51. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, at Jetavana, Anāthapiṇḍika’s Park.
51. Như vầy tôi nghe: Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti.
There the Blessed One addressed the bhikkhus: "Bhikkhus!"
Tại đấy, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu.”
‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
"Venerable sir," those bhikkhus replied to the Blessed One.
Các Tỳ-khưu ấy vâng lời Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn.”
Bhagavā etadavoca –
The Blessed One said this:
Đức Thế Tôn nói như sau:
‘‘Pañcime, bhikkhave, āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā.
"Bhikkhus, there are these five hindrances (āvaraṇā nīvaraṇā), mental corruptions (cetaso ajjhāruhā), that weaken wisdom (paññāya dubbalīkaraṇā).
“Này các Tỳ-khưu, có năm điều này là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Katame pañca?
Which five?
Năm điều nào?
Kāmacchando, bhikkhave, āvaraṇo nīvaraṇo cetaso ajjhāruho paññāya dubbalīkaraṇo.
Sensual desire (kāmacchando), bhikkhus, is a hindrance, a mental corruption, that weakens wisdom.
Này các Tỳ-khưu, dục tham là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Byāpādo, bhikkhave, āvaraṇo nīvaraṇo cetaso ajjhāruho paññāya dubbalīkaraṇo.
Ill will (byāpādo), bhikkhus, is a hindrance, a mental corruption, that weakens wisdom.
Này các Tỳ-khưu, sân hận là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Thinamiddhaṃ, bhikkhave, āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ cetaso ajjhāruhaṃ paññāya dubbalīkaraṇaṃ.
Sloth and torpor (thinamiddhaṃ), bhikkhus, is a hindrance, a mental corruption, that weakens wisdom.
Này các Tỳ-khưu, hôn trầm, thụy miên là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Uddhaccakukkuccaṃ, bhikkhave, āvaraṇaṃ nīvaraṇaṃ cetaso ajjhāruhaṃ paññāya dubbalīkaraṇaṃ.
Restlessness and remorse (uddhaccakukkuccaṃ), bhikkhus, is a hindrance, a mental corruption, that weakens wisdom.
Này các Tỳ-khưu, trạo cử, hối hận là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Vicikicchā, bhikkhave, āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā.
Skeptical doubt (vicikicchā), bhikkhus, is a hindrance, a mental corruption, that weakens wisdom.
Này các Tỳ-khưu, hoài nghi là chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
Ime kho, bhikkhave, pañca āvaraṇā nīvaraṇā cetaso ajjhāruhā paññāya dubbalīkaraṇā.
These, bhikkhus, are the five hindrances, mental corruptions, that weaken wisdom.
Này các Tỳ-khưu, đây là năm điều chướng ngại, là triền cái, xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ.
‘‘So vata, bhikkhave, bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe appahāya, abalāya paññāya dubbalāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttari* vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
"It is impossible, bhikkhus, that a bhikkhu, without abandoning these five hindrances, these mental corruptions that weaken wisdom, with weak and feeble wisdom, would know his own good, or the good of others, or the good of both, or realize a superior human state, a distinction in noble knowledge and vision.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu chưa đoạn trừ năm điều chướng ngại, triền cái này, những thứ xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ yếu kém, bất lực, thì không thể biết được lợi ích của mình, không thể biết được lợi ích của người khác, không thể biết được lợi ích của cả hai, hoặc không thể chứng đạt được sự thù thắng của tri kiến cao thượng hơn pháp của loài người; điều đó không thể có được.
Seyyathāpi, bhikkhave, nadī pabbateyyā dūraṅgamā* sīghasotā hārahārinī.
Just as, bhikkhus, a river flowing from the mountains, far-reaching, swift-flowing, carrying away all things.
Này các Tỳ-khưu, ví như một con sông chảy từ núi, chảy xa, dòng nước xiết, cuốn trôi mọi vật.
Tassā puriso ubhato naṅgalamukhāni vivareyya.
If a man were to open channels on both banks of it like plough-furrows.
Một người đàn ông mở hai cửa cống.
Evañhi so, bhikkhave, majjhe nadiyā soto vikkhitto visaṭo byādiṇṇo neva* dūraṅgamo assa na* sīghasoto na* hārahārī* .
Then, bhikkhus, the current in the middle of that river would be dispersed, scattered, and divided, and would not be far-reaching, nor swift-flowing, nor carry away all things.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, dòng nước giữa sông sẽ phân tán, tản mác, bị chia cắt, không còn chảy xa, không còn dòng nước xiết, và không còn cuốn trôi mọi vật.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, so vata bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe appahāya, abalāya paññāya dubbalāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttari vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati.
Even so, bhikkhus, it is impossible that a bhikkhu, without abandoning these five hindrances, these mental corruptions that weaken wisdom, with weak and feeble wisdom, would know his own good, or the good of others, or the good of both, or realize a superior human state, a distinction in noble knowledge and vision.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu chưa đoạn trừ năm điều chướng ngại, triền cái này, những thứ xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ yếu kém, bất lực, thì không thể biết được lợi ích của mình, không thể biết được lợi ích của người khác, không thể biết được lợi ích của cả hai, hoặc không thể chứng đạt được sự thù thắng của tri kiến cao thượng hơn pháp của loài người; điều đó không thể có được.
‘‘So vata, bhikkhave, bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe pahāya, balavatiyā paññāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttari vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti ṭhānametaṃ vijjati.
"It is possible, bhikkhus, that a bhikkhu, having abandoned these five hindrances, these mental corruptions that weaken wisdom, with strong wisdom, would know his own good, or the good of others, or the good of both, or realize a superior human state, a distinction in noble knowledge and vision.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu đã đoạn trừ năm điều chướng ngại, triền cái này, những thứ xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ mạnh mẽ, thì có thể biết được lợi ích của mình, có thể biết được lợi ích của người khác, có thể biết được lợi ích của cả hai, hoặc có thể chứng đạt được sự thù thắng của tri kiến cao thượng hơn pháp của loài người; điều đó có thể có được.
Seyyathāpi, bhikkhave, nadī pabbateyyā dūraṅgamā sīghasotā hārahārinī.
Just as, bhikkhus, a river flowing from the mountains, far-reaching, swift-flowing, carrying away all things.
Này các Tỳ-khưu, ví như một con sông chảy từ núi, chảy xa, dòng nước xiết, cuốn trôi mọi vật.
Tassā puriso ubhato naṅgalamukhāni pidaheyya.
If a man were to close the channels on both banks of it like plough-furrows.
Một người đàn ông đóng hai cửa cống lại.
Evañhi so, bhikkhave, majjhe nadiyā soto avikkhitto avisaṭo abyādiṇṇo dūraṅgamo ceva assa sīghasoto ca hārahārī ca.
For, bhikkhus, then the current in the middle of the river would be undisturbed, unscattered, unintercepted, and it would flow far, be swift, and carry all before it.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, dòng nước giữa sông sẽ không phân tán, không tản mác, không bị chia cắt, mà sẽ chảy xa, có dòng nước xiết và cuốn trôi mọi vật.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, so vata bhikkhu ime pañca āvaraṇe nīvaraṇe cetaso ajjhāruhe paññāya dubbalīkaraṇe pahāya, balavatiyā paññāya attatthaṃ vā ñassati paratthaṃ vā ñassati ubhayatthaṃ vā ñassati uttari vā manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ sacchikarissatīti ṭhānametaṃ vijjatī’’ti.
In the same way, bhikkhus, it is indeed possible that a bhikkhu, having abandoned these five hindrances, these defilements that overwhelm the mind and weaken wisdom, will know his own welfare with strong wisdom, or know the welfare of others, or know the welfare of both, or realize a distinction of noble knowledge and vision superior to human states.”
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu đã đoạn trừ năm điều chướng ngại, triền cái này, những thứ xâm chiếm tâm, làm suy yếu trí tuệ, với trí tuệ mạnh mẽ, thì có thể biết được lợi ích của mình, có thể biết được lợi ích của người khác, có thể biết được lợi ích của cả hai, hoặc có thể chứng đạt được sự thù thắng của tri kiến cao thượng hơn pháp của loài người; điều đó có thể có được.”
Paṭhamaṃ.
The First.
Thứ nhất.
52. ‘‘Akusalarāsīti, bhikkhave, vadamāno pañca nīvaraṇe* sammā vadamāno vadeyya.
“Bhikkhus, one who correctly speaks of ‘a heap of unwholesome things’ would correctly speak of these five hindrances.
“Này các Tỳ-khưu, khi nói ‘tập hợp bất thiện’, một cách đúng đắn, người ta có thể nói về năm triền cái này.
Kevalo hāyaṃ* , bhikkhave, akusalarāsi yadidaṃ pañca nīvaraṇā.
For this, bhikkhus, is entirely a heap of unwholesome things, namely, the five hindrances.
Này các Tỳ-khưu, toàn bộ tập hợp bất thiện chính là năm triền cái này.
Katame pañca?
Which five?
Năm điều nào?
Kāmacchandanīvaraṇaṃ, byāpādanīvaraṇaṃ, thinamiddhanīvaraṇaṃ, uddhaccakukkuccanīvaraṇaṃ, vicikicchānīvaraṇaṃ.
The hindrance of sensual desire, the hindrance of ill-will, the hindrance of sloth and torpor, the hindrance of restlessness and remorse, the hindrance of doubt.
Triền cái dục tham, triền cái sân hận, triền cái hôn trầm thụy miên, triền cái trạo cử hối hận, triền cái hoài nghi.
Akusalarāsīti, bhikkhave, vadamāno ime pañca nīvaraṇe sammā vadamāno vadeyya.
Bhikkhus, one who correctly speaks of ‘a heap of unwholesome things’ would correctly speak of these five hindrances.
Này các Tỳ-khưu, khi nói ‘tập hợp bất thiện’, một cách đúng đắn, người ta có thể nói về năm triền cái này.
Kevalo hāyaṃ, bhikkhave, akusalarāsi yadidaṃ pañca nīvaraṇā’’ti.
For this, bhikkhus, is entirely a heap of unwholesome things, namely, the five hindrances.”
Này các Tỳ-khưu, toàn bộ tập hợp bất thiện chính là năm triền cái này.”
Dutiyaṃ.
The Second.
Thứ hai.
53. ‘‘Pañcimāni, bhikkhave, padhāniyaṅgāni.
“Bhikkhus, there are these five factors of exertion.
“Này các Tỳ-khưu, có năm chi pháp cần tinh tấn này.
Katamāni pañca?
Which five?
Năm điều nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu saddho hoti, saddahati tathāgatassa bodhiṃ – ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is endowed with faith; he has faith in the Tathāgata’s enlightenment: ‘Indeed, that Blessed One is Arahant, Perfectly Self-Enlightened, accomplished in knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed trainer of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Buddha, the Blessed One.’
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có lòng tin, tin vào sự giác ngộ của Đức Như Lai: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ Minh Hạnh, Thiện Thệ, bậc Tri Thế Gian, Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu, Bậc Thầy của chư Thiên và loài người, là Đức Phật, là Đức Thế Tôn.’
Appābādho hoti appātaṅko; samavepākiniyā gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya majjhimāya padhānakkhamāya; asaṭho hoti amāyāvī; yathābhūtaṃ attānaṃ āvikattā satthari vā viññūsu vā sabrahmacārīsu; āraddhavīriyo viharati akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu; paññavā hoti, udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā.
He is free from illness and affliction; he is endowed with a balanced digestive faculty, neither too cold nor too hot, but moderate and suitable for exertion; he is not deceitful or fraudulent; he reveals himself as he truly is to the Teacher or to his discerning fellow monastics; he dwells with aroused energy for the abandoning of unwholesome states and for the acquisition of wholesome states, steadfast, firm in effort, not shirking his duty in wholesome states; he is discerning, endowed with wisdom that discerns rise and fall, noble and penetrative, leading to the complete destruction of suffering.
Vị ấy ít bệnh tật, ít khổ đau; có hệ tiêu hóa điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng, ở mức trung bình, thích hợp cho sự tinh tấn; không gian xảo, không lừa dối; thành thật bày tỏ bản thân như thật trước Bậc Đạo Sư hoặc các bậc trí giả, hoặc các vị đồng Phạm hạnh; sống tinh tấn không ngừng để đoạn trừ các pháp bất thiện, để thành tựu các pháp thiện, kiên cường, nỗ lực vững chắc, không bỏ gánh nặng trong các pháp thiện; có trí tuệ, đầy đủ trí tuệ về sự sinh diệt, trí tuệ Thánh xuyên thấu, đưa đến sự chấm dứt khổ đau một cách chân chánh.
Imāni kho, bhikkhave, pañca padhāniyaṅgānī’’ti.
These, bhikkhus, are the five factors of exertion.”
Này các Tỳ-khưu, đây là năm chi pháp cần tinh tấn.”
Tatiyaṃ.
The Third.
Thứ ba.
54. ‘‘Pañcime, bhikkhave, asamayā padhānāya.
“Bhikkhus, there are these five inopportune times for exertion.
“Này các Tỳ-khưu, có năm thời điểm không thích hợp cho sự tinh tấn.
Katame pañca?
Which five?
Năm điều nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu jiṇṇo hoti jarāyābhibhūto.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is old, overcome by old age.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu đã già, bị tuổi già áp đảo.
Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo asamayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the first inopportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm không thích hợp thứ nhất cho sự tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu byādhito hoti byādhinābhibhūto.
“Again, bhikkhus, a bhikkhu is sick, overcome by illness.
Hơn nữa, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu bị bệnh, bị bệnh tật áp đảo.
Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo asamayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the second inopportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm không thích hợp thứ hai cho sự tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, dubbhikkhaṃ hoti dussassaṃ dullabhapiṇḍaṃ, na sukaraṃ uñchena paggahena yāpetuṃ.
“Again, bhikkhus, there is a famine, a bad harvest, almsfood is hard to get, and it is not easy to sustain oneself by gleaning or begging.
Hơn nữa, này các Tỳ-khưu, có nạn đói, mùa màng thất bát, khó kiếm thức ăn khất thực, không dễ dàng để duy trì cuộc sống bằng cách khất thực hoặc nhận cúng dường.
Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo asamayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the third inopportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm không thích hợp thứ ba cho sự tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bhayaṃ hoti aṭavisaṅkopo, cakkasamārūḷhā jānapadā pariyāyanti.
“Again, bhikkhus, there is danger, a disturbance in the wilderness, and the people of the countryside are fleeing in chariots.
Hơn nữa, này các Tỳ-khưu, có sự nguy hiểm, rừng bị quân cướp phá hoại, dân chúng bị quân đội cướp bóc, di chuyển khắp nơi.
Ayaṃ, bhikkhave, catuttho asamayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the fourth inopportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm không thích hợp thứ tư cho sự tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, saṅgho bhinno hoti.
“Again, bhikkhus, the Saṅgha is divided.
Hơn nữa, này các Tỳ-khưu, Tăng đoàn bị chia rẽ.
Saṅghe kho pana, bhikkhave, bhinne aññamaññaṃ akkosā ca honti, aññamaññaṃ paribhāsā ca honti, aññamaññaṃ parikkhepā ca honti, aññamaññaṃ pariccajā ca honti.
For when the Saṅgha is divided, bhikkhus, there are mutual insults, mutual slandering, mutual ostracism, and mutual abandonment.
Khi Tăng đoàn bị chia rẽ, này các Tỳ-khưu, sẽ có những lời mắng nhiếc lẫn nhau, những lời phỉ báng lẫn nhau, những lời chỉ trích lẫn nhau, những lời từ bỏ lẫn nhau.
Tattha appasannā ceva nappasīdanti, pasannānañca ekaccānaṃ aññathattaṃ hoti.
Then those who are not confident do not become confident, and some of those who are confident become otherwise.
Khi đó, những người chưa có lòng tin sẽ không có lòng tin, và một số người đã có lòng tin sẽ thay đổi tâm ý.
Ayaṃ, bhikkhave, pañcamo asamayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the fifth inopportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm không thích hợp thứ năm cho sự tinh tấn.
Ime kho, bhikkhave, pañca asamayā padhānāyāti.
These, bhikkhus, are the five inopportune times for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là năm thời điểm không thích hợp cho sự tinh tấn.”
‘‘Pañcime, bhikkhave, samayā padhānāya.
“Bhikkhus, there are these five opportune times for exertion.
“Này các Tỳ-khưu, có năm thời điểm thích hợp cho sự tinh tấn.
Katame pañca?
Which five?
Năm điều nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu daharo hoti yuvā susu kāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is young, youthful, with black hair, endowed with the blessing of youth, in the prime of life.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu còn trẻ, tuổi thanh xuân, tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ tốt đẹp, ở giai đoạn đầu của cuộc đời.
Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo samayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the first opportune time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm thứ nhất để tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu appābādho hoti appātaṅko, samavepākiniyā gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya majjhimāya padhānakkhamāya.
“Furthermore, bhikkhus, a bhikkhu is free from illness, free from affliction, possessed of a balanced digestion, neither too cold nor too hot, but moderate and suitable for exertion.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu không bệnh tật, không đau ốm, có hệ tiêu hóa điều hòa, không quá lạnh, không quá nóng, vừa phải, thích hợp cho sự tinh tấn.
Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo samayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the second suitable time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm thứ hai để tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, subhikkhaṃ hoti susassaṃ sulabhapiṇḍaṃ, sukaraṃ uñchena paggahena yāpetuṃ.
“Furthermore, bhikkhus, there is plenty of food, a good harvest, alms are easy to obtain, and it is easy to sustain oneself by gleaning and collecting alms.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, mùa màng bội thu, lúa gạo dồi dào, dễ dàng khất thực, dễ dàng sống bằng cách đi nhặt từng hạt.
Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo samayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the third suitable time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm thứ ba để tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, manussā samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā viharanti.
“Furthermore, bhikkhus, people live in concord, in harmony, without dispute, like milk and water, regarding one another with loving eyes.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, con người sống hòa hợp, hoan hỷ, không tranh cãi, như sữa với nước, nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương.
Ayaṃ, bhikkhave, catuttho samayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the fourth suitable time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm thứ tư để tinh tấn.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, saṅgho samaggo sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharati.
“Furthermore, bhikkhus, the Saṅgha is in concord, in harmony, without dispute, with a single purpose, living comfortably.
Lại nữa, này các Tỳ-khưu, Tăng đoàn hòa hợp, hoan hỷ, không tranh cãi, cùng một mục đích, sống an lạc.
Saṅghe kho pana, bhikkhave, samagge na ceva aññamaññaṃ akkosā honti, na ca aññamaññaṃ paribhāsā honti, na ca aññamaññaṃ parikkhepā honti, na ca aññamaññaṃ pariccajā honti.
When the Saṅgha is in concord, bhikkhus, there are no mutual insults, no mutual slanders, no mutual exclusions, and no mutual abandonments.
Này các Tỳ-khưu, khi Tăng đoàn hòa hợp, không có những lời lăng mạ lẫn nhau, không có những lời phỉ báng lẫn nhau, không có những sự loại trừ lẫn nhau, không có những sự từ bỏ lẫn nhau.
Tattha appasannā ceva pasīdanti, pasannānañca bhiyyobhāvo* hoti.
Therein, those who are not yet confident become confident, and the confidence of those who are confident increases.
Ở đó, những người chưa có niềm tin sẽ phát sinh niềm tin, và niềm tin của những người đã có niềm tin sẽ tăng trưởng hơn nữa.
Ayaṃ, bhikkhave, pañcamo samayo padhānāya.
This, bhikkhus, is the fifth suitable time for exertion.
Này các Tỳ-khưu, đây là thời điểm thứ năm để tinh tấn.
Ime kho, bhikkhave, pañca samayā padhānāyā’’ti.
These, bhikkhus, are the five suitable times for exertion.”
Này các Tỳ-khưu, đây là năm thời điểm để tinh tấn.
Catutthaṃ.
Fourth.
Thứ tư.
55. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
55. At one time the Bhagavā was dwelling in Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
55. Một thời, Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong khu vườn Jetavana của ông Anāthapiṇḍika.
Tena kho pana samayena sāvatthiyaṃ ubho mātāputtā vassāvāsaṃ upagamiṃsu* – bhikkhu ca bhikkhunī ca.
Now at that time, a mother and son, a bhikkhu and a bhikkhunī, had entered the rainy season retreat in Sāvatthī.
Vào thời điểm đó, tại Sāvatthī, cả hai mẹ con – một Tỳ-khưu và một Tỳ-khưu-ni – đã an cư mùa mưa.
Te aññamaññassa abhiṇhaṃ dassanakāmā ahesuṃ.
They desired to see each other frequently.
Họ thường xuyên muốn gặp nhau.
Mātāpi puttassa abhiṇhaṃ dassanakāmā ahosi; puttopi mātaraṃ abhiṇhaṃ dassanakāmo ahosi.
The mother desired to see her son frequently; the son also desired to see his mother frequently.
Người mẹ thường xuyên muốn gặp con trai, và người con trai cũng thường xuyên muốn gặp mẹ.
Tesaṃ abhiṇhaṃ dassanā saṃsaggo ahosi.
From their frequent seeing, intimacy arose.
Do thường xuyên gặp gỡ, họ trở nên thân mật.
Saṃsagge sati vissāso ahosi.
With intimacy, familiarity arose.
Khi thân mật, họ trở nên tin cậy.
Vissāse sati otāro ahosi.
With familiarity, opportunity arose.
Khi tin cậy, sự sa ngã đã xảy ra.
Te otiṇṇacittā sikkhaṃ apaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsu.
With minds overcome, without renouncing the training, without declaring their weakness, they engaged in sexual intercourse.
Với tâm đã sa ngã, họ đã thực hành pháp bất tịnh mà không từ bỏ giới học, không tiết lộ sự yếu kém của mình.
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then many bhikkhus approached the Bhagavā; having approached and paid homage to the Bhagavā, they sat down to one side.
Rồi nhiều Tỳ-khưu đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn, họ ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘idha, bhante, sāvatthiyaṃ ubho mātāputtā vassāvāsaṃ upagamiṃsu – bhikkhu ca bhikkhunī ca, te aññamaññassa abhiṇhaṃ dassanakāmā ahesuṃ, mātāpi puttassa abhiṇhaṃ dassanakāmā ahosi, puttopi mātaraṃ abhiṇhaṃ dassanakāmo ahosi.
Seated to one side, those bhikkhus said to the Bhagavā: “Here, Venerable Sir, a mother and son, a bhikkhu and a bhikkhunī, had entered the rainy season retreat in Sāvatthī; they desired to see each other frequently, the mother desired to see her son frequently, the son also desired to see his mother frequently.
Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, ở đây, tại Sāvatthī, cả hai mẹ con – một Tỳ-khưu và một Tỳ-khưu-ni – đã an cư mùa mưa, họ thường xuyên muốn gặp nhau, người mẹ thường xuyên muốn gặp con trai, và người con trai cũng thường xuyên muốn gặp mẹ.”
Tesaṃ abhiṇhaṃ dassanā saṃsaggo ahosi, saṃsagge sati vissāso ahosi, vissāse sati otāro ahosi, te otiṇṇacittā sikkhaṃ apaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsū’’ti.
From their frequent seeing, intimacy arose; with intimacy, familiarity arose; with familiarity, opportunity arose; with minds overcome, without renouncing the training, without declaring their weakness, they engaged in sexual intercourse.”
Do thường xuyên gặp gỡ, họ trở nên thân thiết; khi thân thiết, sự tin tưởng nảy sinh; khi có tin tưởng, cơ hội (cho dục vọng) xuất hiện. Với tâm bị dục vọng xâm chiếm, họ đã không từ bỏ giới luật, không bày tỏ sự yếu kém của mình, và đã thực hành pháp dâm dục.”
‘‘Kiṃ nu so, bhikkhave, moghapuriso maññati – ‘na mātā putte sārajjati, putto vā pana mātarī’ti?
“What does that deluded person think, bhikkhus—‘A mother does not become infatuated with her son, or a son with his mother’?
“Này các Tỳ-khưu, có phải người đàn ông trống rỗng ấy nghĩ rằng: ‘Mẹ không ham muốn con trai, hay con trai không ham muốn mẹ’ chăng?
Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekarūpampi samanupassāmi evaṃ* rajanīyaṃ evaṃ kamanīyaṃ evaṃ madanīyaṃ evaṃ bandhanīyaṃ evaṃ mucchanīyaṃ evaṃ antarāyakaraṃ anuttarassa yogakkhemassa adhigamāya yathayidaṃ, bhikkhave, itthirūpaṃ.
I do not perceive, bhikkhus, any other single form that is so alluring, so desirable, so intoxicating, so binding, so bewildering, so obstructive to the attainment of the unsurpassed security from bondage, as is, bhikkhus, the form of a woman.
Này các Tỳ-khưu, Ta không thấy bất kỳ một sắc nào khác có khả năng quyến rũ, có khả năng lôi cuốn, có khả năng làm say đắm, có khả năng trói buộc, có khả năng làm mê muội, có khả năng gây chướng ngại cho sự chứng đắc vô thượng an ổn khỏi các ách phược (yogakkhema) như sắc của người nữ này.
Itthirūpe, bhikkhave, sattā rattā giddhā gathitā* mucchitā ajjhosannā* .
Beings, bhikkhus, are attached, greedy, bound, bewildered, and engrossed in the form of a woman.
Này các Tỳ-khưu, các chúng sanh bị tham ái, bị tham đắm, bị trói buộc, bị mê muội, bị chìm đắm trong sắc của người nữ.
Te dīgharattaṃ socanti itthirūpavasānugā.
They sorrow for a long time, being subject to the form of a woman.
Họ phải chịu đau khổ lâu dài vì bị chi phối bởi sắc của người nữ.
‘‘Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekasaddampi…pe… ekagandhampi… ekarasampi… ekaphoṭṭhabbampi samanupassāmi evaṃ rajanīyaṃ evaṃ kamanīyaṃ evaṃ madanīyaṃ evaṃ bandhanīyaṃ evaṃ mucchanīyaṃ evaṃ antarāyakaraṃ anuttarassa yogakkhemassa adhigamāya yathayidaṃ, bhikkhave, itthiphoṭṭhabbaṃ.
“I do not perceive, bhikkhus, any other single sound…pe… any other single smell… any other single taste… any other single tactile object that is so alluring, so desirable, so intoxicating, so binding, so bewildering, so obstructive to the attainment of the unsurpassed security from bondage, as is, bhikkhus, the tactile object of a woman.
“Này các Tỳ-khưu, Ta không thấy bất kỳ một tiếng nào khác... (tương tự như trên)... một mùi nào khác... một vị nào khác... một xúc nào khác có khả năng quyến rũ, có khả năng lôi cuốn, có khả năng làm say đắm, có khả năng trói buộc, có khả năng làm mê muội, có khả năng gây chướng ngại cho sự chứng đắc vô thượng an ổn khỏi các ách phược như xúc của người nữ này.
Itthiphoṭṭhabbe, bhikkhave, sattā rattā giddhā gathitā mucchitā ajjhosannā.
Beings, bhikkhus, are attached, greedy, bound, bewildered, and engrossed in the tactile object of a woman.
Này các Tỳ-khưu, các chúng sanh bị tham ái, bị tham đắm, bị trói buộc, bị mê muội, bị chìm đắm trong xúc của người nữ.
Te dīgharattaṃ socanti itthiphoṭṭhabbavasānugā.
They sorrow for a long time, being subject to the tactile object of a woman.
Họ phải chịu đau khổ lâu dài vì bị chi phối bởi xúc của người nữ.
‘‘Itthī, bhikkhave, gacchantīpi purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati; ṭhitāpi…pe… nisinnāpi… sayānāpi… hasantīpi… bhaṇantīpi… gāyantīpi… rodantīpi… ugghātitāpi* … matāpi purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati.
“Monks, a woman, even when walking, takes hold of a man’s mind; even when standing… even when sitting… even when lying down… even when laughing… even when speaking… even when singing… even when weeping… even when swollen (as a corpse)… even when dead, she takes hold of a man’s mind.
“Này các Tỳ-khưu, người nữ, dù đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm, đang cười, đang nói, đang hát, đang khóc, dù bị biến dạng (ugghātitā) hay đã chết, vẫn chiếm đoạt tâm trí của người nam.
Yañhi taṃ, bhikkhave, sammā vadamāno vadeyya – ‘samantapāso mārassā’ti mātugāmaṃyeva sammā vadamāno vadeyya – ‘samantapāso mārassā’’’ti.
Indeed, monks, if one were to speak rightly, saying, ‘It is Māra’s all-encompassing snare,’ one would speak rightly of a woman, saying, ‘It is Māra’s all-encompassing snare.’”
Này các Tỳ-khưu, nếu một người nói đúng sự thật rằng: ‘Đó là cái lưới khắp mọi phía của ác ma (Māra)’, thì người ấy nên nói đúng sự thật rằng: ‘Chính người nữ là cái lưới khắp mọi phía của ác ma’.”
56. Atha kho aññataro bhikkhu yena sako upajjhāyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sakaṃ upajjhāyaṃ etadavoca – ‘‘etarahi me, bhante, madhurakajāto ceva kāyo, disā ca me na pakkhāyanti, dhammā ca maṃ nappaṭibhanti, thinamiddhañca me cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, anabhirato ca brahmacariyaṃ carāmi, atthi ca me dhammesu vicikicchā’’ti.
Then a certain bhikkhu approached his own preceptor. Having approached, he said to his preceptor, “Venerable sir, my body is now as if drugged, the directions are not clear to me, the Dhamma does not appear to me, sloth and torpor have taken hold of my mind, I live the holy life discontented, and I have doubt concerning the teachings.”
56. Rồi một tỳ khưu nào đó đi đến chỗ vị upajjhāya của mình; sau khi đến, vị ấy thưa với upajjhāya của mình rằng: “Bạch Thế Tôn, hiện giờ thân con như bị mê mẩn, các phương hướng con không còn nhìn thấy rõ, các pháp không hiển lộ rõ ràng đối với con, hôn trầm thụy miên bao trùm tâm con, con sống Phạm hạnh mà không hoan hỷ, và con có sự nghi ngờ đối với các pháp.”
Atha kho so bhikkhu taṃ saddhivihārikaṃ bhikkhuṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then that bhikkhu, taking that fellow-disciple bhikkhu, approached the Bhagavā. Having approached, he paid homage to the Bhagavā and sat down to one side.
Rồi vị tỳ khưu đó dẫn vị saddhivihārika ấy đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ayaṃ, bhante, bhikkhu evamāha – ‘etarahi me, bhante, madhurakajāto ceva kāyo, disā ca maṃ na pakkhāyanti, dhammā ca me nappaṭibhanti, thinamiddhañca me cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, anabhirato ca brahmacariyaṃ carāmi, atthi ca me dhammesu vicikicchā’’’ti.
Sitting to one side, that bhikkhu said to the Bhagavā, “Venerable sir, this bhikkhu says, ‘Venerable sir, my body is now as if drugged, the directions are not clear to me, the Dhamma does not appear to me, sloth and torpor have taken hold of my mind, I live the holy life discontented, and I have doubt concerning the teachings.’”
Sau khi ngồi xuống một bên, vị tỳ khưu đó bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, vị tỳ khưu này nói như sau: ‘Bạch Thế Tôn, hiện giờ thân con như bị mê mẩn, các phương hướng con không còn nhìn thấy rõ, các pháp không hiển lộ rõ ràng đối với con, hôn trầm thụy miên bao trùm tâm con, con sống Phạm hạnh mà không hoan hỷ, và con có sự nghi ngờ đối với các pháp.’”
‘‘Evañhetaṃ, bhikkhu, hoti indriyesu aguttadvārassa, bhojane amattaññuno, jāgariyaṃ ananuyuttassa, avipassakassa kusalānaṃ dhammānaṃ, pubbarattāpararattaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanānuyogaṃ ananuyuttassa viharato, yaṃ madhurakajāto ceva kāyo hoti, disā cassa na pakkhāyanti, dhammā ca taṃ nappaṭibhanti, thinamiddhañcassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, anabhirato ca brahmacariyaṃ carati, hoti cassa dhammesu vicikicchā.
“So it is, bhikkhu, for one who lives with unguarded sense-doors, without moderation in food, not devoted to wakefulness, not discerning wholesome states, not devoted to the development of the bodhipakkhiyā dhammā during the first and last parts of the night. His body is as if drugged, the directions are not clear to him, the Dhamma does not appear to him, sloth and torpor take hold of his mind, he lives the holy life discontented, and he has doubt concerning the teachings.
“Này Tỳ-kheo, quả đúng là như vậy, đối với người sống không phòng hộ các căn, không tiết độ trong ăn uống, không chuyên cần thức tỉnh, không quán xét các thiện pháp, không chuyên cần tu tập các pháp trợ Bồ-đề suốt canh đầu và canh cuối của đêm, thì thân thể trở nên nặng nề, cứng đờ; các phương hướng không hiện rõ đối với người ấy; các pháp không hiển lộ đối với người ấy; hôn trầm, thụy miên bao trùm tâm người ấy; người ấy sống không hoan hỷ trong Phạm hạnh; và người ấy có sự hoài nghi đối với các pháp.
Tasmātiha te, bhikkhu, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘indriyesu guttadvāro bhavissāmi, bhojane mattaññū, jāgariyaṃ anuyutto, vipassako kusalānaṃ dhammānaṃ, pubbarattāpararattaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanānuyogaṃ anuyutto viharissāmī’ti.
Therefore, bhikkhu, you should train yourself thus: ‘I will live with guarded sense-doors, moderate in food, devoted to wakefulness, discerning wholesome states, devoted to the development of the bodhipakkhiyā dhammā during the first and last parts of the night.’
Vì vậy, này Tỳ-kheo, con phải học tập như sau: ‘Ta sẽ sống phòng hộ các căn, tiết độ trong ăn uống, chuyên cần thức tỉnh, quán xét các thiện pháp, chuyên cần tu tập các pháp trợ Bồ-đề suốt canh đầu và canh cuối của đêm.’
Evañhi te, bhikkhu, sikkhitabba’’nti.
Thus, bhikkhu, you should train yourself.”
Này Tỳ-kheo, con phải học tập như vậy.”
Atha kho so bhikkhu bhagavatā iminā ovādena ovadito uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Then that bhikkhu, having been exhorted by the Bhagavā with this admonition, rose from his seat, paid homage to the Bhagavā, circumambulated him respectfully, and departed.
Rồi Tỳ-kheo ấy được Thế Tôn giáo huấn bằng lời giáo giới này, đứng dậy từ chỗ ngồi, đảnh lễ Thế Tôn, đi nhiễu bên phải rồi ra đi.
Atha kho so bhikkhu eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.
Then that bhikkhu, living alone, secluded, diligent, ardent, and resolute, before long, by his own direct knowledge, realized and attained in this very life that unsurpassed culmination of the holy life for the sake of which clansmen rightly go forth from home into homelessness.
Rồi Tỳ-kheo ấy sống một mình, viễn ly, tinh cần, nhiệt tâm, tự mình tinh tấn, không bao lâu, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ và an trú mục đích tối thượng của Phạm hạnh – điều mà các thiện nam tử xuất gia từ bỏ gia đình để sống không gia đình – đó là Vô Thượng Phạm Hạnh.
‘‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’’ti abbhaññāsi.
He understood: “Destroyed is birth, the holy life has been lived, what was to be done has been done, there is no more for this state of being.”
Vị ấy biết rõ: “Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa.”
Aññataro pana so bhikkhu arahataṃ ahosi.
And that bhikkhu was one of the Arahants.
Vị Tỳ-kheo ấy là một trong số các vị A-la-hán.
Atha kho so bhikkhu arahattaṃ patto yena sako upajjhāyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sakaṃ upajjhāyaṃ etadavoca – ‘‘etarahi me, bhante, na ceva* madhurakajāto kāyo, disā ca me pakkhāyanti, dhammā ca maṃ paṭibhanti, thinamiddhañca me cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, abhirato ca brahmacariyaṃ carāmi, natthi ca me dhammesu vicikicchā’’ti.
Then that bhikkhu, having attained Arahantship, approached his own preceptor; having approached, he said to his preceptor, “Venerable sir, now my body is not heavy and stiff, the directions are clear to me, the Dhamma appears to me, sloth and torpor do not overwhelm my mind, I delight in practicing the holy life, and I have no doubt regarding the teachings.”
Rồi Tỳ-kheo ấy, sau khi chứng đắc A-la-hán, đến gặp vị Upajjhāya (Thầy tế độ) của mình; sau khi đến, vị ấy nói với Upajjhāya của mình rằng: “Bạch Ngài, bây giờ thân con không còn nặng nề, cứng đờ nữa; các phương hướng hiện rõ đối với con; các pháp hiển lộ đối với con; hôn trầm, thụy miên không còn bao trùm tâm con nữa; con sống hoan hỷ trong Phạm hạnh; và con không còn hoài nghi đối với các pháp.”
Atha kho so bhikkhu taṃ saddhivihārikaṃ bhikkhuṃ ādāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then that bhikkhu, taking that fellow-disciple bhikkhu, approached the Bhagavā; having approached, he saluted the Bhagavā and sat down to one side.
Rồi vị Tỳ-kheo Upajjhāya ấy dẫn Tỳ-kheo đệ tử của mình đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ayaṃ, bhante, bhikkhu evamāha – ‘etarahi me, bhante, na ceva madhurakajāto kāyo, disā ca me pakkhāyanti, dhammā ca maṃ paṭibhanti, thinamiddhañca me cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, abhirato ca brahmacariyaṃ carāmi, natthi ca me dhammesu vicikicchā’’’ti.
Having sat down to one side, that bhikkhu said to the Bhagavā, “Venerable sir, this bhikkhu says thus: ‘Venerable sir, now my body is not heavy and stiff, the directions are clear to me, the Dhamma appears to me, sloth and torpor do not overwhelm my mind, I delight in practicing the holy life, and I have no doubt regarding the teachings.’”
Khi ngồi xuống một bên, vị Tỳ-kheo Upajjhāya ấy bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Ngài, Tỳ-kheo này nói như sau: ‘Bạch Ngài, bây giờ thân con không còn nặng nề, cứng đờ nữa; các phương hướng hiện rõ đối với con; các pháp hiển lộ đối với con; hôn trầm, thụy miên không còn bao trùm tâm con nữa; con sống hoan hỷ trong Phạm hạnh; và con không còn hoài nghi đối với các pháp.’”
‘‘Evañhetaṃ, bhikkhu, hoti indriyesu guttadvārassa, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttassa, vipassakassa kusalānaṃ dhammānaṃ, pubbarattāpararattaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanānuyogaṃ anuyuttassa viharato, yaṃ na ceva madhurakajāto kāyo hoti, disā cassa pakkhāyanti, dhammā ca taṃ paṭibhanti, thinamiddhañcassa cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, abhirato ca brahmacariyaṃ carati, na cassa hoti dhammesu vicikicchā.
“So it is, bhikkhu, for one who dwells with guarded sense-doors, moderate in eating, devoted to wakefulness, discerning wholesome dhammas, devoted to the development of the bodhipakkhiya dhammas during the first and last watches of the night. His body is not heavy and stiff, the directions are clear to him, the dhammas appear to him, sloth and torpor do not overwhelm his mind, he delights in practicing the holy life, and he has no doubt regarding the dhammas.
“Này Tỳ-kheo, quả đúng là như vậy, đối với người sống phòng hộ các căn, tiết độ trong ăn uống, chuyên cần thức tỉnh, quán xét các thiện pháp, chuyên cần tu tập các pháp trợ Bồ-đề suốt canh đầu và canh cuối của đêm, thì thân thể không còn nặng nề, cứng đờ; các phương hướng hiện rõ đối với người ấy; các pháp hiển lộ đối với người ấy; hôn trầm, thụy miên không bao trùm tâm người ấy; người ấy sống hoan hỷ trong Phạm hạnh; và người ấy không có sự hoài nghi đối với các pháp.
Tasmātiha vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘indriyesu guttadvārā bhavissāma, bhojane mattaññuno, jāgariyaṃ anuyuttā, vipassakā kusalānaṃ dhammānaṃ, pubbarattāpararattaṃ bodhipakkhiyānaṃ dhammānaṃ bhāvanānuyogaṃ anuyuttā viharissāmā’ti.
Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell with guarded sense-doors, moderate in eating, devoted to wakefulness, discerning wholesome dhammas, devoted to the development of the bodhipakkhiya dhammas during the first and last watches of the night.’
Vì vậy, này các Tỳ-kheo, các con phải học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ sống phòng hộ các căn, tiết độ trong ăn uống, chuyên cần thức tỉnh, quán xét các thiện pháp, chuyên cần tu tập các pháp trợ Bồ-đề suốt canh đầu và canh cuối của đêm.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.”
Này các Tỳ-kheo, các con phải học tập như vậy.”
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
57. ‘‘Pañcimāni, bhikkhave, ṭhānāni abhiṇhaṃ paccavekkhitabbāni itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
“Bhikkhus, there are these five things to be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
57. “Này các Tỳ-kheo, có năm điều mà người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia cần thường xuyên quán xét.
Katamāni pañca?
Which five?
Thế nào là năm điều?
‘Jarādhammomhi, jaraṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
‘I am subject to old age; I have not gone beyond old age’—this should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
‘Ta là pháp của già, không vượt khỏi già,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘Byādhidhammomhi, byādhiṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
‘I am subject to illness; I have not gone beyond illness’—this should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
‘Ta là pháp của bệnh, không vượt khỏi bệnh,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘Maraṇadhammomhi, maraṇaṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
‘I am subject to death; I have not gone beyond death’—this should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
‘Ta là pháp của chết, không vượt khỏi chết,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
‘All that is dear and pleasing to me will change, will become separated’—this should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
‘Tất cả những gì ta yêu quý, khả ý đều sẽ khác biệt, ly tán,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘Kammassakomhi, kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo.
‘I am the owner of my kamma, the heir of my kamma, born of my kamma, related to my kamma, supported by my kamma.
‘Ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa.
Yaṃ kammaṃ karissāmi – kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā – tassa dāyādo bhavissāmī’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
Whatever kamma I shall do—whether good or evil—of that I shall be the heir’—this should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
Nghiệp nào ta sẽ tạo – thiện hay ác – ta sẽ là người thừa kế của nghiệp ấy,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘‘Kiñca, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘jarādhammomhi, jaraṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā?
“For what purpose, bhikkhus, should ‘I am subject to old age; I have not gone beyond old age’ be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth?
“Này các Tỳ-kheo, vì lợi ích gì mà ‘Ta là pháp của già, không vượt khỏi già,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia?
Atthi, bhikkhave, sattānaṃ yobbane yobbanamado, yena madena mattā kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti.
There is, bhikkhus, in beings the intoxication of youth, by which intoxication they engage in misconduct by body, misconduct by speech, and misconduct by mind.
Này các Tỳ-kheo, có sự kiêu mạn tuổi trẻ nơi các chúng sinh, do sự kiêu mạn ấy, họ say đắm mà tạo ác nghiệp bằng thân, tạo ác nghiệp bằng lời, tạo ác nghiệp bằng ý.
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato yo yobbane yobbanamado so sabbaso vā pahīyati tanu vā pana hoti.
When that object is frequently reflected upon, the intoxication of youth in him is either completely abandoned or becomes attenuated.
Khi thường xuyên quán xét điều ấy, sự kiêu mạn tuổi trẻ nơi người ấy hoặc hoàn toàn được đoạn trừ, hoặc trở nên mỏng manh.
Idaṃ kho, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘jarādhammomhi, jaraṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
This, bhikkhus, is the purpose for which ‘I am subject to old age; I have not gone beyond old age’ should be frequently reflected upon by a woman or a man, by a householder or one gone forth.
Này các Tỳ-kheo, vì lợi ích này mà ‘Ta là pháp của già, không vượt khỏi già,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘‘Kiñca, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘byādhidhammomhi, byādhiṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā?
‘‘And for what purpose, bhikkhus, should it be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am subject to illness, I have not gone beyond illness’?
“Này các Tỳ-kheo, vì lợi ích gì mà ‘Ta là pháp của bệnh, không vượt khỏi bệnh,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia?
Atthi, bhikkhave, sattānaṃ ārogye ārogyamado, yena madena mattā kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti.
Bhikkhus, there is for beings an intoxication with health in health, by which intoxication, being infatuated, they engage in misconduct by body, misconduct by speech, misconduct by mind.
Này các Tỳ-kheo, có sự kiêu mạn sức khỏe nơi các chúng sinh, do sự kiêu mạn ấy, họ say đắm mà tạo ác nghiệp bằng thân, tạo ác nghiệp bằng lời, tạo ác nghiệp bằng ý.
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato yo ārogye ārogyamado so sabbaso vā pahīyati tanu vā pana hoti.
For one who frequently reflects on that state, that intoxication with health in health is either completely abandoned or it becomes attenuated.
Khi thường xuyên quán xét điều ấy, sự kiêu mạn sức khỏe nơi người ấy hoặc hoàn toàn được đoạn trừ, hoặc trở nên mỏng manh.
Idaṃ kho, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘byādhidhammomhi, byādhiṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
This, bhikkhus, is the purpose for which it should be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am subject to illness, I have not gone beyond illness’.
Này các Tỳ-kheo, vì lợi ích này mà ‘Ta là pháp của bệnh, không vượt khỏi bệnh,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia.
‘‘Kiñca, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘maraṇadhammomhi, maraṇaṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā?
‘‘And for what purpose, bhikkhus, should it be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am subject to death, I have not gone beyond death’?
“Này các Tỳ-kheo, vì lợi ích gì mà ‘Ta là pháp của chết, không vượt khỏi chết,’ điều này cần thường xuyên quán xét đối với người nữ hay người nam, người tại gia hay người xuất gia?
Atthi, bhikkhave, sattānaṃ jīvite jīvitamado, yena madena mattā kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti.
Bhikkhus, there is for beings an intoxication with life in life, by which intoxication, being infatuated, they engage in misconduct by body, misconduct by speech, misconduct by mind.
Này các Tỳ-kheo, có sự kiêu mạn sự sống nơi các chúng sinh, do sự kiêu mạn ấy, họ say đắm mà tạo ác nghiệp bằng thân, tạo ác nghiệp bằng lời, tạo ác nghiệp bằng ý.
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato yo jīvite jīvitamado so sabbaso vā pahīyati tanu vā pana hoti.
For one who frequently reflects on that state, that intoxication with life in life is either completely abandoned or it becomes attenuated.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, thì sự kiêu mạn về sự sống, sự kiêu mạn phát sinh do sự sống, hoặc hoàn toàn bị đoạn trừ, hoặc trở nên vi tế.
Idaṃ kho, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘maraṇadhammomhi, maraṇaṃ anatīto’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
This, bhikkhus, is the purpose for which it should be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am subject to death, I have not gone beyond death’.
Này các Tỳ-khưu, chính vì lợi ích này mà ‘ta có bản chất phải chết, ta không thoát khỏi cái chết’ cần được thường xuyên quán xét bởi phụ nữ hay đàn ông, cư sĩ hay người xuất gia.
‘‘Kiñca, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā?
‘‘And for what purpose, bhikkhus, should it be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘From all that is dear and agreeable to me there will be separation, there will be parting’?
“Này các Tỳ-khưu, vì lợi ích nào mà ‘ta sẽ phải chia lìa và xa cách tất cả những gì ta yêu quý và ưa thích’ cần được thường xuyên quán xét bởi phụ nữ hay đàn ông, cư sĩ hay người xuất gia?
Atthi, bhikkhave, sattānaṃ piyesu manāpesu yo chandarāgo yena rāgena rattā kāyena duccaritaṃ caranti, vācāya duccaritaṃ caranti, manasā duccaritaṃ caranti.
Bhikkhus, there is for beings a sensual passion for what is dear and agreeable, by which passion, being infatuated, they engage in misconduct by body, misconduct by speech, misconduct by mind.
Này các Tỳ-khưu, có một dục ái đối với những gì yêu quý và ưa thích của các chúng sinh, do ái dục ấy mà họ bị nhiễm đắm, họ hành ác hạnh về thân, hành ác hạnh về lời, hành ác hạnh về ý.
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato yo piyesu manāpesu chandarāgo so sabbaso vā pahīyati tanu vā pana hoti.
For one who frequently reflects on that state, that sensual passion for what is dear and agreeable is either completely abandoned or it becomes attenuated.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, thì dục ái đối với những gì yêu quý và ưa thích hoặc hoàn toàn bị đoạn trừ, hoặc trở nên vi tế.
Idaṃ kho, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
This, bhikkhus, is the purpose for which it should be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘From all that is dear and agreeable to me there will be separation, there will be parting’.
Này các Tỳ-khưu, chính vì lợi ích này mà ‘ta sẽ phải chia lìa và xa cách tất cả những gì ta yêu quý và ưa thích’ cần được thường xuyên quán xét bởi phụ nữ hay đàn ông, cư sĩ hay người xuất gia.
‘‘Kiñca, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘kammassakomhi, kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi – kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā – tassa dāyādo bhavissāmī’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā?
‘‘And for what purpose, bhikkhus, should it be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am the owner of my kamma, heir to my kamma, born of my kamma, related to my kamma, supported by my kamma. Whatever kamma I shall do—good or evil—of that I shall be the heir’?
“Này các Tỳ-khưu, vì lợi ích nào mà ‘ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa của ta; bất cứ nghiệp nào ta tạo ra – thiện hay ác – ta sẽ là người thừa kế của nghiệp ấy’ cần được thường xuyên quán xét bởi phụ nữ hay đàn ông, cư sĩ hay người xuất gia?
Atthi, bhikkhave, sattānaṃ kāyaduccaritaṃ vacīduccaritaṃ manoduccaritaṃ.
Bhikkhus, there is for beings misconduct by body, misconduct by speech, misconduct by mind.
Này các Tỳ-khưu, có thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh của các chúng sinh.
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato sabbaso vā duccaritaṃ pahīyati tanu vā pana hoti.
For one who frequently reflects on that state, misconduct is either completely abandoned or it becomes attenuated.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, thì ác hạnh hoặc hoàn toàn bị đoạn trừ, hoặc trở nên vi tế.
Idaṃ kho, bhikkhave, atthavasaṃ paṭicca ‘kammassakomhi, kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi – kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā – tassa dāyādo bhavissāmī’ti abhiṇhaṃ paccavekkhitabbaṃ itthiyā vā purisena vā gahaṭṭhena vā pabbajitena vā.
This, bhikkhus, is the purpose for which it should be frequently reflected upon by a woman or a man, a householder or one gone forth, ‘I am the owner of my kamma, heir to my kamma, born of my kamma, related to my kamma, supported by my kamma. Whatever kamma I shall do—good or evil—of that I shall be the heir’.
Này các Tỳ-khưu, chính vì lợi ích này mà ‘ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa của ta; bất cứ nghiệp nào ta tạo ra – thiện hay ác – ta sẽ là người thừa kế của nghiệp ấy’ cần được thường xuyên quán xét bởi phụ nữ hay đàn ông, cư sĩ hay người xuất gia.
‘‘Sa kho* so, bhikkhave, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘na kho ahaññeveko jarādhammo* jaraṃ anatīto, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbe sattā jarādhammā jaraṃ anatītā’ti.
‘‘When, bhikkhus, that noble disciple thus reflects: ‘It is not I alone who am subject to old age, who have not gone beyond old age, but all beings, whatever their coming, going, passing away, and reappearing, are subject to old age, have not gone beyond old age’—
“Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau: ‘Không phải chỉ riêng ta có bản chất phải già, không thoát khỏi sự già; mà tất cả chúng sinh, bất cứ nơi nào có sự đến, đi, chết, và tái sinh, tất cả chúng sinh đều có bản chất phải già, không thoát khỏi sự già.’
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato maggo sañjāyati.
for one who frequently reflects on that state, the path arises.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, con đường sẽ phát sinh.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti.
He cultivates, develops, and makes much of that path.
Người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn.
Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni sabbaso pahīyanti anusayā byantīhonti.
For one who cultivates, develops, and makes much of that path, the fetters are completely abandoned and the underlying tendencies are eradicated.
Khi người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn, các kiết sử hoàn toàn bị đoạn trừ, các tùy miên được chấm dứt.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘na kho ahaññeveko byādhidhammo byādhiṃ anatīto, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbe sattā byādhidhammā byādhiṃ anatītā’ti.
“That noble disciple, bhikkhus, reflects thus: ‘It is not I alone who am subject to sickness, who have not overcome sickness; but all beings, as far as their coming, going, passing away, and reappearing are concerned, are subject to sickness, have not overcome sickness.’
“Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau: ‘Không phải chỉ riêng ta có bản chất phải bệnh, không thoát khỏi sự bệnh; mà tất cả chúng sinh, bất cứ nơi nào có sự đến, đi, chết, và tái sinh, tất cả chúng sinh đều có bản chất phải bệnh, không thoát khỏi sự bệnh.’
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato maggo sañjāyati.
As he constantly reflects on this state, the path arises.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, con đường sẽ phát sinh.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti.
He cultivates that path, develops it, and makes it abundant.
Người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn.
Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni sabbaso pahīyanti, anusayā byantīhonti.
As he cultivates, develops, and makes that path abundant, his fetters are entirely abandoned, and his underlying tendencies are eliminated.
Khi người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn, các kiết sử hoàn toàn bị đoạn trừ, các tùy miên được chấm dứt.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘na kho ahaññeveko maraṇadhammo maraṇaṃ anatīto, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbe sattā maraṇadhammā maraṇaṃ anatītā’ti.
“That noble disciple, bhikkhus, reflects thus: ‘It is not I alone who am subject to death, who have not overcome death; but all beings, as far as their coming, going, passing away, and reappearing are concerned, are subject to death, have not overcome death.’
“Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau: ‘Không phải chỉ riêng ta có bản chất phải chết, không thoát khỏi cái chết; mà tất cả chúng sinh, bất cứ nơi nào có sự đến, đi, chết, và tái sinh, tất cả chúng sinh đều có bản chất phải chết, không thoát khỏi cái chết.’
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato maggo sañjāyati.
As he constantly reflects on this state, the path arises.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, con đường sẽ phát sinh.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti.
He cultivates that path, develops it, and makes it abundant.
Người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn.
Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni sabbaso pahīyanti, anusayā byantīhonti.
As he cultivates, develops, and makes that path abundant, his fetters are entirely abandoned, and his underlying tendencies are eliminated.
Khi người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn, các kiết sử hoàn toàn bị đoạn trừ, các tùy miên được chấm dứt.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘na kho mayhevekassa sabbehi piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbesaṃ sattānaṃ piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo’ti.
“That noble disciple, bhikkhus, reflects thus: ‘It is not I alone who experience separation and disunion from all that is dear and agreeable; but all beings, as far as their coming, going, passing away, and reappearing are concerned, experience separation and disunion from all that is dear and agreeable.’
“Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau: ‘Không phải chỉ riêng ta phải chia lìa và xa cách tất cả những gì ta yêu quý và ưa thích; mà tất cả chúng sinh, bất cứ nơi nào có sự đến, đi, chết, và tái sinh, tất cả chúng sinh đều phải chia lìa và xa cách những gì họ yêu quý và ưa thích.’
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato maggo sañjāyati.
As he constantly reflects on this state, the path arises.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, con đường sẽ phát sinh.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti.
He cultivates that path, develops it, and makes it abundant.
Người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn.
Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni sabbaso pahīyanti, anusayā byantīhonti.
As he cultivates, develops, and makes that path abundant, his fetters are entirely abandoned, and his underlying tendencies are eliminated.
Khi người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn, các kiết sử hoàn toàn bị đoạn trừ, các tùy miên được chấm dứt.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘na kho ahaññeveko kammassako kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi – kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā – tassa dāyādo bhavissāmi; atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbe sattā kammassakā kammadāyādā kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇā, yaṃ kammaṃ karissanti – kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā – tassa dāyādā bhavissantī’ti.
“That noble disciple, bhikkhus, reflects thus: ‘It is not I alone who am the owner of my kamma, the heir of my kamma, born of my kamma, related to my kamma, and have my kamma as my refuge; whatever kamma I shall do—whether good or evil—of that I shall be the heir. But all beings, as far as their coming, going, passing away, and reappearing are concerned, are owners of their kamma, heirs of their kamma, born of their kamma, related to their kamma, and have their kamma as their refuge; whatever kamma they shall do—whether good or evil—of that they shall be the heirs.’
“Này các Tỳ-khưu, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau: ‘Không phải chỉ riêng ta là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa; bất cứ nghiệp nào ta tạo ra – thiện hay ác – ta sẽ là người thừa kế của nghiệp ấy; mà tất cả chúng sinh, bất cứ nơi nào có sự đến, đi, chết, và tái sinh, tất cả chúng sinh đều là chủ nhân của nghiệp, là người thừa kế nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là nơi nương tựa; bất cứ nghiệp nào họ tạo ra – thiện hay ác – họ sẽ là người thừa kế của nghiệp ấy.’
Tassa taṃ ṭhānaṃ abhiṇhaṃ paccavekkhato maggo sañjāyati.
As he constantly reflects on this state, the path arises.
Khi người ấy thường xuyên quán xét điều đó, con đường sẽ phát sinh.
So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti.
He cultivates that path, develops it, and makes it abundant.
Người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn.
Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni sabbaso pahīyanti, anusayā byantīhontī’’ti.
As he cultivates, develops, and makes that path abundant, his fetters are entirely abandoned, and his underlying tendencies are eliminated.”
Khi người ấy thực hành, phát triển, và làm cho con đường ấy trở nên sung mãn, các kiết sử hoàn toàn bị đoạn trừ, các tùy miên được chấm dứt.”
58. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.
58. On one occasion the Blessed One was dwelling in Vesālī, in the Great Wood, in the Gabled Hall.
58. Một thời, Thế Tôn trú tại Vesāli, trong Đại Lâm, tại giảng đường có mái nhọn.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisi.
Then, in the forenoon, the Blessed One dressed, took his bowl and robe, and entered Vesālī for alms.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, mang bát và y, đi vào Vesāli để khất thực.
Vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto mahāvanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.
After wandering for alms in Vesālī and returning from his alms round, he entered the Great Wood and sat down for his day's abiding at the root of a certain tree.
Sau khi khất thực ở Vesāli và dùng bữa xong, Thế Tôn đi sâu vào Đại Lâm và ngồi nghỉ trưa dưới gốc một cây nọ.
Tena kho pana samayena sambahulā licchavikumārakā sajjāni dhanūni ādāya kukkurasaṅghaparivutā mahāvane anucaṅkamamānā anuvicaramānā addasu bhagavantaṃ aññatarasmiṃ rukkhamūle nisinnaṃ; disvāna sajjāni dhanūni nikkhipitvā kukkurasaṅghaṃ ekamantaṃ uyyojetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā tuṇhībhūtā tuṇhībhūtā pañjalikā bhagavantaṃ payirupāsanti.
At that time, many Licchavi princes, young men, having taken their ready bows, surrounded by a pack of dogs, wandering here and there in the Great Wood, saw the Blessed One sitting at the root of a certain tree. Having seen him, they laid down their ready bows, sent the pack of dogs away to one side, and approached the Blessed One. Having approached, they bowed to the Blessed One, and silently, silently, with clasped hands, they attended upon the Blessed One.
Vào lúc bấy giờ, nhiều thanh niên Licchavi, mang theo cung tên đã giương sẵn, được bầy chó vây quanh, đang đi dạo và lang thang trong rừng lớn, đã thấy Thế Tôn đang ngồi dưới một gốc cây. Sau khi thấy, họ đặt cung tên đã giương sẵn xuống, đuổi bầy chó sang một bên, rồi đi đến chỗ Thế Tôn. Sau khi đến, họ đảnh lễ Thế Tôn, rồi im lặng, chắp tay mà hầu hạ Thế Tôn.
Tena kho pana samayena mahānāmo licchavi mahāvane jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno addasa te licchavikumārake tuṇhībhūte tuṇhībhūte pañjalike bhagavantaṃ payirupāsante; disvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
At that time, Mahānāma the Licchavi, while walking up and down in the Great Wood, saw those Licchavi princes silently, silently, with clasped hands, attending upon the Blessed One. Having seen them, he approached the Blessed One. Having approached, he bowed to the Blessed One and sat down to one side.
Vào lúc bấy giờ, Mahānāma Licchavi đang đi dạo trong rừng lớn, đã thấy các thanh niên Licchavi ấy đang im lặng, chắp tay mà hầu hạ Thế Tôn. Sau khi thấy, ông đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, ông đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho mahānāmo licchavi udānaṃ udānesi – ‘bhavissanti vajjī, bhavissanti vajjī’’’ti!
As he sat to one side, Mahānāma the Licchavi uttered an exclamation: “‘The Vajjīs will prosper, the Vajjīs will prosper!’”
Sau khi ngồi xuống một bên, Mahānāma Licchavi đã thốt lên lời cảm hứng: “Các Vajjī sẽ hưng thịnh, các Vajjī sẽ hưng thịnh!”
‘‘Kiṃ pana tvaṃ, mahānāma, evaṃ vadesi – ‘bhavissanti vajjī, bhavissanti vajjī’’’ti?
“Why, Mahānāma, do you say this: ‘The Vajjīs will prosper, the Vajjīs will prosper!’?”
“Này Mahānāma, vì sao ông lại nói như vậy: ‘Các Vajjī sẽ hưng thịnh, các Vajjī sẽ hưng thịnh’?”
‘‘Ime, bhante, licchavikumārakā caṇḍā pharusā apānubhā* .
“These Licchavi princes, Venerable Sir, are fierce, harsh, and without good fortune.
“Bạch Thế Tôn, những thanh niên Licchavi này hung hãn, thô lỗ, và không có sự phát triển.
Yānipi tāni kulesu paheṇakāni* pahīyanti, ucchūti vā badarāti vā pūvāti vā modakāti vā saṃkulikāti vā* , tāni vilumpitvā vilumpitvā khādanti; kulitthīnampi kulakumārīnampi pacchāliyaṃ khipanti.
Whatever gifts are left in households, be it sugarcane, jujubes, cakes, sweetmeats, or savories, they plunder and eat them. They even throw things into the laps of noblewomen and noble maidens.
Những món quà được gửi đến các gia đình, như mía, táo tàu, bánh ngọt, bánh kẹo, hoặc bánh mè giòn, chúng cướp giật và ăn; chúng còn đá vào lưng các phụ nữ gia đình và các cô gái gia đình.
Te dānime tuṇhībhūtā tuṇhībhūtā pañjalikā bhagavantaṃ payirupāsantī’’ti.
And now, these are silently, silently, with clasped hands, attending upon the Blessed One.”
Thế mà bây giờ, chúng đang im lặng, chắp tay mà hầu hạ Thế Tôn.”
‘‘Yassa kassaci, mahānāma, kulaputtassa pañca dhammā saṃvijjanti – yadi vā rañño khattiyassa muddhāvasittassa, yadi vā raṭṭhikassa pettanikassa* , yadi vā senāya senāpatikassa, yadi vā gāmagāmaṇikassa, yadi vā pūgagāmaṇikassa, ye vā pana kulesu paccekādhipaccaṃ kārenti, vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
“In whosoever, Mahānāma, a noble son possesses five qualities—whether a king, an anointed Khattiya, or a hereditary district ruler, or a general of an army, or a village headman, or a guild headman, or those who exercise individual authority in households—prosperity is to be expected, not decline.
“Này Mahānāma, bất cứ người con gia đình nào có năm pháp này—dù là vua Sát-đế-lợi đã được quán đảnh, dù là người cai trị đất nước theo cha truyền con nối, dù là tướng quân của quân đội, dù là trưởng làng, dù là trưởng đoàn thể, hoặc những ai đang nắm quyền cai trị riêng trong các gia đình—thì sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Katame pañca?
“Which five?
“Năm pháp nào?
Idha, mahānāma, kulaputto uṭṭhānavīriyādhigatehi bhogehi bāhābalaparicitehi sedāvakkhittehi dhammikehi dhammaladdhehi mātāpitaro sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti.
Here, Mahānāma, a noble son, with wealth acquired through energetic striving, earned by the strength of his arms, moistened by the sweat of his brow, justly obtained, and lawfully gained, honors, respects, esteems, and reveres his parents.
Ở đây, này Mahānāma, người con gia đình kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường cha mẹ bằng tài sản kiếm được nhờ nỗ lực, sức mạnh cánh tay, đổ mồ hôi, hợp pháp và đúng pháp.
Tamenaṃ mātāpitaro sakkatā garukatā mānitā pūjitā kalyāṇena manasā anukampanti – ‘ciraṃ jīva, dīghamāyuṃ pālehī’ti.
His parents, honored, respected, esteemed, and revered by him, feel compassion for him with a kindly mind: ‘May you live long, may you preserve a long life!’
Cha mẹ, được kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường bởi người ấy, sẽ thương xót người ấy với tâm thiện lành: ‘Mong con sống lâu, mong con giữ được tuổi thọ dài lâu.’
Mātāpitānukampitassa, mahānāma, kulaputtassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
For a noble son, Mahānāma, who is compassionated by his parents, prosperity is to be expected, not decline.
Này Mahānāma, đối với người con gia đình được cha mẹ thương xót, sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Puna caparaṃ, mahānāma, kulaputto uṭṭhānavīriyādhigatehi bhogehi bāhābalaparicitehi sedāvakkhittehi dhammikehi dhammaladdhehi puttadāradāsakammakaraporise* sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti.
“Furthermore, Mahānāma, a noble son, with wealth acquired through energetic striving, earned by the strength of his arms, moistened by the sweat of his brow, justly obtained, and lawfully gained, honors, respects, esteems, and reveres his children, wife, slaves, workers, and servants.
“Hơn nữa, này Mahānāma, người con gia đình kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường vợ con, nô lệ, người làm công, và người giúp việc bằng tài sản kiếm được nhờ nỗ lực, sức mạnh cánh tay, đổ mồ hôi, hợp pháp và đúng pháp.
Tamenaṃ puttadāradāsakammakaraporisā sakkatā garukatā mānitā pūjitā kalyāṇena manasā anukampanti – ‘ciraṃ jīva, dīghamāyuṃ pālehī’ti.
His children, wife, slaves, workers, and servants, honored, respected, esteemed, and revered by him, feel compassion for him with a kindly mind: ‘May you live long, may you preserve a long life!’
Vợ con, nô lệ, người làm công, và người giúp việc, được kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường bởi người ấy, sẽ thương xót người ấy với tâm thiện lành: ‘Mong con sống lâu, mong con giữ được tuổi thọ dài lâu.’
Puttadāradāsakammakaraporisānukampitassa, mahānāma, kulaputtassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
For a noble son, Mahānāma, who is compassionated by his children, wife, slaves, workers, and servants, prosperity is to be expected, not decline.
Này Mahānāma, đối với người con gia đình được vợ con, nô lệ, người làm công, và người giúp việc thương xót, sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Puna caparaṃ, mahānāma, kulaputto uṭṭhānavīriyādhigatehi bhogehi bāhābalaparicitehi sedāvakkhittehi dhammikehi dhammaladdhehi khettakammantasāmantasabyohāre sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti.
“Furthermore, Mahānāma, a noble son, with wealth acquired through energetic striving, earned by the strength of his arms, moistened by the sweat of his brow, justly obtained, and lawfully gained, honors, respects, esteems, and reveres his farmers, workers, and neighbors who deal with him.
“Hơn nữa, này Mahānāma, người con gia đình kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường những người làm việc đồng áng, những người hàng xóm, và những người đo đất bằng tài sản kiếm được nhờ nỗ lực, sức mạnh cánh tay, đổ mồ hôi, hợp pháp và đúng pháp.
Tamenaṃ khettakammantasāmantasabyohārā sakkatā garukatā mānitā pūjitā kalyāṇena manasā anukampanti – ‘ciraṃ jīva, dīghamāyuṃ pālehī’ti.
His farmers, workers, and neighbors who deal with him, honored, respected, esteemed, and revered by him, feel compassion for him with a kindly mind: ‘May you live long, may you preserve a long life!’
Những người làm việc đồng áng, những người hàng xóm, và những người đo đất, được kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường bởi người ấy, sẽ thương xót người ấy với tâm thiện lành: ‘Mong con sống lâu, mong con giữ được tuổi thọ dài lâu.’
Khettakammantasāmantasabyohārānukampitassa, mahānāma, kulaputtassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
For a noble son, Mahānāma, who is compassionated by his farmers, workers, and neighbors who deal with him, prosperity is to be expected, not decline.
Này Mahānāma, đối với người con gia đình được những người làm việc đồng áng, những người hàng xóm, và những người đo đất thương xót, sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Puna caparaṃ, mahānāma, kulaputto uṭṭhānavīriyādhigatehi bhogehi bāhābalaparicitehi sedāvakkhittehi dhammikehi dhammaladdhehi yāvatā balipaṭiggāhikā devatā sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti.
“Furthermore, Mahānāma, a noble son, with wealth acquired through energetic effort, earned by the strength of his arms, moistened by the sweat of his brow, obtained righteously and lawfully, honors, respects, esteems, and reveres the deities who receive offerings.
“Hơn nữa, này Mahānāma, người con gia đình kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường các vị thiên thần nhận lễ vật bằng tài sản kiếm được nhờ nỗ lực, sức mạnh cánh tay, đổ mồ hôi, hợp pháp và đúng pháp.
Tamenaṃ balipaṭiggāhikā devatā sakkatā garukatā mānitā pūjitā kalyāṇena manasā anukampanti – ‘ciraṃ jīva, dīghamāyuṃ pālehī’ti.
Those deities, being honored, respected, esteemed, and revered by him, out of a benevolent mind, show compassion towards him, saying: ‘May you live long, may you preserve a long life!’
Các vị thiên thần nhận lễ vật, được kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường bởi người ấy, sẽ thương xót người ấy với tâm thiện lành: ‘Mong con sống lâu, mong con giữ được tuổi thọ dài lâu.’
Devatānukampitassa, mahānāma, kulaputtassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
For a noble son who is compassionately regarded by deities, Mahānāma, growth alone is to be expected, not decline.
Này Mahānāma, đối với người con gia đình được các vị thiên thần thương xót, sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Puna caparaṃ, mahānāma, kulaputto uṭṭhānavīriyādhigatehi bhogehi bāhābalaparicitehi sedāvakkhittehi dhammikehi dhammaladdhehi samaṇabrāhmaṇe sakkaroti garuṃ karoti māneti pūjeti.
“Furthermore, Mahānāma, a noble son, with wealth acquired through energetic effort, earned by the strength of his arms, moistened by the sweat of his brow, obtained righteously and lawfully, honors, respects, esteems, and reveres ascetics and brahmins.
“Hơn nữa, này Mahānāma, người con gia đình kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn bằng tài sản kiếm được nhờ nỗ lực, sức mạnh cánh tay, đổ mồ hôi, hợp pháp và đúng pháp.
Tamenaṃ samaṇabrāhmaṇā sakkatā garukatā mānitā pūjitā kalyāṇena manasā anukampanti – ‘ciraṃ jīva, dīghamāyuṃ pālehī’ti.
Those ascetics and brahmins, being honored, respected, esteemed, and revered by him, out of a benevolent mind, show compassion towards him, saying: ‘May you live long, may you preserve a long life!’
Các Sa-môn và Bà-la-môn, được kính trọng, tôn kính, quý trọng, và cúng dường bởi người ấy, sẽ thương xót người ấy với tâm thiện lành: ‘Mong con sống lâu, mong con giữ được tuổi thọ dài lâu.’
Samaṇabrāhmaṇānukampitassa, mahānāma, kulaputtassa vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihāni.
For a noble son who is compassionately regarded by ascetics and brahmins, Mahānāma, growth alone is to be expected, not decline.
Này Mahānāma, đối với người con gia đình được các Sa-môn và Bà-la-môn thương xót, sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.
‘‘Yassa kassaci, mahānāma, kulaputtassa ime pañca dhammā saṃvijjanti – yadi vā rañño khattiyassa muddhāvasittassa, yadi vā raṭṭhikassa pettanikassa, yadi vā senāya senāpatikassa, yadi vā gāmagāmaṇikassa, yadi vā pūgagāmaṇikassa, ye vā pana kulesu paccekādhipaccaṃ kārenti, vuddhiyeva pāṭikaṅkhā, no parihānī’’ti.
“In whosoever noble son, Mahānāma, these five qualities are found—be he a khattiya king consecrated by anointment, or a district chief by inheritance, or a general of an army, or a village headman, or a guild headman, or those who exercise individual authority in clans—growth alone is to be expected, not decline.”
“Này Mahānāma, bất cứ người con gia đình nào có năm pháp này—dù là vua Sát-đế-lợi đã được quán đảnh, dù là người cai trị đất nước theo cha truyền con nối, dù là tướng quân của quân đội, dù là trưởng làng, dù là trưởng đoàn thể, hoặc những ai đang nắm quyền cai trị riêng trong các gia đình—thì sự tăng trưởng là điều được mong đợi, không phải sự suy tàn.”
59. ‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato dullabho vuḍḍhapabbajito.
59. “Monks, a bhikkhu ordained in old age, endowed with five qualities, is hard to find.
59. “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu xuất gia lớn tuổi khó tìm thấy với năm pháp.
Katamehi pañcahi?
Which five?
Năm pháp nào?
Dullabho, bhikkhave, vuḍḍhapabbajito nipuṇo, dullabho ākappasampanno, dullabho bahussuto, dullabho dhammakathiko, dullabho vinayadharo.
Hard to find, monks, is a bhikkhu ordained in old age who is subtle, hard to find is one perfect in deportment, hard to find is one who is learned, hard to find is one who is a Dhamma speaker, hard to find is one who is a Vinaya holder.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu xuất gia lớn tuổi tinh tế khó tìm thấy, một Tỳ-khưu có phong thái trang nghiêm khó tìm thấy, một Tỳ-khưu đa văn khó tìm thấy, một Tỳ-khưu thuyết pháp khó tìm thấy, một Tỳ-khưu trì giữ Luật khó tìm thấy.
Imehi kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato dullabho vuḍḍhapabbajito’’ti.
Endowed with these five qualities, monks, a bhikkhu ordained in old age is hard to find.”
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu xuất gia lớn tuổi có năm pháp này thì khó tìm thấy.”
Navamaṃ.
The Ninth.
Thứ chín.
60. ‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato dullabho vuḍḍhapabbajito.
60. “Monks, a bhikkhu ordained in old age, endowed with five qualities, is hard to find.
60. “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu xuất gia lớn tuổi khó tìm thấy với năm pháp.
Katamehi pañcahi?
Which five?
Năm pháp nào?
Dullabho, bhikkhave, vuḍḍhapabbajito suvaco, dullabho suggahitaggāhī, dullabho padakkhiṇaggāhī, dullabho dhammakathiko, dullabho vinayadharo.
Hard to find, monks, is a bhikkhu ordained in old age who is amenable to instruction, hard to find is one who grasps well what is taught, hard to find is one who accepts respectfully, hard to find is one who is a Dhamma speaker, hard to find is one who is a Vinaya holder.
Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo lớn tuổi dễ dạy thì khó tìm, một người nắm giữ (Pháp) tốt đẹp thì khó tìm, một người tiếp nhận (Pháp) một cách tôn kính thì khó tìm, một Pháp sư thì khó tìm, một người giữ Giới luật (Vinayadhara) thì khó tìm.
Imehi kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato dullabho vuḍḍhapabbajito’’ti.
Endowed with these five qualities, monks, a bhikkhu ordained in old age is hard to find.”
Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo lớn tuổi đầy đủ năm pháp này thì khó tìm.”
Dasamaṃ.
The Tenth.
Thứ mười.
61. ‘‘Pañcimā, bhikkhave, saññā bhāvitā bahulīkatā mahapphalā honti mahānisaṃsā amatogadhā amatapariyosānā.
61. “Monks, these five perceptions, developed and frequently practiced, are of great fruit, of great benefit, culminating in the Deathless, ending in the Deathless.
61. “Này các Tỳ-kheo, có năm tưởng này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ mang lại quả lớn, lợi ích lớn, đi đến chỗ bất tử (amata), kết thúc ở chỗ bất tử.
Katamā pañca?
Which five?
Năm tưởng nào?
Asubhasaññā, maraṇasaññā, ādīnavasaññā, āhāre paṭikūlasaññā, sabbaloke anabhiratasaññā* – imā kho, bhikkhave, pañca saññā bhāvitā bahulīkatā mahapphalā honti mahānisaṃsā amatogadhā amatapariyosānā’’ti.
The perception of impurity, the perception of death, the perception of danger, the perception of repulsiveness in food, the perception of non-delight in the entire world—these five perceptions, monks, developed and frequently practiced, are of great fruit, of great benefit, culminating in the Deathless, ending in the Deathless.”
Tưởng bất tịnh (asubhasaññā), tưởng về cái chết (maraṇasaññā), tưởng về sự nguy hiểm (ādīnavasaññā), tưởng ghê tởm đối với thức ăn (āhāre paṭikūlasaññā), tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế gian (sabbaloke anabhiratasaññā) – Này các Tỳ-kheo, năm tưởng này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ mang lại quả lớn, lợi ích lớn, đi đến chỗ bất tử, kết thúc ở chỗ bất tử.”
Paṭhamaṃ.
The First.
Thứ nhất.
62. ‘‘Pañcimā, bhikkhave, saññā bhāvitā bahulīkatā mahapphalā honti mahānisaṃsā amatogadhā amatapariyosānā.
62. “Monks, these five perceptions, developed and frequently practiced, are of great fruit, of great benefit, culminating in the Deathless, ending in the Deathless.
62. “Này các Tỳ-kheo, có năm tưởng này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ mang lại quả lớn, lợi ích lớn, đi đến chỗ bất tử, kết thúc ở chỗ bất tử.
Katamā pañca?
Which five?
Năm tưởng nào?
Aniccasaññā, anattasaññā, maraṇasaññā, āhāre paṭikūlasaññā, sabbaloke anabhiratasaññā – imā kho, bhikkhave, pañca saññā bhāvitā bahulīkatā mahapphalā honti mahānisaṃsā amatogadhā amatapariyosānā’’ti.
The perception of impermanence, the perception of non-self, the perception of death, the perception of repulsion in food, the perception of disenchantment with the entire world – these five perceptions, bhikkhus, when developed and frequently practiced, are of great fruit, of great benefit, have Nibbāna as their support, and Nibbāna as their culmination.”
Tưởng vô thường (aniccasaññā), tưởng vô ngã (anattasaññā), tưởng về cái chết (maraṇasaññā), tưởng ghê tởm đối với thức ăn (āhāre paṭikūlasaññā), tưởng không hoan hỷ đối với tất cả thế gian (sabbaloke anabhiratasaññā) – Này các Tỳ-kheo, năm tưởng này, khi được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ mang lại quả lớn, lợi ích lớn, đi đến chỗ bất tử, kết thúc ở chỗ bất tử.”
Dutiyaṃ.
The Second.
Thứ hai.
63. ‘‘Pañcahi, bhikkhave, vaḍḍhīhi vaḍḍhamāno ariyasāvako ariyāya vaḍḍhiyā vaḍḍhati, sārādāyī ca hoti varādāyī ca kāyassa.
63. “Bhikkhus, an ariyan disciple who grows in five kinds of growth, grows with the ariyan growth, and is one who takes the essence and takes the best of the body.
63. “Này các Tỳ-kheo, khi một đệ tử thánh tăng trưởng với năm sự tăng trưởng, vị ấy tăng trưởng với sự tăng trưởng của bậc thánh, và là người thâu nhận tinh hoa, thâu nhận điều tối thượng của thân này.
Katamāhi pañcahi?
In which five?
Năm sự tăng trưởng nào?
Saddhāya vaḍḍhati, sīlena vaḍḍhati, sutena vaḍḍhati, cāgena vaḍḍhati, paññāya vaḍḍhati – imāhi kho, bhikkhave, pañcahi vaḍḍhīhi vaḍḍhamāno ariyasāvako ariyāya vaḍḍhiyā vaḍḍhati, sārādāyī ca hoti varādāyī ca kāyassā’’ti.
He grows in faith, he grows in sīla, he grows in learning, he grows in generosity, he grows in wisdom – in these five kinds of growth, bhikkhus, an ariyan disciple who grows, grows with the ariyan growth, and is one who takes the essence and takes the best of the body.”
Tăng trưởng về đức tin (saddhā), tăng trưởng về giới (sīla), tăng trưởng về sự học hỏi (suta), tăng trưởng về sự bố thí (cāga), tăng trưởng về trí tuệ (paññā) – Này các Tỳ-kheo, khi một đệ tử thánh tăng trưởng với năm sự tăng trưởng này, vị ấy tăng trưởng với sự tăng trưởng của bậc thánh, và là người thâu nhận tinh hoa, thâu nhận điều tối thượng của thân này.”
64. ‘‘Pañcahi, bhikkhave, vaḍḍhīhi vaḍḍhamānā ariyasāvikā ariyāya vaḍḍhiyā vaḍḍhati, sārādāyinī ca hoti varādāyinī ca kāyassa.
64. “Bhikkhus, an ariyan female disciple who grows in five kinds of growth, grows with the ariyan growth, and is one who takes the essence and takes the best of the body.
64. “Này các Tỳ-kheo, khi một nữ đệ tử thánh tăng trưởng với năm sự tăng trưởng, vị ấy tăng trưởng với sự tăng trưởng của bậc thánh, và là người thâu nhận tinh hoa, thâu nhận điều tối thượng của thân này.
Katamāhi pañcahi?
In which five?
Năm sự tăng trưởng nào?
Saddhāya vaḍḍhati, sīlena vaḍḍhati, sutena vaḍḍhati, cāgena vaḍḍhati, paññāya vaḍḍhati – imāhi kho, bhikkhave, pañcahi vaḍḍhīhi vaḍḍhamānā ariyasāvikā ariyāya vaḍḍhiyā vaḍḍhati, sārādāyinī ca hoti varādāyinī ca kāyassā’’ti.
She grows in faith, she grows in sīla, she grows in learning, she grows in generosity, she grows in wisdom – in these five kinds of growth, bhikkhus, an ariyan female disciple who grows, grows with the ariyan growth, and is one who takes the essence and takes the best of the body.”
Tăng trưởng về đức tin (saddhā), tăng trưởng về giới (sīla), tăng trưởng về sự học hỏi (suta), tăng trưởng về sự bố thí (cāga), tăng trưởng về trí tuệ (paññā) – Này các Tỳ-kheo, khi một nữ đệ tử thánh tăng trưởng với năm sự tăng trưởng này, vị ấy tăng trưởng với sự tăng trưởng của bậc thánh, và là người thâu nhận tinh hoa, thâu nhận điều tối thượng của thân này.”
65.* ‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃsākaccho sabrahmacārīnaṃ.
65. “Bhikkhus, a bhikkhu endowed with five qualities is fit for discussion with his fellow practitioners.
65. “Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo đầy đủ năm pháp thì thích hợp để đàm luận với các vị đồng Phạm hạnh.
Katamehi pañcahi?
Which five?
Năm pháp nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu attanā ca sīlasampanno hoti, sīlasampadāya kathāya ca āgataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca samādhisampanno hoti, samādhisampadāya kathāya ca āgataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca paññāsampanno hoti, paññāsampadāya kathāya ca āgataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca vimuttisampanno hoti, vimuttisampadāya kathāya ca āgataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca vimuttiñāṇadassanasampanno hoti, vimuttiñāṇadassanasampadāya kathāya ca āgataṃ pañhaṃ byākattā hoti.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is himself endowed with sīla, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of sīla; he is himself endowed with samādhi, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of samādhi; he is himself endowed with wisdom, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of wisdom; he is himself endowed with liberation, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of liberation; he is himself endowed with the knowledge and vision of liberation, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of the knowledge and vision of liberation.
Ở đây, này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo tự mình đầy đủ giới hạnh, và có khả năng giải đáp câu hỏi liên quan đến sự đầy đủ giới hạnh; tự mình đầy đủ định (samādhi), và có khả năng giải đáp câu hỏi liên quan đến sự đầy đủ định; tự mình đầy đủ trí tuệ (paññā), và có khả năng giải đáp câu hỏi liên quan đến sự đầy đủ trí tuệ; tự mình đầy đủ giải thoát (vimutti), và có khả năng giải đáp câu hỏi liên quan đến sự đầy đủ giải thoát; tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến (vimuttiñāṇadassana), và có khả năng giải đáp câu hỏi liên quan đến sự đầy đủ giải thoát tri kiến.
Imehi kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃsākaccho sabrahmacārīna’’nti.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these five qualities is fit for discussion with his fellow practitioners.”
Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo đầy đủ năm pháp này thì thích hợp để đàm luận với các vị đồng Phạm hạnh.”
Pañcamaṃ.
The Fifth.
Thứ năm.
66.* ‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃsājīvo sabrahmacārīnaṃ.
66. “Bhikkhus, a bhikkhu endowed with five qualities is fit to live with his fellow practitioners.
66. “Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo đầy đủ năm pháp thì thích hợp để sống chung với các vị đồng Phạm hạnh.
Katamehi pañcahi?
Which five?
Năm pháp nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu attanā ca sīlasampanno hoti, sīlasampadāya kathāya ca kataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca samādhisampanno hoti, samādhisampadāya kathāya ca kataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca paññāsampanno hoti, paññāsampadāya kathāya ca kataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca vimuttisampanno hoti, vimuttisampadāya kathāya ca kataṃ pañhaṃ byākattā hoti; attanā ca vimuttiñāṇadassanasampanno hoti, vimuttiñāṇadassanasampadāya kathāya ca kataṃ pañhaṃ byākattā hoti.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is himself endowed with sīla, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of sīla; he is himself endowed with samādhi, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of samādhi; he is himself endowed with wisdom, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of wisdom; he is himself endowed with liberation, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of liberation; he is himself endowed with the knowledge and vision of liberation, and is able to answer a question that has arisen concerning the endowment of the knowledge and vision of liberation.
Ở đây, này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo tự mình đầy đủ giới hạnh, và có khả năng giải đáp câu hỏi được nêu ra liên quan đến sự đầy đủ giới hạnh; tự mình đầy đủ định (samādhi), và có khả năng giải đáp câu hỏi được nêu ra liên quan đến sự đầy đủ định; tự mình đầy đủ trí tuệ (paññā), và có khả năng giải đáp câu hỏi được nêu ra liên quan đến sự đầy đủ trí tuệ; tự mình đầy đủ giải thoát (vimutti), và có khả năng giải đáp câu hỏi được nêu ra liên quan đến sự đầy đủ giải thoát; tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến (vimuttiñāṇadassana), và có khả năng giải đáp câu hỏi được nêu ra liên quan đến sự đầy đủ giải thoát tri kiến.
Imehi kho, bhikkhave, pañcahi dhammehi samannāgato bhikkhu alaṃsājīvo sabrahmacārīna’’nti.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these five qualities is fit to live with his fellow practitioners.”
Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo đầy đủ năm pháp này thì thích hợp để sống chung với các vị đồng Phạm hạnh.”
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
67. ‘‘Yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu vā bhikkhunī vā pañca dhamme* bhāveti, pañca dhamme* bahulīkaroti, tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā.
67. ‘‘Monks, any bhikkhu or bhikkhunī who develops these five qualities, who practices these five qualities repeatedly, can expect one of two results: either final knowledge in this very life, or, if there is still a remnant of clinging, non-returning.
67. “Này các Tỳ-kheo, bất cứ Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào tu tập năm pháp, làm cho năm pháp này sung mãn, thì có thể mong đợi một trong hai quả sau: hoặc là tri kiến (aññā) ngay trong đời này, hoặc là quả Bất hoàn (anāgāmitā) nếu còn dư y (upādisesa).
‘‘Katame pañca?
‘‘Which five?
“Năm pháp nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti, vīriyasamādhi…pe… cittasamādhi… vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti, ussoḷhiññeva pañcamiṃ* .
Here, monks, a bhikkhu develops the basis for spiritual power endowed with concentration due to desire and formations of exertion; concentration due to energy… concentration due to mind… concentration due to investigation and formations of exertion; and, as the fifth, extreme exertion itself.
Ở đây, này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo tu tập thần túc (iddhipāda) đầy đủ dục định tinh cần hành (chandasamādhipadhānasaṅkhāra); tu tập thần túc đầy đủ tinh tấn định… (vīriyasamādhi)… tâm định… (cittasamādhi)… tu tập thần túc đầy đủ tư duy định tinh cần hành (vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ), và thứ năm là sự nỗ lực (ussoḷhi) mà thôi.
Yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu vā bhikkhunī vā ime pañca dhamme bhāveti, ime pañca dhamme bahulīkaroti, tassa dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā’’ti.
Monks, any bhikkhu or bhikkhunī who develops these five qualities, who practices these five qualities repeatedly, can expect one of two results: either final knowledge in this very life, or, if there is still a remnant of clinging, non-returning.’’
Này các Tỳ-kheo, bất cứ Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni nào tu tập năm pháp này, làm cho năm pháp này sung mãn, thì có thể mong đợi một trong hai quả sau: hoặc là tri kiến ngay trong đời này, hoặc là quả Bất hoàn nếu còn dư y.”
Sattamaṃ.
The Seventh.
Thứ bảy.
68. ‘‘Pubbevāhaṃ, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno pañca dhamme bhāvesiṃ, pañca dhamme bahulīkāsiṃ* .
68. ‘‘Monks, before my full enlightenment, while I was still an unawakened Bodhisatta, I developed five qualities, I practiced five qualities repeatedly.
68. “Này các Tỳ-kheo, trước khi giác ngộ, khi còn là Bồ-tát chưa chứng quả Chánh Đẳng Giác, Ta đã tu tập năm pháp, đã làm cho năm pháp này sung mãn.
Katame pañca?
Which five?
Năm pháp nào?
Chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāvesiṃ, vīriyasamādhi… cittasamādhi… vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāvesiṃ, ussoḷhiññeva pañcamiṃ.
I developed the basis for spiritual power endowed with concentration due to desire and formations of exertion; concentration due to energy… concentration due to mind… concentration due to investigation and formations of exertion; and, as the fifth, extreme exertion itself.
Ta đã tu tập thần túc đầy đủ dục định tinh cần hành (chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ); tinh tấn định… tâm định… tư duy định tinh cần hành (vīmaṃsāsamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ), và thứ năm là sự nỗ lực (ussoḷhi) mà thôi.
So kho ahaṃ, bhikkhave, imesaṃ ussoḷhipañcamānaṃ dhammānaṃ bhāvitattā bahulīkatattā yassa yassa abhiññāsacchikaraṇīyassa dhammassa cittaṃ abhininnāmesiṃ abhiññāsacchikiriyāya, tatra tatreva sakkhibhabbataṃ pāpuṇiṃ sati sati āyatane.
Monks, because these five qualities, with extreme exertion as the fifth, were developed and practiced repeatedly by me, to whatever state realizable by direct knowledge I directed my mind for direct knowledge, there and then I attained competence as a witness, in each respective sphere.
Này chư Tỳ-khưu, Ta đây, do đã tu tập và làm cho sung mãn năm pháp có sự tinh tấn mãnh liệt là thứ năm này, Ta đã hướng tâm đến bất cứ pháp nào cần được chứng ngộ bằng thắng trí, để chứng ngộ bằng thắng trí, thì Ta đã đạt được khả năng làm chứng cho pháp ấy, trong bất cứ lĩnh vực nào.
‘‘So sace ākaṅkhiṃ…pe… ‘āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyya’nti, tatra tatreva sakkhibhabbataṃ pāpuṇiṃ sati sati āyatane’’ti.
‘‘If I wished… ‘May I, by the destruction of the asavas, enter and dwell in the Stainless Liberation of Mind, Liberation by Wisdom, having realized it for myself with direct knowledge in this very life,’ there and then I attained competence as a witness, in each respective sphere.’’
Nếu Ta mong muốn… ‘sau khi diệt trừ các lậu hoặc, Ta sẽ tự mình chứng ngộ, an trú trong giải thoát tâm, giải thoát tuệ vô lậu ngay trong hiện tại’, thì Ta đã đạt được khả năng làm chứng cho điều đó, trong bất cứ lĩnh vực nào.”
Aṭṭhamaṃ.
The Eighth.
Thứ Tám.
69. ‘‘Pañcime, bhikkhave, dhammā bhāvitā bahulīkatā ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattanti.
69. ‘‘Monks, these five qualities, when developed and practiced repeatedly, lead to complete disillusionment, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to full enlightenment, to Nibbāna.
“Này chư Tỳ-khưu, có năm pháp này, khi được tu tập và làm cho sung mãn, sẽ dẫn đến sự nhàm chán tuyệt đối, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
‘‘Katame pañca?
‘‘Which five?
Năm pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu asubhānupassī kāye viharati, āhāre paṭikūlasaññī, sabbaloke anabhiratasaññī* , sabbasaṅkhāresu aniccānupassī, maraṇasaññā kho panassa ajjhattaṃ sūpaṭṭhitā hoti.
Here, monks, a bhikkhu dwells contemplating impurity in the body, perceives repulsiveness in food, perceives non-delight in the entire world, contemplates impermanence in all formations, and the perception of death is well established within him.
Này chư Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu an trú quán bất tịnh trong thân, quán tưởng sự ghê tởm trong thức ăn, quán tưởng sự không hoan hỷ trong tất cả thế gian, quán vô thường trong tất cả các hành, và niệm chết được thiết lập vững chắc trong nội tâm của vị ấy.
Ime kho, bhikkhave, pañca dhammā bhāvitā bahulīkatā ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattantī’’ti.
Monks, these five qualities, when developed and practiced repeatedly, lead to complete disillusionment, to dispassion, to cessation, to peace, to direct knowledge, to full enlightenment, to Nibbāna.’’
Này chư Tỳ-khưu, năm pháp này, khi được tu tập và làm cho sung mãn, sẽ dẫn đến sự nhàm chán tuyệt đối, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.”
Navamaṃ.
The Ninth.
Thứ Chín.
70. ‘‘Pañcime, bhikkhave, dhammā bhāvitā bahulīkatā āsavānaṃ khayāya saṃvattanti.
70. ‘‘Monks, these five qualities, when developed and practiced repeatedly, lead to the destruction of the asavas.
“Này chư Tỳ-khưu, có năm pháp này, khi được tu tập và làm cho sung mãn, sẽ dẫn đến sự diệt trừ các lậu hoặc.
Katame pañca?
Which five?
Năm pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu asubhānupassī kāye viharati, āhāre paṭikūlasaññī, sabbaloke anabhiratasaññī, sabbasaṅkhāresu aniccānupassī, maraṇasaññā kho panassa ajjhattaṃ sūpaṭṭhitā hoti.
Here, monks, a bhikkhu dwells contemplating impurity in the body, perceives repulsiveness in food, perceives non-delight in the entire world, contemplates impermanence in all formations, and the perception of death is well established within him.
Này chư Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu an trú quán bất tịnh trong thân, quán tưởng sự ghê tởm trong thức ăn, quán tưởng sự không hoan hỷ trong tất cả thế gian, quán vô thường trong tất cả các hành, và niệm chết được thiết lập vững chắc trong nội tâm của vị ấy.
Ime kho, bhikkhave, pañca dhammā bhāvitā bahulīkatā āsavānaṃ khayāya saṃvattantī’’ti.
Monks, these five qualities, when developed and practiced repeatedly, lead to the destruction of the asavas.’’
Này chư Tỳ-khưu, năm pháp này, khi được tu tập và làm cho sung mãn, sẽ dẫn đến sự diệt trừ các lậu hoặc.”
Dasamaṃ.
The Tenth.
Thứ Mười.