Api nāma nanti haṃsarāja, sace me manoratho nipphajjeyya, tayā dinno varo sampajjeyya, api nāma ahaṃ imaṃ rukkhaṃ sapattaṃ saphalaṃ puna passeyyaṃ, tato daliddo nidhiṃ labhitvāva punappunaṃ etaṃ abhinandeyyaṃ, taṃ disvāva pamodeyyaṃ.
"O King of swans, if my wish were to be fulfilled, if the boon granted by you were to come to pass, then indeed might I see this tree again, green and fruitful. Then, like a poor man finding a treasure, I would rejoice in it again and again, and merely seeing it would fill me with delight."
Api nāma na nghĩa là, này Vua Thiên Nga, nếu ước nguyện của tôi thành hiện thực, nếu điều ước Ngài ban cho tôi được như ý, ước gì tôi được thấy lại cây này có lá và có quả. Khi đó, tôi sẽ hoan hỷ mãi không thôi như người nghèo tìm thấy kho báu, tôi sẽ vui mừng khi thấy nó.
Amatamādāyāti attano ānubhāvena ṭhito gaṅgodakaṃ gahetvā abhisiñcayīti attho.
‘Having taken the deathless’ means, having stood by his own power, he took the water of the Ganges and sprinkled it.
Amatamādāyā nghĩa là lấy nước sông Hằng bằng thần thông của mình và tưới lên, đó là ý nghĩa.
Imasmiṃ jātake imāya saddhiṃ dve abhisambuddhagāthā honti.
In this Jātaka, along with this one, there are two verses uttered by the Fully Awakened One.
Trong câu chuyện Jātaka này, có hai bài kệ được Đức Phật thuyết cùng với bài kệ này.
Sutaṃ metaṃ mahābrahmeti idaṃ satthā jetavane viharanto ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
‘‘This has been heard by me, O Great Brahmā’’ – this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a disaffected bhikkhu.
Sutaṃ metaṃ mahābrahme – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu đang chán nản.
Tañhi bhikkhuṃ ekaṃ alaṅkatamātugāmaṃ disvā ukkaṇṭhitaṃ dīghakesanakhalomaṃ vibbhamitukāmaṃ ācariyupajjhāyehi aruciyā ānītaṃ.
That bhikkhu, having seen an adorned woman, became disaffected, desiring to disrobe, having long hair, nails, and bodily hair, and was brought unwillingly by his teachers and preceptors.
Tỳ-khưu đó đã chán nản khi nhìn thấy một người phụ nữ trang điểm, muốn làm rối loạn với mái tóc, móng tay và lông dài, và đã được các vị thầy và vị Hòa thượng đưa đến vì sự không hài lòng.
Satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ bhikkhu ukkaṇṭhitosī’’ti pucchitvā ‘‘saccaṃ, bhante’’ti vutte ‘‘kiṃkāraṇā’’ti vatvā ‘‘alaṅkatamātugāmaṃ disvā kilesavasena, bhante’’ti vutte ‘‘bhikkhu kileso nāma guṇaviddhaṃsako appassādo niraye nibbattāpeti, esa pana kileso kiṃkāraṇā taṃ na kilamessati?
The Teacher asked, ‘‘Is it true, bhikkhu, that you are disaffected?’’ When he replied, ‘‘It is true, Venerable Sir,’’ the Teacher asked, ‘‘For what reason?’’ When the bhikkhu said, ‘‘Having seen an adorned woman, due to defilements, Venerable Sir,’’ the Teacher said, ‘‘Bhikkhu, defilement destroys good qualities, brings little satisfaction, and causes rebirth in hell. Why should this defilement not torment you?
Đức Bổn Sư hỏi: ‘‘Này Tỳ-khưu, có thật là ông đang chán nản không?’’ Khi được đáp: ‘‘Thật vậy, bạch Ngài,’’ Ngài hỏi: ‘‘Vì lý do gì?’’ Khi được đáp: ‘‘Vì thấy người phụ nữ trang điểm, do phiền não, bạch Ngài,’’ Ngài nói: ‘‘Này Tỳ-khưu, phiền não là kẻ phá hoại công đức, ít vị ngọt, khiến người ta sinh vào địa ngục. Nhưng tại sao phiền não này lại không làm khổ ông?’’
Na hi sineruṃ paharitvā paharaṇavāto purāṇapaṇṇassa lajjati, imañhi kilesaṃ nissāya bodhiñāṇassa anupadaṃ caramānā pañcaabhiññaaṭṭhasamāpattilābhino visuddhamahāpurisāpi satiṃ upaṭṭhapetuṃ asakkontā jhānaṃ antaradhāpesu’’nti vatvā atītaṃ āhari.
Indeed, a striking wind does not feel shame after striking Mount Sineru, nor does an old leaf. Even great pure men, who were following the path to Bodhi-knowledge, endowed with the five supernormal powers and eight attainments, unable to establish mindfulness due to this very defilement, caused their jhāna to disappear.’’ Having said this, he recounted a past event.
‘‘Thật vậy, cơn gió thổi không hổ thẹn khi đánh vào núi Sineru rồi đánh vào lá khô. Nương vào phiền não này, ngay cả những bậc đại nhân thanh tịnh, đã đạt được năm thắng trí và tám định, đang bước theo con đường giác ngộ, cũng không thể duy trì chánh niệm và đã làm cho thiền định biến mất.’’ Nói vậy rồi, Ngài kể chuyện quá khứ.
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ nigame asītikoṭivibhave brāhmaṇakule nibbatti, kañcanachavitāya panassa ‘‘haritacakumāro’’ti nāmaṃ kariṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family with eighty crores of wealth in a certain village. Because of his golden complexion, they named him ‘‘Haritaca Kumāra.’’
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn giàu có tám mươi triệu. Vì da ngài có màu vàng kim, họ đặt tên ngài là ‘‘Haritacakumāra’’.
So vayappatto takkasilaṃ gantvā uggahitasippo kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā mātāpitūnaṃ accayena dhanavilokanaṃ katvā ‘‘dhanameva paññāyati, dhanassa uppādakā na paññāyanti, mayāpi maraṇamukhe cuṇṇavicuṇṇena bhavitabba’’nti maraṇabhayabhīto mahādānaṃ datvā himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā sattame divase abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā tattha ciraṃ vanamūlaphalāhāro yāpetvā loṇambilasevanatthāya pabbatā otaritvā anupubbena bārāṇasiṃ patvā rājuyyāne vasitvā punadivase bārāṇasiyaṃ bhikkhāya caranto rājadvāraṃ sampāpuṇi.
When he came of age, he went to Takkasilā, mastered the crafts, established a household, and after the passing of his parents, he examined his wealth and thought, ‘‘Only wealth is seen, not those who produced it. I too must be utterly destroyed at the mouth of death.’’ Frightened by the fear of death, he gave great alms, entered the Himālaya, embraced the ascetic life, and on the seventh day, developed supernormal powers and attainments. Having spent a long time there subsisting on forest roots and fruits, he descended from the mountains to partake of salt and sour flavors. Gradually, he reached Bārāṇasī, stayed in the royal park, and on the following day, while seeking alms in Bārāṇasī, he arrived at the royal palace gate.
Khi đến tuổi trưởng thành, ngài đến Takkasilā học nghề, sau đó lập gia đình. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài xem xét tài sản và nghĩ: ‘‘Chỉ có tài sản hiện hữu, những người tạo ra tài sản thì không còn. Ta cũng sẽ phải tan rã khi đối mặt với cái chết.’’ Sợ hãi cái chết, ngài đã bố thí lớn, rồi vào dãy Hy Mã Lạp Sơn xuất gia làm ẩn sĩ. Vào ngày thứ bảy, ngài đạt được các thắng trí và các định. Sau khi sống ở đó một thời gian dài, ăn rễ cây và trái cây rừng, ngài rời núi để tìm muối và chất chua. Ngài dần dần đến Bārāṇasī, trú tại vườn thượng uyển của vua. Ngày hôm sau, khi đi khất thực ở Bārāṇasī, ngài đến cổng cung điện.
Rājā taṃ disvā pasannacitto pakkosāpetvā samussitasetacchatte rājapallaṅke nisīdāpetvā nānaggarasabhojanaṃ bhojetvā anumodanāvasāne atirekataraṃ pasīditvā ‘‘kahaṃ, bhante, gacchathā’’ti vatvā ‘‘vassāvāsaṭṭhānaṃ upadhārema, mahārājā’’ti vutte ‘‘sādhu, bhante’’ti bhuttapātarāso taṃ ādāya uyyānaṃ gantvā tattha rattiṭṭhānadivāṭṭhānādīni kārāpetvā uyyānapālaṃ paricārakaṃ katvā datvā vanditvā nikkhami.
The king, seeing him, was delighted. He had him called, seated him on the royal couch under a raised white parasol, fed him with various delicious foods, and at the end of the anumodanā, being exceedingly pleased, he asked, ‘‘Where do you go, Venerable Sir?’’ When the Bodhisatta replied, ‘‘We are looking for a place for the rainy season retreat, Great King,’’ the king said, ‘‘Very well, Venerable Sir,’’ and after his breakfast, he took the Bodhisatta to the park, had night quarters and day quarters built there, appointed the park keeper as his attendant, gave him over, paid homage, and departed.
Nhà vua thấy ngài, tâm hoan hỷ, sai người mời ngài vào, cho ngài ngồi trên ngai vàng dưới lọng trắng, và dâng các món ăn ngon. Sau khi ngài tùy hỷ, nhà vua càng thêm hoan hỷ, hỏi: ‘‘Bạch Ngài, Ngài đi đâu vậy?’’ Khi được đáp: ‘‘Đại vương, chúng tôi đang tìm nơi an cư mùa mưa,’’ nhà vua nói: ‘‘Tốt lắm, bạch Ngài.’’ Sau bữa sáng, nhà vua đưa ngài đến vườn thượng uyển, xây dựng chỗ trú đêm và chỗ trú ngày cho ngài, rồi giao ngài cho người giữ vườn làm người hầu, đảnh lễ rồi ra về.
Mahāsatto tato paṭṭhāya nibaddhaṃ rañño gehe bhuñjanto dvādasa vassāni tattha vasi.
From that time on, the Great Being stayed there for twelve years, regularly eating at the king’s house.
Từ đó trở đi, Đại Bồ Tát thường xuyên thọ thực tại cung vua và sống ở đó mười hai năm.
Athekadivasaṃ rājā paccantaṃ kupitaṃ vūpasametuṃ gacchanto ‘‘amhākaṃ puññakkhettaṃ mā pamajjī’’ti mahāsattaṃ deviyā niyyādetvā agamāsi.
Then one day, the king, going to quell a rebellion in the border region, entrusted the Great Being to the queen, saying, ‘‘Do not neglect our field of merit,’’ and departed.
Một ngày nọ, nhà vua đi dẹp loạn ở biên giới, dặn hoàng hậu: ‘‘Đừng xao nhãng ruộng phước của chúng ta,’’ rồi giao Đại Bồ Tát cho hoàng hậu chăm sóc và ra đi.
Tato paṭṭhāya sā mahāsattaṃ sahatthā parivisati.
From that time on, she personally served the Great Being.
Từ đó, hoàng hậu tự tay dâng thức ăn cho Đại Bồ Tát.
Athekadivasaṃ sā bhojanaṃ sampādetvā tasmiṃ cirāyamāne gandhodakena nhatvā saṇhaṃ maṭṭhasāṭakaṃ nivāsetvā sīhapañjaraṃ vivarāpetvā sarīre vātaṃ paharāpentī khuddakamañcake nipajji.
Then one day, having prepared a meal, and as he was delayed, she bathed in perfumed water, put on a fine, clean garment, had the lion-cage window opened, and lay down on a small couch, letting the breeze blow over her body.
Một ngày nọ, sau khi chuẩn bị thức ăn, vì ngài đến trễ, hoàng hậu tắm rửa bằng nước thơm, mặc chiếc áo lụa mỏng sạch sẽ, mở cửa sổ sư tử, để gió thổi vào người, rồi nằm xuống một chiếc giường nhỏ.
Mahāsattopi divātaraṃ sunivattho supāruto bhikkhābhājanaṃ ādāya ākāsenāgantvā sīhapañjaraṃ pāpuṇi.
The Great Being, well-dressed and well-robed, took his alms-bowl and came through the air, reaching the lion-cage window.
Đại Bồ Tát, sau khi chỉnh tề y phục, cầm bát khất thực, bay trên không trung và đến cửa sổ sư tử.
Deviyā tassa vākacirasaddaṃ sutvā vegena uṭṭhahantiyā maṭṭhasāṭako bhassi, mahāsattassa visabhāgārammaṇaṃ cakkhuṃ paṭihaññi.
The princess, hearing the sound of his bark-garment, rose quickly, and her fine garment slipped off. The Great Being's eye was struck by an unsuitable object.
Hoàng hậu nghe tiếng áo vỏ cây của ngài, vội vàng đứng dậy, chiếc áo lụa mỏng bị tuột, và mắt Đại Bồ Tát bị cảnh sắc không phù hợp đập vào.
Athassa anekavassakoṭisatasahassakāle abbhantare nivutthakileso karaṇḍake sayitaāsīviso viya uṭṭhahitvā jhānaṃ antaradhāpesi.
Then, the defilement that had been suppressed within him for hundreds of thousands of crores of years, like a serpent lying in a basket, arose and made his jhāna disappear.
Khi đó, phiền não đã ẩn chứa trong ngài hàng trăm ngàn vạn kiếp, trỗi dậy như một con rắn độc nằm trong giỏ, làm cho thiền định của ngài biến mất.
So satiṃ upaṭṭhāpetuṃ asakkonto gantvā deviṃ hatthe gaṇhi, tāvadeva sāṇiṃ parikkhipiṃsu.
Unable to establish mindfulness, he went and took the princess by the hand. At that very moment, they surrounded them with a screen.
Ngài không thể duy trì chánh niệm, liền đến nắm tay hoàng hậu. Ngay lập tức, họ che rèm lại.
So tāya saddhiṃ lokadhammaṃ sevitvā bhuñjitvā uyyānaṃ gantvā tato paṭṭhāya devasikaṃ tatheva akāsi.
He, having engaged in worldly ways with her, and having eaten, went to the park, and from then on, he did the same every day.
Ngài cùng hoàng hậu hưởng thụ dục lạc thế gian, rồi dùng bữa, sau đó đến vườn thượng uyển. Từ đó trở đi, ngài làm như vậy mỗi ngày.
Tassa tāya saddhiṃ lokadhammapaṭisevanaṃ sakalanagare pākaṭaṃ jātaṃ.
His engagement in worldly ways with her became known throughout the entire city.
Việc ngài cùng hoàng hậu hưởng thụ dục lạc thế gian đã lan truyền khắp thành phố.
Amaccā ‘‘haritacatāpaso evamakāsī’’ti rañño paṇṇaṃ pahiṇiṃsu.
The ministers sent a message to the king, saying, "The ascetic Harita has done this."
Các quan đại thần đã gửi thư cho nhà vua, báo rằng: ‘‘Ẩn sĩ Haritaca đã làm như vậy.’’
Rājā ‘‘maṃ bhinditukāmā evaṃ vadantī’’ti asaddahitvā paccantaṃ vūpasametvā bārāṇasiṃ paccāgantvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ katvā deviyā santikaṃ gantvā ‘‘saccaṃ, kira mama ayyo haritacatāpaso tayā saddhiṃ lokadhammaṃ paṭisevatī’’ti pucchi.
The king, disbelieving, thinking, "They are saying this because they want to break me," pacified the border regions and returned to Bārāṇasī. Having circumambulated the city, he went to the princess and asked, "Is it true, my lady, that the ascetic Harita engages in worldly ways with you?"
Vua không tin, nghĩ rằng “họ nói vậy là muốn chia rẽ ta”, rồi dẹp yên biên giới, trở về Bārāṇasī, đi nhiễu quanh thành, đến chỗ hoàng hậu hỏi: “Thật ư, tôn giả Haritacāpaso của ta đã cùng nàng hưởng thụ dục lạc?”
‘‘Saccaṃ, devā’’ti.
"It is true, my lord."
“Thưa Đại vương, đúng vậy.”
So tassāpi asaddahitvā ‘‘tameva paṭipucchissāmī’’ti uyyānaṃ gantvā vanditvā ekamantaṃ nisīditvā taṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Disbelieving her also, he thought, "I will question him directly." He went to the park, paid homage, sat down to one side, and questioning him, first spoke this verse:
Vua không tin cả lời hoàng hậu, nghĩ rằng “ta sẽ hỏi chính vị ấy”, bèn đi đến khu vườn, đảnh lễ, ngồi sang một bên, và hỏi vị ấy bằng cách nói câu kệ đầu tiên:
So cintesi – ‘‘ayaṃ rājā ‘nāhaṃ paribhuñjāmī’ti vuttepi mama saddahissateva, imasmiṃ loke saccasadisī patiṭṭhā nāma natthi.
He thought, "Even if I say to this king, 'I do not enjoy them,' he will still believe me. There is no foundation in this world like truth.
Vị ấy suy nghĩ: “Vị vua này, dù ta có nói ‘ta không hưởng thụ’, vẫn sẽ tin ta. Trên đời này, không có chỗ dựa nào giống như sự thật.
Ujjhitasaccā hi bodhimūle nisīditvā bodhiṃ pāpuṇituṃ na sakkonti, mayā saccameva kathetuṃ vaṭṭatī’’ti.
Indeed, those who abandon truth cannot attain awakening by sitting at the foot of the Bodhi tree. I must speak the truth."
Những ai từ bỏ sự thật thì không thể ngồi dưới cội Bồ-đề và đạt được giác ngộ. Ta phải nói sự thật.”
Bodhisattassa hi ekaccesu ṭhānesu pāṇātipātopi adinnādānampi kāmesumicchācāropi surāmerayamajjapānampi hotiyeva, atthabhedakavisaṃvādanaṃ purakkhatvā musāvādo nāma na hoti, tasmā so saccameva kathento dutiyaṃ gāthamāha –
For a Bodhisatta, in some instances, there may be the taking of life, the taking of what is not given, sexual misconduct, and the drinking of intoxicants. However, there is no intentional falsehood that leads to the destruction of meaning. Therefore, speaking the truth, he uttered the second verse:
Thật vậy, đối với Bồ-tát, trong một số trường hợp có thể có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, uống rượu, nhưng không bao giờ có nói dối nhằm mục đích phá hoại lợi ích. Do đó, vị ấy nói sự thật, đọc câu kệ thứ hai:
Tattha andhakāraketi paññācakkhuvināsanato andhabhāvakare.
Here, 'cause darkness' means they cause blindness by destroying the eye of wisdom.
Ở đây, andhakārake (làm tối tăm) có nghĩa là: làm cho mù lòa con mắt trí tuệ.
Bahudukkheti ettha ‘‘appassādā kāmā’’tiādīni (ma. ni. 1.234; pāci. 417; cūḷava. 65) suttāni haritvā tesaṃ bahudukkhatā dassetabbā.
'Full of much suffering': Here, by citing suttas such as "sensual pleasures have little gratification," their nature of much suffering should be shown.
Bahudukkhe (nhiều khổ đau): ở đây cần trích dẫn các kinh như “Các dục ít vị ngọt” (Ma. Ni. 1.234; Pāci. 417; Cūḷava. 65) để chỉ ra sự nhiều khổ đau của chúng.
Mahāviseti sampayuttakilesavisassa ceva vipākavisassa ca mahantatāya mahāvise.
'Great poison' means they are a great poison due to the magnitude of the defilement-poison associated with them and the poison of their results.
Mahāvise (đầy độc hại): do phiền não đi kèm và quả báo của chúng đều rất lớn, nên chúng đầy độc hại.
Tesaṃ mūlanti te vuttappakāre kāme pahātuṃ tesaṃ mūlaṃ gavesissaṃ pariyesissāmi.
'Their root': To abandon those sensual pleasures of the described kind, I shall seek their root, I shall search for it.
Tesaṃ mūlaṃ (cội rễ của chúng): ta sẽ tìm kiếm cội rễ của các dục đã được nói đến để đoạn trừ chúng.
Kiṃ pana tesaṃ mūlanti?
What then is their root?
Vậy cội rễ của chúng là gì?
Ayonisomanasikāro.
Unwise attention (ayoniso manasikāra).
Là tác ý không như lý (ayoniso manasikāra).
Checchaṃ rāgaṃ sabandhananti mahārāja, idāneva paññākhaggena paharitvā subhanimittabandhanena sabandhanaṃ rāgaṃ chindissāmīti.
'Cut off craving with its fetters': Great King, I shall now, by striking with the sword of wisdom, cut off craving with its fetters, which is bound by the sign of beauty.
Checchaṃ rāgaṃ sabandhana (sẽ chặt đứt dục vọng cùng với mọi ràng buộc): Thưa Đại vương, ngay bây giờ ta sẽ dùng kiếm trí tuệ để chặt đứt dục vọng cùng với mọi ràng buộc của tướng tốt đẹp.
Idañca pana vatvā ‘‘mahārāja, okāsaṃ tāva me karohī’’ti okāsaṃ kāretvā paṇṇasālaṃ pavisitvā kasiṇamaṇḍalaṃ oloketvā puna naṭṭhajjhānaṃ uppādetvā paṇṇasālato nikkhamitvā ākāse pallaṅkena nisīditvā rañño dhammaṃ desetvā ‘‘mahārāja, ahaṃ aṭṭhāne vutthakāraṇā mahājanamajjhe garahappatto, appamatto hohi, puna dāni ahaṃ anitthigandhavanasaṇḍameva gamissāmī’’ti rañño rodantassa paridevantassa himavantameva gantvā aparihīnajjhāno brahmalokūpago ahosi.
Having said this, and having said, "Great King, grant me leave for a while," he obtained leave, entered his leaf-hut, looked at the kasiṇa-mandala, re-established his lost jhāna, emerged from the leaf-hut, sat cross-legged in the air, taught the Dhamma to the king, and said, "Great King, because I dwelt in an unsuitable place, I have incurred blame in the midst of the great multitude. Be heedful. Now I shall go to a forest grove where there is no scent of women." He then went to the Himalayas, while the king wept and lamented, and attained to the Brahma-world, without losing his jhāna.
Sau khi nói điều này, vị ấy nói: “Thưa Đại vương, xin hãy cho phép con một lát”, rồi vào tịnh thất, nhìn vòng tròn kasiṇa, tái tạo lại thiền định đã mất, rồi ra khỏi tịnh thất, ngồi kiết già trên không trung, thuyết pháp cho vua, và nói: “Thưa Đại vương, vì đã cư trú không đúng chỗ, con đã bị khiển trách giữa đại chúng. Xin ngài hãy cẩn trọng. Bây giờ con sẽ đi đến khu rừng không có mùi phụ nữ nữa.” Nói xong, vị ấy đi đến dãy núi Hy Mã Lạp Sơn, trong khi vua khóc lóc, than vãn, và vị ấy đã đạt đến cõi Phạm thiên mà không mất thiền định.
Bahussutanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ dārakaṃ ārabbha kathesi.
'Well-learned': This was told by the Teacher, while dwelling at Jetavana, concerning a certain boy.
Bahussuta (Người đa văn): Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một cậu bé.
So kira sāvatthiyaṃ kuṭumbikaputto sattavassakāleyeva padakusalo ahosi.
It is said that this son of a householder in Sāvatthī was skilled in tracking at the age of seven.
Cậu bé này là con trai của một gia chủ ở Sāvatthī, mới bảy tuổi đã tinh thông dấu chân.
Athassa pitā ‘‘imaṃ vīmaṃsissāmī’’ti tassa ajānantasseva mittagharaṃ agamāsi.
Then his father, wishing to test him, went to a friend's house without informing him.
Một hôm, cha cậu bé muốn thử cậu, đã đi đến nhà bạn mà không cho cậu biết.
So pitu gataṭṭhānaṃ apucchitvāva tassa padānusārena gantvā pitu santike aṭṭhāsi.
The boy, without asking where his father had gone, followed his footprints and stood by his father.
Cậu bé không hỏi cha đi đâu, mà theo dấu chân của cha đến và đứng cạnh cha.
Atha naṃ pitā ekadivasaṃ pucchi ‘‘tāta, tvaṃ mayi taṃ ajānāpetvā gatepi mama gataṭṭhānaṃ kiṃ jānāsī’’ti?
Then one day his father asked him, "My dear, when I go without informing you, how do you know where I have gone?"
Một ngày nọ, cha cậu hỏi: “Con trai, khi cha đi mà không báo cho con biết, làm sao con biết cha đi đâu?”
‘‘Tāta, padaṃ te sañjānāmi, padakusalo aha’’nti.
"Father, I recognize your footprints; I am skilled in tracking."
“Thưa cha, con nhận biết dấu chân của cha, con là người tinh thông dấu chân.”
Athassa vīmaṃsanatthāya pitā bhuttapātarāso gharā nikkhamitvā anantaraṃ paṭivissakagharaṃ gantvā tato dutiyaṃ, tato tatiyaṃ gharaṃ pavisitvā tatiyagharā nikkhamitvā puna attano gharaṃ āgantvā tato uttaradvārena nikkhamitvā nagaraṃ vāmaṃ karonto jetavanaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā dhammaṃ suṇanto nisīdi.
Then, to test him, his father, after eating breakfast, left the house, immediately went to a neighbor's house, then to a second, then entered a third house, and having left the third house, returned to his own house. From there, he exited through the north gate, keeping the city to his left, went to Jetavana, paid homage to the Teacher, and sat listening to the Dhamma.
Để thử cậu bé, cha cậu sau khi ăn sáng, ra khỏi nhà, đi ngay đến nhà hàng xóm, rồi từ đó đến nhà thứ hai, rồi vào nhà thứ ba, từ nhà thứ ba đi ra, rồi trở về nhà mình, từ đó đi ra bằng cửa phía bắc, đi vòng quanh thành phố về phía trái, đến Jetavana, đảnh lễ Đức Phật, và ngồi nghe pháp.
Dārako ‘‘kahaṃ me pitā’’ti pucchitvā ‘‘na jānāmā’’ti vutte tassa padānusārena anantarapaṭivissakassa gharaṃ ādiṃ katvā pitu gatamaggeneva jetavanaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā pitu santike aṭṭhāsi.
The boy, asking "Where is my father?" and being told "We do not know," followed his footprints, starting with the immediate neighbor's house, and went to Jetavana by the same path his father had taken. He paid homage to the Teacher and stood by his father.
Cậu bé hỏi: “Cha con ở đâu?” Khi được trả lời “không biết”, cậu bé theo dấu chân của cha, bắt đầu từ nhà hàng xóm kế bên, đi theo con đường cha đã đi đến Jetavana, đảnh lễ Đức Phật, và đứng cạnh cha.
Pitarā ca ‘‘kathaṃ tāta, mama idhāgatabhāvaṃ aññāsī’’ti puṭṭho ‘‘padaṃ te sañjānitvā padānusārena āgatomhī’’ti āha.
When asked by his father, "How, my dear, did you know I had come here?", he replied, "I recognized your footprints and followed them."
Khi cha hỏi: “Con trai, làm sao con biết cha đã đến đây?”, cậu bé trả lời: “Con nhận biết dấu chân của cha và theo dấu chân mà đến.”
Satthā ‘‘kiṃ kathesi upāsakā’’ti pucchitvā ‘‘bhante, ayaṃ dārako padakusalo, ahaṃ imaṃ vīmaṃsanto iminā nāma upāyena āgato, ayampi maṃ gehe adisvā mama padānusārena āgato’’ti vutte ‘‘anacchariyaṃ, upāsaka, bhūmiyaṃ padasañjānanaṃ, porāṇakapaṇḍitā ākāse padaṃ sañjāniṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, having asked, "What are you saying, lay follower?" and when told, "Venerable Sir, this boy is skilled in tracks. I came by this means, testing him, and he too, not seeing me at home, came following my tracks," said, "It is not wonderful, lay follower, to recognize tracks on the ground; ancient wise ones recognized tracks in the sky," and being requested by him, recounted a past event.
Đức Phật hỏi: “Các cận sự nam đang nói gì vậy?” Khi được trả lời: “Bạch Thế Tôn, cậu bé này tinh thông dấu chân. Con đã thử cậu bé bằng cách này, và cậu bé không thấy con ở nhà đã theo dấu chân của con mà đến đây”, Đức Phật nói: “Thưa cận sự nam, nhận biết dấu chân trên mặt đất không có gì lạ. Các bậc hiền triết thời xưa đã nhận biết dấu chân trên không trung.” Nói xong, theo lời thỉnh cầu của vị ấy, Đức Phật kể câu chuyện quá khứ.
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente tassa aggamahesī aticaritvā raññā pucchitā ‘‘sace ahaṃ tumhe aticarāmi, assamukhī yakkhinī homī’’ti sapathaṃ katvā tato kālaṃ katvā ekasmiṃ pabbatapāde assamukhī yakkhinī hutvā leṇaguhāyaṃ vasamānā mahāaṭaviyaṃ pubbantato aparantaṃ gamanamagge anusañcarante manusse gahetvā khādati.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, his chief queen, having committed adultery, and being questioned by the king, swore, "If I commit adultery against you, may I become a horse-faced yakkhinī." After that, having passed away, she became a horse-faced yakkhinī at the foot of a certain mountain, dwelling in a cave, and would seize and devour people who traveled along the path from one end of the great forest to the other.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, hoàng hậu chính đã ngoại tình. Khi bị vua hỏi, nàng thề: “Nếu thiếp ngoại tình với ngài, thiếp sẽ trở thành yêu nữ đầu ngựa.” Sau đó, nàng chết và tái sinh thành yêu nữ đầu ngựa dưới chân một ngọn núi, sống trong hang động, và bắt những người đi lại trên con đường từ đông sang tây trong khu rừng lớn để ăn thịt.
Sā kira tīṇi vassāni vessavaṇaṃ upaṭṭhahitvā āyāmato tiṃsayojane vitthārato pañcayojane ṭhāne manusse khādituṃ labhi.
It is said that she, having served Vessavaṇa for three years, obtained permission to devour humans in an area thirty yojanas long and five yojanas wide.
Nàng đã phụng sự thần Vessavaṇa trong ba năm, và được phép ăn thịt người trong một khu vực dài ba mươi dojana và rộng năm dojana.
Athekadivasaṃ eko aḍḍho mahaddhano mahābhogo abhirūpo brāhmaṇo bahūhi manussehi parivuto taṃ maggaṃ abhiruhi.
Then one day, a rich, wealthy, prosperous, and handsome brahmin, surrounded by many people, ascended that path.
Một ngày nọ, một Bà-la-môn giàu có, đại phú, nhiều tài sản, và đẹp trai, được nhiều người vây quanh, đã đi lên con đường đó.
Taṃ disvā yakkhinī tussitvā pakkhandi, taṃ disvā parivāramanussā palāyiṃsu.
Seeing him, the yakkhinī was pleased and rushed forth; seeing her, the accompanying people fled.
Thấy vậy, nữ Dạ-xoa hoan hỷ lao tới. Thấy thế, những người tùy tùng bỏ chạy.
Sā vātavegena gantvā brāhmaṇaṃ gahetvā piṭṭhiyā nipajjāpetvā guhaṃ gacchantī purisasamphassaṃ paṭilabhitvā kilesavasena tasmiṃ sinehaṃ uppādetvā taṃ akhāditvā attano sāmikaṃ akāsi.
She went with the speed of wind, seized the brahmin, laid him on her back, and as she was going to her cave, she experienced a man's touch and, due to defilements, developed affection for him, so she did not devour him but made him her husband.
Nàng, với tốc độ gió, đi đến bắt vị Bà-la-môn, đặt ông nằm trên lưng, và khi đang đi về hang động, nàng cảm nhận được sự tiếp xúc của một người đàn ông. Do phiền não, nàng nảy sinh tình cảm với ông, không ăn thịt ông mà biến ông thành chồng mình.
Te ubhopi samaggasaṃvāsaṃ vasiṃsu tato paṭṭhāya yakkhinī manusse gaṇhantī vatthataṇḍulatelādīnipi gahetvā tassa nānaggarasabhojanaṃ upanetvā attanā manussamaṃsaṃ khādati.
They both lived together harmoniously. From then on, the yakkhinī, when seizing people, would also take clothes, rice, oil, and other provisions, and offer him various delicious foods, while she herself ate human flesh.
Cả hai sống chung hòa hợp. Từ đó trở đi, mỗi khi nữ Dạ-xoa bắt người, nàng cũng lấy y phục, gạo, dầu, v.v., mang đến cho ông những món ăn ngon lành đủ loại, còn bản thân nàng thì ăn thịt người.
Gamanakāle tassa palāyanabhayena mahatiyā silāya guhādvāraṃ pidahitvā gacchati.
When she went out, fearing his escape, she would block the cave entrance with a large stone.
Khi đi, vì sợ ông bỏ trốn, nàng dùng một tảng đá lớn chặn cửa hang rồi mới đi.
Evaṃ tesu sammodamānesu vasantesu bodhisatto nibbattaṭṭhānā cavitvā brāhmaṇaṃ paṭicca tassā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi.
While they were living happily in this way, the Bodhisatta, having passed away from his previous existence, was conceived in her womb because of the brahmin.
Trong khi họ sống vui vẻ như vậy, Bồ-tát, sau khi chuyển kiếp từ nơi tái sinh của mình, đã thọ thai trong bụng nàng do vị Bà-la-môn.
Sā dasamāsaccayena puttaṃ vijāyitvā putte ca brāhmaṇe ca balavasinehā hutvā ubhopi posesi.
After ten months, she gave birth to a son, and having strong affection for both her son and the brahmin, she nurtured both of them.
Mười tháng sau, nàng sinh một đứa con trai và, với tình cảm sâu nặng dành cho cả con và Bà-la-môn, nàng nuôi dưỡng cả hai.
Sā aparabhāge putte vuḍḍhippatte puttampi pitarā saddhiṃ antoguhāyaṃ pavesetvā dvāraṃ pidahi.
Later, when her son grew up, she would lead both the son and his father into the cave and close the entrance.
Sau này, khi con đã lớn, nàng cũng đưa con vào trong hang cùng với cha rồi đóng cửa lại.
Athekadivasaṃ bodhisatto tassā gatakālaṃ ñatvā silaṃ apanetvā pitaraṃ bahi akāsi.
Then one day, the Bodhisatta, knowing that she had gone, removed the stone and let his father out.
Rồi một ngày nọ, Bồ-tát biết được lúc nàng đã đi, liền dời tảng đá ra và đưa cha ra ngoài.
Sā āgantvā ‘‘kena silā apanītā’’ti vatvā ‘‘amma, mayā apanītā, andhakāre nisīdituṃ na sakkomī’’ti vutte puttasinehena na kiñci avoca.
She returned and said, "Who removed the stone?" When he replied, "Mother, I removed it; I cannot sit in the dark," she said nothing due to her affection for her son.
Nàng trở về và nói: “Ai đã dời tảng đá ra?” Khi được trả lời: “Mẹ ơi, con đã dời ra, con không thể ngồi trong bóng tối được,” nàng vì tình thương con mà không nói gì.
Athekadivasaṃ bodhisatto pitaraṃ pucchi ‘‘tāta, mayhaṃ mātu mukhaṃ aññādisaṃ, tumhākaṃ mukhaṃ aññādisaṃ, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti?
Then one day, the Bodhisatta asked his father, "Father, my mother's face is different, and your face is different. What is the reason for this?"
Rồi một ngày nọ, Bồ-tát hỏi cha: “Cha ơi, mặt mẹ con khác, mặt cha khác, nguyên nhân là gì vậy?”
‘‘Tāta, tava mātā manussamaṃsakhādikā yakkhinī, mayaṃ ubho manussā’’ti.
"Son, your mother is a human-flesh-eating yakkhinī; we both are humans."
“Con ơi, mẹ con là nữ Dạ-xoa ăn thịt người, còn hai cha con ta là người.”
‘‘Tāta, yadi evaṃ, idha kasmā vasāma, ehi manussapathaṃ gacchāmā’’ti.
"Father, if that is so, why do we live here? Come, let us go to the human world."
“Cha ơi, nếu vậy, tại sao chúng ta lại sống ở đây? Chúng ta hãy đi đến đường của loài người đi!”
‘‘Tāta, sace mayaṃ palāyissāma, ubhopi amhe tava mātā khādissatī’’ti.
"Son, if we flee, your mother will devour both of us."
“Con ơi, nếu chúng ta bỏ trốn, mẹ con sẽ ăn thịt cả hai chúng ta.”
Bodhisatto ‘‘mā bhāyi, tāta, tava manussapathasampāpanaṃ mama bhāro’’ti pitaraṃ samassāsetvā punadivase mātari gatāya pitaraṃ gahetvā palāyi.
The Bodhisatta reassured his father, "Do not fear, Father, bringing you to the human world is my responsibility," and the next day, when his mother had gone, he took his father and fled.
Bồ-tát nói: “Cha đừng sợ, cha ơi, việc đưa cha đến đường của loài người là trách nhiệm của con,” an ủi cha xong, ngày hôm sau, khi mẹ đã đi, ngài đưa cha bỏ trốn.
Yakkhinī āgantvā te adisvā vātavegena pakkhanditvā te gahetvā ‘‘brāhmaṇa, kiṃ palāyasi, kiṃ te idha natthī’’ti vatvā ‘‘bhadde, mā mayhaṃ kujjhi, putto te maṃ gahetvā palāyatī’’ti vutte puttasinehena kiñci avatvā te assāsetvā attano vasanaṭṭhānaññeva te gahetvā gantvā evaṃ punapi katipaye divase palāyante ānesi.
The yakkhinī returned, and not seeing them, she rushed forth with the speed of wind, caught them, and said, "Brahmin, why are you fleeing? What do you lack here?" When he replied, "My dear, do not be angry with me; your son is taking me and fleeing," she said nothing due to her affection for her son, but reassured them and took them back to her dwelling place, and thus, even when they fled again on several days, she brought them back.
Nữ Dạ-xoa trở về không thấy họ, liền lao đi với tốc độ gió, bắt được họ và nói: “Bà-la-môn, ông trốn làm gì? Ông thiếu thốn gì ở đây?” Khi được trả lời: “Thưa hiền nữ, đừng giận tôi, con trai cô đưa tôi bỏ trốn,” nàng vì tình thương con mà không nói gì, an ủi họ, rồi đưa họ về lại nơi ở của mình. Cứ thế, nàng lại đưa họ về sau khi họ bỏ trốn vài ngày như vậy.
Bodhisatto cintesi ‘‘mayhaṃ mātu paricchinnena okāsena bhavitabbaṃ, yaṃnūnāhaṃ imissā āṇāpavattiṭṭhānasīmaṃ puccheyyaṃ, atha naṃ atikkamitvā palāyissāmā’’ti.
The Bodhisatta thought, "My mother must have a limited domain. What if I were to ask her about the boundary of her sphere of influence, and then we could flee beyond it?"
Bồ-tát suy nghĩ: “Hẳn là có một giới hạn về phạm vi hoạt động của mẹ mình. Hay là mình nên hỏi nàng về ranh giới quyền lực của nàng, rồi sau đó chúng ta sẽ vượt qua ranh giới đó mà bỏ trốn.”
So ekadivasaṃ mātaraṃ gahetvā ekamantaṃ nisinno ‘‘amma, mātusantakaṃ nāma puttānaṃ pāpuṇāti, akkhāhi tāva me attano santakāya bhūmiyā pariccheda’’nti āha.
So one day, he took his mother aside and sat down, saying, "Mother, a mother's property belongs to her children. Please tell me the boundary of your own territory."
Một ngày nọ, ngài đưa mẹ ngồi sang một bên và nói: “Mẹ ơi, tài sản của mẹ thuộc về con cái. Xin mẹ hãy cho con biết ranh giới đất đai của mẹ đi.”
Sā sabbadisāsu pabbatanadīnimittādīni kathetvā āyāmato tiṃsayojanaṃ, vitthārato pañcayojanaṃ puttassa kathetvā ‘‘idaṃ ettakaṃ ṭhānaṃ sallakkhehi puttā’’ti āha.
She, having described the mountains, rivers, landmarks, and so on in all directions, and having told her son about the thirty yojanas in length and five yojanas in width, said, "Son, observe this much space."
Nàng kể về các dấu hiệu như núi, sông ở khắp các hướng, nói với con trai rằng chiều dài là ba mươi dojana, chiều rộng là năm dojana, và nói: “Con ơi, hãy ghi nhớ phạm vi này.”
So dve tayo divase atikkamitvā mātu aṭavigatakāle pitaraṃ khandhaṃ āropetvā tassā dinnasaññāya vātavegena pakkhando paricchedanadītīraṃ sampāpuṇi.
Having passed two or three days, when his mother had gone to the forest, he placed his father on his shoulder and, guided by the sign she had given, sped like the wind, reaching the bank of the boundary river.
Sau hai ba ngày, khi mẹ ngài đã vào rừng, ngài cõng cha lên vai, phóng đi với tốc độ gió theo dấu hiệu mà nàng đã cho biết, và đến được bờ sông làm ranh giới.
Sāpi āgantvā te apassantī anubandhi.
She too, having come and not seeing them, pursued.
Nàng cũng trở về không thấy họ, liền đuổi theo.
Bodhisatto pitaraṃ gahetvā nadīmajjhaṃ agamāsi.
The Bodhisatta, taking his father, went to the middle of the river.
Bồ-tát đưa cha xuống giữa dòng sông.
Sā āgantvā nadītīre ṭhatvā attano paricchedaṃ atikkantabhāvaṃ ñatvā tattheva ṭhatvā ‘‘tāta, pitaraṃ gahetvā ehi, ko mayhaṃ doso, tumhākaṃ maṃ nissāya kiṃ nāma na sampajjati, nivatta, sāmī’’ti puttañca patiñca yāci.
She came and stood on the riverbank, and realizing that they had crossed her boundary, she remained there and pleaded with her son and husband, "My dear, take your father and come back. What fault is mine? What is there that you would not attain through me? Return, my lord!"
Nàng đến đứng trên bờ sông, biết rằng họ đã vượt qua ranh giới của mình, liền đứng tại đó và van xin con trai và chồng: “Con ơi, hãy đưa cha về, mẹ có lỗi gì đâu? Các con nương tựa mẹ thì có gì mà không thành tựu? Hãy quay lại đi, chồng ơi!”
Atha brāhmaṇo nadiṃ uttari.
Then the brahmin crossed the river.
Rồi vị Bà-la-môn vượt sông.
Sā puttameva yācantī ‘‘tāta, mā evaṃ kari, nivattāhī’’ti āha.
She, pleading only with her son, said, "My dear, do not do this, return!"
Nàng chỉ van xin con trai: “Con ơi, đừng làm vậy, hãy quay lại đi!”
‘‘Amma, mayaṃ manussā, tvaṃ yakkhinī, na sakkā sabbakālaṃ tava santike vasitu’’nti.
"Mother, we are humans, you are a yakkhiṇī. It is not possible to live with you forever."
“Mẹ ơi, chúng con là người, mẹ là Dạ-xoa, không thể nào sống mãi bên mẹ được.”
‘‘Neva nivattissasi, tātā’’ti.
"You will not return, my dear?"
“Con sẽ không quay lại sao, con trai?”
‘‘Āma, ammā’’ti.
"Yes, Mother."
“Vâng, mẹ ạ.”
‘‘Tāta, yadi na nivattissasi, manussaloke jīvitaṃ nāma dukkhaṃ, sippaṃ ajānantā jīvituṃ na sakkonti, ahaṃ ekaṃ cintāmaṇiṃ nāma vijjaṃ jānāmi, tassānubhāvena dvādasasaṃvaccharamatthake haṭabhaṇḍampi padānupadaṃ gantvā sakkā jānituṃ.
"My dear, if you will not return, life in the human world is difficult; those who do not know a craft cannot live. I know a certain knowledge called Cintāmaṇi. By its power, one can trace a lost item even after twelve years, following its every step.
“Con ơi, nếu con không quay lại, cuộc sống ở thế gian loài người thật khổ sở, những người không biết nghề nghiệp thì không thể sống được. Mẹ biết một thần chú tên là Cintāmaṇi. Nhờ năng lực của nó, có thể biết được những vật bị mất cắp từ mười hai năm trước bằng cách lần theo từng dấu chân.
Ayaṃ te jīvikā bhavissati, uggaṇha, tāta, anagghaṃ manta’’nti tathārūpena dukkhena abhibhūtāpi puttasinehena mantaṃ adāsi.
This will be your livelihood. Learn it, my dear, this invaluable mantra." Thus, though overcome with such sorrow, she gave him the mantra out of motherly affection.
Đây sẽ là kế sinh nhai của con. Con hãy học lấy, con trai, thần chú vô giá này,” dù bị nỗi đau khổ như vậy áp đảo, nhưng vì tình thương con, nàng vẫn ban cho thần chú.
Bodhisatto nadiyā ṭhitakova mātaraṃ vanditvā atisakkaccaṃ sutaṃ katvā mantaṃ gahetvā mātaraṃ vanditvā ‘‘gacchatha, ammā’’ti āha.
The Bodhisatta, standing in the river, saluted his mother, listened very carefully, received the mantra, and then saluted his mother again, saying, "Go, Mother!"
Bồ-tát, đứng giữa dòng sông, đảnh lễ mẹ, lắng nghe thần chú một cách rất cung kính, rồi nhận lấy thần chú, đảnh lễ mẹ và nói: “Mẹ hãy đi đi, mẹ ạ.”
‘‘Tāta, tumhesu anivattantesu mayhaṃ jīvitaṃ natthī’’ti vatvā –
Saying, "My dear, without your return, my life is nothing," she spoke thus:
Nàng nói: “Con ơi, nếu các con không quay lại, mẹ sẽ không còn sự sống nữa,” rồi nói:
Yakkhinī uraṃ pahari, tāvadevassā puttasokena hadayaṃ phali.
The yakkhiṇī struck her chest, and at that very moment, her heart burst from sorrow for her son.
Nữ Dạ-xoa đấm vào ngực, ngay lập tức tim nàng vỡ tan vì nỗi đau nhớ con.
Sā maritvā tattheva patitā.
She died and fell right there.
Nàng chết và ngã xuống ngay tại đó.
Tadā bodhisatto tassā matabhāvaṃ ñatvā pitaraṃ pakkositvā mātu santikaṃ gantvā citakaṃ katvā jhāpetvā āḷāhanaṃ nibbāpetvā nānāvaṇṇehi pupphehi pūjetvā vanditvā roditvā paridevitvā pitaraṃ ādāya bārāṇasiṃ gantvā rājadvāre ṭhatvā ‘‘padakusalo māṇavo dvāre ṭhito’’ti rañño paṭivedetvā ‘‘tena hi āgacchatū’’ti vutte pavisitvā rājānaṃ vanditvā ‘‘tāta, kiṃ sippaṃ jānāsī’’ti vutte ‘‘deva, dvādasasaṃvaccharamatthake haṭabhaṇḍaṃ padānupadaṃ gantvā gaṇhituṃ jānāmī’’ti āha.
Then the Bodhisatta, knowing she was dead, called his father, went to his mother's side, built a pyre, cremated her, extinguished the funeral fire, honored her with various colored flowers, saluted her, wept, lamented, and then, taking his father, went to Bārāṇasī. Standing at the royal gate, he announced to the king, "A young man skilled in tracking is at the gate." When the king said, "Then let him come in," he entered, saluted the king, and when asked, "My dear, what craft do you know?" he replied, "Your Majesty, I know how to trace and recover a lost item, following its every step, even after twelve years."
Khi đó, Bồ-tát biết nàng đã chết, liền gọi cha, đi đến bên mẹ, dựng giàn thiêu, hỏa táng, dập tắt lửa, cúng dường bằng các loài hoa đủ màu sắc, đảnh lễ, khóc than, than vãn, rồi đưa cha đến Bārāṇasī. Ngài đứng trước cổng hoàng cung, báo với vua rằng: “Có một thanh niên giỏi theo dấu chân đang đứng trước cổng.” Khi vua nói: “Vậy thì hãy vào đi,” ngài bước vào, đảnh lễ vua. Khi vua hỏi: “Con ơi, con biết nghề gì?” Ngài đáp: “Đại vương, con biết cách lần theo từng dấu chân để tìm lại những vật bị mất cắp từ mười hai năm trước.”
‘‘Tena hi maṃ upaṭṭhāhī’’ti.
"Then serve me."
“Vậy thì con hãy phục vụ ta.”
‘‘Deva, devasikaṃ sahassaṃ labhanto upaṭṭhahissāmī’’ti.
"Your Majesty, I will serve if I receive a thousand daily."
“Đại vương, con sẽ phục vụ nếu mỗi ngày được nhận một ngàn.”
‘‘Sādhu tāta, upaṭṭhahā’’ti.
"Very well, my dear, serve."
“Tốt lắm con, hãy phục vụ đi.”
Rājā devasikaṃ sahassaṃ dāpesi.
The king had a thousand given to him daily.
Vua ban cho ngài một ngàn mỗi ngày.
Athekadivasaṃ purohito rājānaṃ āha – ‘‘mahārāja, mayaṃ tassa māṇavassa sippānubhāvena kassaci kammassa akatattā ‘sippaṃ atthi vā natthi vā’ti na jānāma, vīmaṃsissāma tāva na’’nti.
Then one day, the purohita said to the king, "Great King, because no task has been performed by that young man using his craft, we do not know whether he possesses the skill or not. Let us test him."
Rồi một ngày nọ, vị trưởng lão nói với vua: “Đại vương, chúng ta không biết tài năng của thanh niên này có thật hay không vì chưa có công việc nào để thử. Chúng ta hãy thử xem sao.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā ubhopi janā nānāratanagopakānaṃ saññaṃ datvā ratanasārabhaṇḍikaṃ gahetvā pāsādā oruyha rājanivesanantare tikkhattuṃ āvijjhitvā nisseṇiṃ attharitvā pākāramatthakena bahi otaritvā vinicchayasālaṃ pavisitvā tattha nisīditvā puna gantvā nisseṇiṃ attharitvā pākāramatthakena otaritvā antepure pokkharaṇiyā tīraṃ gantvā pokkharaṇiṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā otaritvā antopokkharaṇiyaṃ bhaṇḍikaṃ ṭhapetvā pāsādaṃ abhiruhiṃsu.
The king assented, saying, "Very well." Both individuals gave a signal to the guardians of various jewels, took a bundle of precious jewels, descended from the palace, circled three times within the royal residence, set up a ladder, descended outside over the top of the wall, entered the judgment hall, sat there, then went again, set up a ladder, descended over the top of the wall, went to the edge of the pond in the inner palace, circumambulated the pond three times, descended, placed the bundle inside the pond, and then ascended the palace.
Vua đồng ý, rồi cả hai người ra hiệu cho những người giữ các loại châu báu, lấy một gói châu báu quý giá, xuống khỏi cung điện, đi vòng quanh khu vực hoàng cung ba lần, đặt thang, trèo qua tường thành ra ngoài, vào phòng xử án, ngồi đó, rồi lại đi, đặt thang, trèo qua tường thành, đi đến bờ hồ trong hậu cung, đi vòng quanh hồ ba lần, xuống hồ, đặt gói châu báu vào trong hồ, rồi leo lên cung điện.
Punadivase ‘‘rājanivesanato kira ratanaṃ hariṃsū’’ti ekakolāhalaṃ ahosi.
The next day, there was a great outcry: "A jewel has been stolen from the royal residence!"
Ngày hôm sau, có một tiếng ồn ào rằng: “Nghe nói có người đã trộm châu báu từ hoàng cung.”
Rājā ajānanto viya hutvā bodhisattaṃ pakkosāpetvā ‘‘tāta, rājanivesanato bahuratanabhaṇḍaṃ haṭaṃ, handa naṃ anuvicinituṃ vaṭṭatī’’ti āha.
The king, feigning ignorance, had the Bodhisatta summoned and said, "My dear, a bundle of many jewels has been stolen from the royal residence. It is proper that we investigate it."
Vua giả vờ không biết, cho gọi Bồ-tát đến và nói: “Con ơi, có một gói châu báu quý giá đã bị trộm từ hoàng cung, con hãy tìm nó đi.”
‘‘Mahārāja, dvādasasaṃvaccharamatthake haṭabhaṇḍaṃ corānaṃ padānupadaṃ gantvā āharaṇasamatthassa mama anacchariyaṃ ajja rattiṃ haṭabhaṇḍaṃ āharituṃ, āharissāmi taṃ, mā cintayitthā’’ti.
"Great King, it is not surprising for me, who is capable of retrieving stolen goods by following the tracks of thieves for twelve years, to retrieve the stolen goods tonight. I will retrieve them; do not worry."
“Đại vương, đối với con, người có khả năng lần theo từng dấu chân để tìm lại những vật bị mất cắp từ mười hai năm trước, thì việc tìm lại những vật bị trộm đêm nay không có gì lạ. Con sẽ tìm lại nó, xin đừng lo lắng.”
‘‘Tena hi āharā’’ti.
"Then bring them," he said.
“Vậy thì con hãy tìm đi.”
So ‘‘sādhu, devā’’ti vatvā mātaraṃ vanditvā mantaṃ parivattetvā mahātale ṭhitova ‘‘mahārāja, dvinnaṃ corānaṃ padaṃ paññāyatī’’ti vatvā rañño ca purohitassa ca padānusārena sirigabbhaṃ pavisitvā tato nikkhamitvā pāsādā oruyha rājanivesanantare tikkhattuṃ parigantvā padānusāreneva pākārasamīpaṃ gantvā pākāre ṭhatvā ‘‘mahārāja, imasmiṃ ṭhāne pākārato muccitvā ākāse padaṃ paññāyati, nisseṇiṃ attharāpetvā dethā’’ti nisseṇiṃ pākāramatthakena otaritvā padānusāreneva vinicchayasālaṃ gantvā puna rājanivesanaṃ āgantvā nisseṇiṃ attharāpetvā pākāramatthakena oruyha pokkharaṇiṃ gantvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā ‘‘mahārāja, corā imaṃ pokkharaṇiṃ otiṇṇā’’ti vatvā attanā ṭhapitaṃ viya bhaṇḍikaṃ nīharitvā rañño datvā ‘‘mahārāja, ime dve corā abhiññātamahācorā iminā maggena rājanivesanaṃ abhiruḷhā’’ti āha.
He, saying, "Very well, Your Majesty," having saluted his mother and recited a mantra, while standing on the ground, said, "Great King, the tracks of two thieves are visible." Then, following the tracks of the king and the purohita, he entered the royal bedchamber, came out from there, descended from the palace, circled the royal residence three times, and following the tracks, went near the wall. Standing on the wall, he said, "Great King, at this spot, tracks are visible in the air, having left the wall. Provide a ladder." He descended the ladder from the top of the wall, and following the tracks, went to the judgment hall, then returned to the royal residence. Having had a ladder provided, he descended from the top of the wall, went to the pond, circled it three times, and said, "Great King, the thieves entered this pond." He then pulled out a bundle as if he had placed it there himself, gave it to the king, and said, "Great King, these two thieves are well-known great thieves who ascended the royal residence by this path."
Vị ấy nói “Tốt lắm, chư thiên!” rồi đảnh lễ mẹ, xoay chuyển thần chú, đứng ngay trên mặt đất nói: “Đại vương, dấu chân của hai tên trộm được biết đến.” Nói xong, vị ấy theo dấu chân của vua và vị thầy tế vào phòng châu báu, rồi từ đó đi ra, xuống khỏi cung điện, đi vòng quanh ba lần trong khuôn viên hoàng gia, rồi theo dấu chân đến gần bức tường, đứng trên bức tường nói: “Đại vương, tại chỗ này, dấu chân xuất hiện trên không trung từ bức tường, xin hãy cho đặt thang.” Sau khi đặt thang xuống từ đỉnh bức tường, vị ấy theo dấu chân đến sảnh nghị án, rồi lại trở về khuôn viên hoàng gia, đặt thang xuống từ đỉnh bức tường, đi đến ao sen, đi nhiễu ba lần nói: “Đại vương, bọn trộm đã xuống ao sen.” Rồi vị ấy lấy ra một gói đồ như thể chính mình đã đặt ở đó, dâng lên vua và nói: “Đại vương, hai tên trộm này là những tên trộm lớn đã được biết đến, chúng đã leo vào khuôn viên hoàng gia bằng con đường này.”
Mahājanā tuṭṭhapahaṭṭhā aṅguliyo phoṭesuṃ, celukkhepā pavattiṃsu.
The people, delighted and thrilled, snapped their fingers, and waved their clothes.
Đại chúng vui mừng phấn khởi, búng ngón tay, tung khăn áo.
Rājā cintesi – ‘‘ayaṃ māṇavo padānusārena gantvā corehi ṭhapitabhaṇḍaṭṭhānameva maññe jānāti, core pana gaṇhituṃ na sakkotī’’ti.
The king thought, "This young man, by following tracks, perhaps only knows the place where the thieves hid the goods, but cannot catch the thieves."
Đức vua suy nghĩ: “Chàng thanh niên này theo dấu chân mà biết được chỗ cất giấu đồ vật của bọn trộm, nhưng không thể bắt được bọn trộm.”
Atha naṃ āha ‘‘corehi haṭabhaṇḍaṃ tāva no tayā āhaṭaṃ, corā pana na āhaṭā’’ti.
Then he said to him, "You have brought us the stolen goods, but not the thieves."
Rồi ngài nói với chàng: “Ngươi đã mang về đồ vật bị bọn trộm lấy đi, nhưng bọn trộm thì chưa mang về.”
‘‘Mahārāja, idheva corā, na dūre’’ti.
"Great King, the thieves are right here, not far away."
“Đại vương, bọn trộm ở ngay đây, không xa.”
‘‘Ko ca ko cā’’ti.
"Who are they?"
“Ai với ai?”
‘‘Yo mahārāja, icchati, sova coro hoti, tato tumhākaṃ bhaṇḍikassa laddhakālato paṭṭhāya corehi ko attho, mā pucchitthā’’ti.
"Great King, whoever wishes to be the thief, he is the thief. Therefore, what is the point of the thieves after you have received your bundle? Do not ask."
“Đại vương, ai muốn, người đó chính là kẻ trộm. Từ khi các hạ nhận được gói đồ của mình, thì cần gì bọn trộm nữa, xin đừng hỏi.”
‘‘Tāta, ahaṃ tuyhaṃ devasikaṃ sahassaṃ dammi, core me gahetvā dehī’’ti.
"My son, I will give you a thousand daily; catch the thieves for me."
“Này con, ta sẽ cho con một ngàn đồng mỗi ngày, hãy bắt bọn trộm cho ta.”
‘‘Mahārāja, dhane laddhe kiṃ corehī’’ti.
"Great King, what is the point of thieves when the wealth has been recovered?"
“Đại vương, khi đã có được tài sản thì cần gì bọn trộm?”
‘‘Dhanatopi no, tāta, core laddhuṃ vaṭṭatī’’ti.
"My son, it is proper for us to catch the thieves even more than the wealth."
“Này con, chúng ta cần bắt bọn trộm hơn cả tài sản.”
‘‘Tena hi, mahārāja, ‘ime nāma corā’ti tumhākaṃ na kathessāmi, atīte pavattakāraṇaṃ pana te āharissāmi, sace tumhe paññavanto, taṃ kāraṇaṃ jānāthā’’ti so evaṃ vatvā atītaṃ āhari.
"In that case, Great King, I will not tell you who the thieves are, but I will relate to you a past event. If you are discerning, you will understand that matter." Having said this, he related a past story.
“Vậy thì, đại vương, tôi sẽ không nói với các hạ rằng ‘đây chính là bọn trộm’, nhưng tôi sẽ kể cho các hạ một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Nếu các hạ là người có trí tuệ, hãy hiểu câu chuyện đó.” Nói xong như vậy, vị ấy kể chuyện quá khứ.
Atīte bārāṇasito avidūre nadītīragāmake pāṭali nāma eko naṭo vasati.
In the past, not far from Bārāṇasī, in a village on the riverbank, lived a dancer named Pāṭali.
Trong quá khứ, tại một làng ven sông không xa Bārāṇasī, có một diễn viên tên là Pāṭali sinh sống.
So ekasmiṃ ussavadivase bhariyamādāya bārāṇasiṃ pavisitvā naccitvā vīṇaṃ vāditvā gāyitvā dhanaṃ labhitvā ussavapariyosāne bahuṃ surābhattaṃ gāhāpetvā attano gāmaṃ gacchanto nadītīraṃ patvā navodakaṃ āgacchantaṃ disvā bhattaṃ bhuñjanto suraṃ pivanto nisīditvā matto hutvā attano balaṃ ajānanto ‘‘mahāvīṇaṃ gīvāya bandhitvā nadiṃ uttaritvā gamissāmī’’ti bhariyaṃ hatthe gahetvā nadiṃ otari.
On a festival day, he entered Bārāṇasī with his wife, danced, played the lute, sang, and earned money. At the end of the festival, he took a large quantity of fermented rice and, while returning to his village, reached the riverbank. Seeing the new water coming, he sat down, ate the rice, drank the liquor, and became intoxicated. Not knowing his own strength, he said, "I will tie the great lute around my neck and cross the river." He took his wife's hand and entered the river.
Một ngày lễ hội, ông ta cùng vợ vào Bārāṇasī, sau khi nhảy múa, đánh đàn vīṇā, ca hát và kiếm được tiền, vào cuối lễ hội, ông ta mua nhiều cơm rượu rồi trên đường về làng của mình, đến bờ sông, thấy nước mới đang chảy đến, ông ta ngồi ăn cơm, uống rượu, rồi say sưa, không biết sức mình mà nói: “Ta sẽ buộc cây vīṇā lớn vào cổ và vượt sông đi qua!” Ông ta nắm tay vợ rồi xuống sông.
Vīṇāchiddehi udakaṃ pāvisi.
Water entered through the holes of the lute.
Nước tràn vào các lỗ của cây vīṇā.
Atha naṃ sā vīṇā udake osīdāpesi.
Then the lute caused him to sink in the water.
Rồi cây vīṇā đó đã kéo ông ta chìm xuống nước.
Bhariyā panassa osīdanabhāvaṃ ñatvā taṃ vissajjetvā uttaritvā tīre aṭṭhāsi.
His wife, knowing that he was sinking, released him, swam across, and stood on the bank.
Vợ ông ta biết ông ta đang chìm, liền buông ông ra, vượt lên và đứng trên bờ.
Naṭapāṭali sakiṃ ummujjati, sakiṃ nimujjati, udakaṃ pavisitvā uddhumātaudaro ahosi.
Naṭapāṭali surfaced once, then sank. Water entered him, and his belly became distended.
Diễn viên Pāṭali lúc chìm lúc nổi, nước tràn vào làm bụng ông ta trương phềnh.
Athassa bhariyā cintesi ‘‘mayhaṃ sāmiko idāni marissati, ekaṃ naṃ gītakaṃ yācitvā parisamajjhe taṃ gāyantī jīvikaṃ kappessāmī’’ti cintetvā ‘‘sāmi, tvaṃ udake nimujjasi, ekaṃ me gītakaṃ dehi, tena jīvikaṃ kappessāmī’’ti vatvā gāthamāha –
Then his wife thought, "My husband will die now. I will ask him for a song and make a living by singing it in the midst of the assembly." Thinking this, she said, "Husband, you are sinking in the water. Give me a song; I will make a living with it," and spoke a verse—
Rồi vợ ông ta nghĩ: “Chồng mình bây giờ sẽ chết, mình sẽ xin ông ấy một bài hát để ca hát giữa đám đông mà kiếm sống.” Suy nghĩ như vậy, nàng nói: “Chồng ơi, chàng đang chìm trong nước, hãy cho em một bài hát, em sẽ dùng nó để kiếm sống,” rồi nàng nói lên bài kệ:
Bodhisatto imaṃ gāthaṃ vatvā ‘‘mahārāja, yathā udakaṃ mahājanassa paṭisaraṇaṃ, tathā rājānopi, tesaṃ santikā bhaye uppanne taṃ bhayaṃ ko paṭibāhissatī’’ti vatvā ‘‘mahārāja, idaṃ kāraṇaṃ paṭicchannaṃ, mayā pana paṇḍitavedanīyaṃ katvā kathitaṃ, jānāhi, mahārājā’’ti āha.
The Bodhisatta, having spoken this verse, said, “Great king, just as water is a refuge for the multitude, so too are kings. When fear arises from them, who will ward off that fear?” Having said this, he added, “Great king, this matter is concealed, but I have spoken it in a way that the wise can understand. Know this, great king.”
Bồ tát nói bài kệ này rồi nói: “Đại vương, cũng như nước là nơi nương tựa của đại chúng, các vị vua cũng vậy. Khi hiểm nguy phát sinh từ các vị ấy, ai sẽ ngăn chặn hiểm nguy đó?” Nói xong, vị ấy nói: “Đại vương, câu chuyện này bị che giấu, nhưng tôi đã kể ra để người trí có thể hiểu. Xin đại vương hãy biết.”
‘‘Tāta ahaṃ evarūpaṃ paṭicchannakathaṃ na jānāmi, core me gahetvā dehī’’ti.
“My son, I do not understand such a concealed statement. Seize the thief for me and give him to me.”
“Này con, ta không hiểu câu chuyện ẩn ý như vậy, hãy bắt bọn trộm cho ta.”
Athassa mahāsatto ‘‘tena hi, mahārāja, idaṃ sutvā jānāhī’’ti aparampi kāraṇaṃ āhari.
Then the Great Being, saying, “In that case, great king, having heard this, you will understand,” brought forth another matter.
Rồi Đại sĩ nói với ngài: “Vậy thì, đại vương, hãy nghe điều này mà biết,” rồi kể thêm một câu chuyện khác.
Deva, pubbe imissāva bārāṇasiyā dvāragāme eko kumbhakāro bhājanatthāya mattikaṃ āharanto ekasmiṃyeva ṭhāne nibaddhaṃ gaṇhitvā antopabbhāraṃ mahantaṃ āvāṭaṃ khaṇi.
“Deva, formerly, in a village at the gate of this very Bārāṇasī, a potter, while bringing clay for making pots, consistently took it from one place, digging a large pit with an overhanging edge.”
Thưa Thiên vương, trước kia, tại một làng ở cổng thành Bārāṇasī này, có một người thợ gốm khi lấy đất sét để làm đồ gốm, cứ lấy mãi ở một chỗ, đã đào một cái hố lớn sâu vào bên trong.
Athekadivasaṃ tassa mattikaṃ gaṇhantassa akālamahāmegho uṭṭhahitvā mahāvuṭṭhiṃ pātesi.
“Then one day, as he was taking clay, an unseasonable great cloud arose and caused a heavy downpour.”
Rồi một ngày nọ, khi ông ta đang lấy đất sét, một trận mưa lớn trái mùa nổi lên và đổ xuống một trận mưa tầm tã.
Udakaṃ avattharamānaṃ āvāṭaṃ pātesi, tenassa matthako bhijji.
“The water, spreading out, collapsed the pit, and his head was crushed by it.”
Nước tràn vào làm sập cái hố, khiến đầu ông ta bị vỡ.
So paridevanto gāthamāha –
“He lamented, speaking this verse –”
Ông ta than khóc và nói lên bài kệ:
Yathā hi deva, mahājanassa paṭisaraṇabhūtā mahāpathavī kumbhakārassa sīsaṃ bhindi, evameva mahāpathavīsame sabbalokassa paṭisaraṇe narinde uṭṭhāya corakammaṃ karonte ko bāhissati, sakkhissasi, mahārāja, evaṃ paṭicchādetvā kathitaṃ coraṃ jānitunti.
“Just as, deva, the great earth, which is a refuge for the multitude, crushed the potter’s head, even so, when kings, who are like the great earth and a refuge for all the world, rise up and commit theft, who will ward it off? Will you be able, great king, to recognize the thief when it is spoken in such a concealed manner?”
Thưa đại vương, như khi đại địa là nơi nương tựa của đại chúng lại đập vỡ đầu người thợ gốm, thì cũng vậy, khi vị vua là nơi nương tựa của toàn thế gian, giống như đại địa, lại đứng dậy thực hiện hành vi trộm cắp, ai có thể ngăn cản? Đại vương có thể biết được kẻ trộm được nói đến một cách che giấu như vậy không?
Tāta, mayhaṃ paṭicchannena kāraṇaṃ natthi, ayaṃ coroti evaṃ me coraṃ gahetvā dehīti.
“My son, I have no use for concealed matters. Give me the thief, saying, ‘This is the thief’.”
"Này con, ta không cần lý do che giấu, hãy bắt tên trộm này và giao cho ta."
So rājānaṃ rakkhanto ‘‘tvaṃ coro’’ti avatvā aparampi udāharaṇaṃ āhari.
Protecting the king, he did not say, “You are the thief,” but brought forth another example.
Người ấy, để bảo vệ nhà vua, không nói "ngài là kẻ trộm", mà đưa ra một ví dụ khác.
Mahārāja, pubbe imasmiṃyeva nagare ekassa purisassa gehaṃ ādittaṃ.
“Great king, formerly, in this very city, a certain man’s house caught fire.”
"Thưa Đại vương, trước đây, ngay tại thành phố này, nhà của một người đàn ông bị cháy."
So ‘‘anto pavisitvā bhaṇḍakaṃ nīharā’’ti aññaṃ āṇāpesi.
“He commanded another, ‘Go inside and bring out the goods!’”
Người ấy ra lệnh cho người khác: "Hãy vào trong và mang đồ ra."
Tasmiṃ pavisitvā nīharante gehadvāraṃ pidahi.
“As that one entered to bring them out, the house door closed.”
Khi người ấy vào trong và mang đồ ra, cửa nhà bị đóng lại.
So dhūmandho hutvā nikkhamanamaggaṃ alabhanto uppannaḍāhadukkho hutvā anto ṭhitova paridevanto gāthamāha –
“Blinded by smoke, unable to find the way out, suffering from the burning heat, he remained inside and lamented, speaking this verse –”
Người ấy, bị khói làm mờ mắt, không tìm thấy lối ra, chịu đựng nỗi đau nóng bỏng phát sinh, đứng bên trong than thở và nói lên bài kệ –
‘‘Mahārāja, aggi viya mahājanassa paṭisaraṇabhūto eko manusso ratanabhaṇḍikaṃ hari, mā maṃ coraṃ pucchā’’ti.
“Great king, a certain man, who is a refuge for the multitude like fire, stole a bundle of jewels. Do not ask me about the thief.”
"Thưa Đại vương, một người, là nơi nương tựa của đại chúng như lửa, đã lấy trộm túi châu báu. Xin đừng hỏi tôi về kẻ trộm."
‘‘Tāta, mayhaṃ coraṃ dehiyevā’’ti.
“My son, just give me the thief.”
"Này con, hãy giao tên trộm cho ta."
So rājānaṃ ‘‘tvaṃ coro’’ti avatvā aparampi udāharaṇaṃ āhari.
He did not say to the king, “You are the thief,” but brought forth another example.
Người ấy, không nói "ngài là kẻ trộm" với nhà vua, mà đưa ra một ví dụ khác.
Deva, pubbe imasmiṃyeva nagare eko puriso atibahuṃ bhuñjitvā jīrāpetuṃ asakkonto vedanāppatto hutvā paridevanto gāthamāha –
“Deva, formerly, in this very city, a certain man ate too much and, being unable to digest it, suffered pain and lamented, speaking this verse –”
"Thưa Đại vương, trước đây, ngay tại thành phố này, một người đàn ông đã ăn quá nhiều đến nỗi không thể tiêu hóa được, bị đau đớn và than thở, nói lên bài kệ –
‘‘Mahārāja, bhattaṃ viya mahājanassa paṭisaraṇabhūto eko bhaṇḍaṃ hari, tasmiṃ laddhe kiṃ coraṃ pucchasī’’ti?
“Great king, a certain one, who is a refuge for the multitude like food, stole the goods. When he is caught, why do you ask about the thief?”
"Thưa Đại vương, một người, là nơi nương tựa của đại chúng như cơm, đã lấy trộm đồ vật. Khi đã có được nó, ngài còn hỏi gì về kẻ trộm nữa?"
‘‘Tāta, sakkonto coraṃ me dehī’’ti.
“My son, if you can, give me the thief.”
"Này con, nếu có thể, hãy giao tên trộm cho ta."
So tassa saññāpanatthaṃ aparampi udāharaṇaṃ āhari.
To make him understand, he brought forth yet another example.
Người ấy, để làm cho nhà vua hiểu, lại đưa ra một ví dụ khác.
Mahārāja, pubbepi imasmiṃyeva nagare ekassa vāto uṭṭhahitvā gattāni bhañji.
“Great king, formerly, in this very city, a certain man suffered from a rising wind that broke his limbs.”
"Thưa Đại vương, trước đây, ngay tại thành phố này, một người đàn ông bị gió nổi lên làm gãy các chi thể."
So paridevanto gāthamāha –
“He lamented, speaking this verse –”
Người ấy than thở và nói lên bài kệ –
Iti mahārāja, saraṇato bhayaṃ uppannaṃ, jānāhi taṃ kāraṇanti.
“Thus, great king, fear has arisen from a refuge. Understand that matter.”
“Thưa đại vương, nỗi sợ hãi đã sinh ra từ nơi nương tựa, xin hãy biết nguyên nhân đó.”
Tāta, coraṃ me dehīti.
“My son, give me the thief.”
“Cha ơi, hãy giao tên trộm cho con.”
So tassa saññāpanatthaṃ aparampi udāharaṇaṃ āhari.
To make him understand, he brought forth yet another example.
Để làm cho ông ta hiểu, ông ấy lại đưa ra một ví dụ khác.
Deva, atīte himavantapadese sākhāviṭapasampanno mahārukkho ahosi pupphaphalasampanno anekasahassānaṃ sakuṇānaṃ nivāso tassa dve sākhā aññamaññaṃ saṅghaṭṭesuṃ, tato dhūmo uppajji, aggicuṇṇāni patiṃsu.
O king, in the past, in the Himalayan region, there was a great tree, rich in branches and twigs, abundant in flowers and fruits, a dwelling place for many thousands of birds. Its two branches rubbed against each other, from which smoke arose, and sparks of fire fell.
“Thưa đức vua, trong quá khứ, tại vùng Hy Mã Lạp Sơn, có một cây đại thụ cành lá sum suê, đầy hoa trái, là nơi trú ngụ của hàng ngàn con chim. Hai cành cây của nó cọ xát vào nhau, từ đó khói bốc lên, và những đốm lửa rơi xuống.
Taṃ disvā sakuṇajeṭṭhako gāthamāha –
Seeing that, the chief of the birds spoke this verse –
Thấy vậy, con chim đầu đàn đã nói lên bài kệ:
Yathā hi, deva, rukkho pakkhīnaṃ paṭisaraṇaṃ, evaṃ rājā mahājanassa paṭisaraṇaṃ, tasmiṃ corikaṃ karonte ko paṭibāhissati, sallakkhehi, devāti.
Just as, O king, a tree is a refuge for birds, so is a king a refuge for the populace. If he commits theft, who will prevent it? Consider this, O king.
Tâu Đại vương, như cây cối là nơi nương tựa của loài chim, thì nhà vua cũng là nơi nương tựa của đại chúng. Nếu chính Người lại gây ra trộm cắp, ai sẽ ngăn cản được? Xin Đại vương hãy suy xét!
Tāta, mayhaṃ corameva dehīti.
“My dear, give me the thief.”
Này con, hãy giao tên trộm cho ta.
Athassa so aparampi udāharaṇaṃ āhari.
Then he brought forth another example.
Rồi ông ta lại đưa ra một ví dụ khác.
Mahārāja, ekasmiṃ kāsigāme aññatarassa kulagharassa pacchimabhāge kakkhaḷā susumāranadī atthi, tassa ca kulassa ekova putto.
Great king, in a certain Kasi village, to the west of a certain family's house, there was a rough Susumāra river, and that family had only one son.
Tâu Đại vương, tại một ngôi làng ở xứ Kasi, phía tây nhà của một gia đình nọ có một con sông cá sấu hung dữ. Gia đình đó chỉ có một người con trai.
So pitari kālakate mātaraṃ paṭijaggi.
When his father passed away, he cared for his mother.
Khi cha mất, anh ta chăm sóc mẹ.
Tassa mātā anicchamānasseva ekaṃ kuladhītaraṃ ānesi.
His mother brought a girl from a good family, even though he was unwilling.
Mặc dù người mẹ không muốn, anh ta vẫn cưới một cô gái con nhà gia giáo.
Sā pubbabhāge sassuṃ sampiyāyitvā pacchā puttadhītāhi vaḍḍhamānā taṃ nīharitukāmā ahosi.
She, having at first been affectionate towards her mother-in-law, later, as her children grew, wished to drive her out.
Ban đầu, cô ta rất yêu thương mẹ chồng, nhưng sau khi có con cái, cô ta muốn đuổi bà đi.
Tassā pana mātāpi tasmiṃyeva ghare vasati.
Her own mother also lived in that same house.
Mẹ của cô ta cũng sống trong ngôi nhà đó.
Sā sāmikassa santike sassuyā nānappakāraṃ dosaṃ vatvā paribhinditvā ‘‘ahaṃ te mātaraṃ posetuṃ na sakkomi, mārehi na’’nti vatvā ‘‘manussamāraṇaṃ nāma bhāriyaṃ, kathaṃ naṃ māremī’’ti vutte ‘‘niddokkamanakāle naṃ mañcakeneva saddhiṃ gahetvā susumāranadiyaṃ khipissāma, atha naṃ susamārā khādissantī’’ti āha.
She spoke various faults of the mother-in-law to her husband, causing a rift, and said, “I cannot support your mother; kill her.” When he said, “Killing a human being is a serious matter, how can I kill her?” she replied, “When she is asleep, we will take her along with her bed and throw her into the Susumāra river, and then the crocodiles will devour her.”
Cô ta nói đủ thứ lỗi của mẹ chồng với chồng, chia rẽ họ, rồi nói: “Con không thể nuôi mẹ của chàng được, hãy giết bà ấy đi.” Khi anh chồng nói: “Giết người là một việc khó khăn, làm sao con có thể giết bà ấy được?” Cô ta đáp: “Khi bà ấy ngủ say, chúng ta sẽ khiêng bà ấy cả giường ném xuống sông cá sấu, rồi cá sấu sẽ ăn thịt bà ấy.”
‘‘Tuyhaṃ pana mātā kaha’’nti?
“But where is your mother?”
“Vậy còn mẹ của nàng ở đâu?”
‘‘Tassāyeva santike supatī’’ti.
“She sleeps next to her.”
“Bà ấy đang ngủ cạnh bà ấy.”
‘‘Tena hi gaccha, tassā nipannamañcake rajjuṃ bandhitvā saññaṃ karohī’’ti.
“Then go, tie a rope to her bed where she sleeps, and make a sign.”
“Vậy thì hãy đi, buộc dây vào giường bà ấy đang nằm và đánh dấu.”
Sā tathā katvā ‘‘katā me saññā’’ti āha.
She did so and said, “My sign is made.”
Cô ta làm theo và nói: “Con đã đánh dấu rồi.”
Itaro ‘‘thokaṃ adhivāsehi, manussā tāva niddāyantū’’ti niddāyanto viya nipajjitvā gantvā taṃ rajjukaṃ bhariyāya mātu mañcake bandhitvā bhariyaṃ pabodhetvā ubhopi gantvā taṃ mañcakeneva saddhiṃ ukkhipitvā nadiyaṃ khipiṃsu.
The other said, “Wait a little, let the people sleep.” Pretending to sleep, he went and tied that rope to his wife’s mother’s bed, woke his wife, and both of them went and lifted that bed with her on it and threw it into the river.
Anh chồng nói: “Hãy đợi một chút, để mọi người ngủ đã.” Rồi anh ta giả vờ ngủ, sau đó đi buộc sợi dây đó vào giường của mẹ vợ, đánh thức vợ dậy, cả hai cùng khiêng chiếc giường đó ném xuống sông.
Tattha naṃ niddāyamānaṃ susumārā viddhaṃsetvā khādiṃsu.
There, as she slept, the crocodiles tore her apart and devoured her.
Ở đó, cá sấu đã xé xác và ăn thịt bà ấy khi bà đang ngủ.
Sā punadivase mātu parivattitabhāvaṃ ñatvā ‘‘sāmi, mama mātāva māritā, idāni tava mātaraṃ mārehī’’ti vatvā ‘‘tena hi sādhū’’ti vutte ‘‘susāne citakaṃ katvā aggimhi naṃ pakkhipitvā māressāmā’’ti āha.
The next day, knowing that her mother had been replaced, she said, “My own mother has been killed, now kill your mother.” When he said, “Very well,” she replied, “We will make a pyre in the charnel ground, put her in the fire, and kill her.”
Ngày hôm sau, cô ta biết mẹ mình đã bị thay thế, liền nói: “Chàng ơi, chính mẹ con đã bị giết, bây giờ hãy giết mẹ chàng đi.” Khi anh chồng nói: “Vậy thì tốt thôi.” Cô ta nói: “Chúng ta sẽ dựng giàn hỏa thiêu ở nghĩa địa, rồi ném bà ấy vào lửa để giết.”
Atha naṃ niddāyamānaṃ ubhopi susānaṃ netvā ṭhapayiṃsu.
Then, while she was sleeping, both of them took her to the charnel ground and laid her down.
Rồi cả hai khiêng bà ấy đến nghĩa địa khi bà đang ngủ và đặt ở đó.
Tattha sāmiko bhariyaṃ āha ‘‘aggi te ābhato’’ti?
There, the husband asked his wife, “Have you brought the fire?”
Ở đó, người chồng hỏi vợ: “Nàng đã mang lửa đến chưa?”
‘‘Pamuṭṭhāsmi, sāmī’’ti.
“I forgot it, my lord.”
“Con quên mất rồi, chàng ơi.”
‘‘Tena hi gantvā ānehī’’ti.
“Then go and bring it.”
“Vậy thì hãy đi mang đến.”
‘‘Na sakkomi sāmi, gantuṃ, tayi gatepi ṭhātuṃ na sakkhissāmi, ubhopi mayaṃ gacchissāmā’’ti.
“I cannot go, my lord; I will not be able to stay if you go. Both of us will go.”
“Con không thể đi được, chàng ơi. Ngay cả khi chàng đi, con cũng không thể ở lại một mình được. Cả hai chúng ta hãy cùng đi.”
Tesu gatesu mahallikā sītavātena pabodhitā susānabhāvaṃ ñatvā ‘‘ime maṃ māretukāmā aggiatthāya gatā’’ti ca upadhāretvā ‘‘na me balaṃ jānantī’’ti ekaṃ matakaḷevaraṃ gahetvā mañcake nipajjāpetvā upari pilotikāya paṭicchādetvā sayaṃ palāyitvā tattheva leṇaguhaṃ pāvisi.
When they had gone, the old woman, awakened by the cold wind, realized it was a charnel ground and, thinking, “These people intend to kill me and have gone for fire,” and also thinking, “They do not know my strength,” she took a corpse, laid it on the bed, covered it with a piece of cloth, and then fled herself, entering a cave-dwelling nearby.
Khi họ đi, bà lão bị đánh thức bởi gió lạnh, biết mình đang ở nghĩa địa và nghĩ: “Chúng muốn giết mình, chúng đã đi lấy lửa.” Rồi bà nghĩ: “Chúng không biết sức lực của mình đâu.” Bà liền lấy một xác chết, đặt lên giường, phủ vải lên trên, rồi tự mình bỏ trốn và vào một hang đá ở ngay đó.
Itare aggiṃ āharitvā ‘‘mahallikā’’ti saññāya kaḷevaraṃ jhāpetvā pakkamiṃsu.
The others brought fire, and mistaking the corpse for the old woman, they burned it and departed.
Hai người kia mang lửa đến, tưởng là bà lão, đốt xác chết rồi bỏ đi.
Ekena corena tasmiṃ guhāleṇe pubbe bhaṇḍikā ṭhapitā, so ‘‘taṃ gaṇhissāmī’’ti āgantvā mahallikaṃ disvā ‘‘ekā yakkhinī bhavissati, bhaṇḍikā me amanussapariggahitā’’ti ekaṃ bhūtavejjaṃ ānesi.
A certain thief had previously hidden a bundle in that cave-dwelling. He came to retrieve it and, seeing the old woman, thought, “This must be a yakkhiṇī, my bundle is possessed by a non-human,” and brought an exorcist.
Trước đó, một tên trộm đã giấu một gói đồ trong hang đá đó. Hắn ta đến để lấy đồ, thấy bà lão, liền nghĩ: “Đây chắc chắn là một nữ dạ xoa, gói đồ của mình đã bị yêu quái chiếm giữ.” Hắn ta liền mời một thầy trừ tà đến.
Vejjo mantaṃ karonto guhaṃ pāvisi.
The exorcist, chanting mantras, entered the cave.
Thầy trừ tà vừa niệm thần chú vừa bước vào hang.
Atha naṃ sā āha ‘‘nāhaṃ yakkhinī, ehi ubhopi imaṃ dhanaṃ bhājessāmā’’ti.
Then she said to him, “I am not a yakkhiṇī; come, both of us will share this treasure.”
Rồi bà lão nói với ông ta: “Ta không phải là nữ dạ xoa, hãy đến đây, cả hai chúng ta sẽ chia số của cải này.”
‘‘Kathaṃ saddahitabba’’nti?
“How can I believe you?”
“Làm sao có thể tin được?”
‘‘Tava jivhaṃ mama jivhāya ṭhapehī’’ti.
“Place your tongue on my tongue.”
“Hãy đặt lưỡi của ông lên lưỡi của ta.”
So tathā akāsi.
He did so.
Ông ta làm theo.
Athassa sā jivhaṃ ḍaṃsitvā chinditvā pātesi.
Then she bit his tongue, severed it, and dropped it.
Rồi bà lão cắn đứt lưỡi ông ta và làm rơi xuống.
Bhūtavejjo ‘‘addhā esā yakkhinī’’ti jivhāya lohitaṃ paggharantiyā viravamāno palāyi.
The exorcist, thinking, “Indeed, this is a yakkhiṇī,” fled, screaming, with blood gushing from his tongue.
Thầy trừ tà nghĩ: “Chắc chắn đây là nữ dạ xoa.” Ông ta vừa la hét vừa bỏ chạy, máu từ lưỡi chảy ra.
Mahallikā punadivase maṭṭhasāṭakaṃ nivāsetvā nānāratanabhaṇḍikaṃ gahetvā gharaṃ agamāsi.
The old woman, the next day, wearing a clean garment and taking various jeweled articles, went home.
Ngày hôm sau, bà lão mặc bộ y phục sạch sẽ, mang theo gói đồ trang sức quý giá và trở về nhà.
Suṇisā taṃ disvā ‘‘kahaṃ te, amma, idaṃ laddha’’nti pucchi.
Her daughter-in-law, seeing her, asked, ‘‘Mother, where did you get this?’’
Cô con dâu thấy vậy liền hỏi: “Mẹ ơi, mẹ tìm thấy cái này ở đâu?”
‘‘Amma, etasmiṃ susāne dārucitakāya jhāpitā evarūpaṃ labhantī’’ti.
‘‘Mother, in this charnel ground, one who is burned on a pyre of wood obtains such things.’’
“Con ơi, ở nghĩa địa đó, ai bị thiêu trên giàn hỏa thiêu bằng củi thì sẽ nhận được những thứ như thế này.”
‘‘Amma, mayāpi sakkā laddhu’’nti.
‘‘Mother, can I also obtain it?’’
“Mẹ ơi, con cũng có thể tìm được sao?”
‘‘Mādisī hutvā labhissasī’’ti.
‘‘You will obtain it by becoming like me.’’
“Con phải giống như mẹ thì mới tìm được.”
Sā laddhabhaṇḍikalobhena sāmikassa kathetvā tattha attānaṃ jhāpesi.
She, out of greed for the obtained articles, told her husband and had herself burned there.
Vì lòng tham của cải, cô ta kể với chồng và tự thiêu mình ở đó.
Atha naṃ punadivase sāmiko apassanto ‘‘amma, imāyapi velāya tvaṃ āgatā, suṇisā te nāgacchatī’’ti āha.
Then, the next day, her husband, not seeing her, said, ‘‘Mother, by this time you have come, but your daughter-in-law does not come.’’
Rồi ngày hôm sau, người chồng không thấy cô ta, liền nói: “Mẹ ơi, giờ này mẹ đã về rồi, nhưng con dâu của mẹ vẫn chưa về.”
Sā taṃ sutvā ‘‘are pāpapurisa, kiṃ matā nāma āgacchantī’’ti taṃ tajjetvā gāthamāha –
She, hearing that, rebuked him, saying, ‘‘Hey, wicked man, do the dead ever return?’’ and recited a verse –
Bà lão nghe vậy, liền mắng anh ta: “Này kẻ ác độc, người chết rồi làm sao mà về được?” Rồi bà đọc bài kệ:
Tattha somanassanti somanassaṃ uppādetvā.
Here, somanassaṃ means having produced joy.
Ở đây, somanassa có nghĩa là tạo ra niềm hoan hỷ.
‘‘Somanassā’’tipi pāṭho, somanassavatī hutvāti attho.
There is also the reading ‘‘Somanassā’’ti, meaning having become joyful.
Cũng có bản đọc là “Somanassā”, nghĩa là với niềm hoan hỷ.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yamahaṃ ‘‘imaṃ me nissāya putto puttadhītāhi vaḍḍhissati, mañca mahallikakāle posessatī’’ti māliniṃ candanussadaṃ katvā alaṅkaritvā somanassajātā ānesiṃ.
This is what is said: Whom I brought, having adorned her with garlands and sandalwood paste, having become joyful, thinking, ‘‘Relying on her, my son will grow with children, and she will support me in my old age.’’
Điều này có nghĩa là: “Người mà ta đã trang điểm bằng vòng hoa và hương trầm, mang về với niềm hoan hỷ, nghĩ rằng ‘Nhờ có người này mà con trai ta sẽ có con cái, và người ấy sẽ nuôi dưỡng ta khi về già’.”
Sā maṃ ajja gharā nīharati, saraṇatoyeva me bhayaṃ uppannanti.
She now casts me out of the house; fear has arisen from my very refuge.
Chính người ấy hôm nay lại đuổi ta ra khỏi nhà, hiểm nguy đã phát sinh từ nơi nương tựa của ta.
‘‘Mahārāja, suṇisā viya sassuyā mahājanassa rājā paṭisaraṇaṃ, tato bhaye uppanne kiṃ sakkā kātuṃ, sallakkhehi, devā’’ti.
‘‘Great King, just as a daughter-in-law is a refuge for her mother-in-law, so is the king a refuge for the populace; when fear arises from that, what can be done? Reflect, Your Majesty.’’
“Tâu Đại vương, như người con dâu là nơi nương tựa của mẹ chồng, thì nhà vua là nơi nương tựa của đại chúng. Nếu hiểm nguy phát sinh từ đó, thì có thể làm gì được? Xin Đại vương hãy suy xét!”
Taṃ sutvā rājā ‘‘tāta, nāhaṃ tayā ānītakāraṇāni jānāmi, corameva me dehī’’ti āha.
Hearing that, the king said, ‘‘My dear, I do not know the reasons you have brought; just give me the thief.’’
Nghe vậy, nhà vua nói: “Này con, ta không biết những lý do con đã đưa ra. Hãy giao tên trộm cho ta.”
So ‘‘rājānaṃ rakkhissāmī’’ti aparampi udāharaṇaṃ āhari.
He, thinking, ‘‘I will protect the king,’’ brought forth another example.
Ông ta lại đưa ra một ví dụ khác để bảo vệ nhà vua.
Deva, pubbe imasmiṃyeva nagare eko puriso patthanaṃ katvā puttaṃ labhi.
‘‘Your Majesty, formerly in this very city, a certain man made a wish and obtained a son.
Tâu Đại vương, trước đây, tại chính thành phố này, có một người đàn ông đã cầu nguyện và có được một người con trai.
So puttajātakāle ‘‘putto me laddho’’ti somanassajāto taṃ posetvā vayappattakāle dārena saṃyojetvā aparabhāge jaraṃ patvā kammaṃ adhiṭṭhātuṃ nāsakkhi.
When the son was born, he, joyful that he had obtained a son, raised him, and when he reached maturity, he joined him with a wife, and later, having reached old age, he was unable to oversee work.
Khi con trai ra đời, ông ta vui mừng vì “đã có con trai”, nuôi dưỡng nó, và khi nó đến tuổi trưởng thành, ông ta gả vợ cho nó. Về sau, khi về già, ông ta không thể làm việc được nữa.
Atha naṃ putto ‘‘tvaṃ kammaṃ kātuṃ na sakkosi, ito nikkhamā’’ti gehato nīhari.
Then his son cast him out of the house, saying, ‘‘You cannot do work, leave here.’’
Rồi người con trai đuổi ông ta ra khỏi nhà, nói: “Cha không thể làm việc được nữa, hãy đi khỏi đây.”
So kicchena kasirena jīvikaṃ kappento paridevamāno gāthamāha –
He, living with difficulty and hardship, lamenting, recited a verse –
Ông ta sống một cuộc đời khốn khó, than vãn và đọc bài kệ:
‘‘Mahārāja, yathā pitā nāma mahallako paṭibalena puttena rakkhitabbo, evaṃ sabbopi janapado raññā rakkhitabbo, idañca bhayaṃ uppajjamānaṃ sabbasatte rakkhantassa rañño santikā uppannaṃ, iminā kāraṇena ‘asuko nāma coro’ti jānāhi, devā’’ti.
‘‘Great King, just as a father, being old, should be protected by his strong son, so should the entire populace be protected by the king; and this fear, arising, has arisen from the king who protects all beings. For this reason, know, Your Majesty, ‘such and such is the thief’.’’
“Tâu Đại vương, như người cha già cần được người con trai mạnh mẽ bảo vệ, thì toàn bộ quốc gia cũng cần được nhà vua bảo vệ. Nhưng hiểm nguy này lại phát sinh từ chính nhà vua, người bảo vệ tất cả chúng sinh. Vì lý do này, xin Đại vương hãy biết rằng ‘kẻ trộm là người kia’, tâu Đại vương.”
‘‘Tāta, nāhaṃ kāraṇaṃ vā akāraṇaṃ vā jānāmi, coraṃ vā me dehi, tvaññeva vā coro hohī’’ti evaṃ rājā punappunaṃ māṇavaṃ anuyuñji.
‘‘My dear, I do not know the reason or the unreason; either give me the thief, or you yourself be the thief,’’ thus the king repeatedly questioned the young man.
“Này con, ta không biết lý do hay phi lý do, hãy giao tên trộm cho ta, hoặc chính con hãy là tên trộm.” Nhà vua cứ lặp đi lặp lại hỏi chàng trai như vậy.
Atha naṃ so evamāha ‘‘kiṃ pana, mahārāja, ekaṃsena coragahaṇaṃ rocethā’’ti?
Then he said to him, ‘‘But, Great King, do you absolutely desire the capture of the thief?’’
Rồi chàng trai nói với nhà vua: “Tâu Đại vương, vậy Người có chấp nhận việc bắt trộm một cách dứt khoát không?”
‘‘Āma, tātā’’ti.
‘‘Yes, my dear,’’ he replied.
“Vâng, này con.”
Tena hi ‘‘asuko ca asuko ca coro’’ti parisamajjhe pakāsemīti.
‘‘In that case, I will declare in the midst of the assembly, ‘Such and such are the thieves’.’’
“Vậy thì con sẽ công bố trước hội đồng rằng ‘người kia và người kia là kẻ trộm’.”
‘‘Evaṃ karohi, tātā’’ti.
‘‘Do so, my dear,’’ he said.
“Hãy làm như vậy, này con.”
So tassa vacanaṃ sutvā ‘‘ayaṃ rājā attānaṃ rakkhituṃ na deti, gaṇhissāmi dāni cora’’nti sannipatite mahājane āmantetvā imā gāthā āha –
He, hearing his words, thinking, ‘‘This king does not allow himself to be protected; now I will seize the thief,’’ assembled the great multitude and recited these verses –
Nghe lời nhà vua, chàng trai nghĩ: “Vị vua này không cho phép ta bảo vệ chính mình, bây giờ ta sẽ bắt kẻ trộm.” Rồi chàng trai triệu tập đại chúng và đọc những bài kệ này:
Tattha yatodakaṃ tadādittanti yaṃ udakaṃ tadeva ādittaṃ.
Here, yatodakaṃ tadādittanti means that where there is water, there is fire.
Ở đây, yatodakaṃ tadāditta có nghĩa là nơi có nước, chính nơi đó cháy.
Yato khemanti yato rājato khemena bhavitabbaṃ, tatova bhayaṃ uppannaṃ.
Yato khemanti means that from whom, the king, there should be safety, from him fear has arisen.
Yato khema có nghĩa là từ nhà vua, nơi đáng lẽ phải an toàn, chính từ đó hiểm nguy đã phát sinh.
Atthaguttā viharathāti tumhe idāni anāthā jātā, attānaṃ mā vināsetha, attanāva guttā hutvā attano santakaṃ dhanadhaññaṃ rakkhatha, rājā nāma mahājanassa paṭisaraṇaṃ, tato tumhākaṃ bhayaṃ uppannaṃ, rājā ca purohito ca vilopakhādakacorā, sace core gaṇhitukāmattha, ime dve gahetvā kammakaraṇaṃ karothāti.
" Dwell protected by yourselves" – you are now helpless, do not destroy yourselves. Protect your own wealth and grain by being your own protectors. A king is a refuge for the people, but from him, fear has arisen for you. Both the king and the chaplain are plunderers and thieves. If you wish to catch thieves, seize these two and punish them."
Atthaguttā viharathā có nghĩa là: “Các người bây giờ đã trở thành vô chủ, đừng tự hủy hoại mình, hãy tự mình bảo vệ của cải và ngũ cốc của mình. Nhà vua là nơi nương tựa của đại chúng, nhưng hiểm nguy đã phát sinh từ đó cho các người. Nhà vua và vị trưởng tế là những kẻ trộm cắp, những kẻ ăn cướp. Nếu các người muốn bắt kẻ trộm, hãy bắt hai người này và thi hành hình phạt.”
Te tassa kathaṃ sutvā cintayiṃsu ‘‘ayaṃ rājā rakkhaṇārahopi samāno idāni aññassa upari dosaṃ āropetvā attano bhaṇḍikaṃ sayameva pokkharaṇiyaṃ ṭhapetvā coraṃ pariyesāpeti, ito dāni paṭṭhāya puna corakammassa akaraṇatthāya mārema naṃ pāparājāna’’nti.
Hearing his words, they thought, "This king, though worthy of protection, now blames others, and having himself placed his own goods in the pond, he has someone search for the thief. From now on, so that he does not commit theft again, let us kill this evil king."
Họ nghe câu chuyện đó xong, suy nghĩ: “Vị vua này đáng lẽ phải bảo vệ, nhưng bây giờ lại đổ lỗi cho người khác, tự mình đặt của cải xuống hồ rồi sai người đi tìm kẻ trộm. Từ nay trở đi, để hắn không còn làm việc trộm cắp nữa, chúng ta hãy giết tên vua độc ác này đi!”
Te daṇḍamuggarādihatthā uṭṭhāya tattheva rājānañca purohitañca pothetvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā mahāsattaṃ abhisiñcitvā rajje patiṭṭhapesuṃ.
So, rising with staves and clubs in hand, they beat the king and the chaplain right there, putting an end to their lives. Then they consecrated the Great Being and established him in the kingship.
Họ liền đứng dậy, tay cầm gậy, chùy, v.v., ngay tại đó đánh chết vua và vị thầy tế, rồi làm lễ quán đảnh cho Đại sĩ và đưa ngài lên ngôi vua.
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā ‘‘anacchariyaṃ, upāsaka, pathaviyaṃ padasañjānanaṃ, porāṇakapaṇḍitā evaṃ ākāse padaṃ sañjāniṃsū’’ti vatvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne upāsako ca putto ca sotāpattiphale patiṭṭhitā.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, said, "It is no wonder, lay follower, to recognize footprints on the earth; ancient wise ones recognized footprints in the sky in this manner." Having spoken thus, he revealed the Truths and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, both the lay follower and his son were established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã mang bài pháp thoại này đến, nói rằng: “Này cư sĩ, việc nhận biết dấu chân trên đất không có gì lạ, nhưng các bậc hiền trí thời xưa đã nhận biết dấu chân trên không như vậy đó.” Sau khi thuyết giảng các Chân lý, Ngài đã kết hợp câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, cả cư sĩ và con trai đều chứng đắc quả Dự Lưu.
Tadā pitā kassapo ahosi, padakusalamāṇavo pana ahameva ahosinti.
At that time, the father was Kassapa, and the clever young man who recognized footprints was I myself.
Khi ấy, người cha là Kassapa, còn chàng thanh niên giỏi dấu chân chính là Ta vậy.
Assa indasamo rājāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
" May the king be like Sakka" – this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain discouraged bhikkhu.
“Vua sẽ như Đế Thích” – Câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ khưu chán nản.
Tañhi bhikkhuṃ satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ bhikkhu ukkaṇṭhitosī’’ti pucchitvā ‘‘sacca’’nti vutte ‘‘bhikkhu sinerukampanavāto kiṃ purāṇapaṇṇāni na kampessati, yasasamaṅginopi sappurisā āyasakyaṃ pāpuṇanti, kilesā nāmete parisuddhasattepi saṃkiliṭṭhe karonti, pageva tādisa’’nti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher asked that bhikkhu, "Is it true, bhikkhu, that you are discouraged?" When he replied, "It is true," the Teacher said, "Bhikkhu, will not the wind that shakes Mount Sineru also shake old leaves? Even good people endowed with fame attain decline. These defilements make even pure beings defiled, how much more so such a one as you." Being entreated by him, the Teacher related a past event.
Bậc Đạo Sư hỏi vị Tỳ khưu đó: “Này Tỳ khưu, có thật là ông đang chán nản không?” Khi được trả lời “Thật vậy”, Ngài nói: “Này Tỳ khưu, cơn gió làm rung chuyển núi Sineru há lại không làm rung chuyển những chiếc lá cũ sao? Ngay cả những bậc thiện nhân có đầy đủ danh tiếng cũng có thể gặp tai họa. Những phiền não này làm cho ngay cả những chúng sanh thanh tịnh cũng trở nên ô nhiễm, huống chi là người như vậy.” Sau đó, theo lời thỉnh cầu của vị Tỳ khưu, Ngài đã kể chuyện quá khứ.