at the sky.
Đế Thích quay lại, đứng ở cửa nhà của Mahāduggata và nhìn lên trời.
Tāvadeva ākāsato sattaratanavassaṃ vassitvā tassa gehe sabbabhājanāni pūretvā sakalaṃ gehaṃ pūresi.
Immediately, a shower of seven kinds of jewels rained down from the sky, filling all the vessels in his house and completely filling the entire house.
Ngay lúc đó, một trận mưa bảy báu đã đổ xuống từ trên trời, lấp đầy tất cả các vật chứa trong nhà của ông ta và lấp đầy cả ngôi nhà.
Tassa gehe okāso nāhosi.
There was no space left in his house.
Không còn chỗ trống trong nhà ông ta.
Tassa bhariyā dārake hatthesu gahetvā nīharitvā bahi aṭṭhāsi.
His wife took the children by their hands, led them out, and stood outside.
Vợ ông ta đã dắt tay các con ra ngoài và đứng ở đó.
So satthāraṃ anugantvā nivatto dārake bahi disvā ‘‘kiṃ ida’’nti pucchi.
He, having followed the Teacher and returned, saw the children outside and asked, "What is this?"
Ông ta đi theo Đức Bổn Sư rồi quay về, thấy các con ở bên ngoài liền hỏi: ‘‘Chuyện gì vậy?”
‘‘Sāmi, sakalaṃ no gehaṃ sattahi ratanehi puṇṇaṃ, pavisituṃ okāso natthī’’ti.
"Master, our entire house is filled with seven kinds of jewels; there is no space to enter."
‘‘Thưa chủ nhân, cả nhà chúng ta đã đầy bảy báu, không còn chỗ để vào.”
So ‘‘ajjeva me dānena vipāko dinno’’ti cintetvā rañño santikaṃ gantvā vanditvā, ‘‘kasmā āgatosī’’ti vutte āha –‘‘deva, gehaṃ me sattahi ratanehi puṇṇaṃ, taṃ dhanaṃ gaṇhathā’’ti.
He thought, "The fruit of my offering has been given today," and going to the king, paid homage. When asked, "Why have you come?" he said, "Your Majesty, my house is filled with seven kinds of jewels. Please take that wealth."
Ông ta nghĩ: ‘‘Quả báo của sự bố thí của tôi đã đến ngay hôm nay.” rồi đến chỗ nhà vua, đảnh lễ và khi được hỏi: ‘‘Tại sao ông lại đến?” liền thưa: ‘‘Thưa Đại vương, nhà của thần đã đầy bảy báu. Xin Đại vương hãy nhận số tài sản đó.”
Rājā ‘‘aho buddhānaṃ dinnadānaṃ, ajjeva matthakaṃ patta’’nti cintetvā taṃ āha – ‘‘kiṃ te laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
The king, thinking, "Oh, the offering given to the Buddhas has reached its pinnacle today!" said to him, "What do you wish to receive?"
Nhà vua nghĩ: ‘‘Ôi, sự bố thí cho chư Phật, đã đạt đến đỉnh cao ngay hôm nay!” rồi hỏi ông ta: ‘‘Ông xứng đáng nhận được gì?”
‘‘Dhanaharaṇatthāya sakaṭasahassaṃ, devā’’ti.
"A thousand carts for carrying the wealth, Your Majesty."
‘‘Một ngàn cỗ xe để chở tài sản, thưa Đại vương.”
Rājā sakaṭasahassaṃ pesetvā dhanaṃ āharāpetvā rājaṅgaṇe okirāpesi.
The king sent a thousand carts, had the wealth brought, and piled it up in the royal courtyard.
Nhà vua đã phái một ngàn cỗ xe đến, cho chở tài sản về và đổ đầy sân cung điện.
Tālappamāṇo rāsi ahosi.
It became a heap as tall as a palm tree.
Đó là một đống cao bằng cây cọ.
Rājā nagare sannipātāpetvā ‘‘imasmiṃ nagare atthi kassaci ettakaṃ dhana’’nti pucchi.
The king assembled the townsfolk and asked, "Is there anyone in this city who has so much wealth?"
Nhà vua triệu tập dân chúng trong thành phố và hỏi: ‘‘Trong thành phố này có ai có nhiều tài sản như vậy không?”
‘‘Natthi, devā’’ti.
"No, Your Majesty," they replied.
‘‘Không có, thưa Đại vương.”
‘‘Evaṃ mahādhanassa kiṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti?
"What should be done for such a wealthy person?"
‘‘Vậy thì nên làm gì với người có tài sản lớn như vậy?”
‘‘Seṭṭhiṭṭhānaṃ dātuṃ vaṭṭati, devā’’ti.
"He should be given the position of a seṭṭhi, Your Majesty," they replied.
‘‘Nên ban chức vị trưởng giả cho ông ta, thưa Đại vương.”
Rājā tassa mahāsakkāraṃ katvā seṭṭhiṭṭhānaṃ dāpesi.
The king bestowed great honors upon him and gave him the position of a seṭṭhi.
Nhà vua đã ban cho ông ta sự tôn vinh lớn và ban chức vị trưởng giả.
Athassa pubbe ekassa seṭṭhino gehaṭṭhānaṃ ācikkhitvā ‘‘ettha jāte gacche harāpetvā gehaṃ uṭṭhāpetvā vasāhī’’ti āha.
Then, having shown him the site of a former seṭṭhi's house, he said, "Have the bushes growing here cleared away, build a house, and live there."
Rồi nhà vua chỉ cho ông ta một vị trí nhà của một trưởng giả trước đây và nói: ‘‘Hãy dọn dẹp những bụi cây mọc ở đây, xây nhà và ở đó.”
Tassa taṃ ṭhānaṃ sodhetvā samaṃ katvā bhūmiyā khaññamānāya aññamaññaṃ āhacca nidhikumbhiyo uṭṭhahiṃsu.
As that ground was being cleared, leveled, and dug, treasure-jars emerged, striking one another.
Khi ông ta cho dọn dẹp và san bằng vị trí đó, các hũ kho báu đã chạm vào nhau và nổi lên từ lòng đất.
Tena rañño ārocite ‘‘tava puññena nibbattā, tvameva gaṇhāhī’’ti āha.
When he reported this to the king, the king said, "They have arisen due to your merit; you yourself should take them."
Khi ông ta báo cáo với nhà vua, nhà vua nói: ‘‘Chúng sinh ra nhờ phước báu của ông, ông hãy nhận lấy.”
So gehaṃ kāretvā sattāhaṃ buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ adāsi.
He had a house built and for seven days gave a great offering to the Sangha, with the Buddha at its head.
Sau khi xây nhà, ông ấy đã cúng dường một đại thí trong bảy ngày đến Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu.
Tato parampi yāvatāyukaṃ tiṭṭhanto puññāni karitvā āyupariyosāne devaloke nibbatto.
After that, he continued to perform meritorious deeds throughout his life, and at the end of his life, he was reborn in the deva world.
Sau đó nữa, ông ấy sống suốt đời, làm nhiều phước thiện, và khi tuổi thọ kết thúc, đã tái sinh vào cõi trời.
Ekaṃ buddhantaraṃ dibbasampattiṃ anubhavitvā imasmiṃ buddhuppāde tato cuto sāvatthiyaṃ sāriputtattherassūpaṭṭhākakule seṭṭhidhītu kucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhi.
Having enjoyed divine prosperity for one buddhantara, he passed away from there in this Buddha-era and was reborn in the womb of a seṭṭhi's daughter in Sāvatthī, in the family that served the Elder Sāriputta.
Sau khi hưởng thụ sự sung túc của chư thiên trong một buddhantara (khoảng thời gian giữa hai Đức Phật), khi Đức Phật này xuất hiện, ông ấy đã tái sinh vào bụng của con gái một vị trưởng giả trong gia đình người hộ độ cho Trưởng lão Sāriputta tại Sāvatthī.
Athassā mātāpitaro gabbhassa patiṭṭhitabhāvaṃ ñatvā gabbhaparihāraṃ adaṃsu.
Then her parents, knowing that the pregnancy was established, provided care for the pregnancy.
Sau đó, cha mẹ cô gái biết rằng thai đã an vị, liền chăm sóc thai kỳ cho cô.
Tassā aparena samayena evarūpo dohaḷo uppajji – ‘‘aho vatāhaṃ dhammadesanāpatiṃ ādiṃ katvā pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ rohitamaccharasena dānaṃ datvā kāsāyāni vatthāni nivāsetvā āsanapariyante nisinnā tesaṃ bhikkhūnaṃ ucchiṭṭhabhattaṃ paribhuñjeyya’’nti.
After some time, she developed such a longing: "Oh, if only I could offer a meal with rohita fish broth to five hundred bhikkhus, with the Dhamma Senāpati as the chief, and then, wearing saffron robes, sit at the edge of the seat and partake of the bhikkhus' leftover food!"
Một thời gian sau, cô ấy có một cơn thèm ăn như sau: “Ôi! Ước gì tôi được cúng dường món canh cá rohita cho năm trăm vị Tỳ-khưu, bắt đầu từ vị Pháp Tướng (Dhammasenāpati), rồi mặc y kāṣāya (y màu vàng đất) và ngồi ở cuối chỗ ngồi để thọ dụng phần cơm thừa của các vị Tỳ-khưu đó.”
Sā mātāpitūnaṃ ārocetvā tathā akāsi, dohaḷo paṭipassambhi.
She informed her parents and did so, and her longing subsided.
Cô ấy đã báo cho cha mẹ và làm theo như vậy, cơn thèm ăn liền chấm dứt.
Athassā tato aparesupi sattasu maṅgalesu rohitamaccharaseneva dhammasenāpatittherappamukhāni pañca bhikkhusatāni bhojesuṃ.
Then, at seven other auspicious occasions after that longing, five hundred bhikkhus, with the Dhamma-senāpati Thera at their head, were offered meals with rohita fish broth.
Sau đó, trong bảy lễ hội khác của cô ấy, họ cũng đã cúng dường cho năm trăm vị Tỳ-khưu, bắt đầu từ Trưởng lão Pháp Tướng, chỉ bằng món canh cá rohita.
Sabbaṃ tissakumārassa vatthumhi vuttaniyāmeneva veditabbaṃ.
All of this should be understood in the same manner as described in the story of Prince Tissa.
Tất cả nên được hiểu theo cách đã nói trong câu chuyện về Tissa-kumāra (Thái tử Tissa).
Ayamassa pana mahāduggatakāle dinnassa rohitamaccharasadānasseva nissando.
This, however, was the result of the offering of rohita fish broth given by him in a time of great poverty.
Đây là quả báo của việc cúng dường món canh cá rohita mà vị ấy đã làm khi còn là một người rất nghèo khổ.
Nāmaggahaṇadivase panassa, ‘‘bhante, dāsassa vo sikkhāpadāni dethā’’ti mātarā vutte thero āha – ‘‘konāmo ayaṃ dārako’’ti?
On the day of his naming ceremony, when his mother said, "Venerable sir, please give the precepts to your servant," the Thera asked, "What is this child's name?"
Vào ngày đặt tên cho vị ấy, khi mẹ vị ấy nói: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy ban các giới luật cho người nô lệ của Ngài,” thì Trưởng lão hỏi: “Đứa trẻ này tên gì?”
‘‘Bhante, imassa dārakassa kucchiyaṃ paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya imasmiṃ gehe jaḷā eḷamūgāpi paṇḍitā jātā, tasmā me puttassa paṇḍitotveva nāmaṃ bhavissatī’’ti.
"Venerable sir, from the time this child conceived in my womb, even the dull-witted and mute in this house have become wise; therefore, my son's name shall be Paṇḍita (The Wise One)."
“Bạch Ngài, từ khi đứa trẻ này thọ thai trong bụng con, những người ngu đần và câm điếc trong nhà này đều trở thành người trí tuệ. Vì vậy, con trai con sẽ có tên là Paṇḍita (người trí tuệ).”
Thero sikkhāpadāni adāsi.
The Thera gave the precepts.
Trưởng lão đã ban các giới luật.
Jātadivasato paṭṭhāya panassa ‘‘nāhaṃ mama puttassa ajjhāsayaṃ bhindissāmī’’ti mātu cittaṃ uppajji.
From the day of his birth, his mother conceived the thought, "I will not thwart my son's aspiration."
Từ ngày sinh ra, mẹ vị ấy đã có ý nghĩ: “Ta sẽ không làm trái ý con trai ta.”
So sattavassikakāle mātaraṃ āha – ‘‘amma, therassa santike pabbajissāmī’’ti.
When he was seven years old, he said to his mother, "Mother, I wish to go forth under the Thera."
Khi lên bảy tuổi, vị ấy nói với mẹ: “Mẹ ơi, con muốn xuất gia với Trưởng lão.”
‘‘Sādhu, tāta, ‘ahaṃ tava ajjhāsayaṃ na bhindissāmicceva manaṃ uppādesi’’’nti vatvā theraṃ nimantetvā bhojetvā, ‘‘bhante, dāso vo pabbajitukāmo, ahaṃ imaṃ sāyanhasamaye vihāraṃ ānessāmī’’ti theraṃ uyyojetvā ñātake sannipātāpetvā ‘‘mama puttassa gihikāle kattabbasakkāraṃ ajjeva karissāmā’’ti mahantaṃ sakkāraṃ kāretvā taṃ ādāya vihāraṃ gantvā ‘‘imaṃ, bhante, pabbājethā’’ti therassa adāsi.
His mother said, "Good, my dear son, I had indeed resolved not to thwart your aspiration," and after inviting the Thera and offering him a meal, she said, "Venerable sir, your servant wishes to go forth; I will bring him to the monastery this evening." Having dismissed the Thera, she gathered her relatives and said, "Let us perform today the honors due to my son during his lay life." After arranging a great ceremony, she took him to the monastery and presented him to the Thera, saying, "Venerable sir, please ordain him."
Mẹ vị ấy nói: “Tốt lắm, con trai, mẹ đã có ý nghĩ rằng ‘mẹ sẽ không làm trái ý con’,” rồi thỉnh Trưởng lão đến cúng dường, và nói: “Bạch Ngài, người nô lệ của Ngài muốn xuất gia. Con sẽ đưa đứa trẻ này đến tu viện vào buổi chiều nay.” Sau khi tiễn Trưởng lão, bà triệu tập bà con lại và nói: “Chúng ta sẽ làm lễ nghi cho con trai ta khi còn là cư sĩ ngay hôm nay.” Sau khi tổ chức một lễ nghi lớn, bà dẫn đứa trẻ đến tu viện và dâng lên Trưởng lão, nói: “Bạch Ngài, xin Ngài hãy cho đứa trẻ này xuất gia.”
Thero pabbajjāya dukkarabhāvaṃ ācikkhitvā ‘‘karissāmahaṃ, bhante, tumhākaṃ ovāda’’nti vutte ‘‘tena hi ehī’’ti kese temetvā tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhitvā pabbājesi.
The Thera explained the difficulty of going forth, and when the boy said, "Venerable sir, I will follow your advice," the Thera said, "Then come," and wetting his hair, he taught him the fivefold meditation subject (tacapañcaka-kammaṭṭhāna) and ordained him.
Trưởng lão đã giải thích sự khó khăn của việc xuất gia, và khi vị ấy nói: “Bạch Ngài, con sẽ tuân theo lời khuyên của Ngài,” thì Trưởng lão nói: “Vậy thì hãy đến đây!” Rồi làm ướt tóc vị ấy, dạy về năm pháp quán thân (tacapañcakakammaṭṭhāna) và cho vị ấy xuất gia.
Mātāpitaropissa sattāhaṃ vihāreyeva vasantā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa rohitamaccharaseneva dānaṃ datvā sattame divase sāyaṃ gehaṃ agamaṃsu.
His parents also stayed at the monastery for seven days, offering alms-food with rohita fish broth to the Saṅgha headed by the Buddha, and on the evening of the seventh day, they returned home.
Cha mẹ của vị ấy cũng ở lại tu viện trong bảy ngày, cúng dường món canh cá rohita cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu, và vào buổi chiều ngày thứ bảy, họ trở về nhà.
Thero aṭṭhame divase antogāmaṃ gacchanto taṃ ādāya gacchati, bhikkhusaṅghena saddhiṃ nāgamāsi.
On the eighth day, the Thera went into the village for alms, taking the novice with him; he did not go with the community of bhikkhus.
Vào ngày thứ tám, Trưởng lão đi vào làng, dẫn theo vị Sāmaṇera (Sa-di) đó, nhưng không đi cùng với Tăng đoàn.
Kiṃ kāraṇā?
What was the reason?
Vì lý do gì?
Na tāvassa pattacīvaraggahaṇāni vā iriyāpatho vā pāsādiko hoti, apica vihāre therassa kattabbavattaṃ atthi.
It was not that the novice's manner of holding his bowl and robes or his deportment was yet pleasing, but rather that the Thera had duties to perform at the monastery.
Vì lúc đó, việc cầm bát và y của vị ấy chưa được trang nghiêm, và hơn nữa, Trưởng lão còn có những phận sự cần làm tại tu viện.
Thero hi bhikkhusaṅghe antogāmaṃ paviṭṭhe sakalavihāraṃ vicaranto asammajjanaṭṭhānaṃ sammajjitvā tucchabhājanesu pānīyaparibhojanīyāni upaṭṭhapetvā dunnikkhittāni mañcapīṭhādīni paṭisāmetvā pacchā gāmaṃ pavisati.
For when the community of bhikkhus had entered the village, the Thera would go about the entire monastery, sweeping places that needed sweeping, placing drinking and washing water in empty vessels, tidying up badly placed couches, chairs, and so forth, and only then would he enter the village.
Quả thật, khi Tăng đoàn đã vào làng, Trưởng lão đi khắp tu viện, quét dọn những nơi chưa được quét, sắp đặt nước uống và nước dùng vào các bình rỗng, sắp xếp lại giường ghế và các vật dụng khác đã đặt không đúng chỗ, rồi sau đó mới vào làng.
Apica ‘‘aññatitthiyā tucchavihāraṃ pavisitvā ‘passatha samaṇassa gotamassa sāvakānaṃ nisinnaṭṭhānānī’ti vattuṃ mā labhiṃsū’’ti sakalavihāraṃ paṭijaggitvā pacchā gāmaṃ pavisati.
Moreover, he would attend to the entire monastery so that "other sectarians might not enter the empty monastery and say, 'Look at the sitting places of the disciples of the recluse Gotama!'" and only then would he enter the village.
Hơn nữa, để tránh cho các ngoại đạo không thể vào tu viện trống vắng và nói: “Hãy xem những chỗ ngồi của các đệ tử Sa-môn Gotama!” Trưởng lão đã chăm sóc toàn bộ tu viện rồi sau đó mới vào làng.
Tasmā taṃ divasampi sāmaṇerena pattacīvaraṃ gāhāpetvā divātaraṃ piṇḍāya pāvisi.
Therefore, on that day too, he made the novice carry his bowl and robes and entered for alms at a later hour.
Vì vậy, vào ngày hôm đó, Trưởng lão cũng đã sai vị Sāmaṇera cầm bát và y, rồi đi khất thực vào lúc trời đã khá trưa.
Sāmaṇero upajjhāyena saddhiṃ gacchanto antarāmagge mātikaṃ disvā, ‘‘bhante, idaṃ kiṃ nāmā’’ti pucchi.
As the sāmaṇera walked with his preceptor, he saw a water channel along the way and asked, "Venerable sir, what is this called?"
Vị Sāmaṇera đi cùng với vị Upajjhāya (Thầy tế độ) của mình, trên đường đi, thấy một con mương, liền hỏi: “Bạch Ngài, cái này gọi là gì?”
‘‘Mātikā nāma, sāmaṇerā’’ti.
"It is called a water channel, sāmaṇera."
“Này Sāmaṇera, cái đó gọi là mương nước.”
‘‘Imāya kiṃ karontī’’ti?
"What do they do with it?"
“Người ta làm gì với nó, bạch Ngài?”
‘‘Ito cito ca udakaṃ āharitvā attano sassakammaṃ sampādentī’’ti.
"They bring water from here and there and accomplish their farming work."
“Họ dẫn nước từ đây đó để hoàn thành việc trồng trọt của mình.”
‘‘Kiṃ pana, bhante, udakassa cittaṃ atthī’’ti?
"But Venerable sir, does water have a mind?"
“Bạch Ngài, nước có tâm không?”
‘‘Natthāvuso’’ti.
"No, friend."
“Này hiền giả, không có.”
‘‘Evarūpaṃ acittakaṃ attano icchitaṭṭhānaṃ haranti, bhante’’ti?
"Can they direct such a mindless thing to the place they desire, Venerable sir?"
“Bạch Ngài, họ có thể dẫn thứ vô tâm như vậy đến nơi mình muốn sao?”
‘‘Āmāvuso’’ti.
"Yes, friend."
“Đúng vậy, này hiền giả.”
So cintesi – ‘‘sace evarūpampi acittakaṃ attano icchiticchitaṭṭhānaṃ haritvā kammaṃ karonti, kasmā sacittakāpi cittaṃ attano vase vattetvā samaṇadhammaṃ kātuṃ na sakkhissantī’’ti.
He thought: "If they can direct such a mindless thing to their desired places and perform work, why should those with a mind not be able to control their mind and practice the recluse's practice?"
Vị ấy suy nghĩ: “Nếu những thứ vô tâm như vậy mà họ còn có thể dẫn đến nơi mình muốn để làm việc, thì tại sao những người hữu tâm lại không thể chế ngự tâm mình để thực hành pháp Sa-môn?”
Atheso purato gacchanto usukāre saradaṇḍakaṃ aggimhi tāpetvā akkhikoṭiyā oloketvā ujukaṃ karonte disvā, ‘‘ime, bhante, ke nāmā’’ti pucchi.
Then, as he walked further, he saw fletchers straightening arrow shafts by heating them in fire and looking at them with the corner of their eye, and he asked, "Venerable sir, who are these people?"
Sau đó, vị ấy đi tiếp về phía trước, thấy những người thợ làm tên đang nung thanh tên trên lửa, rồi dùng khóe mắt nhìn và uốn thẳng nó, liền hỏi: “Bạch Ngài, những người này là ai?”
‘‘Usukārā nāmāvuso’’ti.
"They are fletchers, friend."
“Này hiền giả, họ là những người thợ làm tên.”
‘‘Kiṃ panete karontī’’ti?
"What are they doing?"
“Họ đang làm gì vậy, bạch Ngài?”
‘‘Aggimhi tāpetvā saradaṇḍakaṃ ujuṃ karontī’’ti.
"They are heating arrow shafts in fire and straightening them."
“Họ đang nung thanh tên trên lửa để uốn thẳng nó.”
‘‘Sacittako, bhante, eso’’ti?
"Is that arrow shaft conscious, Venerable sir?"
“Bạch Ngài, thanh tên đó có tâm không?”
‘‘Acittako, āvuso’’ti.
“It is mindless, friend.”
“Này hiền giả, nó vô tâm.”
So cintesi – ‘‘sace acittakaṃ gahetvā aggimhi tāpetvā ujuṃ karonti, kasmā sacittakāpi attano cittaṃ vase vattetvā samaṇadhammaṃ kātuṃ na sakkhissantī’’ti.
He thought: “If, taking a mindless thing, they heat it in the fire and straighten it, why should not those with minds be able to control their own minds and practice the ascetic life?”
Vị ấy suy nghĩ: “Nếu họ có thể cầm một vật vô tâm, nung trên lửa và uốn thẳng nó, thì tại sao những người hữu tâm lại không thể chế ngự tâm mình để thực hành pháp Sa-môn?”
Atheso purato gacchanto dārūni araneminābhiādīni tacchante disvā, ‘‘bhante, ime ke nāmā’’ti pucchi.
Then, as he walked further, he saw woodworkers shaping wood for felloes, spokes, and hubs, and he asked, “Venerable sir, what are these people called?”
Sau đó, vị ấy đi tiếp về phía trước, thấy những người thợ mộc đang đẽo gỗ thành các bộ phận như nan hoa, vành, trục, v.v., liền hỏi: “Bạch Ngài, những người này là ai?”
‘‘Tacchakā nāmāvuso’’ti.
“They are called carpenters, friend.”
“Này hiền giả, họ là những người thợ mộc.”
‘‘Kiṃ panete karontī’’ti?
“What are they doing?”
“Họ đang làm gì vậy, bạch Ngài?”
‘‘Dārūni gahetvā yānakādīnaṃ cakkādīni karonti, āvuso’’ti.
“Taking wood, they make wheels and other parts for vehicles, friend.”
“Này hiền giả, họ đang lấy gỗ để làm bánh xe và các bộ phận khác cho xe cộ.”
‘‘Etāni pana sacittakāni, bhante’’ti?
“Are these things mindful, Venerable sir?”
“Bạch Ngài, những khúc gỗ này có tâm không?”
‘‘Acittakāni, āvuso’’ti.
“They are mindless, friend.”
“Này hiền giả, chúng vô tâm.”
Athassa etadahosi – ‘‘sace acittakāni kaṭṭhakaliṅgarāni gahetvā cakkādīni karonti, kasmā sacittakā attano cittaṃ vase vattetvā samaṇadhammaṃ kātuṃ na sakkhissantī’’ti.
Then it occurred to him: “If, taking mindless pieces of wood, they make wheels and other things, why should not those with minds be able to control their own minds and practice the ascetic life?”
Sau đó, vị ấy nghĩ: “Nếu họ có thể lấy những khúc gỗ vô tâm để làm bánh xe và các bộ phận khác, thì tại sao những người hữu tâm lại không thể chế ngự tâm mình để thực hành pháp Sa-môn?”
So imāni kāraṇāni disvā, ‘‘bhante, sace tumhākaṃ pattacīvare tumhe gaṇheyyātha, ahaṃ nivatteyya’’nti.
Seeing these reasons, he said, “Venerable sir, if you would take your bowl and robes, I would turn back.”
Sau khi thấy những lý do này, vị ấy nói: “Bạch Ngài, nếu Ngài tự cầm bát và y của mình, con xin quay về.”
Thero ‘‘ayaṃ adhunā pabbajito daharasāmaṇero maṃ anubandhamāno evaṃ vadetī’’ti cittaṃ anuppādetvāva ‘‘āhara, sāmaṇerā’’ti vatvā attano pattacīvaraṃ aggahesi.
The Elder, without entertaining the thought, “This newly ordained young sāmaṇera is following me and speaking thus,” said, “Bring them, sāmaṇera,” and took his own bowl and robes.
Trưởng lão không hề có ý nghĩ: “Vị Sāmaṇera trẻ tuổi này vừa mới xuất gia mà lại theo ta và nói như vậy,” mà nói: “Này Sāmaṇera, hãy mang đến đây,” rồi tự cầm bát và y của mình.
Sāmaṇeropi upajjhāyaṃ vanditvā nivattanto, ‘‘bhante, mayhaṃ āhāraṃ āharanto rohitamaccharaseneva āhareyyāthā’’ti āha.
The sāmaṇera, having paid homage to his preceptor, turned back and said, “Venerable sir, when you bring my meal, please bring it with rohita fish curry only.”
Vị Sāmaṇera cũng đảnh lễ vị Upajjhāya của mình, rồi quay lại, nói: “Bạch Ngài, khi mang thức ăn cho con, xin Ngài hãy mang món canh cá rohita.”
‘‘Kathaṃ labhissāmāvuso’’ti?
“How shall I get it, friend?”
“Làm sao ta có thể có được, này hiền giả?”
‘‘Bhante, attano puññena alabhantā mama puññena labhissathā’’ti āha.
“Venerable sir, if you do not obtain it by your own merit, you will obtain it by my merit,” he said.
“Bạch Ngài, nếu Ngài không có được bằng phước báu của mình, thì Ngài sẽ có được bằng phước báu của con,” vị ấy nói.
Thero ‘‘daharasāmaṇerassa bahi nisinnakassa paripanthopi bhaveyyā’’ti kuñjikaṃ datvā ‘‘mayhaṃ vasanagabbhassa dvāraṃ vivaritvā anto pavisitvā nisīdeyyāsī’’ti āha.
The Elder, thinking, “A young sāmaṇera sitting outside might face danger,” gave him the key and said, “Open the door of my dwelling room, enter, and sit inside.”
Trưởng lão nghĩ: “Nếu vị Sāmaṇera trẻ tuổi này ngồi bên ngoài, có thể sẽ gặp nguy hiểm,” liền đưa chìa khóa và nói: “Con hãy mở cửa phòng ở của ta, vào trong và ngồi đó.”
So tathā katvā attano karajakāye ñāṇaṃ otāretvā attabhāvaṃ sammasanto nisīdi.
He did so, and directing his knowledge to his physical body, he sat contemplating his own existence.
Vị ấy đã làm như vậy, rồi đưa tuệ quán vào thân thể do tinh huyết cha mẹ tạo thành (karajakāya) của mình, và ngồi quán chiếu thân thể.
Athassa guṇatejena sakkassa āsanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
Then, by the power of his virtue, Sakka’s seat showed signs of heat.
Sau đó, nhờ oai lực của các đức tính của vị ấy, chỗ ngồi của Sakka (Đế Thích) đã hiển lộ sự ấm nóng.
So ‘‘kiṃ nu kho kāraṇa’’nti upadhārento ‘‘paṇḍitasāmaṇero upajjhāyassa pattacīvaraṃ datvā ‘samaṇadhammaṃ karissāmī’ti nivatto, mayāpi tattha gantuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā cattāro mahārāje āmantetvā ‘‘vihārassa upavane vasante sakuṇe palāpetvā samantato ārakkhaṃ gaṇhathā’’ti vatvā candadevaputtaṃ ‘‘candamaṇḍalaṃ ākaḍḍhitvā gaṇhāhī’’ti, sūriyadevaputtaṃ ‘‘sūriyamaṇḍalaṃ ākaḍḍhitvā gaṇhāhī’’ti vatvā sayaṃ gantvā āviñchanarajjuṭṭhāne ārakkhaṃ gahetvā aṭṭhāsi, vihāre purāṇapaṇṇassa patantassapi saddo nāhosi, sāmaṇerassa cittaṃ ekaggaṃ ahosi.
He, reflecting on the reason, thought, “The wise sāmaṇera has given his bowl and robes to his preceptor and turned back, intending to practice the ascetic life. I, too, should go there.” So, he summoned the four Great Kings and told them, “Drive away the birds dwelling in the monastery’s grove and guard the area all around.” He told the moon-deva, “Pull down the moon disc and hold it,” and the sun-deva, “Pull down the sun disc and hold it.” He himself went and stood guarding the place where the door-rope was, so that not even the sound of an old leaf falling in the monastery was heard, and the sāmaṇera’s mind became one-pointed.
Vị ấy tự hỏi: “Nguyên nhân là gì vậy?” Sau khi quán xét, Ngài nghĩ: “Sa-di Paṇḍita đã dâng y bát cho vị thầy tế độ của mình và nói ‘Con sẽ thực hành pháp Sa-môn’ rồi trở về, ta cũng nên đến đó.” Nghĩ vậy, Ngài gọi bốn vị Đại Thiên Vương đến và nói: “Hãy xua đuổi các loài chim đang ở trong khu vườn của tịnh xá và thiết lập sự bảo vệ xung quanh.” Ngài bảo thiên tử Mặt Trăng: “Hãy kéo giữ mặt trăng lại!” và bảo thiên tử Mặt Trời: “Hãy kéo giữ mặt trời lại!” Rồi chính Ngài đi đến chỗ dây kéo cửa, thiết lập sự bảo vệ và đứng đó. Trong tịnh xá, ngay cả tiếng lá khô rơi cũng không có, tâm của Sa-di trở nên định tĩnh.
So antarābhatteyeva attabhāvaṃ sammasitvā tīṇi phalāni pāpuṇi.
He contemplated his own existence and attained the three fruits even before the meal.
Vị ấy đã quán xét tự thân ngay trước bữa ăn và đạt được ba quả.
Theropi ‘‘sāmaṇero vihāre nisinno, tassa upakappanakaṃ bhojanaṃ asukakule nāma sakkā laddhu’’nti ekaṃ pemagāravayuttaṃ upaṭṭhākakulaṃ agamāsi.
The Elder, thinking, “The sāmaṇera is sitting in the monastery; it is possible to obtain a suitable meal for him in a certain family,” went to a family of supporters devoted with affection and respect.
Vị Trưởng lão cũng nghĩ: “Sa-di đang ngồi trong tịnh xá, thức ăn phù hợp cho vị ấy có thể tìm được ở gia đình thí chủ kia.” Rồi Ngài đi đến một gia đình thí chủ có lòng kính mến.
Tattha ca manussā taṃ divasaṃ rohitamacche labhitvā therasseva āgamanaṃ olokento nisīdiṃsu.
There, the people had obtained rohita fish that day and were sitting, watching for the Elder’s arrival.
Tại đó, mọi người đã bắt được cá lóc vào ngày hôm ấy và đang ngồi đợi sự quang lâm của chính vị Trưởng lão.
Te theraṃ āgacchantaṃ disvā, ‘‘bhante, bhaddakaṃ vo kataṃ idhāgacchantehī’’ti antogehe pavesetvā yāgukhajjakādīni datvā rohitamaccharasenassa piṇḍapātaṃ adaṃsu.
Seeing the Elder approaching, they said, “Venerable sir, it is good that you have come here,” led him inside the house, offered him gruel, hard food, and other things, and then offered him alms food with rohita fish curry.
Thấy vị Trưởng lão đến, họ nói: “Bạch Tôn giả, thật tốt lành khi Tôn giả đã đến đây!” rồi mời Ngài vào trong nhà, dâng cháo, đồ ăn vặt và sau đó cúng dường bát cơm với nước cá lóc.
Thero haraṇākāraṃ dassesi.
The Elder indicated that he would take it with him.
Vị Trưởng lão ra hiệu muốn mang đi.
Manussā ‘‘paribhuñjatha, bhante, haraṇakabhattampi labhissathā’’ti vatvā therassa bhattakiccāvasāne pattaṃ rohitamaccharasabhojanassa pūretvā adaṃsu.
The people said, “Venerable sir, please partake of it; you will also receive food to take away,” and after the Elder had finished his meal, they filled his bowl with food including rohita fish curry and gave it to him.
Mọi người nói: “Bạch Tôn giả, xin hãy dùng bữa đi, Tôn giả sẽ nhận được phần cơm mang về.” Rồi sau khi vị Trưởng lão dùng bữa xong, họ đổ đầy bát cơm với thức ăn nước cá lóc và dâng cho Ngài.
Thero ‘‘sāmaṇero me chāto’’ti sīghaṃ agamāsi.
The Elder, thinking, “My sāmaṇera must be hungry,” departed quickly.
Vị Trưởng lão nghĩ: “Sa-di của ta chắc đói rồi,” và vội vàng trở về.
Satthāpi taṃ divasaṃ kālasseva bhuñjitvā vihāraṃ gantvā evaṃ āvajjesi – ‘‘paṇḍitasāmaṇero upajjhāyassa pattacīvaraṃ datvā ‘samaṇadhammaṃ karissāmī’ti nivatto, nipphajjissati nu kho assa pabbajitakicca’’nti upadhārento tiṇṇaṃ phalānaṃ pattabhāvaṃ ñatvā ‘‘arahattassa upanissayo atthi, natthī’’ti āvajjento ‘‘atthī’’ti disvā ‘‘purebhattameva arahattaṃ pattuṃ sakkhissati, na sakkhissatī’’ti upadhārento ‘‘sakkhissatī’’ti aññāsi.
The Teacher, too, having eaten early that day, went to the monastery and reflected thus: "The wise novice has returned after giving his preceptor his bowl and robes, thinking, 'I will practice the ascetic life.' Will his monastic task be accomplished?" Reflecting thus, he knew that the three fruits would be attained. Then, considering whether there was a strong supporting condition for Arahantship or not, he saw that there was. Then, considering whether he would be able to attain Arahantship before mealtime or not, he knew that he would be able to.
Đức Thế Tôn cũng đã dùng bữa sớm vào ngày hôm ấy, rồi đến tịnh xá và quán xét như sau: “Sa-di Paṇḍita đã dâng y bát cho vị thầy tế độ của mình và nói ‘Con sẽ thực hành pháp Sa-môn’ rồi trở về, liệu việc xuất gia của vị ấy có thành tựu không?” Sau khi quán xét và biết rằng vị ấy đã đạt ba quả, Ngài lại quán xét: “Có duyên lành để đạt A-la-hán không?” Ngài thấy: “Có.” Rồi Ngài quán xét: “Vị ấy có thể đạt A-la-hán ngay trước bữa ăn không, hay không thể?” Ngài biết: “Có thể.”
Athassa etadahosi – ‘‘sāriputto sāmaṇerassa bhattaṃ ādāya sīghaṃ āgacchati, antarāyampissa kareyya dvārakoṭṭhake ārakkhaṃ gahetvā nisīdissāmi, atha naṃ pañhaṃ pucchissāmi, tasmiṃ pañhe vissajjiyamāne sāmaṇero saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇissatī’’ti.
Then it occurred to him: "Sāriputta is coming quickly with the novice's meal, and he might cause an obstacle for him. I will take up a guard at the gatehouse and sit there. Then I will ask him questions. While those questions are being answered, the novice will attain Arahantship together with the paṭisambhidās."
Khi ấy, Ngài nghĩ: “Sāriputta đang vội vàng mang cơm cho Sa-di, có thể gây trở ngại cho vị ấy. Ta sẽ ngồi canh ở cổng, rồi hỏi Ngài một câu hỏi. Khi câu hỏi đó được giải đáp, Sa-di sẽ đạt A-la-hán cùng với các tuệ phân tích (paṭisambhidā).”
Tato gantvā dvārakoṭṭhake ṭhatvā sampattaṃ theraṃ cattāro pañhe pucchi, puṭṭhaṃ puṭṭhaṃ pañhaṃ vissajjesi.
Thereupon, he went and stood at the gatehouse and asked the Elder, who had arrived, four questions. The Elder answered each question as it was asked.
Sau đó, Ngài đi đến đứng ở cổng và hỏi vị Trưởng lão vừa đến bốn câu hỏi. Vị Trưởng lão đã giải đáp từng câu hỏi được hỏi.
Tatridaṃ pucchāvissajjanaṃ – satthā kira naṃ āha – ‘‘sāriputta, kiṃ te laddha’’nti?
Herein is the question and answer: The Teacher, it is said, asked him, "Sāriputta, what have you received?"
Đây là phần hỏi đáp: Đức Thế Tôn đã hỏi Ngài: “Sāriputta, con đã nhận được gì?”
‘‘Āhāro, bhante’’ti.
"Food, venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, thức ăn ạ.”
‘‘Āhāro nāma kiṃ āharati, sāriputtā’’ti?
"What does food bring, Sāriputta?"
“Sāriputta, thức ăn mang lại gì?”
‘‘Vedanaṃ, bhante’’ti.
"Feeling, venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, cảm thọ (vedanā) ạ.”
‘‘Vedanaṃ kiṃ āharati, sāriputtā’’ti?
"What does feeling bring, Sāriputta?"
“Sāriputta, cảm thọ mang lại gì?”
‘‘Rūpaṃ, bhante’’ti.
"Form, venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, sắc (rūpa) ạ.”
‘‘Rūpaṃ pana kiṃ āharati, sāriputtā’’ti?
"And what does form bring, Sāriputta?"
“Sāriputta, còn sắc mang lại gì?”
‘‘Phassaṃ, bhante’’ti.
"Contact, venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, xúc (phassa) ạ.”
Tatrāyaṃ adhippāyo – ‘‘jighacchitena hi paribhutto āhāro tassa khuddaṃ pariharitvā sukhaṃ vedanaṃ āharati.
The meaning here is: "Indeed, food consumed by one who is hungry removes his hunger and brings a pleasant feeling.
Ý nghĩa ở đây là: “Thức ăn được người đói dùng sẽ xua tan cơn đói và mang lại cảm thọ an lạc.
Āhāraparibhogena sukhitassa sukhāya vedanāya uppajjamānāya sarīre vaṇṇasampatti hoti.
When a pleasant feeling arises in one who is happy due to the consumption of food, there is beauty of complexion in the body.
Khi cảm thọ an lạc phát sinh do dùng thức ăn, người cảm thấy an lạc sẽ có vẻ đẹp trên thân.
Evaṃ vedanā rūpaṃ āharati.
Thus, feeling brings form.
Như vậy, cảm thọ mang lại sắc.
Sukhito pana āhārajarūpavasena uppannasukhasomanasso ‘idāni me assādo jāto’ti nippajjanto vā nisīdanto vā sukhasamphassaṃ paṭilabhatī’’ti.
Furthermore, one who is happy, having experienced pleasant mental joy arising from form produced by food, thinking 'Now I have delight,' whether lying down or sitting, obtains pleasant contact."
Còn người an lạc, với sự hoan hỷ và an lạc phát sinh do sắc do thức ăn sinh ra, khi nằm hay ngồi, sẽ nhận được xúc lạc (sukhasamphassa) vì nghĩ ‘Bây giờ ta đã có sự thỏa mãn’.”
Evaṃ imesu catūsu pañhesu vissajjikesu sāmaṇero saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patto.
Thus, when these four questions were answered, the novice attained Arahantship together with the paṭisambhidās.
Khi bốn câu hỏi này được giải đáp, Sa-di đã đạt A-la-hán cùng với các tuệ phân tích (paṭisambhidā).
Satthāpi theraṃ āha – ‘‘gaccha, sāriputta, tava sāmaṇerassa bhattaṃ dehī’’ti.
The Teacher also said to the Elder, "Go, Sāriputta, give your novice his meal."
Đức Thế Tôn cũng bảo vị Trưởng lão: “Sāriputta, hãy đi dâng cơm cho Sa-di của con.”
Thero gantvā dvāraṃ ākoṭesi.
The Elder went and knocked on the door.
Vị Trưởng lão đi đến gõ cửa.
Sāmaṇero nikkhamitvā therassa hatthato pattaṃ gahetvā ekamantaṃ ṭhapetvā tālavaṇṭena theraṃ bīji.
The novice came out, took the bowl from the Elder's hand, placed it aside, and fanned the Elder with a palm-leaf fan.
Sa-di bước ra, nhận bát cơm từ tay vị Trưởng lão, đặt sang một bên, rồi dùng quạt lá quạt cho vị Trưởng lão.
Atha naṃ thero āha – ‘‘sāmaṇera, bhattakiccaṃ karohī’’ti.
Then the Elder said to him, "Novice, perform your meal duties."
Khi ấy, vị Trưởng lão bảo vị ấy: “Sa-di, hãy dùng bữa đi.”
‘‘Tumhe pana, bhante’’ti.
"And you, venerable sir?"
“Còn Tôn giả thì sao ạ?”
‘‘Kataṃ mayā bhattakiccaṃ, tvaṃ karohī’’ti.
"My meal duties are done; you perform yours."
“Ta đã dùng bữa rồi, con hãy dùng đi.”
Sattavassikadārako pabbajitvā aṭṭhame divase taṃ khaṇaṃ vikasitapadumuppalasadiso arahattaṃ patto, paccavekkhitaṭṭhānaṃ pana paccavekkhanto nisīditvā bhattakiccamakāsi.
The seven-year-old boy, having been ordained, attained Arahantship on the eighth day at that very moment, like a blossoming lotus or water lily. Then, reflecting on the object of his contemplation, he sat down and performed his meal duties.
Đứa trẻ bảy tuổi đã xuất gia, vào ngày thứ tám, ngay lúc ấy, đã đạt A-la-hán như hoa sen và hoa súng nở rộ. Vị ấy ngồi quán xét những gì cần quán xét rồi dùng bữa.
Tena pattaṃ dhovitvā paṭisāmitakāle candadevaputto candamaṇḍalaṃ vissajjesi, sūriyadevaputto sūriyamaṇḍalaṃ.
When he had washed the bowl and put it away, the moon deity released the moon disc, and the sun deity released the sun disc.
Khi vị ấy rửa bát xong và cất đi, thiên tử Mặt Trăng thả mặt trăng ra, thiên tử Mặt Trời thả mặt trời ra.
Cattāro mahārājāno catuddisaṃ ārakkhaṃ vissajjesuṃ, sakko devarājā āviñchanake ārakkhaṃ vissajjesi.
The four Great Kings released their guards in the four directions, and Sakka, king of the devas, released his guard at the door-pull.
Bốn vị Đại Thiên Vương thả sự bảo vệ ở bốn phương, Đế Thích (Sakka) thiên vương thả sự bảo vệ ở chỗ dây kéo cửa.
Sūriyo majjhaṭṭhānato galitvā gato.
The sun had moved down from its midday position.
Mặt trời đã trượt khỏi vị trí giữa trưa và đi xuống.
Bhikkhū ujjhāyiṃsu, ‘‘chāyā adhikappamāṇā jātā, sūriyo majjhaṭṭhānato galitvā gato, sāmaṇerena ca idāneva bhuttaṃ, kiṃ nu kho eta’’nti.
The bhikkhus complained, "The shadow has become excessively long, the sun has moved down from its midday position, and the novice has just eaten. What is this?"
Các Tỳ-kheo phàn nàn: “Bóng râm đã quá mức, mặt trời đã trượt khỏi vị trí giữa trưa và đi xuống, mà Sa-di lại vừa mới dùng bữa xong. Chuyện này là sao vậy?”
Satthā taṃ pavattiṃ ñatvā āgantvā pucchi – ‘‘bhikkhave, kiṃ kathethā’’ti?
The Teacher, knowing this occurrence, came and asked, "Bhikkhus, what are you discussing?"
Đức Thế Tôn biết chuyện đó, Ngài đến hỏi: “Này các Tỳ-kheo, các ông đang nói chuyện gì vậy?”
‘‘Idaṃ nāma, bhante’’ti?
"This and that, venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, chuyện này ạ.”
‘‘Āma, bhikkhave, puññavato samaṇadhammaṃ karaṇakāle candadevaputto candamaṇḍalaṃ, sūriyadevaputto sūriyamaṇḍalaṃ ākaḍḍhitvā gaṇhi, cattāro mahārājāno vihāropavane catuddisaṃ ārakkhaṃ gaṇhiṃsu, sakko devarājā āviñchanake ārakkhaṃ gaṇhi, ahampi ‘buddhomhī’ti appossukko nisīdituṃ nālatthaṃ, gantvā dvārakoṭṭhake mama puttassa ārakkhaṃ aggahesiṃ, nettike ca mātikāya udakaṃ harante, usukāre ca usuṃ ujuṃ karonte, tacchake ca dārūni tacchante disvā ettakaṃ ārammaṇaṃ gahetvā paṇḍitā attānaṃ dametvā arahattaṃ gaṇhantiyevā’’ti vatvā anusandhiṃ ghaṭetvā dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
“Yes, bhikkhus, when the meritorious one was practicing the ascetic's way, the moon-deva’s son pulled down and took the moon disc, the sun-deva’s son pulled down and took the sun disc, the Four Great Kings took up guard in the monastery grove in the four directions, Sakka, king of devas, took up guard at the entrance. Even I, thinking ‘I am the Buddha,’ could not sit without concern, but went and took up guard for my son at the gatehouse. Seeing channel-makers leading water with conduits, fletchers straightening arrows, and carpenters hewing wood, the wise, taking such an object of meditation, tame themselves and attain Arahantship.” Having said this, connecting the discourse, the Teacher uttered this verse:
“Phải đó, này các Tỳ-kheo, khi người có phước đang thực hành pháp Sa-môn, thiên tử Mặt Trăng đã kéo giữ mặt trăng, thiên tử Mặt Trời đã kéo giữ mặt trời, bốn vị Đại Thiên Vương đã thiết lập sự bảo vệ ở bốn phương trong khu vườn của tịnh xá, Đế Thích thiên vương đã thiết lập sự bảo vệ ở chỗ dây kéo cửa. Ngay cả ta, vì nghĩ ‘ta là Phật’ cũng không thể ngồi yên mà không lo lắng, ta đã đi đến cổng để bảo vệ cho con trai của ta. Khi thấy những người thợ dẫn nước dẫn nước vào mương, những người thợ làm tên uốn thẳng mũi tên, và những người thợ mộc đẽo gọt gỗ, những người trí tuệ đã lấy những đối tượng đó làm đề mục, tự chế ngự bản thân và đạt A-la-hán.” Nói vậy, Ngài liên kết câu chuyện và thuyết pháp, đọc bài kệ này:
Tattha udakanti pathaviyā thalaṭṭhānaṃ khaṇitvā āvāṭaṭṭhānaṃ pūretvā mātikaṃ vā katvā rukkhadoṇiṃ vā ṭhapetvā attanā icchiticchitaṭṭhānaṃ udakaṃ.
Therein, udaka means water to a desired place, by digging up high ground, filling hollow ground, or making a channel, or placing a wooden trough.
Ở đây, udakaṃ (nước) là nước mà người ta đào đất ở chỗ cao, lấp đầy chỗ trũng, hoặc làm mương, hoặc đặt máng gỗ, để dẫn nước đến nơi mình muốn.
Nentīti nettikā.
Those who lead are nettikā (channel-makers).
Nentīti nettikā (người dẫn nước) là những người dẫn nước.
Tejananti kaṇḍaṃ.
Tejana means an arrow.
Tejanaṃ (mũi tên) là mũi tên.
Idaṃ vuttaṃ hoti – nettikā attano ruciyā udakaṃ nayanti, usukārāpi tāpetvā tejanaṃ namayanti usuṃ ujuṃ karonti.
This is what is meant: Channel-makers lead water according to their will, and fletchers, by heating, straighten a crooked arrow, making it straight.
Điều này có nghĩa là: những người dẫn nước dẫn nước theo ý muốn của họ, những người thợ làm tên cũng nung nóng và uốn thẳng mũi tên (tejanaṃ namayanti), làm cho mũi tên cong trở nên thẳng.
Tacchakāpi nemiādīnaṃ atthāya tacchantā dāruṃ namayanti attano ruciyā ujuṃ vā vaṅkaṃ vā karonti.
And carpenters, hewing wood for felloes and so on, bend wood according to their will, making it straight or crooked.
Những người thợ mộc cũng đẽo gọt gỗ để làm vành bánh xe, v.v., uốn cong gỗ (dāruṃ namayanti) theo ý muốn của họ, làm cho nó thẳng hoặc cong.
Evaṃ ettakaṃ ārammaṇaṃ katvā paṇḍitā sotāpattimaggādīni uppādentā attānaṃ damayanti, arahattappattā pana ekantadantā nāma hontīti.
In this way, taking such an object of meditation, the wise generate the path of Stream-entry and so on, and tame themselves; those who have attained Arahantship are indeed utterly tamed.
Cũng vậy, những người trí tuệ (paṇḍitā) lấy những đối tượng này làm đề mục, phát sinh Sơ quả Tu-đà-hoàn, v.v., và tự chế ngự bản thân (attānaṃ damayanti); còn những người đã đạt A-la-hán thì được gọi là những người đã hoàn toàn được chế ngự.
Puthujjanā kira sāmaṇerādayo theraṃ disvā sīsepi kaṇṇesupi nāsāyapi gahetvā ‘‘kiṃ, cūḷapita, sāsanasmiṃ na ukkaṇṭhasi, abhiramasī’’ti vadanti.
It is said that ordinary people, novices and others, seeing the Thera, would grab him by the head, ears, or nose and say, “Uncle, are you not weary of the Dispensation? Do you delight in it?”
Người phàm, các Sa-di và những người khác, khi thấy vị Trưởng lão, đã nắm đầu, tai, mũi Ngài và nói: “Này chú, chú không chán giáo pháp sao? Chú có vui thích không?”
Thero tesu neva kujjhati, na dussati.
The Thera neither got angry nor bore ill will towards them.
Vị Trưởng lão không hề tức giận hay bất mãn với họ.
Dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘passathāvuso, lakuṇḍakabhaddiyattheraṃ disvā sāmaṇerādayo evañcevañca viheṭhenti, so tesu neva kujjhati, na dussatī’’ti.
In the Dhamma hall, they raised a discussion: “Friends, look! Novices and others harass Thera Lakuṇḍakabhaddiya in this way and that, yet he neither gets angry nor bears ill will towards them.”
Trong Pháp đường, họ đã khởi lên câu chuyện: “Này các bạn, hãy xem, khi thấy Trưởng lão Lakuṇḍakabhaddiya, các sa-di và những người khác quấy rối ngài theo cách này cách khác, nhưng ngài không hề tức giận hay làm hại họ.”
Satthā āgantvā ‘‘kiṃ kathetha, bhikkhave’’ti pucchitvā ‘‘imaṃ nāma, bhante’’ti vutte ‘‘āma, bhikkhave, khīṇāsavā nāma neva kujjhanti, na dussanti.
The Teacher came and asked, “What are you discussing, bhikkhus?” When told, “This, Venerable Sir,” he said, “Yes, bhikkhus, those who have destroyed the cankers neither get angry nor bear ill will.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, các ông đang nói chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Bạch Thế Tôn, chuyện này ạ,” Ngài đáp: “Phải vậy, này các Tỳ-khưu, những bậc đã tận trừ lậu hoặc (khīṇāsava) không hề tức giận hay làm hại ai.
Ghanaselasadisā hete acalā akampiyā’’ti vatvā anusandhiṃ ghaṭetvā dhammaṃ desento imaṃ gāthamāha –
For they are like a solid rock, unmoving and unshaken.” Having said this, connecting the discourse, the Teacher uttered this verse:
Họ giống như tảng đá nguyên khối, bất động và không lay chuyển.” Nói xong, Ngài kết nối câu chuyện và thuyết Pháp, đọc bài kệ này –
Tadā pana kāṇamātarā atucchahatthaṃ dhītaraṃ patikulaṃ pesetuṃ pakkesu pūvesu catukkhattuṃ catunnaṃ bhikkhūnaṃ dinnakāle satthārā tasmiṃ vatthusmiṃ sikkhāpade paññatte kāṇāya sāmikena aññāya pajāpatiyā ānītāya kāṇā taṃ pavattiṃ sutvā ‘‘imehi me gharāvāso nāsito’’ti diṭṭhadiṭṭhe bhikkhū akkosati paribhāsati.
Then, when Kaṇā’s mother was sending her daughter to her husband’s house with gifts, and had offered cakes four times to four bhikkhus, and the Teacher had laid down a training rule concerning that matter, Kaṇā’s husband brought another wife. Kaṇā, having heard that news, saying, “These bhikkhus have destroyed my household,” reviled and reproached every bhikkhu she saw.
Vào thời điểm đó, khi mẹ của Kāṇā đang chuẩn bị bánh để gả con gái mình (có cầm theo lễ vật không trống tay) và đã cúng dường cho bốn vị Tỳ-khưu bốn lần, Đức Bổn Sư đã ban hành giới luật liên quan đến sự việc này. Sau khi chồng của Kāṇā cưới một người vợ khác, Kāṇā nghe được tin tức đó và nói: “Những Tỳ-khưu này đã phá hoại gia đình của tôi!” Rồi cô ta mắng chửi và lăng mạ các Tỳ-khưu mà cô ta gặp.
Bhikkhū taṃ vīthiṃ paṭipajjituṃ na visahiṃsu.
The bhikkhus were unable to go along that street.
Các Tỳ-khưu không dám đi trên con đường đó.
Satthā taṃ pavattiṃ ñatvā tattha agamāsi.
The Teacher, knowing that matter, went there.
Đức Bổn Sư biết được sự việc đó và đã đến nơi.
Kāṇamātā satthāraṃ vanditvā paññattāsane nisīdāpetvā yāgukhajjakaṃ adāsi.
Kaṇāmātā saluted the Teacher, seated him on the prepared seat, and offered him gruel and solid food.
Kāṇamātā đảnh lễ Đức Bổn Sư, thỉnh Ngài ngồi vào chỗ đã được chuẩn bị và dâng cháo cùng các món ăn nhẹ.
Satthā katapātarāso ‘‘kahaṃ kāṇā’’ti pucchi.
The Teacher, having finished his morning meal, asked, “Where is Kaṇā?”
Sau khi dùng bữa sáng, Đức Bổn Sư hỏi: “Kāṇā đâu rồi?”
‘‘Esā, bhante, tumhe disvā maṅkubhūtā rodantī ṭhitā’’ti.
“Venerable Sir, she is standing here, embarrassed and weeping, having seen you.”
“Bạch Thế Tôn, cô ấy thấy Ngài nên xấu hổ mà đứng khóc ạ.”
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
“For what reason?”
“Vì lý do gì?”
‘‘Esā, bhante, bhikkhū akkosati paribhāsati, tasmā tumhe disvā maṅkubhūtā rodamānā ṭhitā’’ti.
“Venerable Sir, she reviles and reproaches the bhikkhus, therefore, having seen you, she is standing here embarrassed and weeping.”
“Bạch Thế Tôn, cô ấy mắng chửi và lăng mạ các Tỳ-khưu, vì vậy khi thấy Ngài, cô ấy xấu hổ mà đứng khóc ạ.”
Atha naṃ satthā pakkosāpetvā – ‘‘kāṇe, kasmā maṃ disvā maṅkubhūtā nilīyitvā rodasī’’ti.
Then the Teacher had her called and said, “Kaṇā, why, having seen me, are you embarrassed, hiding, and weeping?”
Sau đó, Đức Bổn Sư cho gọi cô ta đến và hỏi: “Này Kāṇā, tại sao con thấy Ta lại xấu hổ trốn đi và khóc?”
Athassā mātā tāya katakiriyaṃ ārocesi.
Then her mother reported her actions.
Rồi mẹ cô ta kể lại hành động của cô ta.
Atha naṃ satthā āha – ‘‘kiṃ pana kāṇamāte mama sāvakā tayā dinnakaṃ gaṇhiṃsu, adinnaka’’nti?
Then the Teacher said to her, “Kaṇāmātā, did my disciples take what was given by you, or what was not given?”
Sau đó, Đức Bổn Sư nói với cô ta: “Này Kāṇamātā, các đệ tử của Ta có nhận đồ con dâng cúng hay nhận đồ không dâng cúng?”
‘‘Dinnakaṃ, bhante’’ti.
“What was given, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, họ đã nhận đồ dâng cúng ạ.”
‘‘Sace mama sāvakā piṇḍāya carantā tava gehadvāraṃ pattā tayā dinnakaṃ gaṇhiṃsu, ko tesaṃ doso’’ti?
“If my disciples, while wandering for alms, arrived at your house door and took what was given by you, what fault is there in them?”
“Nếu các đệ tử của Ta đi khất thực, đến trước cửa nhà con và nhận đồ con dâng cúng, thì lỗi của họ là gì?”
‘‘Natthi, bhante, ayyānaṃ doso’’.
“There is no fault in the noble ones, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, các bậc Tôn giả không có lỗi ạ.”
‘‘Etissāyeva doso’’ti.
“The fault is hers alone.”
“Lỗi là của chính cô ta.”
Satthā kāṇaṃ āha – ‘‘kāṇe, mayhaṃ kira sāvakā piṇḍāya caramānā gehadvāraṃ āgatā, atha nesaṃ tava mātarā pūvā dinnā, ko nāmettha mama sāvakānaṃ doso’’ti?
The Teacher said to Kaṇā, “Kaṇā, it seems my disciples, while wandering for alms, came to your house door, and then your mother gave them cakes. What fault, pray tell, is there in my disciples in this?”
Đức Bổn Sư nói với Kāṇā: “Này Kāṇā, các đệ tử của Ta đi khất thực đến trước cửa nhà con, rồi mẹ con đã dâng bánh cho họ, vậy thì lỗi của các đệ tử của Ta là gì?”
‘‘Natthi, bhante, ayyānaṃ doso, mayhameva doso’’ti satthāraṃ vanditvā khamāpesi.
“There is no fault in the noble ones, Venerable Sir, the fault is mine alone,” she said, saluting the Teacher and asking for forgiveness.
“Bạch Thế Tôn, các bậc Tôn giả không có lỗi, lỗi là của chính con ạ.” Kāṇā đảnh lễ Đức Bổn Sư và xin tha thứ.
Athassā satthā anupubbiṃ kathaṃ kathesi, sā sotāpattiphalaṃ pāpuṇi.
Then the Teacher gave her a progressive discourse, and she attained the fruit of stream-entry.
Sau đó, Đức Bổn Sư đã thuyết Pháp tuần tự cho cô ta, và cô ta đã chứng đắc quả Sơ quả (Sotāpatti).
Satthā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ gacchanto rājaṅgaṇena pāyāsi.
The Teacher rose from his seat and proceeded along the royal courtyard on his way to the monastery.
Đức Bổn Sư đứng dậy rời chỗ ngồi, đi về tịnh xá ngang qua quảng trường hoàng gia.
Rājā disvā ‘‘satthā viya bhaṇe’’ti pucchitvā ‘‘āma, devā’’ti vutte ‘‘gacchatha, mama āgantvā vandanabhāvaṃ ārocethā’’ti pesetvā rājaṅgaṇe ṭhitaṃ satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā ‘‘kahaṃ, bhante, gatātthā’’ti pucchi.
The king, seeing him, asked, “Is that the Teacher, sirs?” When told, “Yes, Your Majesty,” he sent word, “Go and inform him that I will come to pay homage,” and then approached the Teacher who was standing in the royal courtyard, saluted him, and asked, “Venerable Sir, where have you been?”
Vua thấy Ngài, hỏi: “Này, đó có phải Đức Bổn Sư không?” Khi được thưa: “Thưa Đại vương, phải ạ,” Vua liền sai người: “Hãy đi, báo cho Ngài biết rằng ta sẽ đến đảnh lễ Ngài.” Sau đó, Vua đến gần Đức Bổn Sư đang đứng ở quảng trường hoàng gia, đảnh lễ Ngài và hỏi: “Bạch Thế Tôn, Ngài đã đi đâu ạ?”
‘‘Kāṇamātāya gehaṃ, mahārājā’’ti.
“To Kaṇāmātā’s house, great king.”
“Đến nhà Kāṇamātā, thưa Đại vương.”
‘‘Kiṃ kāraṇā, bhante’’ti?
“For what reason, Venerable Sir?”
“Bạch Thế Tôn, vì lý do gì ạ?”
‘‘Kāṇā kira bhikkhū akkosati paribhāsati, taṃkāraṇā gatomhī’’ti.
“It seems Kaṇā was reviling and reproaching the bhikkhus; for that reason, I went.”
“Thưa Đại vương, nghe nói Kāṇā mắng chửi và lăng mạ các Tỳ-khưu, vì lý do đó mà Ta đã đến.”
‘‘Kiṃ pana vo, bhante, tassā anakkosanabhāvo kato’’ti?
“And, Venerable Sir, have you made it so that she no longer reviles them?”
“Bạch Thế Tôn, Ngài đã làm cho cô ta không còn mắng chửi nữa phải không ạ?”
‘‘Āma, mahārāja, bhikkhūnañca anakkosikā katā, lokuttarakuṭumbasāminī cā’’ti.
“Yes, great king, she has been made one who does not revile the bhikkhus, and she is also a mistress of the transcendent household.”
“Phải vậy, thưa Đại vương, cô ta đã được làm cho không còn mắng chửi các Tỳ-khưu nữa, và còn trở thành chủ nhân của gia tài siêu thế (lokuttara kuṭumba).”
‘‘Hotu, bhante, tumhehi sā lokuttarakuṭumbasāminī katā, ahaṃ pana naṃ lokiyakuṭumbasāminiṃ karissāmī’’ti vatvā rājā satthāraṃ vanditvā paṭinivatto paṭicchannamahāyoggaṃ pahiṇitvā kāṇaṃ pakkosāpetvā sabbābharaṇehi alaṅkaritvā jeṭṭhadhītuṭṭhāne ṭhapetvā ‘‘mama dhītaraṃ posetuṃ samatthā gaṇhantū’’ti āha.
“So be it, Venerable Sir. You have made her a mistress of the transcendent household, but I will make her a mistress of the worldly household.” Having said this, the king saluted the Teacher, returned, sent a covered royal carriage, had Kaṇā summoned, adorned her with all ornaments, placed her in the position of his eldest daughter, and said, “Let those who are capable of supporting my daughter take her.”
“Bạch Thế Tôn, được rồi. Ngài đã làm cho cô ta trở thành chủ nhân của gia tài siêu thế, còn thần sẽ làm cho cô ta trở thành chủ nhân của gia tài thế gian (lokiya kuṭumba).” Nói xong, Vua đảnh lễ Đức Bổn Sư và quay về, sai người đưa một cỗ xe lớn được che đậy đến, gọi Kāṇā đến, trang điểm cho cô ta bằng tất cả trang sức, đặt cô ta vào vị trí con gái trưởng và nói: “Ai có khả năng nuôi dưỡng con gái ta, hãy nhận lấy.”
Atheko sabbatthakamahāmatto ‘‘ahaṃ devassa dhītaraṃ posessāmī’’ti taṃ attano gehaṃ netvā sabbaṃ issariyaṃ paṭicchāpetvā ‘‘yathāruci puññāni karohī’’ti āha.
Then a chief minister, competent in all matters, said, “I will support Your Majesty’s daughter,” and taking her to his own house, he handed over all authority to her and said, “Perform meritorious deeds as you wish.”
Sau đó, một vị đại thần có khả năng giải quyết mọi việc nói: “Thần sẽ nuôi dưỡng con gái của Đại vương.” Ông ta đưa Kāṇā về nhà mình, trao cho cô ta toàn bộ quyền lực và nói: “Hãy làm các việc phước thiện tùy theo ý muốn của con.”
Tato paṭṭhāya kāṇā catūsu dvāresu purise ṭhapetvā attanā upaṭṭhātabbe bhikkhū ca bhikkhuniyo ca pariyesamānāpi na labhati.
From that time onwards, Kaṇā stationed men at the four gates, but even though she searched, she could not find any bhikkhus or bhikkhunīs to attend to.
Từ đó trở đi, Kāṇā đặt người canh gác ở bốn cửa, nhưng dù tìm kiếm các Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni cần được cúng dường, cô ta cũng không tìm thấy.
Kāṇāya gehadvāre paṭiyādetvā ṭhapitaṃ khādanīyabhojanīyaṃ mahogho viya pavattati.
The food and edibles prepared and placed at Kaṇā’s house door flowed forth like a great flood.
Đồ ăn thức uống được chuẩn bị và đặt ở cửa nhà Kāṇā chảy tràn như một dòng nước lớn.
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘pubbe, āvuso, cattāro mahallakattherā kāṇāya vippaṭisāraṃ kariṃsu, sā evaṃ vippaṭisārinī hutvāpi satthāraṃ āgamma saddhāsampadaṃ labhi.
The bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: “Friends, formerly, the four elder bhikkhus caused Kaṇā to feel remorse, and though she felt such remorse, she attained the perfection of faith by relying on the Teacher.
Các Tỳ-khưu đã khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Này các bạn, trước đây, bốn vị Trưởng lão cao tuổi đã làm cho Kāṇā hối hận. Dù đã hối hận như vậy, nhờ Đức Bổn Sư mà cô ta đã đạt được sự thành tựu về đức tin (saddhā).
Satthārā puna tassā gehadvāraṃ bhikkhūnaṃ upasaṅkamanārahaṃ kataṃ.
Again, the Teacher made her house door suitable for bhikkhus to approach.
Đức Bổn Sư lại làm cho cửa nhà cô ta không còn thích hợp cho các Tỳ-khưu đến nữa.
Idāni upaṭṭhātabbe bhikkhū vā bhikkhuniyo vā pariyesamānāpi na labhati, aho buddhā nāma acchariyaguṇā’’ti.
Now, even though she searches for bhikkhus or bhikkhunīs to attend to, she cannot find them. Oh, how wondrous are the qualities of the Buddhas!”
Bây giờ, dù cô ta tìm kiếm các Tỳ-khưu hay Tỳ-khưu-ni cần được cúng dường, cô ta cũng không tìm thấy. Ôi, các vị Phật thật có những phẩm chất kỳ diệu!”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva tehi mahallakabhikkhūhi kāṇāya vippaṭisāro kato, pubbepi kariṃsuyeva.
The Teacher, having come, asked, "Bhikkhus, what is the topic of discussion you are currently engaged in?" When they replied, "This one," (the Teacher said), "Bhikkhus, it is not only now that those senior bhikkhus caused remorse for Kāṇā; they did so in the past too.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, bây giờ các ông đang ngồi bàn về chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này ạ,” Ngài đáp: “Không phải chỉ bây giờ mà các vị Tỳ-khưu cao tuổi đó mới làm cho Kāṇā hối hận, mà trước đây họ cũng đã làm như vậy.
Na ca idāneva mayā kāṇā mama vacanakārikā katā, pubbepi katāyevā’’ti vatvā tamatthaṃ sotukāmehi bhikkhūhi yācito –
Nor is it only now that Kāṇā was made to follow my words by me; she was made to do so in the past as well." Having said this, and being requested by the bhikkhus who wished to hear that matter, (he spoke this verse):
Và không phải chỉ bây giờ mà Ta mới làm cho Kāṇā vâng lời Ta, mà trước đây Ta cũng đã làm như vậy.” Nói xong, khi các Tỳ-khưu muốn nghe câu chuyện đó thỉnh cầu Ngài –
Tattha rahadoti yo caturaṅginiyāpi senāya ogāhantiyā nakhubhati evarūpo udakaṇṇavo, sabbākārena pana caturāsītiyojanasahassagambhīro nīlamahāsamuddo rahado nāma.
Here, rahado (lake) refers to a body of water that is not agitated even when an army with four divisions enters it; in all respects, the deep blue great ocean, eighty-four thousand yojanas deep, is called a rahado.
Ở đây, rahado (hồ nước) là đại dương nước mênh mông như vậy, mà ngay cả khi một đội quân bốn binh chủng lội xuống cũng không làm nó lay động. Đặc biệt, đại dương xanh thẳm sâu tám vạn bốn ngàn dojana được gọi là rahado.
Tassa hi heṭṭhā cattālīsayojanasahassamatte ṭhāne udakaṃ macchehi calati, upari tāvattakeyeva ṭhāne udakaṃ vātena calati, majjhe catuyojanasahassamatte ṭhāne udakaṃ niccalaṃ tiṭṭhati.
Indeed, at a depth of forty thousand yojanas below its surface, the water is stirred by fish; at the same depth above, the water is stirred by wind; but in the middle, at a depth of four thousand yojanas, the water remains still.
Thật vậy, ở độ sâu bốn vạn dojana phía dưới, nước bị cá làm lay động; ở độ cao tương tự phía trên, nước bị gió làm lay động; nhưng ở giữa, tại độ sâu bốn ngàn dojana, nước đứng yên không lay động.
Ayaṃ gambhīro rahado nāma.
This is called a gambhīro rahado (deep lake).
Đây được gọi là hồ nước sâu thẳm.
Evaṃ dhammānīti desanādhammāni.
Evaṃ dhammāni means the Dhamma teachings.
Evaṃ dhammāni (như vậy các Pháp) là các Pháp được thuyết giảng.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā nāma rahado anākulatāya vippasanno, acalatāya anāvilo, evaṃ mama desanādhammaṃ sutvā sotāpattimaggādivasena nirupakkilesacittataṃ āpajjantā vippasīdanti paṇḍitā, arahattappattā pana ekantavippasannāva hontīti.
This is what is meant: just as a lake is vippasanno (exceedingly clear) due to its untroubled nature, and anāvilo (undisturbed) due to its stillness, so too, having heard my Dhamma teaching, the paṇḍitā (wise) become vippasīdanti (exceedingly pure) by attaining a mind free from defilements, such as by the path of stream-entry; and those who have attained Arahantship are indeed absolutely pure.
Điều này có nghĩa là – ví như hồ nước trong sạch vì không bị quấy động, không vẩn đục vì bất động, cũng vậy, những bậc hiền trí (paṇḍitā) sau khi nghe Pháp thoại (desanādhamma) của Ta, đạt đến trạng thái tâm không phiền não (nirupakkilesacittata) nhờ con đường Nhập Lưu (Sotāpattimagga) và các cấp độ khác, thì trở nên vô cùng trong sáng (vippasīdanti); còn những vị đã đạt đến A-la-hán (arahattappattā) thì hoàn toàn trong sáng.
Paṭhamabodhiyañhi bhagavā verañjaṃ gantvā verañjena brāhmaṇena nimantito pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ vassaṃ upagañchi.
For at the time of the first enlightenment, the Blessed One went to Verañjā and, being invited by the brahmin of Verañjā, spent the Rains retreat with five hundred bhikkhus.
Vào thời kỳ giác ngộ đầu tiên, Đức Thế Tôn đã đến Veranja và được một Bà-la-môn tên Veranja thỉnh mời, Ngài đã an cư mùa mưa cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo.
Verañjo brāhmaṇo mārāvaṭṭanena āvaṭṭo ekadivasampi satthāraṃ ārabbha satiṃ na uppādesi.
The Verañjā brahmin, having been deluded by Māra's trickery, did not even for a single day bring to mind the Teacher.
Bà-la-môn Veranja, bị Ma vương mê hoặc, đã không khởi tâm niệm đến Đức Thế Tôn dù chỉ một ngày.
Verañjāpi dubbhikkhā ahosi, bhikkhū santarabāhiraṃ verañjaṃ piṇḍāya caritvā piṇḍapātaṃ alabhantā kilamiṃsu.
Verañjā also suffered from a famine, and the bhikkhus, having gone for alms in Verañjā, both inside and outside, did not obtain alms and became weary.
Thành phố Veranja cũng bị nạn đói, các vị Tỳ-kheo đã đi khất thực khắp Veranja, cả trong và ngoài thành, nhưng không nhận được thức ăn, nên họ đã kiệt sức.
Tesaṃ assavāṇijakā patthapatthapulakaṃ bhikkhaṃ paññāpesuṃ.
Horse traders offered them alms of barley grains, a handful at a time.
Những người buôn ngựa đã cúng dường cho họ một đấu lúa mạch mỗi người.
Te kilamante disvā mahāmoggallānatthero pathavojaṃ bhojetukāmo, uttarakuruñca piṇḍāya pavesetukāmo ahosi, satthā taṃ paṭikkhipi.
Seeing them weary, Mahāmoggallāna Thera wished to feed them with the essence of the earth or to take them to Uttarakuru for alms, but the Teacher forbade it.
Thấy các vị Tỳ-kheo kiệt sức, Đại đức Mahāmoggallāna muốn cúng dường cho họ tinh chất đất (pathavoja) và muốn đưa họ đến Uttarakuru để khất thực, nhưng Đức Thế Tôn đã từ chối.
Bhikkhūnaṃ ekadivasampi piṇḍapātaṃ ārabbha parittāso nāhosi, icchācāraṃ vajjetvā eva vihariṃsu.
The bhikkhus had no fear regarding alms-food even for a single day; they lived avoiding improper conduct.
Các vị Tỳ-kheo không hề lo lắng về việc khất thực dù chỉ một ngày, họ chỉ sống bằng cách tránh xa những hành vi không đúng đắn.
Satthā tattha temāsaṃ vasitvā verañjaṃ brāhmaṇaṃ apaloketvā tena katasakkārasammāno taṃ saraṇesu patiṭṭhāpetvā tato nikkhanto anupubbena cārikaṃ caramāno ekasmiṃ samaye sāvatthiṃ patvā jetavane vihāsi, sāvatthivāsino satthu āgantukabhattāni kariṃsu.
The Teacher, having stayed there for three months, and having taken leave of the Verañjā brahmin, and having been honored and respected by him, established him in the refuges, and then departed from there, wandering gradually, until at one time he reached Sāvatthī and resided in Jetavana; the residents of Sāvatthī offered guest-meals to the Teacher.
Đức Thế Tôn đã trú tại đó ba tháng, sau khi từ biệt Bà-la-môn Veranja và nhận sự cúng dường tôn kính từ ông, Ngài đã giúp ông quy y Tam bảo, rồi rời khỏi đó, tuần tự du hành và đến Sāvatthī vào một thời điểm, trú tại Kỳ Viên (Jetavana); cư dân Sāvatthī đã cúng dường bữa ăn cho khách đến.
Tadā pana pañcasatamattā vighāsādā bhikkhū nissāya antovihāreyeva vasanti.
At that time, however, about five hundred bhikkhus who ate leftovers were residing within the monastery itself.
Vào thời điểm đó, có khoảng năm trăm vị Tỳ-kheo ăn đồ thừa (vighāsādā) đang trú ngay trong tu viện, nương tựa vào các vị Tỳ-kheo khác.
Te bhikkhūnaṃ bhuttāvasesāni paṇītabhojanāni bhuñjitvā niddāyitvā uṭṭhāya nadītīraṃ gantvā nadantā vaggantā mallamuṭṭhiyuddhaṃ yujjhantā kīḷantā antovihārepi bahivihārepi anācārameva carantā vicaranti.
These bhikkhus, having eaten the delicious food leftover by the (senior) bhikkhus, and having slept, would get up and go to the riverbank, shouting and forming groups, wrestling like boxers, playing, and wandering about, engaging in improper conduct both inside and outside the monastery.
Những vị Tỳ-kheo này sau khi ăn những món ăn ngon lành còn thừa của các Tỳ-kheo khác, đã ngủ và thức dậy, rồi đi đến bờ sông, la hét, tụ tập thành nhóm, đánh đấm nhau, vui chơi, và đi lại một cách vô lễ cả trong lẫn ngoài tu viện.
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘passathāvuso, ime vighāsādā dubbhikkhakāle verañjāyaṃ kañci vikāraṃ na dassesuṃ, idāni pana evarūpāni paṇītabhojanāni bhuñjitvā anekappakāraṃ vikāraṃ dassentā vicaranti.
The bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, look! These eaters of scraps, during the famine in Verañjā, did not show any change (in behavior). But now, having eaten such exquisite foods, they wander about showing various kinds of changes.
Các vị Tỳ-kheo đã khởi lên một cuộc đàm luận trong Pháp đường: “Này chư Hiền, những vị Tỳ-kheo ăn đồ thừa này đã không biểu lộ bất kỳ sự thay đổi nào trong thời kỳ nạn đói ở Veranja, nhưng bây giờ, sau khi ăn những món ăn ngon lành như vậy, họ lại biểu lộ nhiều loại hành vi bất thường.
Bhikkhū pana verañjāyampi upasantarūpā viharitvā idānipi upasantupasantāva viharantī’’ti.
But the bhikkhus, having lived peacefully even in Verañjā, now too live very peacefully."
Còn các vị Tỳ-kheo khác thì đã sống một cách an tịnh ở Veranja và bây giờ cũng vẫn sống một cách vô cùng an tịnh.”
Satthā dhammasabhaṃ gantvā, ‘‘bhikkhave, kiṃ kathethā’’ti pucchitvā ‘‘idaṃ nāmā’’ti vutte ‘‘pubbepete gadrabhayoniyaṃ nibbattā pañcasatā gadrabhā hutvā pañcasatānaṃ ājānīyasindhavānaṃ allarasamuddikapānakapītāvasesaṃ ucchiṭṭhakasaṭaṃ udakena madditvā makacipilotikāhi parissāvitattā ‘volodaka’nti saṅkhyaṃ gataṃ apparasaṃ nihīnaṃ pivitvā madhumattā viya nadantā vicariṃsūti vatvā –
The Teacher went to the Dhamma hall, and having asked, "Bhikkhus, what are you discussing?" and when told, "This," He said, "In the past, these five hundred eaters of scraps were born in the donkey realm, and becoming five hundred donkeys, they drank the tasteless, inferior drink called 'vālodaka,' which was the leftover dregs of fresh, juicy mudrakka fruit juice, drunk by five hundred noble Sindhu horses, then mixed with water and strained through coarse cloth made of makaci fiber. They wandered about braying as if intoxicated by liquor." Having said this, He uttered these verses:
Đức Thế Tôn đến Pháp đường, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, các ông đang nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời “Chuyện này”, Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, trước đây, những người này đã tái sinh làm năm trăm con lừa, sau khi uống thứ nước ép nho tươi còn thừa của năm trăm con ngựa Sindhu thuần chủng, được nghiền với nước và lọc qua vải gai dầu, được gọi là ‘vālodaka’ (nước lừa), một thứ nước nhạt nhẽo và kém chất lượng, chúng đã la hét như những kẻ say rượu,” rồi Ngài kể –
Tattha sabbatthāti pañcakkhandhādibhedesu sabbadhammesu.
Therein, sabbatthā means in all phenomena, such as the five aggregates.
Ở đây, sabbattha (mọi thứ) có nghĩa là tất cả các pháp, bao gồm năm uẩn (pañcakkhandha) và các phân loại khác.
Sappurisāti supurisā.
Sappurisā means good people.
Sappurisā (thiện nhân) có nghĩa là những người tốt.
Cajantīti arahattamaggañāṇena apakaḍḍhantā chandarāgaṃ vijahanti.
Cajantī means they abandon desire-passion, removing it with the knowledge of the Arahantship Path.
Cajanti (từ bỏ) có nghĩa là loại bỏ và xả ly tham dục (chandarāga) bằng tuệ giác của con đường A-la-hán (arahattamaggañāṇa).
Kāmakāmāti kāme kāmayantā kāmahetu kāmakāraṇā.
Kāmakāmā means desiring sensual pleasures, for the sake of sensual pleasures, due to sensual pleasures.
Kāmakāmā (vì dục vọng) có nghĩa là vì ham muốn các dục vọng, vì lý do của các dục vọng.
Na lapayanti santoti buddhādayo santo kāmahetu neva attanā lapayanti, na paraṃ lapāpenti.
Na lapayanti santo means the peaceful ones, such as the Buddhas, do not speak themselves for the sake of sensual pleasures, nor do they cause others to speak.
Na lapayanti santo (các bậc thánh không nói năng) có nghĩa là các bậc thánh như chư Phật không tự mình nói năng vì dục vọng, cũng không khiến người khác nói năng.
Ye hi bhikkhāya paviṭṭhā icchācāre ṭhitā ‘‘kiṃ, upāsaka, sukhaṃ te puttadārassa, rājacorādīnaṃ vasena dvipadacatuppadesu natthi koci upaddavo’’tiādīni vadanti, tāva te lapayanti nāma.
Indeed, those bhikkhus who have entered for alms and are given to unrestrained conduct, saying, "Lay follower, are your children and wife well? Is there no danger from kings, thieves, etc., to bipeds and quadrupeds?"—such ones are said to be speaking.
Những vị Tỳ-kheo đi khất thực, nếu đứng trên lập trường của tham ái (icchācāra), nói những lời như: “Này cư sĩ, con cái và vợ của ông có khỏe không? Có tai họa nào từ vua chúa hay trộm cướp đối với người và vật nuôi không?” thì đó gọi là nói năng.
Tathā pana vatvā ‘‘āma, bhante, sabbesaṃ no sukhaṃ, natthi koci upaddavo, idāni no gehaṃ pahūtaannapānaṃ, idheva vasathā’’ti attānaṃ nimantāpentā lapāpenti nāma.
And by speaking thus, when they are invited, "Yes, venerable sir, we are all well, there is no danger. Now our house has abundant food and drink; please stay here," they are said to be causing others to speak.
Tương tự, sau khi nói như vậy, nếu họ được mời: “Bạch Đại đức, tất cả chúng con đều khỏe mạnh, không có tai họa nào cả. Bây giờ nhà chúng con có nhiều thức ăn và đồ uống, xin Đại đức hãy ở lại đây,” thì đó gọi là khiến người khác nói năng.
Santo pana idaṃ ubhayampi na karonti.
But the peaceful ones do not do either of these.
Nhưng các bậc thánh thì không làm cả hai điều này.
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukhenāti desanāmattametaṃ, aṭṭhahi pana lokadhammehi phuṭṭhā tuṭṭhibhāvamaṅkubhāvavasena vā vaṇṇabhaṇanaavaṇṇabhaṇanavasena vā uccāvacaṃ ākāraṃ paṇḍitā na dassayantīti.
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukhenā is merely a statement in the discourse. But when touched by the eight worldly conditions, the wise do not show uccāvacaṃ (elation or dejection) in the manner of being pleased or displeased, or in the manner of praising or blaming.
Sukhena phuṭṭhā atha vā dukhena (dù gặp hạnh phúc hay đau khổ) chỉ là một cách diễn đạt trong bài Pháp thoại; nhưng khi bị tám pháp thế gian (lokadhamma) chạm đến, các bậc hiền trí (paṇḍitā) không biểu lộ bất kỳ thái độ uccāvacaṃ (thăng trầm) nào, dù là vui vẻ hay buồn bã, hay khen ngợi hoặc chỉ trích.