Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-3

Edit
1224

1. Maṇikuṇḍalavaggo

1. The Maṇikuṇḍala Chapter

1. Chương Maṇikuṇḍala (Maṇikuṇḍalavaggo)

1225
* 1. Maṇikuṇḍalajātakavaṇṇanā
* 1. The Commentary on the Maṇikuṇḍala Jātaka
* 1. Giải thích về Jātaka Maṇikuṇḍala (Maṇikuṇḍalajātakavaṇṇanā)
1226
Jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale cāti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarañño antepure sabbatthasādhakaṃ paduṭṭhāmaccaṃ ārabbha kathesi.
“Lost are the chariot, horses, and jewelled earrings” – the Teacher related this while residing at Jetavana, concerning a corrupt minister who was all-accomplishing in the inner palace of the King of Kosala.
Jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale cā (Mất xe ngựa và vòng ngọc) – câu này Đức Phật đã kể khi đang trú tại Jetavana, liên quan đến vị quan đại thần hư hỏng, người có thể làm mọi việc trong nội cung của vua Kosala.
Vatthu heṭṭhā vitthāritameva.
The story, indeed, has been elaborated below.
Câu chuyện cơ bản đã được kể chi tiết ở phần dưới.
Idha pana bodhisatto bārāṇasirājā ahosi.
Here, however, the Bodhisatta was the King of Bārāṇasī.
Ở đây, Bồ Tát là vua Bārāṇasī.
Paduṭṭhāmacco kosalarājānaṃ ānetvā kāsirajjaṃ gāhāpetvā bārāṇasirājānaṃ bandhāpetvā bandhanāgāre pakkhipāpesi.
The corrupt minister brought the King of Kosala, made him seize the kingdom of Kāsī, and had the King of Bārāṇasī imprisoned in the dungeon.
Vị quan đại thần hư hỏng đã đưa vua Kosala đến, chiếm lấy vương quốc Kāsī, và bắt giam vua Bārāṇasī vào ngục tối.
Rājā jhānaṃ uppādetvā ākāse pallaṅkena nisīdi, corarañño sarīre ḍāho uppajji.
The King developed jhāna and sat cross-legged in the sky, and a burning sensation arose in the body of the rogue king.
Đức vua đã phát sinh thiền định và ngồi kiết già trên không trung. Vị vua cướp đoạt bị nổi mụn nước trên cơ thể.
So bārāṇasirājānaṃ upasaṅkamitvā paṭhamaṃ gāthamāha –
He approached the King of Bārāṇasī and first spoke the verse –
Ông ta đến gặp vua Bārāṇasī và đọc câu kệ đầu tiên:
1227
1.
1.
1.
1228
‘‘Jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale ca, putte ca dāre ca tatheva jīno;
“Lost are the chariot, horses, and jewelled earrings, and likewise lost are sons and wives;
“Mất xe ngựa và vòng ngọc, mất cả con cái và vợ,
1229
Sabbesu bhogesu asesakesu, kasmā na santappasi sokakāle’’ti.
Lost are all possessions without exception, why do you not grieve in this time of sorrow?”
Mất tất cả tài sản không còn gì, sao ngài không buồn rầu trong lúc đau khổ?”
1230
Tattha jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale cāti mahārāja, tvaṃ rathañca assañca maṇikuṇḍalāni ca jīno, ‘‘jīno rathasse ca maṇikuṇḍale cā’’tipi pāṭho.
Therein, jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale cāti: “Great king, you have lost the chariot, horses, and jewelled earrings.” The reading “jīno rathasse ca maṇikuṇḍale cā” is also found.
Ở đây, jīno rathassaṃ maṇikuṇḍale cā có nghĩa là: Tâu Đại vương, ngài đã mất xe ngựa, mất ngựa và mất vòng ngọc. Cũng có bản đọc là “jīno rathasse ca maṇikuṇḍale cā” (mất xe ngựa và vòng ngọc).
Asesakesūti nissesakesu.
Asesakesūti: “without exception.”
Asesakesū có nghĩa là: Không còn gì cả.
1231
Taṃ sutvā bodhisatto imā dve gāthā abhāsi –
Hearing that, the Bodhisatta spoke these two verses –
Nghe vậy, Bồ-tát đã nói hai câu kệ này:
1232
2.
2.
2.
1233
‘‘Pubbeva maccaṃ vijahanti bhogā, macco vā te pubbataraṃ jahāti;
“Possessions abandon a mortal first, or a mortal abandons them earlier;
“Tài sản bỏ người phàm trước, hoặc người phàm bỏ chúng trước;
1234
Asassatā bhogino kāmakāmi, tasmā na socāmahaṃ sokakāle.
Possessors of wealth, seekers of sensual pleasures, are impermanent, therefore I do not grieve in this time of sorrow.
Kẻ hưởng thụ dục lạc là vô thường, vì vậy ta không sầu muộn trong lúc sầu muộn.
1235
3.
3.
3.
1236
‘‘Udeti āpūrati veti cando, atthaṃ tapetvāna paleti sūriyo;
“The moon rises, becomes full, and wanes; the sun, having shone, sets and disappears;
Mặt trăng mọc, tròn rồi lại khuyết, mặt trời chiếu sáng rồi lặn mất;
1237
Viditā mayā sattuka lokadhammā, tasmā na socāmahaṃ sokakāle’’ti.
The worldly conditions, O enemy, are known to me, therefore I do not grieve in this time of sorrow.”
Này kẻ thù, các pháp thế gian ta đã biết, vì vậy ta không sầu muộn trong lúc sầu muộn.”
1238
Tattha pubbeva maccanti maccaṃ vā bhogā pubbeva paṭhamataraññeva vijahanti, macco vā te bhoge pubbataraṃ jahāti.
Therein, pubbeva maccanti: “Possessions abandon a mortal first, or a mortal abandons those possessions earlier.”
Trong đó, pubbeva maccaṃ (trước khi chết) có nghĩa là tài sản bỏ người phàm trước, hoặc người phàm bỏ tài sản đó trước.
Kāmakāmīti corarājānaṃ ālapati.
Kāmakāmīti: addresses the rogue king.
Kāmakāmī (kẻ hưởng dục) là lời gọi vị vua cướp.
Ambho, kāme kāmayamāna kāmakāmi bhogino nāma loke asassatā, bhogesu vā naṭṭhesu jīvamānāva abhogino honti, bhoge vā pahāya sayaṃ nassanti, tasmā ahaṃ mahājanassa sokakālepi na socāmīti attho.
“Indeed, O seeker of sensual pleasures, O kāmakāmī, possessors of wealth in the world are impermanent; or, when wealth is lost, they become dispossessed while still living; or, abandoning wealth, they themselves perish. Therefore, I do not grieve even in this time of sorrow for the multitude,” is the meaning.
Này kẻ hưởng dục, những kẻ hưởng tài sản trên đời là vô thường, hoặc khi tài sản mất đi, họ vẫn còn sống nhưng không còn tài sản, hoặc họ bỏ tài sản mà tự mình hoại diệt, vì vậy ta không sầu muộn ngay cả trong lúc đại chúng sầu muộn.
Viditā mayā sattuka lokadhammāti corarājānaṃ ālapati.
Viditā mayā sattuka lokadhammāti: addresses the rogue king.
Viditā mayā sattuka lokadhammā (Này kẻ thù, các pháp thế gian ta đã biết) là lời gọi vị vua cướp.
Ambho, sattuka, mayā lābho alābho yaso ayasotiādayo lokadhammā viditā.
“Indeed, O enemy, the worldly conditions such as gain and loss, fame and disrepute, are known to me.”
Này kẻ thù, các pháp thế gian như lợi lộc, tổn thất, danh tiếng, ô nhục, v.v. ta đã biết.
Yatheva hi cando udeti ca pūrati ca puna ca khīyati, yathā ca sūriyo andhakāraṃ vidhamanto mahantaṃ ālokaṃ tapetvāna puna sāyaṃ atthaṃ paleti atthaṃ gacchati na dissati, evameva bhogā uppajjanti ca nassanti ca, tattha kiṃ sokena, tasmā na socāmīti attho.
“Just as the moon rises and becomes full and then wanes again, and just as the sun, dispelling darkness and shining with great light, then sets and disappears in the evening, so too possessions arise and perish. What is there to grieve about in that? Therefore, I do not grieve,” is the meaning.
Quả thật, cũng như mặt trăng mọc rồi tròn rồi lại khuyết, và mặt trời xua tan bóng tối, chiếu sáng rực rỡ rồi lại lặn vào buổi tối, không còn thấy nữa, cũng vậy, tài sản sinh ra rồi diệt đi, có gì đáng sầu muộn? Vì vậy ta không sầu muộn.
1239
Evaṃ mahāsatto corarañño dhammaṃ desetvā idāni tameva coraṃ garahanto āha –
Having thus taught the Dhamma to the rogue king, the Great Being now rebuked that same rogue, saying –
Sau khi thuyết pháp cho vị vua cướp như vậy, Đại Bồ-tát giờ đây quở trách chính vị vua cướp đó và nói:
1240
4.
4.
4.
1241
‘‘Alaso gihī kāmabhogī na sādhu, asaññato pabbajito na sādhu;
“An indolent householder, a sensual pleasure-seeker, is not good; an unrestrained renunciant is not good;
“Người tại gia biếng nhác, hưởng thụ dục lạc là không tốt; người xuất gia phóng dật là không tốt;
1242
Rājā na sādhu anisammakārī, yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.
A king who acts without deliberation is not good; a wise person who is angry, that is not good.
Vua hành động không suy xét là không tốt; bậc hiền trí nóng giận là không tốt.
1243
5.
5.
5.
1244
‘‘Nisamma khattiyo kayirā, nānisamma disampati;
“A khattiya should act after deliberation, not without deliberation, O lord of the land;
Bậc Sát-đế-lợi nên hành động sau khi suy xét, chớ không nên hành động không suy xét, hỡi chủ đất;
1245
Nisammakārino rāja, yaso kitti ca vaḍḍhatī’’ti.
For one who acts with deliberation, O king, fame and glory increase.”
Này vua, danh tiếng và sự vinh quang của người hành động có suy xét sẽ tăng trưởng.”
1246
Imā pana dve gāthā heṭṭhā vitthāritāyeva.
These two verses, however, have already been elaborated below.
Hai câu kệ này đã được giải thích chi tiết ở phần trước.
Corarājā bodhisattaṃ khamāpetvā rajjaṃ paṭicchāpetvā attano janapadameva gato.
The rogue king apologized to the Bodhisatta, returned the kingdom, and went back to his own country.
Vua cướp đã xin lỗi Bồ-tát, trao lại vương quốc và trở về lãnh thổ của mình.
1247
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kosalarājā ānando ahosi, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka – “At that time, the King of Kosala was Ānanda; the King of Bārāṇasī, however, was I myself.”
Đức Thế Tôn đã kể lại bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, vua Kosala là Ānanda, còn vua Bārāṇasī chính là ta.”
1248
Maṇikuṇḍalajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first commentary on the Maṇikuṇḍala Jātaka is finished.
Chuyện Maṇikuṇḍala Jātaka thứ nhất.
1249
* 2. Sujātajātakavaṇṇanā
* 2. The Commentary on the Sujāta Jātaka
* 2. Chuyện Sujāta Jātaka
1250
Kiṃ nu santaramānovāti idaṃ satthā jetavane viharanto matapitikaṃ kuṭumbikaṃ ārabbha kathesi.
“Why do you, as if in haste” – the Teacher related this while residing at Jetavana, concerning a householder whose parents had died.
Kiṃ nu santaramānovā (Sao lại vội vàng) – Đức Thế Tôn đã kể câu chuyện này khi ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến một gia chủ mất cha mẹ.
So kira pitari mate paridevamāno vicarati, sokaṃ vinodetuṃ na sakkoti.
He, it is said, wandered lamenting after his father’s death and was unable to dispel his sorrow.
Người đó than khóc sau khi cha qua đời, không thể xua tan nỗi sầu muộn.
Atha satthā tassa sotāpattiphalūpanissayaṃ disvā sāvatthiṃ piṇḍāya caritvā pacchāsamaṇaṃ ādāya tassa gehaṃ gantvā paññattāsane nisinno taṃ vanditvā nisinnaṃ ‘‘kiṃ, upāsaka, socasī’’ti vatvā ‘‘āma, bhante’’ti vutte ‘‘āvuso, porāṇakapaṇḍitā paṇḍitānaṃ vacanaṃ sutvā pitari kālakate na sociṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher, seeing his predisposition for the fruit of stream-entry, having wandered for alms in Sāvatthi, and taking his attendant monk, went to his house and sat on the prepared seat. When the layman, having paid homage to him and sat down, was asked, "Lay follower, why do you grieve?" and he replied, "Yes, Venerable Sir," the Teacher said, "Friend, ancient wise men, having heard the words of the wise, did not grieve when their fathers passed away." Being requested by him, he related a past event.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy người đó có duyên lành chứng đắc quả Dự lưu, liền đi khất thực ở Sāvatthī, rồi cùng vị tỳ khưu thị giả đến nhà người đó, ngồi trên chỗ đã được sắp đặt, hỏi người đó sau khi người đó đã đảnh lễ và ngồi xuống: “Này cận sự nam, sao ông lại sầu muộn?” Khi người đó đáp: “Bạch Thế Tôn, vâng,” Đức Thế Tôn liền nói: “Này hiền giả, các bậc hiền trí thời xưa, khi cha qua đời, đã không sầu muộn sau khi nghe lời của các bậc hiền trí,” rồi theo lời thỉnh cầu của người đó, ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1251
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kuṭumbikagehe nibbatti, ‘‘sujātakumāro’’tissa nāmaṃ kariṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born in the house of a householder. They named him Sujāta Kumāra.
Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình gia chủ, và họ đặt tên cho ngài là “Sujāta Kumāra” (Thái tử Sujāta).
Tassa vayappattassa pitāmaho kālamakāsi.
When he reached maturity, his paternal grandfather passed away.
Khi ngài đến tuổi trưởng thành, ông nội ngài qua đời.
Athassa pitā pitu kālakiriyato paṭṭhāya sokasamappito āḷāhanaṃ gantvā āḷāhanato aṭṭhīni āharitvā attano ārāme mattikāthūpaṃ katvā tāni tattha nidahitvā gatagatavelāya thūpaṃ pupphehi pūjetvā cetiyaṃ āvijjhanto paridevati, neva nhāyati na limpati na bhuñjati na kammante vicāreti.
Then his father, afflicted with grief from the time of his father's passing, went to the cremation ground, brought the bones from the cremation ground, made a clay stupa in his own garden, deposited them there, and every time he went there, he honored the stupa with flowers, circling the shrine, he lamented. He neither bathed nor anointed himself, nor ate, nor attended to his work.
Sau đó, cha ngài, từ khi cha mình qua đời, chìm đắm trong sầu muộn, đến bãi hỏa táng, mang xương cốt từ bãi hỏa táng về, đắp một tháp đất trong khu vườn của mình, chôn xương cốt vào đó, và mỗi lần đến đó, ông lại cúng hoa lên tháp, đi nhiễu quanh tháp và than khóc, không tắm rửa, không thoa dầu, không ăn uống, không làm việc.
Taṃ disvā bodhisatto ‘‘pitā me ayyakassa matakālato paṭṭhāya sokābhibhūto carati, ṭhapetvā pana maṃ añño etaṃ saññāpetuṃ na sakkoti, ekena naṃ upāyena nissokaṃ karissāmī’’ti bahigāme ekaṃ matagoṇaṃ disvā tiṇañca pānīyañca āharitvā tassa purato ṭhapetvā ‘‘khāda, khāda, piva, pivā’’ti āha.
Seeing this, the Bodhisatta thought, "My father has been overcome with grief since the time of my grandfather's death. No one but me can make him understand. I will make him free from sorrow by some means." Seeing a dead ox outside the village, he brought grass and water, placed them before it, and said, "Eat, eat! Drink, drink!"
Thấy vậy, Bồ-tát nghĩ: “Cha ta từ khi ông nội qua đời đã chìm đắm trong sầu muộn, nhưng ngoài ta ra, không ai có thể làm cho ông tỉnh ngộ, ta sẽ dùng một phương cách để làm cho ông hết sầu muộn,” rồi ngài thấy một con bò chết ở ngoại ô làng, ngài mang cỏ và nước đến, đặt trước con bò và nói: “Ăn đi, ăn đi, uống đi, uống đi.”
Āgatāgatā naṃ disvā ‘‘samma sujāta, kiṃ ummattakosi, matagoṇassa tiṇodakaṃ desī’’ti vadanti.
Everyone who came by, seeing him, said, "Friend Sujāta, are you mad? You are giving grass and water to a dead ox!"
Những người đến thấy ngài đều nói: “Này Sujāta, sao con lại điên rồ vậy, con cho con bò chết cỏ và nước?”
So na kiñci paṭivadati.
He did not reply to anything.
Ngài không đáp lời gì.
Athassa pitu santikaṃ gantvā ‘‘putto te ummattako jāto, matagoṇassa tiṇodakaṃ detī’’ti āhaṃsu.
Then they went to his father and said, "Your son has gone mad; he is giving grass and water to a dead ox."
Sau đó, họ đến gặp cha ngài và nói: “Con trai ông đã trở nên điên rồ, nó cho con bò chết cỏ và nước.”
Taṃ sutvā kuṭumbikassa pitusoko apagato, puttasoko patiṭṭhito.
Hearing this, the householder's father's grief disappeared, and grief for his son arose.
Nghe vậy, nỗi sầu muộn vì cha của gia chủ tan biến, nỗi sầu muộn vì con trai xuất hiện.
So vegenāgantvā ‘‘nanu tvaṃ, tāta sujāta, paṇḍitosi, kiṃkāraṇā matagoṇassa tiṇodakaṃ desī’’ti vatvā dve gāthā abhāsi –
He quickly came and said, "Sujāta, my dear, you are wise, aren't you? For what reason are you giving grass and water to a dead ox?" Saying this, he spoke two verses:
Ông vội vàng đến và nói: “Này con Sujāta, con là người hiền trí, vì lý do gì mà con cho con bò chết cỏ và nước?” rồi ông đã nói hai câu kệ:
1252
6.
6.
6.
1253
‘‘Kiṃ nu santaramānova, lāyitvā haritaṃ tiṇaṃ;
"Why do you, in such haste, having plucked fresh grass,
“Sao con lại vội vàng, cắt cỏ xanh tươi;
1254
Khāda khādāti lapasi, gatasattaṃ jaraggavaṃ.
Lament, 'Eat, eat!' to the old ox whose life has departed?
Nói ‘ăn đi, ăn đi’ với con bò già đã mất mạng?
1255
7.
7.
7.
1256
‘‘Na hi annena pānena, mato goṇo samuṭṭhahe;
Indeed, a dead ox will not rise with food and drink;
Con bò chết không thể sống dậy nhờ thức ăn và nước uống;
1257
Tvañca tucchaṃ vilapasi, yathā taṃ dummatī tathā’’ti.
And you lament in vain, just like a fool."
Con chỉ than khóc vô ích, như kẻ ngu si vậy.”
1258
Tattha santaramānovāti turito viya hutvā.
Therein, santaramānovā means as if in a hurry.
Trong đó, santaramānovā (vội vàng) có nghĩa là như vội vã.
Lāyitvāti lunitvā.
Lāyitvā means having plucked.
Lāyitvā (cắt) có nghĩa là cắt.
Lapasīti vilapasi.
Lapasī means you lament.
Lapasī (than khóc) có nghĩa là than khóc.
Gatasattaṃ jaraggavanti vigatajīvitaṃ jiṇṇagoṇaṃ.
Gatasattaṃ jaraggavaṃ means the old ox whose life has departed.
Gatasattaṃ jaraggavaṃ (con bò già đã mất mạng) có nghĩa là con bò già đã mất sự sống.
Yathā tanti ettha tanti nipātamattaṃ, yathā dummati appapañño vilapeyya, tathā tvaṃ tucchaṃ vilapasīti.
Yathā taṃ: here taṃ is merely a particle; it means, "As a fool, one with little wisdom, would lament, so do you lament in vain."
Yathā taṃ (như vậy) ở đây, taṃ chỉ là một từ ngữ, có nghĩa là “như kẻ ngu si, ít trí tuệ than khóc, con cũng than khóc vô ích như vậy.”
1259
Tato bodhisatto dve gāthā abhāsi –
Then the Bodhisatta spoke two verses:
Sau đó, Bồ-tát đã nói hai câu kệ:
1260
8.
8.
8.
1261
‘‘Tatheva tiṭṭhati sīsaṃ, hatthapādā ca vāladhi;
"Its head remains just as before, and its hands, feet, and tail;
“Đầu vẫn còn nguyên, tay chân và đuôi cũng vậy;
1262
Sotā tatheva tiṭṭhanti, maññe goṇo samuṭṭhahe.
Its ears also remain just as before—I think the ox will rise.
Tai cũng còn nguyên, ta nghĩ con bò sẽ sống dậy.
1263
9.
9.
9.
1264
‘‘Nevayyakassa sīsañca, hatthapādā ca dissare;
But neither the grandfather's head nor his hands and feet are seen;
Nhưng đầu của ông nội, tay chân không còn thấy đâu;
1265
Rudaṃ mattikathūpasmiṃ, nanu tvaññeva dummatī’’ti.
Weeping at a clay stupa, are you not the fool yourself?"
Than khóc bên tháp đất, chẳng lẽ cha mới là kẻ ngu si?”
1266
Tattha tathevāti yathā pubbe ṭhitaṃ, tatheva tiṭṭhati.
Therein, tathevā means as it was before, so it remains.
Trong đó, tathevā (vẫn vậy) có nghĩa là vẫn còn nguyên như trước.
Maññeti etesaṃ sīsādīnaṃ tatheva ṭhitattā ayaṃ goṇo samuṭṭhaheyyāti maññāmi.
Maññe means, "Because these, the head and so on, remain as they were, I think this ox will rise."
Maññe (ta nghĩ) có nghĩa là “vì đầu và các bộ phận khác vẫn còn nguyên như vậy, ta nghĩ con bò này sẽ sống dậy.”
Nevayyakassa sīsañcāti ayyakassa pana sīsañca hatthapādā ca na dissanti.
Nevayyakassa sīsañcāti means, "But the grandfather's head and hands and feet are not seen."
Nevayyakassa sīsañcā (đầu của ông nội không còn thấy) có nghĩa là đầu và tay chân của ông nội không còn thấy nữa.
‘‘Piṭṭhipādā na dissare’’tipi pāṭho.
"Piṭṭhipādā na dissare" is also a reading.
Cũng có bản đọc là “Piṭṭhipādā na dissare” (chân sau không còn thấy).
Nanu tvaññeva dummatīti ahaṃ tāva sīsādīni passanto evaṃ karomi, tvaṃ pana na kiñci passasi, jhāpitaṭṭhānato aṭṭhīni āharitvā mattikāthūpaṃ katvā paridevasi.
Nanu tvaññeva dummatīti means, "I, at least, act this way seeing the head and so on. But you see nothing; you bring bones from the cremation place, make a clay stupa, and lament."
Nanu tvaññeva dummatī (chẳng lẽ cha mới là kẻ ngu si?) có nghĩa là “con thì thấy đầu và các bộ phận khác nên làm như vậy, còn cha thì không thấy gì cả, lại mang xương cốt từ nơi hỏa táng về, đắp tháp đất rồi than khóc.
Iti maṃ paṭicca sataguṇena sahassaguṇena satasahassaguṇena nanu tvaññeva dummati.
Thus, compared to me, are you not the fool a hundredfold, a thousandfold, a hundred thousandfold?
Vì vậy, so với con, cha mới là kẻ ngu si gấp trăm, ngàn, trăm ngàn lần.
Bhijjanadhammā nāma saṅkhārā bhijjanti, tattha kā paridevanāti.
Formations, being subject to breaking, break. What is there to lament about?
Các hành (saṅkhāra) có bản chất hoại diệt thì sẽ hoại diệt, có gì đáng than khóc?”
1267
Taṃ sutvā bodhisattassa pitā ‘‘mama putto paṇḍito idhalokaparalokakiccaṃ jānāti, mama saññāpanatthāya etaṃ kammaṃ akāsī’’ti cintetvā ‘‘tāta sujātapaṇḍita, ‘sabbe saṅkhārā aniccā’ti me ñātā, ito paṭṭhāya na socissāmi, pitusokaharaṇakaputtena nāma tādisena bhavitabba’’nti vatvā puttassa thutiṃ karonto āha –
Hearing that, the Bodhisatta's father thought, "My son is wise; he knows what is beneficial for this world and the next. He did this deed to make me understand." Then, saying, "My dear wise Sujāta, I have understood that 'all formations are impermanent.' From now on, I will not grieve. A son who removes his father's grief should be like this," he praised his son and said:
Nghe vậy, cha của Bồ-tát nghĩ: “Con trai ta là người hiền trí, biết việc ở đời này và đời sau, nó đã làm việc này để làm cho ta tỉnh ngộ,” rồi ông nói: “Này Sujāta hiền trí, ta đã biết ‘tất cả các hành đều vô thường’, từ nay ta sẽ không sầu muộn nữa, một người con xua tan nỗi sầu muộn của cha phải như vậy,” rồi ông ca ngợi con trai và nói:
1268
10.
10.
10.
1269
‘‘Ādittaṃ vata maṃ santaṃ, ghatasittaṃva pāvakaṃ;
“Indeed, me, burning, like a fire sprinkled with ghee;
“Con đã làm ta đang bốc cháy, như lửa được đổ ghee;
1270
Vārinā viya osiñcaṃ, sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
Sprinkling like water, may you extinguish all my anguish.
Như nước tưới xuống, dập tắt mọi nỗi đau khổ.
1271
11.
11.
11.
1272
‘‘Abbahī vata me sallaṃ, yamāsi hadayassitaṃ;
“Indeed, you have drawn out the dart that was lodged in my heart;
Con đã nhổ mũi tên khỏi ta, mũi tên đã ghim vào tim;
1273
Yo me sokaparetassa, pitusokaṃ apānudi.
You who have dispelled the sorrow of my father, who was overcome by grief.
Người đã xua tan nỗi sầu muộn vì cha của ta, kẻ đang bị sầu muộn vây hãm.
1274
12.
12.
12.
1275
‘‘Sohaṃ abbūḷhasallosmi, vītasoko anāvilo;
“Now I am one with the dart drawn out, free from sorrow, undisturbed;
Ta đã nhổ mũi tên, hết sầu muộn, không còn phiền não;
1276
Na socāmi na rodāmi, tava sutvāna māṇava.
I do not grieve, nor do I weep, having heard you, young man.
Ta không sầu muộn, không khóc than, sau khi nghe lời con, này chàng trai.
1277
13.
13.
13.
1278
‘‘Evaṃ karonti sappaññā, ye honti anukampakā;
“Thus do the wise act, those who are compassionate;
Những người hiền trí, những người có lòng từ bi, hành động như vậy;
1279
Vinivattenti sokamhā, sujāto pitaraṃ yathā’’ti.
They turn away from sorrow, just as Sujāta did for his father.”
Họ giải thoát khỏi sầu muộn, như Sujāta đã giải thoát cha mình.”
1280
Tattha nibbāpayeti nibbāpayi.
Here, nibbāpaye means nibbāpayi (extinguished).
Trong đó, nibbāpaye (dập tắt) có nghĩa là đã dập tắt.
Daranti sokadarathaṃ.
Dara means the anguish of sorrow.
Daraṃ (nỗi đau khổ) có nghĩa là nỗi khổ đau sầu muộn.
Sujāto pitaraṃ yathāti yathā mama putto sujāto maṃ pitaraṃ samānaṃ attano sappaññatāya sokamhā vinivattayi, evaṃ aññepi sappaññā sokamhā vinivattayantīti.
Sujāto pitaraṃ yathā means, just as my son Sujāta, being wise, turned me, his father, away from sorrow, so too do other wise ones turn away from sorrow.
Sujāto pitaraṃ yathā (như Sujāta đã giải thoát cha mình) có nghĩa là “cũng như con trai ta, Sujāta, đã giải thoát ta, cha mình, khỏi sầu muộn bằng trí tuệ của nó, những người hiền trí khác cũng giải thoát khỏi sầu muộn như vậy.”
1281
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne kuṭumbiko sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having recounted this Dhamma discourse, revealed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the householder was established in the fruit of Stream-entry.
Đức Thế Tôn đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, gia chủ đã chứng đắc quả Dự lưu.
Tadā sujāto ahameva ahosinti.
“At that time, Sujāta was I myself.”
Lúc đó, Sujāta chính là ta.
1282
Sujātajātakavaṇṇanā dutiyā.
The Second Chapter on the Sujāta Jātaka.
Chuyện Sujāta Jātaka thứ hai.
1283
* 3. Venasākhajātakavaṇṇanā
* 3. The Chapter on the Venasākha Jātaka
* 3. Chuyện Venasākha Jātaka
1284
Nayidaṃ niccaṃ bhavitabbanti idaṃ satthā bhaggesu saṃsumāragiraṃ nissāya bhesakaḷāvane viharanto bodhirājakumāraṃ ārabbha kathesi.
Nayidaṃ niccaṃ bhavitabbaṃ (This should not be permanent) – The Teacher, residing in Bhesakaḷāvaṇa near Saṃsumāragira, in reference to Bodhirājakumāra, spoke this when the bhikkhus were discussing.
Nayidaṃ niccaṃ bhavitabbaṃ (Điều này không nên là thường hằng) – Đức Thế Tôn đã kể câu chuyện này khi ngài đang trú tại Bhesakaḷāvana, gần Saṃsumāragira, trong xứ Bhaggā, liên quan đến hoàng tử Bodhi.
Bodhirājakumāro nāma udenassa rañño putto tasmiṃ kāle saṃsumāragire vasanto ekaṃ pariyodātasippaṃ vaḍḍhakiṃ pakkosāpetvā aññehi rājūhi asadisaṃ katvā kokanadaṃ nāma pāsādaṃ kārāpesi.
Bodhirājakumāra, the son of King Udena, residing in Saṃsumāragira at that time, summoned a carpenter of excellent skill and had a palace named Kokanada built, unlike any other king's.
Hoàng tử Bodhi, con trai của vua Udena, lúc đó đang sống ở Saṃsumāragira, đã cho gọi một thợ mộc có tay nghề tinh xảo và xây dựng một cung điện tên là Kokanada, không giống với bất kỳ cung điện nào của các vị vua khác.
Kārāpetvā ca pana ‘‘ayaṃ vaḍḍhakī aññassapi rañño evarūpaṃ pāsādaṃ kareyyā’’ti maccharāyanto tassa akkhīni uppāṭāpesi.
And having built it, being envious that “this carpenter might build such a palace for another king,” he had his eyes put out.
Và sau khi đã xây xong, vì ghen tị sợ rằng “người thợ mộc này có thể xây một cung điện như vậy cho vị vua khác,” nên ông đã móc mắt người thợ mộc đó.
Tenassa akkhīnaṃ uppāṭitabhāvo bhikkhusaṅghe pākaṭo jāto.
Thus, the fact that his eyes were put out became known among the Saṅgha of bhikkhus.
Vì thế, việc mắt của người thợ mộc bị móc đã trở nên công khai trong Tăng đoàn.
Tasmā bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, bodhirājakumāro kira tathārūpassa vaḍḍhakino akkhīni uppāṭāpesi, aho kakkhaḷo pharuso sāhasiko’’ti.
Therefore, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: “Friends, Bodhirājakumāra, it is said, had the eyes of such a carpenter put out. Oh, how harsh, cruel, and violent!”
Do đó, các Tỳ-khưu đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Thưa các bạn, nghe nói hoàng tử Bodhi đã móc mắt người thợ mộc tài giỏi như vậy, thật là tàn nhẫn, thô bạo, và hung ác!”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa kakkhaḷo pharuso sāhasikova.
The Teacher came and asked, “Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?” And when told, “This, Venerable Sir,” he said, “Bhikkhus, it is not only now; he was harsh, cruel, and violent in the past too.
Đức Phật đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, bây giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Về chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ mà trước đây ông ta cũng tàn nhẫn, thô bạo, và hung ác như vậy.
Na kevalañca idāneva, pubbepesa khattiyasahassānaṃ akkhīni uppāṭāpetvā māretvā tesaṃ maṃsena balikammaṃ kāresī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Not only now, but in the past, he also put out the eyes of thousands of Khattiyas, killed them, and had their flesh used for sacrificial offerings,” and then he recounted the past.
Không chỉ bây giờ, mà trước đây ông ta cũng đã móc mắt và giết hàng ngàn vương tử, rồi dùng thịt của họ để cúng tế,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1285
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto takkasilāyaṃ disāpāmokkho ācariyo ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a world-renowned teacher in Takkasilā.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là vị đạo sư nổi tiếng (disāpāmokkha) ở Takkasilā.
Jambudīpatale khattiyamāṇavā brāhmaṇamāṇavā ca tasseva santike sippaṃ uggaṇhiṃsu.
Khattiya youths and Brahmin youths from all over Jambudīpa learned their crafts from him.
Các vương tử và thanh niên Bà-la-môn trên khắp Jambudīpa đều đến học nghệ thuật từ Ngài.
Bārāṇasirañño putto brahmadattakumāro nāma tassa santike tayo vede uggaṇhi.
Brahmadattakumāra, the son of the King of Bārāṇasī, learned the three Vedas from him.
Hoàng tử Brahmadatta, con trai của vua Bārāṇasī, đã học ba bộ Veda từ Ngài.
So pana pakatiyāpi kakkhaḷo pharuso sāhasiko ahosi.
However, he was naturally harsh, cruel, and violent.
Tuy nhiên, bản chất của ông ta vốn đã tàn nhẫn, thô bạo, và hung ác.
Bodhisatto aṅgavijjāvasena tassa kakkhaḷapharusasāhasikabhāvaṃ ñatvā ‘‘tāta, tvaṃ kakkhaḷo pharuso sāhasiko, pharusena nāma laddhaṃ issariyaṃ aciraṭṭhitikaṃ hoti, so issariye vinaṭṭhe bhinnanāvo viya samudde patiṭṭhaṃ na labhati, tasmā mā evarūpo ahosī’’ti taṃ ovadanto dve gāthā abhāsi –
The Bodhisatta, knowing his harsh, cruel, and violent nature through augury, advised him, saying, “My dear, you are harsh, cruel, and violent. Authority gained through harshness does not last long. When such authority is lost, one finds no refuge, like a broken ship in the ocean. Therefore, do not be like this,” and he spoke two verses, admonishing him:
Bồ-tát, qua tướng số (aṅgavijjā), biết được tính cách tàn nhẫn, thô bạo, và hung ác của ông ta, nên đã khuyên nhủ: “Này con, con là người tàn nhẫn, thô bạo, và hung ác. Quyền lực giành được bằng sự thô bạo sẽ không bền vững. Khi quyền lực mất đi, con sẽ như con thuyền bị vỡ giữa biển cả, không tìm được nơi nương tựa. Vì vậy, con đừng nên như vậy,” và Ngài đã nói lên hai bài kệ để khuyên răn –
1286
14.
14.
14.
1287
‘‘Nayidaṃ niccaṃ bhavitabbaṃ brahmadatta, khemaṃ subhikkhaṃ sukhatā ca kāye;
“This, Brahmadatta, should not be permanent: safety, abundance, and bodily comfort;
“Này Brahmadatta, sự an toàn, thịnh vượng, và hạnh phúc thân thể này không phải là vĩnh cửu;
1288
Atthaccaye mā ahu sampamūḷho, bhinnaplavo sāgarasseva majjhe.
When calamity strikes, do not be utterly bewildered, like a broken ship in the midst of the ocean.
Khi lợi ích bị hủy hoại, đừng trở nên mê muội, như con thuyền bị vỡ giữa biển cả.
1289
15.
15.
15.
1290
‘‘Yāni karoti puriso, tāni attani passati;
“What a person does, that he sees in himself;
“Người làm điều gì, sẽ thấy điều đó nơi chính mình;
1291
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpakaṃ;
One who does good, good; one who does evil, evil;
Người làm điều thiện sẽ gặt điều thiện, người làm điều ác sẽ gặt điều ác;
1292
Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phala’’nti.
Whatever seed one sows, such fruit one reaps.”
Gieo hạt giống nào, sẽ gặt quả ấy.”
1293
Tattha sukhatā ca kāyeti tāta brahmadatta, yadetaṃ khemaṃ vā subhikkhaṃ vā yā vā esā sukhatā kāye, idaṃ sabbaṃ imesaṃ sattānaṃ niccaṃ sabbakālameva na bhavati, idaṃ pana aniccaṃ hutvā abhāvadhammaṃ.
Here, sukhatā ca kāye means, my dear Brahmadatta, whatever safety or abundance there is, or whatever bodily comfort there is, all this is not permanent for these beings at all times; rather, it is impermanent and subject to cessation.
Trong đó, sukhatā ca kāye nghĩa là: Này con Brahmadatta, sự an toàn, sự thịnh vượng, và hạnh phúc thân thể này không phải là vĩnh cửu đối với tất cả chúng sinh, không phải lúc nào cũng có, mà điều này là vô thường và có bản chất là không tồn tại.
Atthaccayeti so tvaṃ aniccatāvasena issariye vigate attano atthassa accaye yathā nāma bhinnaplavo bhinnanāvo manusso sāgaramajjhe patiṭṭhaṃ alabhanto sampamūḷho hoti, evaṃ mā ahu sampamūḷho.
Atthaccaye means, when your sovereignty, due to impermanence, has departed, and in the loss of your own welfare, just as a person whose raft is broken, whose boat is broken, not finding a foothold in the middle of the ocean, becomes utterly bewildered, in the same way, do not be utterly bewildered.
Khi lợi ích bị mất đi (Atthaccaye): Này ngươi, do tính vô thường, khi quyền lực đã mất, khi lợi ích của chính mình bị mất đi, như một người có thuyền bè bị vỡ, không tìm được chỗ tựa giữa biển cả, trở nên hoang mang, bối rối, thì ngươi đừng nên hoang mang, bối rối như vậy.
Tāni attani passatīti tesaṃ kammānaṃ vipākaṃ vindanto tāni attani passati nāma.
Tāni attani passati means, experiencing the result of those actions, one is said to see them in oneself.
Thấy chúng trong chính mình (Tāni attani passati): Khi trải nghiệm quả báo của những nghiệp đó, người ấy được gọi là thấy chúng trong chính mình.
1294
So ācariyaṃ vanditvā bārāṇasiṃ gantvā pitu sippaṃ dassetvā oparajje patiṭṭhāya pitu accayena rajjaṃ pāpuṇi.
He, having paid homage to the teacher, went to Bārāṇasī, showed his skill to his father, was established in the position of viceroy, and attained the kingship upon his father's demise.
Vị ấy đảnh lễ vị đạo sư, đi đến Bārāṇasī, trình bày nghề nghiệp của cha mình, được lập làm phó vương, và sau khi cha mất, đã lên ngôi vua.
Tassa piṅgiyo nāma purohito ahosi kakkhaḷo pharuso sāhasiko.
His chief minister was named Piṅgiya, who was harsh, rough, and audacious.
Vị ấy có một vị đạo sĩ tên là Piṅgiya, người thô lỗ, hung bạo, và táo bạo.
So yasalobhena cintesi ‘‘yaṃnūnāhaṃ iminā raññā sakalajambudīpe sabbe rājāno gāhāpeyyaṃ, evamesa ekarājā bhavissati, ahampi ekapurohito bhavissāmī’’ti.
Driven by a desire for fame, he thought, "If only I could make this king capture all the kings in the entire Jambudīpa; then he would be the sole monarch, and I too would be the sole chief minister."
Vì tham danh vọng, ông ta nghĩ: "Tại sao ta không khiến vị vua này bắt tất cả các vị vua trên khắp Jambudīpa? Như vậy, vị này sẽ là một vị vua duy nhất, và ta cũng sẽ là một vị đạo sĩ duy nhất."
So taṃ rājānaṃ attano kathaṃ gāhāpesi.
So he made the king accept his counsel.
Ông ta đã khiến vị vua đó chấp nhận lời nói của mình.
Rājā mahatiyā senāya nagarā nikkhamitvā ekassa rañño nagaraṃ rundhitvā taṃ rājānaṃ gaṇhi.
The king, departing from the city with a large army, besieged the city of one king and captured that king.
Vua cùng đại quân rời thành, bao vây thành của một vị vua và bắt vị vua đó.
Etenupāyena sakalajambudīpe rajjaṃ gahetvā rājasahassaparivuto ‘‘takkasilāyaṃ rajjaṃ gaṇhissāmī’’ti agamāsi.
By this method, having taken control of the entire Jambudīpa, surrounded by a thousand kings, he proceeded, saying, "I will take the kingdom in Takkasilā."
Bằng cách này, sau khi chiếm được vương quốc trên khắp Jambudīpa, được vây quanh bởi một ngàn vị vua, vua đã đi đến Takkasilā (Taxila) với ý định "ta sẽ chiếm vương quốc ở Takkasilā".
Bodhisatto nagaraṃ paṭisaṅkharitvā parehi appadhaṃsiyaṃ akāsi.
The Bodhisatta had fortified the city, making it impregnable to others.
Bồ Tát đã sửa sang thành phố, khiến nó không thể bị kẻ thù xâm phạm.
1295
Bārāṇasirājā gaṅgānadītīre mahato nigrodharukkhassa mūle sāṇiṃ parikkhipāpetvā upari vitānaṃ kārāpetvā sayanaṃ paññapetvā nivāsaṃ gaṇhi.
The King of Bārāṇasī had a screen erected around the base of a large banyan tree on the bank of the Gaṅgā river, had a canopy set up above, prepared a couch, and took up residence there.
Vua Bārāṇasī đã cho dựng màn che xung quanh gốc một cây nigrodha lớn bên bờ sông Gaṅgā, cho làm mái che phía trên, cho sắp đặt giường nằm và nghỉ ngơi tại đó.
So jambudīpatale sahassarājāno gahetvā yujjhamānopi takkasilaṃ gahetuṃ asakkonto attano purohitaṃ pucchi ‘‘ācariya, mayaṃ ettakehi rājūhi saddhiṃ āgantvāpi takkasilaṃ gahetuṃ na sakkoma, kiṃ nu kho kātabba’’nti.
Though he had captured a thousand kings on the Jambudīpa continent and was fighting, he could not take Takkasilā, so he asked his chief minister, "Teacher, we have come with so many kings, yet we cannot take Takkasilā. What should be done?"
Mặc dù đã bắt được một ngàn vị vua trên khắp Jambudīpa và chiến đấu, nhưng không thể chiếm được Takkasilā, vua đã hỏi vị đạo sĩ của mình: "Thưa đạo sư, chúng ta đã đến đây với bấy nhiêu vị vua mà không thể chiếm được Takkasilā, chúng ta phải làm gì đây?"
‘‘Mahārāja, sahassarājūnaṃ akkhīni uppāṭetvā māretvā kucchiṃ phāletvā pañcamadhuramaṃsaṃ ādāya imasmiṃ nigrodhe adhivatthāya devatāya balikammaṃ katvā antavaṭṭīhi rukkhaṃ parikkhipitvā lohitapañcaṅgulikāni karoma, evaṃ no khippameva jayo bhavissatī’’ti.
"Great King, we should gouge out the eyes of a thousand kings, kill them, rip open their bellies, take the flesh with the five sweet ingredients, offer a sacrifice to the deity residing in this banyan tree, encircle the tree with intestines, and make five-fingered blood prints. Then victory will quickly be ours."
"Đại vương, hãy móc mắt một ngàn vị vua, giết họ, mổ bụng họ, lấy thịt ngũ vị ngọt, làm lễ cúng dường cho vị thần ngự ở cây nigrodha này, sau đó dùng ruột quấn quanh cây, và làm năm ngón tay bằng máu. Như vậy, chúng ta sẽ nhanh chóng chiến thắng."
Rājā ‘‘sādhū’’ti paṭissuṇitvā antosāṇiyaṃ mahābale malle ṭhapetvā ekamekaṃ rājānaṃ pakkosāpetvā nippīḷanena visaññaṃ kāretvā akkhīni uppāṭetvā māretvā maṃsaṃ ādāya kaḷevarāni gaṅgāyaṃ pavāhetvā vuttappakāraṃ balikammaṃ kāretvā balibheriṃ ākoṭāpetvā yuddhāya gato.
The king assented, saying "So be it," placed strong wrestlers inside the screen, called each king one by one, made them unconscious by squeezing, gouged out their eyes, killed them, took their flesh, cast their bodies into the Gaṅgā, performed the aforementioned sacrifice, beat the drum of sacrifice, and went to battle.
Vua nói "Lành thay" và đồng ý, sau đó cho đặt những võ sĩ mạnh mẽ bên trong màn che, lần lượt gọi từng vị vua, dùng sức ép khiến họ bất tỉnh, móc mắt họ, giết họ, lấy thịt, ném xác xuống sông Gaṅgā, thực hiện lễ cúng dường như đã nói, rồi đánh trống hiệu lệnh cúng tế và ra trận.
1296
Athassa aṭṭālakato eko yakkho āgantvā dakkhiṇakkhiṃ uppāṭetvā agamāsi, athassa mahatī vedanā uppajji.
Then a yakkha came from a watchtower, gouged out his right eye, and departed, whereupon great pain arose in him.
Bấy giờ, một Dạ Xoa từ trên tháp canh đến, móc mắt phải của vua rồi bỏ đi. Sau đó, một cơn đau dữ dội nổi lên nơi vua.
So vedanāppatto āgantvā nigrodharukkhamūle paññattāsane uttānako nipajji.
Afflicted by pain, he came and lay supine on the prepared seat at the foot of the banyan tree.
Vua, vì đau đớn, đã đến nằm ngửa trên ghế đã sắp đặt dưới gốc cây nigrodha.
Tasmiṃ khaṇe eko gijjho ekaṃ tikhiṇakoṭikaṃ aṭṭhiṃ gahetvā rukkhagge nisinno maṃsaṃ khāditvā aṭṭhiṃ vissajjesi, aṭṭhikoṭi āgantvā rañño vāmakkhimhi ayasūlaṃ viya patitvā akkhiṃ bhindi.
At that moment, a vulture, holding a sharp-pointed bone, sat on the treetop, ate the flesh, and dropped the bone; the point of the bone fell like an iron stake into the king's left eye, piercing it.
Vào lúc đó, một con kền kền đang đậu trên ngọn cây, cầm một khúc xương nhọn hoắt, sau khi ăn thịt đã thả khúc xương xuống. Đầu xương rơi trúng mắt trái của vua như một cây giáo sắt, làm vỡ mắt.
Tasmiṃ khaṇe bodhisattassa vacanaṃ sallakkhesi.
At that moment, he recalled the Bodhisatta's words.
Vào lúc đó, vua nhớ lại lời của Bồ Tát.
So ‘‘amhākaṃ ācariyo ‘ime sattā bījānurūpaṃ phalaṃ viya kammānurūpaṃ vipākaṃ anubhontī’ti kathento idaṃ disvā kathesi maññe’’ti vatvā vilapanto dve gāthā abhāsi –
He, lamenting, uttered two verses, saying, "Our teacher, when he spoke, 'These beings experience results according to their actions, like fruit according to the seed,' must have said this seeing this very situation."
Vua nói: "Chắc chắn vị đạo sư của chúng ta đã nói 'Những chúng sinh này trải nghiệm quả báo tương ứng với nghiệp của họ, như quả tương ứng với hạt giống' khi nhìn thấy điều này", rồi than thở và đọc hai bài kệ:
1297
16.
16.
16.
1298
‘‘Idaṃ tadācariyavaco, pārāsariyo yadabravi;
"This is that word of the teacher, which Pārāsariya spoke:
"Đây là lời đạo sư đã nói, vị Pārāsariya đã nói:
1299
‘Mā su tvaṃ akari pāpaṃ, yaṃ tvaṃ pacchā kataṃ tape’.
'Do not commit evil, which you would later regret having done.'"
'Ngươi chớ làm điều ác, điều ác đã làm sẽ hành hạ ngươi về sau'."
1300
17.
17.
17.
1301
‘‘Ayameva so piṅgiya venasākho, yamhi ghātayiṃ khattiyānaṃ sahassaṃ;
"This is that very Piṅgiya banyan tree, where I slew a thousand khattiyas;
"Đây chính là cây venasākha, nơi ta đã giết một ngàn vị vua;
1302
Alaṅkate candanasārānulitte, tameva dukkhaṃ paccāgataṃ mama’’nti.
Adorned and smeared with sandalwood essence, that very suffering has returned to me."
Những vị vua được trang điểm, thoa dầu gỗ đàn hương quý giá, chính nỗi đau đó đã quay trở lại với ta."
1303
Tattha idaṃ tadācariyavacoti idaṃ taṃ ācariyassa vacanaṃ.
There, idaṃ tadācariyavaco means "this is that word of the teacher."
Trong đó, Đây là lời đạo sư đã nói (idaṃ tadācariyavaco) nghĩa là đây là lời nói của vị đạo sư đó.
Pārāsariyoti taṃ gottena kitteti.
Pārāsariyo refers to him by his clan name.
Pārāsariya là gọi theo họ.
Pacchā katanti yaṃ pāpaṃ tayā kataṃ, pacchā taṃ tapeyya kilameyya, taṃ mā karīti ovādaṃ adāsi, ahaṃ panassa vacanaṃ na karinti.
Pacchā kata means, "that evil which was done by you, later it would torment you, afflict you; do not do it," he gave this advice, but I did not follow his word.
Điều đã làm về sau (Pacchā kataṃ): Điều ác mà ngươi đã làm, về sau nó sẽ hành hạ, làm khổ ngươi. Đạo sư đã khuyên "chớ làm điều đó", nhưng ta đã không nghe lời ngài.
Ayamevāti nigrodharukkhaṃ dassento vilapati.
Ayamevā means, he laments, pointing to the banyan tree.
Chính là (Ayamevā): Than thở khi chỉ vào cây nigrodha.
Venasākhoti patthaṭasākho.
Venasākho means, "with spreading branches."
Venasākha là cây có cành lá xum xuê.
Yamhi ghātayinti yamhi rukkhe khattiyasahassaṃ māresiṃ.
Yamhi ghātayi means, "in which tree I slew a thousand khattiyas."
Nơi ta đã giết (Yamhi ghātayiṃ): Nơi cây này ta đã giết một ngàn vị vua.
Alaṅkate candanasārānulitteti rājālaṅkārehi alaṅkate lohitacandanasārānulitte te khattiye yatthāhaṃ ghātesiṃ, ayameva so rukkho idāni mayhaṃ kiñci parittāṇaṃ kātuṃ na sakkotīti dīpeti.
" Adorned, smeared with sandalwood paste" means that he indicates that this very tree, where he killed those Khattiyas who were adorned with royal ornaments and smeared with red sandalwood paste, is now unable to provide him any protection.
Những vị vua được trang điểm, thoa dầu gỗ đàn hương quý giá (Alaṅkate candanasārānulitte): Những vị vua được trang điểm bằng trang sức vương giả, thoa dầu gỗ đàn hương quý giá, nơi mà ta đã giết họ, chính cây này bây giờ không thể giúp ta được chút nào, điều đó được thể hiện.
Tameva dukkhanti yaṃ mayā paresaṃ akkhiuppāṭanadukkhaṃ kataṃ, idaṃ me tatheva paṭiāgataṃ, idāni no ācariyassa vacanaṃ matthakaṃ pattanti paridevati.
" That very suffering" means that he laments, "The suffering of eye-gouging that I inflicted on others has now come back to me in the same way; now our teacher's words have reached their culmination."
Chính nỗi đau đó (Tameva dukkhaṃ): Nỗi đau móc mắt người khác mà ta đã gây ra, nỗi đau đó đã quay trở lại với ta y như vậy. Bây giờ lời của đạo sư đã thành sự thật, vua than vãn.
1304
So evaṃ paridevamāno aggamahesiṃ anussaritvā –
Lamenting thus, he remembered his chief queen and said:
Vua, than vãn như vậy, nhớ đến hoàng hậu và –
1305
18.
18.
18.
1306
‘‘Sāmā ca kho candanalittagattā, laṭṭhīva sobhañjanakassa uggatā;
"Indeed, Sāmā, with her body smeared with sandalwood, risen like a branch of a moringa tree;
"Nàng Sāmā với thân thể thoa gỗ đàn hương, như cành cây chùm ngây vươn cao;
1307
Adisvā kālaṃ karissāmi ubbariṃ, taṃ me ito dukkhataraṃ bhavissatī’’ti–
I shall die without seeing Ubbarī; that will be more painful to me than this."
Không nhìn thấy nàng, ta sẽ chết, điều đó còn đau khổ hơn cái chết này đối với ta." –
1308
Gāthamāha –
He spoke this verse:
Đọc bài kệ –
1309
Tassattho – mama bhariyā suvaṇṇasāmā ubbarī yathā nāma siggurukkhassa uju uggatā sākhā mandamāluteritā kampamānā sobhati, evaṃ itthivilāsaṃ kurumānā sobhati, tamahaṃ idāni akkhīnaṃ bhinnattā ubbariṃ adisvāva kālaṃ karissāmi, taṃ me tassā adassanaṃ ito maraṇadukkhatopi dukkhataraṃ bhavissatīti.
Its meaning is: My wife, the golden-skinned Ubbarī, shines displaying feminine charm, just as a straight, risen branch of a moringa tree, swaying in a gentle breeze, looks beautiful. Now, due to my eyes being gouged out, I shall die without seeing Ubbarī. That not seeing her will be more painful to me than even the suffering of this death.
Ý nghĩa của bài kệ là: Vợ ta, nàng Sāmā vàng óng, như cành cây chùm ngây (sugguru) thẳng tắp vươn cao, lay động bởi làn gió nhẹ, trông thật đẹp đẽ. Nàng ấy duyên dáng như vậy. Bây giờ, vì mắt đã bị vỡ, ta sẽ chết mà không nhìn thấy nàng. Việc không nhìn thấy nàng còn đau khổ hơn cả cái chết này đối với ta.
1310
So evaṃ vilapantova maritvā niraye nibbatti.
Lamenting thus, he died and was reborn in hell.
Vua, than vãn như vậy, đã chết và tái sinh vào địa ngục.
Na naṃ issariyaluddho purohito parittāṇaṃ kātuṃ sakkhi, na attano issariyaṃ.
Neither the purohita, greedy for power, nor his own power, could save him.
Vị đạo sĩ tham quyền lực đã không thể cứu giúp vua, cũng như quyền lực của chính vua.
Tasmiṃ matamatteyeva balakāyo bhijjitvā palāyi.
As soon as he died, the army broke up and fled.
Ngay khi vua vừa chết, quân đội đã tan rã và bỏ chạy.
1311
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bārāṇasirājā bodhirājakumāro ahosi, piṅgiyo devadatto, disāpāmokkhācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having delivered this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the King of Bārāṇasī was Bodhisatta, King Bodhi; Piṅgiya was Devadatta; and the world-renowned teacher was I myself."
Đức Phật, sau khi thuyết pháp này, đã kết nối câu chuyện Jātaka: "Vị vua Bārāṇasī khi đó chính là hoàng tử Bodhi, Piṅgiya là Devadatta, còn vị đạo sư danh tiếng (Disāpāmokkhācariya) chính là Ta."
1312
Venasākhajātakavaṇṇanā tatiyā.
The Third Story: The Venasākha Jātaka.
Câu chuyện Venasākha Jātaka, thứ ba, đã kết thúc.
1313
* 4. Uragajātakavaṇṇanā
* 4. The Uraga Jātaka
* 4. Câu chuyện Uraga Jātaka
1314
Uragova tacaṃ jiṇṇanti idaṃ satthā jetavane viharanto mataputtakaṃ kuṭumbikaṃ ārabbha kathesi.
" Like a snake its worn-out skin"—the Teacher, while dwelling at Jetavana, told this in reference to a householder whose son had died.
Như rắn lột da cũ (Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ): Câu này được Đức Phật nói khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một gia chủ có con trai đã chết.
Vatthu pana matabhariyamatapitikavatthusadisameva.
The story is similar to the stories of the dead wife and dead father.
Câu chuyện cơ bản thì giống như câu chuyện về người vợ chết và cha chết.
Idhāpi tatheva satthā tassa nivesanaṃ gantvā taṃ āgantvā vanditvā nisinnaṃ ‘‘kiṃ, āvuso, socasī’’ti pucchitvā ‘‘āma, bhante, puttassa me matakālato paṭṭhāya socāmī’’ti vutte ‘‘āvuso, bhijjanadhammaṃ nāma bhijjati, nassanadhammaṃ nāma nassati, tañca kho na ekasmiṃyeva kule, nāpi ekasmiññeva gāme, atha kho aparimāṇesu cakkavāḷesu tīsu bhavesu amaraṇadhammo nāma natthi, tabbhāveneva ṭhātuṃ samattho ekasaṅkhāropi sassato nāma natthi, sabbe sattā maraṇadhammā, sabbe saṅkhārā bhijjanadhammā, porāṇakapaṇḍitāpi putte mate ‘maraṇadhammaṃ mataṃ, nassanadhammaṃ naṭṭha’nti na sociṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Here too, the Teacher went to his house, and when the householder came, paid homage, and sat down, the Teacher asked, "Why, friend, are you grieving?" When he replied, "Yes, Venerable Sir, I have been grieving since my son's death," the Teacher said, "Friend, what is subject to breaking breaks, what is subject to perishing perishes. And this does not happen in just one family, nor in just one village. Indeed, in countless world-systems and in the three realms, there is no one who is not subject to death; not a single conditioned phenomenon is eternal or capable of remaining in that state. All beings are subject to death, all conditioned phenomena are subject to breaking up. Even ancient wise ones did not grieve when their sons died, saying, 'What is subject to death has died, what is subject to perishing has perished.'" Having said this, and being requested by him, the Teacher recounted a past event.
Ở đây cũng vậy, Đức Phật đã đến nhà người ấy, hỏi người ấy sau khi đến đảnh lễ và ngồi xuống: "Này bạn, bạn đang sầu muộn điều gì?". Khi người ấy trả lời: "Bạch Thế Tôn, con sầu muộn kể từ khi con trai con mất", Đức Phật nói: "Này bạn, cái gì có tính chất hoại diệt thì sẽ hoại diệt, cái gì có tính chất mất mát thì sẽ mất mát. Điều này không chỉ xảy ra trong một gia đình, cũng không chỉ trong một làng, mà trên vô số thế giới, trong ba cõi, không có cái gì gọi là bất tử. Không có một hành nào có thể tồn tại vĩnh viễn, tất cả chúng sinh đều có tính chất chết chóc, tất cả các hành đều có tính chất hoại diệt. Ngay cả các bậc hiền trí thời xưa, khi con trai chết, cũng không sầu muộn mà nói 'cái có tính chất chết chóc thì đã chết, cái có tính chất mất mát thì đã mất'". Sau đó, được người ấy thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1315
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto bārāṇasiyaṃ dvāragāmake brāhmaṇakule nibbattitvā kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā kasikammena jīvikaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a village near Bārāṇasī, established a household, and lived by farming.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng ngoại ô Bārāṇasī, lập gia đình và sống bằng nghề nông.
Tassa putto ca dhītā cāti dve dārakā ahesuṃ.
He had two children, a son and a daughter.
Ngài có hai người con, một trai và một gái.
So puttassa vayappattassa samānakulato kumārikaṃ āharitvā adāsi, iti te dāsiyā saddhiṃ cha janā ahesuṃ – bodhisatto, bhariyā, putto, dhītā, suṇisā, dāsīti.
When his son reached maturity, he brought a young woman from a suitable family and gave her to him. Thus, including the maidservant, there were six people: the Bodhisatta, his wife, son, daughter, daughter-in-law, and maidservant.
Khi con trai đến tuổi, Ngài đã cưới một cô gái cùng dòng họ cho con. Như vậy, họ có sáu người: Bồ Tát, vợ, con trai, con gái, con dâu và người hầu gái.
Te samaggā sammodamānā piyasaṃvāsā ahesuṃ.
They lived in harmony, delighting in each other's company, with loving association.
Họ sống hòa thuận, vui vẻ và yêu thương nhau.
Bodhisatto sesānaṃ pañcannaṃ evaṃ ovādaṃ deti ‘‘tumhe yathāladdhaniyāmeneva dānaṃ detha, sīlaṃ rakkhatha, uposathakammaṃ karotha, maraṇassatiṃ bhāvetha, tumhākaṃ maraṇabhāvaṃ sallakkhetha, imesañhi sattānaṃ maraṇaṃ dhuvaṃ, jīvitaṃ addhuvaṃ, sabbe saṅkhārā aniccā khayavayadhamminova, rattiñca divā ca appamattā hothā’’ti.
The Bodhisatta gave this advice to the other five: "You should give alms according to what you have received, observe the precepts, perform the Uposatha duties, cultivate mindfulness of death, reflect on your own mortality. For the death of these beings is certain, life is uncertain; all conditioned phenomena are impermanent, subject to decay and dissolution. Be diligent day and night."
Bồ-tát khuyên dạy năm người còn lại như sau: “Các con hãy bố thí tùy theo những gì đã được, giữ giới, thực hành Uposatha, tu tập niệm chết, quán sát sự chết của chính mình, vì sự chết của các chúng sinh này là chắc chắn, sự sống là không chắc chắn, tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, có bản chất là hoại diệt và biến đổi. Hãy sống không phóng dật cả ngày lẫn đêm.”
Te ‘‘sādhū’’ti ovādaṃ sampaṭicchitvā appamattā maraṇassatiṃ bhāventi.
They accepted his advice, saying, "So be it," and diligently cultivated mindfulness of death.
Họ “Lành thay!” mà tiếp nhận lời khuyên, không phóng dật tu tập niệm chết.
1316
Athekadivasaṃ bodhisatto puttena saddhiṃ khettaṃ gantvā kasati.
Then one day, the Bodhisatta went to the field with his son and was plowing.
Rồi một ngày nọ, Bồ-tát cùng con trai ra đồng cày cấy.
Putto kacavaraṃ saṅkaḍḍhitvā jhāpeti.
The son was gathering rubbish and burning it.
Người con gom rác lại rồi đốt.
Tassāvidūre ekasmiṃ vammike āsīviso atthi.
Not far from him, there was a poisonous snake in an anthill.
Gần đó, có một con rắn độc sống trong một gò mối.
Dhūmo tassa akkhīni pahari.
The smoke struck its eyes.
Khói bay vào mắt nó.
So kuddho nikkhamitvā ‘‘imaṃ nissāya mayhaṃ bhaya’’nti catasso dāṭhā nimujjāpento taṃ ḍaṃsi, so parivattitvā patito.
He, angered, came out, and thinking, "Because of this one, there is danger for me," he sank his four fangs into him and bit him. The son turned over and fell.
Nó tức giận bò ra, nghĩ “Vì người này mà ta gặp nguy hiểm,” rồi cắm bốn chiếc răng nanh vào người con, cắn một nhát, người con lăn ra ngã xuống.
Bodhisatto parivattitvā taṃ patitaṃ disvā goṇe ṭhapetvā gantvā tassa matabhāvaṃ ñatvā taṃ ukkhipitvā ekasmiṃ rukkhamūle nipajjāpetvā pārupitvā neva rodi na paridevi – ‘‘bhijjanadhammaṃ pana bhinnaṃ, maraṇadhammaṃ mataṃ, sabbe saṅkhārā aniccā maraṇanipphattikā’’ti aniccabhāvameva sallakkhetvā kasi.
The Bodhisatta, turning back and seeing him fallen, stopped the oxen, went and, knowing his dead state, lifted him up, laid him down at the foot of a tree, and covered him. He neither wept nor lamented, but reflecting only on impermanence—"What is subject to breaking has broken, what is subject to death has died, all conditioned phenomena are impermanent and culminate in death"—he continued to plow.
Bồ-tát quay lại thấy con ngã xuống, liền dừng đàn bò lại, đi đến, biết con đã chết, bèn nhấc con lên đặt nằm dưới gốc cây, đắp y lên, không khóc cũng không than vãn – “Cái gì có bản chất tan vỡ thì đã tan vỡ, cái gì có bản chất chết thì đã chết, tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, kết thúc bằng sự chết,” chỉ quán sát tính vô thường rồi tiếp tục cày cấy.
So khettasamīpena gacchantaṃ ekaṃ paṭivissakaṃ purisaṃ disvā ‘‘tāta, gehaṃ gacchasī’’ti pucchitvā ‘‘āmā’’ti vutte tena hi amhākampi gharaṃ gantvā brāhmaṇiṃ vadeyyāsi ‘‘ajja kira pubbe viya dvinnaṃ bhattaṃ anāharitvā ekassevāhāraṃ āhareyyātha, pubbe ca ekikāva dāsī āhāraṃ āharati, ajja pana cattāropi janā suddhavatthanivatthā gandhapupphahatthā āgaccheyyāthā’’ti.
He saw a neighboring man passing near the field and asked, "My dear, are you going home?" When the man replied, "Yes," the Bodhisatta said, "Then please go to our house and tell the brahmin woman, 'Today, do not bring food for two as before, but bring food for one. And previously, only one maidservant brought the food, but today all four of you should come, dressed in clean clothes and holding perfumes and flowers.'"
Ngài thấy một người hàng xóm đi ngang qua gần ruộng, hỏi: “Này con, con có về nhà không?” Khi người kia đáp “Vâng,” Ngài nói: “Vậy thì con hãy về nhà chúng ta và nói với bà Bà-la-môn rằng: ‘Hôm nay, thay vì mang thức ăn cho hai người như trước, hãy mang thức ăn cho một người thôi. Trước đây chỉ có một người hầu mang thức ăn, nhưng hôm nay tất cả bốn người hãy mặc quần áo sạch sẽ, cầm hương hoa đến đây.’”
So ‘‘sādhū’’ti gantvā brāhmaṇiyā tatheva kathesi.
He said, "Very well," and went and told the brahmin woman exactly that.
Người kia “Lành thay!” mà đi đến và kể lại cho bà Bà-la-môn đúng như vậy.
Kena te, tāta, imaṃ sāsanaṃ dinnanti.
"By whom, my dear, was this message given to you?"
“Này con, ai đã dặn con lời nhắn này?”
Brāhmaṇena, ayyeti.
"By the brahmin, lady."
“Bà-la-môn, thưa bà.”
Sā ‘‘putto me mato’’ti aññāsi, kampanamattampissā nāhosi.
She understood, "My son is dead," but there was not even a tremor in her.
Bà biết “Con trai ta đã chết,” nhưng không hề run rẩy chút nào.
Evaṃ subhāvitacittā suddhavatthanivatthā gandhapupphahatthā dāsiṃ pana āhāraṃ āharāpetvā sesehi saddhiṃ khettaṃ agamāsi.
Thus, with a well-developed mind, dressed in clean clothes, holding perfumes and flowers, she had the maidservant bring the food and went to the field with the others.
Với tâm đã được tu tập như vậy, bà mặc quần áo sạch sẽ, cầm hương hoa, sai người hầu mang thức ăn rồi cùng những người còn lại đi ra ruộng.
Ekassapi roditaṃ vā paridevitaṃ vā nāhosi.
Not one of them wept or lamented.
Không một ai khóc hay than vãn.
1317
Bodhisatto puttassa nipannachāyāyameva nisīditvā bhuñji.
The Bodhisatta sat in the very shade where his son lay and ate.
Bồ-tát ngồi ngay dưới bóng râm nơi con trai đang nằm mà dùng bữa.
Bhuttāvasāne sabbepi dārūni uddharitvā taṃ citakaṃ āropetvā gandhapupphehi pūjetvā jhāpesuṃ.
After eating, they all gathered wood, placed him on the pyre, honored him with perfumes and flowers, and cremated him.
Sau khi dùng bữa xong, tất cả họ đều gom củi lại, đặt con lên giàn hỏa táng, cúng dường hương hoa rồi hỏa thiêu.
Ekassa ca ekabindupi assu nāhosi, sabbepi subhāvitamaraṇassatino honti.
Not a single tear fell from anyone; all had well-developed mindfulness of death.
Không một ai rơi một giọt nước mắt, tất cả đều đã tu tập niệm chết một cách tốt đẹp.
Tesaṃ sīlatejena sakkassa āsanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
By the power of their virtue, Sakka's seat showed signs of warmth.
Do uy đức giới hạnh của họ, tòa ngồi của Sakka (Đế Thích) trở nên nóng.
So ‘‘ko nu kho maṃ ṭhānā cāvetukāmo’’ti upadhārento tesaṃ guṇatejena uṇhabhāvaṃ ñatvā pasannamānaso hutvā ‘‘mayā etesaṃ santikaṃ gantvā sīhanādaṃ nadāpetvā sīhanādapariyosāne etesaṃ nivesanaṃ sattaratanaparipuṇṇaṃ katvā āgantuṃ vaṭṭatī’’ti vegena tattha gantvā āḷāhanapasse ṭhito ‘‘tāta, kiṃ karothā’’ti āha.
He, pondering, "Who indeed wishes to dislodge me from my position?" and knowing the warmth was due to the power of their virtues, became pleased in mind and thought, "I should go to them, make them utter a lion's roar, and at the end of the lion's roar, make their dwelling abundant with the seven treasures, and then return." So, he quickly went there and stood by the cremation ground, saying, "My dear, what are you doing?"
Ngài suy xét “Ai đang muốn làm ta rời khỏi vị trí đây?” rồi biết được sự nóng bức là do uy đức của họ, tâm hoan hỷ, nghĩ “Ta nên đến chỗ họ, khiến họ rống tiếng sư tử, và sau khi tiếng rống sư tử kết thúc, hãy làm cho ngôi nhà của họ đầy đủ bảy báu rồi trở về,” Ngài nhanh chóng đến đó, đứng bên cạnh nơi hỏa táng và nói: “Này các con, các con đang làm gì vậy?”
‘‘Ekaṃ manussaṃ jhāpema, sāmī’’ti.
"We are cremating a human being, master."
“Chúng con đang hỏa thiêu một người, thưa ngài.”
‘‘Na tumhe manussaṃ jhāpessatha, ekaṃ pana migaṃ māretvā pacatha maññe’’ti.
"You are not cremating a human being; I suppose you have killed and are cooking an animal."
“Các con không hỏa thiêu một người đâu, ta nghĩ các con giết một con thú rồi đang nướng nó.”
‘‘Natthetaṃ sāmi, manussameva jhāpemā’’ti.
"That is not so, master; we are indeed cremating a human being."
“Không phải vậy, thưa ngài, chúng con đang hỏa thiêu một người thật.”
‘‘Tena hi verimanusso vo bhavissatī’’ti.
"Then he must have been an enemy to you."
“Vậy thì đó phải là kẻ thù của các con.”
Atha naṃ bodhisatto ‘‘orasaputto no sāmi, na veriko’’ti āha.
Then the Bodhisatta said to him, "He was our own son, master, not an enemy."
Bồ-tát bèn nói với Ngài: “Đó là con ruột của chúng con, thưa ngài, không phải kẻ thù.”
‘‘Tena hi vo appiyaputto bhavissatī’’ti?
"Then he must have been a disliked son to you?"
“Vậy thì đó là đứa con mà các con không yêu thương sao?”
‘‘Ativiya piyaputto, sāmī’’ti.
"He was an extremely beloved son, master."
“Là đứa con vô cùng yêu quý, thưa ngài.”
‘‘Atha kasmā na rodasī’’ti?
"Then why do you not weep?"
“Vậy tại sao các con không khóc?”
So arodanakāraṇaṃ kathento paṭhamaṃ gāthamāha –
Explaining the reason for not weeping, he first spoke this verse:
Khi kể lý do không khóc, Ngài nói bài kệ thứ nhất –
1318
19.
19.
19.
1319
‘‘Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ, hitvā gacchati saṃ tanuṃ;
"Like a snake that sheds its worn-out skin and goes its way,
“Như rắn bỏ lớp da già, rồi đi với thân mình;
1320
Evaṃ sarīre nibbhoge, pete kālakate sati.
So, when the body is without its essence, and the departed has passed away,
Cũng vậy, khi thân thể vô dụng, người đã chết đi về cõi khác.
1321
20.
20.
20.
1322
‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ;
While burning, he knows not the lamentation of his kin;
Bị thiêu đốt, người ấy không biết tiếng than khóc của thân quyến;
1323
Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gatī’’ti.
Therefore, I grieve not for him; he has gone to his own destiny."
Vì vậy, tôi không sầu khổ vì điều đó, người ấy đã đi theo nghiệp của mình.”
1324
Tattha saṃ tanunti attano sarīraṃ.
Here, saṃ tanuṃ means his own body.
Trong đó, saṃ tanu (thân mình) là thân thể của chính mình.
Nibbhogeti jīvitindriyassa abhāvena bhogarahite.
Nibbhoge means devoid of essence due to the absence of the life faculty.
Nibbhoge (vô dụng) là không có sự sống, không còn đáng để hưởng thụ.
Peteti paralokaṃ paṭigate.
Pete means gone to the other world.
Pete (người đã chết) là đã đi về cõi khác.
Kālakateti katakāle, mateti attho.
Kālakate means at the time of death, meaning dead.
Kālakate (khi đã đến lúc chết) là khi đến lúc chết, tức là đã chết.
Idaṃ vuttaṃ hoti – sāmi, mama putto yathā nāma urago jiṇṇatacaṃ nicchinditvā anoloketvā anapekkho chaḍḍetvā gaccheyya, evaṃ attano sarīraṃ chaḍḍetvā gacchati, tassa jīvitindriyarahite sarīre evaṃ nibbhoge tasmiñca me putte pete puna paṭigate maraṇakālaṃ katvā ṭhite sati ko kāruññena vā paridevena vā attho.
This is what is said: Master, just as a snake sheds its old skin, discards it without looking back or attachment, and goes its way, so my son has discarded his body and gone. When his body is devoid of the life faculty, thus without its essence, and when that son of mine has passed away, having made the time of death, what is the purpose of compassion or lamentation?
Điều này có nghĩa là: Thưa ngài, con trai tôi giống như con rắn lột bỏ lớp da già cỗi mà không nhìn lại, không lưu luyến mà bỏ đi, cũng vậy, nó bỏ thân thể của mình mà ra đi. Khi thân thể không còn sự sống, trở nên vô dụng như vậy, và con trai tôi đã đi về cõi khác, đã chết, thì việc thương xót hay than khóc có ích gì?
Ayañhi yathā sūlehi vijjhitvā ḍayhamāno sukhadukkhaṃ na jānāti, evaṃ ñātīnaṃ paridevitampi na jānāti, tena kāraṇenāhaṃ etaṃ na socāmi.
For just as one pierced by stakes and burning knows no pleasure or pain, so he knows not the lamentation of his kin. For that reason, I do not grieve for him.
Người này, giống như người bị đâm bằng giáo và bị thiêu đốt mà không biết gì về khổ lạc, cũng vậy, không biết tiếng than khóc của thân quyến. Vì lý do đó, tôi không sầu khổ vì điều này.
Yā tassa attano gati, taṃ so gatoti.
He has gone to his own destiny.
Người ấy đã đi theo nghiệp của chính mình.
1325
Sakko bodhisattassa vacanaṃ sutvā brāhmaṇiṃ pucchi ‘‘amma, tuyhaṃ so kiṃ hotī’’ti?
Sakka, having heard the Bodhisatta's words, asked the brahmin woman, "Lady, what is he to you?"
Sakka nghe lời Bồ-tát nói xong, hỏi bà Bà-la-môn: “Này bà, người đó là gì của bà?”
‘‘Dasa māse kucchinā pariharitvā thaññaṃ pāyetvā hatthapāde saṇṭhapetvā vaḍḍhitaputto me, sāmī’’ti.
"My son, whom I carried in my womb for ten months, nursed, and whose limbs I strengthened, has grown up, master."
“Là con trai của tôi, thưa ngài, người mà tôi đã mang nặng mười tháng trong bụng, đã cho bú sữa, đã nâng đỡ tay chân mà nuôi lớn.”
‘‘Amma, pitā tāva purisabhāvena mā rodatu, mātu hadayaṃ pana mudukaṃ hoti, tvaṃ kasmā na rodasī’’ti?
"Mother, let the father not weep, being a man, but a mother's heart is tender. Why do you not weep?"
“Này bà, người cha thì có thể không khóc vì bản chất là đàn ông, nhưng trái tim của người mẹ thì mềm yếu, tại sao bà không khóc?”
Sā arodanakāraṇaṃ kathentī –
Explaining the reason for not weeping, she said:
Khi kể lý do không khóc, bà nói hai bài kệ –
1326
21.
21.
21.
1327
‘‘Anavhito tato āgā, ananuññāto ito gato;
"Uninvited he came from there, unpermitted he went from here;
“Không được mời mà đến, không được phép mà đi;
1328
Yathāgato tathā gato, tattha kā paridevanā.
As he came, so he went. What lamentation is there in that?
Đến như thế nào, đi cũng như thế ấy, vậy có gì mà than khóc?
1329
22.
22.
22.
1330
‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ;
Burning, he does not know the lamentation of his relatives;
Bị thiêu đốt, người ấy không biết tiếng than khóc của thân quyến;
1331
Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gatī’’ti– gāthādvayamāha –
Therefore, I do not grieve for him. He has gone to whatever destiny is his." – She spoke these two verses.
Vì vậy, tôi không sầu khổ vì điều đó, người ấy đã đi theo nghiệp của mình.”
1332
Tattha anavhitoti ayaṃ tāta mayā paralokato anavhito ayācito.
Therein, anavhito (uninvited): "This one, my son, was uninvited, unrequested by me from the other world."
Trong đó, anavhito (không được mời): Này con, người này không được ta mời gọi, không được ta cầu xin từ cõi khác.
Āgāti amhākaṃ gehaṃ āgato.
Āgā (came): "He came to our house."
Āgā (đã đến): đã đến nhà chúng ta.
Itoti ito manussalokato gacchantopi mayā ananuññātova gato.
Ito (from here): "Even when going from this human world, he went unpermitted by me."
Ito (từ đây): khi đi từ cõi người này, cũng không được ta cho phép mà đã đi.
Yathāgatoti āgacchantopi yathā attanova ruciyā āgato, gacchantopi tatheva gato.
Yathāgato (as he came): "Just as he came of his own accord, so too he went."
Yathāgato (đến như thế nào): khi đến cũng tùy theo ý muốn của chính mình mà đến, khi đi cũng như thế ấy mà đi.
Tatthāti tasmiṃ tassa ito gamane kā paridevanā.
Tatthā (in that): "In that going from here, what lamentation is there?"
Tatthā (vậy thì): trong việc người ấy đi từ đây, có gì mà than khóc?
Ḍayhamānoti gāthā vuttanayena veditabbā.
Ḍayhamāno (burning): The verse should be understood in the manner explained.
Ḍayhamāno (bị thiêu đốt): bài kệ này nên hiểu theo cách đã nói.
1333
Sakko brāhmaṇiyā kathaṃ sutvā tassa bhaginiṃ pucchi ‘‘amma, tuyhaṃ so kiṃ hotī’’ti?
Sakko, having heard the brahmin woman's words, asked her sister, "Mother, what is he to you?"
Sakka nghe lời bà Bà-la-môn nói xong, hỏi người chị: “Này bà, người đó là gì của bà?”
‘‘Bhātā me, sāmī’’ti.
"He is my brother, master."
“Là anh trai của tôi, thưa ngài.”
‘‘Amma, bhaginiyo nāma bhātūsu sinehā honti, tvaṃ kasmā na rodasī’’ti?
"Mother, sisters are affectionate towards their brothers. Why do you not weep?"
“Này bà, các người chị em thường có tình thương đối với anh em, tại sao bà không khóc?”
Sā arodanakāraṇaṃ kathentī –
Explaining the reason for not weeping, she said:
Khi kể lý do không khóc, bà nói hai bài kệ –
1334
23.
23.
23.
1335
‘‘Sace rode kisā assaṃ, tassā me kiṃ phalaṃ siyā;
"If I were to weep and become emaciated, what fruit would that be for me?
“Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên gầy yếu, điều đó có ích gì cho tôi?
1336
Ñātimittasuhajjānaṃ, bhiyyo no aratī siyā.
For relatives, friends, and well-wishers, there would be even greater displeasure.
Đối với bà con, bạn bè, người thân, sự buồn khổ của chúng ta sẽ càng tăng thêm.
1337
24.
24.
24.
1338
Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ;
Burning, he does not know the lamentation of his relatives;
Bị thiêu đốt, người ấy không biết tiếng than khóc của thân quyến;
1339
Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gatī’’ti– gāthādvayamāha –
Therefore, I do not grieve for him. He has gone to whatever destiny is his." – She spoke these two verses.
Vì vậy, tôi không sầu khổ vì điều đó, người ấy đã đi theo nghiệp của mình.”
1340
Tattha saceti yadi ahaṃ bhātari mate rodeyyaṃ, kisasarīrā assaṃ.
Therein, sace (if): "If I were to weep for my dead brother, I would become emaciated."
Trong đó, sace (nếu): nếu tôi khóc khi anh trai chết, tôi sẽ trở nên gầy yếu.
Bhātu pana me tappaccayā vuḍḍhi nāma natthīti dasseti.
This shows that there is no growth for my brother on account of that.
Điều này cho thấy rằng không có sự tăng trưởng nào cho anh trai tôi từ việc đó.
Tassā meti tassā mayhaṃ rodantiyā kiṃ phalaṃ ko ānisaṃso bhaveyya.
Tassā me (for that me): "What fruit, what benefit, would there be for me, weeping thus?"
Tassā me (điều đó có ích gì cho tôi): việc tôi khóc có lợi ích gì, có sự an lạc nào?
Mayhaṃ avuddhi pana paññāyatīti dīpeti.
This indicates that my own decline would be evident.
Nhưng điều đó cho thấy sự không tăng trưởng của tôi được biết đến.
Ñātimittasuhajjānanti ñātimittasuhadānaṃ.
Ñātimittasuhajjānaṃ: "For relatives, friends, and well-wishers."
Ñātimittasuhajjānaṃ nghĩa là của những người thân, bạn bè, người thân thiết.
Ayameva vā pāṭho.
Or this is the reading.
Hoặc đây chính là bản văn.
Bhiyyo noti ye amhākaṃ ñātī ca mittā ca suhadayā ca, tesaṃ adhikatarā arati siyā.
Bhiyyo no (even greater for us): "For those who are our relatives, friends, and well-wishers, there would be greater displeasure."
Bhiyyo no nghĩa là những người là thân quyến, bạn bè và người thân thiết của chúng tôi, sự không vui của họ sẽ nhiều hơn.
1341
Sakko bhaginiyā kathaṃ sutvā bhariyaṃ pucchi ‘‘amma, tuyhaṃ so kiṃ hotī’’ti?
Sakko, having heard the sister's words, asked his wife, "Mother, what is he to you?"
Đế Thích nghe lời của người chị xong, hỏi người vợ: “Này mẹ, người đó là gì của con?”
‘‘Pati me, sāmī’’ti.
"He is my husband, master."
“Là chồng của con, thưa chủ.”
‘‘Itthiyo nāma patimhi mate vidhavā honti anāthā, tvaṃ kasmā na rodasī’’ti.
"Women, when their husbands die, become widows, helpless. Why do you not weep?"
“Phụ nữ khi chồng chết thì trở thành góa phụ, không nơi nương tựa, tại sao con không khóc?”
Sāpissa arodanakāraṇaṃ kathentī –
Explaining to him the reason for not weeping, she said:
Nói ra lý do không khóc của mình, nàng đã nói—
1342
25.
25.
25.
1343
‘‘Yathāpi dārako candaṃ, gacchantamanurodati;
"Just as a child weeps after the moon that is moving;
“Như đứa trẻ khóc theo vầng trăng đang đi,
1344
Evaṃsampadamevetaṃ, yo petamanusocati.
Even so is this, whoever grieves for the departed one.
Cũng như vậy là việc người than khóc người đã chết.
1345
26.
26.
26.
1346
‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ;
Burning, he does not know the lamentation of his relatives;
Người đang bị thiêu đốt không biết tiếng than khóc của thân quyến;
1347
Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gatī’’ti– gāthādvayamāha –
Therefore, I do not grieve for him. He has gone to whatever destiny is his." – She spoke these two verses.
Vì vậy tôi không than khóc, người ấy đã đi theo con đường của mình”—hai câu kệ này.
1348
Tassattho – yathā nāma yattha katthaci yuttāyuttaṃ labbhanīyālabbhanīyaṃ ajānanto bāladārako mātu ucchaṅge nisinno puṇṇamāsiyaṃ puṇṇaṃ candaṃ ākāse gacchantaṃ disvā ‘‘amma, candaṃ me dehi, amma, candaṃ me dehī’’ti punappunaṃ rodati, evaṃsampadamevetaṃ, evaṃnipphattikameva etaṃ tassa ruṇṇaṃ hoti, yo petaṃ kālakataṃ anusocati.
Its meaning is: Just as a foolish child, not knowing what is proper or improper, obtainable or unobtainable, sitting on its mother's lap, sees the full moon moving in the sky on a full moon night and repeatedly cries, "Mother, give me the moon! Mother, give me the moon!", even so is this, such is the outcome of that weeping, whoever grieves for the departed one who has passed away.
Ý nghĩa của nó là: Như một đứa trẻ thơ dại, không biết điều gì đúng sai, có thể đạt được hay không thể đạt được, đang ngồi trong lòng mẹ vào ngày trăng tròn, nhìn thấy vầng trăng tròn đang di chuyển trên bầu trời và lặp đi lặp lại: “Mẹ ơi, cho con trăng, mẹ ơi, cho con trăng” mà khóc, thì việc than khóc của người khóc than người đã chết cũng giống như vậy, cũng có kết quả như vậy.
Itopi ca bālataraṃ.
And this is even more foolish.
Và còn dại dột hơn thế nữa.
Kiṃkāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
So hi vijjamānacandaṃ anurodati, mayhaṃ pana pati mato etarahi avijjamāno sūlehi vijjhitvā ḍayhamānopi na kiñci jānātīti.
Because he weeps for the moon that exists, but my husband is dead, non-existent now, and even if pierced by spears and burning, he knows nothing.
Vì đứa trẻ ấy khóc theo vầng trăng đang hiện hữu, còn chồng tôi đã chết, hiện không còn nữa, dù bị đâm bằng cọc và bị thiêu đốt cũng không biết gì cả.
1349
Sakko bhariyāya vacanaṃ sutvā dāsiṃ pucchi ‘‘amma, tuyhaṃ so kiṃ hotī’’ti?
Sakko, having heard his wife's words, asked the maidservant, "Mother, what is he to you?"
Đế Thích nghe lời của người vợ xong, hỏi người nữ tỳ: “Này mẹ, người đó là gì của con?”
‘‘Ayyo me, sāmī’’ti.
"He is my master, master."
“Là chủ của con, thưa chủ.”
‘‘Nanu tvaṃ iminā pīḷetvā pothetvā paribhuttā bhavissasi, tasmā ‘‘sumuttā aha’’nti na rodasī’’ti.
"Surely you must have been oppressed, beaten, and abused by him, so you do not weep, thinking, 'I am well rid of him'?"
“Chẳng phải cô đã bị người này hành hạ, đánh đập và lợi dụng sao? Vậy tại sao cô không khóc mà lại nói ‘Tôi đã được giải thoát’?”
‘Sāmi, mā evaṃ avaca, na etaṃ etassa anucchavikaṃ, khantimettānuddayasampanno me ayyaputto, ure saṃvaḍḍhitaputto viya ahosī’ti.
"Master, do not speak thus. That is not fitting for him. My young master was endowed with patience, loving-kindness, and compassion; he was like a son raised on my breast."
“Thưa chủ, xin đừng nói như vậy, điều đó không phù hợp với người ấy. Con trai của chủ tôi là người đầy nhẫn nại, từ ái và lòng bi mẫn, người ấy như một đứa con được nuôi dưỡng trong lòng tôi.”
‘‘Atha kasmā na rodasī’’ti?
"Then why do you not weep?"
“Vậy tại sao con không khóc?”
Sāpissa arodanakāraṇaṃ kathentī –
Explaining to him the reason for not weeping, she said:
Nói ra lý do không khóc của mình, nàng đã nói—
1350
27.
27.
27.
1351
‘‘Yathāpi udakakumbho, bhinno appaṭisandhiyo;
"Just as a water pot, once broken, cannot be rejoined;
“Như bình nước vỡ, không thể nối lại;
1352
Evaṃsampadamevetaṃ, yo petamanusocati.
Even so is this, whoever grieves for the departed one.
Cũng như vậy là việc người than khóc người đã chết.
1353
28.
28.
28.
1354
‘‘Ḍayhamāno na jānāti, ñātīnaṃ paridevitaṃ;
Burning, he does not know the lamentation of his relatives;
Người đang bị thiêu đốt không biết tiếng than khóc của thân quyến;
1355
Tasmā etaṃ na socāmi, gato so tassa yā gatī’’ti– gāthādvayamāha –
"Therefore, I do not grieve over this; he has gone to his destination." – Thus he spoke two verses.
Vì vậy tôi không than khóc, người ấy đã đi theo con đường của mình”—hai câu kệ này.
1356
Tassattho – yathā nāma udakakumbho ukkhipiyamāno patitvā sattadhā bhinno puna tāni kapālāni paṭipāṭiyā ṭhapetvā saṃvidahitvā paṭipākatikaṃ kātuṃ na sakkoti, yo petamanusocati, tassapi etamanusocanaṃ evaṃnipphattikameva hoti, matassa puna jīvāpetuṃ asakkuṇeyyattā iddhimato vā iddhānubhāvena bhinnaṃ kumbhaṃ saṃvidahitvā udakassa pūretuṃ sakkā bhaveyya, kālakato pana iddhibalenāpi na sakkā paṭipākatitaṃ kātunti.
Its meaning is: Just as a water-pot, when lifted up and dropped, shatters into seven pieces, and those pieces cannot be put back together in order to restore it to its original state; similarly, for one who grieves over a deceased person, this grieving brings about the same result, because it is impossible to bring the dead back to life. Even if a person with psychic power could, by their psychic power, put a broken pot back together and fill it with water, one who has passed away cannot be restored to their original state even by psychic power.
Ý nghĩa của nó là: Như một bình nước khi được nhấc lên mà rơi xuống, vỡ thành bảy mảnh, không thể sắp xếp lại các mảnh vỡ đó theo thứ tự và làm cho nó trở lại trạng thái ban đầu được, thì việc than khóc của người than khóc người đã chết cũng có kết quả như vậy, vì người đã chết không thể sống lại được. Mặc dù một người có thần thông có thể dùng thần thông để sắp xếp lại một bình vỡ và đổ đầy nước vào, nhưng người đã chết thì không thể làm cho trở lại trạng thái ban đầu được dù bằng sức mạnh thần thông.
Itarā gāthā vuttatthāyeva.
The other verse has the same meaning as stated.
Câu kệ còn lại đã được giải thích ý nghĩa.
1357
Sakko sabbesaṃ dhammakathaṃ sutvā pasīditvā ‘‘tumhehi appamattehi maraṇassati bhāvitā, tumhe ito paṭṭhāya sahatthena kammaṃ mā karittha, ahaṃ, sakko devarājā, ahaṃ vo gehe satta ratanāni aparimāṇāni karissāmi, tumhe dānaṃ detha, sīlaṃ rakkhatha, uposathakammaṃ karotha, appamattā hothā’’ti tesaṃ ovādaṃ datvā gehaṃ aparimitadhanaṃ katvā pakkāmi.
Sakka, having heard the Dhamma talk of all of them, was pleased and said, "You have diligently cultivated mindfulness of death. From now on, do not perform work with your own hands. I, Sakka, the king of devas, will make immeasurable seven kinds of treasures in your house. Give alms, observe sīla, perform the Uposatha observance, and be diligent." Having given them this advice, he made their house filled with immeasurable wealth and departed.
Đế Thích nghe pháp thoại của tất cả mọi người xong, hoan hỷ nói: “Các con đã tu tập niệm chết một cách không phóng dật. Từ nay trở đi, các con đừng tự tay làm việc nữa. Ta, Đế Thích, vua chư thiên, sẽ làm cho trong nhà các con có vô số bảy loại báu vật. Các con hãy bố thí, giữ giới, thực hành trai giới, và sống không phóng dật.” Sau khi ban lời khuyên đó, Ngài đã làm cho ngôi nhà của họ trở nên vô cùng giàu có rồi ra đi.
1358
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne kuṭumbiko sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, revealed the Truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the householder was established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã mang giáo pháp này đến, sau khi tuyên bố các chân lý, đã kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các chân lý được hoàn tất, người gia chủ đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
Tadā dāsī khujjuttarā ahosi, dhītā uppalavaṇṇā, putto rāhulo, mātā khemā, brāhmaṇo pana ahameva ahosinti.
At that time, the maidservant was Khujjuttarā, the daughter was Uppalavaṇṇā, the son was Rāhula, the mother was Khemā, and the brahmin was myself.
Khi ấy, người nữ tỳ là Khujjuttarā, người con gái là Uppalavaṇṇā, người con trai là Rāhula, người mẹ là Khemā, còn vị Bà la môn chính là Ta vậy.
1359
Uragajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth Uraga Jātaka description.
Câu chuyện về Jātaka Uraga, thứ tư.
1360
* 5. Ghaṭajātakavaṇṇanā
* 5. Ghaṭa Jātaka description
* 5. Câu chuyện về Jātaka Ghaṭa
1361
Aññe socanti rodantīti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarañño ekaṃ amaccaṃ ārabbha kathesi.
"Others grieve and weep"—the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning a minister of King Pasenadi of Kosala.
Aññe socanti rodantī (những người khác than khóc, rên rỉ)—Bậc Đạo Sư khi trú tại Jetavana đã kể câu chuyện này liên quan đến một vị đại thần của vua Kosala.
Vatthu heṭṭhā kathitasadisameva.
The story is similar to what was told below.
Câu chuyện cơ bản tương tự như đã kể ở trên.
Idha pana rājā attano upakārassa amaccassa mahantaṃ yasaṃ datvā paribhedakānaṃ kathaṃ gahetvā taṃ bandhāpetvā bandhanāgāre pavesesi.
Here, however, the king, having bestowed great honor upon his benefactor, the minister, listened to the words of slanderers and had him bound and thrown into prison.
Ở đây, nhà vua đã ban vinh dự lớn cho vị đại thần đã giúp đỡ mình, nhưng sau đó nghe lời của những kẻ chia rẽ, đã ra lệnh bắt giam ông vào ngục.
So tattha nisinnova sotāpattimaggaṃ nibbattesi.
While sitting there, he developed the path of stream-entry.
Ông ấy đã an trú vào đạo quả Dự Lưu ngay khi đang ở trong ngục.
Rājā tassa guṇaṃ sallakkhetvā mocāpesi.
The king, recognizing his virtues, had him released.
Nhà vua nhận ra đức hạnh của ông và đã cho phóng thích ông.
So gandhamālaṃ ādāya satthu santikaṃ gantvā vanditvā nisīdi.
He took perfumes and garlands, went to the Teacher, paid homage, and sat down.
Ông mang hương hoa đến chỗ Bậc Đạo Sư, đảnh lễ rồi ngồi xuống.
Atha naṃ satthā ‘‘anattho kira te uppanno’’ti pucchitvā ‘‘āma, bhante, anatthena pana me attho āgato, sotāpattimaggo nibbatto’’ti vutte ‘‘na kho, upāsaka, tvaññeva anatthena atthaṃ āhari, porāṇakapaṇḍitāpi āhariṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher asked him, "It seems a misfortune has befallen you?" When he replied, "Yes, venerable sir, but through misfortune, good has come to me; the path of stream-entry has developed," the Teacher said, "Indeed, Upāsaka, you are not the only one who brought good out of misfortune; ancient wise ones also did so," and being requested by him, recounted a past story.
Khi đó, Bậc Đạo Sư hỏi ông: “Nghe nói có điều bất lợi đã xảy ra với con?” Khi ông đáp: “Thưa Thế Tôn, đúng vậy, nhưng từ điều bất lợi đó con đã đạt được lợi ích, đạo quả Dự Lưu đã phát sinh,” Bậc Đạo Sư nói: “Này cận sự nam, không chỉ con đã đạt được lợi ích từ điều bất lợi, mà các bậc hiền trí thời xưa cũng đã đạt được,” rồi theo lời thỉnh cầu của ông, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1362
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbatti, ‘‘ghaṭakumāro’’tissa nāmaṃ kariṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born in the womb of his chief queen, and they named him Ghaṭakumāra.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ tát đã tái sinh vào bụng hoàng hậu của ông, và họ đặt tên cho ngài là “Ghaṭakumāra”.
So aparena samayena takkasilāyaṃ uggahitasippo dhammena rajjaṃ kāresi.
After some time, having mastered his crafts in Takkasilā, he reigned righteously.
Sau này, ngài đã học xong các nghề ở Takkasilā và trị vì vương quốc một cách công chính.
Tassa antepure eko amacco dubbhi.
A certain minister in his inner palace committed treason.
Trong cung điện của ngài có một vị đại thần phản bội.
So taṃ paccakkhato ñatvā raṭṭhā pabbājesi.
Knowing this directly, he banished him from the kingdom.
Ngài biết rõ điều đó và đã trục xuất ông ta khỏi vương quốc.
Tadā sāvatthiyaṃ dhaṅkarājā nāma rajjaṃ kāresi.
At that time, a king named Dhaṅka reigned in Sāvatthī.
Khi đó, vua Dhaṅka trị vì tại Sāvatthī.
So tassa santikaṃ gantvā taṃ upaṭṭhahitvā heṭṭhā vuttanayena attano vacanaṃ gāhāpetvā bārāṇasirajjaṃ gaṇhāpesi.
The minister went to him, served him, and in the manner described below, made him accept his words and seize the kingdom of Bārāṇasī.
Ông ta đến chỗ nhà vua, phục vụ nhà vua, và theo cách đã kể ở trên, đã khiến nhà vua tin lời mình và chiếm đoạt vương quốc Bārāṇasī.
Sopi rajjaṃ gahetvā bodhisattaṃ saṅkhalikāhi bandhāpetvā bandhanāgāraṃ pavesesi.
He, having taken the kingdom, had the Bodhisatta bound with chains and thrown into prison.
Ông ta cũng chiếm đoạt vương quốc, rồi sai xiềng xích Bồ tát và tống vào ngục.
Bodhisatto jhānaṃ nibbattetvā ākāse pallaṅkena nisīdi, dhaṅkassa sarīre ḍāho uppajji.
The Bodhisatta developed jhāna and sat cross-legged in the air; a burning sensation arose in Dhaṅka's body.
Bồ tát đã phát sinh thiền định và ngồi kiết già trên không trung, và một cơn nóng đã phát sinh trong thân thể của Dhaṅka.
So gantvā bodhisattassa suvaṇṇādāsaphullapadumasassirikaṃ mukhaṃ disvā bodhisattaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
He went and, seeing the Bodhisatta's face, radiant like a golden mirror and a full lotus, questioned the Bodhisatta, speaking the first verse:
Ông ta đi đến, nhìn thấy khuôn mặt của Bồ tát rạng rỡ như gương vàng và hoa sen nở, rồi hỏi Bồ tát, nói câu kệ đầu tiên—
1363
29.
29.
29.
1364
‘‘Aññe socanti rodanti, aññe assumukhā janā;
"Others grieve and weep, other people have tearful faces;
“Người khác than khóc, rên rỉ, những người khác mặt đẫm lệ;
1365
Pasannamukhavaṇṇosi, kasmā ghaṭa na socasī’’ti.
Your face is serene and radiant, Ghaṭa, why do you not grieve?"
Mặt ngài rạng rỡ, Ghaṭa, tại sao ngài không than khóc?”
1366
Tattha aññeti taṃ ṭhapetvā sesamanussā.
Here, aññe (others) means other people apart from him.
Trong đó, aññe nghĩa là những người khác ngoài ngài.
1367
Athassa bodhisatto asocanakāraṇaṃ kathento catasso gāthā abhāsi –
Then the Bodhisatta, explaining the reason for not grieving, spoke four verses:
Sau đó, Bồ tát đã nói bốn câu kệ để giải thích lý do không than khóc của ngài—
1368
30.
30.
30.
1369
‘‘Nābbhatītaharo soko, nānāgatasukhāvaho;
"Sorrow does not remove what has passed, nor does it bring future happiness;
“Sầu khổ không mang lại điều đã qua, cũng không mang lại hạnh phúc tương lai;
1370
Tasmā dhaṅka na socāmi, natthi soke dutīyatā.
Therefore, Dhaṅka, I do not grieve; there is no second benefit in sorrow.
Vì vậy, Dhaṅka, tôi không than khóc, không có bạn đồng hành trong sầu khổ.
1371
31.
31.
31.
1372
‘‘Socaṃ paṇḍu kiso hoti, bhattañcassa na ruccati;
"Grieving, one becomes pale and emaciated, and food does not appeal to him;
Người sầu khổ sẽ trở nên xanh xao, gầy gò, thức ăn không còn ngon miệng;
1373
Amittā sumanā honti, sallaviddhassa ruppato.
Enemies become joyful when one, pierced by a dart, suffers.
Kẻ thù sẽ hoan hỷ khi người bị mũi tên đâm đang đau đớn.
1374
32.
32.
32.
1375
‘‘Gāme vā yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale;
"Whether in a village or in a forest, in a low place or on high ground;
Dù ở làng hay rừng, ở chỗ thấp hay cao;
1376
Ṭhitaṃ maṃ nāgamissati, evaṃ diṭṭhapado ahaṃ.
Misfortune will not come to me who is established; such is the path I have seen.
Điều đó sẽ không đến với tôi đang an trú, tôi là người đã thấy con đường như vậy.
1377
33.
33.
33.
1378
‘‘Yassattā nālamekova, sabbakāmarasāharo;
‘‘For whom his own self alone is not sufficient, bringing forth all the flavors of sensual pleasures;
Người mà tự ngã không đủ một mình để mang lại tất cả hương vị dục lạc;
1379
Sabbāpi pathavī tassa, na sukhaṃ āvahissatī’’ti.
Even the entire earth will not bring happiness to him.’’
Thì tất cả trái đất cũng sẽ không mang lại hạnh phúc cho người ấy.”
1380
Tattha nābbhatītaharoti nābbhatītāhāro, ayameva vā pāṭho.
Here, nābbhatītaharo means nābbhatītāhāro, or this indeed is the reading.
Trong đó, nābbhatītaharo nghĩa là nābbhatītāhāro, hoặc đây chính là bản văn.
Soko nāma abbhatītaṃ atikkantaṃ niruddhaṃ atthaṅgataṃ puna nāharati.
Sorrow, indeed, does not bring back that which is past, gone, ceased, or set.
Sầu khổ không mang lại điều đã qua, đã diệt, đã biến mất, đã lặn, không mang lại lần nữa.
Dutīyatāti sahāyatā.
Dutīyatā means companionship.
Dutīyatā nghĩa là bạn đồng hành.
Atītāharaṇena vā anāgatāharaṇena vā soko nāma kassaci sahāyo na hoti, tenāpi kāraṇenāhaṃ na socāmīti vadati.
Sorrow, indeed, is no one's companion, whether in bringing back the past or bringing forth the future; for that reason too, I do not grieve, he says.
Hoặc sầu khổ không phải là bạn đồng hành của bất cứ ai, dù là mang lại điều đã qua hay mang lại điều tương lai, vì lý do đó tôi không than khóc, ngài nói.
Socanti socanto.
Socanti means grieving.
Socaṃ nghĩa là người than khóc.
Sallaviddhassa ruppatoti sokasallena viddhassa teneva ghaṭṭiyamānassa ‘‘diṭṭhā vata no paccāmittassa piṭṭhī’’ti amittā sumanā hontīti attho.
Sallaviddhassa ruppato means that when one is pierced by the dart of sorrow and tormented by it, enemies become joyful, thinking, ‘‘Indeed, we have seen the back of our adversary.’’
Sallaviddhassa ruppato nghĩa là kẻ thù sẽ hoan hỷ khi thấy “kẻ thù của chúng ta đã bị mũi tên sầu khổ đâm trúng và đang đau đớn” như vậy.
1381
Ṭhitaṃ maṃ nāgamissatīti samma dhaṅkarāja, etesu gāmādīsu yattha katthaci ṭhitaṃ maṃ paṇḍukisabhāvādikaṃ sokamūlakaṃ byasanaṃ na āgamissati.
Ṭhitaṃ maṃ nāgamissatī means, O King Dhaṅka, the calamity rooted in sorrow, such as the state of being pale and emaciated, will not come to me, wherever I may be established in these villages and so forth.
Ṭhitaṃ maṃ nāgamissatī nghĩa là: Này vua Dhaṅka, tai họa do sầu khổ gây ra như xanh xao, gầy gò, v.v., sẽ không đến với tôi dù tôi đang an trú ở bất cứ đâu trong làng mạc, v.v.
Evaṃ diṭṭhapadoti yathā taṃ byasanaṃ nāgacchati, evaṃ mayā jhānapadaṃ diṭṭhaṃ.
Evaṃ diṭṭhapado means, I have seen the path of jhāna in such a way that such calamity does not come.
Evaṃ diṭṭhapado nghĩa là: Tôi đã thấy con đường thiền định để tai họa đó không đến.
‘‘Aṭṭhalokadhammapada’’ntipi vadantiyeva.
Some also say ‘‘the path of the eight worldly conditions.’’
Người ta cũng nói “aṭṭhalokadhammapada” (con đường của tám pháp thế gian).
Pāḷiyaṃ pana ‘‘na mattaṃ nāgamissatī’’ti likhitaṃ, taṃ aṭṭhakathāyaṃ natthi.
However, in the Pāḷi, ‘‘na mattaṃ nāgamissatī’’ is written, but it is not in the commentary.
Tuy nhiên, trong bản Pāḷi có ghi “na mattaṃ nāgamissatī” nhưng điều đó không có trong bản chú giải.
Pariyosānagāthāya icchitapatthitatthena jhānasukhasaṅkhātaṃ sabbakāmarasaṃ āharatīti sabbakāmarasāharo.
In the concluding verse, sabbakāmarasāharo means one who brings forth all the flavors of sensual pleasures, which are reckoned as the happiness of jhāna, in the sense of what is desired and longed for.
Trong câu kệ cuối cùng, sabbakāmarasāharo nghĩa là mang lại tất cả hương vị dục lạc, tức là hạnh phúc thiền định, theo nghĩa mong muốn và khát khao.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yassa rañño pahāya aññasahāye attāva eko sabbakāmarasāharo nālaṃ, sabbaṃ jhānasukhasaṅkhātaṃ kāmarasaṃ āharituṃ asamattho, tassa rañño sabbāpi pathavī na sukhaṃ āvahissati.
This is what is said: if for a king, abandoning other companions, his own self alone is not sufficient to bring forth all the flavors of sensual pleasures, that is, incapable of bringing forth all the flavors of sensual pleasures reckoned as the happiness of jhāna, then even the entire earth will not bring happiness to that king.
Điều này có nghĩa là: Đối với vị vua mà tự ngã một mình không đủ để mang lại tất cả hương vị dục lạc, tức là không đủ khả năng mang lại tất cả hương vị dục lạc được gọi là hạnh phúc thiền định, thì tất cả trái đất cũng sẽ không mang lại hạnh phúc cho vị vua ấy.
Kāmāturassa hi sukhaṃ nāma natthi, yo pana kilesadaratharahitaṃ jhānasukhaṃ āharituṃ samattho, so rājā sukhī hotīti.
For one tormented by sensual desires, there is no happiness; but the king who is capable of bringing forth the happiness of jhāna, free from the torment of defilements, is happy.
Vì người bị dục vọng hành hạ thì không có hạnh phúc. Còn vị vua nào có khả năng mang lại hạnh phúc thiền định, không còn sự phiền não của phiền não, thì vị vua ấy là người hạnh phúc.
Yo panetāya gāthāya ‘‘yassatthā nālameko’’tipi pāṭho, tassattho na dissati.
However, for the reading ‘‘yassatthā nālameko’’ in this verse, the meaning is not apparent.
Tuy nhiên, đối với câu kệ này, bản văn “yassatthā nālameko” thì không thấy ý nghĩa.
1382
Iti dhaṅko imā catasso gāthā sutvā bodhisattaṃ khamāpetvā rajjaṃ paṭicchāpetvā pakkāmi.
Thus, Dhaṅka, having heard these four verses, begged forgiveness from the Bodhisatta, returned the kingdom to him, and departed.
Như vậy, chim quạ nghe bốn bài kệ này xong, xin lỗi Bồ-tát, trao lại vương quốc rồi bỏ đi.
Bodhisattopi rajjaṃ amaccānaṃ paṭiniyyādetvā himavantapadesaṃ gantvā isipabbajjaṃ pabbajitvā aparihīnajjhāno brahmalokaparāyaṇo ahosi.
The Bodhisatta also entrusted the kingdom to his ministers, went to the Himalayan region, took up the ascetic's life, and, without losing his jhānas, became destined for the Brahma-world.
Bồ-tát cũng giao lại vương quốc cho các vị quan, rồi đi đến vùng Himavanta, xuất gia làm đạo sĩ, không mất thiền định, và trở thành người sẽ sanh về cõi Phạm thiên.
1383
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā dhaṅkarājā ānando ahosi, ghaṭarājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka thus: ‘‘At that time, King Dhaṅka was Ānanda, and King Ghaṭa was I myself.’’
Bậc Đạo Sư đã mang bài pháp thoại này đến và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, vua chim quạ là Ānanda, còn vua Ghaṭa chính là Ta vậy.”
1384
Ghaṭajātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth, the Ghaṭa Jātaka, is concluded.
Ghaṭajātaka vaṇṇanā, thứ năm.
1385
* 6. Koraṇḍiyajātakavaṇṇanā
* 6. The Koraṇḍiya Jātaka
* 6. Koraṇḍiyajātaka vaṇṇanā
1386
Eko araññeti idaṃ satthā jetavane viharanto dhammasenāpatiṃ ārabbha kathesi.
Eko araññe (Alone in the forest) – The Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning the Dhamma-general.
Eko araññe (Một người trong rừng): Câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Pháp tướng quân.
Thero kira āgatāgatānaṃ dussīlānaṃ migaluddakamacchabandhādīnaṃ diṭṭhadiṭṭhānaññeva ‘‘sīlaṃ gaṇhatha, sīlaṃ gaṇhathā’’ti sīlaṃ deti.
It is said that the Elder would give precepts to all who came, such as wicked hunters and fishermen, to everyone he saw, saying, ‘‘Observe precepts, observe precepts.’’
Nghe nói, vị Trưởng lão thường ban giới (sīla) cho những người ác đức đến gặp, như thợ săn, ngư dân, v.v., bất cứ ai Ngài nhìn thấy, Ngài đều nói: “Hãy thọ giới, hãy thọ giới.”
Te there garubhāvena tassa kathaṃ bhindituṃ asakkontā sīlaṃ gaṇhanti, gahetvā ca pana na rakkhanti, attano attano kammameva karonti.
Out of reverence for the Elder, they were unable to refuse his words and so received the precepts, but having received them, they did not observe them; they continued their own activities.
Vì kính trọng vị Trưởng lão, họ không thể từ chối lời Ngài nên đã thọ giới, nhưng sau khi thọ giới, họ không giữ giới mà tiếp tục làm những việc của riêng mình.
Thero saddhivihārike āmantetvā ‘‘āvuso, ime manussā mama santike sīlaṃ gaṇhiṃsu, gaṇhitvā ca pana na rakkhantī’’ti āha.
The Elder called his resident pupils and said, ‘‘Friends, these people received precepts from me, but having received them, they do not observe them.’’
Trưởng lão gọi các đệ tử và nói: "Này các bạn, những người này đã thọ giới từ ta, nhưng họ không giữ giới."
‘‘Bhante, tumhe etesaṃ aruciyā sīlaṃ detha, ete tumhākaṃ kathaṃ bhindituṃ asakkontā gaṇhanti, tumhe ito paṭṭhāya evarūpānaṃ sīlaṃ mā adatthā’’ti.
They replied, ‘‘Venerable sir, you give precepts to them against their wishes; they receive them because they cannot refuse your words. From now on, do not give precepts to such people.’’
"Bạch Đại đức, Đại đức đã trao giới cho họ khi họ không muốn, họ thọ giới vì không thể từ chối lời Đại đức. Từ nay trở đi, Đại đức đừng trao giới cho những người như vậy nữa."
Thero anattamano ahosi.
The Elder was displeased.
Trưởng lão không vui.
Taṃ pavattiṃ sutvā bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, sāriputtatthero kira diṭṭhadiṭṭhānaññeva sīlaṃ detī’’ti.
Having heard this matter, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: ‘‘Friends, it seems that Elder Sāriputta gives precepts to everyone he sees.’’
Nghe tin ấy, các tỳ khưu khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: "Thưa các bạn, nghe nói Trưởng lão Sāriputta trao giới cho bất cứ ai ông thấy!"
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa diṭṭhadiṭṭhānaṃ ayācantānaññeva sīlaṃ detī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, ‘‘Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?’’ When told, ‘‘This is it,’’ he said, ‘‘Bhikkhus, it is not only now; in the past too, he gave precepts to everyone he saw, even to those who did not ask,’’ and then he related a past story.
Bậc Đạo Sư đến, hỏi: "Này các tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì?" Khi được thưa: "Chuyện này ạ," Ngài nói: "Này các tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ mà trước kia ông ấy cũng đã trao giới cho những người ông thấy mà không xin," rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
1387
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ disāpāmokkhassa ācariyassa jeṭṭhantevāsiko koraṇḍiyo nāma ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family, and when he came of age, he became the chief disciple of a world-renowned teacher in Takkasilā, named Koraṇḍiya.
Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta đang trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình Bà La Môn, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài là đệ tử trưởng tên Koraṇḍiya của vị đạo sư danh tiếng ở Takkasilā.
Tadā so ācariyo diṭṭhadiṭṭhānaṃ kevaṭṭādīnaṃ ayācantānaññeva ‘‘sīlaṃ gaṇhatha, sīlaṃ gaṇhathā’’ti sīlaṃ deti.
Then that teacher, seeing fishermen and others, even though they did not ask, would give them precepts, saying, "Take the precepts, take the precepts!"
Khi đó, vị đạo sư ấy đã ban giới cho những người mà ông gặp, như những người đánh cá và những người khác, ngay cả khi họ không yêu cầu, nói rằng: “Hãy thọ trì giới, hãy thọ trì giới.”
Te gahetvāpi na rakkhanti ācariyo tamatthaṃ antevāsikānaṃ ārocesi.
Even after taking them, they would not observe them. The teacher reported this matter to his pupils.
Họ đã thọ trì nhưng không giữ gìn. Vị đạo sư đã báo cáo sự việc đó cho các đệ tử của mình.
Antevāsikā ‘‘bhante, tumhe etesaṃ aruciyā sīlaṃ detha, tasmā bhindanti, ito dāni paṭṭhāya yācantānaññeva dadeyyātha, mā ayācantāna’’nti vadiṃsu.
The pupils said, "Venerable sir, you give them precepts against their will, that is why they break them. From now on, you should give them only to those who ask, not to those who do not ask."
Các đệ tử nói: “Thưa Tôn giả, ngài ban giới cho họ khi họ không mong muốn, vì vậy họ đã phá giới. Từ nay trở đi, xin ngài chỉ ban giới cho những ai yêu cầu, đừng ban cho những ai không yêu cầu.”
So vippaṭisārī ahosi, evaṃ santepi diṭṭhadiṭṭhānaṃ sīlaṃ detiyeva.
He felt remorse, but even so, he continued to give precepts to those he saw.
Ông ấy đã hối hận, nhưng dù vậy, ông vẫn tiếp tục ban giới cho những người mà ông gặp.
1388
Athekadivasaṃ ekasmā gāmā manussā āgantvā brāhmaṇavācanakatthāya ācariyaṃ nimantayiṃsu.
Then one day, people from a certain village came and invited the teacher for a Brahminical recitation.
Rồi một ngày nọ, những người từ một ngôi làng đến và thỉnh vị đạo sư đến để tụng kinh Bà La Môn.
So koraṇḍiyamāṇavaṃ pakkositvā ‘‘tāta, ahaṃ na gacchāmi, tvaṃ ime pañcasate māṇave gahetvā tattha gantvā vācanakāni sampaṭicchitvā amhākaṃ dinnakoṭṭhāsaṃ āharā’’ti pesesi.
He called the young man Koraṇḍiya and sent him, saying, "My dear, I am not going. You take these five hundred young men, go there, receive the recitations, and bring back our allotted share."
Ông ấy gọi thanh niên Koraṇḍiya và sai đi: “Này con, ta không đi, con hãy dẫn năm trăm thanh niên này đến đó, nhận các bài tụng và mang phần của chúng ta về.”
So gantvā paṭinivattanto antarāmagge ekaṃ kandaraṃ disvā cintesi ‘‘amhākaṃ ācariyo diṭṭhadiṭṭhānaṃ ayācantānaññeva sīlaṃ deti, ito dāni paṭṭhāya yathā yācantānaññeva deti, tathā naṃ karissāmī’’ti.
He went, and while returning, he saw a cave on the way and thought, "Our teacher gives precepts to those he sees, even though they do not ask. From now on, I will make him give them only to those who ask."
Khi đi và trở về, trên đường đi, anh ta nhìn thấy một khe núi và nghĩ: “Vị đạo sư của chúng ta ban giới cho những người ông gặp, ngay cả khi họ không yêu cầu. Từ nay trở đi, ta sẽ làm cho ông ấy chỉ ban giới cho những ai yêu cầu.”
So tesu māṇavesu sukhanisinnesu uṭṭhāya mahantaṃ mahantaṃ selaṃ ukkhipitvā kandarāyaṃ khipi, punappunaṃ khipiyeva.
When the young men were comfortably seated, he stood up, lifted large rocks, and threw them into the cave; he kept throwing them again and again.
Khi các thanh niên ấy đã ngồi thoải mái, anh ta đứng dậy, nhấc những tảng đá lớn và ném vào khe núi, ném đi ném lại nhiều lần.
Atha naṃ te māṇavā uṭṭhāya ‘‘ācariya, kiṃ karosī’’ti āhaṃsu.
Then the young men stood up and said to him, "Teacher, what are you doing?"
Rồi các thanh niên ấy đứng dậy và hỏi: “Thưa đạo sư, ngài đang làm gì vậy?”
So na kiñci kathesi, te vegena gantvā ācariyassa ārocesuṃ.
He said nothing. They quickly went and reported to the teacher.
Anh ta không nói gì. Họ nhanh chóng đi báo cho vị đạo sư.
Ācariyo āgantvā tena saddhiṃ sallapanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The teacher came and, conversing with him, spoke the first verse:
Vị đạo sư đến, nói chuyện với anh ta và nói câu kệ đầu tiên:
1389
34.
34.
34.
1390
‘‘Eko araññe girikandarāyaṃ, paggayha paggayha silaṃ pavecchasi;
"Alone in the forest, in a mountain cave, you lift and throw rocks;
“Một mình trong rừng, trong khe núi, con cứ nhấc lên nhấc lên đá rồi ném xuống;
1391
Punappunaṃ santaramānarūpo, koraṇḍiya ko nu tava yidhattho’’ti.
Again and again, in a hurry, Koraṇḍiya, what is your purpose here?"
Cứ liên tục vội vã như vậy, Koraṇḍiya, mục đích của con ở đây là gì?”
1392
Tattha ko nu tava yidhatthoti ko nu tava idha kandarāyaṃ silākhipanena attho.
There, ko nu tava yidhattho means "what is your purpose here in throwing rocks into the cave?"
Trong đó, ko nu tava yidhattho có nghĩa là: mục đích của con ở đây, trong khe núi, khi ném đá là gì?
1393
So tassa vacanaṃ sutvā ācariyaṃ pabodhetukāmo dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing his words, wishing to enlighten the teacher, he spoke the second verse:
Nghe lời ấy, anh ta muốn thức tỉnh vị đạo sư nên nói câu kệ thứ hai:
1394
35.
35.
35.
1395
‘‘Ahañhimaṃ sāgarasevitantaṃ, samaṃ karissāmi yathāpi pāṇi;
"Indeed, I will make this earth, bordered by the ocean, as flat as a palm;
“Con sẽ làm cho trái đất này, được biển bao quanh, trở nên bằng phẳng như lòng bàn tay;
1396
Vikiriya sānūni ca pabbatāni ca, tasmā silaṃ dariyā pakkhipāmī’’ti.
Scattering peaks and mountains, therefore I throw rocks into the cave."
San bằng các đỉnh đồi và núi non, vì vậy con ném đá vào khe núi.”
1397
Tattha ahañhimanti ahañhi imaṃ mahāpathaviṃ.
There, ahañhimaṃ means "indeed I will make this great earth."
Trong đó, ahañhimaṃ có nghĩa là: con sẽ làm cho trái đất rộng lớn này.
Sāgarasevitantanti sāgarehi sevitaṃ cāturantaṃ.
Sāgarasevitantaṃ means "the four-cornered earth, frequented by oceans."
Sāgarasevitantaṃ có nghĩa là: được biển bao quanh bốn phía.
Yathāpi pāṇīti hatthatalaṃ viya samaṃ karissāmi.
Yathāpi pāṇī means "as flat as the palm of the hand."
Yathāpi pāṇī có nghĩa là: bằng phẳng như lòng bàn tay.
Vikiriyāti vikiritvā.
Vikiriyā means "scattering."
Vikiriyā có nghĩa là: san bằng.
Sānūni ca pabbatāni cāti paṃsupabbate ca silāpabbate ca.
Sānūni ca pabbatāni cā means "both earthen mountains and rock mountains."
Sānūni ca pabbatāni cā có nghĩa là: các ngọn đồi đất và các ngọn núi đá.
1398
Taṃ sutvā brāhmaṇo tatiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the Brahmin spoke the third verse:
Nghe vậy, vị Bà La Môn nói câu kệ thứ ba:
1399
36.
36.
36.
1400
‘‘Nayimaṃ mahiṃ arahati pāṇikappaṃ, samaṃ manusso karaṇāya meko;
"No single human is capable of making this earth as flat as a palm;
“Một người không thể làm cho mặt đất này bằng phẳng, phù hợp với bàn tay;
1401
Maññāmimaññeva dariṃ jigīsaṃ, koraṇḍiya hāhasi jīvaloka’’nti.
I think, Koraṇḍiya, that by just trying to fill this one cave, you will abandon this living world."
Này Koraṇḍiya, ta nghĩ rằng khi cố gắng làm cho chính cái hang động này đầy đủ, ngươi sẽ mất mạng.”
1402
Tattha karaṇāya mekoti karaṇāya eko kātuṃ na sakkotīti dīpeti.
There, karaṇāya meko means "one is not able to do it."
Ở đây, karaṇāya meko nghĩa là một người không thể làm được, điều đó được chỉ ra.
Maññāmimaññeva dariṃ jigīsanti ahaṃ maññāmi tiṭṭhatu pathavī, imaññeva ekaṃ dariṃ jigīsaṃ pūraṇatthāya vāyamanto silā pariyesanto upāyaṃ vicinantova tvaṃ imaṃ jīvalokaṃ hāhasi jahissasi, marissasīti attho.
Maññāmimaññeva dariṃ jigīsa means "I think, let alone the earth, by just trying to fill this one cave, by searching for rocks and devising means, you will abandon this living world, you will die."
Maññāmimaññeva dariṃ jigīsanti: Ta nghĩ, hãy gác lại mặt đất, khi ngươi cố gắng làm cho chính cái hang động này đầy đủ (jigīsaṃ) hoặc khi ngươi tìm kiếm đá, tìm kiếm phương tiện để lấp đầy (pūraṇatthāya vāyamanto silā pariyesanto upāyaṃ vicinantova), thì ngươi sẽ mất mạng (imaṃ jīvalokaṃ hāhasi jahissasi), nghĩa là ngươi sẽ chết.
1403
Taṃ sutvā māṇavo catutthaṃ gāthamāha –
Hearing that, the young man spoke the fourth verse:
Nghe vậy, chàng trai nói kệ thứ tư:
1404
37.
37.
37.
1405
‘‘Sace ayaṃ bhūtadharaṃ na sakkā, samaṃ manusso karaṇāya meko;
"If this earth-bearer cannot be made flat by a single human being,
“Nếu một người không thể làm cho mặt đất này bằng phẳng,
1406
Evameva tvaṃ brahme ime manusse, nānādiṭṭhike nānayissasi te’’ti.
Even so, O Brahmin, you will not guide these people, who hold various wrong views."
Thì này Bà-la-môn, ông cũng sẽ không thể hướng dẫn những người này, những người có nhiều tà kiến.”
1407
Tassattho – sace ayaṃ eko manusso imaṃ bhūtadharaṃ pathaviṃ samaṃ kātuṃ na sakkā na samattho, evameva tvaṃ ime dussīlamanusse nānādiṭṭhike nānayissasi, te evaṃ ‘‘sīlaṃ gaṇhatha, sīlaṃ gaṇhathā’’ti vadanto attano vasaṃ na ānayissasi, paṇḍitapurisāyeva hi pāṇātipātaṃ ‘‘akusala’’nti garahanti.
Its meaning is: If this one human being is not capable of making this earth-bearer flat, even so, you will not guide these immoral people who hold various wrong views. By saying "Take the precepts, take the precepts!" you will not bring them under your control. Indeed, only wise people condemn the taking of life as unwholesome.
Ý nghĩa của câu đó là: Nếu một người không thể làm cho mặt đất này bằng phẳng, thì ông cũng sẽ không thể hướng dẫn những người có nhiều tà kiến, những người bất thiện này. Khi ông nói “hãy giữ giới, hãy giữ giới” như vậy, ông sẽ không thể đưa họ về phía mình. Chỉ những người trí mới chê bai sự sát sinh là “bất thiện”.
Saṃsāramocakādayo panettha kusalasaññino, te tvaṃ kathaṃ ānayissasi, tasmā diṭṭhadiṭṭhānaṃ sīlaṃ adatvā yācantānaññeva dehīti.
Those who seek liberation from saṃsāra and others consider it wholesome. How will you bring them? Therefore, do not give precepts to those you see, but only to those who ask.
Những người giải thoát khỏi vòng luân hồi và những người khác ở đây là những người có nhận thức về điều thiện (kusalasaññino). Vậy ông sẽ hướng dẫn họ như thế nào? Do đó, đừng ban giới cho những người mà ông thấy, mà hãy ban cho những người cầu xin.
1408
Taṃ sutvā ācariyo ‘‘yuttaṃ vadati koraṇḍiyo, idāni na evarūpaṃ karissāmī’’ti attano viraddhabhāvaṃ ñatvā pañcamaṃ gāthamāha –
Hearing that, the teacher, realizing his mistake, thought, "Koraṇḍiya speaks rightly; I will not do such a thing again," and spoke the fifth verse:
Nghe vậy, vị đạo sư nghĩ: “Koraṇḍiya nói đúng, từ nay ta sẽ không làm như vậy nữa,” nhận ra lỗi lầm của mình và nói kệ thứ năm:
1409
38.
38.
38.
1410
‘‘Saṃkhittarūpena bhavaṃ mamatthaṃ, akkhāsi koraṇḍiya evametaṃ;
"In brief, sir, you have explained this matter to me, Koraṇḍiya;
“Này Koraṇḍiya, ông đã tóm tắt ý nghĩa của ta một cách ngắn gọn, sự việc là như vậy:
1411
Yathā na sakkā pathavī samāyaṃ, kattuṃ manussena tathā manussā’’ti.
Just as it is impossible for a person to make the earth equal, so are people."
Con người cũng giống như mặt đất, không thể làm cho bằng phẳng được.”
1412
Tattha samāyanti samaṃ ayaṃ.
Here, samāyaṃ means 'this equality'.
Ở đây, samāyanti nghĩa là bằng phẳng.
Evaṃ ācariyo māṇavassa thutiṃ akāsi, sopi naṃ bodhetvā sayaṃ gharaṃ nesi.
Thus, the teacher praised the young man, and having enlightened him, took him home himself.
Như vậy, vị đạo sư đã tán thán chàng trai, và chàng trai sau khi giác ngộ cho ông, đã đưa ông về nhà.
1413
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā brāhmaṇo sāriputto ahosi, koraṇḍiyamāṇavo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the brahmin was Sāriputta, and the young man Koraṇḍiya was I myself."
Đức Phật đã kể pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, vị Bà-la-môn là Sāriputta, còn chàng trai Koraṇḍiya chính là Ta vậy.”
1414
Koraṇḍiyajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Chapter on the Koraṇḍiya Jātaka.
Chuyện Koraṇḍiya Jātaka thứ sáu.
1415
* 7. Laṭukikajātakavaṇṇanā
* 7. The Story of the Laṭukikā Jātaka
* 7. Chuyện Laṭukika Jātaka
1416
Vandāmi taṃ kuñjara saṭṭhihāyananti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
I bow to you, elephant, sixty years old – this the Teacher spoke while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta.
Vandāmi taṃ kuñjara saṭṭhihāyananti: Câu này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến Devadatta.
Ekasmiñhi divase bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, devadatto kakkhaḷo pharuso sāhasiko, sattesu karuṇāmattampissa natthī’’ti.
Indeed, one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, Devadatta is harsh, rough, and audacious; he has not even a trace of compassion for beings."
Một hôm, các Tỳ-khưu đang ngồi trong Pháp đường và bắt đầu câu chuyện: “Này chư Hiền, Devadatta là người thô bạo, hung ác, táo tợn, không có một chút lòng từ bi nào đối với chúng sinh.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa nikkaruṇoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and, having asked, "With what discussion are you now seated, bhikkhus?" and being told, "With this one," said, "Not only now, bhikkhus, but he was merciless in the past as well," and brought forth a past event.
Đức Phật đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Là chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ mà trước đây hắn cũng vô từ bi như vậy,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
1417
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto hatthiyoniyaṃ nibbattitvā vayappatto pāsādiko mahākāyo asītisahassavāraṇaparivāro yūthapati hutvā himavantapadese vihāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into an elephant womb, and having reached maturity, he became a magnificent, large-bodied herd leader, surrounded by eighty thousand elephants, and lived in the Himālaya region.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ tát tái sinh làm voi, khi trưởng thành, ngài là một con voi to lớn, oai vệ, được tám mươi ngàn con voi vây quanh, trở thành thủ lĩnh đàn voi và sống ở vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Tadā ekā laṭukikā sakuṇikā hatthīnaṃ vicaraṇaṭṭhāne aṇḍāni nikkhipi, tāni pariṇatāni bhinditvā sakuṇapotakā nikkhamiṃsu.
At that time, a small quail hen laid eggs in the elephants' roaming area, and when they matured, the young birds emerged.
Khi ấy, một con chim cút mái đã đẻ trứng ở nơi voi thường đi lại; những trứng đó đã nở và chim non đã ra đời.
Tesu aviruḷhapakkhesu uppatituṃ asakkontesuyeva mahāsatto asītisahassavāraṇaparivuto gocarāya caranto taṃ padesaṃ patto.
While their wings were still undeveloped and they were unable to fly, the Great Being, surrounded by eighty thousand elephants, arrived at that place while foraging.
Khi những chim non đó chưa mọc đủ lông cánh và không thể bay được, Đại sĩ, được tám mươi ngàn con voi vây quanh, đang đi tìm thức ăn và đến vùng đất đó.
Taṃ disvā laṭukikā cintesi ‘‘ayaṃ hatthirājā mama potake madditvā māressati, handa naṃ puttakānaṃ parittāṇatthāya dhammikārakkhaṃ yācāmī’’ti.
Seeing him, the quail hen thought, "This elephant king will crush and kill my young; I will ask him for a righteous protection for my offspring."
Thấy vậy, chim cút mái nghĩ: “Vua voi này sẽ giẫm chết con của ta. Nào, ta hãy cầu xin sự bảo vệ hợp pháp cho các con của ta.”
Sā ubho pakkhe ekato katvā tassa purato ṭhatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
She put both her wings together, stood before him, and spoke the first verse:
Nó chắp hai cánh lại, đứng trước mặt ngài và nói lên kệ ngôn đầu tiên –
1418
39.
39.
39.
1419
‘‘Vandāmi taṃ kuñjara saṭṭhihāyanaṃ, āraññakaṃ yūthapatiṃ yasassiṃ;
"I bow to you, elephant, sixty years old, a forest dweller, a glorious herd leader;
‘‘Con xin đảnh lễ ngài, hỡi voi chúa sáu mươi tuổi, vị thủ lĩnh uy quyền sống trong rừng;
1420
Pakkhehi taṃ pañjalikaṃ karomi, mā me vadhī puttake dubbalāyā’’ti.
With my wings, I make a respectful gesture to you; do not kill my young, I who am weak."
Con dùng đôi cánh chắp tay đảnh lễ ngài, xin đừng giết hại các con của kẻ yếu ớt này.”
1421
Tattha saṭṭhihāyananti saṭṭhivassakāle hāyanabalaṃ.
Here, saṭṭhihāyana means 'one whose strength declines at sixty years of age'.
Ở đây, saṭṭhihāyana (sáu mươi tuổi) là sức mạnh của tuổi sáu mươi.
Yasassinti parivārasampannaṃ.
Yasassi means 'endowed with a retinue'.
Yasassi (uy quyền) là có đoàn tùy tùng đầy đủ.
Pakkhehi taṃ pañcalikaṃ karomīti ahaṃ pakkhehi taṃ añjalikaṃ karomīti attho.
Pakkhehi taṃ pañcalikaṃ karomī means 'I make a respectful gesture to you with my wings'.
Pakkhehi taṃ pañcalikaṃ karomī (Con dùng đôi cánh chắp tay đảnh lễ ngài) có nghĩa là: Ta dùng đôi cánh chắp tay đảnh lễ ngài.
1422
Mahāsatto ‘‘mā cintayi laṭukike, ahaṃ te puttake rakkhissāmī’’ti sakuṇapotakānaṃ upari ṭhatvā asītiyā hatthisahassesu gatesu laṭukikaṃ āmantetvā ‘‘laṭukike amhākaṃ pacchato eko ekacāriko hatthī āgacchati, so amhākaṃ vacanaṃ na karissati, tasmiṃ āgate tampi yācitvā puttakānaṃ sotthibhāvaṃ kareyyāsī’’ti vatvā pakkāmi.
The Great Being said, "Do not worry, quail hen, I will protect your young," and standing over the young birds, after the eighty thousand elephants had passed, he addressed the quail hen: "Quail hen, a solitary elephant is coming after us; he will not heed our words. When he arrives, you should also implore him to ensure the safety of your young," and then he departed.
Đại Bồ Tát (voi chúa) nói: “Này chim Laṭukikā, đừng lo lắng, ta sẽ bảo vệ các con của ngươi.” Nói xong, Ngài đứng trên các chim con. Khi tám mươi ngàn con voi đã đi qua, Ngài gọi chim Laṭukikā và nói: “Này Laṭukikā, sau chúng ta có một con voi độc hành đang đến. Nó sẽ không nghe lời chúng ta. Khi nó đến, ngươi hãy cầu xin nó để các con ngươi được an toàn.” Nói xong, Ngài rời đi.
Sāpi tassa paccuggamanaṃ katvā ubhohi pakkhehi añjaliṃ katvā dutiyaṃ gāthamāha –
She also went to meet him, and making a respectful gesture with both her wings, she spoke the second verse:
Chim Laṭukikā cũng đi đón con voi đó, dùng hai cánh chắp tay và nói bài kệ thứ hai:
1423
40.
40.
40.
1424
‘‘Vandāmi taṃ kuñjara ekacāriṃ, āraññakaṃ pabbatasānugocaraṃ;
"I bow to you, solitary elephant, a forest dweller, foraging on mountain slopes;
‘‘Con xin đảnh lễ ngài, hỡi voi chúa độc hành, sống trong rừng, lang thang trên sườn núi;
1425
Pakkhehi taṃ pañjalikaṃ karomi, mā me vadhī puttake dubbalāyā’’ti.
With my wings, I make a respectful gesture to you; do not kill my young, I who am weak."
Con dùng đôi cánh chắp tay đảnh lễ ngài, xin đừng giết hại các con của kẻ yếu ớt này.”
1426
Tattha pabbatasānugocaranti ghanaselapabbatesu ca paṃsupabbatesu ca gocaraṃ gaṇhantaṃ.
Here, pabbatasānugocara means 'foraging on rocky mountains and sandy mountains'.
Ở đây, pabbatasānugocara (lang thang trên sườn núi) là tìm kiếm thức ăn trên các ngọn núi đá và núi đất.
1427
So tassā vacanaṃ sutvā tatiyaṃ gāthamāha –
Hearing her words, he spoke the third verse:
Nghe lời của nó, con voi đó nói bài kệ thứ ba:
1428
41.
41.
41.
1429
‘‘Vadhissāmi te laṭukike puttakāni, kiṃ me tuvaṃ kāhasi dubbalāsi;
"I will kill your young, quail hen! What will you, being weak, do to me?
‘‘Này chim Laṭukikā, ta sẽ giết các con của ngươi! Ngươi yếu ớt thì làm gì được ta?
1430
Sataṃ sahassānipi tādisīnaṃ, vāmena pādena papothayeyya’’nti.
Even a hundred thousand such as you, I could crush with my left foot."
Một trăm ngàn con như ngươi, ta có thể nghiền nát bằng chân trái!”
1431
Tattha vadhissāmi teti tvaṃ kasmā mama vicaraṇamagge puttakāni ṭhapesi, yasmā ṭhapesi, tasmā vadhissāmi te puttakānīti vadati.
Here, vadhissāmi te means, "Why did you place your young on my path? Because you placed them, I will kill your young," he says.
Ở đây, vadhissāmi te (ta sẽ giết các con của ngươi) có nghĩa là: Tại sao ngươi lại đặt các con của ngươi trên đường đi của ta? Vì ngươi đã đặt chúng ở đó, nên ta sẽ giết các con của ngươi.
Kiṃ me tuvaṃ kāhasīti mayhaṃ mahāthāmassa tvaṃ dubbalā kiṃ karissasi.
Kiṃ me tuvaṃ kāhasī means, "What will you, being weak, do to me, who is so strong?"
Kiṃ me tuvaṃ kāhasī (Ngươi làm gì được ta) có nghĩa là: Ngươi yếu ớt thì làm gì được ta, kẻ có sức mạnh to lớn này?
Papothayeyyanti ahaṃ tādisānaṃ laṭukikānaṃ satasahassampi vāmena pādena sañcuṇṇeyyaṃ, dakkhiṇapādena pana kathāva natthīti.
Papothayeyya means, "I could crush even a hundred thousand such quail hens with my left foot; there is no need to speak of the right foot."
Papothayeyya (nghiền nát) có nghĩa là: Ta có thể nghiền nát một trăm ngàn con chim Laṭukikā như vậy bằng chân trái; còn nói gì đến chân phải.
1432
Evañca pana vatvā so tassā puttake pādena sañcuṇṇetvā muttena pavāhetvā nadantova pakkāmi.
Having said this, he crushed her young with his foot, discharged his dung, and departed, roaring.
Nói như vậy, con voi đó dùng chân nghiền nát các chim con của nó, rồi phóng uế lên đó và gầm thét bỏ đi.
Laṭukikā rukkhasākhāya nilīyitvā ‘‘idāni tāva vāraṇa nadanto gacchasi, katipāheneva me kiriyaṃ passissasi, kāyabalato ñāṇabalassa mahantabhāvaṃ na jānāsi, hotu, jānāpessāmi na’’nti taṃ santajjayamānāva catutthaṃ gāthamāha –
The woodpecker, hiding on a tree branch, said to him, threateningly, "Now you go about roaring, but in a few days you will see my deed. You do not know the greatness of wisdom's power compared to physical strength. So be it, I will make you know it," and she spoke the fourth verse –
Chim Laṭukikā ẩn mình trên cành cây và nói bài kệ thứ tư, đe dọa con voi: “Ngươi, hỡi voi, bây giờ đang gầm thét bỏ đi, nhưng chỉ vài ngày nữa ngươi sẽ thấy hành động của ta. Ngươi không biết sự vĩ đại của trí tuệ so với sức mạnh thể chất. Được thôi, ta sẽ cho ngươi biết!”
1433
42.
42.
42.
1434
‘‘Na heva sabbattha balena kiccaṃ, balañhi bālassa vadhāya hoti;
"Indeed, strength is not always necessary; for the fool, strength leads to destruction.
‘‘Không phải lúc nào sức mạnh cũng hữu ích, vì sức mạnh có thể dẫn đến sự hủy diệt của kẻ ngu si;
1435
Karissāmi te nāgarājā anatthaṃ, yo me vadhī puttake dubbalāyā’’ti.
O king of elephants, I will bring you misfortune, you who killed the children of me, the weak one."
Hỡi voi chúa, ta sẽ gây tai họa cho ngài, kẻ đã giết các con của kẻ yếu ớt này.”
1436
Tattha balenāti kāyabalena.
Therein, balena means by physical strength.
Ở đây, balena (sức mạnh) là sức mạnh thể chất.
Anatthanti avuḍḍhiṃ.
Anattha means misfortune.
Anattha (tai họa) là sự suy tàn.
Yo meti yo tvaṃ mama dubbalāya puttake vadhī ghātesi.
Yo me means "you who killed my children, the weak one."
Yo me (kẻ đã) có nghĩa là: Ngươi, kẻ đã giết hại các con của ta, kẻ yếu ớt này.
1437
Sā evaṃ vatvā katipāhaṃ ekaṃ kākaṃ upaṭṭhahitvā tena tuṭṭhena ‘‘kiṃ te karomī’’ti vuttā ‘‘sāmi, aññaṃ me kātabbaṃ natthi, ekassa pana ekacārikavāraṇassa tuṇḍena paharitvā tumhehi akkhīni bhinnāni paccāsīsāmī’’ti āha.
Having said this, after a few days, she approached a crow, and when he, pleased, asked, "What can I do for you?" she said, "Master, there is nothing else I need to do, but I hope that you will peck out the eyes of that solitary elephant with your beak."
Nói xong như vậy, vài ngày sau, nó phục vụ một con quạ. Khi con quạ vui vẻ hỏi: “Ta có thể làm gì cho ngươi?”, chim Laṭukikā nói: “Thưa chủ nhân, tôi không có việc gì khác cần làm, nhưng tôi mong muốn quý vị dùng mỏ đâm mù mắt của con voi độc hành đó.”
Sā tena ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitā ekaṃ nīlamakkhikaṃ upaṭṭhahi.
Having been accepted by him with "So be it," she approached a blue fly.
Con quạ đồng ý “Tốt lắm!”, rồi chim Laṭukikā phục vụ một con ruồi xanh.
Tāyapi ‘‘kiṃ te, karomī’’ti vuttā ‘‘iminā kākena ekacārikavāraṇassa akkhīsu bhinnesu tumhehi tattha āsāṭikaṃ pātetuṃ icchāmī’’ti vatvā tāyapi ‘‘sādhū’’ti vutte ekaṃ maṇḍūkaṃ upaṭṭhahitvā tena ‘‘kiṃ te, karomī’’ti vuttā ‘‘yadā ekacārikavāraṇo andho hutvā pānīyaṃ pariyesati, tadā pabbatamatthake ṭhito saddaṃ katvā tasmiṃ pabbatamatthakaṃ abhiruhante otaritvā papāte saddaṃ kareyyātha, ahaṃ tumhākaṃ santikā ettakaṃ paccāsīsāmī’’ti āha.
When asked by her, "What can I do for you?" she said, "When the eyes of that solitary elephant are pecked out by this crow, I wish for you to lay your eggs there." When she too said "So be it," she approached a frog, and when asked by him, "What can I do for you?" she said, "When the solitary elephant becomes blind and searches for water, then, standing on the mountaintop, you should make a sound, and when he climbs the mountaintop, you should descend and make a sound at the precipice. I hope for this much from you."
Khi con ruồi cũng hỏi: “Ta có thể làm gì cho ngươi?”, chim Laṭukikā nói: “Khi con quạ này đã đâm mù mắt con voi độc hành, tôi muốn quý vị đẻ trứng vào đó.” Sau khi con ruồi cũng đồng ý “Tốt lắm!”, nó phục vụ một con ếch. Khi con ếch hỏi: “Ta có thể làm gì cho ngươi?”, chim Laṭukikā nói: “Khi con voi độc hành bị mù và tìm kiếm nước uống, quý vị hãy đứng trên đỉnh núi và kêu lên. Khi nó trèo lên đỉnh núi, quý vị hãy nhảy xuống và kêu ở dưới vực. Tôi mong muốn quý vị giúp tôi chừng đó.”
Sopi tassā vacanaṃ ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
He too accepted her words with "So be it."
Con ếch cũng đồng ý với lời của nó “Tốt lắm!”.
1438
Athekadivasaṃ kāko vāraṇassa dvepi akkhīni tuṇḍena bhindi, nīlamakkhikā āsāṭikaṃ pātesi.
Then, one day, the crow pecked out both eyes of the elephant with his beak, and the blue fly laid her eggs.
Rồi một ngày nọ, con quạ dùng mỏ đâm mù cả hai mắt của con voi, và con ruồi xanh đẻ trứng vào đó.
So puḷavehi khajjanto vedanāppatto pipāsābhibhūto pānīyaṃ pariyesamāno vicari.
Being eaten by the maggots, afflicted by pain, and overcome by thirst, he wandered searching for water.
Con voi bị các con giòi ăn thịt, đau đớn, khát nước, lang thang tìm kiếm nước uống.
Tasmiṃ kāle maṇḍūko pabbatamatthake ṭhatvā saddamakāsi.
At that time, the frog stood on the mountaintop and made a sound.
Lúc đó, con ếch đứng trên đỉnh núi và kêu lên.
Vāraṇo ‘‘ettha pānīyaṃ bhavissatī’’ti pabbatamatthakaṃ abhiruhi.
The elephant climbed the mountaintop, thinking, "There will be water here."
Con voi nghĩ: “Chắc có nước ở đây,” và trèo lên đỉnh núi.
Atha maṇḍūko otaritvā papāte ṭhatvā saddamakāsi.
Then the frog descended and stood at the precipice, making a sound.
Rồi con ếch nhảy xuống và kêu ở dưới vực.
Vāraṇo ‘‘ettha pānīyaṃ bhavissatī’’ti papātābhimukho gacchanto parigaḷitvā pabbatapāde patitvā jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
The elephant, thinking, "There will be water here," went towards the precipice, slipped, fell at the foot of the mountain, and met his demise.
Con voi nghĩ: “Chắc có nước ở đây,” và đi về phía vực, rồi trượt chân rơi xuống chân núi và mất mạng.
Laṭukikā tassa matabhāvaṃ ñatvā ‘‘diṭṭhā me paccāmittassa piṭṭhī’’ti haṭṭhatuṭṭhā tassa khandhe caṅkamitvā yathākammaṃ gatā.
The woodpecker, knowing his death, was overjoyed, thinking, "I have seen the back of my enemy," and she walked on his shoulder and went according to her karma.
Chim Laṭukikā biết nó đã chết, vui mừng khôn xiết nói: “Ta đã thấy lưng của kẻ thù rồi!” và đi lại trên lưng nó, rồi tùy theo nghiệp mà đi.
1439
Satthā ‘‘na, bhikkhave, kenaci saddhiṃ veraṃ nāma kātabbaṃ, evaṃ balasampannampi vāraṇaṃ ime cattāro janā ekato hutvā vāraṇassa jīvitakkhayaṃ pāpesu’’nti –
The Teacher said, "Monks, one should not bear enmity with anyone. These four individuals, having united, brought about the demise of an elephant, even one so mighty," –
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, không nên gây thù oán với bất kỳ ai. Ngay cả con voi có sức mạnh như vậy, bốn sinh vật này đã hợp sức lại và khiến nó mất mạng.” –
1440
43.
43.
43.
1441
‘‘Kākañca passa laṭukikaṃ, maṇḍūkaṃ nīlamakkhikaṃ;
"Behold the crow, the woodpecker, the frog, the blue fly;
‘‘Hãy nhìn con quạ, chim Laṭukikā, con ếch và con ruồi xanh;
1442
Ete nāgaṃ aghātesuṃ, passa verassa verinaṃ;
These killed the elephant; behold the fate of the enemy of enemies;
Chúng đã giết con voi, hãy nhìn sự trả thù của kẻ thù;
1443
Tasmā hi veraṃ na kayirātha, appiyenapi kenacī’’ti–
Therefore, one should not bear enmity with anyone, not even with one who is disliked" –
Vì vậy, chớ nên gây thù oán, dù với bất kỳ ai không ưa thích.” –
1444
Imaṃ abhisambuddhagāthaṃ vatvā jātakaṃ samodhānesi.
Having spoken this verse of the Fully Enlightened One, he connected the Jātaka.
Đức Bổn Sư đã nói bài kệ giác ngộ này và kết nối câu chuyện Jātaka.
1445
Tattha passāti aniyāmitālapanametaṃ, bhikkhū pana sandhāya vuttattā passatha bhikkhaveti vuttaṃ hoti.
Therein, passa is an indefinite address, but since it refers to the monks, it means "Behold, monks."
Ở đây, passa (hãy nhìn) là một lời gọi không xác định, nhưng vì được nói với các Tỳ-kheo nên có nghĩa là: Này các Tỳ-kheo, hãy nhìn.
Eteti ete cattāro ekato hutvā.
Ete means "these four, having united."
Ete (chúng) là: bốn sinh vật này đã hợp sức lại.
Aghātesunti taṃ vadhiṃsu.
Aghātesuṃ means "they killed him."
Aghātesu (đã giết) là: chúng đã giết con voi đó.
Passa verassa verinanti passatha verikānaṃ verassa gatinti attho.
Passa verassa verina means "behold the fate of the enemies of the enemy."
Passa verassa verina (hãy nhìn sự trả thù của kẻ thù) có nghĩa là: Hãy nhìn kết cục của sự thù hận của những kẻ thù địch.
1446
Tadā ekacārikahatthī devadatto ahosi, yūthapati pana ahameva ahosinti.
At that time, the solitary elephant was Devadatta, but the leader of the herd was I myself.
Lúc đó, con voi độc hành là Devadatta, còn thủ lĩnh đàn voi chính là ta.
1447
Laṭukikajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh, the Story of the Woodpecker Jātaka.
Chuyện chim Laṭukikā, thứ bảy.
1448
* 8. Cūḷadhammapālajātakavaṇṇanā
* 8. The Story of the Cūḷadhammapāla Jātaka
* 8. Chuyện Cūḷadhammapāla
1449
Ahameva dūsiyā bhūnahatāti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattassa vadhāya parisakkanaṃ ārabbha kathesi.
Ahameva dūsiyā bhūnahatā – The Teacher, residing in Veḷuvana, spoke this in reference to Devadatta's efforts to kill him.
Ahameva dūsiyā bhūnahatā (Chính ta là kẻ đã làm ô uế, là kẻ đã giết thai nhi) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến những nỗ lực của Devadatta nhằm giết hại Ngài.
Aññesu jātakesu devadatto bodhisattassa tāsamattampi kātuṃ nāsakkhi, imasmiṃ pana cūḷadhammapālajātake bodhisattassa sattamāsikakāle hatthapāde ca sīsañca chedāpetvā asimālakaṃ nāma kāresi.
In other Jātakas, Devadatta could not harm the Bodhisatta even a little, but in this Cūḷadhammapāla Jātaka, when the Bodhisatta was seven months old, he had his hands, feet, and head cut off, making him an "Asimālaka."
Trong các câu chuyện Jātaka khác, Devadatta không thể gây hại chút nào cho Bồ Tát, nhưng trong câu chuyện Cūḷadhammapāla này, khi Bồ Tát mới bảy tháng tuổi, Devadatta đã ra lệnh chặt tay, chân và đầu của Ngài, tạo thành một vòng hoa kiếm.
Daddarajātake (jā. 1.2.43-44) gīvaṃ gahetvā māretvā uddhane maṃsaṃ pacitvā khādi.
In the Daddara Jātaka, he seized his neck, killed him, cooked his flesh in an oven, and ate it.
Trong Daddarajātaka (Jā. 1.2.43-44), hắn đã nắm cổ giết Ngài, rồi nấu thịt trong lò và ăn.
Khantīvādījātake (jā. 1.4.49 ādayo) dvīhipi kasāhi pahārasahassehi tāḷāpetvā hatthapāde ca kaṇṇanāsañca chedāpetvā jaṭāsu gahetvā kaḍḍhāpetvā uttānakaṃ nipajjāpetvā ure pādena paharitvā gato.
In the Khantīvādī Jātaka, after having him beaten with two thousand lashes, having his hands, feet, ears, and nose cut off, having him dragged by his topknot, having him laid face up, and having kicked him on the chest, he departed.
Trong Khantīvādījātaka (Jā. 1.4.49 trở đi), hắn đã ra lệnh đánh Ngài hàng ngàn roi bằng hai cây roi, rồi chặt tay, chân, tai và mũi của Ngài, nắm tóc kéo lê, đặt Ngài nằm ngửa và đạp lên ngực Ngài rồi bỏ đi.
Bodhisatto taṃ divasaṃyeva jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
On that very day, the Bodhisatta met his end of life.
Bồ Tát đã mất mạng ngay trong ngày đó.
Cūḷanandiyajātakepi (jā. 1.2.143-144) mahākapijātakepi (jā. 1.7.83 ādayo) māresiyeva.
Even in the Cūḷanandiya Jātaka and the Mahākapi Jātaka, he killed him.
Trong Cūḷanandiyajātaka (Jā. 1.2.143-144) và Mahākapijātaka (Jā. 1.7.83 trở đi), hắn cũng đã giết Ngài.
Evameva so dīgharattaṃ vadhāya parisakkanto buddhakālepi parisakkiyeva.
Thus, striving for a long time to kill him, he strove even in the time of the Buddha.
Cũng như vậy, hắn đã nỗ lực giết hại Ngài trong một thời gian dài, và ngay cả trong thời Đức Phật, hắn cũng tiếp tục nỗ lực.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, devadatto buddhānaṃ māraṇatthameva upāyaṃ karoti, ‘sammāsambuddhaṃ mārāpessāmī’ti dhanuggahe payojesi, silaṃ pavijjhi, nāḷāgiriṃ vissajjāpesī’’ti.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: ‘Friends, Devadatta devises means solely for the purpose of killing the Buddhas; he employed archers with the thought, “I will have the Perfectly Enlightened One killed,” he hurled a rock, he released Nāḷāgiri.’
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-kheo đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Thưa các Tôn giả, Devadatta chỉ tìm cách giết hại Đức Phật. Hắn đã thuê cung thủ để giết Đức Chánh Đẳng Giác, đã lăn đá xuống, và đã thả voi Nāḷāgiri.”
Satthā āgantvā ‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa mayhaṃ vadhāya parisakkiyeva, idāni pana tāsamattampi kātuṃ na sakkoti, pubbe maṃ cūḷadhammapālakumārakāle attano puttaṃ samānaṃ jīvatakkhayaṃ pāpetvā asimālakaṃ kāresī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and, after asking, ‘Bhikkhus, what is the topic of discussion you are gathered for now?’ and being told, ‘It is this,’ said, ‘Bhikkhus, it is not only now; in the past too, he strove to kill me, but now he cannot even do that much. In the past, when I was Prince Cūḷadhammapāla, though I was his own son, he brought me to the end of my life and had me made into a garland of swords,’ and he recounted a past event.
Đức Bổn Sư đến và hỏi: “Này các Tỳ-kheo, bây giờ các ngươi đang ngồi đàm luận chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Chuyện này, bạch Đức Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ, mà trước đây hắn cũng đã luôn tìm cách giết hại ta. Bây giờ hắn không thể gây hại chút nào, nhưng trước đây, khi ta còn là Thái tử Cūḷadhammapāla, hắn đã khiến ta mất mạng và tạo thành một vòng hoa kiếm.” Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.
1450
Atīte bārāṇasiyaṃ mahāpatāpe nāma rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā candādeviyā kucchimhi nibbatti, ‘‘dhammapālo’’tissa nāmaṃ kariṃsu.
In the past, when Mahāpatāpa was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was conceived in the womb of his chief consort, Candādevī, and they named him Dhammapāla.
Thuở xa xưa, khi vua Mahāpatāpa trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào bụng của Hoàng hậu Candādevī. Họ đặt tên cho Ngài là “Dhammapāla”.
Tamenaṃ sattamāsikakāle mātā gandhodakena nhāpetvā alaṅkaritvā kīḷāpayamānā nisīdi.
When he was seven months old, his mother bathed him with scented water, adorned him, and sat playing with him.
Khi Ngài được bảy tháng tuổi, mẹ Ngài đã tắm cho Ngài bằng nước thơm, trang điểm cho Ngài và ngồi chơi với Ngài.
Rājā tassā vasanaṭṭhānaṃ agamāsi.
The king went to her dwelling place.
Đức vua đến nơi ở của bà.
Sā puttaṃ kīḷāpayamānā puttasinehena samappitā hutvā rājānaṃ passitvāpi na uṭṭhahi.
She, playing with her son, and filled with affection for her son, did not rise even when she saw the king.
Hoàng hậu đang chơi với con, tràn đầy tình thương con, nên dù thấy Đức vua cũng không đứng dậy.
So cintesi ‘‘ayaṃ idāneva tāva puttaṃ nissāya mānaṃ karoti, maṃ kismiñci na maññati, putte pana vaḍḍhante mayi ‘manusso’tipi saññaṃ na karissati, idāneva naṃ ghātessāmī’’ti.
He thought, ‘She is already showing disrespect because of her son and does not regard me as anything. When the son grows up, she will not even recognize me as a human. I will kill him right now.’
Đức vua nghĩ: “Bây giờ bà ấy đã kiêu ngạo vì có con, không coi ta ra gì. Khi đứa con lớn lên, bà ấy sẽ không còn coi ta là một con người nữa. Ta sẽ giết nó ngay bây giờ.”
So nivattitvā rājāsane nisīditvā ‘‘attano vidhānena āgacchatū’’ti coraghātakaṃ pakkosāpesi.
He turned back, sat on the royal throne, and sent for the executioner, saying, ‘Let him come according to his custom.’
Vua quay lại, ngồi trên ngai vàng và cho gọi tên đao phủ, nói: “Hãy đến theo cách của ngươi.”
So kāsāyavatthanivattho rattamālādharo pharasuṃ aṃse ṭhapetvā upadhānaghaṭikaṃ hatthapādaṭhapanadaṇḍakañca ādāya āgantvā rājānaṃ vanditvā ‘‘kiṃ karomi, devā’’ti aṭṭhāsi.
He, dressed in a saffron robe, wearing a red garland, with an axe on his shoulder, and carrying a block for the head and a stand for the hands and feet, came, saluted the king, and stood, saying, ‘What shall I do, Your Majesty?’
Hắn (tên đao phủ) mặc y phục màu đỏ sẫm, đeo vòng hoa màu đỏ, vác rìu trên vai, cầm chiếc gối kê và cây gậy để đặt tay chân, rồi đến đảnh lễ vua và đứng đó hỏi: “Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
Deviyā sirigabbhaṃ gantvā dhammapālaṃ ānehīti.
‘Go to the queen’s beautiful chamber and bring Dhammapāla.’
“Hãy vào phòng ngủ của hoàng hậu và mang Dhammapāla đến đây.”
Devīpi rañño kujjhitvā nivattanabhāvaṃ ñatvā bodhisattaṃ ure nipajjāpetvā rodamānā nisīdi.
The queen, knowing that the king was angry and had turned back, laid the Bodhisatta on her chest and sat weeping.
Hoàng hậu, biết việc vua đã nổi giận quay trở lại, ôm Bồ tát vào lòng và ngồi khóc.
Coraghātako gantvā taṃ piṭṭhiyaṃ hatthena paharitvā hatthato kumāraṃ acchinditvā ādāya rañño santikaṃ āgantvā ‘‘kiṃ karomi, devā’’ti āha.
The executioner went, struck her back with his hand, snatched the prince from her hand, and came to the king, saying, ‘What shall I do, Your Majesty?’
Tên đao phủ đi vào, dùng tay đánh vào lưng hoàng hậu, giật lấy hoàng tử từ tay bà, rồi mang đến trước mặt vua và hỏi: “Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
Rājā ekaṃ phalakaṃ āharāpetvā purato nikkhipāpetvā ‘‘idha naṃ nipajjāpehī’’ti āha.
The king had a plank brought and placed before him, saying, ‘Lay him down here.’
Vua cho mang một tấm ván đến, đặt trước mặt và nói: “Hãy đặt nó nằm xuống đây.”
So tathā akāsi.
He did so.
Hắn làm theo như vậy.
1451
Candādevī puttassa pacchatova paridevamānā āgacchi.
Candādevī came lamenting right behind her son.
Hoàng hậu Candā theo sau con, than khóc.
Puna coraghātako ‘‘kiṃ karomī, devā’’ti āha.
Again, the executioner said, ‘What shall I do, Your Majesty?’
Lần nữa, tên đao phủ hỏi: “Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
Dhammapālassa hatthe chindāti.
‘Cut off Dhammapāla’s hands.’
“Hãy chặt tay của Dhammapāla.”
Candādevī ‘‘mahārāja, mama putto sattamāsiko bālako na kiñci jānāti, natthetassa doso, doso pana honto mayi bhaveyya, tasmā mayhaṃ hatthe chedāpehī’’ti imamatthaṃ pakāsentī paṭhamaṃ gāthamāha –
Candādevī, declaring this matter, spoke the first verse: ‘Great King, my son is a seven-month-old infant and knows nothing. He has no fault. If there is a fault, it would be in me. Therefore, have my hands cut off’ –
Hoàng hậu Candā, biết được điều đó, nói: “Tâu Đại vương, con tôi là một đứa bé bảy tháng tuổi, không biết gì cả, nó không có lỗi. Nếu có lỗi, lỗi ấy là ở tôi. Vì vậy, xin hãy chặt tay tôi.” Nói lên ý nghĩa này, bà đã đọc bài kệ thứ nhất –
1452
44.
44.
44.
1453
‘‘Ahameva dūsiyā bhūnahatā, rañño mahāpatāpassa;
‘‘I am the one who is at fault, the one whose growth is cut short, towards King Mahāpatāpa;
“Chính tôi là kẻ có lỗi, kẻ đã giết chết sự phát triển, của vị vua uy quyền tối thượng.
1454
Etaṃ muñcatu dhammapālaṃ, hatthe me deva chedehī’’ti.
Let him release Dhammapāla; cut off my hands, O Deva.’’
Xin hãy tha cho Dhammapāla này, tâu Đại vương, xin hãy chặt tay tôi.”
1455
Tattha dūsiyāti dūsikā, tumhe disvā anuṭṭhahamānā dosakārikāti attho.
Here, dūsiyā means the fault-doer, meaning ‘I am the one who committed the fault by not rising when I saw you.’
Ở đây, dūsiyā có nghĩa là kẻ có lỗi, kẻ gây ra lỗi lầm vì đã không đứng dậy khi thấy ngài. Đó là ý nghĩa.
‘‘Dūsikā’’tipi pāṭho, ayamevattho.
The reading is also “dūsikā”; the meaning is the same.
Cũng có bản đọc là “dūsikā”, ý nghĩa cũng vậy.
Bhūnahatāti hatabhūnā, hatavuḍḍhīti attho.
Bhūnahatā means one whose growth is cut short, meaning ‘one whose development is destroyed.’
Bhūnahatā có nghĩa là bị giết chết sự phát triển, bị hủy hoại sự trưởng thành. Đó là ý nghĩa.
Raññoti idaṃ ‘‘dūsiyā’’ti padena yojetabbaṃ.
Rañño should be connected with the word “dūsiyā”.
Rañño phải được ghép với từ “dūsiyā”.
Ahaṃ rañño mahāpatāpassa aparādhakārikā, nāyaṃ kumāro, tasmā niraparādhaṃ etaṃ bālakaṃ muñcatu dhammapālaṃ, sacepi hatthe chedāpetukāmo, dosakārikāya hatthe me, deva, chedehīti ayamettha attho.
‘I am the offender against King Mahāpatāpa, not this prince. Therefore, let him release this innocent child, Dhammapāla. Even if you wish to have hands cut off, O Deva, cut off my hands, the hands of the one who committed the fault.’ This is the meaning here.
“Tôi là kẻ đã phạm lỗi với vị vua uy quyền tối thượng, không phải đứa bé này. Vì vậy, xin hãy tha cho đứa bé Dhammapāla vô tội này. Nếu ngài muốn chặt tay, tâu Đại vương, xin hãy chặt tay của kẻ có lỗi là tôi.” Đó là ý nghĩa ở đây.
1456
Rājā coraghātakaṃ olokesi.
The king looked at the executioner.
Vua nhìn tên đao phủ.
‘‘Kiṃ karomi, devā’’ti?
‘What shall I do, Your Majesty?’
“Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
‘‘Papañcaṃ akatvā hatthe chedā’’ti.
“Without delay, cut off his hands.”
“Đừng chần chừ, hãy chặt tay.”
Tasmiṃ khaṇe coraghātako tikhiṇapharasuṃ gahetvā kumārassa taruṇavaṃsakaḷīre viya dve hatthe chindi.
At that moment, the executioner, taking a sharp axe, cut off both hands of the prince as if they were tender bamboo shoots.
Ngay lúc đó, tên đao phủ cầm chiếc rìu sắc bén, chặt hai tay của hoàng tử như thể chặt hai mầm tre non.
So dvīsu hatthesu chijjamānesu neva rodi na paridevi, khantiñca mettañca purecārikaṃ katvā adhivāsesi.
As his two hands were being cut off, he neither cried nor lamented, but endured it, making patience and loving-kindness his forerunners.
Khi hai tay bị chặt, hoàng tử không hề khóc hay than vãn, mà nhẫn chịu với lòng kiên nhẫn và từ bi đi trước.
Candā pana devī chinnahatthakoṭiṃ gahetvā ucchaṅge katvā lohitalittā paridevamānā vicari.
But Queen Candā, taking the severed ends of his hands, placed them in her lap, and, smeared with blood, wandered about lamenting.
Hoàng hậu Candā thì ôm lấy hai cánh tay bị chặt, đặt vào lòng, mình mẩy dính đầy máu, than khóc đi lại.
Puna coraghātako ‘‘kiṃ karomi, devā’’ti pucchi.
Again, the executioner asked, “What shall I do, Your Majesty?”
Lần nữa, tên đao phủ hỏi: “Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
‘‘Dvepi pāde chindā’’ti.
“Cut off both his feet.”
“Hãy chặt cả hai chân.”
Taṃ sutvā candādevī dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, Queen Candā spoke the second verse –
Nghe vậy, hoàng hậu Candā đã đọc bài kệ thứ hai –
1457
45.
45.
45.
1458
‘‘Ahameva dūsiyā bhūnahatā, rañño mahāpatāpassa;
“It is I who am guilty, the slayer of the embryo, of King Mahāpatāpa;
“Chính tôi là kẻ có lỗi, kẻ đã giết chết sự phát triển, của vị vua uy quyền tối thượng.
1459
Etaṃ muñcatu dhammapālaṃ, pāde me deva chedehī’’ti.
Let him release Dhammapāla; Your Majesty, cut off my feet.”
Xin hãy tha cho Dhammapāla này, tâu Đại vương, xin hãy chặt chân tôi.”
1460
Tattha adhippāyo vuttanayeneva veditabbo.
There, the meaning should be understood in the manner already stated.
Ở đây, ý nghĩa phải được hiểu theo cách đã nói.
1461
Rājāpi puna coraghātakaṃ āṇāpesi.
The king again commanded the executioner.
Vua lại ra lệnh cho tên đao phủ.
So ubhopi pāde chindi.
He cut off both feet.
Hắn chặt cả hai chân.
Candādevī pādakoṭimpi gahetvā ucchaṅge katvā lohitalittā paridevamānā ‘‘sāmi mahāpatāpa, chinnahatthapādā nāma dārakā mātarā posetabbā honti, ahaṃ bhatiṃ katvā mama puttakaṃ posessāmi, dehi me eta’’nti āha.
Queen Candā, taking the ends of his feet and placing them in her lap, smeared with blood, lamented, saying, “My lord Mahāpatāpa, children whose hands and feet have been cut off must be cared for by their mother. I will work for wages and care for my son; give him to me.”
Hoàng hậu Candā cũng ôm lấy hai chân bị chặt, đặt vào lòng, mình mẩy dính đầy máu, than khóc nói: “Tâu Đại vương Mahāpatāpa, những đứa trẻ bị chặt tay chân phải được mẹ nuôi dưỡng. Tôi sẽ làm công để nuôi con tôi. Xin hãy trả nó lại cho tôi.”
Coraghātako ‘‘kiṃ deva katā rājāṇā, niṭṭhitaṃ mama kicca’’nti pucchi.
The executioner asked, “Your Majesty, is the king’s command fulfilled? Is my task finished?”
Tên đao phủ hỏi: “Tâu Đại vương, đã hoàn thành mệnh lệnh của vua chưa? Việc của tôi đã xong chưa?”
‘‘Na tāva niṭṭhita’’nti.
“Not yet finished.”
“Chưa xong.”
‘‘Atha kiṃ karomi, devā’’ti?
“Then what shall I do, Your Majesty?”
“Vậy tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
‘‘Sīsamassa chindā’’ti.
“Cut off his head.”
“Hãy chặt đầu nó.”
Taṃ sutvā candādevī tatiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, Queen Candā spoke the third verse –
Nghe vậy, hoàng hậu Candā đã đọc bài kệ thứ ba –
1462
46.
46.
46.
1463
‘‘Ahameva dūsiyā bhūnahatā, rañño mahāpatāpassa;
“It is I who am guilty, the slayer of the embryo, of King Mahāpatāpa;
“Chính tôi là kẻ có lỗi, kẻ đã giết chết sự phát triển, của vị vua uy quyền tối thượng.
1464
Etaṃ muñcatu dhammapālaṃ, sīsaṃ me deva chedehī’’ti.
Let him release Dhammapāla; Your Majesty, cut off my head.”
Xin hãy tha cho Dhammapāla này, tâu Đại vương, xin hãy chặt đầu tôi.”
1465
Vatvā ca pana attano sīsaṃ upanesi.
And having said that, she offered her own head.
Và bà đã dâng đầu mình lên.
1466
Puna coraghātako ‘‘kiṃ karomi, devā’’ti pucchi.
Again, the executioner asked, “What shall I do, Your Majesty?”
Lần nữa, tên đao phủ hỏi: “Tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
‘‘Sīsamassa chindā’’ti.
“Cut off his head.”
“Hãy chặt đầu nó.”
So sīsaṃ chinditvā ‘‘katā, deva, rājāṇā’’ti pucchi.
He cut off the head and asked, “Your Majesty, is the king’s command fulfilled?”
Hắn chặt đầu và hỏi: “Tâu Đại vương, đã hoàn thành mệnh lệnh của vua chưa?”
‘‘Na tāva katā’’ti.
“Not yet fulfilled.”
“Chưa xong.”
‘‘Atha kiṃ karomi, devā’’ti?
“Then what shall I do, Your Majesty?”
“Vậy tâu Đại vương, tôi phải làm gì?”
‘‘Asituṇḍena naṃ sampaṭicchitvā asimālakaṃ nāma karohī’’ti.
“Catch him with the sword-tip and make him into a ‘sword-garland’.”
“Hãy dùng mũi gươm đón lấy nó và tạo thành một vòng hoa gươm.”
So tassa kaḷevaraṃ ākāse khipitvā asituṇḍena sampaṭicchitvā asimālakaṃ nāma katvā mahātale vippakiri.
He threw his body into the air, caught it with the sword-tip, made it into a “sword-garland,” and scattered it on the ground.
Hắn ném thân thể của hoàng tử lên không trung, dùng mũi gươm đón lấy, tạo thành một vòng hoa gươm và rải xuống đất.
Candādevī bodhisattassa maṃse ucchaṅge katvā mahātale rodamānā paridevamānā imā gāthā abhāsi –
Queen Candā, taking the Bodhisatta’s flesh in her lap, wept and lamented on the ground, speaking these verses –
Hoàng hậu Candā ôm những mảnh thịt của Bồ tát vào lòng, than khóc trên mặt đất và đã đọc những bài kệ này –
1467
47.
47.
47.
1468
‘‘Na hi nūnimassa rañño, mittāmaccā ca vijjare suhadā;
“Surely this king has no friends, ministers, or well-wishers;
“Chắc chắn vị vua này không có bạn bè, cũng không có các vị đại thần thân cận;
1469
Ye na vadanti rājānaṃ, mā ghātayi orasaṃ puttaṃ.
Who would not tell the king, ‘Do not kill your own son.’
Những người không nói với vua: ‘Đừng giết con ruột của mình.’”
1470
48.
48.
48.
1471
‘‘Na hi nūnimassa rañño, ñātī mittā ca vijjare suhadā;
“Surely this king has no relatives, friends, or well-wishers;
“Chắc chắn vị vua này không có bà con, cũng không có bạn bè thân cận;
1472
Ye na vadanti rājānaṃ, mā ghātayi atrajaṃ putta’’nti.
Who would not tell the king, ‘Do not kill your born son.’ ”
Những người không nói với vua: ‘Đừng giết con cháu của mình.’”
1473
Tattha mittāmaccā ca vijjare suhadāti nūna imassa rañño daḷhamittā vā sabbakiccesu sahabhāvino amaccā vā muduhadayatāya suhadā vā keci na vijjanti.
There, mittāmaccā ca vijjare suhadā means: Surely this king has no firm friends, or ministers who are always with him in all tasks, or well-wishers who are soft-hearted.
Ở đây, mittāmaccā ca vijjare suhadā có nghĩa là: Chắc chắn vị vua này không có những người bạn thân thiết, hoặc các vị đại thần luôn ở bên trong mọi việc, hoặc những người thân cận có tấm lòng mềm mỏng.
Ye na vadantīti ye adhunā āgantvā ‘‘attano piyaputtaṃ mā ghātayī’’ti na vadanti, imaṃ rājānaṃ paṭisedhenti, te natthiyevāti maññe.
Ye na vadantī means: I think there are none who would come now and say, “Do not kill your beloved son,” thereby restraining this king.
Ye na vadantī có nghĩa là: Tôi nghĩ rằng không có những người nào đến bây giờ mà không nói: “Đừng giết đứa con yêu quý của mình,” để ngăn cản vị vua này.
Dutiyagāthāyaṃ ñātīti ñātakā.
In the second verse, ñātī means relatives.
Trong bài kệ thứ hai, ñātī có nghĩa là bà con.
1474
Imā pana dve gāthā vatvā candādevī ubhohi hatthehi hadayamaṃsaṃ dhārayamānā tatiyaṃ gāthamāha –
Having spoken these two verses, Queen Candā, holding the heart-flesh with both hands, spoke the third verse –
Sau khi đọc hai bài kệ này, hoàng hậu Candā, ôm lấy trái tim bằng cả hai tay, đã đọc bài kệ thứ ba –
1475
49.
49.
49.
1476
‘‘Candanasārānulittā, bāhā chijjanti dhammapālassa;
“The arms of Dhammapāla, anointed with sandalwood paste, are cut off;
“Những cánh tay được thoa tinh dầu đàn hương, của Dhammapāla đang bị chặt;
1477
Dāyādassa pathabyā, pāṇā me deva rujjhantī’’ti.
My life, Your Majesty, is tormented for the heir to the earth.”
Tâu Đại vương, sinh mạng tôi đang bị hủy hoại vì người thừa kế của trái đất này.”
1478
Tattha dāyādassa pathabyāti pitusantakāya cāturantāya pathaviyā dāyādassa lohitacandanasārānulittā hatthā chijjanti, pādā chijjanti, sīsañca chijjati, asimālakopi kato, tava vaṃsaṃ pacchinditvā gatosi dānīti evamādīni vilapanti evamāha.
There, dāyādassa pathabyā means: The hands of the heir to the four-continent earth, his father’s inheritance, anointed with red sandalwood paste, are cut off, his feet are cut off, and his head is cut off, and he has been made into a sword-garland; now you have cut off your lineage and are gone. Lamenting thus, she spoke thus.
Ở đây, dāyādassa pathabyā có nghĩa là: “Những cánh tay được thoa tinh dầu đàn hương máu của người thừa kế trái đất tứ phương thuộc về cha đang bị chặt, chân đang bị chặt, và đầu cũng bị chặt, thậm chí còn bị biến thành vòng hoa gươm. Bây giờ ngài đã cắt đứt dòng dõi của ngài.” Than vãn những điều như vậy, bà đã nói.
Pāṇā me deva rujjhantīti deva, mayhampi imaṃ sokaṃ sandhāretuṃ asakkontiyā jīvitaṃ rujjhatīti.
Pāṇā me deva rujjhantī means: Your Majesty, my life is also tormented, unable to bear this sorrow.
Pāṇā me deva rujjhantī có nghĩa là: “Tâu Đại vương, sinh mạng của tôi cũng đang bị hủy hoại vì không thể chịu đựng được nỗi đau này.”
1479
Tassā evaṃ paridevamānāya eva ḍayhamāne veḷuvane veḷu viya hadayaṃ phali, sā tattheva jīvitakkhayaṃ pattā.
As she thus lamented, her heart burst like a bamboo in a burning bamboo grove, and she met her end right there.
Khi bà than khóc như vậy, trái tim bà tan vỡ như cây tre bị đốt cháy trong rừng tre, và bà đã mất mạng ngay tại đó.
Rājāpi pallaṅke ṭhātuṃ asakkonto mahātale pati, padaratalaṃ dvidhā bhijji, so tatopi bhūmiyaṃ pati.
The king, unable to remain on the couch, fell to the ground; the earth split in two, and he fell into the earth from there.
Vua cũng không thể đứng vững trên ngai vàng mà ngã xuống đất. Nền đá bị nứt làm đôi, và ông ta cũng ngã xuống đất từ đó.
Tato catunahutādhikadviyojanasatasahassabahalāpi ghanapathavī tassa aguṇaṃ dhāretuṃ asakkontī bhijjitvā vivaramadāsi, avīcito jālā uṭṭhāya kuladattikena kambalena parikkhipantī viya taṃ gahetvā avīcimhi khipi.
Then, even the dense earth, two hundred thousand yojanas thick plus forty thousand, unable to bear his demerit, split open and gave way. Flames arose from Avīci, and as if wrapping him in a blanket given by a family, they seized him and cast him into Avīci.
Sau đó, mặt đất dày hai trăm ngàn dojana cộng thêm bốn mươi ngàn dojana cũng không thể chịu đựng được ác nghiệp của ông ta, đã nứt ra và tạo thành một khe hở. Lửa từ địa ngục Avīci bùng lên, như thể quấn lấy ông ta bằng một tấm chăn gia truyền, rồi kéo ông ta xuống địa ngục Avīci.
Candāya ca bodhisattassa ca amaccā sarīrakiccaṃ kariṃsu.
Canda's and the Bodhisatta's ministers performed their funeral rites.
Các vị đại thần đã lo việc tang lễ cho hoàng hậu Candā và Bồ tát.
1480
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā devadatto ahosi, candādevī mahāpajāpatigotamī, dhammapālakumāro pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse, connected the Jātaka: "At that time, the king was Devadatta; Queen Candā was Mahāpajāpatī Gotamī; and Prince Dhammapāla was I myself."
Bậc Đạo Sư đã mang bài pháp thoại này đến và kết nối câu chuyện Jātaka: “Vào thời đó, vị vua chính là Devadatta, hoàng hậu Candā chính là Mahāpajāpatī Gotamī, còn hoàng tử Dhammapāla chính là Ta.”
1481
Cūḷadhammapālajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth commentary on the Cūḷadhammapāla Jātaka.
Câu chuyện Cūḷadhammapāla Jātaka, thứ tám, đã kết thúc.
1482
* 9. Suvaṇṇamigajātakavaṇṇanā
* 9. Commentary on the Suvaṇṇamiga Jātaka
* 9. Câu chuyện Suvaṇṇamiga Jātaka
1483
Vikkama re haripādāti idaṃ satthā jetavane viharanto sāvatthiyaṃ ekaṃ kuladhītaraṃ ārabbha kathesi.
"Step forth, O lion-footed one!" – this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a certain daughter of a family in Sāvatthī.
Vikkama re haripādā – Câu chuyện này được bậc Đạo Sư kể khi Ngài đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến một cô gái thuộc gia đình ở Sāvatthī.
Sā kira sāvatthiyaṃ dvinnaṃ aggasāvakānaṃ upaṭṭhākakulassa dhītā saddhā pasannā buddhamāmakā dhammamāmakā saṅghamāmakā ācārasampannā paṇḍitā dānādipuññābhiratā.
She was, it is said, the daughter of a family in Sāvatthī that supported the two chief disciples, endowed with faith, devoted to the Buddha, devoted to the Dhamma, devoted to the Saṅgha, perfect in conduct, wise, and diligent in merits such as giving.
Cô gái ấy là con của một gia đình hộ độ hai vị Trưởng lão hàng đầu ở Sāvatthī, có đức tin, lòng tịnh tín, là Phật tử, Pháp tử, Tăng tử, có giới hạnh hoàn hảo, thông thái, và luôn hoan hỷ trong các việc phước thiện như bố thí.
Taṃ aññaṃ sāvatthiyameva samānajātikaṃ micchādiṭṭhikakulaṃ vāresi.
Another family of the same caste in Sāvatthī, being of wrong view, sought her hand.
Một gia đình tà kiến khác, cùng đẳng cấp ở Sāvatthī, đã cầu hôn cô ấy.
Athassā mātāpitaro ‘‘amhākaṃ dhītā saddhā pasannā tīṇi ratanāni mamāyati dānādipuññābhiratā, tumhe micchādiṭṭhikā imissāpi yathāruciyā dānaṃ vā dātuṃ dhammaṃ vā sotuṃ vihāraṃ vā gantuṃ sīlaṃ vā rakkhituṃ uposathakammaṃ vā kātuṃ na dassatha, na mayaṃ tumhākaṃ dema, attanā sadisaṃ micchādiṭṭhikakulāva kumārikaṃ gaṇhathā’’ti āhaṃsu.
Then her parents said, "Our daughter is endowed with faith, devoted to the Three Jewels, and diligent in merits such as giving. You, being of wrong view, will not allow her to give alms as she wishes, or listen to the Dhamma, or visit a monastery, or observe precepts, or perform Uposatha duties. We will not give her to you. Take a maiden from a family of wrong view, like yourselves."
Sau đó, cha mẹ cô gái nói: “Con gái chúng tôi có đức tin, lòng tịnh tín, tôn kính Tam Bảo, thích làm các việc phước thiện như bố thí. Còn các ông là tà kiến, sẽ không cho phép con gái chúng tôi tùy ý bố thí, nghe pháp, đi đến tịnh xá, giữ giới, hay làm lễ Uposatha. Chúng tôi không gả con gái cho các ông. Các ông hãy cưới một cô gái từ gia đình tà kiến giống như mình đi.”
Te tehi paṭikkhittā ‘‘tumhākaṃ dhītā amhākaṃ gharaṃ gantvā yathādhippāyena sabbametaṃ karotu, mayaṃ na vāressāma, detha no eta’’nti vatvā ‘‘tena hi gaṇhathā’’ti vuttā bhaddakena nakkhattena maṅgalaṃ katvā taṃ attano gharaṃ nayiṃsu.
Rejected by them, they said, "Let your daughter go to our house and do all this as she pleases; we will not hinder her. Give her to us." When told, "Then take her," they performed the ceremony on a good constellation and brought her to their house.
Bị họ từ chối, họ nói: “Con gái của các ông đến nhà chúng tôi sẽ tùy ý làm tất cả những điều đó, chúng tôi sẽ không ngăn cản. Xin hãy gả cô ấy cho chúng tôi.” Khi được nói “Vậy thì hãy cưới đi,” họ đã cử hành hôn lễ vào một ngày lành và đưa cô ấy về nhà mình.
Sā vattācārasampannā patidevatā ahosi, sassusasurasāmikavattāni katāneva honti.
She was perfect in conduct and duties, a devoted wife; her duties to her parents-in-law and husband were always performed.
Cô ấy là một người vợ hiền, đầy đủ lễ nghi và hạnh kiểm, luôn thực hiện các bổn phận đối với cha mẹ chồng và chồng.
1484
Sā ekadivasaṃ sāmikaṃ āha – ‘‘icchāmahaṃ, ayyaputta, amhākaṃ kulūpakattherānaṃ dānaṃ dātu’’nti.
One day she said to her husband, "My dear, I wish to offer alms to the elders who are accustomed to our family."
Một ngày nọ, cô ấy nói với chồng: “Chàng ơi, thiếp muốn cúng dường chư Trưởng lão là bậc quen thuộc của gia đình chúng ta.”
Sādhu, bhadde, yathājjhāsayena dānaṃ dehīti.
"Very well, my dear, give alms as you wish," he replied.
“Tốt lắm, hiền thê, hãy cúng dường theo ý nguyện của nàng.”
Sā there nimantāpetvā mahantaṃ sakkāraṃ katvā paṇītabhojanaṃ bhojetvā ekamantaṃ nisīditvā ‘‘bhante, imaṃ kulaṃ micchādiṭṭhikaṃ assaddhaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇaṃ na jānāti, sādhu, ayyā, yāva imaṃ kulaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇaṃ jānāti, tāva idheva bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti āha.
She invited the elders, showed them great respect, served them delicious food, and then sat to one side and said, "Venerable sirs, this family holds wrong views, is without faith, and does not know the virtues of the Three Jewels. It would be good, venerable sirs, if you would receive alms here until this family comes to know the virtues of the Three Jewels."
Cô ấy thỉnh các vị Trưởng lão, cúng dường trọng thể, dâng thức ăn ngon rồi ngồi sang một bên thưa rằng: “Bạch chư Tôn giả, gia đình này tà kiến, không có đức tin, không biết công đức của Tam bảo. Lành thay, thưa các Ngài, xin các Ngài hãy thọ thực ở đây cho đến khi gia đình này biết được công đức của Tam bảo.”
Therā adhivāsetvā tattha nibaddhaṃ bhuñjanti.
The elders consented and regularly partook of meals there.
Các vị Trưởng lão chấp thuận và thường xuyên thọ thực ở đó.
Puna sāmikaṃ āha ‘‘ayyaputta, therā idha nibaddhaṃ āgacchanti, kiṃkāraṇā tumhe na passathā’’ti.
Again she said to her husband, "My dear, the elders come here regularly; why do you not see them?"
Lại nữa, cô ấy nói với chồng rằng: “Này phu quân, các vị Trưởng lão thường xuyên đến đây, tại sao chàng không thấy các Ngài?”
‘‘Sādhu, passissāmī’’ti.
"Very well, I will see them," he replied.
“Được, ta sẽ thấy.”
Sā punadivase therānaṃ bhattakiccapariyosāne tassa ārocesi.
The next day, after the elders' meal was finished, she informed him.
Ngày hôm sau, sau khi các vị Trưởng lão dùng bữa xong, cô ấy báo cho chàng.
So upasaṅkamitvā therehi saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ekamantaṃ nisīdi.
He approached, exchanged greetings with the elders, and sat to one side.
Chàng đến gần, chào hỏi các vị Trưởng lão rồi ngồi sang một bên.
Athassa dhammasenāpati dhammakathaṃ kathesi.
Then the Dhamma-general delivered a discourse to him.
Bấy giờ, vị Pháp tướng (Dhammasenāpati) đã thuyết pháp cho chàng.
So therassa dhammakathāya ca iriyāpathesu ca pasīditvā tato paṭṭhāya therānaṃ āsanaṃ paññapeti, pānīyaṃ parissāveti, antarābhatte dhammakathaṃ suṇāti, tassa aparabhāge micchādiṭṭhi bhijji.
He became pleased with the elder's discourse and deportment, and from that time onwards, he arranged seats for the elders, strained drinking water, and listened to the Dhamma discourse during the meal. After that, his wrong view was shattered.
Chàng hoan hỷ với bài pháp và oai nghi của vị Trưởng lão, từ đó về sau sắp đặt chỗ ngồi cho các vị Trưởng lão, lọc nước uống, nghe pháp trong bữa ăn, sau đó tà kiến của chàng bị đoạn trừ.
1485
Athekadivasaṃ thero dvinnampi dhammakathaṃ kathento saccāni pakāsesi, saccapariyosāne ubhopi jayampatikā sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu.
Then one day, the elder, delivering a discourse to both of them, revealed the Noble Truths. At the conclusion of the Truths, both husband and wife were established in the fruit of Stream-entry.
Rồi một ngày nọ, vị Trưởng lão thuyết pháp cho cả hai vợ chồng, tuyên bố các chân lý (saccāni), và khi bài pháp về chân lý kết thúc, cả hai vợ chồng đều an trú vào quả vị Dự lưu (sotāpatti).
Tato paṭṭhāya tassa mātāpitaro ādiṃ katvā antamaso dāsakammakarāpi sabbe micchādiṭṭhiṃ bhinditvā buddhadhammasaṅghamāmakāyeva jātā.
From that time onwards, starting with his parents, down to the servants and laborers, all abandoned wrong views and became devoted to the Buddha, Dhamma, and Saṅgha.
Từ đó về sau, bắt đầu từ cha mẹ của chàng cho đến cả những người hầu, tất cả đều đoạn trừ tà kiến và trở thành những người tôn kính Phật, Pháp, Tăng.
Athekadivasaṃ dārikā sāmikaṃ āha – ‘‘ayyaputta, kiṃ me gharāvāsena, icchāmahaṃ pabbajitu’’nti.
Then one day the daughter said to her husband, "My dear, what is the use of household life for me? I wish to go forth."
Rồi một ngày nọ, cô gái nói với chồng: “Này phu quân, việc sống đời gia đình có ích gì cho thiếp, thiếp muốn xuất gia.”
So ‘‘sādhu bhadde, ahampi pabbajissāmī’’ti mahantena parivārena taṃ bhikkhunupassayaṃ netvā pabbājetvā sayampi satthāraṃ upasaṅkamitvā pabbajjaṃ yāci.
He said, "Very well, my dear, I too will go forth." With a large retinue, he took her to the bhikkhunī monastery, had her ordained, and he himself approached the Teacher and requested ordination.
Chàng nói: “Lành thay, hiền thê, ta cũng sẽ xuất gia.” Rồi với đoàn tùy tùng đông đảo, chàng đưa cô đến tu viện Tỳ-kheo-ni để xuất gia, và chính chàng cũng đến gặp Đức Bổn Sư để xin xuất gia.
Taṃ satthā pabbājesi.
The Teacher ordained him.
Đức Bổn Sư đã cho chàng xuất gia.
Ubhopi vipassanaṃ vaḍḍhetvā na cirasseva arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Both cultivated insight and attained Arahantship in no long time.
Cả hai đều phát triển thiền quán (vipassanā) và không lâu sau đã chứng đắc A-la-hán quả.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, asukā nāma daharabhikkhunī attano ceva paccayā jātā sāmikassa ca, attanāpi pabbajitvā arahattaṃ patvā tampi pāpesī’’ti.
Then one day, the bhikkhus in the Dhamma hall raised a discussion: "Friends, a certain young bhikkhunī, born of her own conditions and those of her husband, having herself gone forth and attained Arahantship, also led him to it."
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-kheo trong Pháp đường đã khởi lên câu chuyện: “Này chư Hiền giả, Tỳ-kheo-ni trẻ tuổi tên kia đã vì chính mình và vì chồng mà xuất gia, tự mình xuất gia chứng A-la-hán quả và cũng giúp chồng đạt được quả vị đó.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva tāva esā sāmikaṃ rāgapāsā mocesi, pubbepesā porāṇakapaṇḍite pana maraṇapāsā mocesī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having come and asked, "Bhikkhus, what discussion are you now engaged in?" and being told, "This one," said, "Bhikkhus, it is not only now that she released her husband from the snare of lust; in the past too, she released that ancient wise man from the snare of death," and then related a past story.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi bàn về câu chuyện gì?” Khi được thưa rằng “về câu chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ cô ấy mới giải thoát chồng khỏi sợi dây ái dục, mà trước kia cô ấy cũng đã giải thoát người trí cổ xưa khỏi sợi dây tử thần,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1486
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto migayoniyaṃ nibbattitvā vayappatto abhirūpo ahosi pāsādiko dassanīyo suvaṇṇavaṇṇo lākhārasaparikammakatehi viya hatthapādehi rajatadāmasadisehi visāṇehi maṇiguḷikapaṭibhāgehi akkhīhi rattakambalageṇḍusadisena mukhena samannāgato.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the deer realm, and having reached maturity, he was handsome, pleasing, and lovely to behold, golden-hued, with hands and feet as if adorned with lac juice, antlers like silver chains, eyes resembling gem-balls, and a face like a red woolen ball.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh làm một con nai, khi trưởng thành Ngài có hình dáng đẹp đẽ, đáng yêu, dễ nhìn, màu da vàng óng, với tay chân như được sơn bằng nước cánh kiến, sừng như sợi bạc, mắt như viên ngọc, và miệng như quả cầu vải đỏ.
Bhariyāpissa taruṇamigī abhirūpā ahosi dassanīyā.
His wife, a young doe, was also handsome and lovely to behold.
Vợ của Ngài cũng là một con nai cái trẻ tuổi, xinh đẹp và đáng yêu.
Te samaggavāsaṃ vasiṃsu, asītisahassacitramigā bodhisattaṃ upaṭṭhahiṃsu.
They lived together harmoniously, and eighty thousand dappled deer attended the Bodhisatta.
Chúng sống hòa thuận với nhau, và tám mươi ngàn con nai khác đã phụng sự Bồ-tát.
Tadā luddakā migavīthīsu pāse oḍḍesuṃ.
At that time, hunters set snares in the deer paths.
Lúc bấy giờ, những người thợ săn đã đặt bẫy ở các lối đi của nai.
Athekadivasaṃ bodhisatto migānaṃ purato gacchanto pāde pāsena bajjhitvā ‘‘chindissāmi na’’nti ākaḍḍhi, cammaṃ chijji, puna ākaḍḍhantassa maṃsaṃ chijji, puna nhāru chijji, pāso aṭṭhimāhacca aṭṭhāsi.
Then one day, as the Bodhisatta was walking ahead of the deer, his foot was caught in a snare. He pulled, thinking, "I will cut it," and the skin was cut. When he pulled again, the flesh was cut. Then the sinew was cut, and the snare struck the bone and stopped.
Rồi một ngày nọ, Bồ-tát đi trước đàn nai, chân bị mắc vào bẫy, Ngài kéo để “cắt đứt nó,” thì da bị cắt. Kéo lần nữa, thịt bị cắt. Kéo lần nữa, gân bị cắt. Sợi dây bẫy chạm vào xương và mắc lại.
So pāsaṃ chindituṃ asakkonto maraṇabhayatajjito baddharavaṃ ravi.
Unable to cut the snare, he was terrified by the fear of death and cried out loudly.
Không thể cắt đứt sợi dây bẫy, Ngài sợ hãi cái chết và kêu lên một tiếng kêu bị trói buộc.
Taṃ sutvā bhīto migagaṇo palāyi.
Hearing that, the frightened herd of deer fled.
Nghe tiếng đó, đàn nai sợ hãi bỏ chạy.
Bhariyā panassa palāyitvā migānaṃ antare olokentī taṃ adisvā ‘‘idaṃ bhayaṃ mayhaṃ piyasāmikassa uppannaṃ bhavissatī’’ti vegena tassa santikaṃ gantvā assumukhī rodamānā ‘‘sāmi, tvaṃ mahabbalo, kiṃ etaṃ pāsaṃ sandhāretuṃ na sakkhissasi, vegaṃ janetvā chindāhi na’’nti tassa ussāhaṃ janentī paṭhamaṃ gāthamāha –
His wife, however, having fled and looking among the deer, did not see him. Thinking, "This danger must have arisen for my beloved husband," she quickly went to him, and with tearful eyes, weeping, she said, "My lord, you are very strong, why can you not withstand this snare? Generate energy and cut it!" thus encouraging him, she spoke the first verse:
Nhưng vợ của Ngài, sau khi bỏ chạy, nhìn quanh giữa đàn nai không thấy Ngài, nghĩ: “Tai họa này chắc chắn đã xảy ra cho người chồng yêu quý của ta,” rồi nhanh chóng đến bên Ngài, với đôi mắt đẫm lệ, khóc lóc nói: “Này phu quân, chàng có sức mạnh lớn lao, sao chàng không thể giữ được sợi dây bẫy này? Hãy dồn hết sức mà cắt đứt nó đi!” Cô ấy khích lệ Ngài và nói lên bài kệ đầu tiên:
1487
50.
50.
50.
1488
‘‘Vikkama re haripāda, vikkama re mahāmiga;
"Strive, O golden-footed one, strive, O great deer;
“Hãy nỗ lực, hỡi nai chân vàng, hãy nỗ lực, hỡi đại nai;
1489
Chinda vārattikaṃ pāsaṃ, nāhaṃ ekā vane rame’’ti.
Cut the leather snare, I cannot delight alone in the forest."
Hãy cắt đứt sợi dây bẫy, thiếp không thể một mình vui sống trong rừng.”
1490
Tattha vikkamāti parakkama, ākaḍḍhāti attho.
Therein, vikkamā means "strive," "pull," is the meaning.
Trong đó, vikkamā có nghĩa là nỗ lực, kéo mạnh.
Reti āmantane nipāto.
Re is a particle of address.
Re là một tiểu từ dùng để gọi.
Haripādāti suvaṇṇapāda.
Haripādā means "golden-footed."
Haripādā có nghĩa là chân vàng.
Sakalasarīrampi tassa suvaṇṇavaṇṇaṃ, ayaṃ pana gāravenevamāha.
His entire body was golden-hued, but she spoke thus out of respect.
Toàn thân Ngài có màu vàng, nhưng cô ấy nói như vậy với lòng tôn kính.
Nāhaṃ ekāti ahaṃ tayā vinā ekikā vane na ramissāmi, tiṇodakaṃ pana aggahetvā sussitvā marissāmīti dasseti.
Nāhaṃ ekā means "I will not delight alone in the forest without you; rather, I will die of thirst and hunger," she shows.
Nāhaṃ ekā có nghĩa là “thiếp không thể một mình vui sống trong rừng nếu không có chàng, thiếp sẽ héo mòn mà chết vì không ăn cỏ uống nước,” cô ấy bày tỏ ý này.
1491
Taṃ sutvā migo dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the deer spoke the second verse:
Nghe vậy, con nai nói lên bài kệ thứ hai:
1492
51.
51.
51.
1493
‘‘Vikkamāmi na pāremi, bhūmiṃ sumbhāmi vegasā;
"I strive, but I cannot; I strike the ground with force;
“Ta nỗ lực nhưng không thể, ta cào cấu đất mạnh mẽ;
1494
Daḷho vārattiko pāso, pādaṃ me parikantatī’’ti.
The leather snare is strong, it cuts my foot all around."
Sợi dây bẫy quá chắc, đang cắt nát chân ta.”
1495
Tattha vikkamāmīti bhadde, ahaṃ vīriyaṃ karomi.
Therein, vikkamāmī means "my dear, I exert effort."
Trong đó, vikkamāmī có nghĩa là “Này hiền thê, ta đang cố gắng.”
Na pāremīti pāsaṃ chindituṃ pana na sakkomīti attho.
Na pāremī means "but I cannot cut the snare," is the meaning.
Na pāremī có nghĩa là “nhưng ta không thể cắt đứt sợi dây bẫy.”
Bhūmiṃ sumbhāmīti api nāma chijjeyyāti pādenāpi bhūmiṃ paharāmi.
Bhūmiṃ sumbhāmī means "I also strike the ground with my foot, hoping it might cut."
Bhūmiṃ sumbhāmī có nghĩa là “ta cũng dùng chân cào đất, mong rằng nó sẽ đứt.”
Vegasāti vegena.
Vegasā means "with force."
Vegasā có nghĩa là “mạnh mẽ.”
Parikantatīti cammādīni chindanto samantā kantatīti.
Parikantatī means "it cuts all around, severing the skin and so forth."
Parikantatī có nghĩa là “cắt xung quanh, cắt đứt da thịt, v.v.”
1496
Atha naṃ migī ‘‘mā bhāyi, sāmi, ahaṃ attano balena luddakaṃ yācitvā tava jīvitaṃ āharissāmi.
Then the doe said to him, "Do not fear, my lord, I will use my strength to beg the hunter for your life.
Rồi con nai cái nói với Ngài: “Đừng sợ, phu quân, thiếp sẽ dùng sức của mình để cầu xin người thợ săn cứu mạng chàng. Nếu không thể cầu xin, thiếp sẽ hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng chàng.” Sau khi an ủi Đại Sĩ, cô ấy ôm lấy Bồ-tát đang dính máu và đứng đó.
Sace yācanāya na sakkhissāmi, mama jīvitampi datvā tava jīvitaṃ āharissāmī’’ti mahāsattaṃ assāsetvā lohitalittaṃ bodhisattaṃ pariggahetvā aṭṭhāsi.
If I cannot succeed by begging, I will give my own life to bring back your life," thus reassuring the Great Being, she stood embracing the Bodhisatta, who was covered in blood.
Nếu ta không thể thuyết phục được, ta sẽ hiến dâng cả mạng sống của ta để cứu mạng sống của ngươi.” Sau khi an ủi Bồ Tát, cô ấy ôm lấy Bồ Tát dính đầy máu và đứng đó.
Luddakopi asiñca sattiñca gahetvā kappuṭṭhānaggi viya āgacchati.
The hunter also came, holding a sword and a spear, like a fire at the end of a world-cycle.
Người thợ săn cũng cầm dao và giáo, đến gần như ngọn lửa cuối kiếp.
Sā taṃ disvā ‘‘sāmi, luddako āgacchati, ahaṃ attano balaṃ karissāmi, tvaṃ mā bhāyī’’ti migaṃ assāsetvā luddakassa paṭipathaṃ gantvā paṭikkamitvā ekamantaṃ ṭhitā taṃ vanditvā ‘‘sāmi, mama sāmiko suvaṇṇavaṇṇo sīlācārasampanno, asītisahassānaṃ migānaṃ rājā’’ti bodhisattassa guṇaṃ kathetvā migarāje ṭhiteyeva attano vadhaṃ yācantī tatiyaṃ gāthamāha –
Seeing him, she said, "My lord, the hunter is coming, I will use my strength, do not fear," and having reassured the deer, she went to meet the hunter, then stepped aside, stood at one side, bowed to him, and extolled the Bodhisatta's virtues, saying, "My lord, my husband is golden-hued, endowed with virtue and good conduct, the king of eighty thousand deer," and while the deer-king remained, she begged for her own death, speaking the third verse:
Thấy vậy, cô ấy nói: “Phu quân, người thợ săn đang đến, thiếp sẽ dùng sức của mình, chàng đừng sợ.” Sau khi an ủi con nai, cô ấy đi ra đón người thợ săn, rồi lùi lại đứng sang một bên, cúi chào anh ta và nói: “Này chủ nhân, chồng thiếp có màu da vàng óng, đầy đủ giới hạnh, là vua của tám mươi ngàn con nai.” Sau khi kể công đức của Bồ-tát, cô ấy cầu xin cái chết cho mình ngay khi nai vương còn sống, và nói lên bài kệ thứ ba:
1497
52.
52.
52.
1498
‘‘Attharassu palāsāni, asiṃ nibbāha luddaka;
"Spread out the leaves, O hunter, draw forth your sword;
“Hãy trải lá, hỡi thợ săn, hãy rút gươm ra;
1499
Paṭhamaṃ maṃ vadhitvāna, hana pacchā mahāmiga’’nti.
First kill me, then kill the great deer."
Trước hãy giết thiếp, sau hãy giết đại nai.”
1500
Tattha palāsānīti maṃsaṭṭhapanatthaṃ palāsapaṇṇāni attharassu.
There, palāsāni means: spread out broad leaves for placing the meat.
Trong đó, palāsāni có nghĩa là “hãy trải lá cây để đặt thịt.”
Asiṃ nibbāhāti asiṃ kosato nīhara.
Asiṃ nibbāhā means: draw the sword from its scabbard.
Asiṃ nibbāhā có nghĩa là “hãy rút gươm ra khỏi vỏ.”
1501
Taṃ sutvā luddako ‘‘manussabhūtā tāva sāmikassa atthāya attano jīvitaṃ na pariccajanti, ayaṃ tiracchānagatā jīvitaṃ pariccajati, manussabhāsāya ca madhurena sarena katheti, ajja imissā ca patino cassā jīvitaṃ dassāmī’’ti pasannacitto catutthaṃ gāthamāha –
Having heard that, the hunter, with a gladdened mind, thinking, "Even human beings do not sacrifice their lives for their master's sake, but this animal sacrifices its life and speaks in human language with a sweet voice; today I shall give life to both her and her husband," spoke the fourth verse –
Nghe vậy, người thợ săn nghĩ: “Con người còn không hy sinh mạng sống của mình vì chồng, vậy mà con vật này lại hy sinh mạng sống của nó. Nó lại còn nói tiếng người bằng giọng ngọt ngào. Hôm nay ta sẽ cứu mạng cả nó và chồng nó.” Với tâm hoan hỷ, anh ta nói lên bài kệ thứ tư:
1502
53.
53.
53.
1503
‘‘Na me sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā, bhāsantiṃ mānusiṃ migiṃ;
"I have not heard or seen a doe speaking human language;
“Ta chưa từng nghe hay thấy, một con nai nói tiếng người;
1504
Tvañca bhadde sukhī hohi, eso cāpi mahāmigo’’ti.
May you, good lady, be happy, and so too this great deer."
Này hiền thê, ngươi hãy sống an lành, và đại nai kia cũng vậy.”
1505
Tattha sutaṃ vā diṭṭhaṃ vāti mayā ito pubbe evarūpaṃ diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā natthi.
There, sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā means: I have not seen or heard such a thing before.
Trong đó, sutaṃ vā diṭṭhaṃ vā có nghĩa là “trước đây ta chưa từng thấy hay nghe điều như vậy.”
Bhāsantiṃ mānusiṃ miginti ahañhi ito pubbe mānusiṃ vācaṃ bhāsantiṃ migiṃ neva addasaṃ na assosiṃ.
Bhāsantiṃ mānusiṃ migiṃ means: I have never before seen or heard a doe speaking human language.
Bhāsantiṃ mānusiṃ miginti có nghĩa là “trước đây ta chưa từng thấy hay nghe một con nai nói tiếng người.”
Yesaṃ pana ‘‘na me sutā vā diṭṭhā vā, bhāsantī mānusī migī’’ti pāḷi, tesaṃ yathāpāḷimeva attho dissati.
For those whose reading is "na me sutā vā diṭṭhā vā, bhāsantī mānusī migī," the meaning appears to be just as the Pali reads.
Đối với những ai có bản Pāḷi là “na me sutā vā diṭṭhā vā, bhāsantī mānusī migī,” thì ý nghĩa cũng tương tự như bản Pāḷi đó.
Bhaddeti bhaddake paṇḍike upāyakusale.
Bhadde means: O good, wise, skillful one.
Bhadde có nghĩa là “này người tốt lành, người trí tuệ, người khéo léo.”
Iti taṃ ālapitvā puna ‘‘tvañca eso cāpi mahāmigoti dvepi janā sukhī niddukkhā hothā’’ti taṃ samassāsetvā luddako bodhisattassa santikaṃ gantvā vāsiyā cammapāsaṃ chinditvā pāde laggapāsakaṃ saṇikaṃ nīharitvā nhārunā nhāruṃ, maṃsena maṃsaṃ, cammena cammaṃ paṭipāṭetvā pādaṃ hatthena parimajji.
Having thus addressed her, and then reassuring her, "May both of you, you and this great deer, be happy and free from suffering," the hunter went to the Bodhisatta, cut the leather snare with an axe, gently removed the noose stuck to his foot, and, joining sinew to sinew, flesh to flesh, skin to skin in order, massaged the foot with his hand.
Sau khi gọi cô ấy như vậy, anh ta lại nói: “Ngươi và đại nai kia, cả hai hãy sống an lành, không đau khổ.” Sau khi an ủi cô ấy, người thợ săn đến chỗ Bồ-tát, dùng rìu cắt sợi dây bẫy da, từ từ rút sợi dây mắc ở chân ra, rồi nối gân với gân, thịt với thịt, da với da, sau đó dùng tay xoa bóp chân Ngài.
Taṅkhaṇaññeva mahāsattassa pūritapāramitānubhāvena luddakassa ca mettacittānubhāvena migiyā ca mettadhammānubhāvena nhārumaṃsacammāni nhārumaṃsacammehi ghaṭayiṃsu.
At that very moment, through the power of the Great Being's fulfilled perfections, the power of the hunter's loving-kindness, and the power of the doe's mettā-quality, the sinews, flesh, and skin joined with the sinews, flesh, and skin.
Ngay lập tức, nhờ oai lực của các Ba-la-mật đã viên mãn của Đại Sĩ, oai lực của tâm từ của người thợ săn, và oai lực của pháp từ của nai cái, gân, thịt và da đã nối liền với gân, thịt và da.
Bodhisatto pana sukhī niddukkho aṭṭhāsi.
The Bodhisatta then stood happy and free from suffering.
Bồ-tát liền đứng dậy trong an lành, không đau khổ.
1506
Migī bodhisattaṃ sukhitaṃ disvā somanassajātā luddakassa anumodanaṃ karontī pañcamaṃ gāthamāha –
Seeing the Bodhisatta happy, the doe, filled with joy, expressed her appreciation to the hunter, speaking the fifth verse –
Nai cái thấy Bồ-tát an lành, tràn đầy hoan hỷ, đã tùy hỷ với người thợ săn và nói lên bài kệ thứ năm:
1507
54.
54.
54.
1508
‘‘Evaṃ luddaka nandassu, saha sabbehi ñātibhi;
"May you, hunter, rejoice thus, together with all your relatives;
“Cầu mong ngươi, hỡi thợ săn, cùng với tất cả quyến thuộc, được an vui;
1509
Yathāhamajja nandāmi, muttaṃ disvā mahāmiga’’nti.
Just as I rejoice today, seeing the great deer freed."
Như hôm nay thiếp an vui, khi thấy đại nai được giải thoát.”
1510
Tattha luddakāti dāruṇakammakiriyāya laddhanāmavasena ālapati.
There, luddakā means: addressing him by the name he earned through his cruel actions.
Trong đó, luddakā là gọi tên theo hành động tàn ác.
1511
Bodhisatto ‘‘ayaṃ luddo mayhaṃ avassayo jāto, mayāpissa avassayeneva bhavituṃ vaṭatī’’ti gocarabhūmiyaṃ diṭṭhaṃ ekaṃ maṇikkhandhaṃ tassa datvā ‘‘samma, ito paṭṭhāya pāṇātipātādīni mā kari, iminā kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā dārake posento dānasīlādīni puññāni karohī’’ti tassovādaṃ datvā araññaṃ pāvisi.
The Bodhisatta, thinking, "This hunter has become my refuge; it is proper for me also to be a refuge for him," gave him a gem-cluster he had seen in his grazing ground, and advising him, "Friend, from now on, do not commit acts like taking life. Support your family with this, raise your children, and perform meritorious deeds such as giving and observing precepts," he entered the forest.
Bồ tát nghĩ: “Người thợ săn này đã trở thành chỗ nương tựa của ta, ta cũng nên trở thành chỗ nương tựa của y,” rồi trao cho y một khối ngọc quý được thấy trong vùng kiếm ăn, ban lời khuyên cho y: “Này bạn, từ nay trở đi đừng sát sinh nữa, hãy dùng thứ này để dựng nên gia đình, nuôi dưỡng con cái, và làm các việc phước báu như bố thí, trì giới,” rồi đi vào rừng.
1512
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā luddako channo ahosi, migī daharabhikkhunī, migarājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the hunter was Channa; the doe was the young bhikkhunī; and the deer king was I myself."
Đức Bổn Sư sau khi thuyết pháp thoại này đã kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, người thợ săn là Channa, con nai cái là vị tỳ khưu ni trẻ, còn vua nai chính là Ta vậy.”
1513
Suvaṇṇamigajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Chapter on the Suvaṇṇamiga Jātaka.
Chú giải truyện Jātaka Vua Nai Vàng thứ chín.
1514
* 10. Suyonandījātakavaṇṇanā
* 10. The Suyonandī Jātaka
* 10. Chú giải truyện Jātaka Suyonandī
1515
Vāti gandho timirānanti idaṃ satthā jetavane viharanto ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Vāti gandho timirānaṃ (The fragrance of timira trees wafts) – The Teacher spoke this when residing at Jetavana, concerning a discontented bhikkhu.
“Hương thơm của timira thoảng bay” – câu này Đức Bổn Sư đã thuyết khi ngụ tại Jetavana, liên quan đến một vị tỳ khưu chán nản.
Tañhi satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ bhikkhu ukkaṇṭhitosī’’ti pucchitvā ‘‘sacca’’nti vutte ‘‘kiṃ disvā’’ti vatvā ‘‘alaṅkatamātugāma’’nti vutte ‘‘mātugāmo nāmesa bhikkhu na sakkā rakkhituṃ, porāṇakapaṇḍitā supaṇṇabhavane katvā rakkhantāpi rakkhituṃ nāsakkhiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
For the Teacher, having asked him, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" and when he replied, "It is true," asked, "What did you see?" and when he said, "An adorned woman," replied, "A woman, bhikkhu, cannot be protected. Even ancient wise men, guarding them in a Supaṇṇa palace, could not protect them," and being requested by him, related a past event.
Quả thật, Đức Bổn Sư đã hỏi: “Này tỳ khưu, có thật là ông chán nản không?” Khi được trả lời là “Thật vậy,” Ngài hỏi: “Thấy gì mà chán nản?” Khi được trả lời là “Một người phụ nữ trang điểm,” Ngài nói: “Này tỳ khưu, người phụ nữ này không thể bảo vệ được; ngay cả các bậc hiền trí thời xưa, dù đã bảo vệ họ trong cung điện của loài Supaṇṇa, cũng không thể bảo vệ được,” và khi được vị ấy thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1516
Atīte bārāṇasiyaṃ tambarājā nāma rajjaṃ kāresi.
In the past, a king named Tambarājā reigned in Bārāṇasī.
Trong quá khứ, tại Bārāṇasī, có một vị vua tên là Tamba trị vì.
Tassa suyonandī nāma aggamahesī ahosi uttamarūpadharā.
His chief queen was named Suyonandī, possessing supreme beauty.
Hoàng hậu của ngài tên là Suyonandī, sở hữu sắc đẹp tuyệt trần.
Tadā bodhisatto supaṇṇayoniyaṃ nibbatti, tasmiṃ kāle nāgadīpo sedumadīpo nāma ahosi.
At that time, the Bodhisatta was born in the Supaṇṇa realm; at that time, the Nāga island was called Sedumadīpa.
Khi ấy, Bồ tát tái sinh vào loài Supaṇṇa; vào thời đó, đảo Nāga được gọi là đảo Seduma.
Bodhisatto tasmiṃ dīpe supaṇṇabhavane vasati.
The Bodhisatta resided in a Supaṇṇa palace on that island.
Bồ tát ngụ tại cung điện Supaṇṇa trên đảo đó.
So bārāṇasiṃ gantvā tambarājena saddhiṃ māṇavakavesena jūtaṃ kīḷati.
He went to Bārāṇasī and gambled with King Tambarājā in the guise of a young man.
Ngài đến Bārāṇasī, đánh bạc với vua Tamba trong hóa thân một chàng trai.
Tassa rūpasampattiṃ disvā paricārikā ‘‘amhākaṃ raññā saddhiṃ evarūpo nāma māṇavako jūtaṃ kīḷatī’’ti suyonandiyā ārocesuṃ.
Seeing his perfect beauty, the female attendants reported to Suyonandī, "Such a young man is gambling with our king."
Các thị nữ thấy vẻ đẹp của ngài liền báo cho Suyonandī: “Một chàng trai như thế này đang đánh bạc với vua của chúng ta.”
Sā sutvā taṃ daṭṭhukāmā hutvā ekadivasaṃ alaṅkaritvā jūtamaṇḍalaṃ āgantvā paricārikānaṃ antare ṭhitā naṃ olokesi.
Having heard this, she desired to see him, and one day, having adorned herself, she came to the gambling hall and stood among her attendants, looking at him.
Nghe vậy, nàng muốn gặp ngài, một hôm trang điểm lộng lẫy, đến chỗ đánh bạc, đứng giữa các thị nữ mà nhìn ngài.
Sopi deviṃ olokesi.
He also looked at the queen.
Ngài cũng nhìn hoàng hậu.
Dvepi aññamaññaṃ paṭibaddhacittā ahesuṃ.
Both were mutually infatuated.
Cả hai đều bị cuốn hút bởi nhau.
Supaṇṇarājā attano ānubhāvena nagare vātaṃ samuṭṭhāpesi, gehapatanabhayena rājanivesanā manussā nikkhamiṃsu.
The Supaṇṇa king, by his own power, caused a wind to arise in the city, and people departed from the royal palace out of fear of houses falling.
Vua Supaṇṇa dùng thần thông của mình tạo ra một cơn gió trong thành phố; mọi người trong cung điện đều chạy ra ngoài vì sợ nhà sập.
So attano ānubhāvena andhakāraṃ katvā deviṃ gahetvā ākāsena āgantvā nāgadīpe attano bhavanaṃ pāvisi suyonandiyā gataṭṭhānaṃ jānantā nāma nāhesuṃ.
He, by his own power, created darkness, and taking the queen, came through the sky and entered his own abode on Nāga Island; no one knew where Suyonandī had gone.
Ngài dùng thần thông của mình tạo ra bóng tối, mang hoàng hậu đi trên không trung, rồi đến cung điện của mình trên đảo Nāga; không ai biết Suyonandī đã đi đâu.
So tāya saddhiṃ abhiramamāno gantvā raññā saddhiṃ jūtaṃ kīḷati.
He, delighting with her, went and played dice with the king.
Ngài vui vẻ với nàng, rồi lại đi đánh bạc với vua.
1517
Rañño pana saggo nāma gandhabbo atthi, so deviyā gataṭṭhānaṃ ajānanto taṃ gandhabbaṃ āmantetvā ‘‘gaccha, tāta, gandhabba sabbaṃ thalajalapathaṃ anuvicaritvā deviyā gataṭṭhānaṃ passā’’ti uyyojesi.
Now, the king had a gandhabba named Sagga. Not knowing where the queen had gone, he summoned that gandhabba and sent him forth, saying, “Go, dear gandhabba, search all land and water routes and find where the queen has gone.”
Vua có một nhạc công tên là Sagga, không biết hoàng hậu đã đi đâu, bèn gọi nhạc công ấy lại và sai: “Này con, nhạc công, hãy đi khắp các đường bộ và đường thủy để tìm xem hoàng hậu đã đi đâu.”
So paribbayaṃ gahetvā dvāragāmato paṭṭhāya vicinanto kurukacchaṃ pāpuṇi.
He took provisions and, searching from the village gate onwards, reached Kurukaccha.
Anh ta lấy chi phí đi đường, bắt đầu tìm kiếm từ làng cửa ngõ, rồi đến Kurukaccha.
Tadā kurukacchavāṇijā nāvāya suvaṇṇabhūmiṃ gacchanti.
At that time, merchants from Kurukaccha were going to Suvaṇṇabhūmi by ship.
Khi ấy, các thương nhân Kurukaccha đang đi thuyền đến Suvaṇṇabhūmi.
So te upasaṅkamitvā ‘‘ahaṃ gandhabbo nāvāya vetanaṃ khaṇḍetvā tumhākaṃ gandhabbaṃ karissāmi, mampi nethā’’ti āha.
He approached them and said, “I am a gandhabba. I will play music for you in exchange for passage on your ship; take me too.”
Anh ta đến gặp họ và nói: “Tôi là một nhạc công, tôi sẽ làm nhạc công cho quý vị để trừ tiền thuê thuyền, xin hãy đưa tôi đi.”
Te ‘‘sādhū’’ti tampi āropetvā nāvaṃ vissajjesuṃ.
They said, “Very well,” and taking him aboard, they launched the ship.
Họ nói “Được thôi,” rồi cũng cho anh ta lên thuyền và khởi hành.
Te sukhapayātāya nāvāya taṃ pakkositvā ‘‘gandhabbaṃ no karohī’’ti āhaṃsu.
As the ship sailed smoothly, they called him and said, “Play music for us!”
Khi thuyền đi êm ả, họ gọi anh ta lại và nói: “Hãy đàn cho chúng tôi nghe đi, nhạc công.”
‘‘Ahaṃ ce gandhabbaṃ kareyyaṃ, mayi pana gandhabbaṃ karonte macchā calissanti, atha vo nāvo bhijjissatī’’ti.
“If I were to play music, while I am playing, the fish would stir, and then your ship would break.”
Anh ta nói: “Nếu tôi đàn, khi tôi đàn thì cá sẽ động, và thuyền của quý vị sẽ bị vỡ.”
‘‘Manussamatte gandhabbaṃ karonte macchānaṃ calanaṃ nāma natthi, karohī’’ti.
“When a mere human plays music, there is no stirring of fish. Play!”
Họ nói: “Khi một người bình thường đàn thì cá không động đâu, cứ đàn đi.”
‘‘Tena hi mā mayhaṃ kujjhitthā’’ti vīṇaṃ mucchitvā tantissarena gītassaraṃ, gītassarena tantissaraṃ anatikkamitvā gandhabbaṃ akāsi.
“Then do not be angry with me,” he said, and tuning his lute, he played music, with the sound of the strings not exceeding the sound of the song, and the sound of the song not exceeding the sound of the strings.
Anh ta nói: “Vậy thì đừng giận tôi nhé,” rồi chỉnh đàn vīṇā, đàn nhạc mà không để tiếng đàn vượt quá tiếng hát, và tiếng hát không vượt quá tiếng đàn.
Tena saddena sammattā hutvā macchā caliṃsu.
Intoxicated by that sound, the fish stirred.
Do tiếng nhạc ấy, cá bị mê hoặc và động đậy.
1518
Atheko makaro uppatitvā nāvāya patanto nāvaṃ bhindi.
Then a makara leapt up and, falling onto the ship, broke the ship.
Rồi một con cá sấu nhảy lên, rơi xuống thuyền và làm vỡ thuyền.
Saggo phalake nipajjitvā yathāvātaṃ gacchanto nāgadīpe supaṇṇabhavanassa nigrodharukkhassa santikaṃ pāpuṇi.
Sagga lay on a plank and, drifting with the wind, reached the vicinity of the banyan tree at the Supaṇṇa king’s abode on Nāga Island.
Sagga nằm trên một tấm ván, trôi theo gió, đến gần cây đa ở cung điện Supaṇṇa trên đảo Nāga.
Suyonandīpi devī supaṇṇarājassa jūtaṃ kīḷituṃ gatakāle vimānā otaritvā velante vicarantī saggaṃ gandhabbaṃ disvā sañjānitvā ‘‘kathaṃ āgatosī’’ti pucchi.
Queen Suyonandī, when the Supaṇṇa king had gone to play dice, descended from the celestial mansion and, walking along the shore, saw Sagga the gandhabba, recognized him, and asked, “How did you come here?”
Hoàng hậu Suyonandī, khi vua Supaṇṇa đi đánh bạc, cũng từ cung điện đi xuống, đi dạo dọc bờ biển, thấy nhạc công Sagga, nhận ra anh ta và hỏi: “Sao anh lại đến đây?”
So sabbaṃ kathesi.
He told her everything.
Anh ta kể lại tất cả.
‘‘Tena hi mā bhāyī’’ti taṃ assāsetvā bāhāhi pariggahetvā vimānaṃ āropetvā sayanapiṭṭhe nipajjāpetvā samassatthakāle dibbabhojanaṃ datvā dibbagandhodakena nhāpetvā dibbavatthehi acchādetvā dibbagandhapupphehi alaṅkaritvā puna dibbasayane nipajjāpesi.
“Then do not fear,” she said, comforting him, embracing him with her arms, taking him up to the mansion, making him lie on the couch, and when he was rested, she gave him divine food, bathed him with divine perfumed water, clothed him in divine garments, adorned him with divine perfumes and flowers, and again made him lie on the divine couch.
“Vậy thì đừng sợ,” nàng an ủi anh ta, vòng tay ôm lấy, đưa lên cung điện, đặt nằm trên giường, khi anh ta đã bình tĩnh, nàng cho ăn thức ăn của chư thiên, tắm bằng nước thơm của chư thiên, khoác cho y phục của chư thiên, trang điểm bằng hương và hoa của chư thiên, rồi lại đặt nằm trên giường của chư thiên.
Evaṃ divasaṃ pariggahamānā supaṇṇarañño āgamanavelāya paṭicchādetvā gatakāle tena saddhiṃ kilesavasena abhirami.
Thus, taking care of him for a day, at the time of the Supaṇṇa king’s return, she concealed him, and when the king had gone, she delighted with him due to defilement.
Cứ thế, nàng che giấu anh ta suốt cả ngày, và khi vua Supaṇṇa trở về, nàng vui vẻ với vua theo dục vọng.
Tato māsaddhamāsaccayena bārāṇasivāsino vāṇijā dārudakagahaṇatthāya tasmiṃ dīpe nigrodharukkhamūlaṃ sampattā.
Then, after a month or half a month, merchants from Bārāṇasī arrived at the foot of the banyan tree on that island to gather wood and water.
Sau một tháng rưỡi, các thương nhân cư dân Bārāṇasī đến gốc cây đa trên đảo đó để lấy củi và nước.
So tehi saddhiṃ nāvaṃ abhiruyha bārāṇasiṃ gantvā rājānaṃ disvāva tassa jūtakīḷanavelāya vīṇaṃ gahetvā rañño gandhabbaṃ karonto paṭhamaṃ gāthamāha –
He boarded the ship with them, went to Bārāṇasī, and as soon as he saw the king, at the time of his dice game, he took his lute and, playing music for the king, first spoke this verse:
Anh ta cùng họ lên thuyền, đến Bārāṇasī, vừa thấy vua, vào lúc vua đang đánh bạc, anh ta cầm đàn vīṇā, đàn nhạc cho vua nghe và nói câu kệ đầu tiên –
1519
55.
55.
55.
1520
‘‘Vāti gandho timirānaṃ, kusamuddo ca ghosavā;
“The fragrance of timira trees wafts, and the small sea is noisy;
“Hương timira thoảng bay, biển nhỏ ồn ào;
1521
Dūre ito suyonandī, tamba kāmā tudanti ma’’nti.
Far from here is Suyonandī, O King, desires pierce me.”
Cách xa nơi đây, Suyonandī, Tamba ơi, dục vọng hành hạ tôi.”
1522
Tattha timirānanti timirarukkhapupphānaṃ.
Here, timirānaṃ means of the flowers of the timira trees.
Ở đây, timirāna nghĩa là của hoa cây timira.
Taṃ kira nigrodhaṃ parivāretvā timirarukkhā atthi, te sandhāyevaṃ vadati.
It is said that there are timira trees surrounding that banyan tree, and he speaks thus referring to them.
Quả thật, có những cây timira bao quanh cây đa đó, lời nói này ám chỉ chúng.
Kusamuddoti khuddakasamuddo.
Kusamuddo means a small sea.
Kusamuddo là biển nhỏ.
Ghosavāti mahāravo.
Ghosavā means having a great roar.
Ghosavā là tiếng động lớn.
Tasseva nigrodhassa santike samuddaṃ sandhāyevamāha.
He speaks thus referring to the sea near that very banyan tree.
Lời này ám chỉ biển gần cây đa đó.
Itoti imamhā nagarā.
Ito means from this city.
Ito là từ thành phố này.
Tambāti rājānaṃ ālapati.
Tambā addresses the king.
Tambā là gọi vua.
Atha vā tambakāmāti tambena kāmitakāmā tambakāmā nāma.
Alternatively, tambakāmā means desires longed for by the king.
Hoặc tambakāmā nghĩa là những dục vọng được Tamba mong muốn.
Te maṃ hadaye vijjhantīti dīpeti.
It reveals that they pierce his heart.
Lời này cho thấy chúng đâm vào tim tôi.
1523
Taṃ sutvā supaṇṇo dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, Supaṇṇa spoke the second verse:
Nghe vậy, Supaṇṇa nói câu kệ thứ hai –
1524
56.
56.
56.
1525
‘‘Kathaṃ samuddamatari, kathaṃ addakkhi sedumaṃ;
“How did you cross the sea? How did you see that island?
“Làm sao vượt biển cả, làm sao thấy Seduma;
1526
Kathaṃ tassā ca tuyhañca, ahu sagga samāgamo’’ti.
How did your meeting with her, O Sagga, come about?”
Làm sao giữa nàng và ngươi, Sagga, có sự gặp gỡ?”
1527
Tattha sedumanti sedumadīpaṃ.
Here, sedumaṃ means the Seduma Island.
Ở đây, seduma là đảo Seduma.
1528
Tato saggo tisso gāthā abhāsi –
Then Sagga spoke three verses:
Rồi Sagga nói ba câu kệ –
1529
57.
57.
57.
1530
‘‘Kurukacchā payātānaṃ, vāṇijānaṃ dhanesinaṃ;
“For the merchants seeking wealth, who had departed from Kurukaccha,
“Thuyền của các thương nhân, đi từ Kurukaccha, tìm kiếm tài sản;
1531
Makarehi abhidā nāvā, phalakenāhamaplaviṃ.
The ship was broken by makaras, and I drifted on a plank.
Bị cá sấu đâm vỡ, tôi trôi dạt trên tấm ván.”
1532
58.
58.
58.
1533
‘‘Sā maṃ saṇhena mudunā, niccaṃ candanagandhinī;
“She, with her soft and gentle (body), ever fragrant with sandalwood;
“Nàng dịu dàng, mềm mại, luôn tỏa hương đàn hương;
1534
Aṅgena uddharī bhaddā, mātā puttaṃva orasaṃ.
The beautiful one lifted me with her body, like a mother her own son.
Nàng đẹp đẽ, nâng tôi bằng thân thể, như mẹ nâng con ruột.”
1535
59.
59.
59.
1536
‘‘Sā maṃ annena pānena, vatthena sayanena ca;
“She, with food and drink, with clothes and bedding;
“Nàng đã ban cho tôi thức ăn, đồ uống, y phục và giường nằm;
1537
Attanāpi ca mandakkhī, evaṃ tamba vijānahī’’ti.
And with herself, the soft-eyed one, thus, O Tamba, know this.”
Và cả chính nàng, hỡi người mắt đẹp, Tamba, hãy biết như vậy.”
1538
Tattha sā maṃ saṇhena mudunāti evaṃ phalakena tīraṃ uttiṇṇaṃ maṃ samuddatīre vicarantī sā disvā ‘‘mā bhāyī’’ti saṇhena mudunā vacanena samassāsetvāti attho.
There, she, with her soft and gentle (body) means: having seen me, who had thus landed on the shore by means of the plank, wandering on the seashore, she comforted me with soft and gentle words, saying, “Do not be afraid.”
Ở đây, sā maṃ saṇhena mudunā nghĩa là: tôi trôi dạt vào bờ trên tấm ván như vậy, nàng thấy tôi đi dạo trên bờ biển, nói lời dịu dàng, mềm mại “đừng sợ” để an ủi tôi.
Aṅgenāti bāhuyugaḷaṃ idha ‘‘aṅgenā’’ti vuttaṃ.
With her body (Aṅgena) here refers to the pair of arms.
Aṅgenā ở đây được nói là đôi tay.
Bhaddāti dassanīyā pāsādikā.
Beautiful (Bhaddā) means lovely and charming.
Bhaddā là đáng chiêm ngưỡng, dễ thương.
Sā maṃ annenāti sā maṃ etena annādinā santappesīti attho.
She, with food (Sā maṃ annenā) means: she satisfied me with this food and so on.
Sā maṃ annenā nghĩa là nàng đã làm tôi hài lòng bằng thức ăn, v.v.
Attanāpi cāti na kevalaṃ annādīheva, attanāpi maṃ abhiramentī santappesīti dīpeti.
And with herself (Attanāpi cā) indicates that she satisfied me not only with food and so on, but also by delighting me with herself.
Attanāpi cā cho thấy không chỉ bằng thức ăn, v.v., mà còn bằng chính nàng đã làm tôi vui thích và hài lòng.
Mandakkhīti mandadassanī, mudunā ākārena olokanasīlāti vuttaṃ hoti.
Soft-eyed (Mandakkhī) means soft-gazed, it is said that she was in the habit of looking with a gentle demeanor.
Mandakkhī là người có cái nhìn dịu dàng, nghĩa là có thói quen nhìn bằng vẻ mềm mại.
‘‘Mattakkhī’’tipi pāṭho, madamattehi viya akkhīhi samannāgatāti attho.
“Mattakkhī” (intoxicated-eyed) is also a reading, meaning: endowed with eyes as if intoxicated.
Cũng có bản đọc là “Mattakkhī”, nghĩa là người có đôi mắt như say sưa.
Evaṃ tambāti evaṃ tambarāja jānāhīti.
Thus, O Tamba (Evaṃ tambā) means: thus, O King Tamba, know this.
Evaṃ tambā là “Hỡi vua Tamba, hãy biết như vậy.”
1539
Supaṇṇo gandhabbassa kathentasseva vippaṭisārī hutvā ‘‘ahaṃ supaṇṇabhavane vasantopi rakkhituṃ nāsakkhiṃ, kiṃ me tāya dussīlāyā’’ti taṃ ānetvā rañño paṭidatvā pakkāmi, tato paṭṭhāya puna nāgacchīti.
While the Supaṇṇa was speaking to the Gandhabba, he became remorseful, thinking, “Though dwelling in the Supaṇṇa realm, I could not protect her. What is she to me, that unvirtuous one?” So, he brought her back, returned her to the king, and departed, never to return again from that time onward.
Supaṇṇa, khi nhạc công đang kể, cảm thấy hối hận: “Ta sống trong cung điện Supaṇṇa mà còn không thể bảo vệ được nàng, vậy thì nàng bất tịnh đó có ích gì cho ta?” rồi đưa nàng về trả lại cho vua, sau đó bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa.
1540
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, revealed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư sau khi thuyết pháp thoại này, công bố các Chân lý và kết hợp câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị tỳ khưu chán nản đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
Tadā rājā ānando ahosi, supaṇṇarājā pana ahameva ahosinti.
At that time, the king was Ānanda, and the Supaṇṇa king was I myself.
Khi ấy, vua là Ānanda, còn vua Supaṇṇa chính là Ta vậy.
1541
Suyonandījātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth Story, the Suyonandī Jātaka.
Chú giải truyện Jātaka Suyonandī thứ mười.
1542
Maṇikuṇḍalavaggo paṭhamo.
The first chapter, Maṇikuṇḍala Vagga.
Chương Maṇikuṇḍala thứ nhất.
Next Page →