Table of Contents

Sagāthāvaggapāḷi

Edit
110
4. Khattiyasuttaṃ
4. Khattiyasutta
4. Kinh Khattiya
111
14. ‘‘Khattiyo dvipadaṃ seṭṭho, balībaddo* catuppadaṃ.
14. “Among two-footed beings, the khattiya is supreme; among four-footed, the ox.
14. “Vua chúa là bậc tối thượng trong loài hai chân, bò đực là tối thượng trong loài bốn chân.
112
Komārī seṭṭhā bhariyānaṃ, yo ca puttāna pubbajo’’ti.
Among wives, the maiden is supreme; and among sons, the eldest.”
Thiếu nữ là tối thượng trong các người vợ, và người con trưởng là tối thượng trong các người con.”
113
‘‘Sambuddho dvipadaṃ seṭṭho, ājānīyo catuppadaṃ;
“Among two-footed beings, the Perfectly Enlightened One is supreme; among four-footed, the noble steed;
“Đức Sambuddha là bậc tối thượng trong loài hai chân, ngựa thuần chủng là tối thượng trong loài bốn chân;
114
Sussūsā seṭṭhā bhariyānaṃ, yo ca puttānamassavo’’ti.
Among wives, the obedient one is supreme; and among sons, the dutiful one.”
Người vợ biết vâng lời là tối thượng trong các người vợ, và người con biết vâng lời là tối thượng trong các người con.”
115
5. Saṇamānasuttaṃ
5. Saṇamānasutta
5. Kinh Saṇamāna
116
15. ‘‘Ṭhite majjhanhike* kāle, sannisīvesu pakkhisu.
15. “When the time of midday stands still, and birds are settled.
15. “Khi giữa trưa đứng bóng, các loài chim đã yên vị.
117
Saṇateva brahāraññaṃ* , taṃ bhayaṃ paṭibhāti ma’’nti.
The great forest resounds, that frightens me.”
Rừng lớn vang lên tiếng động, điều đó khiến tôi sợ hãi.”
118
‘‘Ṭhite majjhanhike kāle, sannisīvesu pakkhisu;
“When the time of midday stands still, and birds are settled;
“Khi giữa trưa đứng bóng, các loài chim đã yên vị;
119
Saṇateva brahāraññaṃ, sā rati paṭibhāti ma’’nti.
The great forest resounds, that delights me.”
Rừng lớn vang lên tiếng động, điều đó khiến tôi hoan hỷ.”
120
6. Niddātandīsuttaṃ
6. Niddātandīsutta
6. Kinh Niddātandī
121
16. ‘‘Niddā tandī vijambhitā* , aratī bhattasammado.
16. “Sloth, torpor, yawning, discontent, and stupefaction from food.
16. “Giấc ngủ, sự uể oải, sự ngáp vặt, sự không hoan hỷ, sự say sưa do thức ăn.
122
Etena nappakāsati, ariyamaggo idha pāṇina’’nti.
By these, the noble path does not become clear for a being here.”
Do những điều này mà con đường cao quý không hiển lộ cho chúng sinh ở đời.”
123
‘‘Niddaṃ tandiṃ vijambhitaṃ, aratiṃ bhattasammadaṃ;
“Having dispelled sloth, torpor, yawning, discontent, and stupefaction from food;
“Sau khi xua tan giấc ngủ, sự uể oải, sự ngáp vặt, sự không hoan hỷ, sự say sưa do thức ăn;
124
Vīriyena* naṃ paṇāmetvā, ariyamaggo visujjhatī’’ti.
By effort, the noble path becomes purified.”
Bằng tinh tấn, con đường cao quý được thanh tịnh.”
125
7. Dukkarasuttaṃ
7. Dukkarasutta
7. Kinh Dukkara
126
17. ‘‘Dukkaraṃ duttitikkhañca, abyattena ca sāmaññaṃ.
17. “Difficult and hard to endure is the ascetic life for one unskilled.
17. “Đời sống sa-môn hạnh khó làm, khó chịu đựng đối với người thiếu trí tuệ.
127
Bahūhi tattha sambādhā, yattha bālo visīdatī’’ti.
Many are the obstacles therein, where a fool sinks down.”
Có nhiều chướng ngại ở đó, nơi mà kẻ ngu si bị chìm đắm.”
128
‘‘Katihaṃ careyya sāmaññaṃ, cittaṃ ce na nivāraye;
“For how many days would one live the ascetic life, if one did not restrain the mind?
“Nếu không chế ngự được tâm, thì sẽ sống đời sa-môn hạnh được bao lâu?
129
Pade pade visīdeyya, saṅkappānaṃ vasānugo’’ti.
At every step, one would sink, following the sway of one’s thoughts.”
Kẻ đi theo ý nghĩ sẽ chìm đắm từng bước một.”
130
‘‘Kummova aṅgāni sake kapāle,
“Like a tortoise withdrawing its limbs into its own shell,
“Như con rùa thu rút các chi vào mai của mình,
131
Samodahaṃ bhikkhu manovitakke;
A bhikkhu, having collected his mental thoughts,
Vị Tỳ-kheo thu nhiếp các ý nghĩ vào tâm;
132
Anissito aññamaheṭhayāno,
Without dependence, harming no other,
Không nương tựa, không làm hại người khác,
133
Parinibbuto nūpavadeyya kañcī’’ti.
Fully unbound, should blame no one.”
Vị ấy đã nhập Niết-bàn sẽ không chỉ trích bất cứ ai.”
134
8. Hirīsuttaṃ
8. Hirīsutta
8. Kinh Hirī
135
18. ‘‘Hirīnisedho puriso, koci lokasmiṃ vijjati.
18. “Is there any person in the world restrained by moral shame (hiri),
18. “Có người nào trên đời được ngăn giữ bởi sự hổ thẹn không?
136
Yo nindaṃ apabodhati* , asso bhadro kasāmivā’’ti.
Who, like a noble steed awakened by the whip, awakens to blame?”
Người ấy tránh xa sự chỉ trích, như con ngựa tốt tránh roi vậy.”
137
‘‘Hirīnisedhā tanuyā, ye caranti sadā satā;
“Those who are restrained by moral shame, ever mindful, live with little defilement;
“Những ai được ngăn giữ bởi sự hổ thẹn, luôn sống chánh niệm;
138
Antaṃ dukkhassa pappuyya, caranti visame sama’’nti.
Having reached the end of suffering, they live in uneven places as if they were even.”
Đạt đến sự chấm dứt khổ đau, họ sống bình đẳng giữa những điều bất bình đẳng.”
139
9. Kuṭikāsuttaṃ
9. Kuṭikāsutta
9. Kinh Kuṭikā
140
19.
19.
19.
141
‘‘Kacci te kuṭikā natthi, kacci natthi kulāvakā;
“Do you have no little hut? Do you have no nest?
“Ngôi nhà nhỏ của ngài không còn chăng? Tổ ấm của ngài không còn chăng?
142
Kacci santānakā natthi, kacci muttosi bandhanā’’ti.
Do you have no tendrils? Are you released from bondage?”
Dây leo của ngài không còn chăng? Ngài đã thoát khỏi sự ràng buộc chăng?”
143
‘‘Taggha me kuṭikā natthi, taggha natthi kulāvakā;
“Indeed, I have no little hut. Indeed, I have no nest;
“Chắc chắn ngôi nhà nhỏ của tôi không còn, chắc chắn tổ ấm của tôi không còn;
144
Taggha santānakā natthi, taggha muttomhi bandhanā’’ti.
Indeed, I have no tendrils. Indeed, I am released from bondage.”
Chắc chắn dây leo của tôi không còn, chắc chắn tôi đã thoát khỏi sự ràng buộc.”
145
‘‘Kintāhaṃ kuṭikaṃ brūmi, kiṃ te brūmi kulāvakaṃ;
“What do I call your little hut? What do I call your nest?
“Tôi nên gọi gì là ngôi nhà nhỏ của ngài? Tôi nên gọi gì là tổ ấm của ngài?
146
Kiṃ te santānakaṃ brūmi, kintāhaṃ brūmi bandhana’’nti.
What do I call your tendrils? What do I call your bondage?”
Tôi nên gọi gì là dây leo của ngài? Tôi nên gọi gì là sự ràng buộc của ngài?”
147
‘‘Mātaraṃ kuṭikaṃ brūsi, bhariyaṃ brūsi kulāvakaṃ;
“You call the mother the little hut; you call the wife the nest;
“Ngài gọi mẹ là ngôi nhà nhỏ, gọi vợ là tổ ấm;
148
Putte santānake brūsi, taṇhaṃ me brūsi bandhana’’nti.
You call the sons the tendrils; you call craving my bondage.”
Gọi con là dây leo, gọi tham ái là sự ràng buộc của tôi.”
149
‘‘Sāhu te kuṭikā natthi, sāhu natthi kulāvakā;
“It is good that you have no little hut. It is good that you have no nest;
“Thật tốt lành khi ngôi nhà nhỏ của ngài không còn, thật tốt lành khi tổ ấm của ngài không còn;
150
Sāhu santānakā natthi, sāhu muttosi bandhanā’’ti.
It is good that you have no tendrils. It is good that you are released from bondage.”
Thật tốt lành khi dây leo của ngài không còn, thật tốt lành khi ngài đã thoát khỏi sự ràng buộc.”
151
10. Samiddhisuttaṃ
10. Samiddhisutta
10. Kinh Samiddhi
152
20. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati tapodārāme.
20. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was staying in Rājagaha, at Tapodārāma.
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Thế Tôn đang trú tại Rājagaha, trong khu vườn Tapodā.
Atha kho āyasmā samiddhi rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodā tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.
Then, in the early morning, Ven. Samiddhi rose, went to the Tapodā to bathe his limbs.
Rồi Tôn giả Samiddhi, vào lúc rạng đông, thức dậy sớm và đi đến suối nước nóng Tapodā để tắm rửa thân thể.
Tapode gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.
Having bathed his limbs in the Tapodā, he came out and stood wearing a single robe, letting his limbs dry.
Sau khi tắm rửa thân thể tại suối Tapodā, ngài trở lên bờ, chỉ mặc một y, đứng phơi khô thân thể.
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ tapodaṃ obhāsetvā yena āyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vehāsaṃ ṭhitā āyasmantaṃ samiddhiṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Then, a certain deity, when the night was far advanced, of surpassing beauty, illuminating the entire Tapodā, approached Ven. Samiddhi; having approached, she stood in the air and addressed Ven. Samiddhi with a verse:
Rồi một vị thiên, với dung mạo rực rỡ, chiếu sáng toàn bộ khu vườn Tapodā khi đêm đã khuya, đi đến chỗ Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, vị ấy đứng trên không trung và nói với Tôn giả Samiddhi bằng bài kệ:
153
‘‘Abhutvā bhikkhasi bhikkhu, na hi bhutvāna bhikkhasi;
“Unfed, bhikkhu, you go for alms; you do not go for alms having fed;
“Này Tỳ-kheo, chưa thọ hưởng mà ngài đi khất thực, không phải đã thọ hưởng mà ngài đi khất thực;
154
Bhutvāna bhikkhu bhikkhassu, mā taṃ kālo upaccagā’’ti.
Having fed, bhikkhu, go for alms; let not your time pass you by.”
Này Tỳ-kheo, hãy thọ hưởng rồi mới đi khất thực, đừng để thời gian trôi qua ngài.”
155
‘‘Kālaṃ vohaṃ na jānāmi, channo kālo na dissati;
“I do not know the time, the time is hidden and not seen;
“Tôi không biết thời gian, thời gian bị che giấu không thể thấy;
156
Tasmā abhutvā bhikkhāmi, mā maṃ kālo upaccagā’’ti.
Therefore, unfed, I go for alms, let not my time pass me by.”
Vì vậy, tôi chưa thọ hưởng mà đi khất thực, đừng để thời gian trôi qua tôi.”
157
Atha kho sā devatā pathaviyaṃ* patiṭṭhahitvā āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca – ‘‘daharo tvaṃ bhikkhu, pabbajito susu kāḷakeso, bhadrena yobbanena samannāgato, paṭhamena vayasā, anikkīḷitāvī kāmesu.
Then that deity, alighting on the earth, said to Ven. Samiddhi: “You are young, bhikkhu, recently ordained, newly come to this Dhamma and Discipline.
Rồi vị thiên ấy đáp xuống đất, nói với Tôn giả Samiddhi: “Này Tỳ-kheo, ngài còn trẻ, mới xuất gia, mới đến với Pháp và Luật này.
Bhuñja, bhikkhu, mānusake kāme; mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvī’’ti.
You are endowed with good youth, with the first stage of life, having not yet enjoyed sensual pleasures. Enjoy, bhikkhu, human sensual pleasures; do not abandon what is visible here and now to pursue what is for the future.”
Ngài có mái tóc đen mượt, được phú cho tuổi trẻ tốt đẹp, ở độ tuổi đầu tiên, chưa từng vui đùa trong các dục lạc. Này Tỳ-kheo, hãy thọ hưởng các dục lạc của con người; đừng từ bỏ cái lợi ích hiện tại để theo đuổi cái lợi ích tương lai.”
158
‘‘Na khvāhaṃ, āvuso, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāmi.
“No, friend, I do not abandon what is visible here and now to pursue what is for the future.
“Này hiền giả, tôi không từ bỏ cái lợi ích hiện tại để theo đuổi cái lợi ích tương lai.
Kālikañca khvāhaṃ, āvuso, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāmi.
Rather, friend, I abandon what is for the future to pursue what is visible here and now.
Mà này hiền giả, tôi từ bỏ cái lợi ích tương lai để theo đuổi cái lợi ích hiện tại.
Kālikā hi, āvuso, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā; ādīnavo ettha bhiyyo.
For, friend, sensual pleasures for the future are declared by the Blessed One to have much suffering and much distress; there is more danger in them.
Vì này hiền giả, các dục lạc tương lai đã được Đức Thế Tôn nói là nhiều khổ đau, nhiều phiền não; sự nguy hiểm ở đây còn nhiều hơn.
Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti.
This Dhamma is visible here and now, immediate, inviting one to come and see, onward-leading, to be personally experienced by the wise.”
Pháp này là thiết thực hiện tại (sandiṭṭhika), không có thời gian (akālika), đến để mà thấy (ehipassika), có khả năng hướng thượng (opaneyyika), và được người trí tự mình chứng nghiệm (paccattaṃ veditabbo viññūhī).”
159
‘‘Kathañca, bhikkhu, kālikā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo?
“And how, bhikkhu, are sensual pleasures for the future declared by the Blessed One to have much suffering and much distress, with more danger in them?
“Này Tỳ-kheo, các dục lạc tương lai đã được Đức Thế Tôn nói là nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và sự nguy hiểm ở đây còn nhiều hơn như thế nào?
Kathaṃ sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti?
And how is this Dhamma visible here and now, immediate, inviting one to come and see, onward-leading, to be personally experienced by the wise?”
Và Pháp này là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, và được người trí tự mình chứng nghiệm như thế nào?”
160
‘‘Ahaṃ kho, āvuso, navo acirapabbajito adhunāgato imaṃ dhammavinayaṃ.
“I, friend, am new, recently ordained, having just come to this Dhamma and Discipline.
“Này hiền giả, tôi là người mới, mới xuất gia không lâu, mới đến với Pháp và Luật này.
Na tāhaṃ* sakkomi vitthārena ācikkhituṃ.
I am not able to explain it in detail.
Tôi không thể giải thích chi tiết được.
Ayaṃ so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho rājagahe viharati tapodārāme.
That Blessed One, Arahant, Perfectly Enlightened Buddha, is staying in Rājagaha, at Tapodārāma.
Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy đang trú tại Rājagaha, trong khu vườn Tapodā.
Taṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccha.
Go to that Blessed One and ask him about this matter.”
Hãy đến hỏi Đức Thế Tôn về vấn đề này.”
Yathā te bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāsī’’ti.
"As the Blessed One explains it to you, so should you remember it."
Đức Thế Tôn sẽ giải thích cho ngài như thế nào, ngài hãy ghi nhớ điều đó như vậy.”
161
‘‘Na kho, bhikkhu, sukaro so bhagavā amhehi upasaṅkamituṃ, aññāhi mahesakkhāhi devatāhi parivuto.
"Indeed, bhikkhu, it is not easy for us to approach that Blessed One, for he is surrounded by other powerful deities.
“Này Tỳ-kheo, thật không dễ dàng cho chúng tôi đến gần Đức Thế Tôn, Ngài được bao quanh bởi các vị thiên nhân có đại oai lực khác.
Sace kho tvaṃ, bhikkhu, taṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccheyyāsi, mayampi āgaccheyyāma dhammassavanāyā’’ti.
If, bhikkhu, you were to approach that Blessed One and ask him about this matter, we too would come to listen to the Dhamma."
Nếu ngài, Tỳ-kheo, có thể đến gần Đức Thế Tôn và hỏi về vấn đề này, thì chúng tôi cũng sẽ đến để nghe pháp.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho āyasmā samiddhi tassā devatāya paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
"Yes, friend," Venerable Samiddhi replied to that deity, and having assented, he approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
“Thưa hiền hữu, được!” Tôn giả Samiddhi đã chấp thuận lời của vị thiên nhân đó, rồi đi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, ngài đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā samiddhi bhagavantaṃ etadavoca –
As he sat to one side, Venerable Samiddhi said this to the Blessed One:
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi thưa với Đức Thế Tôn:
162
‘‘Idhāhaṃ, bhante, rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodā tenupasaṅkamiṃ gattāni parisiñcituṃ.
"Here, bhante, in the early morning, having risen, I approached Tapodā to bathe my body.
“Bạch Thế Tôn, đêm qua, vào lúc rạng đông, con thức dậy và đi đến suối nước nóng Tapodā để tắm rửa.
Tapode gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsiṃ gattāni pubbāpayamāno.
Having bathed my body in Tapodā, I came out and stood wearing a single robe, drying my body.
Sau khi tắm rửa ở Tapodā, con bước lên bờ và đứng một mình với một y, phơi khô thân thể.
Atha kho, bhante, aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ tapodaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vehāsaṃ ṭhitā imāya gāthāya ajjhabhāsi –
Then, bhante, a certain deity, with a radiant night and an exquisite complexion, illuminating the entire Tapodā, approached me; having approached, she stood in the air and addressed me with this verse:
Bạch Thế Tôn, bấy giờ, một vị thiên nhân nọ, khi đêm đã khuya, với dung sắc rực rỡ, chiếu sáng khắp suối Tapodā, đi đến chỗ con; sau khi đến, vị ấy đứng trên không trung và nói với con bằng bài kệ này:
163
‘‘Abhutvā bhikkhasi bhikkhu, na hi bhutvāna bhikkhasi;
‘You beg, bhikkhu, without having eaten; indeed, you do not beg after eating;
“Chưa thọ dụng, Tỳ-kheo, ngài đã khất thực, không phải đã thọ dụng rồi mới khất thực;
164
Bhutvāna bhikkhu bhikkhassu, mā taṃ kālo upaccagā’’ti.
Having eaten, bhikkhu, you should beg, lest time passes you by.’"
Tỳ-kheo, hãy thọ dụng rồi mới khất thực, đừng để thời gian trôi qua ngài.”
165
‘‘Evaṃ vutte ahaṃ, bhante, taṃ devataṃ gāthāya paccabhāsiṃ –
"When this was said, bhante, I replied to that deity in verse:
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, con đã đáp lại vị thiên nhân đó bằng bài kệ:
166
‘‘Kālaṃ vohaṃ na jānāmi, channo kālo na dissati;
‘I do not know time, time is hidden, it cannot be seen;
“Thời gian tôi không biết, thời gian ẩn không thấy;
167
Tasmā abhutvā bhikkhāmi, mā maṃ kālo upaccagā’’ti.
Therefore, I beg without having eaten, lest time passes me by.’"
Vì vậy chưa thọ dụng, tôi vẫn khất thực, đừng để thời gian trôi qua tôi.”
168
‘‘Atha kho, bhante, sā devatā pathaviyaṃ patiṭṭhahitvā maṃ etadavoca – ‘daharo tvaṃ, bhikkhu, pabbajito susu kāḷakeso, bhadrena yobbanena samannāgato, paṭhamena vayasā, anikkīḷitāvī kāmesu.
"Then, bhante, that deity descended to the ground and said to me, ‘You are young, bhikkhu, recently ordained, with dark hair, endowed with the blessing of youth, in the prime of life, unacquainted with sensual pleasures.
“Bạch Thế Tôn, bấy giờ, vị thiên nhân đó đứng trên mặt đất và nói với con: ‘Này Tỳ-kheo, ngài còn trẻ, mới xuất gia, tóc còn đen nhánh, có tuổi trẻ tươi đẹp, ở độ tuổi đầu tiên, chưa từng vui đùa với các dục.
Bhuñja, bhikkhu, mānusake kāme; mā sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvī’’’ti.
Enjoy, bhikkhu, human sensual pleasures; do not abandon the visible for the temporal.’"
Này Tỳ-kheo, hãy tận hưởng các dục của loài người; đừng từ bỏ cái lợi ích hiện tại để chạy theo cái lợi ích tương lai.’”
169
‘‘Evaṃ vuttāhaṃ, bhante, taṃ devataṃ etadavocaṃ – ‘na khvāhaṃ, āvuso, sandiṭṭhikaṃ hitvā kālikaṃ anudhāvāmi; kālikañca khvāhaṃ, āvuso, hitvā sandiṭṭhikaṃ anudhāvāmi.
"When this was said, bhante, I said to that deity, ‘Indeed, friend, I do not abandon the visible for the temporal; rather, I abandon the temporal for the visible.
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, con đã thưa với vị thiên nhân đó: ‘Này hiền hữu, tôi không từ bỏ cái lợi ích hiện tại để chạy theo cái lợi ích tương lai; mà tôi từ bỏ cái lợi ích tương lai để chạy theo cái lợi ích hiện tại.
Kālikā hi, āvuso, kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā; ādīnavo ettha bhiyyo.
For, friend, sensual pleasures have been described by the Blessed One as full of suffering and distress; there is more danger here.
Này hiền hữu, Đức Thế Tôn đã nói rằng các dục là tương lai, chúng nhiều khổ, nhiều não; ở đây, sự nguy hiểm còn nhiều hơn.
Sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’’’ti.
This Dhamma is visible here and now, timeless, inviting inspection, leading onward, to be understood by the wise each for himself.’"
Pháp này là hiện tại, không thời gian, có thể đến để thấy, có tính hướng thượng, được người trí tự mình chứng nghiệm.’”
170
‘‘Evaṃ vutte, bhante, sā devatā maṃ etadavoca – ‘kathañca, bhikkhu, kālikā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā; ādīnavo ettha bhiyyo?
"When this was said, bhante, that deity said to me, ‘How, bhikkhu, have sensual pleasures been described by the Blessed One as full of suffering and distress; with more danger here?
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, vị thiên nhân đó đã thưa với con: ‘Này Tỳ-kheo, Đức Thế Tôn đã nói các dục tương lai là nhiều khổ, nhiều não, sự nguy hiểm còn nhiều hơn như thế nào?
Kathaṃ sandiṭṭhiko ayaṃ dhammo akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti?
How is this Dhamma visible here and now, timeless, inviting inspection, leading onward, to be understood by the wise each for himself?’
Pháp hiện tại này là không thời gian, có thể đến để thấy, có tính hướng thượng, được người trí tự mình chứng nghiệm như thế nào?’
Evaṃ vuttāhaṃ, bhante, taṃ devataṃ etadavocaṃ – ‘ahaṃ kho, āvuso, navo acirapabbajito adhunāgato imaṃ dhammavinayaṃ, na tāhaṃ sakkomi vitthārena ācikkhituṃ.
When this was said, bhante, I said to that deity, ‘Indeed, friend, I am young, recently ordained, having recently come to this Dhamma and Discipline, I am unable to explain it in detail.
Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, con đã thưa với vị thiên nhân đó: ‘Này hiền hữu, tôi là người mới, mới xuất gia không lâu, vừa mới đến với Pháp và Luật này, tôi không thể giải thích chi tiết được.
Ayaṃ so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho rājagahe viharati tapodārāme.
That Blessed One, the Arahant, the Fully Awakened One, dwells in Rājagaha in the Tapodārāma.
Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đó đang trú tại Rājagaha, trong khu vườn Tapodārāma.
Taṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccha.
Approach that Blessed One and ask him about this matter.
Hãy đến gần Đức Thế Tôn đó và hỏi về vấn đề này.
Yathā te bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāsī’’’ti.
As the Blessed One explains it to you, so should you remember it.’"
Đức Thế Tôn sẽ giải thích cho ngài như thế nào, ngài hãy ghi nhớ điều đó như vậy.’”
171
‘‘Evaṃ vutte, bhante, sā devatā maṃ etadavoca – ‘na kho, bhikkhu, sukaro so bhagavā amhehi upasaṅkamituṃ, aññāhi mahesakkhāhi devatāhi parivuto.
"When this was said, bhante, that deity said to me, ‘Indeed, bhikkhu, it is not easy for us to approach that Blessed One, for he is surrounded by other powerful deities.
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, vị thiên nhân đó đã thưa với con: ‘Này Tỳ-kheo, thật không dễ dàng cho chúng tôi đến gần Đức Thế Tôn, Ngài được bao quanh bởi các vị thiên nhân có đại oai lực khác.
Sace kho, tvaṃ bhikkhu, taṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccheyyāsi, mayampi āgaccheyyāma dhammassavanāyā’ti.
If, bhikkhu, you were to approach that Blessed One and ask him about this matter, we too would come to listen to the Dhamma.’
Nếu ngài, Tỳ-kheo, có thể đến gần Đức Thế Tôn và hỏi về vấn đề này, thì chúng tôi cũng sẽ đến để nghe pháp.’
Sace, bhante, tassā devatāya saccaṃ vacanaṃ, idheva sā devatā avidūre’’ti.
If, bhante, the words of that deity are true, then that deity is here, not far away."
Bạch Thế Tôn, nếu lời của vị thiên nhân đó là thật, thì vị thiên nhân đó đang ở đây, không xa.”
172
Evaṃ vutte, sā devatā āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca – ‘‘puccha, bhikkhu, puccha, bhikkhu, yamahaṃ anuppattā’’ti.
When this was said, that deity said to Venerable Samiddhi, "Ask, bhikkhu, ask, bhikkhu, I have arrived where I wished to be!"
Khi được nói như vậy, vị thiên nhân đó thưa với Tôn giả Samiddhi: “Hãy hỏi đi, Tỳ-kheo, hãy hỏi đi, Tỳ-kheo, điều mà tôi đã đến đây vì nó.”
173
Atha kho bhagavā taṃ devataṃ gāthāhi ajjhabhāsi –
Then the Blessed One addressed that deity with verses:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với vị thiên nhân đó bằng các bài kệ:
174
‘‘Akkheyyasaññino sattā, akkheyyasmiṃ patiṭṭhitā;
"Beings, perceiving attributes, are established in attributes;
“Chúng sinh có tưởng về cái được nói, an trú trong cái được nói;
175
Akkheyyaṃ apariññāya, yogamāyanti maccuno.
Not comprehending attributes, they enter the realm of death.
Chưa liễu tri cái được nói, họ đi vào sự ràng buộc của tử thần.
176
‘‘Akkheyyañca pariññāya, akkhātāraṃ na maññati;
Having comprehended attributes, one does not conceive of an attribute-maker;
“Liễu tri cái được nói, không còn tưởng về người nói;
177
Tañhi tassa na hotīti, yena naṃ vajjā na tassa atthi;
For that does not exist for him, that by which one would designate him, that does not exist for him;
Điều đó không phải của người ấy, không có gì để nói về người ấy;
178
Sace vijānāsi vadehi yakkhā’’ti* .
If you understand, O yakkha, speak."
Nếu ngươi biết, hỡi Dạ-xoa, hãy nói đi.”
179
‘‘Na khvāhaṃ, bhante, imassa bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāmi.
"Indeed, bhante, I do not understand the detailed meaning of what the Blessed One has stated in brief.
“Bạch Thế Tôn, con không hiểu ý nghĩa chi tiết của lời Đức Thế Tôn đã nói một cách vắn tắt này.
Sādhu me, bhante, bhagavā tathā bhāsatu yathāhaṃ imassa bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ jāneyya’’nti.
It would be good, bhante, if the Blessed One would speak in such a way that I might understand the detailed meaning of what the Blessed One has stated in brief."
Bạch Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn hãy nói sao cho con có thể hiểu ý nghĩa chi tiết của lời Đức Thế Tôn đã nói một cách vắn tắt này.”
180
‘‘Samo visesī uda vā* nihīno,
"Equal, superior, or inferior, you who conceives thus, would dispute about it;
“Người nghĩ mình bằng, hơn hay kém,
181
Yo maññatī so vivadetha* tena;
You who conceives thus, would dispute about it;
Người ấy sẽ tranh cãi với những điều đó;
182
Tīsu vidhāsu avikampamāno,
Undisturbed in the three modes,
Không dao động trong ba loại kiêu mạn,
183
Samo visesīti na tassa hoti;
The thought 'equal' or 'superior' does not exist for him;
Người ấy không có ‘bằng’ hay ‘hơn’;
184
Sace vijānāsi vadehi yakkhā’’ti.
If you understand, O yakkha, speak."
Nếu ngươi biết, hỡi Dạ-xoa, hãy nói đi.”
185
‘‘Imassāpi khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa na vitthārena atthaṃ ājānāmi.
"Indeed, bhante, I do not understand the detailed meaning of what the Blessed One has stated in brief.
“Bạch Thế Tôn, con cũng không hiểu ý nghĩa chi tiết của lời Đức Thế Tôn đã nói một cách vắn tắt này.
Sādhu me, bhante, bhagavā tathā bhāsatu yathāhaṃ imassa bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ jāneyya’’nti.
It would be good, bhante, if the Blessed One would speak in such a way that I might understand the detailed meaning of what the Blessed One has stated in brief."
Bạch Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn hãy nói sao cho con có thể hiểu ý nghĩa chi tiết của lời Đức Thế Tôn đã nói một cách vắn tắt này.”
186
‘‘Pahāsi saṅkhaṃ na vimānamajjhagā, acchecchi* taṇhaṃ idha nāmarūpe;
"He has abandoned designation, has not entered into conceit, has cut off craving for name-and-form in this world;
“Người đã đoạn trừ mọi ý niệm, không còn kiêu mạn, đã cắt đứt tham ái đối với danh sắc ở đây;
187
Taṃ chinnaganthaṃ anighaṃ nirāsaṃ, pariyesamānā nājjhagamuṃ;
That one whose bonds are severed, free from vexation, free from yearning, they could not find;
Người đã đoạn trừ mọi ràng buộc, không còn phiền não, không còn tham ái, các vị thần và loài người tìm kiếm cũng không tìm thấy;
188
Devā manussā idha vā huraṃ vā, saggesu vā sabbanivesanesu;
Neither gods nor humans, here or hereafter, in heavens or in all abodes;
Dù ở đây hay ở thế giới khác, hay ở các cõi trời, trong tất cả các cảnh giới;
189
Sace vijānāsi vadehi yakkhā’’ti.
If you understand, O yakkha, speak."
Nếu ngươi biết, hỡi Dạ-xoa, hãy nói đi.”
190
‘‘Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi –
"Indeed, bhante, I understand the detailed meaning of what the Blessed One has stated in brief thus:
“Bạch Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa chi tiết của lời Đức Thế Tôn đã nói một cách vắn tắt này như sau:
191
‘‘Pāpaṃ na kayirā vacasā manasā,
"One should do no evil by speech or by mind,
“Chớ làm điều ác bằng lời nói, bằng ý nghĩ,
192
Kāyena vā kiñcana sabbaloke;
Nor anything by body in the whole world;
Hay bằng thân thể bất cứ điều gì trong toàn thế giới;
193
Kāme pahāya satimā sampajāno,
Having abandoned sensual pleasures, mindful and clearly comprehending,
Từ bỏ các dục, có chánh niệm, có chánh tri kiến,
194
Dukkhaṃ na sevetha anatthasaṃhita’’nti.
One should not engage in suffering that is associated with disadvantage."
Chớ theo đuổi khổ đau không mang lại lợi ích.”
195
Nandanavaggo dutiyo.
The Second Chapter on Nandanā.
Chương Nandanavagga thứ hai.
196
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt chương:
197
Nandanā nandati ceva, natthiputtasamena ca;
Nandanā, and Nandati, and Natthiputtasamena;
Nandanā và Nandati, cùng với Natthiputtasamena;
198
Khattiyo saṇamāno ca, niddātandī ca dukkaraṃ;
Khattiya, Saṇamāna, Niddātandī, and Dukkara;
Khattiyo và Saṇamāno, Niddātandī và Dukkaram;
199
Hirī kuṭikā navamo, dasamo vutto samiddhināti.
Hirī and Kuṭikā are the ninth, the tenth is called Samiddhi.
Hirī, Kuṭikā là thứ chín, Samiddhi được nói là thứ mười.
200

3. Sattivaggo

3. The Chapter of Satti

3. Chương Satti

201
1. Sattisuttaṃ
1. Satti Sutta
1. Kinh Satti
202
21. Sāvatthinidānaṃ.
21. Sāvatthī is the occasion.
21. Tại Sāvatthi.
Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi –
Standing to one side, that deity uttered this verse in the presence of the Blessed One:
Vị thiên nhân đó đứng một bên, đã nói bài kệ này trước Đức Thế Tôn:
203
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova* matthake;
"As if struck by a spear, as if his head were burning;
“Như bị đâm bằng mũi giáo, như bị cháy trên đầu;
204
Kāmarāgappahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti.
For the abandoning of sensual passion, mindful, a bhikkhu should wander."
Tỳ-kheo có chánh niệm hãy sống viễn ly để đoạn trừ tham ái dục.”
205
‘‘Sattiyā viya omaṭṭho, ḍayhamānova matthake;
"As if struck by a spear, as if his head were burning;
“Như bị đâm bằng mũi giáo, như bị cháy trên đầu;
206
Sakkāyadiṭṭhippahānāya, sato bhikkhu paribbaje’’ti.
For the abandoning of sakkāyadiṭṭhi, mindful, a bhikkhu should wander."
Tỳ-kheo có chánh niệm hãy sống viễn ly để đoạn trừ tà kiến về tự ngã (sakkāyadiṭṭhi).”
207
2. Phusatisuttaṃ
2. Phusati Sutta
2. Kinh Phusati
208
22.
22.
22.
209
‘‘Nāphusantaṃ phusati ca, phusantañca tato phuse;
"It does not strike one who does not strike, but it strikes one who strikes again;
“Không chạm vào kẻ không chạm, nhưng chạm vào kẻ đã chạm;
210
Tasmā phusantaṃ phusati, appaduṭṭhapadosina’’nti.
Therefore, it strikes one who strikes, the one who offends the unoffending."
Vì vậy, nó chạm vào kẻ đã chạm, kẻ làm hại người không hại.”
211
‘‘Yo appaduṭṭhassa narassa dussati,
"Whoever offends a man who is harmless,
“Kẻ ngu si nào làm hại người không hại,
212
Suddhassa posassa anaṅgaṇassa;
Pure, and stainless;
Người trong sạch, không ô nhiễm;
213
Tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ,
That evil returns to that same fool,
Chính kẻ ngu si đó sẽ phải gánh chịu điều ác,
214
Sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto’’ti.
Like fine dust thrown against the wind."
Như bụi mịn bị ném ngược chiều gió.”
215
3. Jaṭāsuttaṃ
3. Jaṭā Sutta
3. Kinh Jaṭā
216
23.
23.
23.
217
‘‘Anto jaṭā bahi jaṭā, jaṭāya jaṭitā pajā;
"Within is a tangle, without is a tangle, the generation is entangled in a tangle;
“Bên trong là rối rắm, bên ngoài là rối rắm, chúng sinh bị rối rắm bởi sự rối rắm;
218
Taṃ taṃ gotama pucchāmi, ko imaṃ vijaṭaye jaṭa’’nti.
That I ask you, Gotama, who can untangle this tangle?"
Này Gotama, con xin hỏi ngài, ai có thể gỡ mối rối rắm này?”
219
‘‘Sīle patiṭṭhāya naro sapañño, cittaṃ paññañca bhāvayaṃ;
“A wise person, established in virtue, developing concentration and wisdom,
“Người trí, nương tựa vào giới, phát triển tâm và tuệ;
220
Ātāpī nipako bhikkhu, so imaṃ vijaṭaye jaṭaṃ.
an ardent, skillful bhikkhu, he can untangle this tangle.
Vị Tỳ-kheo tinh cần, khéo léo, sẽ tháo gỡ mớ rối này.”
221
‘‘Yesaṃ rāgo ca doso ca, avijjā ca virājitā;
“For whom lust, hatred, and ignorance are eradicated,
“Những ai đã đoạn trừ tham, sân, và vô minh;
222
Khīṇāsavā arahanto, tesaṃ vijaṭitā jaṭā.
for those Arahants whose taints are destroyed, the tangle is untangled.
Những bậc A-la-hán đã tận các lậu hoặc, mớ rối của họ đã được tháo gỡ.”
223
‘‘Yattha nāmañca rūpañca, asesaṃ uparujjhati;
“Where name and form cease completely,
“Nơi nào danh và sắc hoàn toàn chấm dứt;
224
Paṭighaṃ rūpasaññā ca, etthesā chijjate* jaṭā’’ti.
and contact and form-perception, there this tangle is cut.”
Cảm giác chướng ngại và tưởng sắc, ở đó mớ rối này bị cắt đứt.”
225
4. Manonivāraṇasuttaṃ
4. Manonivāraṇasutta — The Discourse on Restraining the Mind
4. Kinh Manonivāraṇa
226
24. ‘‘Yato yato mano nivāraye,
24. “From wherever one restrains the mind,
24. “Từ nơi nào tâm được ngăn chặn,
227
Na dukkhameti naṃ tato tato;
suffering does not reach them from there.
Từ nơi đó khổ không đến với người ấy;
228
Sa sabbato mano nivāraye,
If one restrains the mind from everything,
Người ấy ngăn chặn tâm từ mọi nơi,
229
Sa sabbato dukkhā pamuccati’’.
one is liberated from all suffering.”
Người ấy được giải thoát khỏi mọi khổ đau.”
230
‘‘Na sabbato mano nivāraye,
“One should not restrain the mind from everything,
“Không phải từ mọi nơi mà tâm được ngăn chặn,
231
Na mano saṃyatattamāgataṃ;
nor a mind that has come under control.
Không phải tâm đã được chế ngự.
232
Yato yato ca pāpakaṃ,
From wherever evil arises,
Từ nơi nào điều ác phát sinh,
233
Tato tato mano nivāraye’’ti.
from there one should restrain the mind.”
Từ nơi đó tâm phải được ngăn chặn.”
234
5. Arahantasuttaṃ
5. Arahantasutta — The Discourse on Arahants
5. Kinh Arahanta
235
25.
25.
25.
236
‘‘Yo hoti bhikkhu arahaṃ katāvī,
“A bhikkhu who is an Arahant, who has done what had to be done,
“Nếu có Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, đã hoàn thành việc cần làm,
237
Khīṇāsavo antimadehadhārī;
whose taints are destroyed, who bears the final body;
Đã tận các lậu hoặc, mang thân cuối cùng;
238
Ahaṃ vadāmītipi so vadeyya,
would he say, ‘I speak,’
Vị ấy có thể nói: ‘Tôi nói’,
239
Mamaṃ vadantītipi so vadeyyā’’ti.
or would he say, ‘They speak to me’?”
Vị ấy có thể nói: ‘Họ nói với tôi’ không?”
240
‘‘Yo hoti bhikkhu arahaṃ katāvī,
“A bhikkhu who is an Arahant, who has done what had to be done,
“Nếu có Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, đã hoàn thành việc cần làm,
241
Khīṇāsavo antimadehadhārī;
whose taints are destroyed, who bears the final body;
Đã tận các lậu hoặc, mang thân cuối cùng;
242
Ahaṃ vadāmītipi so vadeyya,
he would say, ‘I speak,’
Vị ấy có thể nói: ‘Tôi nói’,
243
Mamaṃ vadantītipi so vadeyya;
and he would say, ‘They speak to me’;
Vị ấy có thể nói: ‘Họ nói với tôi’;
244
Loke samaññaṃ kusalo viditvā,
knowing worldly convention, being skilled,
Bậc thiện xảo biết được quy ước thế gian,
245
Vohāramattena so* vohareyyā’’ti.
he would speak by mere convention.”
Vị ấy chỉ dùng lời nói theo quy ước thôi.”
246
‘‘Yo hoti bhikkhu arahaṃ katāvī,
“A bhikkhu who is an Arahant, who has done what had to be done,
“Nếu có Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, đã hoàn thành việc cần làm,
247
Khīṇāsavo antimadehadhārī;
whose taints are destroyed, who bears the final body;
Đã tận các lậu hoặc, mang thân cuối cùng;
248
Mānaṃ nu kho so upagamma bhikkhu,
would that bhikkhu, having approached conceit,
Phải chăng vị Tỳ-kheo ấy đã chấp thủ ngã mạn,
249
Ahaṃ vadāmītipi so vadeyya;
say, ‘I speak,’
Nên vị ấy nói: ‘Tôi nói’;
250
Mamaṃ vadantītipi so vadeyyā’’ti.
or say, ‘They speak to me’?”
Vị ấy nói: ‘Họ nói với tôi’?”
251
‘‘Pahīnamānassa na santi ganthā,
“For one whose conceit is abandoned, there are no ties;
“Đối với người đã đoạn trừ ngã mạn, không còn các kiết sử,
252
Vidhūpitā mānaganthassa sabbe;
all ties of conceit are dispelled.
Tất cả các kiết sử ngã mạn đều đã được thổi bay;
253
Sa vītivatto maññataṃ* sumedho,
That wise one, having transcended conceit,
Bậc đại trí ấy đã vượt qua mọi sự chấp ngã,
254
Ahaṃ vadāmītipi so vadeyya.
would say, ‘I speak.’
Vị ấy vẫn có thể nói: ‘Tôi nói’.
255
‘‘Mamaṃ vadantītipi so vadeyya;
“He would say, ‘They speak to me’;
“Vị ấy vẫn có thể nói: ‘Họ nói với tôi’;
256
Loke samaññaṃ kusalo viditvā;
knowing worldly convention, being skilled,
Bậc thiện xảo biết được quy ước thế gian;
257
Vohāramattena so vohareyyā’’ti.
he would speak by mere convention.”
Vị ấy chỉ dùng lời nói theo quy ước thôi.”
258
6. Pajjotasuttaṃ
6. Pajjotasutta — The Discourse on Lights
6. Kinh Pajjota
259
26.
26.
26.
260
‘‘Kati lokasmiṃ pajjotā, yehi loko pakāsati* ;
“How many lights are there in the world, by which the world shines?
“Có bao nhiêu ngọn đèn trong thế gian, nhờ đó thế gian được chiếu sáng;
261
Bhagavantaṃ* puṭṭhumāgamma, kathaṃ jānemu taṃ maya’’nti.
We have come to ask the Fortunate One, how are we to know that?”
Chúng con đến để hỏi Thế Tôn, làm sao chúng con biết được điều đó?”
262
‘‘Cattāro loke pajjotā, pañcamettha na vijjati;
“There are four lights in the world, a fifth is not found here;
“Có bốn ngọn đèn trong thế gian, không có ngọn thứ năm;
263
Divā tapati ādicco, rattimābhāti candimā.
by day the sun shines, by night the moon gleams.
Mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm.
264
‘‘Atha aggi divārattiṃ, tattha tattha pakāsati;
“Then fire shines here and there, day and night;
“Rồi lửa chiếu sáng ngày đêm, ở chỗ này chỗ kia;
265
Sambuddho tapataṃ seṭṭho, esā ābhā anuttarā’’ti.
the Perfectly Enlightened One is the best of those who shine, that is the unsurpassed light.”
Chư Phật Chánh Đẳng Giác là bậc tối thượng trong những gì chiếu sáng, ánh sáng ấy là vô thượng.”
266
7. Sarasuttaṃ
7. Sarasutta — The Discourse on Streams
7. Kinh Sara
267
27.
27.
27.
268
‘‘Kuto sarā nivattanti, kattha vaṭṭaṃ na vattati;
“From where do the streams turn back, where does the cycle not revolve?
“Từ đâu các dòng chảy ngừng lại, ở đâu vòng luân hồi không còn vận hành;
269
Kattha nāmañca rūpañca, asesaṃ uparujjhatī’’ti.
Where do name and form cease completely?”
Ở đâu danh và sắc hoàn toàn chấm dứt?”
270
‘‘Yattha āpo ca pathavī, tejo vāyo na gādhati;
“Where water, earth, fire, and wind find no footing;
“Nơi nào nước và đất, lửa và gió không còn chỗ đứng;
271
Ato sarā nivattanti, ettha vaṭṭaṃ na vattati;
from there the streams turn back, there the cycle does not revolve;
Từ đó các dòng chảy ngừng lại, ở đó vòng luân hồi không còn vận hành;
272
Ettha nāmañca rūpañca, asesaṃ uparujjhatī’’ti.
there name and form cease completely.”
Ở đó danh và sắc hoàn toàn chấm dứt.”
273
8. Mahaddhanasuttaṃ
8. Mahaddhanasutta — The Discourse on the Wealthy
8. Kinh Mahaddhana
274
28.
28.
28.
275
‘‘Mahaddhanā mahābhogā, raṭṭhavantopi khattiyā;
“The very rich, the greatly endowed, even kings with realms,
“Các vị vua chúa giàu có, nhiều tài sản, có cả quốc độ;
276
Aññamaññābhigijjhanti, kāmesu analaṅkatā.
are covetous of each other, uncontented with sensual pleasures.
Vì chưa mãn nguyện với các dục, họ tham lam lẫn nhau.”
277
‘‘Tesu ussukkajātesu, bhavasotānusārisu;
“Among those who are restless, who follow the stream of becoming,
“Trong số những người ấy, những người đầy lo âu, trôi theo dòng hữu;
278
Kedha taṇhaṃ* pajahiṃsu* , ke lokasmiṃ anussukā’’ti.
who here abandoned craving, who are unconcerned in the world?”
Ai đã từ bỏ tham ái, ai là người không lo âu trong thế gian này?”
279
‘‘Hitvā agāraṃ pabbajitā, hitvā puttaṃ pasuṃ viyaṃ;
“Those who, having abandoned household life, went forth, having abandoned children and livestock;
“Những ai đã từ bỏ gia đình và xuất gia, từ bỏ con cái và gia súc;
280
Hitvā rāgañca dosañca, avijjañca virājiya;
having abandoned lust and hatred, and eradicating ignorance;
Từ bỏ tham và sân, và đã đoạn trừ vô minh;
281
Khīṇāsavā arahanto, te lokasmiṃ anussukā’’ti.
the Arahants whose taints are destroyed, they are unconcerned in the world.”
Những bậc A-la-hán đã tận các lậu hoặc, họ là những người không lo âu trong thế gian này.”
282
9. Catucakkasuttaṃ
9. Catucakkasutta — The Discourse on the Four Wheels
9. Kinh Catucakka
283
29.
29.
29.
284
‘‘Catucakkaṃ navadvāraṃ, puṇṇaṃ lobhena saṃyutaṃ;
“The four-wheeled, nine-doored, full, bound by greed;
“Thân bốn bánh, chín cửa, đầy ắp tham ái và bị ràng buộc;
285
Paṅkajātaṃ mahāvīra, kathaṃ yātrā bhavissatī’’ti.
born of mud, Great Hero, how will the journey be?”
Bậc Đại Hùng, sinh ra từ bùn lầy, làm sao để thoát khỏi?”
286
‘‘Chetvā naddhiṃ varattañca, icchā lobhañca pāpakaṃ;
“Having cut the tether and the strap, evil desire and greed;
“Cắt đứt dây buộc và dây da, tham lam và ác dục;
287
Samūlaṃ taṇhamabbuyha, evaṃ yātrā bhavissatī’’ti.
having uprooted craving with its root, thus will the journey be.”
Nhổ tận gốc rễ tham ái, như vậy mới có thể thoát khỏi.”
288
10. Eṇijaṅghasuttaṃ
10. Eṇijaṅghasutta — The Discourse on Antelope-legged
10. Kinh Eṇijaṅgha
289
30.
30.
30.
290
‘‘Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ, appāhāraṃ alolupaṃ;
“We approach and ask the one with antelope-legs, thin, brave, of little food, not greedy;
“Bậc Hùng giả có bắp chân như nai, thân gầy, ít ăn, không tham lam;
291
Sīhaṃ vekacaraṃ nāgaṃ, kāmesu anapekkhinaṃ;
like a lion ranging alone, a Nāga, unconcerned with sensual pleasures;
Như sư tử độc hành, như voi chúa, không vướng bận các dục;
292
Upasaṅkamma pucchāma, kathaṃ dukkhā pamuccatī’’ti.
how is one liberated from suffering?”
Chúng con đến hỏi Ngài, làm sao để thoát khỏi khổ đau?”
293
‘‘Pañca kāmaguṇā loke, manochaṭṭhā paveditā;
“The five cords of sensual pleasure in the world, with mind as the sixth, are declared;
“Năm dục lạc thế gian, cùng với ý là thứ sáu, đã được tuyên bố;
294
Ettha chandaṃ virājetvā, evaṃ dukkhā pamuccatī’’ti.
having eradicated desire for these, thus one is liberated from suffering.”
Ở đây, đoạn trừ tham ái, như vậy mới thoát khỏi khổ đau.”
295
Sattivaggo tatiyo.
The Third Chapter, the Chapter on Sakka, is finished.
Chương Mũi Tên thứ ba.
296
Tassuddānaṃ –
Summary of this chapter –
Lời tóm tắt:
297
Sattiyā phusati ceva, jaṭā manonivāraṇā;
Satti, and Phusati, Jaṭā, Manonivāraṇā;
Mũi tên chạm đến, mớ rối, ngăn chặn tâm;
298
Arahantena pajjoto, sarā mahaddhanena ca;
Arahanta, and Pajjota, Sarā, and Mahaddhana;
Bậc A-la-hán với ngọn đèn, các dòng chảy, người giàu có;
299
Catucakkena navamaṃ, eṇijaṅghena te dasāti.
the ninth is Catucakka, and Eṇijaṅgha, these are ten.
Bánh xe bốn bánh là thứ chín, và Eṇijaṅgha là mười.
Next Page →