Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-2

Edit
4

2. Dukanipāto

2. The Book of the Twos

2. Tập Hai Pháp

5

1. Daḷhavaggo

1. The Daḷha Chapter

1. Phẩm Daḷha

6
* 1. Rājovādajātakavaṇṇanā
* 1. The Story of the Rājovāda Jātaka
1. Chú Giải Jātaka Rājovāda
7
Daḷhaṃ daḷhassa khipatīti idaṃ satthā jetavane viharanto rājovādaṃ ārabbha kathesi.
“He throws the strong at the strong”—this the Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke concerning the royal advice.
“Daḷhaṃ daḷhassa khipati” – Câu này, Đức Đạo Sư đã thuyết tại Jetavana, nhân việc khuyên dạy nhà vua.
So tesakuṇajātake (jā. 2.17.1 ādayo) āvi bhavissati.
That will become manifest in the Tesakuṇa Jātaka.
Lời khuyên dạy ấy sẽ được trình bày rõ trong Jātaka Tesakuṇa.
Ekasmiṃ pana divase kosalarājā ekaṃ agatigataṃ dubbinicchayaṃ aḍḍaṃ vinicchinitvā bhuttapātarāso allahatthova alaṅkatarathaṃ abhiruyha satthu santikaṃ gantvā phullapadumasassirikesu pādesu nipatitvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Now, one day, King Pasenadi of Kosala, after deciding a difficult and improper case, had eaten his breakfast, and with hands still wet, mounted a decorated chariot and went to the Teacher’s presence. He prostrated himself at the Teacher’s feet, which were as radiant as blooming lotuses, paid homage to the Teacher, and sat down to one side.
Một hôm nọ, vua Kosala đã phân xử một vụ án khó đoán, không thể phán quyết ngay, sau khi phán quyết xong và dùng bữa sáng, với bàn tay còn ướt, nhà vua liền ngự lên cỗ xe được trang hoàng lộng lẫy, đến yết kiến Đức Đạo Sư, phủ phục dưới chân Ngài, đảnh lễ Đức Đạo Sư rồi ngồi xuống một bên.
Atha naṃ satthā etadavoca – ‘‘handa kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divā divassā’’ti.
Then the Teacher said to him, “Well, whence do you come, great king, so early in the day?”
Bấy giờ, Đức Đạo Sư hỏi nhà vua: “Này Đại vương, từ đâu mà ngài đến vào giữa ban ngày thế này?”
‘‘Bhante, ajja ekaṃ agatigataṃ dubbinicchayaṃ aḍḍaṃ vinicchinanto okāsaṃ alabhitvā idāni taṃ tīretvā bhuñjitvā allahatthova tumhākaṃ upaṭṭhānaṃ āgatomhī’’ti.
“Venerable Sir, today I was deciding a difficult and improper case, and not finding the opportunity, I have now concluded it, eaten, and with hands still wet, have come to attend upon you.”
“Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay, con đã phân xử một vụ án khó đoán, không thể phán quyết ngay, không có thời gian, bây giờ con vừa giải quyết xong vụ ấy, vừa dùng bữa xong, với bàn tay còn ướt, con liền đến yết kiến Đức Thế Tôn đây ạ.”
Satthā ‘‘mahārāja, dhammena samena aḍḍavinicchayaṃ nāma kusalaṃ, saggamaggo esa.
The Teacher said, “Great king, deciding a case righteously and fairly is indeed skillful; it is the path to heaven.
Đức Đạo Sư nói: “Này Đại vương, việc phân xử một vụ án theo Chánh Pháp và công bằng là điều thiện, là con đường dẫn đến cõi trời.
Anacchariyaṃ kho panetaṃ, yaṃ tumhe mādisassa sabbaññubuddhassa santikā ovādaṃ labhamānā dhammena samena aḍḍaṃ vinicchineyyātha.
It is not surprising that you, receiving advice from a Perfectly Self-Enlightened Buddha like me, should decide cases righteously and fairly.
Thật không có gì lạ khi các ngài, nhận được lời khuyên từ một vị Phật Toàn Giác như Ta, lại phân xử các vụ án theo Chánh Pháp và công bằng.
Etadeva acchariyaṃ, yaṃ pubbe rājāno asabbaññūnampi paṇḍitānaṃ vacanaṃ sutvā dhammena samena aḍḍaṃ vinicchinantā cattāri agatigamanāni vajjetvā dasa rājadhamme akopetvā dhammena rajjaṃ kāretvā saggapuraṃ pūrayamānā agamiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
What is truly amazing is that in the past, kings, even though not omniscient, listened to the words of the wise, decided cases righteously and fairly, avoided the four wrong paths, upheld the ten royal virtues without deviation, ruled righteously, and filled the city of heaven as they departed.” Having said this, being requested by the king, he related a past event.
Điều đáng ngạc nhiên là các vị vua thời xưa, dù không phải là bậc Toàn Giác, nhưng đã nghe lời các bậc hiền trí, phân xử các vụ án theo Chánh Pháp và công bằng, tránh xa bốn nẻo đường bất thiện (agati), không vi phạm mười Pháp vương, cai trị đất nước theo Chánh Pháp và điền đầy cõi trời.” Sau khi nói vậy, Đức Đạo Sư được nhà vua thỉnh cầu, liền kể lại câu chuyện quá khứ.
8
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gahetvā laddhagabbhaparihāro sotthinā mātukucchimhā nikkhami.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta took conception in the womb of his chief queen. After receiving due care in the womb, he emerged safely from his mother’s womb.
Thuở xa xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sanh vào thai của vị hoàng hậu của nhà vua, được bảo vệ trong thai, rồi an toàn ra khỏi bụng mẹ.
Nāmaggahaṇadivase panassa ‘‘brahmadattakumāro’’tveva nāmaṃ akaṃsu.
On the day of his naming ceremony, he was named ‘Prince Brahmadatta’.
Vào ngày đặt tên, Ngài được gọi là “Hoàng tử Brahmadatta”.
So anupubbena vayappatto soḷasavassakāle takkasilaṃ gantvā sabbasippesu nipphattiṃ patvā pitu accayena rajje patiṭṭhāya dhammena samena rajjaṃ kāresi, chandādivasena agantvā vinicchayaṃ anusāsi.
He gradually grew up and, at the age of sixteen, went to Takkasilā, mastered all arts, and upon his father’s demise, established himself in kingship. He ruled righteously and fairly, and he administered justice without being swayed by partiality and so on.
Dần dần lớn lên, khi đến tuổi mười sáu, Ngài đến Takkasilā, thành thạo tất cả các nghề, và sau khi phụ vương băng hà, Ngài lên ngôi, trị vì đất nước theo Chánh Pháp và công bằng, không theo những con đường bất thiện như dục vọng, và hướng dẫn việc xét xử.
Tasmiṃ evaṃ dhammena rajjaṃ kārente amaccāpi dhammeneva vohāraṃ vinicchiniṃsu.
While he was ruling righteously in this manner, his ministers also decided cases righteously.
Khi Ngài trị vì đất nước theo Chánh Pháp như vậy, các vị quan cũng phân xử các vụ án theo Chánh Pháp.
Vohāresu dhammena vinicchayamānesu kūṭaḍḍakārakā nāma nāhesuṃ, tesaṃ abhāvā aḍḍatthāya rājaṅgaṇe uparavo pacchijji.
As cases were decided righteously, there were no fraudulent litigants, and due to their absence, the clamor in the royal courtyard for legal disputes ceased.
Khi các vụ án được phân xử theo Chánh Pháp, không còn những kẻ gian lận trong việc kiện tụng, và do không có họ, tiếng ồn ào tại sân triều đình vì các vụ kiện đã chấm dứt.
Amaccā divasampi vinicchayaṭṭhāne nisīditvā kañci vinicchayatthāya āgacchantaṃ adisvā uṭṭhāya pakkamanti, vinicchayaṭṭhānaṃ chaḍḍetabbabhāvaṃ pāpuṇi.
The ministers would sit in the judgment hall all day, and seeing no one coming for a dispute, they would rise and depart, and the judgment hall became neglected.
Các vị quan, sau khi ngồi ở nơi xét xử cả ngày mà không thấy ai đến để xét xử, liền đứng dậy ra về, và nơi xét xử trở nên bị bỏ hoang.
9
Bodhisatto cintesi – ‘‘mayi dhammena rajjaṃ kārente vinicchayaṭṭhānaṃ āgacchantā nāma natthi, uparavo pacchijji, vinicchayaṭṭhānaṃ chaḍḍetabbabhāvaṃ pattaṃ, idāni mayā attano aguṇaṃ pariyesituṃ vaṭṭati ‘ayaṃ nāma me aguṇo’ti sutvā taṃ pahāya guṇesuyeva vattissāmī’’ti.
The Bodhisatta reflected, “While I rule righteously, no one comes to the judgment hall; the clamor has ceased, and the judgment hall has become neglected. Now I should seek out my own faults, and having heard ‘this is my fault,’ I will abandon it and practice only virtues.”
Bồ Tát suy nghĩ: “Khi ta trị vì đất nước theo Chánh Pháp, không có ai đến nơi xét xử, tiếng ồn ào đã chấm dứt, nơi xét xử đã trở nên bị bỏ hoang. Bây giờ ta phải tìm kiếm khuyết điểm của mình. Sau khi nghe ‘Đây là khuyết điểm của ta’, ta sẽ từ bỏ nó và chỉ hành xử theo các đức tính tốt.”
Tato paṭṭhāya ‘‘atthi nu kho me koci aguṇavādī’’ti pariggaṇhanto antovaḷañjakānaṃ antare kañci aguṇavādiṃ adisvā attano guṇakathameva sutvā ‘‘ete mayhaṃ bhayenāpi aguṇaṃ avatvā guṇameva vadeyyu’’nti bahivaḷañjanake pariggaṇhanto tatthāpi adisvā antonagare pariggaṇhi.
From then on, he began to search, “Is there anyone who speaks ill of me?” He found no one speaking ill among those within the palace, hearing only praise for his virtues. Thinking, “These people might speak only praise out of fear of me,” he searched among those outside the palace, but found no one there either. Then he searched within the city.
Từ đó trở đi, Ngài tìm kiếm xem “có ai nói xấu ta không?”, nhưng không tìm thấy ai nói xấu trong số những người hầu cận bên trong cung điện, mà chỉ nghe những lời ca ngợi đức hạnh của mình. Ngài nghĩ: “Những người này có thể nói tốt vì sợ ta, không nói xấu ta.” Thế là Ngài tìm kiếm trong số những người hầu cận bên ngoài, nhưng cũng không tìm thấy ai nói xấu. Rồi Ngài tìm kiếm trong nội thành.
Bahinagare catūsu dvāresu catugāmake pariggaṇhi.
Outside the city, he searched in the four villages at the four gates.
Ngài tìm kiếm ở ngoại thành, tại bốn cổng thành và bốn làng.
Tatthāpi kañci aguṇavādiṃ adisvā attano guṇakathameva sutvā ‘‘janapadaṃ pariggaṇhissāmī’’ti amacce rajjaṃ paṭicchāpetvā rathaṃ āruyha sārathimeva gahetvā aññātakavesena nagarā nikkhamitvā janapadaṃ pariggaṇhamāno yāva paccantabhūmiṃ gantvā kañci aguṇavādiṃ adisvā attano guṇakathameva sutvā paccantasīmato mahāmaggena nagarābhimukhoyeva nivatti.
Even there, he found no one speaking ill of him, hearing only praise for his virtues. He thought, “I will search the countryside.” So, entrusting the kingdom to his ministers, he mounted a chariot, taking only his charioteer, and left the city in disguise. He searched the countryside, going as far as the borderland, but found no one speaking ill of him, hearing only praise for his virtues. He then returned towards the city along the main road from the border.
Ở đó, Ngài cũng không tìm thấy ai nói xấu, mà chỉ nghe những lời ca ngợi đức hạnh của mình. Ngài nghĩ: “Ta sẽ đi tìm kiếm ở các vùng nông thôn.” Thế là Ngài giao lại việc cai trị cho các vị quan, rồi ngự lên xe, chỉ mang theo người đánh xe, cải trang thành người thường, rời khỏi thành phố, đi khắp các vùng nông thôn cho đến vùng biên giới. Ngài cũng không tìm thấy ai nói xấu, mà chỉ nghe những lời ca ngợi đức hạnh của mình. Từ vùng biên giới, Ngài trở về thành phố theo con đường lớn.
10
Tasmiṃ pana kāle balliko nāma kosalarājāpi dhammena rajjaṃ kārento aguṇakathaṃ gavesanto hutvā antovaḷañjakādīsu aguṇavādiṃ adisvā attano guṇakathameva sutvā janapadaṃ pariggaṇhanto taṃ padesaṃ agamāsi.
At that time, King Ballika of Kosala, ruling his kingdom righteously, sought for any criticism of his faults, but finding no one speaking ill of him among those serving inside the palace, and hearing only praise for himself, he then surveyed the countryside and arrived at that place.
Vào thời điểm đó, vua Kosala tên Ballika cũng đang trị vì đất nước theo Chánh Pháp và tìm kiếm những lời nói xấu về mình. Ngài cũng không tìm thấy ai nói xấu trong số những người hầu cận bên trong và bên ngoài, mà chỉ nghe những lời ca ngợi đức hạnh của mình. Ngài cũng đi khắp các vùng nông thôn và đến vùng đất đó.
Te ubhopi ekasmiṃ ninnaṭṭhāne sakaṭamagge abhimukhā ahesuṃ, rathassa ukkamanaṭṭhānaṃ natthi.
Both of them met face to face on a cart track in a low-lying spot; there was no place for a chariot to turn aside.
Cả hai vị vua đều gặp nhau trên một con đường xe ngựa tại một chỗ trũng, không có chỗ cho xe tránh nhau.
Atha ballikarañño sārathi bārāṇasirañño sārathiṃ ‘‘tava rathaṃ ukkamāpehī’’ti āha.
Then King Ballika’s charioteer said to King Bārāṇasī’s charioteer, ‘‘Turn your chariot aside!’’
Bấy giờ, người đánh xe của vua Ballika nói với người đánh xe của vua Bārāṇasī: “Hãy nhường đường cho xe của ngươi đi!”
Sopi ‘‘ambho sārathi, tava rathaṃ ukkamāpehi, imasmiṃ rathe bārāṇasirajjasāmiko brahmadattamahārājā nisinno’’ti āha.
He replied, ‘‘O charioteer, turn your chariot aside, for King Brahmadatta, the lord of the Bārāṇasī kingdom, is seated in this chariot.’’
Người đánh xe kia cũng nói: “Này người đánh xe, hãy nhường đường cho xe của ngươi đi! Trên cỗ xe này có Đại vương Brahmadatta, chủ nhân của vương quốc Bārāṇasī đang ngự.”
Itaropi naṃ ‘‘ambho sārathi, imasmiṃ rathe kosalarajjasāmiko ballikamahārājā nisinno, tava rathaṃ ukkamāpetvā amhākaṃ rañño rathassa okāsaṃ dehī’’ti āha.
The other (charioteer) said to him, ‘‘O charioteer, King Ballika, the lord of the Kosala kingdom, is seated in this chariot. Turn your chariot aside and make way for our king’s chariot!’’
Người đánh xe kia cũng nói với người đánh xe của vua Bārāṇasī: “Này người đánh xe, trên cỗ xe này có Đại vương Ballika, chủ nhân của vương quốc Kosala đang ngự. Hãy nhường đường cho xe của ngươi đi và nhường chỗ cho xe của vua chúng ta!”
Bārāṇasirañño sārathi ‘‘ayampi kira rājāyeva, kiṃ nu kho kātabba’’nti cintento ‘‘attheso upāyo’’ti vayaṃ pucchitvā ‘‘daharassa rathaṃ ukkamāpetvā mahallakassa okāsaṃ dāpessāmī’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā taṃ sārathiṃ kosalarañño vayaṃ pucchitvā pariggaṇhanto ubhinnampi samānavayabhāvaṃ ñatvā rajjaparimāṇaṃ balaṃ dhanaṃ yasaṃ jātiṃ gottaṃ kulapadesanti sabbaṃ pucchitvā ‘‘ubhopi tiyojanasatikassa rajjassa sāmino samānabaladhanayasajātigottakulapadesā’’ti ñatvā ‘‘sīlavantassa okāsaṃ dassāmī’’ti cintetvā ‘‘bho sārathi, tumhākaṃ rañño sīlācāro kīdiso’’ti pucchi.
King Bārāṇasī’s charioteer, thinking, ‘‘This one is also a king, what should be done?’’ and then, considering, ‘‘There is this method,’’ decided, ‘‘I will ask about their age, and have the younger one’s chariot turn aside to make way for the elder.’’ Having asked that charioteer about the Kosala king’s age, and upon investigating, he learned that both were of the same age. Then, having inquired about the extent of their kingdoms, their military strength, wealth, fame, birth, clan, and family lineage, and knowing that ‘‘both are lords of kingdoms three hundred yojanas in extent, and possess equal military strength, wealth, fame, birth, clan, and family lineage,’’ he thought, ‘‘I shall make way for the virtuous one.’’ He then asked, ‘‘O charioteer, what kind of moral conduct does your king possess?’’
Người đánh xe của vua Bārāṇasī suy nghĩ: “Vị này cũng là vua sao? Vậy phải làm gì đây?” Rồi nghĩ: “Có một cách này,” liền hỏi về tuổi tác. “Ta sẽ nhường đường cho xe của người trẻ tuổi và nhường chỗ cho người lớn tuổi.” Sau khi quyết định như vậy, người đánh xe của vua Bārāṇasī hỏi tuổi của vua Kosala thông qua người đánh xe của Ngài. Sau khi tìm hiểu và biết rằng cả hai vị vua đều cùng tuổi, người đánh xe của vua Bārāṇasī liền hỏi về quy mô vương quốc, sức mạnh, tài sản, danh tiếng, dòng dõi, gia tộc, và địa vị. Sau khi biết rằng “cả hai vị vua đều là chủ nhân của vương quốc rộng ba trăm dojana, có cùng sức mạnh, tài sản, danh tiếng, dòng dõi, gia tộc và địa vị,” người đánh xe của vua Bārāṇasī nghĩ: “Ta sẽ nhường đường cho vị có giới hạnh.” Thế là người đánh xe của vua Bārāṇasī hỏi: “Này người đánh xe, giới hạnh của vua các ngươi như thế nào?”
So ‘‘ayañca ayañca amhākaṃ rañño sīlācāro’’ti attano rañño aguṇameva guṇato pakāsento paṭhamaṃ gāthamāha –
That charioteer, proclaiming his own king’s faults as virtues, first uttered this verse:
Người đánh xe kia liền nói lên câu kệ đầu tiên, trình bày những khuyết điểm của vua mình như là đức tính tốt: “Giới hạnh của vua chúng ta là như thế này, như thế này.”
11
1.
1.
1.
12
‘‘Daḷhaṃ daḷhassa khipati, balliko mudunā muduṃ;
‘‘Ballika strikes the harsh with harshness, and the gentle with gentleness;
“Đối với kẻ cứng rắn, Ballika trừng trị cứng rắn;
13
Sādhumpi sādhunā jeti, asādhumpi asādhunā;
He conquers the good with good, and the bad with bad;
Đối với kẻ mềm mỏng, Ngài đối xử mềm mỏng. Ngài chiến thắng kẻ thiện bằng sự thiện;
14
Etādiso ayaṃ rājā, maggā uyyāhi sārathī’’ti.
Such is this king. O charioteer, turn aside from the path!’’
Ngài chiến thắng kẻ ác bằng sự ác. Vua chúng tôi là như vậy, này người đánh xe, hãy tránh đường!”
15
Tattha daḷhaṃ daḷhassa khipatīti yo daḷho hoti balavadaḷhena pahārena vā vacanena vā jinitabbo, tassa daḷhameva pahāraṃ vā vacanaṃ vā khipati.
Here, daḷhaṃ daḷhassa khipati means that if one is harsh and to be conquered by a strong, harsh blow or word, he strikes with a harsh blow or word.
Trong đó, daḷhaṃ daḷhassa khipati có nghĩa là: Đối với kẻ cứng rắn, kẻ cần phải bị đánh bại bằng một đòn mạnh mẽ hoặc lời nói cứng rắn, thì Ngài giáng cho một đòn mạnh mẽ hoặc lời nói cứng rắn.
Evaṃ daḷhova hutvā taṃ jinātīti dasseti.
Thus, it shows that he, being harsh, conquers that person.
Như vậy, Ngài thể hiện rằng Ngài cứng rắn và chiến thắng kẻ đó.
Ballikoti tassa rañño nāmaṃ.
Balliko is the name of that king.
Balliko là tên của vị vua đó.
Mudunā mudunti mudupuggalaṃ sayampi mudu hutvā mudunāva upāyena jināti.
Mudunā muduṃ means he conquers a gentle person by being gentle himself and using a gentle approach.
Mudunā muduṃ có nghĩa là: Ngài chiến thắng người mềm mỏng bằng phương cách mềm mỏng, chính Ngài cũng mềm mỏng.
Sādhumpi sādhunā jetīti ye sādhū sappurisā, te sayampi sādhu hutvā sādhunāva upāyena jināti.
Sādhumpi sādhunā jeti means he conquers good, virtuous people by being good himself and using a good approach.
Sādhumpi sādhunā jeti có nghĩa là: Đối với những người thiện, những bậc chân nhân, chính Ngài cũng thiện và chiến thắng họ bằng phương cách thiện.
Asādhumpi asādhunāti ye pana asādhū, te sayampi asādhu hutvā asādhunāva upāyena jinātīti dasseti.
Asādhumpi asādhunā means he conquers those who are bad by being bad himself and using a bad approach.
Asādhumpi asādhunā có nghĩa là: Còn đối với những kẻ bất thiện, Ngài thể hiện rằng chính Ngài cũng bất thiện và chiến thắng họ bằng phương cách bất thiện.
Etādiso ayaṃ rājāti ayaṃ amhākaṃ kosalarājā sīlācārena evarūpo.
Etādiso ayaṃ rājā means this Kosala king of ours is of such a character in his moral conduct.
Etādiso ayaṃ rājā có nghĩa là: Vua Kosala của chúng ta có giới hạnh như vậy.
Maggā uyyāhi sārathīti attano rathaṃ maggā ukkamāpetvā uyyāhi, uppathena yāhi, amhākaṃ rañño maggaṃ dehīti vadati.
Maggā uyyāhi sārathī means, ‘‘O charioteer, turn your chariot aside from the main path, go by the side road, and give way to our king.’’
Maggā uyyāhi sārathī có nghĩa là: Này người đánh xe, hãy nhường đường cho xe của ngươi ra khỏi con đường chính, hãy đi đường phụ, hãy nhường đường cho vua chúng ta.
16
Atha naṃ bārāṇasirañño sārathi ‘‘ambho, kiṃ pana tayā attano rañño guṇakathā kathitā’’ti vatvā ‘‘āmā’’ti vutte ‘‘yadi pana ete guṇāti vadasi, aguṇā pana kīdisī’’ti vatvā ‘‘ete tāva aguṇā hontu, tumhākaṃ pana rañño kīdiso guṇo’’ti vutte ‘‘tena hi suṇāhī’’ti dutiyaṃ gāthamāha –
Then King Bārāṇasī’s charioteer said to him, ‘‘O, have you really spoken of your king’s virtues?’’ When he replied, ‘‘Yes,’’ the Bārāṇasī charioteer said, ‘‘If you call these virtues, then what are his faults?’’ When the Ballika king’s charioteer then asked, ‘‘Let those be faults for now, but what kind of virtue does your king possess?’’ The Bārāṇasī charioteer replied, ‘‘Then listen!’’ and uttered the second verse:
Bấy giờ, người đánh xe của vua Bārāṇasī hỏi: “Này ngươi, ngươi có phải đang nói về những đức tính tốt của vua ngươi không?” Khi người kia đáp: “Vâng, đúng vậy,” người đánh xe của vua Bārāṇasī nói: “Nếu ngươi nói đó là đức tính tốt, vậy thì khuyết điểm là gì?” Khi người kia hỏi lại: “Vậy thì đó là khuyết điểm đi, còn đức tính tốt của vua các ngươi là gì?” Người đánh xe của vua Bārāṇasī liền nói: “Vậy thì hãy nghe đây,” và nói lên câu kệ thứ hai:
17
2.
2.
2.
18
‘‘Akkodhena jine kodhaṃ, asādhuṃ sādhunā jine;
‘‘Let one conquer anger with non-anger, and the bad with good;
“Hãy chiến thắng sự phẫn nộ bằng sự vô phẫn nộ;
19
Jine kadariyaṃ dānena, saccenālikavādinaṃ;
Let one conquer the miserly with generosity, and the liar with truth;
Hãy chiến thắng kẻ bất thiện bằng sự thiện;
20
Etādiso ayaṃ rājā, maggā uyyāhi sārathī’’ti.
Such is this king. O charioteer, turn aside from the path!’’
Hãy chiến thắng kẻ keo kiệt bằng sự bố thí, kẻ nói dối bằng sự thật;
21
Tattha etādisoti etehi ‘‘akkodhena jine kodha’’ntiādivasena vuttehi guṇehi samannāgato.
Here, etādiso refers to one endowed with such virtues as stated in ‘‘Let one conquer anger with non-anger,’’ and so on.
Vua chúng tôi là như vậy, này người đánh xe, hãy tránh đường!”
Ayañhi kuddhaṃ puggalaṃ sayaṃ akkodho hutvā akkodhena jināti, asādhuṃ pana sayaṃ sādhu hutvā sādhunāva upāyena jināti, kadariyaṃ thaddhamacchariṃ sayaṃ dāyako hutvā dānena jināti.
Indeed, he conquers an angry person by being non-angry himself and using non-anger; he conquers a bad person by being good himself and using a good approach; he conquers a stingy, tight-fisted person by being a giver himself and using generosity.
Trong đó, etādiso có nghĩa là: được trang bị những đức tính như đã nói ở trên, bắt đầu từ “akkodhena jine kodhaṃ” (hãy chiến thắng sự phẫn nộ bằng sự vô phẫn nộ). Vị này chiến thắng người phẫn nộ bằng sự vô phẫn nộ, chính Ngài cũng không phẫn nộ. Ngài chiến thắng kẻ bất thiện bằng phương cách thiện, chính Ngài cũng thiện. Ngài chiến thắng kẻ keo kiệt, kẻ bủn xỉn bằng sự bố thí, chính Ngài cũng là người bố thí.
Saccenālikavādinanti musāvādiṃ sayaṃ saccavādī hutvā saccena jināti.
Saccenālikavādinaṃ means he conquers a liar by being truthful himself and using truth.
Saccenālikavādinaṃ có nghĩa là: Ngài chiến thắng kẻ nói dối bằng sự thật, chính Ngài cũng là người nói sự thật.
Maggā uyyāhi sārathīti, samma sārathi, maggato apagaccha.
Maggā uyyāhi sārathī means, ‘‘O charioteer, move away from the path.’’
Maggā uyyāhi sārathī có nghĩa là: Này người đánh xe, hãy tránh khỏi con đường.
Evaṃvidhasīlācāraguṇayuttassa amhākaṃ rañño maggaṃ dehi, amhākaṃ rājā maggassa anucchavikoti.
Give way to our king, who is endowed with such virtues of morality and conduct; our king is worthy of the path.
Hãy nhường đường cho vua chúng ta, người có những đức tính và giới hạnh như vậy, vua chúng ta xứng đáng với con đường này.
22
Evaṃ vutte ballikarājā ca sārathi ca ubhopi rathā otaritvā asse mocetvā rathaṃ apanetvā bārāṇasirañño maggaṃ adaṃsu.
When this was said, King Ballika and his charioteer both descended from their chariot, unhitched the horses, removed the chariot, and gave way to the King of Bārāṇasī.
Khi được nói như vậy, vua Ballika và người đánh xe, cả hai đều xuống khỏi xe, tháo ngựa ra, dẹp xe sang một bên và nhường đường cho vua Bārāṇasī.
Bārāṇasirājā ballikarañño ‘‘raññā nāma idañcidañca kātuṃ vaṭṭatī’’ti ovādaṃ datvā bārāṇasiṃ gantvā dānādīni puññāni katvā jīvitapariyosāne saggapuraṃ pūresi.
The King of Bārāṇasī, having advised King Ballika, saying, “A king should do this and that,” went to Bārāṇasī, performed meritorious deeds such as giving alms, and at the end of his life, filled the city of devas (heaven).
Vua Bārāṇasī, sau khi ban lời khuyên cho vua Ballika rằng: "Một vị vua nên làm điều này và điều kia," rồi trở về Bārāṇasī, thực hành các công đức như bố thí, và khi hết tuổi thọ, ngài đã làm đầy cõi trời.
Ballikarājāpi tassa ovādaṃ gahetvā janapadaṃ pariggahetvā attano aguṇavādiṃ adisvāva sakanagaraṃ gantvā dānādīni puññāni katvā jīvitapariyosāne saggapurameva pūresi.
King Ballika also took his advice, surveyed his territory, and, not finding anyone who spoke ill of him, went to his own city, performed meritorious deeds such as giving alms, and at the end of his life, filled the city of devas (heaven).
Vua Ballika cũng vậy, sau khi nhận lời khuyên của ngài, quản lý đất nước, không thấy ai nói xấu mình, rồi trở về thành phố của mình, thực hành các công đức như bố thí, và khi hết tuổi thọ, ngài cũng đã làm đầy cõi trời.
23
Satthā kosalarājassa ovādatthāya imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā ballikarañño sārathi moggallāno ahosi, ballikarājā ānando, bārāṇasirañño sārathi sāriputto, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse for the purpose of advising the King of Kosala, connected the Jātaka: “At that time, Ballika’s charioteer was Moggallāna, King Ballika was Ānanda, the King of Bārāṇasī’s charioteer was Sāriputta, and the King of Bārāṇasī was I myself.”
Đức Bổn Sư, để khuyên vua Kosala, đã kể lại bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: "Khi ấy, người đánh xe của vua Ballika là Moggallāna, vua Ballika là Ānanda, người đánh xe của vua Bārāṇasī là Sāriputta, còn vua Bārāṇasī chính là Ta (Đức Phật) vậy."
24
Rājovādajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The First Commentary on the Rājovāda Jātaka.
Chuyện tiền thân Rājovāda (Lời khuyên của vua), thứ nhất.
25
* 2. Siṅgālajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Siṅgāla Jātaka
* 2. Chuyện tiền thân Siṅgāla (Chó rừng)
26
Asamekkhitakammantanti idaṃ satthā kūṭāgārasālāyaṃ viharanto vesālivāsikaṃ ekaṃ nhāpitaputtaṃ ārabbha kathesi.
“Asamekkhitakammanta”—This the Teacher related while dwelling in the Kūṭāgārasālā, concerning a barber’s son from Vesālī.
Asamekkhitakammantaṃ (Người hành động không suy xét) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại giảng đường Kūṭāgāra, liên quan đến con trai của một người thợ cạo ở Vesālī.
Tassa kira pitā rājūnaṃ rājorodhānaṃ rājakumārānaṃ rājakumārikānañca massukaraṇakesasaṇṭhapanaaṭṭhapadaṭṭhapanādīni sabbakiccāni karoti saddho pasanno tisaraṇagato samādinnapañcasīlo, antarantare satthu dhammaṃ suṇanto kālaṃ vītināmeti.
His father, it is said, performed all services for kings, royal attendants, princes, and princesses, such as trimming beards, arranging hair, and placing ornaments. He was faithful, devout, had taken refuge in the Three Jewels, and observed the Five Precepts. From time to time, he would spend his time listening to the Teacher’s Dhamma.
Cha của người này là người làm tất cả các công việc như cạo râu, chải tóc, đặt các vật trang trí tám chân cho các vị vua, các quan lại hoàng gia, các hoàng tử và các công chúa. Ông là người có đức tin, hoan hỷ, quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới, và thỉnh thoảng nghe pháp của Đức Bổn Sư để trải qua thời gian.
So ekasmiṃ divase rājanivesane kammaṃ kātuṃ gacchanto attano puttaṃ gahetvā gato.
One day, as he was going to perform work in the royal palace, he took his son with him.
Một ngày nọ, khi ông đi làm việc trong hoàng cung, ông đã đưa con trai mình đi cùng.
So tattha ekaṃ devaccharāpaṭibhāgaṃ alaṅkatapaṭiyattaṃ licchavikumārikaṃ disvā kilesavasena paṭibaddhacitto hutvā pitarā saddhiṃ rājanivesanā nikkhamitvā ‘‘etaṃ kumārikaṃ labhamāno jīvissāmi, alabhamānassa me ettheva maraṇa’’nti āhārupacchedaṃ katvā mañcakaṃ parissajitvā nipajji.
There, the son saw a Licchavi princess, adorned and prepared, resembling a celestial nymph. His mind became attached due to defilement. Having left the royal palace with his father, he stopped eating and lay down embracing his bed, thinking, “If I obtain this princess, I shall live; if I do not obtain her, death will befall me right here.”
Ở đó, người con trai nhìn thấy một công chúa Licchavī được trang điểm lộng lẫy, giống như một nữ thần, và vì dục vọng, tâm trí anh ta bị vướng mắc. Sau khi cùng cha rời khỏi hoàng cung, anh ta nói: "Nếu tôi có được công chúa này, tôi sẽ sống; nếu không, tôi sẽ chết ngay tại đây," rồi ngừng ăn uống, ôm lấy giường và nằm xuống.
27
Atha naṃ pitā upasaṅkamitvā ‘‘tāta, avatthumhi chandarāgaṃ mā kari, hīnajacco tvaṃ nhāpitaputto, licchavikumārikā khattiyadhītā jātisampannā, na sā tuyhaṃ anucchavikā, aññaṃ te jātigottehi sadisaṃ kumārikaṃ ānessāmī’’ti āha.
Then his father approached him and said, “My dear son, do not harbor desire for an unsuitable object. You are of a low caste, a barber’s son. The Licchavi princess is a daughter of the Khattiya caste, endowed with noble birth; she is not suitable for you. I will bring you another maiden of similar caste and family.”
Khi ấy, người cha đến gần anh ta và nói: "Con ơi, đừng ham muốn những điều không phù hợp. Con là con trai của người thợ cạo, thuộc dòng dõi thấp kém, còn công chúa Licchavī là con gái của dòng dõi Sát-đế-lỵ cao quý, nàng không phù hợp với con. Cha sẽ tìm cho con một cô gái khác tương xứng về dòng tộc và gia thế."
So pitu kathaṃ na gaṇhi.
He did not heed his father’s words.
Anh ta không nghe lời cha.
Atha naṃ mātā bhātā bhaginī cūḷapitā cūḷamātāti sabbepi ñātakā ceva mittasuhajjā ca sannipatitvā saññāpentāpi saññāpetuṃ nāsakkhiṃsu.
Then his mother, brother, sister, paternal uncle, and paternal aunt, and all his relatives and friends gathered and tried to persuade him, but they could not.
Khi ấy, mẹ, anh trai, chị gái, chú, dì, và tất cả họ hàng cùng bạn bè thân thiết đều tụ tập lại, nhưng không ai có thể khuyên nhủ được anh ta.
So tattheva sussitvā parisussitvā jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
He withered away right there and died.
Anh ta cứ thế héo mòn và chết ngay tại đó.
Athassa pitā sarīrakiccapetakiccāni katvā tanusoko ‘‘satthāraṃ vandissāmī’’ti bahuṃ gandhamālāvilepanaṃ gahetvā mahāvanaṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisinno ‘‘kiṃ nu kho, upāsaka, bahūni divasāni na dissasī’’ti vutte tamatthaṃ ārocesi.
Then his father, having performed the funeral rites and burial ceremonies, with diminished grief, thought, “I will pay homage to the Teacher.” He took many perfumes, garlands, and ointments, went to the Great Forest, honored the Teacher, paid homage, and sat down to one side. When asked, “Why, Upāsaka, have you not been seen for many days?” he reported the matter.
Sau đó, người cha đã làm các lễ tang và nghi thức cho người đã khuất. Nỗi buồn vơi đi, ông nghĩ: "Ta sẽ đến đảnh lễ Đức Bổn Sư." Ông mang theo nhiều hương hoa và thuốc xức, đến khu rừng lớn, cúng dường Đức Bổn Sư, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Khi Đức Bổn Sư hỏi: "Này thiện nam tử, sao mấy ngày nay con không thấy đâu cả?", ông đã kể lại sự việc.
Satthā ‘‘na kho, upāsaka, idāneva tava putto avatthusmiṃ chandarāgaṃ uppādetvā vināsaṃ pāpuṇi, pubbepi pattoyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Upāsaka, it is not only now that your son has fallen into ruin by developing desire for an unsuitable object; he was ruined in the past as well.” Having said this, and being requested by the father, the Teacher related a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Này thiện nam tử, không phải chỉ bây giờ con trai của con mới vì ham muốn những điều không phù hợp mà phải chịu sự hủy hoại; trước đây nó cũng đã từng gặp phải số phận đó rồi." Sau khi được người cha thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
28
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese sīhayoniyaṃ nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born as a lion in the Himavanta region.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát được sinh ra trong loài sư tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Tassa cha kaniṭṭhabhātaro ekā ca bhaginī ahosi, sabbepi kañcanaguhāyaṃ vasanti.
He had six younger brothers and one sister, and they all lived in a golden cave.
Ngài có sáu người em trai và một người em gái, tất cả đều sống trong hang vàng.
Tassā pana guhāya avidūre rajatapabbate ekā phalikaguhā atthi, tattheko siṅgālo vasati.
Not far from that cave, on a silver mountain, there was a crystal cave where a jackal lived.
Không xa hang đó, trên núi bạc, có một hang pha lê, nơi một con chó rừng sinh sống.
Aparabhāge sīhānaṃ mātāpitaro kālamakaṃsu.
Later, the parents of the lions passed away.
Sau này, cha mẹ của các sư tử qua đời.
Te bhaginiṃ sīhapotikaṃ kañcanaguhāyaṃ ṭhapetvā gocarāya pakkamitvā maṃsaṃ āharitvā tassā denti.
They left their lioness sister in the golden cave and went out to forage, bringing back meat for her.
Các sư tử con để sư tử cái là em gái ở trong hang vàng, rồi đi kiếm ăn, mang thịt về cho nàng.
So siṅgālo taṃ sīhapotikaṃ disvā paṭibaddhacitto ahosi.
The jackal, seeing that lioness, became infatuated with her.
Con chó rừng nhìn thấy sư tử cái và bị vướng mắc bởi dục vọng.
Tassā pana mātāpitūnaṃ dharamānakāle okāsaṃ nālattha, so sattannampi tesaṃ gocarāya pakkantakāle phalikaguhāya otaritvā kañcanaguhāya dvāraṃ gantvā sīhapotikāya purato lokāmisapaṭisaṃyuttaṃ evarūpaṃ rahassakathaṃ kathesi – ‘‘sīhapotike, ahampi catuppado, tvampi catuppadā, tvaṃ me pajāpatī hohi, ahaṃ te pati bhavissāmi, te mayaṃ samaggā sammodamānā vasissāma, tvaṃ ito paṭṭhāya maṃ kilesavasena saṅgaṇhāhī’’ti.
However, during the lifetime of her parents, he did not get an opportunity. So, when all seven of them had gone out to seek food, he descended from the crystal cave, went to the door of the golden cave, and spoke such a secret talk, connected with worldly bait, in front of the lioness-cub: “O lioness-cub, I am also a quadruped, and you are also a quadruped. Be my wife, I will be your husband. We will live together, united and rejoicing. From now on, cherish me due to defilements.”
Khi cha mẹ nàng còn sống, nó không có cơ hội. Khi cả bảy con sư tử đi kiếm ăn, nó xuống từ hang pha lê, đến cửa hang vàng, và nói những lời bí mật liên quan đến dục lạc thế gian như sau trước mặt sư tử cái: "Này sư tử cái, ta cũng là loài bốn chân, nàng cũng là loài bốn chân. Nàng hãy làm vợ ta, ta sẽ làm chồng nàng. Chúng ta sẽ sống hòa hợp và vui vẻ. Từ nay trở đi, nàng hãy yêu thương ta vì dục vọng."
Sā tassa vacanaṃ sutvā cintesi – ‘‘ayaṃ siṅgālo catuppadānaṃ antare hīno paṭikuṭṭho caṇḍālasadiso, mayaṃ uttamarājakulasammatā, esa kho mayā saddhiṃ asabbhiṃ ananucchavikaṃ kathaṃ katheti, ahaṃ evarūpaṃ kathaṃ sutvā jīvitena kiṃ karissāmi, nāsāvātaṃ sannirujjhitvā marissāmī’’ti.
Hearing his words, she thought: “This jackal is low and despicable among quadrupeds, like an outcaste. We are considered of noble royal lineage. He speaks such an unbefitting and ignoble talk with me. What will I do with this life after hearing such a talk? I will hold my breath and die.”
Sư tử cái nghe lời nó và nghĩ: "Con chó rừng này là loài thấp kém và đáng ghê tởm trong số các loài bốn chân, giống như một kẻ hạ tiện. Chúng ta là loài được tôn kính thuộc dòng dõi vương giả cao quý. Nó đang nói những lời không xứng đáng, không phải của người lương thiện với ta. Ta còn sống làm gì khi nghe những lời như vậy? Ta sẽ nín thở mà chết."
Athassā etadahosi – ‘‘mayhaṃ evameva maraṇaṃ ayuttaṃ, bhātikā tāva me āgacchantu, tesaṃ kathetvā marissāmī’’ti.
Then it occurred to her: “It is not proper for me to die just like this. Let my brothers come first; I will tell them and then die.”
Rồi nàng nghĩ: "Chết như vậy thật không đáng. Các anh ta hãy về đã, ta sẽ kể cho họ nghe rồi chết."
Siṅgālopi tassā santikā paṭivacanaṃ alabhitvā ‘‘idāni esā mayhaṃ kujjhatī’’ti domanassappatto phalikaguhāyaṃ pavisitvā nipajji.
The jackal, not receiving a reply from her, became dejected, thinking, “Now she is angry with me,” and entered the crystal cave and lay down.
Con chó rừng cũng vậy, không nhận được lời đáp từ nàng, nghĩ: "Bây giờ nàng đang giận ta," rồi buồn bã đi vào hang pha lê và nằm xuống.
29
Atheko sīhapotako mahiṃsavāraṇādīsu aññataraṃ vadhitvā maṃsaṃ khāditvā bhaginiyā bhāgaṃ āharitvā ‘‘amma, maṃsaṃ khādassū’’ti āha.
Then one lion-cub killed one of the buffaloes or elephants, ate the meat, and brought a portion for his sister, saying, “Sister, eat the meat.”
Khi ấy, một con sư tử con đã giết một con trâu rừng hoặc một con voi, ăn thịt rồi mang phần của em gái về và nói: "Em ơi, hãy ăn thịt đi."
‘‘Bhātika, nāhaṃ maṃsaṃ khādāmi, marissāmī’’ti.
“Brother, I will not eat meat; I will die.”
"Anh ơi, em không ăn thịt đâu, em sẽ chết."
‘‘Kiṃ kāraṇā’’ti?
“For what reason?”
"Vì lý do gì?"
Sā taṃ pavattiṃ ācikkhi.
She recounted the incident.
Nàng kể lại sự việc.
‘‘Idāni kahaṃ so siṅgālo’’ti ca vutte phalikaguhāyaṃ nipannaṃ siṅgālaṃ ‘‘ākāse nipanno’’ti maññamānā ‘‘bhātika, kiṃ na passasi, eso rajatapabbate ākāse nipanno’’ti.
When asked, “Where is that jackal now?” she, thinking the jackal lying in the crystal cave was lying in the sky, said, “Brother, why do you not see? He is lying in the sky on the silver mountain.”
Khi được hỏi: "Bây giờ con chó rừng đó ở đâu?", nàng nghĩ rằng con chó rừng đang nằm trong hang pha lê nhưng lại nói: "Anh ơi, sao anh không thấy? Nó đang nằm trên không trung, trên núi bạc đó."
Sīhapotako tassa phalikaguhāyaṃ nipannabhāvaṃ ajānanto ‘‘ākāse nipanno’’ti saññī hutvā ‘‘māressāmi na’’nti sīhavegena pakkhanditvā phalikaguhaṃ hadayeneva pahari.
The lion-cub, not knowing that he was lying in the crystal cave, and having the perception that he was “lying in the sky,” thought, “I will kill him,” and rushed forward with the speed of a lion, striking the crystal cave with his chest.
Con sư tử con, không biết rằng nó đang nằm trong hang pha lê, nghĩ rằng nó "đang nằm trên không trung," rồi nghĩ: "Ta sẽ giết nó," và lao tới với tốc độ của sư tử, đâm vào hang pha lê bằng ngực.
So hadayena phalitena tattheva jīvitakkhayaṃ patvā pabbatapāde pati.
With his chest shattered, he met his end right there and fell at the foot of the mountain.
Vì ngực bị vỡ, nó chết ngay tại đó và ngã xuống chân núi.
Athāparo āgacchi, sā tassapi tatheva kathesi.
Then another one came, and she told him the same thing.
Khi ấy, một con sư tử khác đến, nàng cũng kể cho nó nghe y như vậy.
Sopi tatheva katvā jīvitakkhayaṃ patvā pabbatapāde pati.
He also did the same and met his end, falling at the foot of the mountain.
Nó cũng làm như vậy, chết và ngã xuống chân núi.
30
Evaṃ chasupi bhātikesu matesu sabbapacchā bodhisatto āgacchi.
Thus, when all six brothers had died, the Bodhisatta came last of all.
Khi sáu người em trai đều đã chết như vậy, cuối cùng Bồ-tát đến.
Sā tassapi taṃ kāraṇaṃ ārocetvā ‘‘idāni so kuhi’’nti vutte ‘‘eso rajatapabbatamatthake ākāse nipanno’’ti āha.
She also informed him of that matter, and when asked, “Where is he now?” she said, “He is lying in the sky on the summit of the silver mountain.”
Nàng cũng kể lại sự việc cho Ngài, và khi được hỏi: "Bây giờ nó ở đâu?", nàng nói: "Nó đang nằm trên không trung, trên đỉnh núi bạc đó."
Bodhisatto cintesi – ‘‘siṅgālānaṃ ākāse patiṭṭhā nāma natthi, phalikaguhāyaṃ nipannako bhavissatī’’ti.
The Bodhisatta thought: “Jackals do not have a foothold in the sky. He must be lying in the crystal cave.”
Bồ-tát nghĩ: "Chó rừng không thể đứng trên không trung được, chắc nó đang nằm trong hang pha lê."
So pabbatapādaṃ otaritvā cha bhātike mate disvā ‘‘ime attano bālatāya pariggaṇhanapaññāya abhāvena phalikaguhabhāvaṃ ajānitvā hadayena paharitvā matā bhavissanti, asamekkhitvā atituritaṃ karontānaṃ kammaṃ nāma evarūpaṃ hotī’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
He descended to the foot of the mountain, saw his six dead brothers, and said, “These must have died by striking the crystal cave with their chests, not knowing it was a crystal cave due to their foolishness and lack of discerning wisdom. Such is the consequence of actions performed without reflection and with excessive haste.” Having said this, he spoke the first verse:
Ngài xuống chân núi, nhìn thấy sáu người em trai đã chết và nói: "Những con sư tử này đã chết vì sự ngu dốt của chúng, vì thiếu trí tuệ suy xét, không biết đó là hang pha lê mà đã đâm vào bằng ngực. Hành động của những người làm việc mà không suy xét, quá vội vàng, thường kết thúc như thế này." Rồi Ngài nói lên bài kệ đầu tiên:
31
3.
3.
3.
32
‘‘Asamekkhitakammantaṃ, turitābhinipātinaṃ;
“Those who act without reflection, who rush into things,
"Kẻ hành động không suy xét,
33
Sāni kammāni tappenti, uṇhaṃvajjhohitaṃ mukhe’’ti.
Their own actions torment them, like hot food swallowed into the mouth.”
Kẻ vội vàng lao vào việc,
34
Tattha asamekkhitakammantaṃ, turitābhinipātinanti yo puggalo yaṃ kammaṃ kattukāmo hoti, tattha dosaṃ asamekkhitvā anupadhāretvā turito hutvā vegeneva taṃ kammaṃ kātuṃ abhinipatati pakkhandati paṭipajjati, taṃ asamekkhitakammantaṃ turitābhinipātinaṃ evaṃ sāni kammāni tappenti, socenti kilamenti.
Therein, asamekkhitakammantaṃ, turitābhinipātinaṃ means that a person who desires to perform an action, without reflecting on its fault, without considering it, becomes hasty and rushes into that action with speed, undertaking it—such a person is one who acts without reflection, who rushes into things. Their own actions torment, grieve, and weary them.
Chính những hành động đó sẽ thiêu đốt họ,
Yathā kiṃ?
Like what?
Như thức ăn nóng bỏng trong miệng."
Uṇhaṃvajjhohitaṃ mukheti, yathā bhuñjantena ‘‘idaṃ sītalaṃ idaṃ uṇha’’nti anupadhāretvā uṇhaṃ ajjhoharaṇīyaṃ mukhe ajjhoharitaṃ ṭhapitaṃ mukhampi kaṇṭhampi kucchimpi dahati soceti kilameti, evaṃ tathārūpaṃ puggalaṃ sāni kammāni tappenti.
Uṇhaṃvajjhohitaṃ mukhe means, just as one eating, without considering “this is cold, this is hot,” swallows or places hot food in the mouth, and it burns, grieves, and wearies the mouth, throat, and stomach, so too do their own actions torment such a person.
"Thức ăn nóng đã nuốt vào miệng," như người đang ăn, không suy xét "cái này lạnh, cái này nóng", mà nuốt vào miệng thức ăn nóng cần nuốt, thì thức ăn đó làm cháy miệng, cháy cổ họng và cháy cả bụng, gây đau khổ và mệt mỏi. Cũng vậy, những nghiệp của chính mình làm cho người như thế đau khổ.
35
Iti so sīho imaṃ gāthaṃ vatvā ‘‘mama bhātikā anupāyakusalatāya ‘siṅgālaṃ māressāmā’ti ativegena pakkhanditvā sayaṃ matā, ahaṃ pana evarūpaṃ akatvā siṅgālassa phalikaguhāyaṃ nipannasseva hadayaṃ phālessāmī’’ti siṅgālassa ārohanaorohanamaggaṃ sallakkhetvā tadabhimukho hutvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadi, pathaviyā saddhiṃ ākāsaṃ ekaninnādaṃ ahosi.
Thus, that lion, having recited this verse, thinking, ‘My younger brothers, due to their lack of skill in means, rushed forward with excessive speed, saying, “We will kill the jackal,” and died themselves. But I, without acting like my brothers, will burst the heart of the jackal while he lies in the crystal cave,’ observed the jackal's path of ascent and descent, faced it, and roared the lion's roar three times. The sky, together with the earth, became a single roar.
Như vậy, con sư tử ấy nói bài kệ này xong, nghĩ: "Các em ta vì không khéo léo trong phương cách, đã lao vào quá nhanh với ý định 'Chúng ta sẽ giết con chó rừng' và tự mình chết. Còn ta, không làm như vậy, ta sẽ làm vỡ tim con chó rừng ngay khi nó đang nằm trong hang pha lê." Sau khi nhận biết đường lên xuống của con chó rừng, nó quay mặt về hướng đó và ba lần rống tiếng sư tử. Cùng với mặt đất, bầu trời vang vọng một tiếng rống duy nhất.
Siṅgālassa phalikaguhāyaṃ nipannasseva sītatasitassa hadayaṃ phali, so tattheva jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
The heart of the jackal, terrified and trembling, burst while he lay in the crystal cave. He met his end right there.
Trái tim của con chó rừng đang nằm trong hang pha lê, run rẩy vì sợ hãi, đã vỡ tung. Nó chết ngay tại đó.
36
Satthā ‘‘evaṃ so siṅgālo sīhanādaṃ sutvā jīvitakkhayaṃ patto’’ti vatvā abhisambuddho hutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, saying, ‘‘Thus, that jackal, having heard the lion's roar, met his end,’’ being fully enlightened, spoke the second verse:
Đức Bổn Sư nói: "Như vậy, con chó rừng ấy đã chết khi nghe tiếng sư tử rống," rồi, sau khi chứng đắc Chánh Đẳng Giác, Ngài nói bài kệ thứ hai –
37
4.
4.
4.
38
‘‘Sīho ca sīhanādena, daddaraṃ abhinādayi;
‘‘The lion, with its lion's roar, made the mountain resound;
"Sư tử rống tiếng sư tử, làm rung chuyển cả núi đá;
39
Sutvā sīhassa nigghosaṃ, siṅgālo daddare vasaṃ;
Having heard the lion's mighty roar, the jackal dwelling in the mountain,
Nghe tiếng rống của sư tử, chó rừng trú trong núi đá,
40
Bhīto santāsamāpādi, hadayañcassa apphalī’’ti.
Terrified, was overcome with fear, and his heart burst.’’
Sợ hãi, kinh hoàng, tim nó vỡ tan."
41
Tattha sīhoti cattāro sīhā – tiṇasīho, paṇḍusīho, kāḷasīho, surattahatthapādo kesarasīhoti.
Here, sīho (lion) refers to four types of lions: the grass-lion (tiṇasīho), the pale-lion (paṇḍusīho), the black-lion (kāḷasīho), and the maned-lion (kesarasīho) with very red paws.
Trong đó, sīho (sư tử) là bốn loại sư tử: sư tử cỏ (tiṇasīho), sư tử vàng (paṇḍusīho), sư tử đen (kāḷasīho), và sư tử bờm có chân tay đỏ tươi (surattahatthapādo kesarasīho).
Tesu kesarasīho idha adhippeto.
Among these, the maned-lion is intended here.
Trong số đó, sư tử bờm (kesarasīho) được đề cập ở đây.
Daddaraṃ abhinādayīti tena asanipātasaddasadisena bheravatarena sīhanādena taṃ rajatapabbataṃ abhinādayi ekaninnādaṃ akāsi.
Daddaraṃ abhinādayī means, with that terrifying lion's roar, which was like the sound of a thunderbolt, he made that silver mountain resound, making it a single echo.
Daddaraṃ abhinādayī (làm rung chuyển cả núi đá) nghĩa là nó làm rung chuyển, làm cho ngọn núi bạc ấy vang vọng một tiếng duy nhất bằng tiếng rống sư tử cực kỳ đáng sợ, giống như tiếng sét đánh.
Daddare vasanti phalikamissake rajatapabbate vasanto.
Daddare vasaṃ means dwelling in the silver mountain mixed with crystal.
Daddare vasa (trú trong núi đá) nghĩa là trú trong ngọn núi bạc pha lê.
Bhīto santāsamāpādīti maraṇabhayena bhīto cittutrāsaṃ āpādi.
Bhīto santāsamāpādī means, terrified by the fear of death, he was overcome with mental anguish.
Bhīto santāsamāpādī (sợ hãi, kinh hoàng) nghĩa là vì sợ chết mà kinh hoàng trong tâm.
Hadayañcassa apphalīti tena cassa bhayena hadayaṃ phalīti.
Hadayañcassa apphalī means, due to that fear, his heart burst.
Hadayañcassa apphalī (tim nó vỡ tan) nghĩa là vì sự sợ hãi đó mà tim nó vỡ tung.
42
Evaṃ sīho siṅgālaṃ jīvitakkhayaṃ pāpetvā bhātaro ekasmiṃ ṭhāne paṭicchādetvā tesaṃ matabhāvaṃ bhaginiyā ācikkhitvā taṃ samassāsetvā yāvajīvaṃ kañcanaguhāyaṃ vasitvā yathākammaṃ gato.
Thus, the lion, having caused the jackal to meet his end, concealed his brothers in one place, informed his sister of their death, consoled her, and having lived in the golden cave for the rest of his life, departed according to his karma.
Như vậy, con sư tử đã khiến con chó rừng chết, rồi giấu sáu người anh em ở một nơi, báo tin họ đã chết cho em gái biết, an ủi cô ấy, và sống trong hang vàng suốt đời, sau đó ra đi theo nghiệp của mình.
43
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne upāsako sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, elucidated the Noble Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the lay follower was established in the fruit of stream-entry (sotāpatti).
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này, thuyết giảng các Chân lý, và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị cư sĩ đã an trú trong quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā siṅgālo nhāpitaputto ahosi, sīhapotikā licchavikumārikā, cha kaniṭṭhabhātaro aññataratherā ahesuṃ, jeṭṭhabhātikasīho pana ahameva ahosi’’nti.
‘‘At that time, the jackal was the barber's son; the lion cub (female) was a Licchavi princess; the six younger brothers were certain Theras; and the elder brother lion was I myself.’’
"Khi ấy, con chó rừng là con trai người thợ cạo. Con sư tử cái là công chúa Licchavi. Sáu người em trai là các vị Trưởng lão khác. Còn con sư tử anh cả chính là ta."
44
Siṅgālajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Siṅgāla Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka về con chó rừng, thứ hai, đã kết thúc.
45
* 3. Sūkarajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Sūkara Jātaka
* 3. Câu chuyện Jātaka về con heo
46
Catuppado ahaṃ, sammāti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ mahallakattheraṃ ārabbha kathesi.
I am a quadruped, friend — The Teacher related this while dwelling at Jetavana, concerning a certain elder Thera.
"Ta là loài bốn chân, thưa ngài," câu này Đức Bổn Sư đã kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị Trưởng lão cao tuổi.
Ekasmiñhi divase rattiṃ dhammassavane vattamāne satthari gandhakuṭidvāre ramaṇīye sopānaphalake ṭhatvā bhikkhusaṅghassa sugatovādaṃ datvā gandhakuṭiṃ paviṭṭhe dhammasenāpati satthāraṃ vanditvā attano pariveṇaṃ agamāsi.
One day, while the Dhamma was being heard at night, the Teacher, standing on a beautiful stair-slab at the entrance of the Perfumed Chamber, gave a good exhortation to the Saṅgha of bhikkhus and entered the Perfumed Chamber. The General of the Dhamma, having paid homage to the Teacher, went to his own dwelling.
Một ngày nọ, vào ban đêm, khi pháp thoại đang diễn ra, Đức Bổn Sư đứng trên bậc thềm đẹp đẽ trước cửa Gandhakuti, ban lời khuyên lành cho Tăng đoàn, rồi đi vào Gandhakuti. Vị Pháp Tướng (Sāriputta) đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi đi về tịnh xá của mình.
Mahāmoggallānopi pariveṇameva gantvā muhuttaṃ vissamitvā therassa santikaṃ āgantvā pañhaṃ pucchi, pucchitapucchitaṃ dhammasenāpati gaganatale puṇṇacandaṃ uṭṭhāpento viya vissajjetvā pākaṭamakāsi.
Mahāmoggallāna also went to his own dwelling, rested for a moment, then came to the Thera and asked questions. The General of the Dhamma answered each question asked, making it clear as if raising a full moon in the sky.
Đại Trưởng lão Mahāmoggallāna cũng đi về tịnh xá của mình, nghỉ ngơi một lát rồi đến gặp vị Trưởng lão (Sāriputta) để hỏi các câu hỏi. Vị Pháp Tướng đã giải đáp rõ ràng từng câu hỏi được hỏi, như thể làm cho mặt trăng tròn mọc lên trên bầu trời.
Catassopi parisā dhammaṃ suṇamānā nisīdiṃsu.
All four assemblies sat listening to the Dhamma.
Bốn hội chúng đều ngồi lắng nghe pháp.
Tattheko mahallakatthero cintesi – ‘‘sacāhaṃ imissā parisāya majjhe sāriputtaṃ āluḷento pañhaṃ pucchissāmi, ayaṃ me parisā ‘bahussuto aya’nti ñatvā sakkārasammānaṃ karissatī’’ti parisantarā uṭṭhāya theraṃ upasaṅkamitvā ekamantaṃ ṭhatvā ‘‘āvuso sāriputta, mayampi taṃ ekaṃ pañhaṃ pucchāma, amhākampi okāsaṃ karohi, dehi me vinicchayaṃ āvedhikāya vā nivedhikāya vā niggahe vā paggahe vā visese vā paṭivisese vā’’ti āha.
Among them, an elder Thera thought, ‘‘If I ask Sāriputta a question in the midst of this assembly, this assembly, knowing me to be 'very learned,' will show me respect and honor.’’ He rose from the midst of the assembly, approached the Thera, stood to one side, and said, ‘‘Friend Sāriputta, we too will ask you a question; please make room for us. Give me a decision regarding what pierces or reveals, or regarding censure, praise, distinction, or counter-distinction.’’
Trong số đó, một vị Trưởng lão cao tuổi suy nghĩ: "Nếu ta hỏi Sāriputta một câu hỏi gây khó khăn giữa hội chúng này, hội chúng sẽ biết 'vị này là người đa văn' và sẽ kính trọng, tôn vinh ta." Ông ta đứng dậy từ giữa hội chúng, đến gần vị Trưởng lão (Sāriputta), đứng sang một bên và nói: "Thưa Tôn giả Sāriputta, chúng tôi cũng xin hỏi Tôn giả một câu hỏi. Xin hãy cho chúng tôi cơ hội. Xin hãy cho tôi một sự phân định về sự thấu hiểu hay sự diễn giải, về sự bác bỏ hay sự tán đồng, về sự đặc biệt hay sự đối lập."
Thero taṃ oloketvā ‘‘ayaṃ mahallako icchācāre ṭhito tuccho na kiñci jānātī’’ti tena saddhiṃ akathetvāva lajjamāno bījaniṃ ṭhapetvā āsanā otaritvā pariveṇaṃ pāvisi, moggallānattheropi attano pariveṇameva agamāsi.
The Thera looked at him and, thinking, ‘‘This elder is given to arbitrary conduct, empty, knowing nothing,’’ did not speak with him, but being ashamed, put down his fan, descended from his seat, and entered his dwelling. Thera Moggallāna also went to his own dwelling.
Vị Trưởng lão (Sāriputta) nhìn ông ta và nghĩ: "Vị già này sống theo ý muốn, trống rỗng, không biết gì cả." Không nói chuyện với ông ta, vì xấu hổ, ngài đặt quạt xuống, rời khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá. Đại Trưởng lão Moggallāna cũng đi về tịnh xá của mình.
47
Manussā uṭṭhāya ‘‘gaṇhathetaṃ tucchamahallakaṃ, madhuradhammassavanaṃ no sotuṃ na adāsī’’ti anubandhiṃsu.
The people rose and pursued him, saying, ‘‘Seize this empty elder, he did not allow us to listen to the sweet Dhamma!’’
Mọi người đứng dậy và đuổi theo, nói: "Hãy bắt lấy ông già trống rỗng này, ông ta đã không cho chúng ta nghe pháp thoại ngọt ngào!"
So palāyanto vihārapaccante bhinnapadarāya vaccakuṭiyā patitvā gūthamakkhito aṭṭhāsi.
He, fleeing, fell into a broken-planked latrine at the outskirts of the monastery and stood smeared with excrement.
Ông ta chạy trốn, ngã vào hố phân trong nhà vệ sinh có ván bị hỏng ở cuối khu vườn tu viện, và đứng đó dính đầy phân.
Manussā taṃ disvā vippaṭisārino hutvā satthu santikaṃ agamaṃsu.
The people, seeing him, became remorseful and went to the Teacher.
Mọi người thấy ông ta, hối hận và đi đến gặp Đức Bổn Sư.
Satthā te disvā ‘‘kiṃ upāsakā avelāya āgatatthā’’ti pucchi, manussā tamatthaṃ ārocesuṃ.
The Teacher, seeing them, asked, ‘Why have you come at an unseasonable time, lay followers?’ The people reported the matter.
Đức Bổn Sư thấy họ và hỏi: "Này các cư sĩ, tại sao các ông lại đến vào lúc không phải giờ?" Mọi người kể lại câu chuyện.
Satthā ‘‘na kho upāsakā idānevesa mahallako uppilāvito hutvā attano balaṃ ajānitvā mahābalehi saddhiṃ payojetvā gūthamakkhito jāto, pubbepesa uppilāvito hutvā attano balaṃ ajānitvā mahābalehi saddhiṃ payojetvā gūthamakkhito ahosī’’ti vatvā tehi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, ‘Lay followers, it is not only now that this elder, being frivolous and not knowing his own strength, engaged with powerful ones and became smeared with excrement. In the past too, this elder, being frivolous and not knowing his own strength, engaged with powerful ones and became smeared with excrement.’ Having said this, being requested by them, he recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Này các cư sĩ, không phải chỉ bây giờ vị già này mới trở nên nông nổi, không biết sức mình mà lại đối đầu với những người mạnh mẽ và bị dính đầy phân. Trước đây, ông ta cũng đã từng nông nổi, không biết sức mình mà lại đối đầu với những người mạnh mẽ và bị dính đầy phân." Nói xong, khi được họ thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
48
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto sīho hutvā himavantapadese pabbataguhāya vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta, being a lion, made his abode in a mountain cave in the Himavanta region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là một con sư tử và sống trong một hang núi ở vùng Himavanta.
Tassā avidūre ekaṃ saraṃ nissāya bahū sūkarā nivāsaṃ kappesuṃ.
Not far from it, many boars made their abode near a certain lake.
Không xa hang đó, nhiều con heo đã sống gần một cái hồ.
Tameva saraṃ nissāya tāpasāpi paṇṇasālāsu vāsaṃ kappesuṃ.
Rishis also made their abode in leaf-huts near that very lake.
Các đạo sĩ cũng sống trong các túp lều lá gần chính cái hồ đó.
Athekadivasaṃ sīho mahiṃsavāraṇādīsu aññataraṃ vadhitvā yāvadatthaṃ maṃsaṃ khāditvā taṃ saraṃ otaritvā pānīyaṃ pivitvā uttari.
Then one day, the lion, having killed one of the buffaloes or elephants, ate as much meat as he desired, descended into that lake, drank water, and came out.
Một ngày nọ, con sư tử giết một con vật nào đó như trâu rừng hay voi, ăn thịt thỏa thích, rồi xuống hồ uống nước và đi lên.
Tasmiṃ khaṇe eko thūlasūkaro taṃ saraṃ nissāya gocaraṃ gaṇhāti.
At that moment, a plump boar was foraging near that lake.
Vào lúc đó, một con heo béo đang kiếm ăn gần hồ.
Sīho taṃ disvā ‘‘aññaṃ ekadivasaṃ imaṃ khādissāmi, maṃ kho pana disvā puna na āgaccheyyā’’ti tassa anāgamanabhayena sarato uttaritvā ekena passena gantuṃ ārabhi.
The lion, seeing him, thought, ‘I will eat this one another day. But if he sees me, he might not come again.’ Fearing his non-return, he came out of the lake and began to go along one side.
Con sư tử thấy nó và nghĩ: "Một ngày khác ta sẽ ăn con này. Nhưng nếu nó thấy ta, nó sẽ không đến nữa." Vì sợ nó sẽ không đến, con sư tử rời khỏi hồ và bắt đầu đi về một bên.
Sūkaro oloketvā ‘‘esa maṃ disvā mama bhayena upagantuṃ asakkonto bhayena palāyati, ajja mayā iminā sīhena saddhiṃ payojetuṃ vaṭṭatī’’ti sīsaṃ ukkhipitvā taṃ yuddhatthāya avhayanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The boar looked and thought, ‘This lion, seeing me, is unable to approach due to fear and is fleeing out of fear. Today, it is fitting for me to engage with this lion.’ Raising his head, he challenged him to a fight and first spoke the verse:
Con heo nhìn và nghĩ: "Nó thấy ta, vì sợ ta mà không dám đến gần, nó sợ hãi bỏ chạy. Hôm nay ta phải đối đầu với con sư tử này." Nó ngẩng đầu lên, thách đấu với con sư tử và nói bài kệ đầu tiên –
49
5.
5.
5.
50
‘‘Catuppado ahaṃ samma, tvampi samma catuppado;
“I am a quadruped, friend, and you too, friend, are a quadruped;
"Ta là loài bốn chân, bạn hiền, bạn cũng là loài bốn chân;
51
Ehi samma nivattassu, kiṃ nu bhīto palāyasī’’ti.
Come back, friend, why are you fleeing in fear?”
Hãy quay lại đi, bạn hiền, sao bạn lại sợ hãi bỏ chạy?"
52
Sīho tassa kathaṃ sutvā ‘‘samma sūkara, ajja amhākaṃ tayā saddhiṃ saṅgāmo natthi, ito pana sattame divase imasmiṃyeva ṭhāne saṅgāmo hotū’’ti vatvā pakkāmi.
The lion, hearing his words, said, “Friend boar, today there is no battle between us. Let the battle be on the seventh day from now, in this very place,” and departed.
Con sư tử nghe lời nó nói và đáp: "Này heo bạn hiền, hôm nay chúng ta không có chiến đấu với nhau. Nhưng bảy ngày sau, tại chính nơi này, chúng ta hãy chiến đấu!" Nói xong, nó bỏ đi.
Sūkaro ‘‘sīhena saddhiṃ saṅgāmessāmī’’ti haṭṭhapahaṭṭho taṃ pavattiṃ ñātakānaṃ ārocesi.
The boar, delighted, thinking, “I will fight with the lion,” reported the news to his relatives.
Con heo vui mừng khôn xiết, nghĩ: "Ta sẽ chiến đấu với sư tử," và báo tin đó cho bà con của nó.
Te tassa kathaṃ sutvā bhītatasitā ‘‘idāni tvaṃ sabbepi amhe nāsessasi, attano balaṃ ajānitvā sīhena saddhiṃ saṅgāmaṃ kattukāmoti, sīho āgantvā sabbepi amhe jīvitakkhayaṃ pāpessati, sāhasikakammaṃ mā karī’’ti āhaṃsu.
They, hearing his words, were terrified and said, “Now you will destroy all of us! You wish to fight with a lion without knowing your own strength. The lion will come and bring all of us to the end of our lives. Do not commit such a reckless act!”
Nghe lời nó nói, họ sợ hãi run rẩy và nói: "Bây giờ ngươi sẽ hủy diệt tất cả chúng ta! Ngươi không biết sức mình mà lại muốn chiến đấu với sư tử. Sư tử sẽ đến và khiến tất cả chúng ta mất mạng. Đừng làm điều liều lĩnh!"
Sopi bhītatasito ‘‘idāni kiṃ karomī’’ti pucchi.
He, also terrified, asked, “What shall I do now?”
Nó cũng sợ hãi run rẩy và hỏi: "Bây giờ ta phải làm gì?"
Sūkarā ‘‘samma, tvaṃ etesaṃ tāpasānaṃ uccārabhūmiṃ gantvā pūtigūthe satta divasāni sarīraṃ parivaṭṭetvā sukkhāpetvā sattame divase sarīraṃ ussāvabindūhi temetvā sīhassa āgamanato purimataraṃ gantvā vātayogaṃ ñatvā uparivāte tiṭṭha, sucijātiko sīho tava sarīragandhaṃ ghāyitvā tuyhaṃ jayaṃ datvā gamissatī’’ti āhaṃsu.
The boars said, “Friend, you go to the latrine area of those rishis, roll your body in putrid excrement for seven days to dry it, and on the seventh day, moisten your body with dewdrops. Go there before the lion arrives, find the direction of the wind, and stand upwind. The lion, being of a pure nature, will smell the odor of your body, grant you victory, and leave.”
Các con heo khác nói: "Này bạn hiền, ngươi hãy đi đến khu vệ sinh của các đạo sĩ này, lăn mình trong phân thối bảy ngày, làm cho cơ thể khô ráo. Đến ngày thứ bảy, hãy làm ướt cơ thể bằng các giọt sương, rồi đến sớm hơn sư tử, biết hướng gió và đứng ở phía trên gió. Con sư tử vốn sạch sẽ, ngửi thấy mùi cơ thể của ngươi, sẽ nhường ngươi chiến thắng và bỏ đi."
So tathā katvā sattame divase tattha aṭṭhāsi.
He did so and stood there on the seventh day.
Nó làm như vậy và đứng ở đó vào ngày thứ bảy.
Sīho tassa sarīragandhaṃ ghāyitvā gūthamakkhitabhāvaṃ ñatvā ‘‘samma sūkara, sundaro te leso cintito, sace tvaṃ gūthamakkhito nābhavissa, idheva taṃ jīvitakkhayaṃ apāpessaṃ, idāni pana te sarīraṃ neva mukhena ḍaṃsituṃ, na pādena paharituṃ sakkā, jayaṃ te dammī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
The lion, smelling the odor of his body and knowing that he was smeared with excrement, said, “Friend boar, you have devised a clever trick. If you had not been smeared with excrement, I would have brought you to the end of your life right here. But now, your body cannot be bitten with the mouth nor struck with the paw. I grant you victory,” and spoke the second verse:
Con sư tử ngửi mùi cơ thể của nó, biết nó bị dính phân, liền nói: "Này heo, ngươi đã nghĩ ra một mưu kế hay. Nếu ngươi không bị dính phân, ta đã kết liễu mạng sống của ngươi ngay tại đây. Nhưng giờ đây, thân thể ngươi không thể cắn bằng miệng, cũng không thể đá bằng chân. Ta ban cho ngươi chiến thắng!" Rồi nó nói kệ thứ hai:
53
6.
6.
6.
54
‘‘Asuci pūtilomosi, duggandho vāsi sūkara;
“You are impure with foul hair, and you are ill-smelling, O boar;
"Hỡi heo, ngươi nhơ uế, lông hôi thối, và bốc mùi hôi;
55
Sace yujjitukāmosi, jayaṃ samma dadāmi te’’ti.
If you wish to fight, friend, I grant you victory.”
Nếu ngươi muốn chiến đấu, này bạn, ta ban cho ngươi chiến thắng!"
56
Tattha pūtilomoti mīḷhamakkhitattā duggandhalomo.
Here, pūtilomo means having foul-smelling hair due to being smeared with excrement.
Trong đó, pūtilomo có nghĩa là lông hôi thối do bị dính phân.
Duggandho vāsīti aniṭṭhajegucchapaṭikūlagandho hutvā vāyasi.
Duggandho vāsi means you are ill-smelling, having an unpleasant, disgusting, and repulsive odor.
Duggandho vāsī có nghĩa là ngươi bốc ra mùi hôi thối, ghê tởm, đáng chán ghét.
Jayaṃ, samma, dadāmi teti ‘‘tuyhaṃ jayaṃ demi, ahaṃ parājito, gaccha tva’’nti vatvā sīho tatova nivattitvā gocaraṃ gahetvā sare pānīyaṃ pivitvā pabbataguhameva gato.
Jayaṃ, samma, dadāmi te means “I give you victory, I am defeated, go,” saying this, the lion turned back from there, took his food, drank water in the lake, and went back to his mountain cave.
Jayaṃ, samma, dadāmi te có nghĩa là "Ta ban cho ngươi chiến thắng, ta đã thua, ngươi hãy đi đi!" Nói xong, con sư tử liền quay lại từ đó, kiếm thức ăn, uống nước trong hồ rồi trở về hang núi.
Sūkaropi ‘‘sīho me jito’’ti ñātakānaṃ ārocesi.
The boar also reported to his relatives, “I have defeated the lion.”
Con heo cũng báo cho họ hàng biết rằng "Ta đã thắng sư tử."
Te bhītatasitā ‘‘puna ekadivasaṃ āgacchanto sīho sabbeva amhe jīvitakkhayaṃ pāpessatī’’ti palāyitvā aññattha agamaṃsu.
Terrified and alarmed, they thought, "If the lion returns one day, he will surely bring all of us to the end of our lives," and so they fled to another place.
Chúng sợ hãi run rẩy, nói: "Một ngày nào đó, sư tử sẽ quay lại và kết liễu mạng sống của tất cả chúng ta," rồi bỏ chạy đến nơi khác.
57
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā sūkaro mahallako ahosi, sīho pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse, connected the Jātaka, saying: "At that time, the boar was the old monk; as for the lion, it was I myself."
Bậc Đạo Sư đã mang bài Pháp thoại này đến và kết nối câu chuyện Jātaka: "Khi ấy, con heo là vị trưởng lão, còn ta chính là con sư tử."
58
Sūkarajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third commentary on the Sūkara Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka về con heo, thứ ba, đã chấm dứt.
59
* 4. Uragajātakavaṇṇanā
* 4. Commentary on the Uraga Jātaka
* 4. Câu chuyện Jātaka về con rắn
60
Idhūragānaṃ pavaro paviṭṭhoti idaṃ satthā jetavane viharanto seṇibhaṇḍanaṃ ārabbha kathesi.
"Among the serpents, the chief has entered" – The Teacher spoke this while dwelling at Jetavana, concerning a quarrel between two guild leaders.
Idhūragānaṃ pavaro paviṭṭho (Kẻ tối thắng trong loài rắn đã vào đây) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại Jetavana, liên quan đến cuộc tranh cãi của các vị trưởng đoàn.
Kosalarañño kira sevakā seṇipamukhā dve mahāmattā aññamaññaṃ diṭṭhaṭṭhāne kalahaṃ karonti, tesaṃ veribhāvo sakalanagare pākaṭo jāto.
It is said that two chief ministers, who were also guild leaders, servants of the King of Kosala, would quarrel whenever they saw each other, and their enmity became well-known throughout the city.
Có hai vị đại thần, đứng đầu các đoàn thể, là những người hầu của vua Kosala, họ thường xuyên cãi vã mỗi khi gặp mặt, và sự thù địch của họ đã lan rộng khắp thành phố.
Te neva rājā, na ñātimittā samagge kātuṃ sakkhiṃsu.
Neither the king nor their relatives and friends could reconcile them.
Cả nhà vua lẫn họ hàng, bạn bè đều không thể hòa giải họ.
Athekadivasaṃ satthā paccūsasamaye bodhaneyyabandhave olokento tesaṃ ubhinnampi sotāpattimaggassa upanissayaṃ disvā punadivase ekakova sāvatthiyaṃ piṇḍāya pavisitvā tesu ekassa gehadvāre aṭṭhāsi.
Then, one day, the Teacher, observing those worthy of awakening in the early morning, saw the potential for the path of stream-entry in both of them, and the next day, He alone entered Sāvatthī for alms and stood at the door of one of their houses.
Rồi một ngày nọ, vào buổi sáng sớm, Bậc Đạo Sư nhìn thấy những người có thể được giác ngộ, và nhận ra rằng cả hai vị đại thần đều có duyên lành để đạt đến Đạo quả Nhập Lưu (Sotāpatti). Ngày hôm sau, ngài một mình vào Sāvatthī để khất thực và đứng trước cửa nhà của một trong hai người.
So nikkhamitvā pattaṃ gahetvā satthāraṃ antonivesanaṃ pavesetvā āsanaṃ paññapetvā nisīdāpesi.
He came out, took the bowl, led the Teacher inside the house, arranged a seat, and made Him sit down.
Người ấy bước ra, nhận lấy bát, mời Bậc Đạo Sư vào trong nhà, sắp đặt chỗ ngồi và thỉnh ngài an tọa.
Satthā nisīditvā tassa mettābhāvanāya ānisaṃsaṃ kathetvā kallacittataṃ ñatvā saccāni pakāsesi, so saccapariyosāne sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher sat down, spoke of the benefits of mettā-bhāvanā to him, and knowing his mind was receptive, proclaimed the Truths; at the conclusion of the Truths, he became established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư ngồi xuống, thuyết giảng về lợi ích của sự tu tập tâm từ (mettābhāvanā). Khi biết tâm người ấy đã sẵn sàng, ngài đã tuyên bố các chân lý (Saccāni), và khi bài thuyết pháp kết thúc, người ấy đã an trụ trong quả Nhập Lưu (Sotāpattiphala).
61
Satthā tassa sotāpannabhāvaṃ ñatvā tameva pattaṃ gāhāpetvā uṭṭhāya itarassa gehadvāraṃ agamāsi.
The Teacher, knowing that he had become a stream-enterer, had him take the same bowl, rose, and went to the door of the other's house.
Bậc Đạo Sư biết người ấy đã chứng quả Nhập Lưu, liền trao bát cho người ấy cầm, rồi đứng dậy đi đến cửa nhà của người kia.
Sopi nikkhamitvā satthāraṃ vanditvā ‘‘pavisatha, bhante’’ti gharaṃ pavesetvā nisīdāpesi.
He also came out, saluted the Teacher, and saying, "Please enter, Venerable Sir," led Him into the house and made Him sit down.
Người ấy cũng bước ra, đảnh lễ Bậc Đạo Sư và nói: "Bạch Thế Tôn, xin ngài vào!" rồi mời ngài vào nhà và thỉnh ngài an tọa.
Itaropi pattaṃ gahetvā satthārā saddhiṃyeva pāvisi.
The other also took the bowl and entered together with the Teacher.
Người kia cũng cầm bát và cùng vào với Bậc Đạo Sư.
Satthā tassa ekādasa mettānisaṃse vaṇṇetvā kallacittataṃ ñatvā saccāni pakāsesi, saccapariyosāne sopi sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher described the eleven benefits of mettā to him, and knowing his mind was receptive, proclaimed the Truths; at the conclusion of the Truths, he also became established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã mô tả mười một lợi ích của tâm từ (mettā) cho người ấy. Khi biết tâm người ấy đã sẵn sàng, ngài đã tuyên bố các chân lý, và khi bài thuyết pháp kết thúc, người ấy cũng đã an trụ trong quả Nhập Lưu.
Iti te ubhopi sotāpannā hutvā aññamaññaṃ accayaṃ dassetvā khamāpetvā samaggā sammodamānā ekajjhāsayā ahesuṃ.
Thus, both of them, having become stream-enterers, confessed their faults to each other, sought forgiveness, and became united, harmonious, and of one mind.
Cứ thế, cả hai người đều trở thành bậc Nhập Lưu, bày tỏ lỗi lầm của nhau, xin tha thứ và trở nên hòa thuận, vui vẻ, cùng chung chí hướng.
Taṃ divasaññeva ca bhagavato sammukhāva ekato bhuñjiṃsu.
And on that very day, they ate together in the presence of the Blessed One.
Ngay trong ngày đó, họ đã cùng nhau dùng bữa trước mặt Đức Thế Tôn.
Satthā bhattakiccaṃ niṭṭhāpetvā vihāraṃ agamāsi.
The Teacher, having finished His meal, went to the monastery.
Bậc Đạo Sư hoàn tất bữa ăn rồi trở về Tịnh xá.
Te bahūni mālāgandhavilepanāni ceva sappimadhuphāṇitādīni ca ādāya satthārā saddhiṃyeva nikkhamiṃsu.
They, taking many garlands, perfumes, unguents, ghee, honey, and jaggery, departed together with the Teacher.
Hai người ấy mang theo nhiều vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, cùng với bơ sữa, mật ong, đường phèn, v.v., rồi cùng đi ra với Bậc Đạo Sư.
Satthā bhikkhusaṅghena vatte dassite sugatovādaṃ datvā gandhakuṭiṃ pāvisi.
The Teacher, after giving the Sugata's advice as shown by the bhikkhusaṅgha, entered the Perfumed Chamber.
Khi Tăng đoàn đã thực hiện các bổn phận (vatta), Bậc Đạo Sư đã ban lời giáo huấn của bậc Thiện Thệ (Sugatovāda) rồi đi vào hương thất (gandhakuṭi).
62
Bhikkhū sāyanhasamaye dhammasabhāyaṃ satthu guṇakathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, satthā adantadamako, ye nāma dve mahāmatte ciraṃ vāyamamānopi neva rājā samagge kātuṃ sakkhi, na ñātimittādayo sakkhiṃsu, te ekadivaseneva tathāgatena damitā’’ti.
In the evening, the bhikkhus in the Dhamma hall raised a discussion on the Teacher's virtues: "Friends, the Teacher is a tamer of the untamed! The king himself, though striving for a long time, could not reconcile those two chief ministers, nor could their relatives and friends; but the Tathāgata tamed them in a single day!"
Vào buổi chiều, các Tỳ-kheo đã khởi xướng cuộc đàm luận về công đức của Bậc Đạo Sư trong Pháp đường: "Này chư hiền, Bậc Đạo Sư là người chế ngự những kẻ chưa được chế ngự. Ngay cả nhà vua, dù đã cố gắng trong một thời gian dài, cũng không thể hòa giải hai vị đại thần đó; họ hàng, bạn bè cũng không thể làm được. Vậy mà Đức Như Lai đã chế ngự họ chỉ trong một ngày!"
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idānevāhaṃ ime dve jane samagge akāsiṃ, pubbepete mayā samaggā katāyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you discussing now, sitting together?" When told, "This one, Venerable Sir," He said, "Bhikkhus, it is not only now that I have reconciled these two persons; in the past, too, they were reconciled by me," and then He related a past event.
Bậc Đạo Sư đến, hỏi: "Này chư Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?" Khi được trả lời: "Về chuyện này, bạch Thế Tôn," ngài nói: "Này chư Tỳ-kheo, không phải chỉ bây giờ ta mới hòa giải hai người này đâu, trước đây ta cũng đã hòa giải họ rồi." Nói xong, ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
63
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bārāṇasiyaṃ ussave ghosite mahāsamajjaṃ ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, a great festival was announced in Bārāṇasī, and there was a large gathering.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, một lễ hội lớn đã được công bố ở Bārāṇasī.
Bahū manussā ceva devanāgasupaṇṇādayo ca samajjadassanatthaṃ sannipatiṃsu.
Many humans, as well as devas, nāgas, supaṇṇas, and others, assembled to witness the festival.
Nhiều người, cùng với các vị trời, Nāga, Supaṇṇa, v.v., đã tụ tập để xem lễ hội.
Tatrekasmiṃ ṭhāne eko nāgo ca supaṇṇo ca samajjaṃ passamānā ekato aṭṭhaṃsu.
In one place, a nāga and a supaṇṇa stood together, watching the festival.
Tại một nơi, một con Nāga và một con Supaṇṇa đang đứng cùng nhau xem lễ hội.
Nāgo supaṇṇassa supaṇṇabhāvaṃ ajānanto aṃse hatthaṃ ṭhapesi.
The nāga, not knowing the supaṇṇa was a supaṇṇa, placed his hand on his shoulder.
Con Nāga, không biết con Supaṇṇa là Supaṇṇa, đã đặt tay lên vai nó.
Supaṇṇo ‘‘kena me aṃse hattho ṭhapito’’ti nivattitvā olokento nāgaṃ sañjāni.
The supaṇṇa, thinking, "By whom has my shoulder been touched?" turned around and, looking, recognized the nāga.
Con Supaṇṇa quay lại nhìn và nhận ra con Nāga, tự hỏi: "Ai đã đặt tay lên vai ta?"
Nāgopi olokento supaṇṇaṃ sañjānitvā maraṇabhayatajjito nagarā nikkhamitvā nadīpiṭṭhena palāyi.
The nāga also, looking and recognizing the supaṇṇa, was terrified by the fear of death and fled out of the city along the riverbed.
Con Nāga cũng nhìn và nhận ra con Supaṇṇa, vì sợ chết nên bỏ chạy khỏi thành phố và trốn trên mặt sông.
Supaṇṇopi ‘‘taṃ gahessāmī’’ti anubandhi.
The supaṇṇa also pursued him, thinking, "I will catch him."
Con Supaṇṇa cũng đuổi theo, nghĩ rằng "Ta sẽ bắt nó."
Tasmiṃ samaye bodhisatto tāpaso hutvā tassā nadiyā tīre paṇṇasālāya vasamāno divā darathapaṭippassambhanatthaṃ udakasāṭikaṃ nivāsetvā vakkalaṃ bahi ṭhapetvā nadiṃ otaritvā nhāyati.
At that time, the Bodhisatta, having become an ascetic, was dwelling in a leaf hut on the bank of that river, and during the day, to relieve the heat, he put on a water-robe, placed his bark-garment outside, descended into the river, and bathed.
Vào thời điểm đó, Bồ Tát là một đạo sĩ, sống trong một túp lều lá bên bờ sông đó. Ban ngày, để làm dịu cơn nóng, ngài mặc y tắm, để y vỏ cây bên ngoài, rồi xuống sông tắm.
Nāgo ‘‘imaṃ pabbajitaṃ nissāya jīvitaṃ labhissāmī’’ti pakativaṇṇaṃ vijahitvā maṇikkhandhavaṇṇaṃ māpetvā vakkalantaraṃ pāvisi.
The Nāga, thinking, "By relying on this recluse, I shall gain my life," abandoned its natural form, assumed the form of a jewel-slab, and entered the bark-robe.
Con Nāga nghĩ: "Ta sẽ thoát chết nhờ vị ẩn sĩ này," liền từ bỏ hình dạng tự nhiên, biến thành hình dạng một khối ngọc quý, rồi chui vào giữa y vỏ cây.
Supaṇṇo anubandhamāno taṃ tattha paviṭṭhaṃ disvā vakkale garubhāvena aggahetvā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘bhante, ahaṃ chāto, tumhākaṃ vakkalaṃ gaṇhatha, imaṃ nāgaṃ khādissāmī’’ti imamatthaṃ pakāsetuṃ paṭhamaṃ gāthamāha –
The Supaṇṇa, pursuing it, saw it had entered there. Out of respect for the bark-robe, it did not seize it. Instead, it addressed the Bodhisatta, saying, "Venerable sir, I am hungry. Please take your bark-robe; I will eat this Nāga." To reveal this meaning, it spoke the first verse –
Con Supaṇṇa đuổi theo, thấy nó đã chui vào đó. Vì tôn trọng y vỏ cây, nó không bắt con Nāga, mà gọi Bồ Tát và nói: "Bạch Tôn giả, con đói. Xin ngài hãy lấy y vỏ cây của ngài ra, con sẽ ăn con Nāga này." Để bày tỏ ý này, nó nói kệ đầu tiên:
64
7.
7.
7.
65
‘‘Idhūragānaṃ pavaro paviṭṭho, selassa vaṇṇena pamokkhamicchaṃ;
‘‘Here, the chief of serpents has entered, desiring release through the color of a rock;
"Kẻ tối thắng trong loài rắn đã vào đây, mong thoát khỏi, với sắc màu của đá quý;
66
Brahmañca vaṇṇaṃ apacāyamāno, bubhukkhito no vitarāmi bhottu’’nti.
Revering the noble color, though hungry, I do not dare to eat.’’
Vì tôn kính y phục của Phạm thiên, dù đói, con không dám ăn."
67
Tattha idhūragānaṃ pavaro paviṭṭhoti imasmiṃ vakkale uragānaṃ pavaro nāgarājā paviṭṭho.
There, idhūragānaṃ pavaro paviṭṭho means: into this bark-robe, the chief of serpents, the Nāga-king, has entered.
Trong đó, idhūragānaṃ pavaro paviṭṭho có nghĩa là "vị vua Nāga, kẻ tối thắng trong loài rắn, đã chui vào y vỏ cây này."
Selassa vaṇṇenāti maṇivaṇṇena, maṇikkhandho hutvā paviṭṭhoti attho.
Selassa vaṇṇenā means: with the color of a jewel, meaning, having become a jewel-slab, it entered.
Selassa vaṇṇenā có nghĩa là "với sắc màu của ngọc quý," tức là "đã chui vào với hình dạng một khối ngọc quý."
Pamokkhamicchanti mama santikā mokkhaṃ icchamāno.
Pamokkhamiccha means: desiring release from me.
Pamokkhamicchanti có nghĩa là "mong muốn thoát khỏi ta."
Brahmañca vaṇṇaṃ apacāyamānoti ahaṃ pana tumhākaṃ brahmavaṇṇaṃ seṭṭhavaṇṇaṃ pūjento garuṃ karonto.
Brahmañca vaṇṇaṃ apacāyamāno means: but I, revering your noble color, honoring it.
Brahmañca vaṇṇaṃ apacāyamāno có nghĩa là "còn ta, vì tôn kính, vì xem trọng y phục của Phạm thiên, y phục tối thượng của ngài."
Bubhukkhito no vitarāmi bhottunti etaṃ nāgaṃ vakkalantaraṃ paviṭṭhaṃ chātopi samāno bhakkhituṃ na sakkomīti.
Bubhukkhito no vitarāmi bhottu means: though hungry, I cannot eat this Nāga that has entered the bark-robe.
Bubhukkhito no vitarāmi bhottunti có nghĩa là "dù đói, ta cũng không thể ăn con Nāga đã chui vào giữa y vỏ cây này."
68
Bodhisatto udake ṭhitoyeva supaṇṇarājassa thutiṃ katvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, while standing in the water, praised the Supaṇṇa-king and spoke the second verse –
Bồ Tát, đang đứng trong nước, đã ca ngợi vua Supaṇṇa và nói kệ thứ hai:
69
8.
8.
8.
70
‘‘So brahmagutto cirameva jīva, dibyā ca te pātubhavantu bhakkhā;
‘‘May you, thus guarded by the noble one, live long, and may divine foods appear to you;
"Ngươi được Phạm thiên che chở, hãy sống lâu dài, và những món ăn của chư thiên hãy hiện ra cho ngươi;
71
Yo brahmavaṇṇaṃ apacāyamāno, bubhukkhito no vitarāsi bhottu’’nti.
You who, revering the noble color, though hungry, do not dare to eat.’’
Vì ngươi tôn kính y phục của Phạm thiên, dù đói, ngươi không dám ăn."
72
Tattha so brahmaguttoti so tvaṃ brahmagopito brahmarakkhito hutvā.
There, so brahmagutto means: may you, thus guarded by the noble one, protected by the noble one, be.
Trong đó, so brahmagutto có nghĩa là "ngươi, được Phạm thiên bảo vệ, được Phạm thiên che chở."
Dibyā ca te pātubhavantu bhakkhāti devatānaṃ paribhogārahā bhakkhā ca tava pātubhavantu, mā pāṇātipātaṃ katvā nāgamaṃsakhādako ahosi.
Dibyā ca te pātubhavantu bhakkhā means: and may foods worthy of consumption by devas appear to you; may you not become a consumer of nāga-flesh by committing pāṇātipāta.
Dibyā ca te pātubhavantu bhakkhā có nghĩa là "và những món ăn xứng đáng cho chư thiên hưởng thụ cũng hãy hiện ra cho ngươi; đừng sát sinh mà trở thành kẻ ăn thịt Nāga."
73
Iti bodhisatto udake ṭhitova anumodanaṃ katvā uttaritvā vakkalaṃ nivāsetvā te ubhopi gahetvā assamapadaṃ gantvā mettābhāvanāya vaṇṇaṃ kathetvā dvepi jane samagge akāsi.
Thus, the Bodhisatta, while standing in the water, gave his appreciation, then came out, put on his bark-robe, took both of them, went to the hermitage, spoke of the excellence of mettā-bhāvanā, and made the two beings harmonious.
Cứ thế, Bồ Tát, đang đứng trong nước, đã tùy hỷ công đức, rồi lên bờ, mặc y vỏ cây, dẫn cả hai con vật đến am thất, thuyết giảng về công đức của sự tu tập tâm từ, và đã hòa giải cả hai.
Te tato paṭṭhāya samaggā sammodamānā sukhaṃ vasiṃsu.
From then on, they lived happily, united and rejoicing.
Từ đó về sau, chúng sống hòa thuận, vui vẻ và hạnh phúc.
74
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā nāgo ca supaṇṇo ca ime dve mahāmattā ahesuṃ, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the Nāga and the Supaṇṇa were these two great ministers; the ascetic was I myself."
Bậc Đạo Sư đã mang bài Pháp thoại này đến và kết nối câu chuyện Jātaka: "Khi ấy, con Nāga và con Supaṇṇa là hai vị đại thần này, còn vị đạo sĩ chính là ta."
75
Uragajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth Uragajātaka commentary.
Câu chuyện Jātaka về con rắn, thứ tư, đã chấm dứt.
76
* 5. Bhaggajātakavaṇṇanā
* 5. Bhaggajātakavaṇṇanā
* 5. Câu chuyện Jātaka về Bhagga
77
Jīva vassasataṃ bhaggāti idaṃ satthā jetavanasamīpe pasenadikosalena raññā kārite rājakārāme viharanto attano khipitakaṃ ārabbha kathesi.
Jīva vassasataṃ bhaggā – The Teacher, while residing in the royal park built by King Pasenadi of Kosala near Jetavana, spoke this in reference to his own sneeze.
Jīva vassasataṃ bhaggā (Hãy sống trăm năm, hỡi Bhaggā) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại vương viên do vua Pasenadi Kosala xây dựng gần Jetavana, liên quan đến căn bệnh kiết lỵ của chính ngài.
Ekasmiñhi divase satthā rājakārāme catuparisamajjhe nisīditvā dhammaṃ desento khipi.
Indeed, one day, the Teacher, sitting in the midst of the four assemblies in the royal park, sneezed while teaching the Dhamma.
Một ngày nọ, Đức Đạo Sư (Satthā) đang ngồi giữa bốn hội chúng trong vườn hoàng gia, thuyết pháp thì ho khan.
Bhikkhū ‘‘jīvatu, bhante bhagavā, jīvatu, sugato’’ti uccāsaddaṃ mahāsaddaṃ akaṃsu, tena saddena dhammakathāya antarāyo ahosi.
The bhikkhus made a loud and great noise, saying, "May the Blessed One live, Venerable sir! May the Sugata live!" Due to that noise, there was an interruption to the Dhamma talk.
Các Tỳ-kheo lớn tiếng, ồn ào nói: “Bạch Thế Tôn, xin Ngài sống lâu! Bạch Thiện Thệ, xin Ngài sống lâu!” Do tiếng ồn đó mà việc thuyết pháp bị gián đoạn.
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘api nu kho, bhikkhave, khipite ‘jīvā’ti vutto tappaccayā jīveyya vā mareyya vā’’ti?
Then the Blessed One addressed the bhikkhus, "Bhikkhus, if one says 'Live!' to a sneezed person, would that person live or die because of it?"
Sau đó, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo và hỏi: “Này các Tỳ-kheo, khi một người ho khan, nếu được nói ‘Hãy sống lâu’, liệu người ấy có sống lâu hay chết đi do lời nói đó không?”
‘‘No hetaṃ bhante’’ti.
"No, Venerable sir," they replied.
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.”
‘‘Na, bhikkhave, khipite ‘jīvā’ti vattabbo, yo vadeyya āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 288).
"Bhikkhus, one should not say 'Live!' to a sneezed person. Whoever says it incurs an offense of dukkaṭa."
“Này các Tỳ-kheo, không nên nói ‘Hãy sống lâu’ khi một người ho khan. Ai nói như vậy sẽ phạm tội dukkaṭa.”
Tena kho pana samayena manussā bhikkhūnaṃ khipite ‘‘jīvatha, bhante’’ti vadanti, bhikkhū kukkuccāyantā nālapanti.
At that time, people would say to the bhikkhus who sneezed, "May you live, Venerable sirs!" The bhikkhus, feeling scruples, did not respond.
Vào thời điểm đó, mọi người thường nói với các Tỳ-kheo khi họ ho khan: “Bạch quý Ngài, xin quý Ngài sống lâu.” Các Tỳ-kheo vì lo sợ nên không đáp lại.
Manussā ujjhāyanti – ‘‘kathañhi nāma samaṇā sakyaputtiyā ‘jīvatha, bhante’ti vuccamānā nālapissantī’’ti.
The people complained, "How can it be that these Sakyan recluses do not respond when addressed with 'May you live, Venerable sirs!'?"
Mọi người than phiền: “Sao mà các Sa-môn Thích tử lại không đáp lại khi được nói ‘Bạch quý Ngài, xin quý Ngài sống lâu’?”
Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ.
They reported this matter to the Blessed One.
Họ đã trình bày sự việc này lên Đức Thế Tôn.
Gihī, bhikkhave, maṅgalikā, anujānāmi, bhikkhave, gihīnaṃ ‘‘jīvatha, bhante’’ti vuccamānena ‘‘ciraṃ jīvā’’ti vattunti.
"Householders, bhikkhus, are auspicious. I allow, bhikkhus, that when householders say 'May you live, Venerable sirs!', one should respond with 'May you live long!'"
Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ-kheo, hàng gia chủ là những người tin vào điềm lành. Này các Tỳ-kheo, Ta cho phép khi được hàng gia chủ nói ‘Bạch quý Ngài, xin quý Ngài sống lâu’ thì hãy đáp lại ‘Mong quý vị sống lâu’.”
Bhikkhū bhagavantaṃ pucchiṃsu – ‘‘bhante, jīvapaṭijīvaṃ nāma kadā uppanna’’nti?
The bhikkhus asked the Blessed One, "Venerable sir, when did this custom of 'live and respond' arise?"
Các Tỳ-kheo hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, việc ‘jīvapaṭijīvaṃ’ (sống lâu đáp lại sống lâu) này đã xuất hiện từ khi nào?”
Satthā ‘‘bhikkhave, jīvapaṭijīvaṃ nāma porāṇakāle uppanna’’nti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Bhikkhus, the custom of 'live and respond' arose in ancient times," then related a past event.
Đức Đạo Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, việc ‘jīvapaṭijīvaṃ’ này đã xuất hiện từ thời xa xưa,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
78
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe ekasmiṃ brāhmaṇakule nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī kingdom.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát (Bodhisatta) tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī.
Tassa pitā vohāraṃ katvā jīvikaṃ kappeti, so soḷasavassuddesikaṃ bodhisattaṃ maṇikabhaṇḍaṃ ukkhipāpetvā gāmanigamādīsu caranto bārāṇasiṃ patvā dovārikassa ghare bhattaṃ pacāpetvā bhuñjitvā nivāsaṭṭhānaṃ alabhanto ‘‘avelāya āgatā āgantukā kattha vasantī’’ti pucchi.
His father earned his livelihood by trading. He made the Bodhisatta, who was sixteen years old, carry the gem merchandise, and traveling through villages and market towns, he reached Bārāṇasī. After having food cooked and eaten at the doorkeeper's house, and not finding a place to stay, he asked, "Where do guests who arrive late stay?"
Cha của Ngài sống bằng nghề buôn bán. Ông cho Bồ-tát, lúc đó mười sáu tuổi, mang theo một túi ngọc quý, đi khắp các làng mạc, thị trấn. Khi đến Bārāṇasī, ông cho nấu cơm tại nhà của người gác cổng, ăn xong mà không tìm được chỗ ở, ông hỏi: “Những người khách đến muộn thì ở đâu?”
Atha naṃ manussā ‘‘bahinagare ekā sālā atthi, sā pana amanussapariggahitā.
Then the people said to him, "There is a hall outside the city, but it is possessed by non-humans.
Bấy giờ, mọi người nói với ông: “Ở ngoài thành có một hội trường, nhưng nó bị phi nhân chiếm giữ.
Sace icchatha, tattha vasathā’’ti āhaṃsu.
If you wish, stay there."
Nếu ông muốn, hãy ở đó.”
Bodhisatto ‘‘etha, tāta, gacchāma, mā yakkhassa bhāyittha, ahaṃ taṃ dametvā tumhākaṃ pādesu pātessāmī’’ti pitaraṃ gahetvā tattha gato.
The Bodhisatta took his father and went there, saying, "Come, father, let us go; do not fear the yakkha, I will subdue him and make him fall at your feet."
Bồ-tát nói: “Cha ơi, chúng ta hãy đi, đừng sợ Dạ-xoa (yakkha). Con sẽ chế ngự nó và đặt nó dưới chân cha,” rồi Ngài dẫn cha đến đó.
Athassa pitā phalake nipajji, sayaṃ pitu pāde sambāhanto nisīdi.
Then his father lay down on a plank, and he himself sat massaging his father's feet.
Sau đó, cha Ngài nằm xuống trên tấm ván, còn Ngài ngồi xoa bóp chân cho cha.
Tattha adhivattho yakkho dvādasa vassāni vessavaṇaṃ upaṭṭhahitvā taṃ sālaṃ labhanto ‘‘imaṃ sālaṃ paviṭṭhamanussesu yo khipite ‘jīvā’ti vadati, yo ca ‘jīvā’ti vutte ‘paṭijīvā’ti vadati, te jīvapaṭijīvabhāṇino ṭhapetvā avasese khādeyyāsī’’ti labhi.
The yakkha dwelling there had served Vessavaṇa for twelve years and obtained that hall with the condition: "Among the people who enter this hall, you may devour all except those who say 'Jīva!' when someone sneezes, and those who say 'Paṭijīva!' when 'Jīva!' is said."
Tại đó, vị dạ xoa trú ngụ, sau khi phụng sự Thần Vesavaṇa mười hai năm, đã nhận được ngôi nhà này với điều kiện: ‘‘Trong số những người bước vào ngôi nhà này, ai hắt hơi mà nói ‘cầu sống thọ’, và ai khi được nói ‘cầu sống thọ’ lại đáp ‘cầu sống thọ lại’, thì hãy trừ những người nói lời ‘cầu sống thọ’ và ‘đáp lại cầu sống thọ’ đó ra, còn lại thì hãy ăn thịt.’’
So piṭṭhivaṃsathūṇāya vasati.
He lived on the main pillar.
Nó trú ngụ trên cột trụ của xà dọc.
So ‘‘bodhisattassa pitaraṃ khipāpessāmī’’ti attano ānubhāvena sukhumacuṇṇaṃ vissajjesi, cuṇṇo āgantvā tassa nāsapuṭe pāvisi.
Thinking, "I will make the Bodhisatta's father sneeze," he released fine powder with his power, and the powder came and entered the father's nostrils.
Nó nghĩ ‘‘Ta sẽ khiến cha của Bồ-tát hắt hơi’’, bèn dùng thần thông của mình để phóng ra một loại bột mịn, loại bột đó bay đến và đi vào lỗ mũi của vị ấy.
So phalake nipannakova khipi, bodhisatto na ‘‘jīvā’’ti āha.
He sneezed while still lying on the plank, but the Bodhisatta did not say "Jīva!"
Vị ấy hắt hơi ngay khi đang nằm trên tấm ván, nhưng Bồ-tát không nói ‘‘cầu sống thọ’’.
Yakkho taṃ khādituṃ thūṇāya otarati.
The yakkha descended from the pillar to devour him.
Dạ xoa từ cột trụ xuống để ăn thịt vị ấy.
Bodhisatto taṃ otarantaṃ disvā ‘‘iminā me pitā khipāpito bhavissati, ayaṃ so khipite ‘jīvā’ti avadantaṃ khādakayakkho bhavissatī’’ti pitaraṃ ārabbha paṭhamaṃ gāthamāha –
Seeing him descend, the Bodhisatta thought, "This yakkha must have made my father sneeze; this is the yakkha who devours those who do not say 'Jīva!' when someone sneezes." Thinking of his father, he spoke the first verse:
Bồ-tát thấy nó đang xuống, bèn nghĩ ‘‘Cha ta chắc hẳn đã bị nó khiến cho hắt hơi, đây chính là con dạ xoa ăn thịt những ai không nói ‘cầu sống thọ’ khi hắt hơi’’, và hướng về cha mình, nói lên bài kệ đầu tiên –
79
9.
9.
9.
80
‘‘Jīva vassasataṃ bhagga, aparāni ca vīsatiṃ;
"Live, Bhaggā, for a hundred years, and twenty more;
‘‘Bhagga, hãy sống trăm năm, và thêm hai mươi năm nữa;
81
Mā maṃ pisācā khādantu, jīva tvaṃ saradosata’’nti.
May no pisācas devour me; live you for a hundred years with twenty added."
Xin đừng để các loài Dạ xoa ăn thịt con, cha hãy sống thêm một trăm hai mươi năm nữa.’’
82
Tattha bhaggāti pitaraṃ nāmenālapati.
Therein, Bhaggā addresses his father by name.
Ở đây, Bhagga là gọi tên người cha.
Aparāni ca vīsatinti aparāni ca vīsati vassāni jīva.
Aparāni ca vīsatiṃ means "live for twenty more years."
Aparāni ca vīsatiṃ nghĩa là hãy sống thêm hai mươi năm nữa.
Mā maṃ pisācā khādantūti maṃ pisācā mā khādantu.
Mā maṃ pisācā khādantu means "may no pisācas devour me."
Mā maṃ pisācā khādantu nghĩa là đừng để các loài Dạ xoa ăn thịt con.
Jīva tvaṃ saradosatanti tvaṃ pana vīsuttaraṃ vassasataṃ jīvāti.
Jīva tvaṃ saradosataṃ means "may you live for a hundred and twenty years."
Jīva tvaṃ saradosataṃ nghĩa là cha hãy sống thêm một trăm hai mươi năm nữa.
Saradosatañhi gaṇiyamānaṃ vassasatameva hoti, taṃ purimehi vīsāya saddhiṃ vīsuttaraṃ idha adhippetaṃ.
For when "saradosataṃ" is counted, it is indeed a hundred years, and here, a hundred and twenty years, including the former twenty, is intended.
Thật vậy, khi tính toán, một trăm hai mươi năm chính là một trăm năm, ở đây ý muốn nói một trăm hai mươi năm bao gồm cả hai mươi năm trước.
83
Yakkho bodhisattassa vacanaṃ sutvā ‘‘imaṃ tāva māṇavaṃ ‘jīvā’ti vuttattā khādituṃ na sakkā, pitaraṃ panassa khādissāmī’’ti pitu santikaṃ agamāsi.
Hearing the Bodhisatta's words, the yakkha thought, "I cannot devour this youth since 'Jīva!' has been said. But I will devour his father." So he went towards the father.
Dạ xoa nghe lời Bồ-tát nói, nghĩ ‘‘Không thể ăn thịt chàng thanh niên này vì đã nói ‘cầu sống thọ’, nhưng ta sẽ ăn thịt cha của chàng’’, bèn đi đến chỗ người cha.
So taṃ āgacchantaṃ disvā cintesi – ‘‘ayaṃ so ‘paṭijīvā’ti abhaṇantānaṃ khādakayakkho bhavissati, paṭijīvaṃ karissāmī’’ti.
Seeing him approach, the father thought, "This must be the yakkha who devours those who do not say 'Paṭijīva!' I will say 'Paṭijīva!'"
Người cha thấy nó đang đến, bèn nghĩ – ‘‘Đây chắc hẳn là con dạ xoa ăn thịt những ai không đáp ‘cầu sống thọ lại’, ta sẽ đáp ‘cầu sống thọ lại’.’’
So puttaṃ ārabbha dutiyaṃ gāthamāha –
Thinking of his son, he spoke the second verse:
Vị ấy hướng về con trai mình, nói lên bài kệ thứ hai –
84
10.
10.
10.
85
‘‘Tvampi vassasataṃ jīvaṃ, aparāni ca vīsatiṃ;
"May you too live for a hundred years, and twenty more;
‘‘Con cũng hãy sống trăm năm, và thêm hai mươi năm nữa;
86
Visaṃ pisācā khādantu, jīva tvaṃ saradosata’’nti.
May the pisācas devour poison; live you for a hundred years with twenty added."
Xin đừng để các loài Dạ xoa ăn thịt con, con hãy sống thêm một trăm hai mươi năm nữa.’’
87
Tattha visaṃ pisācā khādantūti pisācā halāhalavisaṃ khādantu.
Therein, visaṃ pisācā khādantu means "may the pisācas devour deadly poison."
Ở đây, Visaṃ pisācā khādantu nghĩa là các loài Dạ xoa hãy ăn chất độc halāhala.
88
Yakkho tassa vacanaṃ sutvā ‘‘ubhopi me na sakkā khāditu’’nti paṭinivatti.
Hearing his words, the yakkha turned back, thinking, "I cannot devour either of them."
Dạ xoa nghe lời vị ấy nói, nghĩ ‘‘Ta không thể ăn thịt cả hai cha con’’, bèn quay trở lại.
Atha naṃ bodhisatto pucchi – ‘‘bho yakkha, kasmā tvaṃ imaṃ sālaṃ paviṭṭhamanusse khādasī’’ti?
Then the Bodhisatta asked him, "Hey yakkha, why do you devour the people who enter this hall?"
Bồ-tát bèn hỏi nó – ‘‘Này Dạ xoa, tại sao ngươi lại ăn thịt những người vào ngôi nhà này?’’
‘‘Dvādasa vassāni vessavaṇaṃ upaṭṭhahitvā laddhattā’’ti.
"Because I obtained it after serving Vessavaṇa for twelve years."
‘‘Vì ta đã phụng sự Thần Vesavaṇa mười hai năm và được ban cho quyền đó.’’
‘‘Kiṃ pana sabbeva khādituṃ labhasī’’ti?
"But do you get to devour everyone?"
‘‘Vậy ngươi có được phép ăn thịt tất cả mọi người không?’’
‘‘Jīvapaṭijīvabhāṇino ṭhapetvā avasese khādāmī’’ti.
"I devour all except those who say 'Jīva!' and 'Paṭijīva!'"
‘‘Ta ăn thịt những người còn lại, trừ những ai nói ‘cầu sống thọ’ và ‘đáp lại cầu sống thọ’.’’
‘‘Yakkha, tvaṃ pubbepi akusalaṃ katvā kakkhaḷo pharuso paravihiṃsako hutvā nibbatto, idānipi tādisaṃ kammaṃ katvā tamo tamaparāyaṇo bhavissati, tasmā ito paṭṭhāya pāṇātipātādīhi viramassū’’ti taṃ yakkhaṃ dametvā nirayabhayena tajjetvā pañcasu sīlesu patiṭṭhāpetvā yakkhaṃ pesanakārakaṃ viya akāsi.
"Yakkha, you were born harsh, cruel, and harmful to others because you performed unwholesome deeds in the past. Now, by performing such deeds again, you will go from darkness to deeper darkness. Therefore, from now on, abstain from taking life and other unwholesome actions." Thus, he subdued that yakkha, threatened him with the fear of hell, established him in the five precepts, and made the yakkha like a servant.
‘‘Này Dạ xoa, trước đây ngươi đã tạo nghiệp bất thiện, sinh ra làm một kẻ thô bạo, hung ác, làm hại người khác; bây giờ ngươi lại tạo nghiệp như vậy, sẽ đi từ tối tăm đến chỗ tối tăm hơn. Vì vậy, từ nay trở đi, hãy từ bỏ sát sinh và các điều ác khác.’’ Bồ-tát đã thuần hóa con dạ xoa đó, đe dọa nó bằng nỗi sợ hãi địa ngục, khiến nó an trú trong năm giới, và biến nó thành như một người sai vặt.
89
Punadivase sañcarantā manussā yakkhaṃ disvā bodhisattena cassa damitabhāvaṃ ñatvā rañño ārocesuṃ – ‘‘deva, eko māṇavo taṃ yakkhaṃ dametvā pesanakārakaṃ viya katvā ṭhito’’ti.
The next day, people passing by saw the yakkha and, knowing that he had been subdued by the Bodhisatta, reported to the king, "Your Majesty, a certain youth has subdued that yakkha and made him like a servant."
Ngày hôm sau, những người đi đường nhìn thấy con dạ xoa và biết rằng nó đã bị Bồ-tát thuần hóa, bèn tâu với nhà vua – ‘‘Tâu Đại vương, có một chàng thanh niên đã thuần hóa con dạ xoa đó và biến nó thành như một người sai vặt.’’
Rājā bodhisattaṃ pakkosāpetvā senāpatiṭṭhāne ṭhapesi, pitu cassa mahantaṃ yasaṃ adāsi.
The king summoned the Bodhisatta and appointed him to the position of general, and he bestowed great honor upon his father.
Nhà vua cho gọi Bồ-tát đến, đặt ngài vào chức vụ Tổng tư lệnh, và ban cho cha của ngài danh vọng lớn.
So yakkhaṃ balipaṭiggāhakaṃ katvā bodhisattassa ovāde ṭhatvā dānādīni puññāni katvā saggapuraṃ pūresi.
That king, having made the yakkha a receiver of offerings, and abiding by the Bodhisatta's advice, performed deeds of merit such as giving, and filled the city of devas (heaven).
Vị vua đó đã biến con dạ xoa thành kẻ nhận lễ vật, an trú trong lời giáo huấn của Bồ-tát, thực hành các công đức như bố thí, và làm đầy cõi trời.
90
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā ‘‘jīvapaṭijīvaṃ nāma tasmiṃ kāle uppanna’’nti vatvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā yakkho aṅgulimālo ahosi, rājā ānando, pitā kassapo, putto pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, and saying, “‘Live and reciprocate life’ arose at that time,” connected the Jātaka: “At that time, the yakkha was Aṅgulimāla; the king was Ānanda; the father was Kassapa; but the son was I myself.”
Đức Phật đã kể lại bài pháp này và nói rằng ‘‘Việc ‘cầu sống thọ’ và ‘đáp lại cầu sống thọ’ đã xuất hiện vào thời đó’’, rồi kết nối câu chuyện Jātaka – ‘‘Vào thời đó, con dạ xoa là Angulimāla, nhà vua là Ananda, người cha là Kassapa, còn người con chính là Ta.’’
91
Bhaggajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth commentary on the Bhagga Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Bhagga, thứ năm, đã hoàn tất.
92
* 6. Alīnacittajātakavaṇṇanā
* 6. Commentary on the Alīnacitta Jātaka
* 6. Câu chuyện Jātaka về Alīnacitta
93
Alīnacittaṃ nissāyāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ossaṭṭhavīriyaṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Alīnacittaṃ nissāyāti: This the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a monk who had given up effort.
Alīnacittaṃ nissāyā – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ-khưu đã từ bỏ tinh tấn.
Vatthu ekādasanipāte saṃvarajātake (jā. 1.11.97 ādayo) āvibhavissati.
The story will appear in the eleventh Nipāta in the Saṃvara Jātaka.
Câu chuyện sẽ được trình bày trong Saṃvarajātaka (Jā. 1.11.97 và các câu tiếp theo) thuộc tập mười một.
So pana bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, vīriyaṃ ossajī’’ti vutte ‘‘saccaṃ, bhagavā’’ti āha.
When that monk was asked by the Teacher, “Is it true, monk, that you have given up effort?” he replied, “It is true, Blessed One.”
Khi Đức Phật hỏi vị Tỳ-khưu đó: ‘‘Này Tỳ-khưu, có thật là ngươi đã từ bỏ tinh tấn không?’’, vị ấy đáp: ‘‘Bạch Thế Tôn, đúng vậy.’’
Atha naṃ satthā ‘‘nanu tvaṃ, bhikkhu, pubbe vīriyaṃ avissajjetvā maṃsapesisadisassa daharakumārassa dvādasayojanike bārāṇasinagare rajjaṃ gahetvā adāsi, idāni kasmā evarūpe sāsane pabbajitvā vīriyaṃ ossajasī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, “Monk, did you not previously, without giving up effort, obtain and give the kingship in the city of Bārāṇasī, twelve yojanas distant, to a young boy who was like a piece of flesh? Why do you now give up effort, having gone forth in such a teaching?” and he related a past event.
Đức Phật bèn nói với vị ấy: ‘‘Này Tỳ-khưu, lẽ nào trước đây ngươi đã không từ bỏ tinh tấn, mà còn giành lấy vương quốc ở thành phố Bārāṇasī cách xa mười hai dojana để trao cho một đứa trẻ sơ sinh như một miếng thịt, vậy mà bây giờ, sau khi xuất gia trong giáo pháp như thế này, tại sao ngươi lại từ bỏ tinh tấn?’’ – rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
94
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bārāṇasito avidūre vaḍḍhakīgāmo ahosi, tattha pañcasatā vaḍḍhakī vasanti.
In the past, while Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, there was a carpenters’ village not far from Bārāṇasī, where five hundred carpenters lived.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, có một làng thợ mộc không xa Bārāṇasī, nơi năm trăm thợ mộc sinh sống.
Te nāvāya uparisotaṃ gantvā araññe gehasambhāradārūni koṭṭetvā tattheva ekabhūmikadvibhūmikādibhede gehasambhāre sajjetvā thambhato paṭṭhāya sabbadārūsu saññaṃ katvā nadītīraṃ netvā nāvaṃ āropetvā anusotena nagaraṃ āgantvā ye yādisāni gehāni ākaṅkhanti, tesaṃ tādisāni katvā kahāpaṇe gahetvā puna tattheva gantvā gehasambhāre āharanti.
They would go upstream by boat to the forest, cut timber for house-building, prepare house components for one-storied, two-storied, and other types of houses right there, mark all the timber from the pillars onwards, carry them to the riverbank, load them onto boats, come to the city downstream, build houses of the desired type for those who wished them, receive kahāpaṇas, and then go back to the same place to bring more house components.
Họ đi thuyền ngược dòng sông, đốn gỗ làm vật liệu xây nhà trong rừng, rồi ngay tại đó, họ chế tác các vật liệu xây nhà với nhiều loại như nhà một tầng, nhà hai tầng, v.v., đánh dấu tất cả các loại gỗ từ cột trụ trở đi, mang chúng đến bờ sông, chất lên thuyền, rồi xuôi dòng về thành phố. Họ xây những ngôi nhà theo ý muốn của khách hàng, nhận tiền, rồi lại quay lại đó để mang vật liệu xây nhà về.
Evaṃ tesaṃ jīvikaṃ kappentānaṃ ekasmiṃ kāle khandhāvāraṃ bandhitvā dārūni koṭṭentānaṃ avidūre eko hatthī khadirakhāṇukaṃ akkami.
As they were thus earning their livelihood, at one time, while they were setting up camp and cutting timber, an elephant not far away stepped on a thorn of a catechu tree.
Trong khi họ sống như vậy, một lần nọ, khi đang dựng trại và đốn gỗ, một con voi đã giẫm phải một gốc cây keo gần đó.
Tassa so khāṇuko pādaṃ vijjhi, balavavedanā vattanti, pādo uddhumāyitvā pubbaṃ gaṇhi.
That thorn pierced its foot, causing severe pain; the foot swelled up and became suppurated.
Gốc cây đó đâm vào chân nó, gây ra cơn đau dữ dội, chân nó sưng lên và mưng mủ.
So vedanāppatto tesaṃ dārukoṭṭanasaddaṃ sutvā ‘‘ime vaḍḍhakī nissāya mayhaṃ sotthi bhavissatī’’ti maññamāno tīhi pādehi tesaṃ santikaṃ gantvā avidūre nipajji, vaḍḍhakī taṃ uddhumātapādaṃ disvā upasaṅkamitvā pāde khāṇukaṃ disvā tikhiṇavāsiyā khāṇukassa samantato odhiṃ datvā rajjuyā bandhitvā ākaḍḍhantā khāṇuṃ nīharitvā pubbaṃ mocetvā uṇhodakena dhovitvā tadanurūpehi bhesajjehi makkhetvā nacirasseva vaṇaṃ phāsukaṃ kariṃsu.
Suffering from pain, hearing the sound of their timber cutting, and thinking, “Through these carpenters, I shall find well-being,” it went to them on three legs and lay down not far away. The carpenters, seeing its swollen foot, approached it, saw the thorn in its foot, cut around the thorn with a sharp adze, tied a rope, pulled out the thorn, released the pus, washed it with warm water, applied suitable medicines, and soon healed the wound.
Con voi đang đau đớn, nghe tiếng đốn gỗ của họ, nghĩ ‘‘Nhờ những người thợ mộc này mà ta sẽ được cứu’’, bèn dùng ba chân đi đến chỗ họ và nằm xuống gần đó. Các thợ mộc thấy chân nó sưng lên, bèn đến gần, nhìn thấy gốc cây trong chân, dùng rìu sắc bén chặt xung quanh gốc cây, dùng dây thừng buộc và kéo ra, loại bỏ gốc cây, nặn mủ ra, rửa bằng nước ấm, rồi bôi thuốc phù hợp, và không lâu sau vết thương đã lành.
95
Hatthī arogo hutvā cintesi – ‘‘mayā ime vaḍḍhakī nissāya jīvitaṃ laddhaṃ, idāni tesaṃ mayā upakāraṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
The elephant, having recovered, thought, “I have gained my life through these carpenters; now it is fitting for me to render them assistance.”
Con voi đã lành bệnh, nghĩ – ‘‘Ta đã được cứu sống nhờ những người thợ mộc này, bây giờ ta phải đền ơn họ.’’
So tato paṭṭhāya vaḍḍhakīhi saddhiṃ rukkhe nīharati, tacchentānaṃ parivattetvā deti, vāsiādīni upasaṃharati, soṇḍāya veṭhetvā kāḷasuttakoṭiyaṃ gaṇhāti.
From then on, it helped the carpenters pull out trees, turned them over for those who were planing, brought adzes and other tools, and held the end of the measuring line with its trunk.
Từ đó trở đi, nó cùng với các thợ mộc kéo cây, lật cây khi họ đẽo, mang rìu và các dụng cụ khác đến, dùng vòi quấn lấy và giữ chặt đầu sợi dây đen.
Vaḍḍhakīpissa bhojanavelāya ekekaṃ piṇḍaṃ dentā pañca piṇḍasatāni denti.
And the carpenters gave it five hundred mouthfuls of food, one mouthful at a time, at mealtime.
Các thợ mộc cũng cho nó ăn, mỗi người một nắm, tổng cộng năm trăm nắm.
Tassa pana hatthissa putto sabbaseto hatthājānīyapotako atthi, tenassa etadahosi – ‘‘ahaṃ etarahi mahallako.
That elephant had a son, a pure white elephant calf of noble breed, and it thought, “I am now old.
Con voi đó có một con trai là một chú voi con thuần chủng toàn thân trắng, vì vậy nó nghĩ – ‘‘Bây giờ ta đã già rồi.
Idāni mayā imesaṃ vaḍḍhakīnaṃ kammakaraṇattāya puttaṃ datvā gantuṃ vaṭṭatī’’ti.
Now it is fitting for me to give my son to these carpenters for their work and depart.”
Bây giờ ta nên giao con trai mình cho những người thợ mộc này làm việc rồi đi.’’
So vaḍḍhakīnaṃ anācikkhitvāva araññaṃ pavisitvā puttaṃ ānetvā ‘‘ayaṃ hatthipotako mama putto, tumhehi mayhaṃ jīvitaṃ dinnaṃ, ahaṃ vo vejjavetanatthāya imaṃ dammi, ayaṃ tumhākaṃ ito paṭṭhāya kammāni karissatī’’ti vatvā ‘‘ito paṭṭhāya, puttaka, yaṃ mayā kattabbaṃ kammaṃ, taṃ tvaṃ karohī’’ti puttaṃ ovaditvā vaḍḍhakīnaṃ datvā sayaṃ araññaṃ pāvisi.
Without telling the carpenters, it entered the forest, brought its son, and said, “This elephant calf is my son. You gave me life; I give him to you as payment for your medical service. He will do your work from now on.” Having thus instructed its son, “From now on, my son, you do the work that I used to do,” it gave him to the carpenters and itself entered the forest.
Nó không nói với các thợ mộc mà đi vào rừng, dẫn con trai về và nói: ‘‘Chú voi con này là con trai của ta, các ngươi đã cứu mạng ta, ta giao chú voi này cho các ngươi làm công trả ơn thầy thuốc. Từ nay chú voi này sẽ làm việc cho các ngươi.’’ Nó khuyên bảo con trai ‘‘Từ nay trở đi, con trai, con hãy làm những việc mà ta phải làm’’, rồi giao con trai cho các thợ mộc và tự mình đi vào rừng.
96
Tato paṭṭhāya hatthipotako vaḍḍhakīnaṃ vacanakaro ovādakkhamo hutvā sabbakiccāni karoti.
From then on, the elephant calf, being obedient to the carpenters and amenable to advice, performed all tasks.
Từ đó trở đi, chú voi con vâng lời các thợ mộc, dễ bảo, và làm tất cả mọi việc.
Tepi taṃ pañcahi piṇḍasatehi posenti, so kammaṃ katvā nadiṃ otaritvā nhatvā kīḷitvā āgacchati, vaḍḍhakīdārakāpi taṃ soṇḍādīsu gahetvā udakepi thalepi tena saddhiṃ kīḷanti.
And they nourished him with five hundred lumps of food. He, having done his work, would descend into the river, bathe, play, and then return. The carpenters' children would also take hold of his trunk and other parts, playing with him both in the water and on land.
Họ cũng nuôi nó bằng năm trăm nắm thức ăn, nó làm việc xong, xuống sông tắm rửa, chơi đùa rồi trở về, các đứa trẻ thợ mộc cũng nắm vòi nó và chơi đùa với nó cả trên cạn lẫn dưới nước.
Ājānīyā pana hatthinopi assāpi purisāpi udake uccāraṃ vā passāvaṃ vā na karonti, tasmā sopi udake uccārapassāvaṃ akatvā bahinadītīreyeva karoti.
But noble breeds, whether elephants, horses, or men, do not pass urine or excrement in water. Therefore, he too would not pass urine or excrement in the water, but only on the riverbank outside.
Tuy nhiên, những con voi thuần chủng, ngựa thuần chủng và người thuần chủng không đi tiểu hay đại tiện dưới nước, vì vậy nó cũng không đi tiểu hay đại tiện dưới nước mà chỉ đi ở bờ sông.
Athekasmiṃ divase uparinadiyā devo vassi, atha sukkhaṃ hatthilaṇḍaṃ udakena nadiṃ otaritvā gacchantaṃ bārāṇasīnagaratitthe ekasmiṃ gumbe laggetvā aṭṭhāsi.
Then, one day, it rained upstream. So, a dry elephant dung, carried by the water, floated down the river and became stuck in a bush at the bathing place of Bārāṇasī city.
Một ngày nọ, trời mưa ở thượng nguồn sông, rồi một cục phân voi khô trôi xuống sông và mắc kẹt vào một bụi cây ở bến sông thành phố Bārāṇasī.
Atha rañño hatthigopakā ‘‘hatthī nhāpessāmā’’ti pañca hatthisatāni nayiṃsu.
Then the king's elephant-keepers led five hundred elephants, saying, "We will bathe the elephants."
Các người quản voi của nhà vua dẫn năm trăm con voi đi tắm.
Ājānīyalaṇḍassa gandhaṃ ghāyitvā ekopi hatthī nadiṃ otarituṃ na ussahi.
Smelling the scent of the noble elephant's dung, not a single elephant dared to descend into the river.
Không một con voi nào dám xuống sông khi ngửi thấy mùi phân voi thuần chủng.
Sabbepi naṅguṭṭhaṃ ukkhipitvā palāyituṃ ārabhiṃsu, hatthigopakā hatthācariyānaṃ ārocesuṃ.
All of them lifted their tails and began to flee. The elephant-keepers reported this to the elephant-trainers.
Tất cả đều vểnh đuôi lên và bắt đầu bỏ chạy. Những người giữ voi báo tin cho các huấn luyện viên voi.
Te ‘‘udake paripanthena bhavitabba’’nti udakaṃ sodhāpetvā tasmiṃ gumbe taṃ ājānīyalaṇḍaṃ disvā ‘‘idamettha kāraṇa’’nti ñatvā cāṭiṃ āharāpetvā udakassa pūretvā taṃ tattha madditvā hatthīnaṃ sarīre siñcāpesuṃ, sarīrāni sugandhāni ahesuṃ.
They, thinking, "There must be an obstruction in the water," had the water cleared and, seeing that noble elephant dung in that bush, understood, "This is the cause here." They had a pot brought, filled it with water, crushed the dung in it, and had it sprinkled on the elephants' bodies. Their bodies became fragrant.
Họ nghĩ: “Chắc hẳn có chướng ngại vật dưới nước,” nên cho dọn dẹp nước. Khi thấy phân voi giống voi thuần chủng trong bụi cây đó, họ biết: “Đây là nguyên nhân,” rồi cho mang một cái chậu đến, đổ đầy nước, giã nát phân voi vào đó, rồi cho rưới lên thân voi. Thân voi trở nên thơm tho.
Tasmiṃ kāle te nadiṃ otaritvā nhāyiṃsu.
At that time, they descended into the river and bathed.
Vào lúc đó, chúng xuống sông tắm.
97
Hatthācariyā rañño taṃ pavattiṃ ārocetvā ‘‘taṃ hatthājānīyaṃ pariyesitvā ānetuṃ vaṭṭati, devā’’ti āhaṃsu.
The elephant-trainers reported this incident to the king and said, "It is fitting, Your Majesty, to seek out and bring that noble elephant."
Các huấn luyện viên voi báo tin đó cho nhà vua và tâu: “Tâu bệ hạ, nên tìm và mang con voi thuần chủng đó về.”
Rājā nāvāsaṅghāṭehi nadiṃ pakkhanditvā uddhaṃgāmīhi nāvāsaṅghāṭehi vaḍḍhakīnaṃ vasanaṭṭhānaṃ sampāpuṇi.
The king, embarking on the river with a fleet of boats, reached the dwelling place of the carpenters with the upstream fleet.
Nhà vua cho thuyền bè xuống sông, rồi dùng các đoàn thuyền đi ngược dòng đến chỗ ở của những người thợ mộc.
Hatthipotako nadiyaṃ kīḷanto bherisaddaṃ sutvā gantvā vaḍḍhakīnaṃ santike aṭṭhāsi.
The young elephant, playing in the river, heard the sound of the drum, went, and stood near the carpenters.
Con voi con đang chơi dưới sông, nghe tiếng trống, bèn đi đến đứng cạnh những người thợ mộc.
Vaḍḍhakī rañño paccuggamanaṃ katvā ‘‘deva, sace dārūhi attho, kiṃ kāraṇā āgatattha, kiṃ pesetvā āharāpetuṃ na vaṭṭatī’’ti āhaṃsu.
The carpenters went forth to meet the king and said, "Your Majesty, if you need timber, for what reason have you come? Is it not fitting to have it sent for and brought?"
Những người thợ mộc ra đón nhà vua và tâu: “Tâu bệ hạ, nếu cần gỗ, vì lý do gì mà bệ hạ lại đến đây? Sao không sai người mang đến?”
‘‘Nāhaṃ, bhaṇe, dārūnaṃ atthāya āgato, imassa pana hatthissa atthāya āgatomhī’’ti.
"Friends, I have not come for timber, but I have come for this elephant."
“Này các ngươi, ta không đến vì gỗ, mà ta đến vì con voi này.”
‘‘Gāhāpetvā gacchatha, devā’’ti.
"Have him taken and go, Your Majesty."
“Tâu bệ hạ, hãy bắt nó mà đi.”
Hatthipotako gantuṃ na icchi.
The young elephant did not wish to go.
Con voi con không muốn đi.
‘‘Kiṃ kārāpeti, bhaṇe, hatthī’’ti?
"What does the elephant want, friends?"
“Này các ngươi, con voi muốn làm gì?”
‘‘Vaḍḍhakīnaṃ posāvanikaṃ āharāpeti, devā’’ti.
"He brings the sustenance for the carpenters, Your Majesty."
“Tâu bệ hạ, nó muốn mang tiền nuôi dưỡng cho những người thợ mộc.”
‘‘Sādhu, bhaṇe’’ti rājā hatthissa catunnaṃ pādānaṃ soṇḍāya naṅguṭṭhassa ca santike satasahassasatasahassakahāpaṇe ṭhapāpesi.
"Very well, friends," the king said, and had one hundred thousand kahāpaṇas placed near the elephant's four feet, trunk, and tail.
“Tốt lắm, này các ngươi,” nhà vua cho đặt một trăm ngàn đồng tiền vàng ở bốn chân, vòi và đuôi của con voi.
Hatthī ettakenāpi agantvā sabbavaḍḍhakīnaṃ dussayugesu vaḍḍhakībhariyānaṃ nivāsanasāṭakesu dinnesu saddhiṃkīḷitānaṃ dārakānañca dārakaparihāre kate nivattitvā vaḍḍhakī ca itthiyo ca dārake ca oloketvā raññā saddhiṃ agamāsi.
Even with this, the elephant did not go. When pairs of garments were given to all the carpenters, lower garments to the carpenters' wives, and care was provided for the children who had played with him, the elephant turned around, looked at the carpenters, their wives, and children, and then went with the king.
Con voi vẫn không đi với số tiền đó. Sau khi tất cả những người thợ mộc được tặng một cặp y phục, vợ của những người thợ mộc được tặng những tấm vải quấn quanh người, và những đứa trẻ chơi cùng được chăm sóc chu đáo, con voi quay lại nhìn những người thợ mộc, vợ của họ và những đứa trẻ, rồi đi cùng nhà vua.
98
Rājā taṃ ādāya nagaraṃ gantvā nagarañca hatthisālañca alaṅkārāpetvā hatthiṃ nagaraṃ padakkhiṇaṃ kāretvā hatthisālaṃ pavesetvā sabbālaṅkārehi alaṅkaritvā abhisekaṃ datvā opavayhaṃ katvā attano sahāyaṭṭhāne ṭhapetvā upaḍḍharajjaṃ hatthissa datvā attanā samānaparihāraṃ akāsi.
The king took him, went to the city, had the city and the elephant stable decorated, led the elephant in a circumambulation of the city, brought him into the stable, adorned him with all ornaments, bestowed an anointing, made him an opavayha, placed him in the position of his companion, gave half the kingdom to the elephant, and provided him with equal care as himself.
Nhà vua mang nó về thành, cho trang hoàng thành phố và chuồng voi, rồi cho voi đi nhiễu quanh thành, đưa vào chuồng voi, trang trí bằng mọi đồ trang sức, ban lễ quán đảnh, cho làm voi ngự, đặt ở vị trí bạn đồng hành của mình, ban cho voi nửa vương quốc, và đối xử với nó như chính mình.
Hatthissa āgatakālato paṭṭhāya rañño sakalajambudīpe rajjaṃ hatthagatameva ahosi.
From the time the elephant arrived, the king's rule over the entire Jambudīpa became firmly established.
Kể từ khi con voi đến, vương quốc của nhà vua trên toàn cõi Jambudīpa đều nằm trong tay ông.
Evaṃ kāle gacchante bodhisatto tassa rañño aggamahesiyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi.
Thus, as time passed, the Bodhisatta took conception in the womb of that king's chief queen.
Thời gian trôi qua như vậy, Bồ-tát (Bodhisatta) tái sinh vào bụng của vương hậu chính của vị vua đó.
Tassā gabbhaparipākakāle rājā kālamakāsi.
When her pregnancy was ripe, the king passed away.
Khi thai kỳ của bà đã chín muồi, nhà vua qua đời.
Hatthī pana sace rañño kālakatabhāvaṃ jāneyya, tatthevassa hadayaṃ phaleyya, tasmā hatthiṃ rañño kālakatabhāvaṃ ajānāpetvāva upaṭṭhahiṃsu.
However, if the elephant were to know of the king's death, his heart would surely burst right there. Therefore, they attended to him without letting the elephant know of the king's demise.
Tuy nhiên, nếu con voi biết tin nhà vua đã qua đời, tim nó sẽ vỡ tan ngay tại đó. Vì vậy, họ chăm sóc con voi mà không cho nó biết tin nhà vua đã qua đời.
Rañño pana kālakatabhāvaṃ sutvā ‘‘tucchaṃ kira rajja’’nti anantarasāmantakosalarājā mahatiyā senāya āgantvā nagaraṃ parivāresi.
But having heard of the king's death, the neighboring Kosala king, thinking, "The kingdom is now empty," came with a large army and surrounded the city.
Nghe tin nhà vua đã qua đời, vua xứ Kosala láng giềng, nghĩ: “Vương quốc này thật trống rỗng,” bèn dẫn một đội quân lớn đến bao vây thành phố.
Nagaravāsino dvārāni pidahitvā kosalarañño sāsanaṃ pahiṇiṃsu – ‘‘amhākaṃ rañño aggamahesī paripuṇṇagabbhā ‘ito kira sattame divase puttaṃ vijāyissatī’ti aṅgavijjāpāṭhakā āhaṃsu.
The city dwellers closed the gates and sent a message to the Kosala king: "The chief queen of our king is in full pregnancy. The prognosticators have said that 'she will give birth to a son on the seventh day from now.'
Dân thành đóng cửa lại và gửi sứ giả đến vua xứ Kosala: “Các nhà chiêm tinh đã nói rằng vương hậu của chúng tôi đang mang thai đủ tháng, ‘có lẽ sẽ sinh con vào ngày thứ bảy kể từ bây giờ’.
Sace sā puttaṃ vijāyissati, mayaṃ sattame divase yuddhaṃ dassāma, na rajjaṃ, ettakaṃ kālaṃ āgamethā’’ti.
If she gives birth to a son, we will give battle on the seventh day, not the kingdom. Wait for that much time."
Nếu bà ấy sinh con trai, chúng tôi sẽ chiến đấu vào ngày thứ bảy, không phải vì vương quốc. Xin hãy đợi chừng đó thời gian.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king assented, saying, "So be it."
Nhà vua đồng ý: “Tốt lắm.”
99
Devī sattame divase puttaṃ vijāyi.
On the seventh day, the queen gave birth to a son.
Vào ngày thứ bảy, vương hậu sinh con trai.
Tassa nāmaggahaṇadivase pana mahājanassa alīnacittaṃ paggaṇhanto jātoti ‘‘alīnacittakumāro’’tvevassa nāmaṃ akaṃsu.
On the day of his naming ceremony, since he was born inspiring courage and fearlessness in the populace, they named him Alīnacitta Kumāra.
Vào ngày đặt tên cho đứa trẻ, vì nó được sinh ra để nâng cao tinh thần không nao núng của đại chúng, nên họ đặt tên cho nó là Alīnacittakumāra (Hoàng tử Tâm Bất Nao Núng).
Jātadivasatoyeva panassa paṭṭhāya nāgarā kosalaraññā saddhiṃ yujjhiṃsu.
From the very day of his birth, the citizens began to fight with the King of Kosala.
Ngay từ ngày sinh ra, dân thành đã chiến đấu với vua xứ Kosala.
Ninnāyakattā saṅgāmassa mahantampi balaṃ yujjhamānaṃ thokaṃ thokaṃ osakkati.
Due to the lack of a leader for the battle, the large army, though fighting, gradually retreated.
Vì không có người lãnh đạo cuộc chiến, ngay cả một đội quân lớn cũng dần dần lùi bước.
Amaccā deviyā tamatthaṃ ārocetvā ‘‘mayaṃ evaṃ osakkamāne bale parājayabhāvassa bhāyāma, amhākaṃ pana rañño kālakatabhāvaṃ, puttassa jātabhāvaṃ, kosalarañño āgantvā yujjhānabhāvañca rañño sahāyako maṅgalahatthī na jānāti, jānāpema na’’nti pucchiṃsu.
The ministers reported the matter to the queen, saying, "We fear defeat as the army is retreating in this way. However, the king's companion, the royal elephant, does not know of our king's death, the birth of your son, and the King of Kosala's arrival to fight. Shall we inform him?"
Các quan đại thần báo cáo tình hình này với vương hậu và hỏi: “Chúng thần lo sợ thất bại khi quân đội cứ lùi bước như vậy. Tuy nhiên, con voi may mắn, bạn đồng hành của nhà vua, không biết tin nhà vua đã qua đời, tin hoàng tử đã ra đời, và tin vua xứ Kosala đã đến giao chiến. Chúng thần có nên cho nó biết không?”
Sā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā puttaṃ alaṅkaritvā dukūlacumbaṭake nipajjāpetvā pāsādā oruyha amaccagaṇaparivutā hatthisālaṃ gantvā bodhisattaṃ hatthissa pādamūle nipajjāpetvā ‘‘sāmi, sahāyo te kālakato, mayaṃ tuyhaṃ hadayaphālanabhayena nārocayimha, ayaṃ te sahāyassa putto, kosalarājā āgantvā nagaraṃ parivāretvā tava puttena saddhiṃ yujjhati, balaṃ osakkati, tava puttaṃ tvaññeva vā mārehi, rajjaṃ vāssa gaṇhitvā dehī’’ti āha.
She assented, saying, "So be it," and having adorned her son and laid him on a silk cushion, she descended from the palace, accompanied by a retinue of ministers, went to the elephant stable, laid the Bodhisatta at the elephant's feet, and said, "My lord, your friend has passed away. We did not inform you for fear of breaking your heart. This is your friend's son. The King of Kosala has come and surrounded the city, fighting against your son. Our army is retreating. Either you yourself kill your son, or take the kingdom and give it to him."
Bà đồng ý: “Được.” Rồi bà cho trang điểm hoàng tử, đặt lên một tấm vải lụa, xuống khỏi cung điện, cùng với đoàn quan đại thần đi đến chuồng voi, đặt Bồ-tát dưới chân con voi và nói: “Thưa chủ nhân, bạn của ngài đã qua đời. Chúng tôi không dám báo tin vì sợ tim ngài sẽ vỡ tan. Đây là con trai của bạn ngài. Vua xứ Kosala đã đến bao vây thành phố và đang giao chiến với con trai của ngài. Quân đội đang lùi bước. Ngài hãy tự mình giết con trai của ngài, hoặc hãy chiếm lấy vương quốc và trao cho nó.”
100
Tasmiṃ kāle hatthī bodhisattaṃ soṇḍāya parāmasitvā ukkhipitvā kumbhe ṭhapetvā roditvā bodhisattaṃ otāretvā deviyā hatthe nipajjāpetvā ‘‘kosalarājaṃ gaṇhissāmī’’ti hatthisālato nikkhami.
At that time, the elephant touched the Bodhisatta with its trunk, lifted him, placed him on its head, wept, then lowered the Bodhisatta and laid him in the queen's hands, and then, saying, "I will capture the King of Kosala," it departed from the elephant stable.
Vào lúc đó, con voi dùng vòi chạm vào Bồ-tát, nhấc lên đặt trên trán, rồi khóc. Sau đó, nó đặt Bồ-tát vào tay vương hậu và nói: “Ta sẽ bắt vua xứ Kosala,” rồi nó rời khỏi chuồng voi.
Athassa amaccā vammaṃ paṭimuñcitvā alaṅkaritvā nagaradvāraṃ avāpuritvā taṃ parivāretvā nikkhamiṃsu.
Then the ministers put on armor, adorned the elephant, opened the city gate, and surrounded it as they departed.
Sau đó, các quan đại thần mặc áo giáp cho nó, trang hoàng nó, mở cổng thành, rồi bao vây nó và đi ra.
Hatthī nagarā nikkhamitvā koñcanādaṃ katvā mahājanaṃ santāsetvā palāpetvā balakoṭṭhakaṃ bhinditvā kosalarājānaṃ cūḷāya gahetvā ānetvā bodhisattassa pādamūle nipajjāpetvā māraṇatthāyassa uṭṭhite vāretvā ‘‘ito paṭṭhāya appamatto hohi, ‘kumāro daharo’ti saññaṃ mā karī’’ti ovaditvā uyyojesi.
The elephant left the city, trumpeted loudly, terrified and scattered the populace, broke through the enemy's stronghold, seized the King of Kosala by his topknot, brought him, laid him at the Bodhisatta's feet, and when those who rose to kill him were restrained, it admonished the king, saying, "From now on, be vigilant; do not think that the prince is young," and then released him.
Con voi ra khỏi thành, cất tiếng gầm như chim kranh, làm cho đại chúng kinh hãi và bỏ chạy, phá vỡ doanh trại quân đội, nắm tóc vua Kosala kéo đến, bắt nằm xuống dưới chân Bồ Tát, ngăn cản những kẻ định giết vua, và khuyên răn: ‘‘Từ nay trở đi, hãy cẩn trọng, đừng nghĩ rằng ‘hoàng tử còn nhỏ’”, rồi thả vua đi.
Tato paṭṭhāya sakalajambudīpe rajjaṃ bodhisattassa hatthagatameva jātaṃ, añño paṭisattu nāma uṭṭhahituṃ samattho nāhosi.
From that day on, the kingdom of the entire Jambudīpa came into the Bodhisatta's hands; no other adversary was able to rise up.
Từ ngày đó trở đi, vương quyền trên khắp toàn cõi Jambudīpa đã nằm trong tay Bồ Tát, không một kẻ thù nào khác có thể nổi dậy được.
Bodhisatto sattavassikakāle abhisekaṃ katvā alīnacittarājā nāma hutvā dhammena rajjaṃ kāretvā jīvitapariyosāne saggapuraṃ pūresi.
The Bodhisatta, at the age of seven, was consecrated, became King Alīnacitta, ruled the kingdom righteously, and at the end of his life, filled the city of devas.
Bồ Tát, khi bảy tuổi, đã làm lễ đăng quang, trở thành vua Alīnacitta, trị vì quốc độ bằng Chánh pháp, và khi kết thúc cuộc đời, Ngài đã viên mãn cõi trời.
101
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā abhisambuddho hutvā imaṃ gāthādvayamāha –
The Teacher, having brought up this past event, being fully enlightened, spoke these two verses:
Đức Thế Tôn đã thuật lại câu chuyện quá khứ này, và sau khi chứng đắc Chánh Đẳng Giác, Ngài đã nói hai bài kệ này:
102
11.
11.
11.
103
‘‘Alīnacittaṃ nissāya, pahaṭṭhā mahatī camū;
"Relying on Alīnacitta, the great army, delighted,
“Nương tựa Alīnacitta, đại quân hoan hỷ,
104
Kosalaṃ senāsantuṭṭhaṃ, jīvaggāhaṃ agāhayi.
Captured Kosala, who was discontent with his army, alive.
Đã bắt sống Kosala, kẻ không thỏa mãn với quân đội (của mình).
105
12.
12.
12.
106
‘‘Evaṃ nissayasampanno, bhikkhu āraddhavīriyo;
"Thus, a bhikkhu endowed with support, with aroused energy,
Như vậy, một Tỳ-khưu đầy đủ sự nương tựa, tinh tấn khởi lên,
107
Bhāvayaṃ kusalaṃ dhammaṃ, yogakkhemassa pattiyā;
Cultivating wholesome dhammas for the attainment of security from bondage,
Tu tập thiện pháp, để đạt đến sự an ổn khỏi các ách phược;
108
Pāpuṇe anupubbena, sabbasaṃyojanakkhaya’’nti.
Will gradually reach the destruction of all fetters."
Sẽ tuần tự đạt đến sự đoạn tận mọi kiết sử.”
109
Tattha alīnacittaṃ nissāyāti alīnacittaṃ rājakumāraṃ nissāya.
Therein, alīnacittaṃ nissāya means relying on Prince Alīnacitta.
Ở đây, alīnacittaṃ nissāyā nghĩa là nương tựa vào hoàng tử Alīnacitta.
Pahaṭṭhā mahatī camūti ‘‘paveṇīrajjaṃ no diṭṭha’’nti haṭṭhatuṭṭhā hutvā mahatī senā.
Pahaṭṭhā mahatī camū means the great army, delighted and joyful, thinking, "We have seen our ancestral kingdom."
Pahaṭṭhā mahatī camū nghĩa là đại quân hoan hỷ, vui mừng vì “chúng ta đã thấy vương quyền truyền thống của mình”.
Kosalaṃ senāsantuṭṭhanti kosalarājānaṃ sena rajjena asantuṭṭhaṃ pararajjalobhena āgataṃ.
Kosalaṃ senāsantuṭṭhaṃ means the King of Kosala, discontent with his own kingdom, having come out of greed for another's kingdom.
Kosalaṃ senāsantuṭṭhaṃ nghĩa là vua Kosala, không thỏa mãn với quân đội (của mình), đã đến vì lòng tham vương quốc của người khác.
Jīvaggāhaṃ agāhayīti amāretvāva sā camū taṃ rājānaṃ hatthinā jīvaggāhaṃ gaṇhāpesi.
Jīvaggāhaṃ agāhayī means that army caused the elephant to capture that king alive, without killing him.
Jīvaggāhaṃ agāhayī nghĩa là quân đội đó đã bắt vua ấy sống, không giết chết, bằng cách sai con voi bắt sống.
Evaṃ nissayasampannoti yathā sā camū, evaṃ aññopi kulaputto nissayasampanno kalyāṇamittaṃ buddhaṃ vā buddhasāvakaṃ vā nissayaṃ labhitvā.
Evaṃ nissayasampanno means just as that army, so too any other noble son, endowed with support, having obtained the Buddha or a disciple of the Buddha as a good friend to rely upon.
Evaṃ nissayasampanno nghĩa là như quân đội đó, một thiện nam tử khác cũng đầy đủ sự nương tựa, đã có được sự nương tựa vào bậc thiện tri thức, là Đức Phật hoặc một đệ tử Phật.
Bhikkhūti parisuddhādhivacanametaṃ.
Bhikkhū is a term for one who is pure.
Bhikkhū đây là từ chỉ sự thanh tịnh.
Āraddhavīriyoti paggahitavīriyo catudosāpagatena vīriyena samannāgato.
Āraddhavīriyo means one with aroused energy, endowed with energy free from the four defects.
Āraddhavīriyo nghĩa là đã khởi lên tinh tấn, đầy đủ tinh tấn không có bốn lỗi lầm.
Bhāvayaṃ kusalaṃ dhammanti kusalaṃ niravajjaṃ sattatiṃsabodhipakkhiyasaṅkhātaṃ dhammaṃ bhāvento.
Bhāvayaṃ kusalaṃ dhammaṃ means cultivating the wholesome, blameless dhamma, which consists of the thirty-seven factors of enlightenment.
Bhāvayaṃ kusalaṃ dhammaṃ nghĩa là tu tập thiện pháp vô tội, tức là ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề.
Yogakkhemassa pattiyāti catūhi yogehi khemassa nibbānassa pāpuṇanatthāya taṃ dhammaṃ bhāvento.
Yogakkhemassa pattiyā means cultivating that dhamma for the attainment of Nibbāna, which is security from the four Yogas.
Yogakkhemassa pattiyā nghĩa là tu tập pháp đó để đạt đến Niết Bàn, sự an ổn khỏi bốn ách phược.
Pāpuṇe anupubbena, sabbasaṃyojanakkhayanti evaṃ vipassanato paṭṭhāya imaṃ kusalaṃ dhammaṃ bhāvento so kalyāṇamittupanissayasampanno bhikkhu anupubbena vipassanāñāṇāni ca heṭṭhimamaggaphalāni ca pāpuṇanto pariyosāne dasannampi saṃyojanānaṃ khayante uppannattā sabbasaṃyojanakkhayasaṅkhātaṃ arahattaṃ pāpuṇāti.
"May he gradually attain the destruction of all fetters." Thus, this bhikkhu, endowed with the support of a noble friend, cultivating this wholesome Dhamma, starting from one who has insight, gradually attains insight-knowledges and the lower paths and fruits. Finally, due to the arising of the destruction of all ten fetters, he attains Arahantship, which is called the destruction of all fetters.
Pāpuṇe anupubbena, sabbasaṃyojanakkhaya nghĩa là Tỳ-khưu đầy đủ sự nương tựa vào thiện tri thức đó, tu tập thiện pháp này từ khi có tuệ quán, tuần tự đạt đến các tuệ quán và các đạo quả thấp hơn, cuối cùng đạt đến A-la-hán quả, tức sự đoạn tận mọi kiết sử, vì nó sinh khởi khi mười kiết sử đã đoạn tận.
Yasmā vā nibbānaṃ āgamma sabbasaṃyojanāni khīyanti, tasmā tampi sabbasaṃyojanakkhayameva, evaṃ anupubbena nibbānasaṅkhātaṃ sabbasaṃyojanakkhayaṃ pāpuṇātīti attho.
Or, since all fetters are destroyed having reached Nibbāna, therefore that too is the destruction of all fetters. Thus, the meaning is that he gradually attains the destruction of all fetters, which is Nibbāna.
Hoặc vì nương vào Niết Bàn mà mọi kiết sử được đoạn tận, nên Niết Bàn cũng là sự đoạn tận mọi kiết sử; như vậy, nghĩa là tuần tự đạt đến sự đoạn tận mọi kiết sử, tức Niết Bàn.
110
Iti bhagavā amatamahānibbānena dhammadesanāya kūṭaṃ gahetvā uttaripi saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ossaṭṭhavīriyo bhikkhu arahatte patiṭṭhahi.
Thus, the Bhagavā, taking the pinnacle of his Dhamma discourse as the deathless great Nibbāna, further expounded the Noble Truths and then connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the bhikkhu who had slackened his effort became established in Arahantship.
Như vậy, Đức Thế Tôn đã lấy Niết Bàn vô thượng bất tử làm đỉnh cao của bài pháp, và sau khi thuyết minh các chân lý cao hơn, Ngài đã kết hợp câu chuyện Jātaka. Khi các chân lý được thuyết giảng xong, vị Tỳ-khưu đã xả bỏ tinh tấn đã an lập vào quả A-la-hán.
‘‘Tadā mātā mahāmāyā, pitā suddhodanamahārājā ahosi, rajjaṃ gahetvā dinnahatthī ayaṃ ossaṭṭhavīriyo bhikkhu, hatthissa pitā sāriputto, sāmantakosalarājā moggallāno, alīnacittakumāro pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the mother was Mahāmāyā, the father was King Suddhodana, the elephant given after taking the kingdom was this bhikkhu who had slackened his effort, the elephant's father was Sāriputta, the King of Sāmanta Kosala was Moggallāna, and Prince Alīnacitta was myself."
‘‘Khi ấy, mẫu thân là Mahāmāyā, phụ vương là Đại vương Suddhodana. Vị tỳ khưu lười biếng này, sau khi đoạt lấy vương quốc, là con voi dâng cống. Phụ thân của voi là Sāriputta. Vua Kosala láng giềng là Moggallāna. Còn hoàng tử Alīnacitta chính là ta vậy’’.
111
Alīnacittajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth, the Commentary on the Alīnacitta Jātaka.
Chuyện Tiền thân Alīnacitta, thứ sáu.
112
* 7. Guṇajātakavaṇṇanā
* 7. The Commentary on the Guṇa Jātaka
* 7. Chuyện Tiền thân Guṇa
113
Yena kāmaṃ paṇāmetīti idaṃ satthā jetavane viharanto ānandattherassa sāṭakasahassalābhaṃ ārabbha kathesi.
"By which one dispels desire" – this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning the Venerable Ānanda's receipt of a thousand robes.
‘‘ Yena kāmaṃ paṇāmetī’’ – Câu này bậc Đạo Sư đã kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến việc Trưởng lão Ānanda nhận được một ngàn tấm y.
Therassa kosalarañño antepure dhammavācanavatthu heṭṭhā mahāsārajātake (jā. 1.1.92) āgatameva.
The account of the Elder's Dhamma recitation in the inner palace of the King of Kosala is found previously in the Mahāsāra Jātaka.
Câu chuyện về việc Trưởng lão thuyết pháp trong nội cung của vua Kosala đã được kể ở dưới trong Mahāsārajātaka (Jā. 1.1.92).
Iti there rañño antepure dhammaṃ vācente rañño sahassagghanikānaṃ sāṭakānaṃ sahassaṃ āhariyittha.
Thus, while the Elder was reciting Dhamma in the king's inner palace, a thousand robes, each worth a thousand, were brought to the king.
Khi Trưởng lão thuyết pháp trong nội cung của vua như vậy, một ngàn tấm y trị giá một ngàn đồng đã được mang đến cho vua.
Rājā tato pañca sāṭakasatāni pañcannaṃ devīsatānaṃ adāsi.
The king gave five hundred of these robes to the five hundred queens.
Vua đã trao năm trăm tấm y trong số đó cho năm trăm hoàng hậu.
Tā sabbāpi te sāṭake ṭhapetvā punadivase ānandattherassa datvā sayaṃ purāṇasāṭakeyeva pārupitvā rañño pātarāsaṭṭhānaṃ agamaṃsu.
All of them, setting aside those robes, gave them to the Venerable Ānanda the next day and themselves wore their old robes when they went to the king's breakfast place.
Tất cả các vị ấy, sau khi cất giữ những tấm y đó, vào ngày hôm sau đã dâng cúng cho Trưởng lão Ānanda, rồi tự mình khoác những tấm y cũ và đi đến nơi vua dùng bữa sáng.
114
Rājā ‘‘mayā tumhākaṃ sahassagghanikā sāṭakā dāpitā, kasmā tumhe te apārupitvāva āgatā’’ti pucchi.
The king asked, "I had robes worth a thousand given to you; why have you come without wearing them?"
Vua hỏi: ‘‘Ta đã ban cho các vị những tấm y trị giá một ngàn đồng, tại sao các vị lại đến mà không khoác chúng?’’
‘‘Deva, amhehi te ānandattherassa dinnā’’ti.
"Deva, we gave them to the Venerable Ānanda."
‘‘Tâu Đại vương, chúng thiếp đã dâng cúng chúng cho Trưởng lão Ānanda’’.
‘‘Ānandattherena sabbe gahitā’’ti?
"Did Venerable Ānanda take all of them?"
‘‘Trưởng lão Ānanda đã nhận tất cả sao?’’
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, Deva."
‘‘Vâng, tâu Đại vương’’.
‘‘Sammāsambuddhena ticīvaraṃ anuññātaṃ, ānandatthero dussavaṇijjaṃ maññe karissati, atibahū tena sāṭakā gahitā’’ti therassa kujjhitvā bhuttapātarāso vihāraṃ gantvā therassa pariveṇaṃ pavisitvā theraṃ vanditvā nisinno pucchi – ‘‘api, bhante, amhākaṃ ghare itthiyo tumhākaṃ santike dhammaṃ uggaṇhanti vā suṇanti vā’’ti?
"The Perfectly Enlightened One has allowed only three robes. Venerable Ānanda, I suppose, will engage in cloth trade; he has taken too many robes." Being angry with the Elder, after breakfast, he went to the monastery, entered the Elder's dwelling, paid homage to the Elder, sat down, and asked, "Bhante, do the women in our house learn or listen to Dhamma from you?"
‘‘Chánh Đẳng Giác đã cho phép ba y, Trưởng lão Ānanda có lẽ sẽ buôn bán y phục, ngài đã nhận quá nhiều y’’. Vua tức giận Trưởng lão, sau khi dùng bữa sáng, đi đến tu viện, vào tịnh xá của Trưởng lão, đảnh lễ Trưởng lão và ngồi xuống hỏi: ‘‘Bạch Đại đức, các phụ nữ trong nhà thần có học pháp hay nghe pháp từ Đại đức không?’’
‘‘Āma, mahārāja, gahetabbayuttakaṃ gaṇhanti, sotabbayuttakaṃ suṇantī’’ti.
"Yes, Mahārāja, they learn what should be learned and listen to what should be listened to."
‘‘Vâng, Đại vương, họ học những gì nên học, nghe những gì nên nghe’’.
‘‘Kiṃ tā suṇantiyeva, udāhu tumhākaṃ nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vā dadantī’’ti?
"Do they only listen, or do they also give you robes for wearing or covering?"
‘‘Họ chỉ nghe thôi, hay họ có dâng cúng y nội hay y khoác cho Đại đức không?’’
‘‘Tā ajja, mahārāja, sahassagghanikāni pañca sāṭakasatāni adaṃsū’’ti.
"Today, Mahārāja, they gave five hundred robes, each worth a thousand."
‘‘Hôm nay, Đại vương, họ đã dâng cúng năm trăm tấm y trị giá một ngàn đồng’’.
‘‘Tumhehi gahitāni tāni, bhante’’ti?
"Were they taken by you, Bhante?"
‘‘Bạch Đại đức, Đại đức đã nhận chúng sao?’’
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, Mahārāja."
‘‘Vâng, Đại vương’’.
‘‘Nanu, bhante, satthārā ticīvarameva anuññāta’’nti?
"Bhante, hasn't the Teacher allowed only three robes?"
‘‘Bạch Đại đức, chẳng phải bậc Đạo Sư chỉ cho phép ba y thôi sao?’’
‘‘Āma, mahārāja, bhagavatā ekassa bhikkhuno ticīvarameva paribhogasīsena anuññātaṃ, paṭiggahaṇaṃ pana avāritaṃ, tasmā mayāpi aññesaṃ jiṇṇacīvarikānaṃ dātuṃ te sāṭakā paṭiggahitā’’ti.
"Yes, Mahārāja, the Bhagavā has allowed only three robes for one bhikkhu for use, but receiving is not prohibited. Therefore, I accepted those robes to give to other bhikkhus with worn-out robes."
‘‘Vâng, Đại vương, Thế Tôn chỉ cho phép một tỳ khưu sử dụng ba y, nhưng việc thọ nhận thì không bị ngăn cấm. Do đó, tôi đã nhận những tấm y đó để dâng cho các tỳ khưu có y cũ khác’’.
‘‘Te pana bhikkhū tumhākaṃ santikā sāṭake labhitvā porāṇacīvarāni kiṃ karissantī’’ti?
"What will those bhikkhus do with their old robes after receiving new robes from you?"
‘‘Những tỳ khưu đó sau khi nhận y từ Đại đức thì sẽ làm gì với những tấm y cũ của họ?’’
‘‘Porāṇasaṅghāṭiṃ uttarāsaṅgaṃ karissantī’’ti?
"They will make their old outer robe (saṅghāṭi) into an upper robe (uttarāsaṅga)."
‘‘Họ sẽ dùng y tăng-già-lê cũ làm y khoác ngoài (uttarāsaṅga)’’.
‘‘Porāṇauttarāsaṅgaṃ kiṃ karissantī’’ti?
"What will they do with their old upper robe?"
‘‘Họ sẽ làm gì với y khoác ngoài cũ?’’
‘‘Antaravāsakaṃ karissantī’’ti.
"They will make it into an inner robe (antaravāsaka)."
‘‘Họ sẽ dùng làm y nội (antaravāsaka)’’.
‘‘Porāṇaantaravāsakaṃ kiṃ karissantī’’ti?
"What will they do with their old inner robe?"
‘‘Họ sẽ làm gì với y nội cũ?’’
‘‘Paccattharaṇaṃ karissantī’’ti.
"They will make it into a coverlet (paccattharaṇa)."
‘‘Họ sẽ dùng làm tấm trải giường (paccattharaṇa)’’.
‘‘Porāṇapaccattharaṇaṃ kiṃ karissantī’’ti?
"What will they do with their old coverlet?"
‘‘Họ sẽ làm gì với tấm trải giường cũ?’’
‘‘Bhummattharaṇaṃ karissantī’’ti.
"They will make it into a floor covering (bhummattharaṇa)."
‘‘Họ sẽ dùng làm tấm trải sàn (bhummattharaṇa)’’.
‘‘Porāṇabhummattharaṇaṃ kiṃ karissantī’’ti?
"What will they do with their old floor covering?"
‘‘Họ sẽ làm gì với tấm trải sàn cũ?’’
‘‘Pādapuñchanaṃ karissantī’’ti.
"They will make it into a foot-wiper (pādapuñchana)."
‘‘Họ sẽ dùng làm tấm lau chân (pādapuñchana)’’.
‘‘Porāṇapādapuñchanaṃ kiṃ karissantī’’ti?
"What will they do with their old foot-wiper?"
‘‘Họ sẽ làm gì với tấm lau chân cũ?’’
‘‘Mahārāja, saddhādeyyaṃ nāma vinipātetuṃ na labbhati, tasmā porāṇapādapuñchanaṃ vāsiyā koṭṭetvā mattikāya makkhetvā senāsanesu mattikālepanaṃ karissantī’’ti.
"Great King, an offering given in faith should not be wasted. Therefore, they will cut up the old foot-wiping cloth with a knife, smear it with clay, and use it as a clay plaster for the dwellings."
‘‘Đại vương, vật cúng dường do lòng tin không được phép hủy hoại. Do đó, họ sẽ chặt tấm lau chân cũ bằng rìu, trộn với đất sét và dùng làm vữa trát cho các trú xứ’’.
‘‘Bhante, tumhākaṃ dinnaṃ yāva pādapuñchanāpi nassituṃ na labbhatī’’ti?
"Venerable Sir, is it not permissible for even a foot-wiping cloth given to you to be wasted?"
‘‘Bạch Đại đức, vật cúng dường cho Đại đức không được phép hủy hoại ngay cả đến tấm lau chân sao?’’
‘‘Āma, mahārāja, amhākaṃ dinnaṃ nassituṃ na labbhati, paribhogameva hotī’’ti.
"Yes, Great King, what is given to us should not be wasted; it is for use only."
‘‘Vâng, Đại vương, vật cúng dường cho chúng tôi không được phép hủy hoại, nó chỉ được dùng để sử dụng mà thôi’’.
115
Rājā tuṭṭho somanassappatto hutvā itarānipi gehe ṭhapitāni pañca sāṭakasatāni āharāpetvā therassa datvā anumodanaṃ sutvā theraṃ vanditvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
The king, pleased and delighted, had the other five hundred cloths kept at home brought and gave them to the elder. After listening to the anumodanā, he paid homage to the elder, circumambulated him, and departed.
Vua hoan hỷ, vui mừng, sai mang năm trăm tấm y còn lại trong nhà đến, dâng cúng cho Trưởng lão, nghe lời tùy hỷ, đảnh lễ Trưởng lão, đi nhiễu hữu và rời đi.
Thero paṭhamaladdhāni pañca sāṭakasatāni jiṇṇacīvarikānaṃ bhikkhūnaṃ adāsi.
The elder gave the first five hundred cloths he had received to the bhikkhus whose robes were worn out.
Trưởng lão đã trao năm trăm tấm y nhận được lần đầu cho các tỳ khưu có y cũ.
Therassa pana pañcamattāni saddhivihārikasatāni, tesu eko daharabhikkhu therassa bahūpakāro pariveṇaṃ sammajjati, pānīyaparibhojanīyaṃ upaṭṭhapeti, dantakaṭṭhaṃ mukhodakaṃ nhānodakaṃ deti, vaccakuṭijantāgharasenāsanāni paṭijaggati, hatthaparikammapādaparikammapiṭṭhiparikammādīni karoti.
The elder had about five hundred resident pupils. Among them, one young bhikkhu was very helpful to the elder: he swept the monastery enclosure, provided drinking and eating water, offered tooth-sticks, face-washing water, and bathing water, looked after the latrines, hot-water baths, and dwellings, and performed services such as massaging the hands, feet, and back.
Trưởng lão có khoảng năm trăm học trò, trong số đó có một tỳ khưu trẻ đã giúp đỡ Trưởng lão rất nhiều: quét dọn tịnh xá, chuẩn bị nước uống và nước dùng, dâng cúng cây xỉa răng, nước rửa mặt, nước tắm, chăm sóc nhà vệ sinh, nhà tắm hơi, trú xứ, và thực hiện các việc như xoa bóp tay, chân, lưng, v.v.
Thero pacchā laddhāni pañca sāṭakasatāni ‘‘ayaṃ me bahūpakāro’’ti yuttavasena sabbāni tasseva adāsi.
The elder gave all the five hundred cloths he received later to this same young bhikkhu, thinking, "This one is very helpful to me," as was appropriate.
Trưởng lão đã trao tất cả năm trăm tấm y nhận được sau đó cho chính vị tỳ khưu trẻ đó, vì ‘‘vị này đã giúp đỡ ta rất nhiều’’ theo cách xứng đáng.
Sopi sabbe te sāṭake bhājetvā attano samānupajjhāyānaṃ adāsi.
He, too, divided all those cloths and gave them to his co-upajjhāyas.
Vị ấy cũng chia tất cả những tấm y đó và trao cho các vị đồng thầy tế độ của mình.
116
Evaṃ sabbepi te laddhasāṭakā bhikkhū sāṭake chinditvā rajitvā kaṇikārapupphavaṇṇāni kāsāyāni nivāsetvā ca pārupitvā ca satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā ekamantaṃ nisīditvā evamāhaṃsu – ‘‘bhante, sotāpannassa ariyasāvakassa mukholokanadānaṃ nāma atthī’’ti.
In this way, all those bhikkhus who received the cloths cut and dyed them, and wearing and wrapping themselves in kaṇikāra flower-colored robes, they approached the Teacher, paid homage, sat down to one side, and said, "Venerable Sir, is there such a thing as a 'face-showing gift' for an ariya-sāvaka who has attained stream-entry?"
Như vậy, tất cả các tỳ khưu đã nhận y đó, sau khi cắt và nhuộm y, mặc và khoác những tấm y màu vàng như hoa Kāṇikāra, đã đến gặp bậc Đạo Sư, đảnh lễ và ngồi sang một bên, rồi thưa: ‘‘Bạch Thế Tôn, có sự cúng dường vì muốn được nhìn thấy mặt của một bậc Thánh đệ tử nhập lưu không?’’
‘‘Na, bhikkhave, ariyasāvakānaṃ mukholokanadānaṃ nāma atthī’’ti.
"No, bhikkhus, there is no such thing as a 'face-showing gift' for ariya-sāvakā."
‘‘Này các tỳ khưu, không có sự cúng dường nào gọi là cúng dường vì muốn được nhìn thấy mặt của các bậc Thánh đệ tử’’.
‘‘Bhante, amhākaṃ upajjhāyena dhammabhaṇḍāgārikattherena sahassagghanikānaṃ sāṭakānaṃ pañca satāni ekasseva daharabhikkhuno dinnāni, so pana attanā laddhe bhājetvā amhākaṃ adāsī’’ti.
"Venerable Sir, our upajjhāya, the Elder Dhammabhaṇḍāgārika, gave five hundred cloths, each worth a thousand, to one young bhikkhu. He, in turn, divided what he received and gave them to us."
‘‘Bạch Thế Tôn, thầy tế độ của chúng con, Trưởng lão thủ kho pháp, đã trao năm trăm tấm y trị giá một ngàn đồng cho chỉ một tỳ khưu trẻ. Vị ấy lại chia những gì mình nhận được và trao cho chúng con’’.
‘‘Na, bhikkhave, ānando mukholokanabhikkhaṃ deti, so panassa bhikkhu bahūpakāro, tasmā attano upakārassa upakāravasena guṇavasena yuttavasena ‘upakārassa nāma paccupakāro kātuṃ vaṭṭatī’ti kataññukatavedibhāvena adāsi.
"No, bhikkhus, Ānanda does not give a 'face-showing alms-food.' That bhikkhu was very helpful to him. Therefore, out of gratitude and appreciation, thinking, 'It is proper to return a favor to one who has helped,' he gave them to him in a fitting manner, as a return for his help and on account of his good qualities.
‘‘Này các tỳ khưu, Ānanda không dâng cúng vật thực vì muốn được nhìn thấy mặt. Vị tỳ khưu đó đã giúp đỡ ngài rất nhiều, do đó, ngài đã dâng cúng vì sự giúp đỡ của mình, vì công đức, vì sự xứng đáng, với tâm biết ơn và đền ơn rằng ‘nên đền đáp sự giúp đỡ của người khác’.
Porāṇakapaṇḍitāpi hi attano upakārānaññeva paccupakāraṃ kariṃsū’’ti vatvā tehi yācito atītaṃ āhari.
Indeed, even the wise ones of old returned favors only to those who had helped them," saying this, and being requested by them, he recounted a past event.
Ngay cả các bậc hiền triết thời xưa cũng đã đền đáp sự giúp đỡ của những người đã giúp đỡ mình’’. Sau khi nói vậy, ngài đã kể câu chuyện quá khứ theo lời thỉnh cầu của họ.
117
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto sīho hutvā pabbataguhāyaṃ vasati.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a lion living in a mountain cave.
Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là một con sư tử sống trong một hang núi.
So ekadivasaṃ guhāya nikkhamitvā pabbatapādaṃ olokesi, taṃ pana pabbatapādaṃ parikkhipitvā mahāsaro ahosi.
One day, he came out of the cave and looked down at the foot of the mountain; a large lake surrounded that mountain foot.
Một ngày nọ, ngài rời hang và nhìn xuống chân núi. Một hồ nước lớn bao quanh chân núi đó.
Tassa ekasmiṃ unnataṭṭhāne uparithaddhakaddamapiṭṭhe mudūni haritatiṇāni jāyiṃsu.
At one elevated spot, on a surface of thick mud, soft green grasses grew.
Tại một chỗ nhô cao trên mặt bùn lầy hơi cứng, những ngọn cỏ xanh mềm mại mọc lên.
Sasakā ceva hariṇādayo ca sallahukamigā kaddamamatthake vicarantā tāni khādanti.
Rabbits, deer, and other light-footed animals wandered about on the mud, eating them.
Thỏ và các loài hươu nhẹ nhàng đi lại trên mặt bùn lầy đó và ăn cỏ.
Taṃ divasampi eko migo tāni khādanto vicarati.
On that day, too, a certain deer was wandering about eating them.
Ngày hôm đó, một con nai cũng đang đi lại và ăn cỏ.
Sīho ‘‘taṃ migaṃ gaṇhissāmī’’ti pabbatamatthakā uppatitvā sīhavegena pakkhandi, migo maraṇabhayatajjito viravanto palāyi.
The lion, thinking, "I will catch that deer," leaped from the mountaintop and charged with the speed of a lion. The deer, terrified by the fear of death, cried out and fled.
Sư tử nghĩ: ‘‘Ta sẽ bắt con nai đó’’, rồi nhảy từ đỉnh núi xuống với sức mạnh của sư tử. Con nai sợ chết, kêu la và bỏ chạy.
Sīho vegaṃ sandhāretuṃ asakkonto kalalapiṭṭhe nipatitvā osīditvā uggantuṃ asakkonto cattāro pādā thambhā viya osīditvā sattāhaṃ nirāhāro aṭṭhāsi.
The lion, unable to control its speed, fell into the muddy surface, sank, and was unable to get out. With all four paws sunk like pillars, he remained without food for seven days.
Sư tử không thể kìm hãm tốc độ, rơi xuống mặt bùn lầy, lún sâu và không thể thoát ra được, bốn chân lún sâu như cọc, và ngài đã ở đó bảy ngày không ăn uống.
118
Atha naṃ eko siṅgālo gocarappasuto taṃ disvā bhayena palāyi.
Then, a jackal, out foraging, saw him and fled in fear.
Rồi một con chó rừng đang đi kiếm ăn, thấy ngài thì sợ hãi bỏ chạy.
Sīho taṃ pakkositvā ‘‘bho siṅgāla, mā palāyi, ahaṃ kalale laggo, jīvitaṃ me dehī’’ti āha.
The lion called out to him, "Hey, jackal, do not flee! I am stuck in the mud. Give me my life!"
Sư tử gọi nó lại và nói: ‘‘Này chó rừng, đừng bỏ chạy, ta bị mắc kẹt trong bùn, hãy cứu mạng ta’’.
Siṅgālo tassa santikaṃ gantvā ‘‘ahaṃ taṃ uddhareyyaṃ, uddhaṭo pana maṃ khādeyyāsīti bhāyāmī’’ti āha.
The jackal went near him and said, "I could pull you out, but I fear you might eat me once you are out."
Chó rừng đến gần và nói: ‘‘Tôi có thể kéo ngài lên, nhưng tôi sợ ngài sẽ ăn thịt tôi sau khi được kéo lên’’.
‘‘Mā bhāyi, nāhaṃ taṃ khādissāmi, mahantaṃ pana te guṇaṃ karissāmi, ekenupāyena maṃ uddharāhī’’ti.
"Do not fear, I will not eat you. I will do you a great favor. Pull me out by some means."
‘‘Đừng sợ, ta sẽ không ăn thịt ngươi, ta sẽ làm một điều tốt lớn cho ngươi, hãy kéo ta lên bằng một cách nào đó’’.
Siṅgālo tassa paṭiññaṃ gahetvā catunnaṃ pādānaṃ samantā kalale apanetvā catunnampi pādānaṃ catasso mātikā khaṇitvā udakābhimukhaṃ akāsi, udakaṃ pavisitvā kalalaṃ muduṃ akāsi.
The jackal, having accepted his promise, removed the mud from around the four feet, dug four channels for all four feet towards the water, and the water flowed in, softening the mud.
Chó rừng nhận lời hứa của sư tử, gạt bùn xung quanh bốn chân, đào bốn rãnh thoát nước cho cả bốn chân hướng về phía nước, nước chảy vào làm bùn mềm ra.
Tasmiṃ khaṇe siṅgālo sīhassa udarantaraṃ attano sīsaṃ pavesetvā ‘‘vāyāmaṃ karohi, sāmī’’ti uccāsaddaṃ karonto sīsena udaraṃ pahari.
At that moment, the jackal inserted his head into the lion's belly and, shouting loudly, "Exert yourself, master!", struck its belly with his head.
Lúc đó, chó rừng chui đầu vào bụng sư tử, vừa kêu to ‘‘Hãy cố gắng lên, chủ nhân!’’ vừa dùng đầu húc vào bụng sư tử.
Sīho vegaṃ janetvā kalalā uggantvā pakkhanditvā thale aṭṭhāsi.
The lion, generating momentum, sprang out of the mud, leaped, and stood on dry land.
Sư tử lấy đà, thoát khỏi bùn lầy, nhảy lên và đứng trên đất khô.
So muhuttaṃ vissamitvā saraṃ oruyha kaddamaṃ dhovitvā nhāyitvā darathaṃ paṭippassambhetvā ekaṃ mahiṃsaṃ vadhitvā dāṭhāhi ovijjhitvā maṃsaṃ ubbattetvā ‘‘khāda, sammā’’ti siṅgālassa purato ṭhapetvā tena khādite pacchā attanā khādi.
After resting for a moment, he descended into the lake, washed off the mud, bathed, allayed his distress, killed a buffalo, tore it open with his fangs, pulled out the flesh, placed it before the jackal saying, "Eat, friend," and after the jackal had eaten, he himself ate.
Ngài nghỉ ngơi một lát, xuống hồ, rửa sạch bùn, tắm rửa, giải tỏa sự khó chịu, rồi giết một con trâu nước, dùng răng xé thịt, moi thịt ra, đặt trước mặt chó rừng và nói: ‘‘Ăn đi, bạn’’. Sau khi chó rừng ăn xong, ngài mới tự mình ăn.
Puna siṅgālo ekaṃ maṃsapesiṃ ḍaṃsitvā gaṇhi.
Again, the jackal bit off and took a piece of meat.
Sau đó, chó rừng cắn và lấy một miếng thịt.
‘‘Idaṃ kimatthāya, sammā’’ti ca vutte ‘‘tumhākaṃ dāsī atthi, tassā bhāgo bhavissatī’’ti āha.
When asked, "What is this for, friend?", he replied, "You have a female servant; this will be her share."
Khi được hỏi: ‘‘Cái này để làm gì vậy, bạn?’’, nó nói: ‘‘Tôi có một con chó cái, đây sẽ là phần của nó’’.
Sīho ‘‘gaṇhāhī’’ti vatvā sayampi sīhiyā atthāya maṃsaṃ gaṇhitvā ‘‘ehi, samma, amhākaṃ pabbatamuddhani ṭhatvā sakhiyā vasanaṭṭhānaṃ gamissāmā’’ti vatvā tattha gantvā maṃsaṃ khādāpetvā siṅgālañca siṅgāliñca assāsetvā ‘‘ito paṭṭhāya idāni ahaṃ tumhe paṭijaggissāmī’’ti attano vasanaṭṭhānaṃ netvā guhāya dvāre aññissā guhāya vasāpesi.
The lion said, "Take it," and he himself took meat for the lioness, saying, "Come, friend, let us stand on our mountain peak and go to the dwelling place of our companion." Having gone there, he made them eat the meat, reassured the jackal and the jackaless, saying, "From now on, I will look after you," and taking them to his own dwelling place, he made them dwell in another cave near the entrance of his cave.
Con sư tử nói: "Hãy lấy đi!" rồi chính nó cũng lấy thịt cho sư tử cái và nói: "Này bạn, hãy đến, chúng ta hãy đứng trên đỉnh núi của chúng ta và đi đến nơi ở của bạn bè." Sau khi đến đó, nó cho chúng ăn thịt, an ủi cả chồn đực và chồn cái, rồi nói: "Từ nay trở đi, ta sẽ chăm sóc các ngươi." Nó dẫn chúng về nơi ở của mình và cho chúng ở trong một hang khác gần cửa hang của mình.
Te tato paṭṭhāya gocarāya gacchantā sīhiñca siṅgāliñca ṭhapetvā siṅgālena saddhiṃ gantvā nānāmige vadhitvā ubhopi tattheva maṃsaṃ khāditvā itarāsampi dvinnaṃ āharitvā denti.
From then on, when they went foraging, they would leave the lioness and the jackaless, go with the jackal, kill various animals, both eat the meat there, and bring it to the other two.
Từ đó trở đi, khi chúng đi kiếm ăn, chúng bỏ sư tử cái và chồn cái ở lại, sư tử đực và chồn đực cùng đi, giết nhiều loại thú khác nhau, cả hai cùng ăn thịt ngay tại đó, rồi mang về cho hai con vật kia ăn.
119
Evaṃ kāle gacchante sīhī dve putte vijāyi, siṅgālīpi dve putte vijāyi.
As time passed in this way, the lioness gave birth to two cubs, and the jackaless also gave birth to two cubs.
Thời gian trôi qua như vậy, sư tử cái sinh hai con, chồn cái cũng sinh hai con.
Te sabbepi samaggavāsaṃ vasiṃsu.
All of them lived in harmony.
Tất cả chúng đều sống hòa thuận với nhau.
Athekadivasaṃ sīhiyā etadahosi – ‘‘ayaṃ sīho siṅgālañca siṅgāliñca siṅgālapotake ca ativiya piyāyati, nūnamassa siṅgāliyā saddhiṃ santhavo atthi, tasmā evaṃ sinehaṃ karoti, yaṃnūnāhaṃ imaṃ pīḷetvā tajjetvā ito palāpeyya’’nti.
Then one day, the lioness thought, "This lion is excessively fond of the jackal, the jackaless, and the jackal cubs. Surely, he has an intimacy with the jackaless, which is why he shows such affection. Why don't I harass and threaten her to drive her away from here?"
Rồi một ngày nọ, sư tử cái nghĩ: "Con sư tử này quá yêu quý chồn đực, chồn cái và các con chồn con. Chắc hẳn nó có quan hệ thân mật với chồn cái, nên mới có tình cảm như vậy. Sao mình không hành hạ, đe dọa nó để đuổi nó đi khỏi đây?"
Sā sīhassa siṅgālaṃ gahetvā gocarāya gatakāle siṅgāliṃ pīḷesi tajjesi ‘‘kiṃkāraṇā imasmiṃ ṭhāne vasati, na palāyasī’’ti?
When the lion had gone foraging with the jackal, she harassed and threatened the jackaless, saying, "Why do you live in this place? Why don't you flee?"
Khi sư tử đực dẫn chồn đực đi kiếm ăn, sư tử cái liền hành hạ và đe dọa chồn cái: "Tại sao ngươi lại sống ở nơi này? Sao ngươi không bỏ đi?"
Puttāpissā siṅgāliputte tatheva tajjayiṃsu.
Her cubs also threatened the jackal cubs in the same way.
Các con của sư tử cái cũng đe dọa các con của chồn cái y như vậy.
Siṅgālī tamatthaṃ siṅgālassa kathetvā ‘‘sīhassa vacanena etāya evaṃ katabhāvampi na jānāma, ciraṃ vasimhā, nāsāpeyyāpi no, amhākaṃ vasanaṭṭhānameva gacchāmā’’ti āha.
The jackaless told the jackal about this, saying, "We do not know if this was done by her at the lion's command. We have lived here for a long time; they do not even wish for us. Let us go to our own dwelling place."
Chồn cái kể lại chuyện đó cho chồn đực nghe và nói: "Chúng ta không biết liệu sư tử cái làm như vậy là do lời của sư tử đực hay không. Chúng ta đã sống ở đây quá lâu rồi. Có lẽ chúng ta sẽ bị hủy hoại mất. Tốt hơn hết là chúng ta hãy trở về nơi ở của mình."
Siṅgālo tassā vacanaṃ sutvā sīhaṃ upasaṅkamitvā āha – ‘‘sāmi, ciraṃ amhehi tumhākaṃ santike nivutthaṃ, aticiraṃ vasantā nāma appiyā honti, amhākaṃ gocarāya pakkantakāle sīhī siṅgāliṃ viheṭheti ‘imasmiṃ ṭhāne kasmā vasatha, palāyathā’ti tajjeti, sīhapotakāpi siṅgālapotake tajjenti.
The jackal, hearing her words, approached the lion and said, "Master, we have lived with you for a long time. Those who stay too long become disliked. When we go foraging, the lioness harasses the jackaless, threatening her, 'Why do you live in this place? Flee!' The lion cubs also threaten the jackal cubs.
Nghe lời chồn cái nói, chồn đực đến gặp sư tử đực và thưa: "Thưa chủ nhân, chúng tôi đã ở bên ngài từ lâu rồi. Những kẻ ở quá lâu thường trở nên không được yêu mến. Khi chúng tôi đi kiếm ăn, sư tử cái đã hành hạ chồn cái và đe dọa: 'Tại sao các ngươi lại sống ở nơi này? Hãy đi đi!' Các sư tử con cũng đe dọa các chồn con.
Yo nāma yassa attano santike vāsaṃ na roceti, tena so ‘yāhī’ti nīharitabbova, viheṭhanaṃ nāma kimatthiya’’nti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Indeed, whoever does not approve of another's dwelling with them should simply drive them away, saying 'Go!' What is the point of harassment?" Having said this, he spoke the first verse:
Kẻ nào không muốn cho người khác ở gần mình thì nên trực tiếp đuổi đi, chứ hành hạ thì có ích gì?" Nói xong, nó đọc bài kệ thứ nhất:
120
13.
The Teacher, while dwelling at Jetavana, related this Guṇa Jātaka, adorned with the verse beginning "Yena kāmaṃ paṇāmeti," concerning the Venerable Ānanda's acquisition of a thousand robes.
13.
121
‘‘Yena kāmaṃ paṇāmeti, dhammo balavataṃ migī;
The king asked, "Devis, I had a thousand robes, each worth a thousand, given to you. Why have you come without wearing those new robes?" They replied, "Your Majesty, we have offered those robes to the Venerable Ānanda." The king asked, "Did the Venerable Ānanda take all the robes?" The devis replied, "Yes, Your Majesty." The king, angered at the Venerable Ānanda, thinking, "The Buddha has only permitted three robes. I suppose the Venerable Ānanda will engage in cloth trade; that is why he took so many robes," after eating his breakfast, went to the monastery. Entering the Venerable's dwelling, he saluted the Venerable and sat down, then asked, "Bhante, do the women in our palace learn or listen to Dhamma from you?" The Venerable replied, "Yes, Your Majesty, they learn the Dhamma that should be learned and listen to the Dhamma that should be listened to." The king asked, "What do they listen to? Do they give you robes for wearing or covering, or do they not give them?" The Venerable replied, "Your Majesty, today those women gave me five hundred robes, each worth a thousand." The king asked, "Bhante, did you take those robes?" The Venerable replied, "Yes, Your Majesty." The king asked, "Bhante, has not the Teacher permitted only three robes?" The Venerable replied, "Your Majesty, it is true that the Blessed One has permitted only three robes for a bhikkhu for the purpose of use. But acceptance is not forbidden. Therefore, I have accepted those robes to give to other bhikkhus whose robes are worn out." The king asked, "Bhante, what will those bhikkhus do with their old robes after receiving new robes from you?" The Venerable replied, "Your Majesty, they will make the old saṅghāṭi into an uttaraṅga." "What will they do with the old uttaraṅga?" "Your Majesty, they will make it into an antaravāsaka." "What will they do with the old antaravāsaka?" "Your Majesty, they will make it into a sleeping mat." "What will they do with the old sleeping mat?" "Your Majesty, they will make it into a floor mat." "Bhante, what will they do with the old floor mat?" "Your Majesty, they will make it into a foot-wiper." "Bhante, what will they do with the old foot-wiper?" "Your Majesty, an offering made with faith should not be wasted. Therefore, they will chop the old foot-wiper with an axe, mix it with clay, and use it as a clay plaster for the dwellings." "Bhante, does this mean that the robes given to you should not be wasted, even down to a foot-wiper?" "Your Majesty, it is true that the robes given to us should not be wasted. They are only for use."
"Hỡi chúa tể muông thú, người có quyền năng mạnh mẽ,
122
Unnadantī vijānāhi, jātaṃ saraṇato bhaya’’nti.
The king, pleased and delighted, had the other five hundred robes kept in the palace brought, offered them to the Venerable Ānanda, listened to the anumodanā, saluted the Venerable, circumambulated him clockwise, and departed. The Venerable Ānanda first gave the five hundred robes he received to the bhikkhus with worn-out robes. The Venerable Ānanda had about five hundred resident pupils. Among them, one young bhikkhu was very helpful to the Venerable. He swept the dwelling, provided drinking and bathing water, gave tooth-sticks, face-washing water, and bathing water. He looked after the latrine, bathroom, and dwellings. He performed hand massages, foot massages, back massages, and so on. The Venerable Ānanda later gave all the five hundred robes he received to that young bhikkhu alone, thinking, "This young bhikkhu is very helpful to me," and in an appropriate manner. That young bhikkhu, in turn, divided all the robes he had received and gave them to his fellow pupils.
Hãy biết rằng hiểm nguy đã phát sinh từ nơi nương tựa, hỡi kẻ có răng nanh nhọn hoắt!"
123
Tattha yena kāmaṃ paṇāmeti, dhammo balavatanti balavā nāma issaro attano sevakaṃ yena disābhāgena icchati, tena disābhāgena so paṇāmeti nīharati.
Therein, yena kāmaṃ paṇāmeti, dhammo balavataṃ means that a powerful master drives away or removes his servant in whichever direction he wishes.
Trong đó, yena kāmaṃ paṇāmeti, dhammo balavataṃ nghĩa là: Kẻ mạnh mẽ, tức là người chủ, muốn đuổi người hầu của mình đến phương hướng nào thì người đó sẽ đuổi đi theo phương hướng đó.
Esa dhammo balavataṃ ayaṃ issarānaṃ sabhāvo paveṇidhammova, tasmā sace amhākaṃ vāsaṃ na rocetha, ujukameva no nīharatha, viheṭhanena ko atthoti dīpento evamāha.
This is the nature of the powerful, a traditional custom of masters. Therefore, if you do not approve of our dwelling, simply drive us away directly. What is the point of harassment? This is what he implies.
Đây là bản chất của những kẻ mạnh mẽ, là truyền thống của những người có quyền lực. Vì vậy, nếu ngài không muốn chúng tôi ở lại, hãy trực tiếp đuổi chúng tôi đi, hành hạ thì có ích gì? Nó nói như vậy để chỉ ra điều đó.
Migīti sīhaṃ ālapati.
Migī addresses the lion.
Migī là cách gọi sư tử.
So hi migarājatāya migā assa atthīti migī.
Indeed, he is called Migī because he is the king of beasts (migarāja) and has beasts (migā) under him.
Vì nó là vua của các loài thú (miga-rāja), nên có nhiều loài thú (migā) thuộc về nó, do đó nó được gọi là Migī.
Unnadantītipi tameva ālapati.
Unnadantī also addresses the same one.
Unnadantī cũng là cách gọi nó.
So hi unnatānaṃ dantānaṃ atthitāya unnatā dantā assa atthīti unnadantī.
Indeed, he is called Unnadantī because he has prominent teeth (unnatānaṃ dantānaṃ).
Vì nó có những chiếc răng nanh nhô cao, nên nó được gọi là Unnadantī.
‘‘Unnatadantī’’tipi pāṭhoyeva.
"Unnatadantī" is also a reading.
"Unnatadantī" cũng là một biến thể của từ này.
Vijānāhīti ‘‘esa issarānaṃ dhammo’’ti evaṃ jānāhi.
Vijānāhi means "know this to be the custom of masters."
Vijānāhi nghĩa là: "Đây là bản chất của những người có quyền lực," hãy biết như vậy.
Jātaṃ saraṇato bhayanti amhākaṃ tumhe patiṭṭhānaṭṭhena saraṇaṃ, tumhākaññeva santikā bhayaṃ jātaṃ, tasmā attano vasanaṭṭhānameva gamissāmāti dīpeti.
“Danger has arisen from our refuge.” You are our refuge in the sense of being our support and reliance. Danger has arisen from you yourselves, therefore, we will go back to our own dwelling place, he explains.
Jātaṃ saraṇato bhayaṃ nghĩa là: Các ngài là nơi nương tựa của chúng tôi với tư cách là chỗ dựa, nhưng hiểm nguy lại phát sinh từ chính các ngài. Vì vậy, chúng tôi sẽ trở về nơi ở của mình. Nó chỉ ra điều đó.
124
Aparo nayo – tava migī sīhī unnadantīmama puttadāraṃ tajjentī yena kāmaṃ paṇāmeti, yena yenākārena icchati, tena paṇāmeti pavattati, viheṭhetipi palāpetipi, evaṃ tvaṃ vijānāhi, tattha kiṃ sakkā amhehi kātuṃ.
Another interpretation: “Your lioness, the roaring lioness,” threatening my children and wife, “drives them away as she pleases.” She drives them away and acts as she wishes, she harasses and chases them away. You should know this. What can we do about it?
Một cách giải thích khác: Sư tử cái migī của ngài, unnadantī, đang đe dọa vợ con tôi, yena kāmaṃ paṇāmeti, nó hành xử theo bất kỳ cách nào nó muốn, nó hành hạ và đuổi đi. Ngài hãy biết điều đó, chúng tôi có thể làm gì ở đó?
Dhammo balavataṃ esa balavantānaṃ sabhāvo, idāni mayaṃ gamissāma.
“This is the custom of the strong.” This is the nature of the strong. Now we shall go.
Dhammo balavataṃ đây là bản chất của kẻ mạnh. Bây giờ chúng tôi sẽ đi.
Kasmā?
Why?
Tại sao?
Jātaṃ saraṇato bhayanti.
“Danger has arisen from our refuge.”
Jātaṃ saraṇato bhayaṃ vì hiểm nguy đã phát sinh từ nơi nương tựa.
125
Tassa vacanaṃ sutvā sīho sīhiṃ āha – ‘‘bhadde, asukasmiṃ nāma kāle mama gocaratthāya gantvā sattame divase iminā siṅgālena imāya ca siṅgāliyā saddhiṃ āgatabhāvaṃ sarasī’’ti.
Hearing his words, the lion said to the lioness, “My dear, do you remember that at a certain time, after I went out to hunt, on the seventh day, I returned with this jackal and this jackal-vixen?”
Nghe lời chồn đực nói, sư tử đực hỏi sư tử cái: "Này em, em có nhớ vào một thời điểm nào đó, khi anh đi kiếm ăn, vào ngày thứ bảy, anh đã trở về cùng với chồn đực và chồn cái này không?"
‘‘Āma, sarāmī’’ti.
“Yes, I remember,” she replied.
"Vâng, em nhớ."
‘‘Jānāsi pana mayhaṃ sattāhaṃ anāgamanassa kāraṇa’’nti?
“Do you know the reason for my not returning for seven days?”
"Em có biết lý do anh không về trong bảy ngày đó không?"
‘‘Na jānāmi, sāmī’’ti.
“I do not know, my lord,” she replied.
"Không, thưa chủ nhân, em không biết."
‘‘Bhadde, ahaṃ ‘ekaṃ migaṃ gaṇhissāmī’ti virajjhitvā kalale laggo, tato nikkhamituṃ asakkonto sattāhaṃ nirāhāro aṭṭhāsiṃ, svāhaṃ imaṃ siṅgālaṃ nissāya jīvitaṃ labhiṃ, ayaṃ me jīvitadāyako sahāyo.
“My dear, I missed my aim when I tried to catch a deer and got stuck in the mud. Unable to get out, I remained without food for seven days. I obtained my life thanks to this jackal; he is my life-giving friend.
"Này em, anh đã trượt chân và bị mắc kẹt trong bùn khi cố gắng bắt một con thú, không thể thoát ra được, anh đã nhịn đói bảy ngày. Anh đã sống sót nhờ con chồn này. Nó là người bạn đã cứu mạng anh.
Mittadhamme ṭhātuṃ samattho hi mitto dubbalo nāma natthi, ito paṭṭhāya mayhaṃ sahāyassa ca sahāyikāya ca puttakānañca evarūpaṃ avamānaṃ mā akāsī’’ti vatvā sīho dutiyaṃ gāthamāha –
Indeed, a friend who is capable of upholding the duties of friendship is never weak. From now on, do not treat my friend, his mate, and their children with such contempt,” said the lion, and then spoke the second verse:
Một người bạn có thể giữ được tình bạn thì không có người bạn nào là yếu kém cả. Từ nay trở đi, đừng bao giờ khinh thường bạn của anh, bạn của anh ấy và các con của họ nữa." Nói xong, sư tử đực đọc bài kệ thứ hai:
126
14.
14.
14.
127
‘‘Api cepi dubbalo mitto, mittadhammesu tiṭṭhati;
“Even if a friend is weak, if he stands firm in the duties of friendship,
"Dù bạn bè yếu kém,
128
So ñātako ca bandhu ca, so mitto so ca me sakhā;
He is kin and kinsman, he is my friend, and he is my companion.
Nếu giữ được tình bạn, thì người đó là thân quyến, là bằng hữu, là bạn của ta.
129
Dāṭhini mātimaññittho, siṅgālo mama pāṇado’’ti.
O fanged one, do not despise the jackal, for he is my life-giver.”
Hỡi kẻ có răng nanh, đừng khinh thường chồn, nó là người đã cứu mạng ta!"
130
Tattha api cepīti eko apisaddo anuggahattho, eko sambhāvanattho.
Here, api cepi means one api for emphasis and one for possibility.
Trong đó, api cepi có một từ api mang nghĩa hỗ trợ, và một từ mang nghĩa khả năng.
Tatrāyaṃ yojanā – dubbalopi ce mitto mittadhammesu api tiṭṭhati, sace ṭhātuṃ sakkoti, so ñātako ca bandhu ca, so mettacittatāya mitto, so ca me sahāyaṭṭhena sakhā.
The construction here is: “ Even if a friend is weak, if he stands firm in the duties of friendship, if he is able to stand firm, he is kin and kinsman, he is a friend through kindness, and he is my companion through comradeship.
Cách kết nối ở đây là: dubbalopi ce mitto mittadhammesu api tiṭṭhati, nếu một người bạn dù yếu kém mà vẫn có thể giữ được tình bạn, so ñātako ca bandhu ca, so vì lòng từ ái mà là mitto, so ca me vì tình bạn mà là sakhā.
Dāṭhini mātimaññittho ti, bhadde, dāṭhāsampanne sīhi mā mayhaṃ sahāyaṃ vā sahāyiṃ vā atimaññi, ayañhi siṅgālo mama pāṇadoti.
Dāṭhini mātimaññittho means, ‘My dear, O fanged lioness, do not despise my friend or his mate, for this jackal is my life-giver.’”
Dāṭhini mātimaññittho nghĩa là: Này sư tử cái có răng nanh đẹp, đừng khinh thường bạn của ta hay bạn của bạn ấy, vì con chồn này siṅgālo mama pāṇado đã cứu mạng ta.
131
Sā tassa vacanaṃ sutvā siṅgāliṃ khamāpetvā tato paṭṭhāya saputtāya tāya saddhiṃ samaggavāsaṃ vasi.
Hearing his words, she apologized to the jackal-vixen and from that day onwards lived in harmony with her and her children.
Nghe lời sư tử đực nói, sư tử cái xin lỗi chồn cái và từ đó trở đi, nó sống hòa thuận với chồn cái và các con của nó.
Sīhapotakāpi siṅgālapotakehi saddhiṃ kīḷamānā sammodamānā mātāpitūnaṃ atikkantakālepi mittabhāvaṃ abhinditvā sammodamānā vasiṃsu.
The lion cubs, playing and rejoicing with the jackal cubs, maintained their friendship without breaking it even after their parents had passed away, and lived in harmony.
Các sư tử con cũng vui đùa, hòa hợp với các chồn con, và ngay cả khi cha mẹ chúng qua đời, chúng vẫn không phá vỡ tình bạn mà tiếp tục sống hòa hợp.
Tesaṃ kira sattakulaparivaṭṭe abhijjamānā metti agamāsi.
Their friendship, it is said, extended unbroken for seven generations.
Tình bạn của họ kéo dài không suy suyển qua bảy thế hệ.
132
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino, keci arahanto ahesuṃ.
The Teacher brought forth this discourse on the Dhamma, expounded the Truths, and identified the Jātaka: at the conclusion of the Truths, some became Sotāpannas, some Sakadāgāmins, some Anāgāmins, and some Arahants.
Đức Phật, sau khi thuyết bài Pháp này, đã công bố các chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka: Khi bài Pháp kết thúc, một số người trở thành Sotāpanna, một số Sakadāgāmī, một số Anāgāmī, và một số Arahant.
‘‘Tadā siṅgālo ānando ahosi, sīho pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the jackal was Ānanda, and the lion was I myself.”
"Khi ấy, con chồn chính là Ānanda, còn con sư tử chính là Ta."
133
Guṇajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh, the Commentary on the Guṇa Jātaka.
Câu chuyện Guṇajātaka, thứ bảy, đã được kể xong.
134
* 8. Suhanujātakavaṇṇanā
* 8. Commentary on the Suhanuja Jātaka
* 8. Câu chuyện Suhanujātaka
135
Nayidaṃ visamasīlenāti idaṃ satthā jetavane viharanto dve caṇḍabhikkhū ārabbha kathesi.
Nayidaṃ visamasīlenā—this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning two fierce bhikkhus.
Nayidaṃ visamasīlenā câu chuyện này được Đức Thế Tôn kể khi Ngài ở tại Jetavana, liên quan đến hai vị tỳ khưu hung dữ.
Tasmiñhi samaye jetavanepi eko bhikkhu caṇḍo ahosi pharuso sāhasiko janapadepi.
At that time, there was one fierce, rough, and violent bhikkhu in Jetavana, and another in the countryside.
Vào thời điểm đó, có một vị tỳ khưu hung dữ, thô lỗ, và bạo lực ở Jetavana, và một vị khác cũng vậy ở vùng nông thôn.
Athekadivasaṃ jānapado bhikkhu kenacideva karaṇīyena jetavanaṃ agamāsi, sāmaṇerā ceva daharabhikkhū ca tassa caṇḍabhāvaṃ jānanti.
Then one day, the bhikkhu from the countryside came to Jetavana for some purpose, and the novices and young bhikkhus knew of his fierce nature.
Rồi một ngày nọ, vị tỳ khưu ở nông thôn đến Jetavana vì một lý do nào đó. Các sa-di và các tỳ khưu trẻ đều biết tính hung dữ của vị ấy.
‘‘Tesaṃ dvinnaṃ caṇḍānaṃ kalahaṃ passissāmā’’ti kutūhalena taṃ bhikkhuṃ jetavanavāsikassa pariveṇaṃ pahiṇiṃsu.
Desiring to witness the quarrel between the two fierce ones, they sent that bhikkhu to the cell of the Jetavana-dwelling bhikkhu.
Họ tò mò muốn xem cuộc cãi vã của hai vị tỳ khưu hung dữ đó, nên đã cử vị tỳ khưu ở nông thôn đến tịnh xá của vị tỳ khưu ở Jetavana.
Te ubhopi caṇḍā aññamaññaṃ disvāva piyasaṃvāsaṃ saṃsandiṃsu samiṃsu, hatthapādapiṭṭhisambāhanādīni akaṃsu.
Both fierce ones, upon seeing each other, immediately became friendly and harmonious, engaging in massaging each other’s hands, feet, and backs.
Cả hai vị tỳ khưu hung dữ đó, vừa nhìn thấy nhau, liền hòa hợp và thân thiện, họ xoa bóp tay, chân, lưng cho nhau, v.v.
Dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, caṇḍā bhikkhū aññesaṃ upari caṇḍā pharusā sāhasikā, aññamaññaṃ pana ubhopi samaggā sammodamānā piyasaṃvāsā jātā’’ti.
In the Dhamma hall, the bhikkhus raised the discussion: “Friends, the fierce bhikkhus are fierce, rough, and violent towards others, but these two are harmonious, friendly, and live amicably with each other.”
Trong Pháp đường, các tỳ khưu bắt đầu bàn tán: "Thưa chư vị, các tỳ khưu hung dữ thường thô lỗ và bạo lực với người khác, nhưng với nhau thì cả hai lại hòa hợp, thân thiện và sống vui vẻ."
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepete aññesaṃ caṇḍā pharusā sāhasikā, aññamaññaṃ pana samaggā sammodamānā piyasaṃvāsā ca ahesu’’nti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having arrived, asked, "Bhikkhus, what is the topic of your conversation now?" When they replied, "This topic, Venerable Sir," he said, "Bhikkhus, it is not only now; in the past too, these (two bhikkhus) were fierce, harsh, and violent towards others, but they were harmonious, joyful, and lived amicably with each other," and then he recounted a past event.
Đức Thế Tôn đến và hỏi: "Này các tỳ khưu, bây giờ các ông đang bàn tán về chuyện gì vậy?" Khi được trả lời: "Thưa Đức Thế Tôn, là chuyện này đây," Ngài nói: "Này các tỳ khưu, không chỉ bây giờ mà ngay cả trong quá khứ, những người này cũng hung dữ, thô lỗ và bạo lực với người khác, nhưng với nhau thì họ lại hòa hợp, thân thiện và sống vui vẻ." Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.
136
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa sabbatthasādhako atthadhammānusāsako amacco ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his minister, accomplishing all tasks and instructing him in welfare and Dhamma.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là vị đại thần giúp việc cho vua trong mọi việc, và là người cố vấn về lợi ích và Pháp.
So pana rājā thokaṃ dhanalobhapakatiko, tassa mahāsoṇo nāma kūṭaasso atthi.
However, that king was somewhat prone to greed for wealth; he had a cunning horse named Mahāsoṇa.
Vị vua đó hơi tham lam tài sản, ông có một con ngựa xảo quyệt tên là Mahāsoṇa.
Atha uttarāpathakā assavāṇijā pañca assasatāni ānesuṃ, assānaṃ āgatabhāvaṃ rañño ārocesuṃ.
Then, horse traders from Uttarāpatha brought five hundred horses, and they informed the king of the horses' arrival.
Rồi các thương nhân ngựa từ phương bắc mang đến năm trăm con ngựa, và báo cho vua biết về sự xuất hiện của chúng.
Tato pubbe pana bodhisatto asse agghāpetvā mūlaṃ aparihāpetvā dāpesi.
Before that, however, the Bodhisatta had the horses valued and had them paid for without reducing their price.
Trước đó, Bồ Tát đã định giá ngựa và cho trả tiền mà không giảm giá.
Rājā taṃ parihāyamāno aññaṃ amaccaṃ pakkosāpetvā ‘‘tāta, asse agghāpehi, agghāpento ca paṭhamaṃ mahāsoṇaṃ yathā tesaṃ assānaṃ antaraṃ pavisati, tathā vissajjetvā asse ḍaṃsāpetvā vaṇite kārāpetvā dubbalakāle mūlaṃ hāpetvā asse agghāpeyyāsī’’ti āha.
The king, being dissatisfied with that, summoned another minister and said, "My dear, have these horses valued. When valuing them, first release Mahāsoṇa so that he enters among those horses, bites them, causes them wounds, and then, when they are weak, reduce their price and value them."
Vua không hài lòng với điều đó, bèn cho gọi một vị đại thần khác đến và nói: "Này con, hãy định giá những con ngựa. Khi định giá, trước tiên hãy thả con Mahāsoṇa vào giữa những con ngựa đó, để nó cắn và làm bị thương chúng. Khi chúng yếu đi, hãy giảm giá và định giá chúng."
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tathā akāsi.
He assented, saying, "Very well," and did so.
Vị quan ấy "Được!" liền vâng lời và làm theo như vậy.
137
Assavāṇijā anattamanā hutvā tena katakiriyaṃ bodhisattassa ārocesuṃ.
The horse traders, being displeased, reported the deed done by him to the Bodhisatta.
Các thương nhân buôn ngựa không hài lòng, bèn báo cáo hành động của nhà vua cho Bồ Tát.
Bodhisatto ‘‘kiṃ pana tumhākaṃ nagare kūṭaasso natthī’’ti pucchi.
The Bodhisatta asked, "Is there no cunning horse in your city?"
Bồ Tát hỏi: "Vậy trong thành phố của các ngươi không có con ngựa xảo quyệt nào sao?"
‘‘Atthi sāmi, suhanu nāma kūṭaasso caṇḍo pharuso’’ti.
"Yes, master, there is a cunning horse named Suhanu, fierce and harsh."
"Bạch Đại Đức, có một con ngựa xảo quyệt tên là Suhanu, nó rất hung dữ và thô bạo."
‘‘Tena hi puna āgacchantā taṃ assaṃ āneyyāthā’’ti.
"Then, when you come again, bring that horse."
"Vậy thì, khi trở lại, hãy dẫn con ngựa ấy đến đây."
Te ‘‘sādhū’’ti paṭissuṇitvā puna āgacchantā taṃ kūṭassaṃ gāhāpetvā āgacchiṃsu.
They assented, saying, "Very well," and when they came again, they brought that cunning horse.
Họ "Được!" liền vâng lời, khi trở lại, họ đã cho bắt con ngựa xảo quyệt ấy và dẫn đến.
Rājā ‘‘assavāṇijā āgatā’’ti sutvā sīhapañjaraṃ ugghāṭetvā asse oloketvā mahāsoṇaṃ vissajjāpesi.
The king, hearing that the horse traders had arrived, opened the lion-barred window, looked at the horses, and had Mahāsoṇa released.
Nhà vua nghe tin "Các thương nhân buôn ngựa đã đến", liền mở cửa sổ hình sư tử, nhìn những con ngựa, rồi cho thả con Mahāsoṇa ra.
Assavāṇijāpi mahāsoṇaṃ āgacchantaṃ disvā suhanuṃ vissajjāpesuṃ.
The horse traders too, seeing Mahāsoṇa approaching, had Suhanu released.
Các thương nhân buôn ngựa cũng thấy con Mahāsoṇa đến, liền cho thả con Suhanu ra.
Te aññamaññaṃ patvā sarīrāni lehantā sammodamānā aṭṭhaṃsu.
They met each other, licked each other's bodies, and stood there rejoicing.
Chúng gặp nhau, liếm thân thể nhau, vui vẻ đứng đó.
Rājā bodhisattaṃ pucchi – ‘‘passasi ime dve kūṭassā aññesaṃ caṇḍā pharusā sāhasikā, aññe asse ḍaṃsitvā gelaññaṃ pāpenti, idāni aññamaññaṃ pana sarīraṃ lehantā sammodamānā aṭṭhaṃsu, kiṃ nāmeta’’nti?
The king asked the Bodhisatta, "Do you see these two cunning horses? They are fierce, harsh, and violent towards others, biting other horses and causing them illness. Now, however, they are licking each other's bodies and standing there rejoicing. What is the meaning of this?"
Nhà vua hỏi Bồ Tát: "Ngài có thấy hai con ngựa xảo quyệt này không? Chúng hung dữ, thô bạo và bạo lực với những con ngựa khác, cắn chúng và gây bệnh tật. Nay chúng lại liếm thân thể nhau và vui vẻ đứng đó. Chuyện này là sao vậy?"
Bodhisatto ‘‘nayime, mahārāja, visamasīlā, samasīlā samadhātukā ca ete’’ti vatvā imaṃ gāthādvayamāha –
The Bodhisatta said, "These, great king, are not of dissimilar character; they are of similar character and similar disposition," and then he uttered these two verses:
Bồ Tát nói: "Đại vương, hai con ngựa này không phải là có giới hạnh bất đồng, mà chúng có giới hạnh đồng nhất và bản chất đồng nhất", rồi nói hai bài kệ này:
138
15.
15.
15.
139
‘‘Nayidaṃ visamasīlena, soṇena suhanū saha;
"It is not with a horse of dissimilar character that Suhanu associates with Soṇa;
"Suhanu không ở cùng con Soṇa có giới hạnh bất đồng này,
140
Suhanūpi tādisoyeva, yo soṇassa sagocaro.
Suhanu is indeed just like Soṇa, one whose domain is that of Soṇa.
Suhanu cũng giống như vậy, con nào là đối tượng của Soṇa."
141
16.
16.
16.
142
‘‘Pakkhandinā pagabbhena, niccaṃ sandānakhādinā;
With one who is aggressive, impudent, ever biting his tether;
"Với kẻ phóng túng, ngông cuồng, luôn cắn phá dây trói,
143
Sameti pāpaṃ pāpena, sameti asatā asa’’nti.
Evil meets evil, the ignoble meets the ignoble."
Ác gặp ác, bất thiện gặp bất thiện."
144
Tattha nayidaṃ visamasīlena, soṇena suhanū sahāti yaṃ idaṃ suhanu kūṭasso soṇena saddhiṃ pemaṃ karoti, idaṃ na attano visamasīlena, atha kho attano samasīleneva saddhiṃ karoti.
Here, nayidaṃ visamasīlena, soṇena suhanū sahā means that this cunning horse Suhanu shows affection with Soṇa, not because of his dissimilar character, but because of his similar character. Both of them are of similar character and similar disposition due to their misconduct and immorality.
Trong đó, nayidaṃ visamasīlena, soṇena suhanū sahā có nghĩa là con ngựa xảo quyệt Suhanu này kết bạn với con Soṇa, điều này không phải do giới hạnh bất đồng của nó, mà là do giới hạnh đồng nhất của nó.
Ubhopi hete attano anācāratāya dussīlatāya samasīlā samadhātukā.
Suhanūpi tādisoyeva, yo soṇassa sagocaro means that Suhanu is just like Soṇa; whatever Soṇa's domain is, that is also his domain.
Cả hai con này đều có giới hạnh đồng nhất và bản chất đồng nhất do sự hành xử xấu và giới hạnh xấu của chúng.
Suhanūpi tādisoyeva, yo soṇassa sagocaroti yādiso soṇo, suhanupi tādisoyeva, yo soṇassa sagocaro yaṃgocaro soṇo, sopi taṃgocaroyeva.
Just as Soṇa's domain is among horses, always biting them, so too is Suhanu's.
Suhanūpi tādisoyeva, yo soṇassa sagocaro có nghĩa là con Soṇa như thế nào, thì Suhanu cũng như thế đó; đối tượng của Soṇa là gì, thì nó cũng có đối tượng như vậy.
Yatheva hi soṇo assagocaro asse ḍaṃsentova carati, tathā suhanupi.
By this, he shows their common domain.
Quả thật, giống như Soṇa có đối tượng là ngựa, chuyên cắn ngựa mà đi, thì Suhanu cũng vậy.
Iminā nesaṃ samānagocarataṃ dasseti.
To show their conduct and domains as one, ‘‘pakkhandinā’’ and so on was stated.
Điều này cho thấy sự đồng nhất về đối tượng của chúng.
145
Te pana ācāragocare ekato katvā dassetuṃ ‘‘pakkhandinā’’tiādi vuttaṃ.
Here, pakkhandinā means one who is accustomed to attacking horses, one whose domain is attacking.
Để cho thấy sự đồng nhất về hành vi và đối tượng của chúng, đã nói "pakkhandinā" v.v.
Tattha pakkhandināti assānaṃ upari pakkhandanasīlena pakkhandanagocarena.
Pagabbhenā means one who is immoral, endowed with impudence of body and so on.
Trong đó, pakkhandinā có nghĩa là có thói quen nhảy bổ lên ngựa, có đối tượng là nhảy bổ.
Pagabbhenāti kāyapāgabbhiyādisamannāgatena dussīlena.
Niccaṃ sandānakhādinā means one who is always accustomed to biting his tether, one whose domain is biting the tether.
Pagabbhenā có nghĩa là có giới hạnh xấu, có sự thô lỗ về thân thể v.v.
Niccaṃ sandānakhādināti sadā attano bandhanayottaṃ khādanasīlena khādanagocarena ca.
Sameti pāpaṃ pāpenā means that the evil, the immorality, of one of these meets with the evil of the other.
Niccaṃ sandānakhādinā có nghĩa là luôn có thói quen cắn phá dây trói của mình, có đối tượng là cắn phá.
Sameti pāpaṃ pāpenāti etesu aññatarena pāpena saddhiṃ aññatarassa pāpaṃ dussīlyaṃ sameti.
Asatā asanti means that the ignoble action of the other, which is endowed with ignoble conduct and domain, meets with the ignoble one of these, just as excrement mixes with excrement, becoming similar and indistinguishable.
Sameti pāpaṃ pāpenā có nghĩa là giới hạnh xấu của con này hòa hợp với giới hạnh xấu của con kia.
Asatā asanti etesu aññatarena asatā anācāragocarasampannena saha itarassa asaṃ asādhukammaṃ sameti, gūthādīni viya gūthādīhi ekato saṃsandati sadisaṃ nibbisesameva hotīti.
Asatā asanti—among these, with one who is unvirtuous, who has an improper range of conduct, the unvirtuous, unwholesome action of the other becomes unified, just as filth mixes with filth, becoming indistinguishable.
Asatā asa có nghĩa là hành động bất thiện của con này hòa hợp với hành động bất thiện của con kia, tức là giống như phân và những thứ tương tự hòa hợp với phân và những thứ tương tự, không có gì khác biệt.
146
Evaṃ vatvā ca pana bodhisatto ‘‘mahārāja, raññā nāma atiluddhena na bhavitabbaṃ, parassa santakaṃ nāma nāsetuṃ na vaṭṭatī’’ti rājānaṃ ovaditvā asse agghāpetvā bhūtameva mūlaṃ dāpesi.
Having said this, the Bodhisatta advised the king, saying, ‘‘O Great King, a king should not be overly greedy; one should not destroy another’s property.’’ Having valued the horses, he had the actual price paid.
Nói xong như vậy, Bồ Tát khuyên nhà vua: "Đại vương, một vị vua không nên quá tham lam, không nên hủy hoại tài sản của người khác", rồi cho định giá những con ngựa và trả đúng giá trị thực của chúng.
Assavāṇijā yathāsabhāvameva mūlaṃ labhitvā haṭṭhatuṭṭhā agamaṃsu.
The horse-dealers, having received the actual price as it was, were delighted and pleased, and they departed.
Các thương nhân buôn ngựa nhận được đúng giá trị thực, vui mừng khôn xiết rồi ra đi.
Rājāpi bodhisattassa ovāde ṭhatvā yathākammaṃ gato.
The king, too, abiding by the Bodhisatta’s advice, went according to his kamma.
Nhà vua cũng giữ lời khuyên của Bồ Tát và hành động theo nghiệp của mình.
147
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā dve assā ime dve duṭṭhabhikkhū ahesuṃ, rājā ānando, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: ‘‘At that time, the two horses were these two unruly bhikkhus; the king was Ānanda; and the wise minister was I myself.’’
Đức Phật thuyết pháp này xong, Ngài kết hợp câu chuyện Jātaka: "Khi ấy, hai con ngựa chính là hai vị tỳ khưu hung ác này; nhà vua là Ānanda; còn vị đại thần hiền trí chính là Ta."
148
Suhanujātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth description of the Suhanu Jātaka.
Chuyện Suhanu Jātaka thứ tám đã hoàn tất.
149
* 9. Morajātakavaṇṇanā
* 9. Description of the Mora Jātaka
* 9. Chuyện Morajātakavaṇṇanā
150
Udetayaṃ cakkhumā ekarājāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Jetavana, spoke this, beginning with Udetayaṃ cakkhumā ekarājā (Arising, the one-king, the eye-possessor), concerning a certain discontented bhikkhu.
Udetayaṃ cakkhumā ekarājā – câu này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị tỳ khưu chán nản.
So hi bhikkhu bhikkhūhi satthu santikaṃ nīto ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhito’’ti vutte ‘‘saccaṃ, bhante’’ti vatvā ‘‘kiṃ disvā’’ti vutte ‘‘ekaṃ alaṅkatapaṭiyattasarīraṃ mātugāmaṃ oloketvā’’ti āha.
This bhikkhu, having been brought by bhikkhus to the Teacher, was asked, ‘‘Is it true, bhikkhu, that you are discontented?’’ When he replied, ‘‘Yes, Venerable Sir,’’ and was asked, ‘‘Having seen what?’’ he said, ‘‘Having seen a woman whose body was adorned and prepared.’’
Vị tỳ khưu ấy được các tỳ khưu dẫn đến chỗ Đức Phật. Khi được hỏi: "Này tỳ khưu, có thật là ngươi chán nản không?", vị ấy đáp: "Bạch Thế Tôn, đúng vậy." Khi được hỏi: "Vì thấy gì?", vị ấy nói: "Vì nhìn thấy một người phụ nữ với thân thể được trang điểm và sửa soạn."
Atha naṃ satthā ‘‘bhikkhu mātugāmo nāma kasmā tumhādisānaṃ cittaṃ nāluḷessati, porāṇakapaṇḍitānampi hi mātugāmassa saddaṃ sutvā satta vassasatāni asamudāciṇṇakilesā okāsaṃ labhitvā khaṇeneva samudācariṃsu.
Then the Teacher said to him, ‘‘Bhikkhu, why would a woman not disturb the minds of those like you? For even in the case of ancient sages, defilements that had not arisen for seven hundred years, upon hearing the sound of a woman, found an opportunity and arose in an instant.
Bấy giờ, Đức Phật nói với vị ấy: "Này tỳ khưu, tại sao một người phụ nữ lại không làm xáo động tâm trí của những người như ngươi? Ngay cả những bậc hiền trí thời xưa, sau bảy trăm năm không có phiền não khởi lên, khi nghe tiếng người phụ nữ, phiền não đã có cơ hội và lập tức khởi lên.
Visuddhāpi sattā saṃkilissanti, uttamayasasamaṅginopi āyasakyaṃ pāpuṇanti, pageva aparisuddhā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Even pure beings become defiled; even those endowed with great fame fall into disrepute; how much more so those who are not pure!’’ Having said this, he related a past event.
Ngay cả những chúng sinh thanh tịnh cũng bị ô nhiễm, ngay cả những người có danh tiếng tột đỉnh cũng rơi vào cảnh vô danh, huống chi những người chưa thanh tịnh." Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.
151
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto morayoniyaṃ paṭisandhiṃ gahetvā aṇḍakālepi kaṇikāramakuḷavaṇṇaaṇḍakoso hutvā aṇḍaṃ bhinditvā nikkhanto suvaṇṇavaṇṇo ahosi dassanīyo pāsādiko pakkhānaṃ antare surattarājivirājito, so attano jīvitaṃ rakkhanto tisso pabbatarājiyo atikkamma catutthāya pabbatarājiyā ekasmiṃ daṇḍakahiraññapabbatatale vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the peacock species. Even in the egg stage, his eggshell was the color of a kaṇikāra flower bud. Breaking out of the egg, he emerged golden-colored, delightful, pleasing, and adorned with brilliant crimson lines between his wings. Protecting his life, he crossed three mountain ranges and made his abode at the foot of a certain Daṇḍaka-Hirañña mountain, the fourth mountain range.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát tái sinh làm loài công. Ngay cả khi còn trong trứng, vỏ trứng của Ngài có màu sắc như nụ hoa kaṇikāra. Khi trứng vỡ, Ngài nở ra với màu vàng óng, đẹp đẽ, đáng yêu, với những vệt đỏ tươi rực rỡ giữa đôi cánh. Để bảo vệ mạng sống của mình, Ngài đã vượt qua ba dãy núi và trú ngụ dưới chân núi Daṇḍakahirañña, trên dãy núi thứ tư.
So pabhātāya rattiyā pabbatamatthake nisinno sūriyaṃ uggacchantaṃ oloketvā attano gocarabhūmiyaṃ rakkhāvaraṇatthāya brahmamantaṃ bandhanto ‘‘udetaya’’ntiādimāha.
Having taken his seat on the mountaintop when the night had dawned, he looked at the rising sun and, in order to establish protection and a safeguard for his feeding ground, he spoke the Brahmamanta, beginning with ‘‘udetaya’’ (arising).
Khi màn đêm buông xuống, Ngài ngồi trên đỉnh núi, nhìn mặt trời mọc, và để bảo vệ khu vực kiếm ăn của mình, Ngài đã tụng thần chú Brahmamanta, bắt đầu bằng "udetaya" v.v.
152
17.
17.
17.
153
‘‘Udetayaṃ cakkhumā ekarājā,
‘‘Arising, the eye-possessor, the one-king,
"Mặt trời mọc, Đấng có mắt, Vua duy nhất,
154
Harissavaṇṇo pathavippabhāso;
Of golden hue, illuminating the earth;
Màu vàng óng, soi sáng địa cầu;
155
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ pathavippabhāsaṃ,
Him I salute, of golden hue, illuminating the earth,
Con xin đảnh lễ Ngài, Đấng màu vàng óng, soi sáng địa cầu,
156
Tayājja guttā viharemu divasa’’nti.
May we dwell protected by you this day.’’
Nhờ Ngài che chở, hôm nay chúng con sẽ an trú suốt ngày."
157
Tattha udetīti pācīnalokadhātuto uggacchati.
Therein, udetī means rises from the eastern world-system.
Trong đó, udetī có nghĩa là mọc lên từ phương đông.
Cakkhumāti sakalacakkavāḷavāsīnaṃ andhakāraṃ vidhamitvā cakkhupaṭilābhakaraṇena yaṃ tena tesaṃ dinnaṃ cakkhu, tena cakkhunā cakkhumā.
Cakkhumā means eye-possessor by means of the eye given by him, which dispels the darkness of all beings dwelling in the world-system and enables them to gain sight.
Cakkhumā có nghĩa là Đấng có mắt, vì Ngài đã ban mắt cho chúng sinh trong toàn cõi luân hồi bằng cách xua tan bóng tối và làm cho họ có được thị giác.
Ekarājāti sakalacakkavāḷe ālokakarānaṃ antare seṭṭhavisiṭṭhaṭṭhena ekarājā.
Ekarājā means one-king in the sense of being supreme and excellent among all illuminators in the entire world-system.
Ekarājā có nghĩa là Vua duy nhất, vì Ngài là bậc tối thượng và xuất sắc nhất trong số những đấng tạo ánh sáng trong toàn cõi luân hồi.
Harissavaṇṇoti harisamānavaṇṇo, suvaṇṇavaṇṇoti attho.
Harissavaṇṇo means of golden hue, like gold; that is, golden-colored.
Harissavaṇṇo có nghĩa là có màu sắc giống như vàng, tức là màu vàng óng.
Pathavippabhāsoti pathaviyā pabhāso.
Pathavippabhāso means illuminator of the earth.
Pathavippabhāso có nghĩa là ánh sáng của địa cầu.
Taṃ taṃ namassāmīti tasmā taṃ evarūpaṃ bhavantaṃ namassāmi vandāmi.
Taṃ taṃ namassāmī means therefore, I salute, I worship that such a one, you.
Taṃ taṃ namassāmī có nghĩa là do đó, con xin đảnh lễ, tôn kính Ngài, Đấng có hình tướng như vậy.
Tayājja guttā viharemu divasanti tayā ajja rakkhitā gopitā hutvā imaṃ divasaṃ catuiriyāpathavihārena sukhaṃ vihareyyāma.
Tayājja guttā viharemu divasa means protected and guarded by you today, may we dwell happily this day by means of the four postures.
Tayājja guttā viharemu divasa có nghĩa là nhờ Ngài bảo vệ, che chở hôm nay, chúng con sẽ an trú hạnh phúc suốt ngày bằng bốn oai nghi.
158
Evaṃ bodhisatto imāya gāthāya sūriyaṃ namassitvā dutiyagāthāya atīte parinibbute buddhe ceva buddhaguṇe ca namassati.
Thus, having saluted the sun with this verse, the Bodhisatta in the second verse salutes the Buddhas who had attained parinibbāna in the past and the qualities of the Buddhas.
Như vậy, Bồ Tát đảnh lễ mặt trời bằng bài kệ này, và bằng bài kệ thứ hai, Ngài đảnh lễ các vị Phật đã nhập Niết Bàn trong quá khứ và các đức tính của Phật.
159
‘‘Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme, te me namo te ca maṃ pālayantu;
‘‘Those brahmins, knowers of the Vedas in all Dhammas, to them be my homage, and may they protect me;
"Những bậc Bà la môn thông suốt mọi pháp, con xin đảnh lễ các Ngài, mong các Ngài che chở con;
160
Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā, namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā;
Homage to the Buddhas, homage to the Bodhi, homage to the liberated, homage to liberation;
Kính lễ chư Phật, kính lễ Giác ngộ, kính lễ những bậc đã giải thoát, kính lễ sự giải thoát;
161
Imaṃ so parittaṃ katvā, moro carati esanā’’ti.
Having made this protection, the peacock goes seeking food.’’
Sau khi trì tụng bài hộ trì này, con công đi kiếm ăn."
162
Tattha ye brāhmaṇāti ye bāhitapāpā visuddhibrāhmaṇā.
Therein, ye brāhmaṇā means those pure brahmins who have dispelled evil.
Trong đó, ye brāhmaṇā có nghĩa là những bậc Bà la môn thanh tịnh đã tẩy trừ tội lỗi.
Vedagūti vedānaṃ pāraṃ gatātipi vedagū, vedehi pāraṃ gatātipi vedagū.
Vedagū means gone to the other shore of the Vedas, or gone to the other shore by means of the Vedas.
Vedagū có nghĩa là đã vượt qua các tri kiến, hoặc đã vượt qua bằng các tri kiến.
Idha pana sabbe saṅkhatāsaṅkhatadhamme vidite pākaṭe katvā gatāti vedagū.
Here, however, vedagū means having made all conditioned and unconditioned Dhammas known and manifest, they have gone beyond.
Ở đây, vedagū có nghĩa là đã làm cho tất cả các pháp hữu vi và vô vi trở nên rõ ràng, hiển lộ.
Tenevāha ‘‘sabbadhamme’’ti.
Therefore, it is said ‘‘sabbadhamme’’ (in all Dhammas).
Vì vậy, nói "sabbadhamme".
Sabbe khandhāyatanadhātudhamme salakkhaṇasāmaññalakkhaṇavasena attano ñāṇassa vidite pākaṭe katvā gatā, tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ madditvā dasasahassilokadhātuṃ unnādetvā bodhitale sammāsambodhiṃ patvā saṃsāraṃ vā atikkantāti attho.
Having made all phenomena of aggregates, sense bases, and elements known and clear to their own knowledge through their specific characteristics and common characteristics, they went forth, having crushed the heads of the three Māras, having made the ten-thousand-world-system resound, having attained perfect enlightenment at the foot of the Bodhi tree, and having transcended saṃsāra—this is the meaning.
Tức là đã làm cho tất cả các pháp uẩn, xứ, giới trở nên rõ ràng, hiển lộ trong tri kiến của mình theo đặc tướng và cộng tướng; hoặc đã nghiền nát đầu của ba ma, làm chấn động mười ngàn thế giới, đạt được Chánh Đẳng Giác dưới cội Bồ đề, và đã vượt qua luân hồi.
Te me namoti te mama imaṃ namakkāraṃ paṭicchantu.
Homage to them means, "May those Blessed Ones accept this homage of mine."
Te me namo có nghĩa là mong các Ngài chấp nhận sự đảnh lễ này của con.
Te ca maṃ pālayantūti evaṃ mayā namassitā ca te bhagavanto maṃ pālentu rakkhantu gopentu.
And may they protect me means, "May those Blessed Ones, thus honored by me, protect me, guard me, and keep me safe."
Te ca maṃ pālayantū có nghĩa là các Đức Thế Tôn đã được con đảnh lễ như vậy, xin hãy bảo vệ, che chở, gìn giữ con.
Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā, namo vimuttānaṃ namo vimuttiyāti ayaṃ mama namakkāro atītānaṃ parinibbutānaṃ buddhānaṃ atthu, tesaññeva catūsu ca maggesu catūsu phalesu ñāṇasaṅkhātāya bodhiyā atthu, tathā tesaññeva arahattaphalavimuttiyā vimuttānaṃ atthu, yā ca nesaṃ tadaṅgavimutti vikkhambhanavimutti samucchedavimutti paṭippassaddhivimutti nissaraṇavimuttīti pañcavidhā vimutti, tassā nesaṃ vimuttiyāpi ayaṃ mayhaṃ namakkāro atthūti.
Homage to the Buddhas, homage to the Bodhi; homage to the liberated ones, homage to liberation means, "May this homage of mine be to the Buddhas who have passed away and attained final Nibbāna; and to their Bodhi, which is knowledge in the four paths and four fruits; and likewise, may it be to those liberated by the liberation of the fruit of arahantship; and may this homage of mine also be to their fivefold liberation, namely, tadaṅgavimutti, vikkhambhanavimutti, samucchedavimutti, paṭippassaddhivimutti, and nissaraṇavimutti."
Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā, namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā có nghĩa là sự đảnh lễ này của con xin dâng lên chư Phật đã nhập Niết Bàn trong quá khứ; xin dâng lên sự giác ngộ của các Ngài, tức là trí tuệ trong bốn đạo và bốn quả; cũng như xin dâng lên các bậc đã giải thoát bằng sự giải thoát A la hán quả của các Ngài; và xin dâng lên năm loại giải thoát của các Ngài, đó là giải thoát tức thời, giải thoát bằng cách đẩy lùi, giải thoát bằng cách diệt trừ, giải thoát bằng cách làm lắng dịu, giải thoát bằng cách thoát ly.
‘‘Imaṃ so parittaṃ katvā, moro carati esanā’’ti idaṃ pana padadvayaṃ satthā abhisambuddho hutvā āha.
However, the Teacher, having become fully enlightened, spoke these two lines: ‘‘Imaṃ so parittaṃ katvā, moro carati esanā’’ (Having made this protection, the peacock wanders seeking food).
"Imaṃ so parittaṃ katvā, moro carati esanā" – hai câu này được Đức Phật nói sau khi Ngài đã thành Chánh Đẳng Giác.
Tassattho – bhikkhave, so moro imaṃ parittaṃ imaṃ rakkhaṃ katvā attano gocarabhūmiyaṃ pupphaphalādīnaṃ atthāya nānappakārāya esanāya carati.
Its meaning is: "Monks, that peacock, having made this protection, this safeguard, wanders in its feeding ground, seeking various kinds of food like flowers and fruits."
Ý nghĩa của điều đó là: Này các Tỳ-khưu, con công ấy, sau khi thực hiện sự bảo hộ, sự che chở này, đi tìm kiếm đủ loại thức ăn như hoa quả, v.v., trong khu vực kiếm ăn của mình.
163
Evaṃ divasaṃ caritvā sāyaṃ pabbatamatthake nisīditvā atthaṅgataṃ sūriyaṃ olokento buddhaguṇe āvajjetvā nivāsaṭṭhāne rakkhāvaraṇatthāya puna brahmamantaṃ bandhanto ‘‘apetaya’’ntiādimāha.
Having thus wandered during the day, in the evening, sitting on the mountaintop, looking at the setting sun, reflecting on the qualities of the Buddha, and again binding the Brahmā-mantra for protection and safeguarding his dwelling place, he uttered "Apetayaṃ" and so on.
Như vậy, sau khi kiếm ăn suốt ngày, vào buổi chiều, nó ngồi trên đỉnh núi, nhìn mặt trời lặn, quán tưởng các đức Phật, và để bảo vệ nơi ở của mình, nó lại tụng chú Phạm thiên, nói: ‘‘Apetaya’’ v.v.
164
18.
18.
18.
165
‘‘Apetayaṃ cakkhumā ekarājā, harissavaṇṇo pathavippabhāso;
"This one, the Eye-possessor, the Sole King, golden-hued, illuminating the earth, departs;
“Vị Vua Độc Nhất, bậc có mắt, màu vàng rực rỡ, chiếu sáng khắp mặt đất, đang lặn xuống.
166
Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ pathavippabhāsaṃ, tayājja guttā viharemu rattiṃ.
Him I salute, the golden-hued, illuminating the earth; protected by you, may we dwell happily this night."
Tôi xin đảnh lễ Ngài, bậc màu vàng rực rỡ, chiếu sáng khắp mặt đất. Được Ngài che chở hôm nay, chúng tôi sẽ an trú suốt đêm.”
167
‘‘Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme, te me namo te ca maṃ pālayantu;
"Those Brahmins who are knowers of all phenomena—homage to them, and may they protect me;
“Những vị Bà-la-môn thông hiểu tất cả các Pháp, tôi xin đảnh lễ các Ngài, và xin các Ngài bảo hộ tôi.
168
Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā, namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā;
Homage to the Buddhas, homage to the Bodhi; homage to the liberated ones, homage to liberation;
Kính lễ chư Phật, kính lễ Bồ-đề; kính lễ các bậc đã giải thoát, kính lễ sự giải thoát.
169
Imaṃ so parittaṃ katvā, moro vāsamakappayī’’ti.
Having made this protection, the peacock made its dwelling."
Sau khi thực hiện sự bảo hộ này, con công đã an trú.”
170
Tattha apetīti apayāti atthaṃ gacchati.
Here, apetī means departs, goes to rest.
Ở đây, apetī có nghĩa là đi mất, lặn xuống.
Imaṃ so parittaṃ katvā, moro vāsamakappayīti idampi abhisambuddho hutvā āha.
Imaṃ so parittaṃ katvā, moro vāsamakappayī (Having made this protection, the peacock made its dwelling) – this too was spoken by the Teacher after he had become fully enlightened.
Imaṃ so parittaṃ katvā, moro vāsamakappayī (Sau khi thực hiện sự bảo hộ này, con công đã an trú) – điều này cũng do Đức Phật toàn giác nói.
Tassattho – bhikkhave, so moro imaṃ parittaṃ imaṃ rakkhaṃ katvā attano nivāsaṭṭhāne vāsaṃ kappayittha, tassa rattiṃ vā divā vā imassa parittassānubhāvena neva bhayaṃ, na lomahaṃso ahosi.
Its meaning is: "Monks, that peacock, having made this protection, this safeguard, made its dwelling in its abode, and by the power of this protection, it had no fear or terror either by night or by day."
Ý nghĩa của điều đó là: Này các Tỳ-khưu, con công ấy, sau khi thực hiện sự bảo hộ, sự che chở này, đã an trú tại nơi ở của mình. Nhờ năng lực của sự bảo hộ này, nó không hề có nỗi sợ hãi hay sự dựng tóc gáy, dù là ban đêm hay ban ngày.
171
Atheko bārāṇasiyā avidūre nesādagāmavāsī nesādo himavantapadese vicaranto tasmiṃ daṇḍakahiraññapabbatamatthake nisinnaṃ bodhisattaṃ disvā āgantvā puttassa ārocesi.
Then a fowler, residing in a fowler's village not far from Bārāṇasī, wandering in the Himavant region, saw the Bodhisatta sitting on the summit of the Daṇḍakahirañña mountain, came and informed his son.
Sau đó, một người thợ săn sống ở một ngôi làng thợ săn không xa Bārāṇasī, khi đi lang thang ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, đã nhìn thấy Bồ-tát đang ngồi trên đỉnh núi Daṇḍakahirañña, bèn đến báo cho con trai mình.
Athekadivasaṃ khemā nāma bārāṇasirañño devī supinena suvaṇṇavaṇṇaṃ moraṃ dhammaṃ desentaṃ disvā pabuddhakāle rañño ārocesi – ‘‘ahaṃ, deva, suvaṇṇavaṇṇassa morassa dhammaṃ sotukāmā’’ti.
Then one day, Queen Khemā, the consort of the King of Bārāṇasī, saw in a dream a golden-colored peacock preaching the Dhamma, and upon waking, she informed the king, "My lord, I wish to hear the Dhamma from a golden-colored peacock."
Một ngày nọ, Hoàng hậu Khemā của vua Bārāṇasī, trong giấc mơ thấy một con công màu vàng đang thuyết Pháp. Khi tỉnh dậy, bà báo với nhà vua: “Thưa Đại Vương, thần thiếp muốn nghe Pháp từ con công màu vàng.”
Rājā amacce pucchi.
The king asked his ministers.
Đức vua hỏi các đại thần.
Amaccā ‘‘brāhmaṇā jānissantī’’ti āhaṃsu.
The ministers said, "The Brahmins will know."
Các đại thần nói: “Các vị Bà-la-môn sẽ biết.”
Brāhmaṇā taṃ sutvā ‘‘suvaṇṇavaṇṇā morā nāma hontī’’ti vatvā ‘‘kattha hontī’’ti vutte ‘‘nesādā jānissantī’’ti āhaṃsu.
The Brahmins, having heard it, said, "There are golden-colored peacocks," and when asked "Where are they?", they said, "The fowlers will know."
Các Bà-la-môn nghe vậy nói: “Có những con công màu vàng.” Khi được hỏi: “Chúng ở đâu?”, họ nói: “Các thợ săn sẽ biết.”
Rājā nesāde sannipātetvā pucchi.
The king gathered the fowlers and asked them.
Đức vua triệu tập các thợ săn và hỏi.
Atha so nesādaputto ‘‘āma, mahārāja, daṇḍakahiraññapabbato nāma atthi, tattha suvaṇṇavaṇṇo moro vasatī’’ti āha.
Then that fowler's son said, "Yes, Your Majesty, there is a mountain called Daṇḍakahirañña, and a golden-colored peacock lives there."
Sau đó, con trai của người thợ săn kia nói: “Vâng, thưa Đại Vương, có một ngọn núi tên là Daṇḍakahirañña, ở đó có một con công màu vàng sinh sống.”
‘‘Tena hi taṃ moraṃ amāretvā bandhitvāva ānehī’’ti.
"In that case, bring that peacock, having captured it alive, not killed."
“Vậy thì hãy bắt con công đó mà không giết nó, rồi mang về đây.”
Nesādo gantvā tassa gocarabhūmiyaṃ pāse oḍḍesi.
The fowler went and set snares in its feeding ground.
Người thợ săn đi đặt bẫy trong khu vực kiếm ăn của nó.
Morena akkantaṭṭhānepi pāso na sañcarati.
Even where the peacock stepped, the snare did not activate.
Ngay cả ở nơi con công đã bước qua, cái bẫy cũng không hoạt động.
Nesādo gaṇhituṃ asakkonto satta vassāni vicaritvā tattheva kālamakāsi.
Unable to catch it, the fowler wandered for seven years and then died there.
Người thợ săn không thể bắt được nó, đã lang thang bảy năm rồi chết ngay tại đó.
Khemāpi devī patthitaṃ alabhamānā kālamakāsi.
Queen Khemā also died, not having obtained what she wished.
Hoàng hậu Khemā cũng chết vì không đạt được điều mình mong muốn.
172
Rājā ‘‘moraṃ me nissāya devī kālakatā’’ti kujjhitvā ‘‘himavantapadese daṇḍakahiraññapabbato nāma atthi, tattha suvaṇṇavaṇṇo moro vasati, ye tassa maṃsaṃ khādanti, te ajarā amarā hontī’’ti akkharaṃ suvaṇṇapaṭṭe likhāpetvā suvaṇṇapaṭṭaṃ mañjūsāya nikkhipāpesi.
The king, angered, thinking, "The queen died because of my peacock," had a message inscribed on a golden plate: "In the Himalayan region, there is a mountain called Daṇḍakahirañña. A golden-colored peacock lives there. Those who eat its flesh become ageless and immortal." He then had the golden plate placed in a casket.
Đức vua tức giận vì “Hoàng hậu chết vì con công của ta”, bèn sai khắc lên một tấm vàng dòng chữ: “Ở vùng núi Hy Mã Lạp Sơn có một ngọn núi tên là Daṇḍakahirañña, ở đó có một con công màu vàng sinh sống. Ai ăn thịt nó sẽ không già không chết.” Rồi ông đặt tấm vàng vào một cái hộp.
Tasmiṃ kālakate añño rājā rajjaṃ patvā suvaṇṇapaṭṭaṃ vācetvā ‘‘ajaro amaro bhavissāmī’’ti aññaṃ nesādaṃ pesesi.
When that king passed away, another king, having attained the throne, read the golden plate and, thinking "I shall become ageless and immortal," sent another fowler.
Khi đức vua đó qua đời, một vị vua khác lên ngôi, đọc tấm vàng và nói: “Ta sẽ không già không chết”, bèn sai một người thợ săn khác đi.
Sopi gantvā bodhisattaṃ gahetuṃ asakkonto tattheva kālamakāsi.
He too went, but being unable to catch the Bodhisatta, he died right there.
Người đó cũng đi, không thể bắt được Bồ-tát, rồi chết ngay tại đó.
Eteneva niyāmena cha rājaparivaṭṭā gatā.
In this very manner, six successions of kings passed.
Theo cách này, sáu triều đại vua đã trôi qua.
Atha sattamo rājā rajjaṃ patvā ekaṃ nesādaṃ pahiṇi.
Then the seventh king, having attained the throne, sent a fowler.
Sau đó, vị vua thứ bảy lên ngôi và sai một người thợ săn đi.
So gantvā bodhisattena akkantaṭṭhānepi pāsassa asañcaraṇabhāvaṃ, attano parittaṃ katvā gocarabhūmigamanabhāvañcassa ñatvā paccantaṃ otaritvā ekaṃ moriṃ gahetvā yathā hatthatāḷasaddena naccati, accharāsaddena ca vassati, evaṃ sikkhāpetvā taṃ ādāya gantvā morena paritte akate pātoyeva pāsayaṭṭhiyo ropetvā pāse oḍḍetvā moriṃ vassāpesi.
He went and, understanding that snares were ineffective even in the places the Bodhisatta frequented, and that the Bodhisatta would perform his paritta before going to his feeding grounds, he descended to the border region, caught a peahen, and trained her to dance to the sound of hand-clapping and to cry out at the snapping of fingers. Taking her with him, he set up the snare sticks and spread the snares early in the morning, before the peacock had performed his paritta, and made the peahen cry out.
Người đó đi và biết rằng bẫy không hoạt động ngay cả ở nơi Bồ-tát đã bước qua, và Bồ-tát đã thực hiện sự bảo hộ rồi mới đi kiếm ăn. Anh ta bèn xuống vùng biên giới, bắt một con công mái, huấn luyện nó biết nhảy theo tiếng vỗ tay và kêu theo tiếng gõ nhịp. Sau đó, anh ta mang con công mái đó đi, và vào buổi sáng sớm, khi con công trống chưa thực hiện sự bảo hộ, anh ta dựng các cọc bẫy, đặt bẫy và cho con công mái kêu.
Moro visabhāgaṃ mātugāmasaddaṃ sutvā kilesāturo hutvā parittaṃ kātuṃ asakkuṇitvā gantvā pāse bajjhi.
The peacock, hearing the unfamiliar sound of a female, became overwhelmed by defilements, and being unable to perform his paritta, went and was caught in the snare.
Con công trống nghe tiếng mái lạ, bị dục vọng giày vò, không thể thực hiện sự bảo hộ, bèn đi và mắc vào bẫy.
Atha naṃ nesādo gahetvā gantvā bārāṇasirañño adāsi.
Then the fowler took him and presented him to the king of Bārāṇasī.
Sau đó, người thợ săn bắt nó và mang đến dâng cho vua Bārāṇasī.
173
Rājā tassa rūpasampattiṃ disvā tuṭṭhamānaso āsanaṃ dāpesi.
The king, seeing his perfect beauty, was delighted and offered him a seat.
Đức vua thấy vẻ đẹp của nó, lòng hoan hỷ, bèn cho đặt một chỗ ngồi.
Bodhisatto paññattāsane nisīditvā ‘‘mahārāja, kasmā maṃ gaṇhāpesī’’ti pucchi.
The Bodhisatta, seated on the prepared seat, asked, "Great King, why did you have me caught?"
Bồ-tát ngồi trên chỗ ngồi đã được sắp đặt, hỏi: “Thưa Đại Vương, tại sao Ngài lại cho bắt tôi?”
‘‘Ye kira tava maṃsaṃ khādanti, te ajarā amarā honti, svāhaṃ tava maṃsaṃ khāditvā ajaro amaro hotukāmo taṃ gaṇhāpesi’’nti.
"It is said that those who eat your flesh become ageless and immortal. I, wishing to become ageless and immortal by eating your flesh, had you caught."
“Nghe nói ai ăn thịt ngài sẽ không già không chết, nên ta muốn ăn thịt ngài để không già không chết, vì vậy ta đã cho bắt ngài.”
‘‘Mahārāja, mama tāva maṃsaṃ khādantā ajarā amarā hontu, ahaṃ pana marissāmī’’ti?
"Great King, let those who eat my flesh become ageless and immortal, but will I not die?"
“Thưa Đại Vương, nếu ai ăn thịt tôi sẽ không già không chết, nhưng tôi thì sẽ chết, phải không?”
‘‘Āma, marissasī’’ti.
"Yes, you will die."
“Vâng, ngài sẽ chết.”
‘‘Mayi marante pana mama maṃsameva khāditvā kinti katvā na marissantī’’ti?
"If I die, how will they not die by eating my very flesh?"
“Vậy thì khi tôi đã chết, làm sao những người ăn thịt tôi lại không chết được?”
‘‘Tvaṃ suvaṇṇavaṇṇo, tasmā kira tava maṃsaṃ khādakā ajarā amarā bhavissantī’’ti.
"You are golden-colored; therefore, it is said that those who eat your flesh will become ageless and immortal."
“Ngài có màu vàng, vì vậy những người ăn thịt ngài sẽ không già không chết.”
‘‘Mahārāja, ahaṃ pana na akāraṇā suvaṇṇavaṇṇo jāto, pubbe panāhaṃ imasmiṃyeva nagare cakkavattī rājā hutvā sayampi pañca sīlāni rakkhiṃ, sakalacakkavāḷavāsinopi rakkhāpesiṃ, svāhaṃ kālaṃ karitvā tāvatiṃsabhavane nibbatto, tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā tato cuto aññassa akusalassa nissandena morayoniyaṃ nibbattitvāpi porāṇasīlānubhāvena suvaṇṇavaṇṇo jāto’’ti.
"Great King, I did not become golden-colored without cause. In the past, I was a Cakkavatti king in this very city, and I myself observed the five precepts, and I made all the inhabitants of the Cakkavāḷa observe them. Having passed away, I was reborn in the Tāvatiṃsa realm. After dwelling there for my full lifespan, I fell from there, and due to the result of another unwholesome kamma, I was reborn in the peacock species, yet by the power of my former sīla, I became golden-colored."
“Thưa Đại Vương, tôi không phải tự nhiên mà có màu vàng. Trước đây, tôi đã từng là một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương ở chính thành phố này, tự mình giữ năm giới và cũng khiến tất cả cư dân trong toàn cõi thế giới giữ giới. Sau khi qua đời, tôi tái sinh vào cõi trời Tāvatiṃsa, ở đó cho đến hết tuổi thọ, rồi từ đó tái sinh vào loài công do quả báo của một ác nghiệp khác. Nhưng nhờ năng lực của các giới hạnh xưa, tôi đã có màu vàng.”
‘‘‘Tvaṃ cakkavattī rājā hutvā sīlaṃ rakkhitvā sīlaphalena suvaṇṇavaṇṇo jāto’ti kathamidaṃ amhehi saddhātabbaṃ.
"How can we believe that 'you were a Cakkavatti king, observed sīla, and by the fruit of sīla became golden-colored'?
“‘Ngài đã từng là một vị vua Chuyển Luân Thánh Vương, giữ giới và nhờ quả của giới mà có màu vàng’ – làm sao chúng tôi có thể tin điều này?
Atthi no koci sakkhī’’ti?
Is there any witness for us?"
Chúng tôi có nhân chứng nào không?”
‘‘Atthi, mahārājā’’ti.
"Yes, Great King," he replied.
“Có, thưa Đại Vương.”
‘‘Ko nāmā’’ti?
"Who is it?"
“Ai vậy?”
‘‘Mahārāja, ahaṃ cakkavattikāle ratanamaye rathe nisīditvā ākāse vicariṃ, so me ratho maṅgalapokkharaṇiyā antobhūmiyaṃ nidahāpito, taṃ maṅgalapokkharaṇito ukkhipāpehi, so me sakkhi bhavissatī’’ti.
"Great King, in my time as Cakkavatti, I traveled through the sky seated in a jewel-studded chariot. That chariot of mine was buried beneath the ground of the royal lotus pond. Have it unearthed from that royal lotus pond; it will be my witness."
“Thưa Đại Vương, khi tôi là vua Chuyển Luân Thánh Vương, tôi ngồi trên cỗ xe bằng ngọc quý và đi trên không trung. Cỗ xe đó đã được chôn dưới đất trong ao sen may mắn của tôi. Xin Ngài hãy cho đào cỗ xe đó lên từ ao sen may mắn, nó sẽ là nhân chứng cho tôi.”
174
Rājā ‘‘sādhū’’ti paṭissuṇitvā pokkharaṇito udakaṃ harāpetvā rathaṃ nīharāpetvā bodhisattassa saddahi.
The king, saying "So be it," had the water removed from the pond, had the chariot unearthed, and believed the Bodhisatta.
Đức vua nói “Được thôi” và chấp thuận, rồi cho rút nước khỏi ao sen, cho đào cỗ xe lên, và tin vào Bồ-tát.
Bodhisatto ‘‘mahārāja, ṭhapetvā amatamahānibbānaṃ avasesā sabbe saṅkhatadhammā hutvā abhāvino aniccā khayavayadhammāyevā’’ti rañño dhammaṃ desetvā rājānaṃ pañcasu sīlesu patiṭṭhāpesi.
The Bodhisatta, having taught the Dhamma to the king, saying, "Great King, apart from the great Nibbāna, which is the Deathless, all other conditioned phenomena are impermanent, subject to decay and dissolution," established the king in the five precepts.
Bồ-tát thuyết Pháp cho nhà vua, nói: “Thưa Đại Vương, ngoại trừ Niết-bàn bất tử vĩ đại, tất cả các pháp hữu vi còn lại đều là vô thường, có tính chất hoại diệt và biến mất.” Ngài khiến nhà vua an trú trong năm giới.
Rājā pasanno bodhisattaṃ rajjena pūjetvā mahantaṃ sakkāraṃ akāsi.
The king, pleased, honored the Bodhisatta with the kingdom and showed him great respect.
Đức vua hoan hỷ, dâng vương quốc cho Bồ-tát và thực hiện sự tôn kính lớn lao.
So rajjaṃ tasseva paṭiniyyādetvā katipāhaṃ vasitvā ‘‘appamatto hohi, mahārājā’’ti ovaditvā ākāse uppatitvā daṇḍakahiraññapabbatameva agamāsi.
He returned the kingdom to him, stayed for a few days, admonished him, saying, "Be heedful, Great King," then rose into the air and went back to the Daṇḍakahirañña mountain.
Bồ-tát trả lại vương quốc cho vua, ở lại vài ngày, rồi khuyên: “Thưa Đại Vương, hãy sống chánh niệm!”, sau đó bay lên không trung và trở về núi Daṇḍakahirañña.
Rājāpi bodhisattassa ovāde ṭhatvā dānādīni puññāni katvā yathākammaṃ gato.
The king, too, abiding by the Bodhisatta's advice, performed deeds of merit such as giving, and went according to his kamma.
Đức vua cũng sống theo lời khuyên của Bồ-tát, thực hiện các công đức như bố thí, rồi đi theo nghiệp của mình.
175
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu arahatte patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, proclaimed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in Arahantship.
Đức Phật, sau khi kể lại Pháp thoại này, tuyên bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân Lý được tuyên bố, vị Tỳ-khưu chán nản đã an trú trong quả vị A-la-hán.
‘‘Tadā rājā ānando ahosi, suvaṇṇamoro pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the king was Ānanda; the golden peacock was I myself."
“Khi ấy, vị vua là Ānanda, còn con công vàng chính là Ta vậy.”
176
Morajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Description of the Mora Jātaka.
Chuyện Jātaka về con công, thứ chín.
177
* 10. Vinīlajātakavaṇṇanā
* 10. Description of the Vinīla Jātaka
* 10. Chuyện Jātaka về Vinīla
178
Evameva nūna rājānanti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattassa sugatālayaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, related this Jātaka, adorned with the verse beginning with "Evameva nūna rājānaṃ" (Indeed, just as the king...), concerning Devadatta's imitation of the Buddha.
Evameva nūna rājāna (Chắc chắn cũng vậy, hỡi nhà vua) – câu này được Đức Phật kể khi Ngài đang trú tại Veluvana, liên quan đến sự bắt chước của Devadatta đối với Đức Phật.
Devadatte hi gayāsīsagatānaṃ dvinnaṃ aggasāvakānaṃ sugatālayaṃ dassetvā nipanne ubhopi therā dhammaṃ desetvā attano nissitake ādāya veḷuvanaṃ agamiṃsu.
Indeed, when Devadatta, after showing the two chief disciples who had arrived at Gayāsīsa his imitation of the Buddha, lay down, both Theras taught the Dhamma and, taking their disciples, returned to Veḷuvana.
Khi Devadatta đã cho hai vị Đại đệ tử trưởng lão thấy sự bắt chước của mình ở Gayāsīsa, hai vị trưởng lão đó đã thuyết Pháp và dẫn những người đi theo mình đến Veluvana.
Te satthārā ‘‘sāriputta, devadatto tumhe disvā kiṃ akāsī’’ti puṭṭhā ‘‘bhante, sugatālayaṃ dassetvā mahāvināsaṃ pāpuṇī’’ti ārocesuṃ.
When questioned by the Teacher, "Sāriputta, what did Devadatta do when he saw you?", they reported, "Venerable Sir, after showing his imitation of the Buddha, he met with great destruction."
Khi được Đức Phật hỏi: “Sāriputta, Devadatta đã làm gì khi thấy các con?”, các vị trưởng lão đã báo: “Bạch Thế Tôn, hắn ta đã bắt chước Ngài và phải chịu sự hủy hoại lớn.”
Satthā ‘‘na kho, sāriputta, devadatto idāneva mama anukiriyaṃ karonto vināsaṃ patto, pubbepi pāpuṇiyevā’’ti vatvā therehi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Sāriputta, Devadatta did not meet with destruction only now by imitating me; he met with it in the past as well," and being requested by the Theras, he recounted a past event.
Đức Phật nói: “Này Sāriputta, Devadatta không phải chỉ bây giờ mới bắt chước Ta mà phải chịu sự hủy hoại, mà trước đây hắn cũng đã từng như vậy.” Sau khi được các vị trưởng lão thỉnh cầu, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
179
Atīte videharaṭṭhe mithilāyaṃ videharāje rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbatti.
In the past, when the Videha king was reigning in Mithilā in the Videha kingdom, the Bodhisatta was born in the womb of his chief queen.
Trong quá khứ, khi vua Videha đang trị vì ở Mithilā, xứ Videha, Bồ-tát đã tái sinh vào bụng của hoàng hậu chính của vua.
So vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā pitu accayena rajje patiṭṭhāsi.
Having reached maturity, he learned all crafts in Takkasilā and, upon his father's demise, became established in the kingdom.
Khi trưởng thành, Ngài học tất cả các nghề ở Takkasilā, rồi lên ngôi vua sau khi phụ vương qua đời.
Tadā ekassa suvaṇṇahaṃsarājassa gocarabhūmiyaṃ kākiyā saddhiṃ saṃvāso ahosi.
At that time, a golden swan king had a mate with a crow.
Khi ấy, có một con ngỗng chúa màu vàng đang sống chung với một con quạ cái trong khu vực kiếm ăn của nó.
Sā puttaṃ vijāyi.
She gave birth to a son.
Con quạ cái sinh ra một đứa con.
So neva mātupatirūpako ahosi, na pitu.
He was neither like his mother nor his father.
Đứa con đó không giống mẹ, cũng không giống cha.
Athassa vinīlakadhātukattā ‘‘vinīlako’’tveva nāmaṃ akaṃsu.
Then, because his body was bluish-black, they named him Vinīlaka.
Vì có màu xanh đậm, nên nó được đặt tên là “Vinīlaka”.
Haṃsarājā abhiṇhaṃ gantvā puttaṃ passati.
The swan king often went to see his son.
Vua ngỗng thường xuyên đến thăm con trai mình.
Apare panassa dve haṃsapotakā puttā ahesuṃ.
He had two other swan-chick sons.
Ngoài ra, Ngài còn có hai con ngỗng con khác là con trai.
Te pitaraṃ abhiṇhaṃ manussapathaṃ gacchantaṃ disvā pucchiṃsu – ‘‘tāta, tumhe kasmā abhiṇhaṃ manussapathaṃ gacchathā’’ti?
Seeing their father frequently going to the human path, they asked, "Father, why do you often go to the human path?"
Những con thiên nga con đó thấy cha mình thường xuyên đi đường người, bèn hỏi: “Thưa cha, vì sao cha thường xuyên đi đường người vậy?”
‘‘Tātā, ekāya me kākiyā saddhiṃ saṃvāsamanvāya eko putto jāto, ‘vinīlako’tissa nāmaṃ, tamahaṃ daṭṭhuṃ gacchāmī’’ti.
"Sons, a son was born to me from cohabiting with a crow, his name is Vinīlaka; I go to see him."
“Hỡi các con, ta có một đứa con sinh ra do kết hợp với một con quạ cái, tên nó là Vinīlaka, ta đi thăm nó.”
‘‘Kahaṃ panete vasantī’’ti?
"Where do they live?"
“Thưa cha, chúng sống ở đâu?”
‘‘Videharaṭṭhe mithilāya avidūre asukasmiṃ nāma ṭhāne ekasmiṃ tālagge vasantī’’ti.
"They live in a certain palm tree not far from Mithilā in the Videha kingdom."
“Chúng sống ở một nơi tên là Asuka, không xa Mithilā, trong xứ Videha, trên ngọn cây thốt nốt.”
‘‘Tāta, manussapatho nāma sāsaṅko sappaṭibhayo, tumhe mā gacchatha, mayaṃ gantvā taṃ ānessāmā’’ti dve haṃsapotakā pitarā ācikkhitasaññāya tattha gantvā taṃ vinīlakaṃ ekasmiṃ daṇḍake nisīdāpetvā mukhatuṇḍakena daṇḍakoṭiyaṃ ḍaṃsitvā mithilānagaramatthakena pāyiṃsu.
"Father, the human path is dangerous and fearful; do not go, we will go and bring him," said the two swan-chicks. Guided by their father's instructions, they went there, made Vinīlaka sit on a stick, held the end of the stick in their beaks, and flew over the city of Mithilā.
“Thưa cha, đường người nguy hiểm và đáng sợ, cha đừng đi, chúng con sẽ đi và mang nó về.” Hai con thiên nga con, theo sự chỉ dẫn của cha, đã đến đó, cho Vinīlaka ngồi lên một cành cây, dùng mỏ cắn chặt đầu cành cây và bay qua đỉnh thành Mithilā.
Tasmiṃ khaṇe videharājā sabbasetacatusindhavayuttarathavare nisīditvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ karoti.
At that moment, the Videha king, seated in his excellent chariot yoked with four pure white horses, was circumambulating the city.
Vào lúc đó, vua Videha đang ngự trên cỗ xe tốt nhất, được kéo bởi bốn con ngựa Sindhava trắng tinh, tuần tra quanh thành phố.
Vinīlako taṃ disvā cintesi – ‘‘mayhaṃ videharaññā kiṃ nānākāraṇaṃ, esa catusindhavayuttarathe nisīditvā nagaraṃ anusañcarati, ahaṃ pana haṃsayuttarathe nisīditvā gacchāmī’’ti.
Seeing him, Vinīlaka thought, "What is the difference between me and the Videha king? He travels around the city seated in a chariot yoked with four pure white horses, while I travel seated in a chariot yoked with swans."
Vinīlaka thấy vậy, nghĩ: “Ta có gì khác với vua Videha đâu? Ngài ấy ngự trên cỗ xe kéo bởi bốn con ngựa Sindhava tuần tra thành phố, còn ta thì ngự trên cỗ xe kéo bởi thiên nga mà đi.”
So ākāsena gacchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
As he flew through the air, he spoke the first verse:
Khi đang bay trên không, nó nói lên kệ ngôn thứ nhất:
180
19.
19.
19.
181
‘‘Evameva nūna rājānaṃ, vedehaṃ mithilaggahaṃ;
"Indeed, just as these swans carry Vinīlaka,
“Chắc chắn là vậy, những con ngựa giống tốt
182
Assā vahanti ājaññā, yathā haṃsā vinīlaka’’nti.
So do noble horses carry King Videha, the lord of Mithilā."
Kéo vua Videha, chủ thành Mithilā, cũng như những con thiên nga này kéo Vinīlaka ta vậy.”
183
Tattha evamevāti evaṃ eva, nūnāti parivitakke nipāto.
Here, evameva means "just so"; nūnā is a particle of deliberation.
Trong đó, evamevā có nghĩa là “như vậy thôi, đúng như vậy”. Nūnā là một từ nghi vấn trong trường hợp suy đoán.
Ekaṃsepi vaṭṭatiyeva.
It can also mean "certainly."
Nó cũng có thể dùng trong trường hợp chắc chắn.
Vedehanti videharaṭṭhasāmikaṃ.
Vedeha means the lord of the Videha kingdom.
Vedeha có nghĩa là chủ xứ Videha.
Mithilaggahanti mithilagehaṃ, mithilāyaṃ gharaṃ pariggahetvā vasamānanti attho.
Mithilaggaha means "the householder of Mithilā," or "one dwelling in Mithilā, having taken a house there."
Mithilaggaha có nghĩa là người nắm giữ ngôi nhà Mithilā, tức là người sống trong thành Mithilā.
Ājaññāti kāraṇākāraṇājānanakā.
Ājaññā means "those who know what is proper and improper."
Ājaññā có nghĩa là những con ngựa biết điều đúng sai.
Yathā haṃsā vinīlakanti yathā ime haṃsā maṃ vinīlakaṃ vahanti, evameva vahantīti.
Yathā haṃsā vinīlaka means "just as these swans carry me, Vinīlaka, so do they carry."
Yathā haṃsā vinīlaka có nghĩa là “như những con thiên nga này kéo ta, Vinīlaka, cũng như vậy mà kéo.”
184
Haṃsapotakā tassa vacanaṃ sutvā kujjhitvā ‘‘idheva naṃ pātetvā gamissāmā’’ti cittaṃ uppādetvāpi ‘‘evaṃ kate pitā no kiṃ vakkhatī’’ti garahabhayena pitu santikaṃ netvā tena katakiriyaṃ pitu ācikkhiṃsu.
Hearing his words, the swan-chicks became angry and thought, "We will drop him right here and leave," but out of fear of their father's rebuke, they took him to their father and reported what he had done.
Nghe lời nói của nó, hai con thiên nga con nổi giận, dù đã nảy ý nghĩ “chúng ta sẽ thả nó rơi xuống đây rồi đi,” nhưng vì sợ bị cha quở trách, chúng đã đưa nó về với cha và kể lại hành động của nó cho cha nghe.
Atha naṃ pitā kujjhitvā ‘‘kiṃ tvaṃ mama puttehi adhikatarosi, yo mama putte abhibhavitvā rathe yuttasindhave viya karosi, attano pamāṇaṃ na jānāsi.
Then their father, angered, said, "Are you superior to my sons, that you overpower my sons and treat them like horses yoked to a chariot? You do not know your own measure.
Bấy giờ, người cha nổi giận mắng nó: “Sao con lại hơn các con của ta, con dám coi thường các con của ta như những con ngựa kéo xe ư? Con không biết thân phận của mình.
Imaṃ ṭhānaṃ tava agocaro, attano mātu vasanaṭṭhānameva gacchāhī’’ti tajjetvā dutiyaṃ gāthamāha –
This place is not for you; go to your mother's dwelling place!" Having rebuked him, he spoke the second verse:
Nơi này không phải chỗ của con, hãy về nơi mẹ con ở đi!” Vừa đe dọa, người cha vừa nói lên kệ ngôn thứ hai:
185
20.
20.
20.
186
‘‘Vinīla duggaṃ bhajasi, abhūmiṃ tāta sevasi;
"Vinīla, you resort to a difficult place, my son, you frequent an unsuitable ground;
“Vinīlaka, con đang tìm đến nơi hiểm trở, hỡi con, con đang sống ở nơi không phải của mình;
187
Gāmantakāni sevassu, etaṃ mātālayaṃ tavā’’ti.
Frequent the village outskirts; that is your mother's dwelling."
Hãy sống ở những vùng ngoại ô làng mạc, đó là nơi ở của mẹ con.”
188
Tattha vinīlāti taṃ nāmenālapati.
Here, vinīlā addresses him by name.
Trong đó, vinīlā là gọi tên nó.
Duggaṃ bhajasīti imesaṃ vasena giriduggaṃ bhajasi.
You frequent a difficult place means, by means of these, you frequent a mountain fastness.
Duggaṃ bhajasī có nghĩa là “con đang tìm đến nơi hiểm trở trên núi do những con thiên nga này đưa đến.”
Abhūmiṃ, tāta, sevasīti, tāta, girivisamaṃ nāma tava abhūmi, taṃ sevasi upagacchasi.
You frequent an unsuitable place, dear son, means, dear son, a rugged mountain region is an unsuitable place for you; you frequent it, you approach it.
Abhūmiṃ, tāta, sevasī có nghĩa là “hỡi con, nơi hiểm trở trên núi không phải là chỗ của con, con đang tìm đến nơi đó.”
Etaṃ mātālayaṃ tavāti etaṃ gāmantaṃ ukkāraṭṭhānaṃ āmakasusānaṭṭhānañca tava mātu ālayaṃ gehaṃ vasanaṭṭhānaṃ, tattha gacchāhīti.
This is your mother’s abode means this village vicinity, a place for refuse, and a charnel ground, is your mother’s abode, her home, her dwelling place; go there.
Etaṃ mātālayaṃ tavā có nghĩa là “vùng ngoại ô làng mạc, nơi đổ rác và bãi tha ma này là nơi ở, là nhà của mẹ con, hãy đến đó đi.”
Evaṃ taṃ tajjetvā ‘‘gacchatha, naṃ mithilanagarassa ukkārabhūmiyaññeva otāretvā ethā’’ti putte āṇāpesi, te tathā akaṃsu.
Thus, having threatened him, he commanded his sons, saying, “Go, take him down to the refuse ground of Mithilā city and come back.” They did so.
Sau khi đe dọa nó như vậy, người cha ra lệnh cho các con: “Hãy đi, thả nó xuống bãi rác của thành Mithilā rồi về đây.” Chúng đã làm theo.
189
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā vinīlako devadatto ahosi, dve haṃsapotakā dve aggasāvakā ahesuṃ, pitā ānando ahosi, videharājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, Vinīlaka was Devadatta; the two swan fledglings were the two chief disciples; the father was Ānanda; and the King of Videha was I myself.”
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, Vinīlaka chính là Devadatta; hai con thiên nga con chính là hai vị Đại Thanh Văn; người cha chính là Ānanda; còn vua Videha chính là Như Lai.”
190
Vinīlajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth, the Vinīla Jātaka, is concluded.
Chuyện Vinīlaka Jātaka, thứ mười, hoàn tất.
191
Daḷhavaggo paṭhamo.
The First Chapter, Daḷha, is concluded.
Phẩm Daḷha, thứ nhất.
192
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Bài kệ tóm tắt phẩm đó:
193
Rājovādañca siṅgālaṃ, sūkaraṃ uragaṃ bhaggaṃ;
Rājovāda, Siṅgāla, Sūkara, Uraga, Bhagga;
Rājovāda, Siṅgāla, Sūkara, Uraga, Bhagga;
194
Alīnacittaguṇañca, suhanu moravinīlaṃ.
Alīnacitta, Guṇa, Suhanu, Mora, Vinīla.
Alīnacitta, Guṇa, Suhanu, Mora, Vinīla.
195

2. Santhavavaggo

2. Santhavavagga

2. Phẩm Santhava

196
* 1. Indasamānagottajātakavaṇṇanā
* 1. Indasamānagotta Jātaka
* 1. Chuyện Indasamānagotta Jātaka
197
Na santhavaṃ kāpurisena kayirāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ dubbacajātikaṃ ārabbha kathesi.
One should not associate with a bad person—the Teacher, while dwelling in Jetavana, told this story concerning a bhikkhu who was difficult to admonish.
Na santhavaṃ kāpurisena kayirā (Không nên kết giao với kẻ xấu) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-kheo khó dạy.
Tassa vatthu navakanipāte gijjhajātake (jā. 1.9.1 ādayo) āvibhavissati.
Its story will appear in the Nava Nipāta, in the Gijjha Jātaka.
Câu chuyện về vị Tỳ-kheo đó sẽ được trình bày rõ trong Gijjha Jātaka (Jā. 1.9.1 trở đi) thuộc Cửu Tập.
Satthā pana taṃ bhikkhuṃ ‘‘pubbepi tvaṃ, bhikkhu, dubbacatāya paṇḍitānaṃ vacanaṃ akatvā mattahatthipādehi sañcuṇṇito’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, however, said to that bhikkhu, “Bhikkhu, even in the past, due to your being difficult to admonish, you did not heed the words of the wise and were crushed by the feet of a rutting elephant,” and then recounted a past event.
Đức Bổn Sư đã nói với vị Tỳ-kheo đó: “Này Tỳ-kheo, ngay cả trong quá khứ, vì tính khó dạy, con đã không nghe lời của các bậc hiền trí và đã bị voi say giẫm nát,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
198
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vuḍḍhippatto gharāvāsaṃ pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā pañcannaṃ isisatānaṃ gaṇasatthā hutvā himavantapadese vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in a brahmin family. Having grown up, he renounced household life, took up the ascetic's wandering life, became the leader of five hundred ascetics, and settled in the Himālaya region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn, khi trưởng thành, Ngài từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia làm đạo sĩ, trở thành giáo chủ của năm trăm đạo sĩ và sống ở vùng Himavanta.
Tadā tesu tāpasesu indasamānagotto nāmeko tāpaso ahosi dubbaco anovādako.
At that time, among those ascetics, there was one named Indasamānagotta, who was difficult to admonish and unwilling to accept advice.
Khi đó, trong số các đạo sĩ ấy có một đạo sĩ tên là Indasamānagotta, người khó dạy và không nghe lời khuyên.
So ekaṃ hatthipotakaṃ posesi.
He raised an elephant calf.
Ông đã nuôi một con voi con.
Bodhisatto sutvā taṃ pakkositvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ hatthipotakaṃ posesī’’ti pucchi.
The Bodhisatta heard of it, called him, and asked, “Is it true that you are raising an elephant calf?”
Bồ-tát nghe tin, gọi ông đến hỏi: “Có thật là ông đang nuôi một con voi con không?”
‘‘Saccaṃ, ācariya, matamātikaṃ ekaṃ hatthipotakaṃ posemī’’ti.
“It is true, teacher, I am raising an elephant calf whose mother has died.”
“Thưa Đại đức, đúng vậy, con đang nuôi một con voi con mồ côi mẹ.”
‘‘Hatthino nāma vuḍḍhippattā posakeyeva mārenti, mā taṃ posehī’’ti.
“Elephants, when they grow up, kill their own keepers. Do not raise it.”
“Voi khi trưởng thành thường giết chết người nuôi dưỡng chúng, đừng nuôi nó nữa.”
‘‘Tena vinā vattituṃ na sakkomi ācariyā’’ti.
“I cannot live without it, teacher.”
“Thưa Đại đức, con không thể sống thiếu nó được.”
‘‘Tena hi paññāyissasī’’ti.
“Then you will see for yourself.”
“Vậy thì ông sẽ biết thôi.”
So tena posiyamāno aparabhāge mahāsarīro ahosi.
As he continued to raise it, the elephant later grew to a massive size.
Con voi đó được ông nuôi dưỡng, sau này trở thành một con voi to lớn.
199
Athekasmiṃ kāle te isayo vanamūlaphalāphalatthāya dūraṃ gantvā tattheva katipāhaṃ vasiṃsu.
Then, at one time, those ascetics went far away to gather roots, fruits, and berries from the forest, and stayed there for several days.
Một thời gian sau, các đạo sĩ ấy đi xa để tìm củ, quả rừng và ở lại đó vài ngày.
Hatthīpi aggadakkhiṇavāte pabhinnamado hutvā tassa paṇṇasālaṃ viddhaṃsetvā pānīyaghaṭaṃ bhinditvā pāsāṇaphalakaṃ khipitvā ālambanaphalakaṃ luñcitvā ‘‘taṃ tāpasaṃ māretvāva gamissāmī’’ti ekaṃ gahanaṭṭhānaṃ pavisitvā tassa āgamanamaggaṃ olokento aṭṭhāsi.
The elephant, also in a state of rut due to the strong southerly wind, destroyed his leaf-hut, broke his water-pot, tossed away his stone slab, tore down his hanging board, and, thinking, “I will kill that ascetic and then leave,” entered a dense thicket and stood watching for his arrival.
Con voi cũng bị động dục dữ dội do gió nam thổi mạnh, nó phá hủy túp lều lá của vị đạo sĩ, đập vỡ bình nước, ném tấm đá, nhổ tấm ván tựa, rồi nghĩ: “Ta sẽ giết vị đạo sĩ đó rồi mới đi,” nó đi vào một khu rừng rậm và đứng chờ trên con đường mà vị đạo sĩ sẽ đi qua.
Indasamānagotto tassa gocaraṃ gahetvā sabbesaṃ puratova āgacchanto taṃ disvā pakatisaññāyevassa santikaṃ agamāsi.
Indasamānagotta, carrying its fodder, came ahead of everyone and, seeing it, approached it with his usual familiarity.
Indasamānagotta, sau khi lấy thức ăn cho voi, đi trước tất cả các đạo sĩ khác, thấy con voi đó, ông đến gần nó với ý nghĩ bình thường.
Atha naṃ so hatthī gahanaṭṭhānā nikkhamitvā soṇḍāya parāmasitvā bhūmiyaṃ pātetvā sīsaṃ pādena akkamitvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā madditvā koñcanādaṃ katvā araññaṃ pāvisi.
Then that elephant emerged from the thicket, seized him with its trunk, threw him to the ground, trampled his head with its foot, ended his life, crushed him, trumpeted, and entered the forest.
Bấy giờ, con voi đó từ khu rừng rậm đi ra, dùng vòi quấn lấy ông, quật ông xuống đất, dùng chân giẫm lên đầu ông, giết chết ông, giẫm nát ông, rồi cất tiếng kêu như chim kranh và đi vào rừng.
Sesatāpasā taṃ pavattiṃ bodhisattassa ārocesuṃ.
The remaining ascetics reported this incident to the Bodhisatta.
Các đạo sĩ còn lại kể lại sự việc đó cho Bồ-tát nghe.
Bodhisatto ‘‘kāpurisehi nāma saddhiṃ saṃsaggo na kātabbo’’ti vatvā imā gāthā āha –
The Bodhisatta, saying, “One should not associate with bad people,” spoke these verses:
Bồ-tát nói: “Không nên kết giao với kẻ xấu,” rồi Ngài nói lên những kệ ngôn này:
200
21.
21.
21.
201
‘‘Na santhavaṃ kāpurisena kayirā, ariyo anariyena pajānamatthaṃ;
One should not associate with a bad person, nor an Āryan with a non-Āryan, knowing what is beneficial;
“Bậc cao thượng không nên kết giao với kẻ xấu, dù biết rõ mục đích;
202
Cirānuvutthopi karoti pāpaṃ, gajo yathā indasamānagottaṃ.
Even after long companionship, he commits evil, like the elephant to Indasamānagotta.
Dù sống chung lâu dài, kẻ xấu vẫn làm điều ác, như voi đã làm với Indasamānagotta.”
203
22.
22.
22.
204
‘‘Yaṃ tveva jaññā sadiso mamanti, sīlena paññāya sutena cāpi;
But with one whom one knows to be like oneself, in virtue, wisdom, and learning,
“Nhưng nếu ai biết rằng người đó giống mình, về giới hạnh, trí tuệ và sự học hỏi;
205
Teneva mettiṃ kayirātha saddhiṃ, sukho have sappurisena saṅgamo’’ti.
With him one should make friendship; for association with good people is surely happiness.
Hãy kết tình bạn với người đó, vì kết giao với người tốt thật sự là hạnh phúc.”
206
Tattha na santhavaṃ kāpurisena kayirāti kucchitena kodhapurisena saddhiṃ taṇhāsanthavaṃ vā mittasanthavaṃ vā na kayirātha.
Here, na santhavaṃ kāpurisena kayirā means one should not form a bond of craving or a bond of friendship with a despicable, angry person.
Trong đó, na santhavaṃ kāpurisena kayirā có nghĩa là “không nên kết giao bằng ái dục hay tình bạn với kẻ xấu xa, giận dữ.”
Ariyo anariyena pajānamatthanti ariyoti cattāro ariyā ācāraariyo liṅgaariyo dassanaariyo paṭivedhaariyoti.
Ariyo anariyena pajānamatthaṃ: Ariyo refers to the four Āryans: the Āryan in conduct, the Āryan in outward appearance, the Āryan in insight, and the Āryan in penetration.
Ariyo anariyena pajānamatthaariyo có bốn loại: Ācāra-ariyo (bậc cao thượng về hành vi), Liṅga-ariyo (bậc cao thượng về dấu hiệu), Dassana-ariyo (bậc cao thượng về kiến giải), Paṭivedha-ariyo (bậc cao thượng về sự thấu hiểu).
Tesu ācāraariyo idha adhippeto.
Among these, an ācāra-ariya (noble one in conduct) is intended here.
Trong số đó, Ācāra-ariyo được đề cập ở đây.
So pajānamatthaṃ atthaṃ pajānanto atthānatthakusalo ācāre ṭhito ariyapuggalo anariyena nillajjena dussīlena saddhiṃ santhavaṃ na kareyyāti attho.
The meaning is that such a noble person, established in conduct, skilled in what is beneficial and unbeneficial, understanding the meaning of what is known, should not associate with an ignoble, shameless, immoral person.
Người đó, khi hiểu rõ mục đích, là người khéo léo trong việc biết lợi và bất lợi, là bậc cao thượng giữ gìn hành vi, không nên kết giao với kẻ vô liêm sỉ, ác hạnh. Đó là ý nghĩa.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Cirānuvutthopi karoti pāpanti, yasmā anariyo ciraṃ ekato anuvutthopi taṃ ekato nivāsaṃ agaṇetvā karoti pāpaṃ lāmakakammaṃ karotiyeva.
Because "even if he has lived together for a long time, he commits evil"—since an ignoble person, even if he has lived together for a long time, disregards that cohabitation and certainly commits evil, a bad deed.
Cirānuvutthopi karoti pāpa có nghĩa là “vì kẻ xấu, dù sống chung lâu dài, vẫn không kể đến sự chung sống đó mà làm điều ác, làm việc xấu.”
Yathā kiṃ?
Like what?
Như thế nào?
Gajo yathā indasamānagottanti, yathā so gajo indasamānagottaṃ mārento pāpaṃ akāsīti attho.
"As the elephant, like Indasamānagotta"—the meaning is, as that elephant committed evil by killing Indasamānagotta.
Gajo yathā indasamānagotta có nghĩa là “như con voi đó đã làm điều ác khi giết Indasamānagotta.”
Yaṃ tveva jaññā sadiso mamantiādīsu yaṃ tveva puggalaṃ ‘‘ayaṃ mama sīlādīhi sadiso’’ti jāneyya, teneva saddhiṃ mettiṃ kayirātha, sappurisena saddhiṃ samāgamo sukhāvahoti.
In phrases like "Whom one knows to be similar to me," one should form friendship only with that person whom one knows to be "similar to me in conduct and so on." Association with good people is conducive to happiness.
Trong yaṃ tveva jaññā sadiso mamanti v.v., nếu biết một người nào đó “người này giống ta về giới hạnh v.v.,” thì hãy kết tình bạn với người đó, vì kết giao với người tốt mang lại hạnh phúc.
207
Evaṃ bodhisatto ‘‘anovādakena nāma na bhavitabbaṃ, susikkhitena bhavituṃ vaṭṭatī’’ti isigaṇaṃ ovaditvā indasamānagottassa sarīrakiccaṃ kāretvā brahmavihāre bhāvetvā brahmalokūpago ahosi.
Thus, the Bodhisatta, having advised the assembly of sages, saying, "One should not be unadvisable; one should be well-trained," and having performed the funeral rites for Indasamānagotta, developed the Brahmavihāras and attained the Brahma world.
Như vậy, Bồ-tát đã khuyên nhóm đạo sĩ: “Không nên là người không nghe lời khuyên, mà nên là người được huấn luyện tốt,” rồi Ngài lo việc tẩm liệm thi thể của Indasamānagotta, tu tập Tứ Vô Lượng Tâm và tái sinh vào cõi Phạm thiên.
208
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā indasamānagotto ayaṃ dubbaco ahosi, gaṇasatthā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, this difficult-to-admonish monk was Indasamānagotta, and the leader of the assembly was indeed I myself."
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, Indasamānagotta chính là vị Tỳ-kheo khó dạy này; còn giáo chủ nhóm đạo sĩ chính là Như Lai.”
209
Indasamānagottajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The First Commentary on the Indasamānagotta Jātaka.
Chuyện Indasamānagotta Jātaka, thứ nhất, hoàn tất.
210
* 2. Santhavajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Santhava Jātaka
* 2. Chuyện Santhava Jātaka
211
Na santhavasmā paramatthi pāpiyoti idaṃ satthā jetavane viharanto aggijuhanaṃ ārabbha kathesi.
"There is nothing worse than intimacy" – the Teacher, while residing at Jetavana, spoke this in reference to a fire-worshipper.
Na santhavasmā paramatthi pāpiyo – câu này được Đức Thế Tôn nói khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến việc cúng dường lửa.
Vatthu heṭṭhā naṅguṭṭhajātake (jā. 1.1.144 ādayo) kathitasadisameva.
The story is similar to what was told previously in the Naṅguṭṭha Jātaka.
Câu chuyện tương tự như đã kể trong Naṅguṭṭhajātaka ở phần dưới.
Bhikkhū te aggiṃ juhante disvā ‘‘bhante, jaṭilā nānappakāraṃ micchātapaṃ karonti, atthi nu kho ettha vuḍḍhī’’ti bhagavantaṃ pucchiṃsu.
The bhikkhus, seeing them worshipping fire, asked the Blessed One, "Venerable Sir, these ascetics perform various kinds of wrong austerities. Is there any growth in this?"
Các Tỳ-khưu thấy những người cúng dường lửa đó liền hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, các vị ẩn sĩ Jaṭila thực hành nhiều loại khổ hạnh sai lầm khác nhau, liệu có sự tiến bộ nào trong đó không?”
‘‘Na, bhikkhave, etthakāci vuḍḍhi nāma atthi, porāṇakapaṇḍitāpi aggijuhane vuḍḍhi atthīti saññāya ciraṃ aggiṃ juhitvā tasmiṃ kamme avuḍḍhimeva disvā aggiṃ udakena nibbāpetvā sākhādīhi pothetvā puna nivattitvāpi na olokesu’’nti vatvā atītaṃ āhari.
"No, bhikkhus, there is no growth in this. Even ancient wise men, believing there was growth in fire-worship, worshipped fire for a long time, but seeing no growth in that practice, extinguished the fire with water, beat it with branches and so on, and then, having turned away, did not look back at it again," having said this, he related a past event.
Đức Thế Tôn đáp: “Này các Tỳ-khưu, không có bất kỳ sự tiến bộ nào trong đó. Ngay cả các bậc hiền triết thời xưa cũng đã cúng dường lửa trong một thời gian dài với ý nghĩ rằng có sự tiến bộ trong việc cúng dường lửa, nhưng khi thấy không có sự tiến bộ nào trong hành động đó, họ đã dập lửa bằng nước, đập phá bằng cành cây và không bao giờ quay lại nhìn nữa.” Sau đó, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
212
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn.
Mātāpitaro tassa jātaggiṃ gahetvā taṃ soḷasavassuddese ṭhitaṃ āhaṃsu – ‘‘kiṃ, tāta, jātaggiṃ gahetvā araññe aggiṃ paricarissasi, udāhu tayo vede uggaṇhitvā kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā gharāvāsaṃ vasissasī’’ti.
His parents, taking his birth-fire, said to him when he was about sixteen years old, "Son, will you take the birth-fire and tend the fire in the forest, or will you learn the three Vedas, establish a household, and live a householder's life?"
Cha mẹ Ngài đã giữ lửa sinh nhật của Ngài và khi Ngài được mười sáu tuổi, họ hỏi: “Này con, con sẽ giữ lửa sinh nhật và phụng thờ lửa trong rừng, hay sẽ học ba bộ Veda, lập gia đình và sống đời cư sĩ?”
So ‘‘na me gharāvāsena attho, araññe aggiṃ paricaritvā brahmalokaparāyaṇo bhavissāmī’’ti jātaggiṃ gahetvā mātāpitaro vanditvā araññaṃ pavisitvā paṇṇasālāya vāsaṃ kappetvā aggiṃ paricari.
He replied, "I have no need for a householder's life. I will tend the fire in the forest and be destined for the Brahma world." So, taking his birth-fire, he paid homage to his parents, entered the forest, made his dwelling in a leaf-hut, and tended the fire.
Ngài đáp: “Con không muốn sống đời cư sĩ. Con sẽ phụng thờ lửa trong rừng và sẽ đi đến cõi Phạm Thiên.” Nói xong, Ngài giữ lửa sinh nhật, đảnh lễ cha mẹ, vào rừng, dựng một túp lều lá để ở và phụng thờ lửa.
So ekadivasaṃ nimantitaṭṭhānaṃ gantvā sappinā pāyāsaṃ labhitvā ‘‘imaṃ pāyāsaṃ mahābrahmuno yajissāmī’’ti taṃ pāyāsaṃ āharitvā aggiṃ jāletvā ‘‘aggiṃ tāva bhavantaṃ sappiyuttaṃ pāyāsaṃ pāyemī’’ti pāyāsaṃ aggimhi pakkhipi.
One day, he went to an invited place, obtained rice porridge with ghee, and thinking, "I will sacrifice this porridge to Mahābrahmā," he brought the porridge, lit the fire, and saying, "First, I will feed this venerable fire with porridge mixed with ghee," he put the porridge into the fire.
Một ngày nọ, Ngài đến nơi được mời, nhận được món cháo sữa trộn bơ. Ngài nghĩ: “Ta sẽ cúng dường món cháo sữa này cho Đại Phạm Thiên.” Ngài mang món cháo sữa đó về, đốt lửa lên và nói: “Trước hết, ta sẽ cho ngài lửa uống món cháo sữa trộn bơ này.” Rồi Ngài đổ cháo sữa vào lửa.
Bahusinehe pāyāse aggimhi pakkhittamatteyeva aggi jalitvā paccuggatāhi accīhi paṇṇasālaṃ jhāpesi.
As soon as the porridge, rich in ghee, was put into the fire, the fire blazed up and, with its rising flames, burned down the leaf-hut.
Ngay khi món cháo sữa nhiều bơ được đổ vào lửa, lửa bùng cháy, với những ngọn lửa bốc cao đã thiêu rụi túp lều lá.
Brāhmaṇo bhītatasito palāyitvā bahi ṭhatvā ‘‘kāpurisehi nāma santhavo na kātabbo, idāni me iminā agginā kicchena katā paṇṇasālā jhāpitā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The brahmin, terrified and trembling, fled and stood outside, saying, "One should not associate with ignoble persons. Now, my leaf-hut, built with difficulty, has been burned down by this fire," and then he spoke the first verse:
Vị Bà-la-môn sợ hãi, run rẩy bỏ chạy ra ngoài, đứng đó và nói: “Không nên kết giao với những kẻ xấu xa. Bây giờ, túp lều lá ta đã khó nhọc dựng lên đã bị ngọn lửa này thiêu rụi.” Nói xong, Ngài đọc bài kệ đầu tiên:
213
23.
23.
23.
214
‘‘Na santhavasmā paramatthi pāpiyo, yo santhavo kāpurisena hoti;
"There is nothing worse than intimacy, that intimacy which is with an ignoble person;
“Không có gì tệ hơn sự kết giao, khi kết giao với kẻ xấu xa;
215
Santappito sappinā pāyasena, kicchākataṃ paṇṇakuṭiṃ adayhī’’ti.
Fed with ghee and rice porridge, it burned down the leaf-hut made with difficulty."
Dù được cho bơ và cháo sữa, nó đã thiêu rụi túp lều lá khó nhọc dựng lên.”
216
Tattha na santhavasmāti taṇhāsanthavāpi ca mittasanthavāpi cāti duvidhāpi etasmā santhavā paraṃ uttari aññaṃ pāpataraṃ natthi, lāmakataraṃ nāma natthīti attho.
Here, "nothing worse than intimacy" means there is nothing beyond, nothing superior, nothing more evil, nothing worse than this intimacy, which is of two kinds: intimacy born of craving and intimacy born of friendship.
Ở đây, na santhavasmā nghĩa là không có gì tệ hơn, không có gì xấu xa hơn sự kết giao này, dù là kết giao do tham ái hay kết giao tình bạn, cả hai loại kết giao này.
Yo santhavo kāpurisenāti yo pāpakena kāpurisena saddhiṃ duvidhopi santhavo, tato pāpataraṃ aññaṃ natthi.
"That intimacy which is with an ignoble person" means that there is nothing worse than any intimacy, of either kind, with an evil, ignoble person.
Yo santhavo kāpurisenā nghĩa là bất kỳ sự kết giao nào, dù là hai loại kết giao đó, với một kẻ xấu xa, thì không có gì tệ hơn thế.
Kasmā?
Why?
Tại sao?
Santappito …pe…adayhīti, yasmā sappinā ca pāyāsena ca santappitopi ayaṃ aggi mayā kicchena kataṃ paṇṇasālaṃ jhāpesīti attho.
Santappito …pe…adayhī means: "Although this fire was satisfied with ghee and rice gruel, it burned down the leaf-hut that I had made with difficulty."
Santappito …pe… adayhī nghĩa là vì ngọn lửa này, dù đã được ta cho bơ và cháo sữa, đã thiêu rụi túp lều lá mà ta đã khó nhọc dựng lên.
217
So evaṃ vatvā ‘‘na me tayā mittadubbhinā attho’’ti taṃ aggiṃ udakena nibbāpetvā sākhāhi pothetvā antohimavantaṃ pavisitvā ekaṃ sāmamigiṃ sīhassa ca byagghassa ca dīpino ca mukhaṃ lehantiṃ disvā ‘‘sappurisehi saddhiṃ santhavā paraṃ seyyo nāma natthī’’ti cintetvā dutiyaṃ gāthamāha –
Having said thus, "I have no use for you, you betrayer of friends," he extinguished that fire with water, beat it with branches, and entering the Himalayas, saw a Sāma doe licking the faces of a lion, a tiger, and a leopard. Thinking, "There is nothing better than association with good people," he then spoke the second verse –
Nói xong như vậy, Ngài nói: “Ta không cần ngươi, kẻ phản bội bạn bè,” rồi dập tắt ngọn lửa bằng nước, đập phá bằng cành cây, rồi đi vào sâu trong dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ngài thấy một con nai cái đang liếm miệng của một con sư tử, một con hổ và một con báo. Ngài nghĩ: “Không có gì tốt hơn sự kết giao với những người tốt,” rồi đọc bài kệ thứ hai:
218
24.
24.
24.
219
‘‘Na santhavasmā paramatthi seyyo, yo santhavo sappurisena hoti;
"There is nothing better than association, if that association is with good people;
“Không có gì tốt hơn sự kết giao, khi kết giao với người tốt;
220
Sīhassa byagghassa ca dīpino ca, sāmā mukhaṃ lehati santhavenā’’ti.
By association, the Sāma doe licks the faces of a lion, a tiger, and a leopard."
Con nai cái liếm miệng sư tử, hổ và báo, nhờ sự kết giao.”
221
Tattha sāmā mukhaṃ lehati santhavenāti sāmā nāma migī imesaṃ tiṇṇaṃ janānaṃ santhavena sinehena mukhaṃ lehatīti.
In this, sāmā mukhaṃ lehati santhavenā means: "The Sāma doe licks the faces of these three by means of association, by affection."
Ở đây, sāmā mukhaṃ lehati santhavenā nghĩa là con nai cái tên Sāmā liếm miệng của ba con vật này nhờ sự kết giao, nhờ tình bạn.
222
Evaṃ vatvā bodhisatto antohimavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā jīvitapariyosāne brahmalokūpago ahosi.
Having spoken thus, the Bodhisatta entered the Himalayas, undertook the ascetic's ordination, developed supernormal powers and attainments, and at the end of his life, he became one bound for the Brahma-world.
Nói xong như vậy, Bồ Tát đi vào sâu trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia làm ẩn sĩ, chứng đắc các thần thông và các thiền định, và khi kết thúc cuộc đời, Ngài đã tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
223
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tena samayena tāpaso ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka – "At that time, the ascetic was I myself."
Đức Thế Tôn đã thuật lại bài pháp này và kết hợp câu chuyện Jātaka: “Vào thời đó, vị ẩn sĩ chính là Ta.”
224
Santhavajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Santhava Jātaka.
Câu chuyện về Santhavajātaka thứ hai đã kết thúc.
225
* 3. Susīmajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Susīma Jātaka
* 3. Câu chuyện về Susīmajātaka
226
Kāḷā migā setadantā tavīmeti idaṃ satthā jetavane viharanto chandakadānaṃ ārabbha kathesi.
Kāḷā migā setadantā tavīme – The Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning the collection of alms by subscription.
Kāḷā migā setadantā tavīme – câu này được Đức Thế Tôn nói khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến việc cúng dường theo ý nguyện.
Sāvatthiyañhi kadāci ekameva kulaṃ buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ deti, kadāci aññatitthiyānaṃ deti, kadāci gaṇabandhanena bahū ekato hutvā denti, kadāci vīthisabhāgena, kadāci sakalanagaravāsino chandakaṃ saṃharitvā dānaṃ denti.
Indeed, in Sāvatthī, sometimes only one family would offer alms to the community of bhikkhus headed by the Buddha; sometimes they would offer to other sectarians; sometimes many would gather together in groups and offer; sometimes by street sections; sometimes all the residents of the city would collect subscriptions and offer alms.
Tại Sāvatthī, đôi khi chỉ một gia đình cúng dường cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu, đôi khi cúng dường cho các ngoại đạo, đôi khi nhiều người cùng nhau cúng dường theo nhóm, đôi khi theo khu phố, đôi khi tất cả cư dân thành phố cùng góp tiền cúng dường.
Imasmiṃ pana kāle sakalanagaravāsino chandakaṃ saṃharitvā sabbaparikkhāradānaṃ sajjetvā dve koṭṭhāsā hutvā ekacce ‘‘imaṃ sabbaparikkhāradānaṃ aññatitthiyānaṃ dassāmā’’ti āhaṃsu, ekacce ‘‘buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassā’’ti.
At this time, however, all the residents of the city collected subscriptions, prepared an offering of all requisites, and divided into two factions. Some said, "We will give this offering of all requisites to other sectarians," while others said, "To the community of bhikkhus headed by the Buddha."
Vào thời điểm đó, tất cả cư dân trong thành phố đã góp phần, chuẩn bị một lễ dâng cúng tất cả vật dụng, chia thành hai phe. Một số người nói: "Chúng ta sẽ dâng cúng tất cả vật dụng này cho các ngoại đạo," còn một số người thì nói: "cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu."
Evaṃ punappunaṃ kathāya vattamānāya aññatitthiyasāvakehi aññatitthiyānaññeva, buddhasāvakehi ‘‘‘buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassevā’ti vutte sambahulaṃ karisāmā’’ti sambahulāya kathāya ‘‘buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dassāmā’’ti vadantāyeva bahukā jātā, tesaññeva kathā patiṭṭhāsi.
As the discussion thus continued repeatedly, the disciples of other sectarians advocated for other sectarians, while the Buddha's disciples, saying, "We will make it numerous if it is 'for the community of bhikkhus headed by the Buddha'," became numerous, and their proposal prevailed.
Khi cuộc tranh luận cứ tiếp diễn như vậy, các đệ tử ngoại đạo thì nói cho ngoại đạo, còn các đệ tử của Đức Phật thì nói: "Nếu nói 'cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu', chúng ta sẽ làm cho nhiều hơn." Với cuộc tranh luận sôi nổi như vậy, số người nói "chúng ta sẽ dâng cúng cho Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu" trở nên đông đảo, và lời nói của họ đã được chấp thuận.
Aññatitthiyasāvakā buddhānaṃ dātabbadānassa antarāyaṃ kātuṃ nāsakkhiṃsu.
The disciples of other sectarians were unable to obstruct the offering to be given to the Buddhas.
Các đệ tử ngoại đạo đã không thể gây trở ngại cho lễ dâng cúng đáng lẽ phải dâng cho các vị Phật.
Nāgarā buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā sattāhaṃ mahādānaṃ pavattetvā sattame divase sabbaparikkhāre adaṃsu.
The townspeople invited the community of bhikkhus headed by the Buddha, conducted a great almsgiving for seven days, and on the seventh day, offered all the requisites.
Các cư dân thành phố đã thỉnh Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu, tổ chức một đại lễ dâng cúng trong bảy ngày, và vào ngày thứ bảy, họ đã dâng tất cả vật dụng.
Satthā anumodanaṃ katvā mahājanaṃ maggaphalehi pabodhetvā jetavanavihārameva gantvā bhikkhusaṅghena vatte dassite gandhakuṭippamukhe ṭhatvā sugatovādaṃ datvā gandhakuṭiṃ pāvisi.
The Teacher, having given his anumodanā, enlightened the great assembly with the paths and fruits, then returned to the Jetavana Vihāra, stood at the entrance of the Perfumed Chamber, after the bhikkhus had shown their respects, gave his instruction for the well-gone ones, and entered the Perfumed Chamber.
Đức Thế Tôn đã tùy hỷ, giác ngộ đại chúng bằng các quả Thánh đạo, Thánh quả, rồi trở về Tịnh xá Jetavana, sau khi Tăng đoàn đã trình bày các nghi thức, Ngài đứng ở Gandhakuti và ban lời giáo huấn của bậc Thiện Thệ, rồi bước vào Gandhakuti.
227
Sāyanhasamaye bhikkhū dhammasabhāyaṃ sannipatitvā kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, aññatitthiyasāvakā buddhānaṃ dātabbadānassa antarāyakaraṇatthāya vāyamantāpi antarāyaṃ kātuṃ nāsakkhiṃsu, taṃ sabbaparikkhāradānaṃ buddhānaṃyeva pādamūlaṃ āgataṃ, aho buddhabalaṃ nāma mahanta’’nti.
In the evening, the bhikkhus assembled in the Dhamma hall and started a discussion – "Friends, even though the disciples of other sectarians attempted to obstruct the offering to be given to the Buddhas, they were unable to obstruct it. That offering of all requisites came to the feet of the Buddhas themselves. Oh, how great is the power of the Buddhas!"
Vào buổi chiều, các Tỳ-kheo tập hợp tại pháp đường và bắt đầu cuộc đàm luận: "Chư Hiền, các đệ tử ngoại đạo dù đã cố gắng gây trở ngại cho lễ dâng cúng đáng lẽ phải dâng cho các vị Phật, nhưng họ đã không thể gây trở ngại. Tất cả vật dụng cúng dường đó đã đến dưới chân các vị Phật. Ôi, quả thật sức mạnh của chư Phật thật vĩ đại!"
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, ete aññatitthiyasāvakā idāneva mayhaṃ dātabbadānassa antarāyakaraṇatthāya vāyamanti, pubbepi vāyamiṃsu, so pana parikkhāro sabbakālepi mameva pādamūlaṃ āgacchatī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic, bhikkhus, are you now gathered?" When told, "On this topic," he said, "Bhikkhus, these disciples of other sectarians do not only now attempt to obstruct the offering to be given to me; they also attempted it in the past. But that offering has always come to my feet." Having said this, he related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: "Này các Tỳ-kheo, bây giờ các ông đang ngồi đàm luận chuyện gì vậy?" Khi được trả lời: "Thưa Tôn giả, chuyện này," Ngài nói: "Này các Tỳ-kheo, không phải chỉ bây giờ các đệ tử ngoại đạo mới cố gắng gây trở ngại cho lễ dâng cúng đáng lẽ dâng cho Ta, mà trước đây họ cũng đã cố gắng. Nhưng tất cả vật phẩm đó luôn luôn đến dưới chân Ta." Sau đó, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
228
Atīte bārāṇasiyaṃ susīmo nāma rājā ahosi.
In the past, in Bārāṇasī, there was a king named Susīma.
Thuở xưa, tại Bārāṇasī, có một vị vua tên là Susīma.
Tadā bodhisatto tassa purohitassa brāhmaṇiyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi, tassa soḷasavassikakāle pitā kālamakāsi.
At that time, the Bodhisatta was conceived in the womb of that king's purohita's brahmin wife. When he was sixteen years old, his father passed away.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát đã tái sinh vào thai của bà vợ vị giáo sĩ Bà-la-môn của vua. Khi Bồ-tát được mười sáu tuổi, cha Ngài qua đời.
So pana dharamānakāle rañño hatthimaṅgalakārako ahosi.
While alive, he had been the one who performed the elephant-blessing ceremony for the king.
Khi còn sống, ông là người thực hiện lễ chúc phúc cho voi của nhà vua.
Hatthīnaṃ maṅgalakaraṇaṭṭhāne ābhataupakaraṇabhaṇḍañca hatthālaṅkārañca sabbaṃ soyeva alattha.
He alone received all the goods and equipment brought for the elephant blessing ceremony, as well as the elephant ornaments.
Tất cả vật phẩm và trang sức voi được mang đến nơi làm lễ chúc phúc cho voi đều do ông nhận được.
Evamassa ekekasmiṃ maṅgale koṭimattaṃ dhanaṃ uppajjati.
Thus, for him, wealth amounting to a koṭi arose at each blessing ceremony.
Cứ mỗi lễ chúc phúc như vậy, ông thu được hàng triệu đồng tiền.
Atha tasmiṃ kāle hatthimaṅgalachaṇo sampāpuṇi.
Then, at that time, the elephant blessing festival arrived.
Vào thời điểm đó, lễ hội chúc phúc cho voi sắp đến.
Sesā brāhmaṇā rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘mahārāja, hatthimaṅgalachaṇo sampatto, maṅgalaṃ kātuṃ vaṭṭati.
The remaining brahmins approached the king and said, 'Great King, the elephant blessing festival has arrived; it is proper to perform the blessing.
Các Bà-la-môn khác đến gặp vua và nói: "Đại vương, lễ hội chúc phúc cho voi đã đến, cần phải làm lễ chúc phúc.
Purohitabrāhmaṇassa pana putto atidaharo, neva tayo vede jānāti, na hatthisuttaṃ, mayaṃ hatthimaṅgalaṃ karissāmā’’ti āhaṃsu.
However, the purohita-brahmin's son is too young; he knows neither the three Vedas nor the elephant lore. We will perform the elephant blessing.'"
Nhưng con trai của vị giáo sĩ Bà-la-môn còn quá nhỏ, không biết ba bộ Veda, cũng không biết kinh về voi. Chúng tôi sẽ làm lễ chúc phúc cho voi."
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king assented, saying, 'Very well.'
Vua đồng ý: "Được thôi."
Brāhmaṇā purohitaputtassa hatthimaṅgalaṃ kātuṃ adatvā ‘‘hatthimaṅgalaṃ katvā mayaṃ dhanaṃ gaṇhissāmā’’ti haṭṭhatuṭṭhā vicaranti.
The brahmins, not allowing the purohita's son to perform the elephant blessing, went about delighted and pleased, thinking, 'We will perform the elephant blessing and take the wealth.'
Các Bà-la-môn không cho con trai của vị giáo sĩ làm lễ chúc phúc voi, mà vui mừng đi lại nói: "Chúng ta sẽ làm lễ chúc phúc voi và nhận tiền."
Atha ‘‘catutthe divase hatthimaṅgalaṃ bhavissatī’’ti bodhisattassa mātā taṃ pavattiṃ sutvā ‘‘hatthimaṅgalakaraṇaṃ nāma yāva sattamā kulaparivaṭṭā amhākaṃ vaṃso, vaṃso ca no osakkissati, dhanā ca parihāyissāmā’’ti anusocamānā parodi.
Then, when the Bodhisatta's mother heard the news that 'the elephant blessing will take place on the fourth day,' she wept, lamenting, 'The performance of the elephant blessing is our family's tradition for seven generations; our lineage will decline, and we will lose our wealth.'
Sau đó, mẹ của Bồ-tát nghe tin "lễ chúc phúc voi sẽ diễn ra vào ngày thứ tư," bà than thở và khóc: "Việc làm lễ chúc phúc voi là truyền thống của dòng tộc chúng ta qua bảy đời, bây giờ dòng tộc chúng ta sẽ bị suy tàn, và chúng ta sẽ mất đi tài sản."
229
Bodhisatto ‘‘kasmā, amma, rodasī’’ti vatvā taṃ kāraṇaṃ sutvā ‘‘nanu, amma, ahaṃ maṅgalaṃ karissāmī’’ti āha.
The Bodhisatta said, 'Why do you weep, mother?' and having heard the reason, he said, 'Mother, will I not perform the blessing?'
Bồ-tát hỏi: "Mẹ ơi, sao mẹ lại khóc?" Nghe xong lý do, Ngài nói: "Mẹ ơi, con sẽ làm lễ chúc phúc, phải không?"
‘‘Tāta, tvaṃ neva tayo vede jānāsi, na hatthisuttaṃ, kathaṃ maṅgalaṃ karissasī’’ti.
'(My) son, you know neither the three Vedas nor the elephant lore. How will you perform the blessing?'
"Con trai, con không biết ba bộ Veda, cũng không biết kinh về voi, làm sao con có thể làm lễ chúc phúc?"
‘‘Amma, kadā pana hatthimaṅgalaṃ karissatī’’ti?
'Mother, when will the elephant blessing be performed?'
"Mẹ ơi, bao giờ thì lễ chúc phúc voi sẽ diễn ra?"
‘‘Ito catutthe divase, tātā’’ti.
'On the fourth day from now, son.'
"Từ bây giờ đến ngày thứ tư, con trai."
‘‘Amma, tayo pana vede paguṇe katvā hatthisuttaṃ jānanakaācariyo kahaṃ vasatī’’ti?
'Mother, where does the teacher who has mastered the three Vedas and knows the elephant lore reside?'
“Mẹ ơi, vị thầy nào tinh thông ba bộ Veda và biết về Hatthisutta (Kinh về các loài voi) thì đang ở đâu ạ?”
‘‘Tāta, evarūpo disāpāmokkho ācariyo ito vīsayojanasatamatthake gandhāraraṭṭhe takkasilāyaṃ vasatī’’ti.
'Son, such a world-renowned teacher resides in Takkasilā, in the Gandhāra country, a hundred and twenty yojanas from here.'
“Con ơi, một vị thầy nổi tiếng khắp phương như vậy đang ở Takkasilā (Taxila), xứ Gandhāra (Gandhara), cách đây một trăm hai mươi dojana.”
‘‘Amma, amhākaṃ vaṃsaṃ na nāsessāmi, ahaṃ sve ekadivaseneva takkasilaṃ gantvā ekaratteneva tayo vede ca hatthisuttañca uggaṇhitvā punadivase āgantvā catutthe divase hatthimaṅgalaṃ karissāmi, mā rodī’’ti mātaraṃ samassāsetvā punadivase bodhisatto pātova bhuñjitvā ekakova nikkhamitvā ekadivaseneva takkasilaṃ gantvā ācariyaṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
'Mother, I will not destroy our lineage. Tomorrow, in just one day, I will go to Takkasilā, learn the three Vedas and the elephant lore in one night, return the day after, and perform the elephant blessing on the fourth day. Do not weep.' Having comforted his mother thus, the next day, the Bodhisatta ate early in the morning, went out alone, reached Takkasilā in one day, saluted the teacher, and sat down to one side.
“Mẹ ơi, con sẽ không làm tiêu tan dòng dõi của chúng ta đâu. Ngày mai, con sẽ đi Takkasilā chỉ trong một ngày, học thuộc ba bộ Veda và Hatthisutta chỉ trong một đêm, rồi ngày hôm sau trở về, và vào ngày thứ tư, con sẽ cử hành lễ voi. Mẹ đừng khóc nữa!” Nói như vậy để an ủi mẹ, vào ngày hôm sau, Bồ tát ăn sáng sớm, một mình ra đi, đến Takkasilā trong một ngày, đảnh lễ vị thầy rồi ngồi sang một bên.
230
Atha naṃ ācariyo ‘‘kuto āgatosi, tātā’’ti pucchi.
Then the teacher asked him, 'Where have you come from, son?'
Bấy giờ, vị thầy hỏi ngài: “Này con, con từ đâu đến vậy?”
‘‘Bārāṇasito, ācariyā’’ti.
'From Bārāṇasī, venerable sir.'
“Thưa thầy, con từ Bārāṇasī (Varanasi) đến ạ.”
‘‘Kenatthenā’’ti?
'For what purpose?'
“Vì mục đích gì?”
‘‘Tumhākaṃ santike tayo vede ca hatthisuttañca uggaṇhanatthāyā’’ti.
'To learn the three Vedas and the elephant lore from you.'
“Để học ba bộ Veda và Hatthisutta từ thầy ạ.”
‘‘Sādhu, tāta, uggaṇhā’’ti.
'Very well, son, learn them.'
“Tốt lắm, con trai, hãy học đi.”
Bodhisatto ‘‘ācariya, mayhaṃ kammaṃ accāyika’’nti sabbaṃ pavattiṃ ārocetvā ‘‘ahaṃ ekadivaseneva vīsayojanasataṃ āgato, ajjevekarattiṃ mayhameva okāsaṃ karotha, ito tatiyadivase hatthimaṅgalaṃ bhavissati, ahaṃ ekeneva uddesamaggena sabbaṃ uggaṇhissāmī’’ti vatvā ācariyaṃ okāsaṃ kāretvā ācariyassa bhuttakāle sayaṃ bhuñjitvā ācariyassa pāde dhovitvā sahassatthavikaṃ purato ṭhapetvā vanditvā ekamantaṃ nisinno pariyattiṃ paṭṭhapetvā aruṇe uggacchante tayo vede ca hatthisuttañca niṭṭhapetvā ‘‘aññopi atthi, ācariyā’’ti pucchitvā ‘‘natthi tāta, sabbaṃ niṭṭhita’’nti vutte ‘‘ācariya, imasmiṃ ganthe ettakaṃ padapaccābhaṭṭhaṃ, ettakaṃ sajjhāyasammohaṭṭhānaṃ, ito paṭṭhāya tumhe antevāsike evaṃ vāceyyāthā’’ti ācariyassa sippaṃ sodhetvā pātova bhuñjitvā ācariyaṃ vanditvā ekadivaseneva bārāṇasiṃ paccāgantvā mātaraṃ vanditvā ‘‘uggahitaṃ te, tāta, sippa’’nti vutte ‘‘āma, ammā’’ti vatvā mātaraṃ paritosesi.
The Bodhisatta informed him of all the urgent matters, saying, 'Venerable sir, I have come a hundred and twenty yojanas in one day; please make time for me just for tonight. The elephant blessing will take place on the third day from now. I will learn everything through one method of instruction.' Having thus persuaded the teacher to make time, he ate when the teacher ate, washed the teacher's feet, placed a purse of a thousand (coins) before him, saluted him, and sat down to one side. He began his studies and, as dawn broke, he completed the three Vedas and the elephant lore. He then asked, 'Is there anything else, venerable sir?' When told, 'No, son, everything is finished,' he corrected the teacher's knowledge, saying, 'Venerable sir, in this text, there are so many misread words, so many places of confusion in recitation. From now on, you should teach your pupils thus.' After eating early in the morning, he saluted the teacher and returned to Bārāṇasī in one day. He saluted his mother, and when she asked, 'Have you learned the craft, son?' he replied, 'Yes, mother,' and thus pleased his mother.
Bồ tát nói: “Thưa thầy, công việc của con rất cấp bách,” rồi kể lại toàn bộ sự việc. “Con đã đi một trăm hai mươi dojana trong một ngày. Xin thầy hãy dành thời gian cho con chỉ trong một đêm nay thôi. Vào ngày thứ ba kể từ bây giờ, lễ voi sẽ diễn ra. Con sẽ học thuộc tất cả chỉ bằng một phương pháp học thuộc lòng.” Nói xong, ngài xin phép vị thầy, tự mình ăn vào lúc vị thầy dùng bữa, rửa chân cho vị thầy, đặt một túi tiền ngàn trước mặt, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Bắt đầu học thuộc lòng, khi bình minh lên, ngài đã hoàn thành việc học ba bộ Veda và Hatthisutta. Ngài hỏi: “Thưa thầy, còn gì nữa không ạ?” Khi được trả lời: “Không còn gì nữa con ơi, tất cả đã xong rồi,” ngài nói: “Thưa thầy, trong bộ kinh này có bấy nhiêu chỗ sai lạc về từ ngữ, bấy nhiêu chỗ gây nhầm lẫn khi tụng đọc. Từ nay trở đi, thầy hãy dạy học trò của mình như vậy.” Sau khi sửa chữa lại kiến thức cho vị thầy, ngài ăn sáng sớm, đảnh lễ vị thầy, rồi trở về Bārāṇasī trong một ngày. Ngài đảnh lễ mẹ, và khi mẹ hỏi: “Con đã học được nghề rồi sao con trai?” Ngài đáp: “Vâng, mẹ ơi,” làm mẹ vui lòng.
231
Punadivase hatthimaṅgalachaṇo paṭiyādiyittha.
The next day, preparations for the elephant blessing festival were made.
Ngày hôm sau, lễ voi được chuẩn bị.
Satamatte hatthisoṇḍālaṅkāre ca suvaṇṇaddhaje hemajālasañchanne katvā ṭhapesuṃ, rājaṅgaṇaṃ alaṅkariṃsu.
A hundred elephant trunk ornaments and golden banners covered with golden nets were made and set up; the royal courtyard was decorated.
Một trăm vật trang sức cho vòi voi và những lá cờ vàng được phủ lưới vàng được chuẩn bị và đặt sẵn. Sân hoàng gia được trang hoàng.
Brāhmaṇā ‘‘mayaṃ hatthimaṅgalaṃ karissāma, mayaṃ karissāmā’’ti maṇḍitapasādhitā aṭṭhaṃsu.
The brahmins stood adorned and decorated, saying, 'We will perform the elephant blessing, we will perform it.'
Các Bà-la-môn trang điểm lộng lẫy đứng đó, nói: “Chúng tôi sẽ cử hành lễ voi, chúng tôi sẽ cử hành.”
Susīmopi rājā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍito upakaraṇabhaṇḍaṃ gāhāpetvā maṅgalaṭṭhānaṃ agamāsi.
King Susīma, adorned with all ornaments, had the ceremonial requisites taken and went to the place of the ceremony.
Vua Susīma cũng trang hoàng đầy đủ mọi đồ trang sức, sai người mang theo các vật dụng cần thiết rồi đến nơi cử hành lễ.
Bodhisattopi kumāraparihārena alaṅkato attano parisāya purakkhataparivārito rañño santikaṃ gantvā ‘‘saccaṃ kira, mahārāja, tumhe amhākaṃ vaṃsañca attano vaṃsañca nāsetvā ‘aññehi brāhmaṇehi hatthimaṅgalaṃ kāretvā hatthālaṅkārañca upakaraṇāni ca tesaṃ dassāmā’ti avacutthā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
And the Bodhisatta, adorned with the retinue of a prince, surrounded and attended by his own assembly, went to the king and said, ‘‘Is it true, Your Majesty, that you have destroyed our lineage and your own lineage, and declared, ‘We will have other brahmins perform the elephant ceremony, and we will give the elephant ornaments and requisites to them’?” Having said this, he uttered the first verse:
Bồ tát cũng được trang điểm theo kiểu hoàng tử, được đoàn tùy tùng của mình bao quanh, đến gần nhà vua và nói: “Thưa Đại vương, có thật là ngài đã hủy hoại dòng dõi của chúng ta và dòng dõi của chính ngài, rồi nói rằng: ‘Chúng ta sẽ cử hành lễ voi bởi các Bà-la-môn khác và sẽ trao các đồ trang sức cho voi cùng các vật dụng cho họ’ không?” Nói xong, ngài đọc bài kệ đầu tiên:
232
25.
25.
25.
233
‘‘Kāḷā migā setadantā tavīme, parosataṃ hemajālābhichannā;
‘‘These black deer with white tusks, more than a hundred, covered with golden nets, are yours;
“Này Susīma, những con voi đen răng trắng này của ngài,
234
Te te dadāmīti susīma brūsi, anussaraṃ pettipitāmahāna’’nti.
You say, Susīma, ‘I will give them to you,’ remembering your ancestors.’’
Hơn một trăm con, được phủ lưới vàng; ngài nói ‘Tôi sẽ trao chúng cho họ’
235
Tattha te te dadāmīti susīma brūsīti te ete tava santake ‘‘kāḷā migā setadantā’’ti evaṃ gate parosataṃ sabbālaṅkārapaṭimaṇḍite hatthī aññesaṃ brāhmaṇānaṃ dadāmīti saccaṃ kira, bho susīma, evaṃ brūsīti attho.
Here, te te dadāmīti susīma brūsīti means, ‘‘Is it truly so, O Susīma, that you say you will give these elephants, which are yours, described as ‘black deer with white tusks,’ more than a hundred, adorned with all ornaments, to other brahmins?’’
Trong đó, te te dadāmīti susīma brūsī có nghĩa là: “Này Susīma, có thật là ngài nói rằng ngài sẽ trao những con voi này, những con voi đen răng trắng, hơn một trăm con, được trang hoàng đầy đủ mọi đồ trang sức, cho các Bà-la-môn khác không?” Anussaraṃ pettipitāmahāna có nghĩa là: “Ngài vẫn còn nhớ truyền thống của tổ tiên chúng ta và của chính ngài.”
Anussaraṃ pettipitāmahānanti amhākañca attano ca vaṃse pitupitāmahānaṃ āciṇṇaṃ sarantoyeva.
Anussaraṃ pettipitāmahānanti means, ‘‘remembering the practice of the fathers and grandfathers of our lineage and your own lineage.’’
Điều này có nghĩa là: “Thưa Đại vương, cho đến bảy đời tổ tiên của chúng ta và tổ tiên của ngài đều cử hành lễ voi. Ngài vẫn nhớ điều đó, vậy mà ngài lại hủy hoại dòng dõi của chúng ta và của chính ngài, có thật là ngài nói như vậy không?”
Idaṃ vuttaṃ hoti – mahārāja, yāva sattamakulaparivaṭṭā tumhākaṃ pettipitāmahānaṃ amhākaṃ pettipitāmahā ca hatthimaṅgalaṃ karonti, so tvaṃ evaṃ anussarantopi amhākañca attano ca vaṃsaṃ nāsetvā saccaṃ kira evaṃ brūsīti.
This is what was said: ‘‘Your Majesty, our ancestors and your ancestors have been performing the elephant ceremony for seven generations. Is it truly so that even remembering this, you destroy our lineage and your own, and say such a thing?’’
Điều này có nghĩa là: “Thưa Đại vương, cho đến bảy đời tổ tiên của chúng ta và tổ tiên của ngài đều cử hành lễ voi. Ngài vẫn nhớ điều đó, vậy mà ngài lại hủy hoại dòng dõi của chúng ta và của chính ngài, có thật là ngài nói như vậy không?”
236
Susīmo rājā bodhisattassa vacanaṃ sutvā dutiyaṃ gāthamāha –
King Susīma, hearing the Bodhisatta’s words, uttered the second verse:
Vua Susīma nghe lời Bồ tát, liền đọc bài kệ thứ hai:
237
26.
26.
26.
238
‘‘Kāḷā migā setadantā mamīme, parosataṃ hemajālābhichannā;
‘‘These black deer with white tusks, more than a hundred, covered with golden nets, are mine;
“Này Māṇava, những con voi đen răng trắng này của ta,
239
Te te dadāmīti vadāmi māṇava, anussaraṃ pettipitāmahāna’’nti.
I say, young man, ‘I will give them to you,’ remembering my ancestors.’’
Hơn một trăm con, được phủ lưới vàng; ta nói ‘Ta sẽ trao chúng cho họ’
240
Tattha te te dadāmīti te ete hatthī aññesaṃ brāhmaṇānaṃ dadāmīti saccameva māṇava vadāmi, neva hatthī brāhmaṇānaṃ dadāmīti attho.
Here, te te dadāmīti means, ‘‘Indeed, young man, I say I will give these elephants to other brahmins,’’ not that ‘‘I will give the elephants to the brahmins.’’
Trong đó, te te dadāmī có nghĩa là: “Này Māṇava, ta thực sự nói rằng ta sẽ trao những con voi này cho các Bà-la-môn khác, chứ không phải là ta không trao voi cho các Bà-la-môn.” Anussara có nghĩa là: “Ta nhớ hành động của tổ tiên, chứ không phải là không nhớ. Dù ta nhớ rằng tổ tiên của chúng ta và tổ tiên của ngài đã cử hành lễ voi, nhưng ta vẫn nói như vậy.”
Anussaranti pettipitāmahānaṃ kiriyaṃ anussarāmiyeva, no nānussarāmi, amhākaṃ pettipitāmahānaṃ hatthimaṅgalaṃ tumhākaṃ pettipitāmahā karontīti pana anussarantopi evaṃ vadāmiyevāti adhippāyenevamāha.
Anussaranti means, ‘‘I do remember the deeds of my ancestors; I do not not remember. But even remembering that our ancestors performed the elephant ceremony for your ancestors, I still say this,’’ with this intention he spoke.
Trong đó, te te dadāmī có nghĩa là: “Này Māṇava, ta thực sự nói rằng ta sẽ trao những con voi này cho các Bà-la-môn khác, chứ không phải là ta không trao voi cho các Bà-la-môn.” Anussara có nghĩa là: “Ta nhớ hành động của tổ tiên, chứ không phải là không nhớ. Dù ta nhớ rằng tổ tiên của chúng ta và tổ tiên của ngài đã cử hành lễ voi, nhưng ta vẫn nói như vậy.”
241
Atha naṃ bodhisatto etadavoca – ‘‘mahārāja, amhākañca attano ca vaṃsaṃ anussarantoyeva kasmā maṃ ṭhapetvā aññehi hatthimaṅgalaṃ kārāpethā’’ti.
Then the Bodhisatta said to him, ‘‘Your Majesty, remembering our lineage and your own, why do you have others perform the elephant ceremony instead of me?’’
Bấy giờ, Bồ tát nói với ngài: “Thưa Đại vương, ngài vẫn nhớ dòng dõi của chúng ta và của chính ngài, vậy tại sao ngài lại sai người khác cử hành lễ voi thay vì con?”
‘‘Tvaṃ kira, tāta, tayo vede hatthisuttañca na jānāsī’’ti mayhaṃ ārocesuṃ, tenāhaṃ aññehi brāhmaṇehi kārāpemīti.
‘‘They reported to me, my dear, that you do not know the three Vedas and the elephant lore, so I am having other brahmins perform it.’’
“Này con, người ta đã báo cho ta biết rằng con không biết ba bộ Veda và Hatthisutta, nên ta mới sai các Bà-la-môn khác cử hành.”
‘‘Tena hi, mahārāja, ettakesu brāhmaṇesu ekabrāhmaṇopi tīsu vedesu vā hatthisuttesu vā ekadesampi yadi mayā saddhiṃ kathetuṃ samatto atthi, uṭṭhahatu, tayopi vede hatthisuttañca saddhiṃ hatthimaṅgalakaraṇena maṃ ṭhapetvā añño sakalajambudīpepi jānanto nāma natthī’’ti sīhanādaṃ nadi.
‘‘In that case, Your Majesty, if there is even one brahmin among these brahmins who is capable of discussing even a part of the three Vedas or the elephant lore with me, let him stand up. There is no one else in the entire Jambudīpa who knows the three Vedas and the elephant lore, along with the performance of the elephant ceremony, apart from me,’’ he roared like a lion.
“Vậy thì, thưa Đại vương, trong số bấy nhiêu Bà-la-môn này, nếu có một Bà-la-môn nào đủ khả năng nói chuyện với con dù chỉ một phần nhỏ về ba bộ Veda hay Hatthisutta, thì hãy đứng dậy. Ngoài con ra, không có ai trên toàn Jambudīpa (Diêm Phù Đề) này biết cả ba bộ Veda và Hatthisutta cùng với việc cử hành lễ voi đâu,” ngài rống tiếng sư tử.
Ekabrāhmaṇopi tassa paṭisattu hutvā uṭṭhātuṃ nāsakkhi.
Not a single brahmin was able to stand up as his opponent.
Không một Bà-la-môn nào có thể đứng dậy làm đối thủ của ngài.
Bodhisatto attano kulavaṃsaṃ patiṭṭhāpetvā maṅgalaṃ katvā bahuṃ dhanaṃ ādāya attano nivesanaṃ agamāsi.
The Bodhisatta established his family lineage, performed the ceremony, took much wealth, and returned to his dwelling.
Bồ tát đã củng cố dòng dõi của mình, cử hành lễ, rồi mang nhiều tài sản về nhà.
242
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne keci sotāpannā ahesuṃ, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino, keci arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, elucidated the truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the truths, some became sotāpannas, some sakadāgāmins, some anāgāmins, and some attained Arahantship.
Đức Phật đã kể pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý, và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, một số người đã trở thành bậc Sotāpanna (Tu-đà-hoàn), một số Sakadāgāmin (Tư-đà-hàm), một số Anāgāmin (A-na-hàm), và một số đã đạt được Arahant (A-la-hán).
‘‘Tadā mātā mahāmāyā ahosi, pitā suddhodanamahārājā, susīmo rājā ānando, disāpāmokkho ācariyo sāriputto, māṇavo pana ahameva ahosi’’nti.
‘‘At that time, the mother was Mahāmāyā, the father was King Suddhodana, King Susīma was Ānanda, the renowned teacher was Sāriputta, and the young man was I myself.’’
“Khi ấy, mẹ là Mahāmāyā (Ma-ha-ma-da), cha là Đại vương Suddhodana (Tịnh Phạn), vua Susīma là Ānanda (A-nan), vị thầy nổi tiếng khắp phương là Sāriputta (Xá-lợi-phất), còn chàng thanh niên chính là ta vậy.”
243
Susīmajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third, the Susīma Jātaka, is concluded.
Câu chuyện Susīma Jātaka, thứ ba.
244
* 4. Gijjhajātakavaṇṇanā
* 4. Gijjha Jātaka Commentary
* 4. Câu chuyện Gijjha Jātaka
245
Yaṃ nu gijjho yojanasatanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ mātuposakabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Yaṃ nu gijjho yojanasatanti: This the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a bhikkhu who supported his mother.
Yaṃ nu gijjho yojanasata” (Con kên kên bay trăm dojana) – câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị tỳ-khưu nuôi dưỡng cha mẹ.
Vatthu sāmajātake (jā. 2.22.296 ādayo) āvibhavissati.
The story will appear in the Sāma Jātaka.
Câu chuyện sẽ được trình bày trong Sāma Jātaka (Jā. 2.22.296 trở đi).
Satthā pana taṃ bhikkhuṃ ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, gihī posesī’’ti pucchitvā ‘‘sacca’’nti vutte ‘‘kiṃ pana te hontī’’ti pucchitvā ‘‘mātāpitaro me, bhante’’ti vutte ‘‘sādhu sādhū’’ti tassa sādhukāraṃ datvā ‘‘mā, bhikkhave, imaṃ bhikkhuṃ ujjhāyittha, porāṇakapaṇḍitāpi guṇavasena aññātakānampi upakāraṃ akaṃsu, imassa pana mātāpitūnaṃ upakārakaraṇaṃ bhāroyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having asked that bhikkhu, "Is it true, bhikkhu, that you support laypeople?" and when told "It is true," asked, "Who are they to you?" When he replied, "They are my mother and father, Venerable Sir," the Teacher applauded him, saying, "Well done! Well done! Monks, do not criticize this bhikkhu. Even wise ones of old rendered assistance to strangers due to their virtues. And supporting his own mother and father is indeed his duty." Having said this, he related a past event.
Đức Phật hỏi vị tỳ-khưu đó: “Này tỳ-khưu, có thật là ông nuôi dưỡng người tại gia không?” Khi vị ấy đáp: “Thật vậy, bạch Thế Tôn,” ngài hỏi: “Họ là ai của ông?” Khi vị ấy đáp: “Là cha mẹ con, bạch Thế Tôn,” ngài khen: “Lành thay, lành thay!” và nói: “Này các tỳ-khưu, đừng chỉ trích vị tỳ-khưu này. Ngay cả các bậc hiền triết thời xưa cũng đã giúp đỡ những người không quen biết dựa trên phẩm hạnh. Việc vị này giúp đỡ cha mẹ mình là một điều đáng trân trọng.” Nói xong, ngài kể chuyện quá khứ.
246
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto gijjhakūṭapabbate gijjhayoniyaṃ nibbattitvā mātāpitaro poseti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn as a vulture on Vulture Peak Mountain (Gijjhakūṭapabbata) and supported his mother and father.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ tát tái sinh làm một con kên kên trên núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu) và nuôi dưỡng cha mẹ.
Athekasmiṃ kāle mahatī vātavuṭṭhi ahosi.
Then, at one time, there was a great storm with rain.
Một thời, có một trận bão lớn.
Gijjhā vātavuṭṭhiṃ sahituṃ asakkontā sītabhayena bārāṇasiṃ gantvā pākārasamīpe ca parikhāsamīpe ca sītena kampamānā nisīdiṃsu.
The vultures, unable to withstand the storm and rain, went to Bārāṇasī out of fear of the cold and sat shivering near the city wall and the moat.
Các con kên kên không chịu nổi bão, vì lạnh mà bay đến Bārāṇasī, ngồi run rẩy vì lạnh gần tường thành và gần hào nước.
Tadā bārāṇasiseṭṭhi nagarā nikkhamitvā nhāyituṃ gacchanto te gijjhe kilamante disvā ekasmiṃ anovassakaṭṭhāne sannipātetvā aggiṃ kārāpetvā gosusānaṃ pesetvā gomaṃsaṃ āharāpetvā tesaṃ dāpetvā ārakkhaṃ ṭhapesi.
At that time, the chief merchant of Bārāṇasī, leaving the city to bathe, saw those vultures suffering. He gathered them in a sheltered place, had a fire lit, sent someone to a cow graveyard to fetch beef, had it given to them, and arranged for their protection.
Bấy giờ, một vị trưởng giả ở Bārāṇasī ra khỏi thành để tắm, thấy những con kên kên đang gặp khó khăn, liền tập trung chúng vào một nơi không bị mưa ướt, đốt lửa, sai người đến lò mổ bò mang thịt bò về cho chúng ăn, và cử người canh gác.
Gijjhā vūpasantāya vātavuṭṭhiyā kallasarīrā hutvā pabbatameva agamaṃsu.
When the storm and rain subsided, the vultures, with their bodies restored, returned to the mountain.
Sau khi trận bão tan, các con kên kên khỏe mạnh trở lại và bay về núi.
Te tattheva sannipatitvā evaṃ mantayiṃsu – ‘‘bārāṇasiseṭṭhinā amhākaṃ upakāro kato, katūpakārassa ca nāma paccupakāraṃ kātuṃ vaṭṭati, tasmā ito paṭṭhāya tumhesu yo yaṃ vatthaṃ vā ābharaṇaṃ vā labhati, tena taṃ bārāṇasiseṭṭhissa gehe ākāsaṅgaṇe pātetabba’’nti.
They assembled there and deliberated thus: "The chief merchant of Bārāṇasī rendered us assistance. It is proper to return a favor to one who has helped. Therefore, from now on, whoever among you obtains any cloth or ornament should drop it in the courtyard of the chief merchant of Bārāṇasī's house."
Chúng tập trung lại đó và bàn bạc: “Vị trưởng giả ở Bārāṇasī đã giúp đỡ chúng ta. Việc báo đáp ân huệ là điều nên làm. Vì vậy, từ nay trở đi, bất cứ ai trong chúng ta tìm được quần áo hay đồ trang sức gì, hãy thả chúng xuống sân nhà của vị trưởng giả ở Bārāṇasī.”
247
Tato paṭṭhāya gijjhā manussānaṃ vatthābharaṇāni ātape sukkhāpentānaṃ pamādaṃ oloketvā senā viya maṃsapesiṃ sahasā gahetvā bārāṇasiseṭṭhissa gehe ākāsaṅgaṇe pātenti.
From then on, the vultures, observing the carelessness of people drying their clothes and ornaments in the sun, would swiftly snatch them like a piece of meat and drop them in the courtyard of the chief merchant of Bārāṇasī's house.
Từ đó trở đi, các con kên kên, khi thấy sự lơ đễnh của những người đang phơi quần áo và trang sức dưới nắng, giống như diều hâu cắp miếng thịt, liền nhanh chóng cắp lấy và thả xuống sân thượng của nhà trưởng giả Bārāṇasī.
So gijjhānaṃ āharaṇabhāvaṃ ñatvā sabbāni tāni visuṃyeva ṭhapesi.
Knowing that the vultures had brought them, he kept all those items separately.
Vị ấy, biết được việc các con kên kên mang đến, liền cất giữ tất cả những thứ đó riêng biệt.
‘‘Gijjhā nagaraṃ vilumpantī’’ti rañño ārocesuṃ.
People reported to the king, "The vultures are plundering the city."
Họ tâu với vua: “Các con kên kên đang cướp phá thành phố!”
Rājā ‘‘ekaṃ gijjhampi tāva gaṇhatha, sabbaṃ āharāpessāmī’’ti tattha tattha pāse ceva jālāni ca oḍḍāpesi.
The king ordered snares and nets to be set up here and there, saying, "Catch at least one vulture, and I will have everything brought back."
Vua ra lệnh: “Hãy bắt một con kên kên đi, ta sẽ bắt chúng mang trả lại tất cả.” Rồi vua cho đặt bẫy và lưới khắp nơi.
Mātuposakagijjho pāse bajjhi, taṃ gahetvā ‘‘rañño dassessāmā’’ti nenti.
The vulture who supported his mother was caught in a snare. They seized it and took it away, saying, "We will show it to the king."
Con kên kên nuôi mẹ bị mắc vào bẫy. Họ bắt nó và nói: “Chúng ta sẽ dâng nó lên vua.” Rồi họ mang đi.
Bārāṇasiseṭṭhi rājupaṭṭhānaṃ gacchanto te manusse gijjhaṃ gahetvā gacchante disvā ‘‘mā imaṃ gijjhaṃ bādhayiṃsū’’ti saddhiññeva agamāsi.
The chief merchant of Bārāṇasī, on his way to attend the king, saw those men taking the vulture and went along with them, thinking, "May they not harm this vulture."
Trưởng giả Bārāṇasī, khi đang đi đến chỗ vua, thấy những người đó đang mang con kên kên đi, liền nghĩ: “Đừng làm hại con kên kên này,” và đi cùng với họ.
Gijjhaṃ rañño dassesuṃ.
They showed the vulture to the king.
Họ dâng con kên kên lên vua.
Atha naṃ rājā pucchi – ‘‘tumhe nagaraṃ vilumpitvā vatthādīni gaṇhathā’’ti.
Then the king asked him, "Do you plunder the city and take clothes and other things?"
Bấy giờ, vua hỏi nó: “Các ngươi cướp phá thành phố và lấy quần áo cùng các vật dụng khác phải không?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, Your Majesty."
“Dạ phải, đại vương.”
‘‘Kassa tāni dinnānī’’ti?
"To whom were they given?"
“Những thứ đó được trao cho ai?”
‘‘Bārāṇasiseṭṭhissā’’ti.
"To the chief merchant of Bārāṇasī."
“Cho trưởng giả Bārāṇasī.”
‘‘Kiṃkāraṇā’’ti?
"For what reason?"
“Vì lý do gì?”
‘‘Amhākaṃ tena jīvitaṃ dvinnaṃ, upakārassa nāma paccupakāraṃ kātuṃ vaṭṭati, tasmā adamhā’’ti.
"He gave us life. It is proper to return a favor to one who has helped, so we gave them."
“Vì ngài ấy đã cứu mạng chúng tôi. Đối với người đã giúp đỡ, cần phải đền đáp ân nghĩa, vì vậy chúng tôi đã trao cho ngài ấy.”
Atha naṃ rājā ‘‘gijjhā kira yojanasatamatthake ṭhatvā kuṇapaṃ passanti, kasmā tvaṃ attano oḍḍitaṃ pāsaṃ na passasī’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Then the king, saying, "Vultures, they say, see carrion from a hundred yojanas away; why did you not see the snare set for you?" spoke the first verse:
Bấy giờ, vua nói với nó: “Nghe nói các con kên kên có thể nhìn thấy xác chết từ khoảng cách một trăm dojana, tại sao ngươi lại không nhìn thấy cái bẫy đã được đặt ra cho chính mình?” Rồi vua đọc bài kệ thứ nhất:
248
27.
27.
27.
249
‘‘Yaṃ nu gijjho yojanasataṃ, kuṇapāni avekkhati;
"Indeed, a vulture looks at carrion a hundred yojanas away;
“Kên kên nhìn xác chết, xa một trăm dojana;
250
Kasmā jālañca pāsañca, āsajjāpi na bujjhasī’’ti.
Why, then, did you not perceive the net and snare, even when you encountered them?"
Sao lưới và bẫy kia, ngươi chạm đến chẳng hay?”
251
Tattha yanti nipātamattaṃ, ti nāmatthe nipāto.
Therein, yaṃ is merely a particle, is a particle in the sense of 'indeed'.
Ở đây, yaṃ chỉ là một tiểu từ, là một tiểu từ mang nghĩa nhấn mạnh.
Gijjho nāma yojanasataṃ atikkamitvā ṭhitāni kuṇapāni avekkhati, passatīti attho.
A vulture, indeed, looks at carrion situated beyond a hundred yojanas, meaning it sees it.
Kên kên có thể nhìn thấy xác chết ở khoảng cách vượt quá một trăm dojana, nghĩa là nhìn thấy.
Āsajjāpīti āsādetvāpi, sampāpuṇitvāpīti attho.
Āsajjāpī means even after encountering, even after reaching, is the meaning.
Āsajjāpī có nghĩa là đã chạm đến, đã đạt đến.
‘‘Tvaṃ attano atthāya oḍḍitaṃ jālañca pāsañca patvāpi kasmā na bujjhasī’’ti pucchi.
He asked, "Why did you not perceive the net and snare set for your own sake, even after encountering them?"
Vua hỏi: “Tại sao ngươi, khi đã chạm đến lưới và bẫy được đặt ra cho chính mình, lại không nhận ra?”
252
Gijjho tassa vacanaṃ sutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The vulture, hearing his words, spoke the second verse:
Con kên kên nghe lời vua nói, liền đọc bài kệ thứ hai:
253
28.
28.
28.
254
‘‘Yadā parābhavo hoti, poso jīvitasaṅkhaye;
"When a person faces ruin, at the end of life,
“Khi sự suy bại đến, mạng sống người tận cùng;
255
Atha jālañca pāsañca, āsajjāpi na bujjhatī’’ti.
Then he does not perceive the net and snare, even when he encounters them."
Lưới và bẫy chạm đến, người ấy cũng chẳng hay.”
256
Tattha parābhavoti vināso.
Therein, parābhavo means destruction.
Ở đây, parābhavo có nghĩa là sự hủy diệt.
Posoti satto.
Poso means a being.
Poso có nghĩa là chúng sinh.
257
Gijjhassa vacanaṃ sutvā rājā seṭṭhiṃ pucchi – ‘‘saccaṃ kira, mahāseṭṭhi, gijjhehi tumhākaṃ gehe vatthādīni ābhatānī’’ti.
Hearing the vulture's words, the king asked the chief merchant, "Is it true, great merchant, that clothes and other things were brought to your house by vultures?"
Nghe lời con kên kên nói, vua hỏi trưởng giả: “Này đại trưởng giả, có thật là các con kên kên đã mang quần áo và các vật dụng khác đến nhà ngài không?”
‘‘Saccaṃ, devā’’ti.
"It is true, Your Majesty."
“Thật vậy, thưa đức vua.”
‘‘Kahaṃ tānī’’ti?
"Where are they?"
“Chúng ở đâu?”
‘‘Deva, mayā tāni sabbāni visuṃ ṭhapitāni, yaṃ yesaṃ santakaṃ, taṃ tesaṃ dassāmi, imaṃ gijjhaṃ vissajjethā’’ti gijjhaṃ vissajjāpetvā mahāseṭṭhiṃ sabbesaṃ santakāni dāpesi.
"Your Majesty, I have kept all those things separately; whatever belongs to whom, I shall give it back to them. Release this vulture!" Having said this, he had the vulture released and made the great merchant return the belongings to everyone.
“Thưa đức vua, tôi đã cất giữ tất cả chúng riêng biệt. Vật gì thuộc về ai, tôi sẽ trả lại cho người đó. Xin hãy thả con kên kên này.” Vua cho thả con kên kên và trưởng giả đã trả lại tài sản cho tất cả mọi người.
258
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne mātuposakabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse and expounded the Noble Truths, connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the bhikkhu who supported his parents was established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư, sau khi kể pháp thoại này, tuyên bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân Lý được tuyên bố xong, vị tỳ khưu nuôi dưỡng cha mẹ đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā rājā ānando ahosi, bārāṇasiseṭṭhi sāriputto, mātuposakagijjho pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the king was Ānanda; the great merchant of Bārāṇasī was Sāriputta; and the vulture who supported his parents was I myself."
“Khi ấy, vua là Ānanda, trưởng giả Bārāṇasī là Sāriputta, còn con kên kên nuôi mẹ chính là Ta vậy.”
259
Gijjhajātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth Story: The Vulture Jātaka.
Câu chuyện Gijjha Jātaka, thứ tư, đã hoàn tất.
260
* 5. Nakulajātakavaṇṇanā
* 5. The Story of the Mongoose Jātaka
* 5. Câu chuyện Nakula Jātaka
261
Saddhiṃ katvā amittenāti idaṃ satthā jetavane viharanto seṇibhaṇḍanaṃ ārabbha kathesi.
"Having made a truce with an enemy": This the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a quarrel between two ministers.
Saddhiṃ katvā amittenā (Kết giao với kẻ thù) — câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến cuộc tranh cãi của hai vị đại thần.
Vatthu heṭṭhā uragajātake (jā. 1.2.7-8) kathitasadisameva.
The story is similar to that told below in the Uragajātakavaṇṇanā.
Câu chuyện cơ bản tương tự như đã kể trong Uragajātake (Jā. 1.2.7-8) ở phần dưới.
Idhāpi satthā ‘‘na, bhikkhave, ime dve mahāmattā idāneva mayā samaggā katā, pubbepāhaṃ ime samagge akāsiṃyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Here too, the Teacher said, "Bhikkhus, it is not only now that I have reconciled these two great ministers; in the past too, I made them live in harmony," and then he related a past event.
Ở đây, Bậc Đạo Sư cũng nói: “Này các tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ hai vị đại thần này mới được Ta hòa giải, mà Ta đã hòa giải họ từ trước rồi,” và Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
262
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ gāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggahetvā gharāvāsaṃ pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā uñchācariyāya vanamūlaphalāhāro himavantapadese vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a certain village. When he came of age, he learned all crafts in Takkasilā, then renounced household life, took up the ascetic's ordination, developed supernormal powers and attainments, and lived in the Himalayan region, subsisting on gleanings, roots, and fruits from the forest.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh trong một gia đình Bà La Môn ở một ngôi làng. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học tất cả các nghề thủ công tại Takkasilā, rồi từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia làm ẩn sĩ, phát triển các thần thông và thiền định, sau đó sống ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, kiếm ăn bằng cách nhặt lượm rễ cây và trái cây trong rừng.
Tassa caṅkamanakoṭiyaṃ ekasmiṃ vammike nakulo, tasseva santike ekasmiṃ rukkhabile sappo ca vāsaṃ kappesi.
At the edge of his walking path, a mongoose lived in an anthill, and near it, a snake lived in a tree hollow.
Ở cuối đường kinh hành của Ngài, có một con chồn mangut sống trong một ụ mối, và gần đó, một con rắn sống trong một hốc cây.
Te ubhopi ahinakulā niccakālaṃ kalahaṃ karonti.
These two, the snake and the mongoose, were constantly quarreling.
Cả hai, rắn và chồn mangut, luôn luôn tranh cãi với nhau.
Bodhisatto tesaṃ kalahe ādīnavañca mettābhāvanāya ca ānisaṃsaṃ kathetvā ‘‘kalahaṃ nāma akatvā samaggavāsaṃ vasituṃ vaṭṭatī’’ti ovaditvā ubhopi te samagge akāsi.
The Bodhisatta explained to them the danger of quarreling and the benefits of cultivating loving-kindness, advising them, "It is proper to live in harmony, without quarreling," and he reconciled the two.
Bồ Tát đã kể về những tai hại của sự tranh cãi và lợi ích của việc tu tập tâm từ bi, rồi khuyên răn: “Không nên tranh cãi, mà nên sống hòa thuận,” và Ngài đã hòa giải cả hai.
Atha sappassa bahinikkhantakāle nakulo caṅkamanakoṭiyaṃ vammikassa biladvāre sīsaṃ nīharitvā mukhaṃ vivaritvā nipanno assasanto passasanto niddaṃ upagañchi.
Then, when the snake had gone out, the mongoose, at the edge of the walking path, put its head out of the anthill's entrance, opened its mouth, and fell asleep, breathing in and out.
Sau đó, khi con rắn đi ra ngoài, con chồn mangut thò đầu ra khỏi cửa hang của ụ mối ở cuối đường kinh hành, há miệng, nằm thở ra thở vào, rồi chìm vào giấc ngủ.
Bodhisatto taṃ tathā niddāyamānaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho te nissāya bhayaṃ uppanna’’nti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Seeing it sleeping in that manner, the Bodhisatta, asking, "What fear has arisen for you, based on what?" spoke the first verse:
Bồ Tát thấy nó ngủ như vậy, liền hỏi: “Này ngươi, nỗi sợ hãi nào đã đến với ngươi?” và đọc bài kệ thứ nhất:
263
29.
29.
29.
264
‘‘Sandhiṃ katvā amittena, aṇḍajena jalābuja;
"Having made a truce with an enemy, a creature born from an egg, yet you, born from a womb,
“Kết giao với kẻ thù, loài đẻ trứng, loài đẻ con;
265
Vivariya dāṭhaṃ sesi, kuto te bhayamāgata’’nti.
sleep with fangs exposed. From where has fear come to you?"
Há miệng nanh mà ngủ, sợ hãi từ đâu đến?”
266
Tattha sandhiṃ katvāti mittabhāvaṃ karitvā.
Therein, sandhiṃ katvā means "having made a friendship."
Ở đây, sandhiṃ katvā có nghĩa là kết bạn.
Aṇḍajenāti aṇḍakose nibbattena nāgena.
Aṇḍajena means "with the snake born from an egg."
Aṇḍajena có nghĩa là với con rắn sinh ra từ trứng.
Jalābujāti nakulaṃ ālapati.
Jalābujā addresses the mongoose.
Jalābujā là gọi con chồn mangut.
So hi jalābumhi jātattā ‘‘jalābujo’’ti vuccati.
For it is called "jalābujo" because it is born from a womb.
Nó được gọi là “jalābujo” vì sinh ra từ bào thai.
Vivariyāti vivaritvā.
Vivariyā means "having opened."
Vivariyā có nghĩa là há ra.
267
Evaṃ bodhisattena vutto nakulo ‘‘ayya, paccāmitto nāma na avajānitabbo āsaṅkitabboyevā’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Thus addressed by the Bodhisatta, the mongoose said, "Venerable sir, an enemy should not be underestimated; he should always be suspected," and spoke the second verse:
Khi Bồ Tát nói như vậy, con chồn mangut liền nói: “Thưa tôn giả, kẻ thù không nên bị khinh thường, mà nên luôn cảnh giác,” rồi đọc bài kệ thứ hai:
268
30.
30.
30.
269
‘‘Saṅketheva amittasmiṃ, mittasmimpi na vissase;
"One should suspect an enemy, and not trust even a friend;
“Hãy cảnh giác kẻ thù, bạn bè chớ tin cậy;
270
Abhayā bhayamuppannaṃ, api mūlāni kantatī’’ti.
Fear arising from the fearless cuts even the roots."
Sợ hãi từ chỗ không sợ, có thể cắt đứt gốc rễ.”
271
Tattha abhayā bhayamuppannanti na ito te bhayamuppannanti abhayo, ko so?
Therein, abhayā bhayamuppannaṃ means "fear arising from the fearless"—who is that fearless one? A friend.
Ở đây, abhayā bhayamuppannaṃ có nghĩa là nỗi sợ hãi phát sinh từ chỗ không sợ, đó là ai?
Mitto.
A friend.
Là bạn bè.
Yañhi mittasmimpi vissāse sati tato bhayaṃ uppajjati, taṃ mūlānipi kantati, mittassa sabbarandhānaṃ viditattā mūlaghaccāya saṃvattatīti attho.
For when there is trust even in a friend, and fear arises from that, it cuts even the roots, meaning that because all the friend's weak points are known, it leads to utter destruction.
Khi có sự tin tưởng vào bạn bè mà từ đó nỗi sợ hãi phát sinh, thì điều đó cắt đứt cả gốc rễ, nghĩa là dẫn đến sự hủy diệt tận gốc vì biết được tất cả những điểm yếu của bạn bè.
272
Atha naṃ bodhisatto ‘‘mā bhāyi, yathā sappo tayi na dubbhati, evamahaṃ karissāmi, tvaṃ ito paṭṭhāya tasmiṃ āsaṅkaṃ mā karī’’ti ovaditvā cattāro brahmavihāre bhāvetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
Then the Bodhisatta advised him, "Do not fear; I will make sure the snake does not harm you. From now on, do not harbor suspicion towards it," and having cultivated the four Brahmavihāras, he became destined for the Brahma-world.
Bấy giờ, Bồ Tát khuyên răn nó: “Đừng sợ hãi, Ta sẽ làm cho con rắn không làm hại ngươi. Từ nay trở đi, ngươi đừng nghi ngờ nó nữa,” rồi Ngài tu tập bốn pháp vô lượng tâm và tái sinh vào cõi Phạm thiên.
Tepi yathākammaṃ gatā.
They too went according to their kamma.
Cả hai con vật đó cũng đã đi theo nghiệp của chúng.
273
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā sappo ca nakulo ca ime dve mahāmattā ahesuṃ, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the snake and the mongoose were these two great ministers, and the ascetic was I myself."
Bậc Đạo Sư, sau khi kể pháp thoại này, đã kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, con rắn và con chồn mangut chính là hai vị đại thần này, còn vị ẩn sĩ chính là Ta vậy.”
274
Nakulajātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth Story: The Mongoose Jātaka.
Câu chuyện Nakula Jātaka, thứ năm, đã hoàn tất.
275
* 6. Upasāḷakajātakavaṇṇanā
* 6. The Story of Upasāḷaka
* 6. Câu chuyện Upasāḷaka Jātaka
276
Upasāḷakanāmānīti idaṃ satthā veḷuvane viharanto ekaṃ upasāḷakaṃ nāma susānasuddhikaṃ brāhmaṇaṃ ārabbha kathesi.
Upasāḷakanāmānī (named Upasāḷaka): This the Teacher related while dwelling at Veḷuvana, concerning a brahmin named Upasāḷaka who frequented charnel grounds.
Upasāḷakanāmānī (Tên là Upasāḷaka) — câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể khi Ngài trú tại Veḷuvana, liên quan đến một Bà La Môn tên là Upasāḷaka, người chuyên lo việc hỏa táng ở nghĩa địa.
So kira aḍḍho ahosi mahaddhano, diṭṭhigatikattā pana dhuravihāre vasantānampi buddhānaṃ saṅgahaṃ nāma na akāsi.
He was said to be wealthy and rich, but due to his adherence to wrong views, he did not provide support even for the Buddhas residing in the monasteries.
Nghe nói, ông ta là một người giàu có, nhưng vì có tà kiến nên không cúng dường chư Phật đang trú tại các tu viện.
Putto panassa paṇḍito ahosi ñāṇasampanno.
But his son was wise and endowed with knowledge.
Tuy nhiên, con trai ông ta là một người thông minh và có trí tuệ.
So mahallakakāle puttaṃ āha – ‘‘mā kho maṃ, tāta, aññassa vasalassa jhāpitasusāne jhāpehi, ekasmiṃ pana anucchiṭṭhasusāneyeva maṃ jhāpeyyāsī’’ti.
When he was old, he said to his son, "My dear son, do not cremate me in a cemetery where another outcast has been cremated. Rather, you should cremate me in a cemetery that has not been used by anyone else."
Khi về già, ông ta nói với con trai: “Này con, đừng hỏa táng cha ở nghĩa địa đã được hỏa táng bởi những người thấp kém khác, mà hãy hỏa táng cha ở một nghĩa địa chưa từng bị ô uế.”
‘‘Tāta, ahaṃ tumhākaṃ jhāpetabbayuttakaṃ ṭhānaṃ na jānāmi, sādhu vata maṃ ādāya gantvā ‘imasmiṃ ṭhāne maṃ jhāpeyyāsī’ti tumheva ācikkhathā’’ti.
"Father, I do not know a suitable place for you to be cremated. Please, take me and go, and you yourself point out, 'Cremate me in this place.'"
Người con trai nói: “Thưa cha, con không biết nơi nào thích hợp để hỏa táng cha. Tốt hơn là cha hãy cùng con đi, và tự chỉ cho con biết: ‘Hãy hỏa táng cha ở nơi này’.”
Brāhmaṇo ‘‘sādhu, tātā’’ti taṃ ādāya nagarā nikkhamitvā gijjhakūṭamatthakaṃ abhiruhitvā ‘‘tāta, idaṃ aññassa vasalassa ajhāpitaṭṭhānaṃ, ettha maṃ jhāpeyyāsī’’ti vatvā puttena saddhiṃ pabbatā otarituṃ ārabhi.
The brahmin said, "Very well, my son," and taking him, left the city, ascended to the summit of Gijjhakūṭa, and said, "My son, this is a place where no other outcast has been cremated. Cremate me here." Having said this, he began to descend the mountain with his son.
Bà La Môn nói: “Được thôi, con trai,” rồi cùng con trai rời thành phố, leo lên đỉnh Gijjhakūṭa và nói: “Này con, đây là nơi chưa từng bị hỏa táng bởi những người thấp kém khác, hãy hỏa táng cha ở đây.” Sau đó, ông ta cùng con trai bắt đầu xuống núi.
277
Satthā pana taṃ divasaṃ paccūsakāle bodhaneyyabandhave olokento tesaṃ pitāputtānaṃ sotāpattimaggassa upanissayaṃ addasa.
Now, on that day, in the early morning, the Teacher, looking upon those to be awakened, saw the supporting condition for the Stream-entry path of that father and son.
Vào buổi sáng hôm đó, Bậc Đạo Sư, khi quán sát những chúng sinh có thể được giác ngộ, đã thấy nhân duyên chứng quả Nhập Lưu của hai cha con họ.
Tasmā maggaṃ gahetvā ṭhitaluddako viya pabbatapādaṃ gantvā tesaṃ pabbatamatthakā otarantānaṃ āgamayamāno nisīdi, te otarantā satthāraṃ addasaṃsu.
Therefore, like a hunter standing on the path, he went to the foot of the mountain and sat down, waiting for them as they descended from the mountain summit. As they descended, they saw the Teacher.
Vì vậy, Ngài đi đến chân núi, giống như một người thợ săn đang đứng chờ trên đường, và ngồi đợi họ đang xuống núi. Khi họ xuống, họ đã nhìn thấy Bậc Đạo Sư.
Satthā paṭisanthāraṃ karonto ‘‘kahaṃ gamissatha brāhmaṇā’’ti pucchi.
The Teacher, exchanging greetings, asked, "Where are you going, brahmins?"
Bậc Đạo Sư chào hỏi và hỏi: “Này các Bà La Môn, các ông sẽ đi đâu?”
Māṇavo tamatthaṃ ārocesi.
The young man reported the matter.
Chàng thanh niên đã kể lại sự việc.
Satthā ‘‘tena hi ehi, tava pitarā ācikkhitaṭṭhānaṃ gacchāmā’’ti ubho pitāputte gahetvā pabbatamatthakaṃ āruyha ‘‘kataraṃ ṭhāna’’nti pucchi.
The Teacher said, "Then come, let us go to the place pointed out by your father," and taking both father and son, he ascended to the mountain summit and asked, "Which place is it?"
Bậc Đạo Sư nói: “Vậy thì hãy đến đây, chúng ta hãy đi đến nơi mà cha ngươi đã chỉ.” Ngài dẫn hai cha con lên đỉnh núi và hỏi: “Nơi nào?”
Māṇavo ‘‘imesaṃ tiṇṇaṃ pabbatānaṃ antaraṃ ācikkhi, bhante’’ti āha.
The young man said, "He pointed out the space between these three mountains, Venerable Sir."
Chàng thanh niên nói: “Bạch Thế Tôn, cha con đã chỉ khu vực giữa ba ngọn núi này.”
Satthā ‘‘na kho, māṇava, tava pitā idāneva susānasuddhiko, pubbepi susānasuddhikova, na cesa idāneva ‘imasmiṃ ṭhāne maṃ jhāpeyyāsī’ti tava ācikkhati, pubbepi imasmiṃyeva ṭhāne attano jhāpitabhāvaṃ ācikkhī’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Indeed, young man, your father is not pure regarding cemeteries only now; he was pure regarding cemeteries even in the past. Nor does he point out to you 'Cremate me in this place' only now; even in the past, he pointed out his own cremation in this very place." Having said this, when requested by him, he related a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Này thanh niên, cha con không phải chỉ bây giờ mới tìm nơi nghĩa địa thanh tịnh, mà trước kia cũng là người tìm nơi nghĩa địa thanh tịnh. Và ông ấy không phải chỉ bây giờ mới bảo con 'Hãy hỏa táng ta ở nơi này', mà trước kia cũng đã từng nói về việc hỏa táng mình ở chính nơi này." Nói xong, khi được thanh niên ấy thỉnh cầu, Ngài đã kể lại chuyện quá khứ.
278
Atīte imasmiññeva rājagahe ayameva upasāḷako brāhmaṇo ayamevassa putto ahosi.
In the past, in this very Rājagaha, this very brahmin Upasāḷaka was his son.
Trong quá khứ, chính tại vương thành Rājagaha này, vị Bà-la-môn Upasāḷaka này chính là người cha, và người con trai này chính là con của ông ta.
Tadā bodhisatto magadharaṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā paripuṇṇasippo isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā jhānakīḷaṃ kīḷanto himavantapadese ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya gijjhakūṭe paṇṇasālāyaṃ vihāsi.
At that time, the Bodhisatta, born into a brahmin family in the kingdom of Magadha, having mastered all arts, renounced the world as an ascetic, developed supernormal powers and attainments, and, delighting in jhāna, lived for a long time in the Himavanta region. Then, for the purpose of consuming salt and sour foods, he resided in a leaf hut on Gijjhakūṭa.
Vào thời đó, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở xứ Magadha, sau khi thành thạo mọi nghề nghiệp, Ngài xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định, an trú trong niềm vui thiền định. Ngài đã sống lâu ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, rồi đến Gijjhakūṭa để dùng muối và chua, sống trong một túp lều lá.
Tadā so brāhmaṇo imināva niyāmena puttaṃ vatvā puttena ‘‘tumheyeva me tathārūpaṃ ṭhānaṃ ācikkhathā’’ti vutte ‘‘idameva ṭhāna’’nti ācikkhitvā puttena saddhiṃ otaranto bodhisattaṃ disvā tassa santikaṃ upasaṅkami.
At that time, that brahmin, in this very manner, spoke to his son, and when the son said, "You yourself point out such a place to me," he pointed out, "This is the place." As he descended with his son, he saw the Bodhisatta and approached him.
Vào thời đó, vị Bà-la-môn kia cũng theo cách tương tự, nói với con trai mình. Khi người con trai nói: "Xin cha hãy chỉ cho con một nơi như vậy", ông ta đã chỉ "Chính nơi này đây!" Rồi khi đang cùng con trai đi xuống, ông ta nhìn thấy Bồ-tát và đến gần Ngài.
Bodhisatto imināva niyāmena pucchitvā māṇavassa vacanaṃ sutvā ‘‘ehi, tava pitarā ācikkhitaṭṭhānassa ucchiṭṭhabhāvaṃ vā anucchiṭṭhabhāvaṃ vā jānissāmā’’ti tehi saddhiṃ pabbatamatthakaṃ āruyha ‘‘idaṃ tiṇṇaṃ pabbatānaṃ antaraṃ anucchiṭṭhaṭṭhāna’’nti māṇavena vutte ‘‘māṇava, imasmiṃyeva ṭhāne jhāpitakānaṃ pamāṇaṃ natthi, taveva pitā imasmiṃyeva rājagahe brāhmaṇakuleyeva nibbattitvā upasāḷakoyeva nāma hutvā imasmiṃyeva pabbatantare cuddasa jātisahassāni jhāpito.
The Bodhisatta, in this very manner, asked questions and, hearing the young man's words, said, "Come, we shall know whether the place pointed out by your father is used or unused." Ascending to the mountain summit with them, when the young man said, "This space between the three mountains is an unused place," the Bodhisatta said, "Young man, there is no limit to those who have been cremated in this very place. Your own father, born in this very Rājagaha, in a brahmin family, and named Upasāḷaka, has been cremated fourteen thousand times in this very mountain pass.
Bồ-tát cũng theo cách tương tự, hỏi han, và sau khi nghe lời của thanh niên, Ngài nói: "Này con, hãy đến đây, chúng ta sẽ biết được nơi mà cha con đã chỉ là nơi đã từng được hỏa táng hay chưa từng được hỏa táng." Cùng với hai cha con, Ngài lên đỉnh núi và khi thanh niên nói: "Khoảng giữa ba ngọn núi này là nơi chưa từng được hỏa táng," Bồ-tát nói: "Này thanh niên, ở chính nơi này, số người đã được hỏa táng là vô số. Chính cha con đây, đã tái sinh trong gia đình Bà-la-môn ở chính Rājagaha này, mang tên Upasāḷaka, và đã được hỏa táng ở chính khoảng giữa các ngọn núi này trong mười bốn ngàn kiếp.
Pathaviyañhi ajhāpitaṭṭhānaṃ vā asusānaṭṭhānaṃ vā sīsānaṃ anivesitaṭṭhānaṃ vā laddhuṃ na sakkā’’ti pubbenivāsañāṇena paricchinditvā imaṃ gāthādvayamāha –
Indeed, on earth, it is impossible to find a place that has not been cremated, or a place that is not a cemetery, or a place where heads have not been laid." Having discerned this with his knowledge of past existences, he spoke these two verses:
Thật vậy, trên trái đất này, không thể tìm thấy một nơi nào chưa từng được hỏa táng, hay không phải là nghĩa địa, hay không phải là nơi đầu người đã từng được chôn cất." Sau khi quán xét bằng Túc mạng trí, Ngài đã nói hai câu kệ này:
279
31.
31.
31.
280
‘‘Upasāḷakanāmāni, sahassāni catuddasa;
Fourteen thousand individuals named Upasāḷaka
Mười bốn ngàn người tên Upasāḷaka,
281
Asmiṃ padese daḍḍhāni, natthi loke anāmataṃ.
have been burned in this place. There is no place in the world that is not a charnel ground.
Đã được hỏa táng ở nơi này; không có nơi nào trên thế gian này không phải là nơi chết.
282
32.
32.
32.
283
‘‘Yamhi saccañca dhammo ca, ahiṃsā saṃyamo damo;
Where there is truth and Dhamma, non-violence, restraint, and self-control,
Nơi nào có chân lý và Chánh pháp, có bất hại, có tự chế, có điều phục,
284
Etaṃ ariyā sevanti, etaṃ loke anāmata’’nti.
that is what the noble ones frequent; that is the deathless in the world.
Đó là nơi các bậc Thánh nhân nương tựa, đó là sự bất tử trên thế gian này.
285
Tattha anāmatanti mataṭṭhānaṃ.
Here, anāmata means a place of death.
Trong đó, anāmata có nghĩa là nơi chết. Từ này được gọi là "amata" (bất tử) theo nghĩa ẩn dụ, nhưng để phủ định điều đó, Ngài nói "anāmata".
Tañhi upacāravasena ‘‘amata’’nti vuccati, taṃ paṭisedhento ‘‘anāmata’’nti āha.
It is called "amata" (deathless) by way of figure of speech, but by refuting it, he says "anāmata".
Cũng có bản đọc là "anamata". Ý nghĩa là không có nơi nào trên thế gian này không phải là nơi chết, không phải là nghĩa địa.
‘‘Anamata’’ntipi pāṭho, lokasmiñhi anamataṭṭhānaṃ asusānaṃ nāma natthīti attho.
"Anamata" is also a reading, meaning there is no place in the world that is not a cemetery.
Yamhi saccañca dhammo cāti: nơi nào có sự hiểu biết về chân lý làm nền tảng cho Tứ Thánh Đế, là phần trước của Chân lý, và có Pháp siêu thế (lokuttaradhamma).
Yamhi saccañca dhammo cāti yasmiṃ puggale catusaccavatthukaṃ pubbabhāgasaccañāṇañca lokuttaradhammo ca atthi.
Yamhi saccañca dhammo cāti means in which person there is the knowledge of truth pertaining to the four noble truths, and the supramundane Dhamma.
Ahiṃsāti: sự không làm hại, không gây tổn thương cho người khác.
Ahiṃsāti paresaṃ avihesā aviheṭhanā.
Non-harming means not harming or molesting others.
Saṃyamoti: sự tự chế về giới luật (sīlasaṃyamo).
Saṃyamoti sīlasaṃyamo.
Restraint means moral restraint.
Damoti: sự điều phục các căn (indriyadamanaṃ).
Damoti indriyadamanaṃ.
Taming means taming the faculties.
Và phẩm chất này, nơi người nào có, etaṃ ariyā sevantīti: các bậc Thánh, tức là các vị Phật, các vị Độc Giác Phật và các đệ tử của Phật, nương tựa nơi đó, tức là đến gần và phụng sự người có phẩm chất như vậy.
Idañca guṇajātaṃ yamhi puggale atthi, etaṃ ariyā sevantīti, ariyā buddhā ca paccekabuddhā ca buddhasāvakā ca etaṃ ṭhānaṃ sevanti, evarūpaṃ puggalaṃ upasaṅkamanti bhajantīti attho.
And this collection of virtues, in whichever person it exists— this the noble ones frequent—meaning, the noble ones, the Buddhas, the Paccekabuddhas, and the disciples of the Buddha, frequent this state, approach and associate with such a person.
Etaṃ loke anāmatanti: phẩm chất này được gọi là anāmata trên thế gian vì nó dẫn đến trạng thái bất tử.
Etaṃ loke anāmatanti etaṃ guṇajātaṃ loke amatabhāvasādhanato anāmataṃ nāma.
This is immortal in the world—this collection of virtues is called "immortal" in the world because it leads to the state of immortality.
Bồ-tát đã thuyết pháp cho hai cha con như vậy, tu tập Tứ Vô Lượng Tâm, và đã tái sinh vào cõi Phạm thiên.
286
Evaṃ bodhisatto pitāputtānaṃ dhammaṃ desetvā cattāro brahmavihāre bhāvetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
Thus, the Bodhisatta, having taught the Dhamma to the father and son, and having cultivated the four Brahmavihāras, became destined for the Brahma world.
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này, tuyên bố các Thánh đế, và kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi kết thúc việc tuyên bố các Thánh đế, cả hai cha con đều an trú vào quả vị Dự Lưu.
287
Satthā imaṃ dhammaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ubho pitāputtā sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma and revealed the Noble Truths, connected the Jātaka; at the conclusion of the Truths, both the father and son were established in the fruit of stream-entry.
"Hai cha con thời đó chính là hai cha con hiện tại; còn vị đạo sĩ chính là Ta vào thời đó."
‘‘Tadā pitāputtāva etarahi pitāputtā ahesuṃ, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
"The father and son of that time are the father and son of the present; but the ascetic was I myself."
"Lúc đó, cha và con là cha và con bây giờ, còn vị đạo sĩ chính là Ta."
288
Upasāḷakajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth, Upasāḷaka Jātaka, is concluded.
Chuyện Upasāḷaka Jātaka thứ sáu.
289
* 7. Samiddhijātakavaṇṇanā
* 7. Samiddhi Jātaka
* 7. Chuyện Samiddhi Jātaka
290
Abhutvā bhikkhasi bhikkhūti idaṃ satthā rājagahaṃ upanissāya tapodārāme viharanto samiddhitheraṃ ārabbha kathesi.
"Having not enjoyed, you beg, O bhikkhu"—the Teacher, dwelling in the Tapodārāma near Rājagaha, spoke this in reference to Thera Samiddhi.
Abhutvā bhikkhasi bhikkhū (Này Tỳ-kheo, chưa hưởng thụ mà khất thực) — câu này Đức Bổn Sư đã nói khi Ngài đang trú tại Tapodārāma gần Rājagaha, liên quan đến Trưởng lão Samiddhi.
Ekadivasañhi āyasmā samiddhi sabbarattiṃ padhānaṃ padahitvā aruṇuggamanavelāya nhatvā suvaṇṇavaṇṇaṃ attabhāvaṃ sukkhāpayamāno antaravāsakaṃ nivāsetvā uttarāsaṅgaṃ hatthena gahetvā aṭṭhāsi suparikammakatā viya suvaṇṇapaṭimā.
One day, Venerable Samiddhi, having exerted himself in striving throughout the night, bathed at dawn, and while drying his golden-hued body, put on his inner robe and stood holding his outer robe in his hand, like a well-crafted golden statue.
Một ngày nọ, Tôn giả Samiddhi đã tinh tấn suốt đêm, vào lúc rạng đông, Ngài tắm rửa, sau đó đứng phơi khô thân thể có màu vàng óng, mặc y antaravāsaka, tay cầm y uttarāsaṅga, như một pho tượng vàng được chế tác tinh xảo.
Attabhāvasamiddhiyāyeva hissa ‘‘samiddhī’’ti nāmaṃ ahosi.
Indeed, due to the perfection of his body, his name was "Samiddhi."
Chính vì sự huy hoàng của thân thể mà Ngài có tên là Samiddhi.
Athassa sarīrasobhaggaṃ disvā ekā devadhītā paṭibaddhacittā theraṃ evamāha – ‘‘tvaṃ khosi, bhikkhu, daharo yuvā susu kāḷakeso bhadrena yobbanena samannāgato abhirūpo dassanīyo pāsādiko, evarūpassa tava kāme aparibhuñjitvā ko attho pabbajjāya, kāme tāva paribhuñjassu, pacchā pabbajitvā samaṇadhammaṃ karissasī’’ti.
Then, seeing the beauty of his body, a certain female deity, her mind captivated, spoke to the thera thus: "Indeed, O bhikkhu, you are young, youthful, with beautiful dark hair, endowed with excellent youth, handsome, pleasing to the eye, and inspiring confidence. What is the purpose of your ordination, such as you are, without enjoying sensual pleasures? First, enjoy sensual pleasures, then later, having ordained, you can practice the ascetic life."
Lúc đó, một vị thiên nữ nhìn thấy vẻ đẹp thân thể của Ngài, tâm sinh quyến luyến, bèn nói với Trưởng lão như sau: "Này Tỳ-kheo, Ngài còn trẻ, thanh xuân, tóc đen nhánh, đầy sức sống tươi trẻ, xinh đẹp, dễ nhìn, đáng kính. Ngài xuất gia mà không hưởng thụ các dục lạc thì có ích gì? Trước hết, hãy hưởng thụ các dục lạc, sau đó hãy xuất gia và thực hành đời sống Sa-môn."
Atha naṃ thero āha – ‘‘devadhīte, ‘asukasmiṃ nāma vaye ṭhito marissāmī’ti mama maraṇakālaṃ na jānāmi, esa me kālo paṭicchanno, tasmā taruṇakāleyeva samaṇadhammaṃ katvā dukkhassantaṃ karissāmī’’ti.
Then the thera said to her: "O female deity, I do not know the time of my death, saying, 'I shall die at such and such an age.' This time is hidden from me. Therefore, I will practice the ascetic life while young and make an end of suffering."
Bấy giờ, Trưởng lão nói với vị thiên nữ: "Này thiên nữ, tôi không biết thời điểm cái chết của mình, rằng 'Tôi sẽ chết ở tuổi nào đó.' Thời gian đó đối với tôi bị che giấu. Vì vậy, tôi sẽ thực hành đời sống Sa-môn ngay khi còn trẻ để chấm dứt khổ đau."
Sā therassa santikā paṭisanthāraṃ alabhitvā tattheva antaradhāyi.
She, not receiving a friendly greeting from the thera, vanished right there.
Vị thiên nữ đó không nhận được sự đáp lại từ Trưởng lão, liền biến mất ngay tại đó.
Thero satthāraṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ ārocesi.
The thera approached the Teacher and reported this matter.
Trưởng lão đến gặp Đức Bổn Sư và trình bày sự việc này.
Satthā ‘‘na kho, samiddhi, tvaññeva etarahi devadhītāya palobhito, pubbepi devadhītaro pabbajite palobhiṃsuyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Indeed, Samiddhi, it is not only now that you have been enticed by a female deity; in the past too, female deities enticed ascetics," and being requested by him, related a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Này Samiddhi, không phải chỉ bây giờ con mới bị thiên nữ quyến rũ, mà trước kia các thiên nữ cũng đã từng quyến rũ các đạo sĩ." Nói xong, khi được Trưởng lão thỉnh cầu, Ngài đã kể lại chuyện quá khứ.
291
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ kāsigāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto sabbasippesu nipphattiṃ patvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā himavantapadese ekaṃ jātassaraṃ nissāya vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a Kāsī village. Having come of age, he mastered all arts, then took up the ascetic life of a sage, developed supernormal powers and attainments, and made his abode near a natural lake in the Himavanta region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng xứ Kāsī. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài thành thạo mọi nghề nghiệp, từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định, rồi an trú gần một hồ sen ở vùng Hy Mã Lạp Sơn.
So sabbarattiṃ padhānaṃ padahitvā aruṇuggamanavelāya nhatvā ekaṃ vakkalaṃ nivāsetvā ekaṃ hatthena gahetvā sarīraṃ vodakaṃ karonto aṭṭhāsi.
He, having exerted himself in striving throughout the night, bathed at dawn, put on a bark garment, and stood holding one in his hand, drying his body.
Ngài đã tinh tấn suốt đêm, vào lúc rạng đông, Ngài tắm rửa, mặc một chiếc vỏ cây, tay cầm một chiếc khác, đứng làm khô thân thể mình.
Athassa rūpasobhaggappattaṃ attabhāvaṃ oloketvā paṭibaddhacittā ekā devadhītā bodhisattaṃ palobhayamānā paṭhamaṃ gāthamāha –
Then, a certain female deity, seeing his body which had attained beauty, and her mind captivated, enticed the Bodhisatta and spoke the first verse:
Lúc đó, một vị thiên nữ nhìn thấy thân thể Ngài đạt đến vẻ đẹp rạng rỡ, tâm sinh quyến luyến, bèn quyến rũ Bồ-tát và nói câu kệ thứ nhất:
292
33.
33.
33.
293
‘‘Abhutvā bhikkhasi bhikkhu, na hi bhutvāna bhikkhasi;
"Having not enjoyed, you beg, O bhikkhu, for you do not beg having enjoyed;
Này Tỳ-kheo, chưa hưởng thụ mà khất thực, không phải hưởng thụ rồi mới khất thực;
294
Bhutvāna bhikkhu bhikkhassu, mā taṃ kālo upaccagā’’ti.
Having enjoyed, O bhikkhu, you should beg, lest time pass you by."
Này Tỳ-kheo, hãy hưởng thụ rồi khất thực, đừng để thời gian trôi qua con.
295
Tattha abhutvā bhikkhasi bhikkhūti bhikkhu tvaṃ daharakāle kilesakāmavasena vatthukāme abhutvāva bhikkhāya carasi.
Therein, "Having not enjoyed, you beg, O bhikkhu" means, O bhikkhu, you wander for alms in your youth, without having enjoyed material sensual pleasures in terms of defilement-sensual pleasures.
Trong đó, abhutvā bhikkhasi bhikkhū (Này Tỳ-kheo, chưa hưởng thụ mà khất thực) có nghĩa là: Này Tỳ-kheo, con còn trẻ, chưa hưởng thụ các dục lạc vật chất theo kiểu dục vọng, mà đã đi khất thực.
Na hi bhutvāna bhikkhasīti nanu nāma pañca kāmaguṇe bhutvā bhikkhāya caritabbaṃ, kāme abhutvāva bhikkhācariyaṃ upagatosi.
"For you do not beg having enjoyed" means, should one not wander for alms after having enjoyed the five strands of sensual pleasure? You have resorted to alms-wandering without having enjoyed sensual pleasures.
Na hi bhutvāna bhikkhasīti (không phải hưởng thụ rồi mới khất thực): Chẳng phải nên hưởng thụ năm dục lạc rồi mới đi khất thực sao? Con đã đi khất thực mà chưa hưởng thụ các dục lạc.
Bhutvāna bhikkhu bhikkhassūti bhikkhu daharakāle tāva kāme bhuñjitvā pacchā mahallakakāle bhikkhassu.
"Having enjoyed, O bhikkhu, you should beg" means, O bhikkhu, first enjoy sensual pleasures in your youth, then later, in old age, you should beg.
Bhutvāna bhikkhu bhikkhassūti (Này Tỳ-kheo, hãy hưởng thụ rồi khất thực): Này Tỳ-kheo, trước hết hãy hưởng thụ các dục lạc khi còn trẻ, sau đó hãy khất thực khi đã già.
Mā taṃ kālo upaccagāti ayaṃ kāme bhuñjanakālo daharakālo, taṃ mā atikkamatūti.
"Lest time pass you by" means, this time for enjoying sensual pleasures is youth; let it not pass you by.
Mā taṃ kālo upaccagāti (đừng để thời gian trôi qua con): Thời gian để hưởng thụ các dục lạc là tuổi trẻ, đừng để nó trôi qua con.
296
Bodhisatto devatāya vacanaṃ sutvā attano ajjhāsayaṃ pakāsento dutiyaṃ gāthamāha –
Having heard the deity's words, the Bodhisatta, revealing his own intention, spoke the second verse:
Bồ-tát nghe lời của vị thiên nữ, bày tỏ ý chí của mình, và nói câu kệ thứ hai:
297
34.
34.
34.
298
‘‘Kālaṃ vohaṃ na jānāmi, channo kālo na dissati;
“I do not know the time; the hidden time is not seen;
Ta không biết thời gian, thời gian bị che giấu không thể thấy;
299
Tasmā abhutvā bhikkhāmi, mā maṃ kālo upaccagā’’ti.
Therefore, I beg without enjoying, lest time should pass me by.”
Vì thế, chưa hưởng thụ ta khất thực, đừng để thời gian trôi qua ta.
300
Tattha kālaṃ vohaṃ na jānāmīti voti nipātamattaṃ.
Therein, kālaṃ vohaṃ na jānāmi means vo is merely a particle.
Trong đó, kālaṃ vohaṃ na jānāmīti: vo chỉ là một tiểu từ.
Ahaṃ pana ‘‘paṭhamavaye vā mayā maritabbaṃ majjhimavaye vā pacchimavaye vā’’ti evaṃ attano maraṇakālaṃ na jānāmi.
But I do not know the time of my death, whether I am to die in the first stage of life, the middle stage, or the last stage.
Còn tôi, tôi không biết thời điểm cái chết của mình, rằng "Tôi sẽ chết ở tuổi đầu, tuổi trung niên hay tuổi già."
Paṇḍitena hi puggalena –
For by a wise person, it is said:
Một người trí tuệ đã nói:
301
‘‘Jīvitaṃ byādhi kālo ca, dehanikkhepanaṃ gati;
“Life, sickness, and time, the laying down of the body, and the destination;
"Sự sống, bệnh tật, thời gian,
302
Pañcete jīvalokasmiṃ, animittā na nāyare’’ti.
These five in the world of living beings are unindicated and unknown.”
Sự vứt bỏ thân thể, và cõi tái sinh;
303
Channo kālo na dissatīti yasmā ‘‘asukasmiṃ nāma vayakāle hemantādiutukāle vā mayā maritabba’’nti mayhampesa channo hutvā kālo na dissati, suppaṭicchanno hutvā ṭhito na paññāyati.
Channo kālo na dissatīti: because this time is hidden from me, it is not seen, it is well-concealed and not manifest, as in "I am to die in such-and-such an age or in such-and-such a season like winter, etc."
Năm điều này trong thế giới chúng sinh, không có dấu hiệu, không thể biết được." Channo kālo na dissatīti: Vì vậy, thời gian đối với tôi bị che giấu và không thể thấy được, rằng "Tôi sẽ chết ở tuổi nào hoặc vào mùa nào trong năm (như mùa đông, v.v.)." Nó bị che giấu kỹ lưỡng và không thể nhận ra. Tasmā abhutvā bhikkhāmīti: Vì lý do đó, tôi khất thực mà chưa hưởng thụ năm dục lạc. Mā maṃ kālo upaccagāti: Ý nghĩa là đừng để thời gian thực hành đời sống Sa-môn trôi qua tôi. Vì lý do này, tôi xuất gia và thực hành đời sống Sa-môn ngay khi còn trẻ. Vị thiên nữ nghe lời của Bồ-tát, liền biến mất ngay tại đó.
Tasmā abhutvā bhikkhāmīti tena kāraṇena pañca kāmaguṇe abhutvā bhikkhāmi.
Tasmā abhutvā bhikkhāmīti: for that reason, I beg without enjoying the five sense pleasures.
Tasmā abhutvā bhikkhāmīti – Vì lý do đó, Ta khất thực mà không hưởng thụ năm dục lạc.
Mā maṃ kālo upaccagāti maṃ samaṇadhammakaraṇakālo mā atikkamatūti attho.
Mā maṃ kālo upaccagāti: the meaning is, "May the time for practicing the ascetic life not pass me by."
Mā maṃ kālo upaccagāti – nghĩa là: thời gian thực hành pháp Sa-môn chớ vượt qua Ta.
Iminā kāraṇena daharova samāno pabbajitvā samaṇadhammaṃ karomīti.
For this reason, I will go forth while still young and practice the ascetic life.
Vì lý do này, Ta xuất gia khi còn trẻ và thực hành pháp Sa-môn.
Devadhītā bodhisattassa vacanaṃ sutvā tattheva antaradhāyi.
Having heard the Bodhisatta's words, the daughter of the devas vanished right there.
Devadhītā nghe lời của Bồ-tát, liền biến mất tại chỗ.
304
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā devadhītā ayaṃ devadhītā ahosi, ahameva tena samayena tāpaso ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, that daughter of the devas was this daughter of the devas; I myself was the ascetic at that time.”
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: "Vị thiên nữ thời đó chính là vị thiên nữ này; còn Ta vào thời đó chính là vị đạo sĩ."
305
Samiddhijātakavaṇṇanā sattamā.
The Description of the Samiddhi Jātaka, the seventh.
Chuyện Samiddhi Jātaka thứ bảy.
306
* 8. Sakuṇagghijātakavaṇṇanā
* 8. The Description of the Sakuṇagghi Jātaka
* 8. Chuyện Sakuṇagghi Jātaka
307
Seno balasā patamānoti idaṃ satthā jetavane viharanto attajjhāsayaṃ sakuṇovādasuttaṃ (saṃ. ni. 5.372) ārabbha kathesi.
Seno balasā patamāno (A hawk swooping down with force) – The Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this in reference to the Sakuṇovāda Sutta (Saṃ. Ni. 5.372) concerning his own intention.
Seno balasā patamānoti – Đức Thế Tôn đã thuyết bài kinh này ở Jetavana, liên quan đến Kinh Chim Ưng và Chim Cút (Saṃ. Ni. 5.372) theo ý Ngài.
Ekadivasañhi satthā bhikkhū āmantetvā ‘‘gocare, bhikkhave, caratha sake pettike visaye’’ti (saṃ. ni. 5.372) imaṃ saṃyuttamahāvagge suttantaṃ kathento ‘‘tumhe tāva tiṭṭhatha, pubbe tiracchānagatāpi sakaṃ pettikavisayaṃ pahāya agocare carantā paccāmittānaṃ hatthapathaṃ gantvāpi attano paññāsampattiyā upāyakosallena paccāmittānaṃ hatthā mucciṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
One day, the Teacher, addressing the bhikkhus, spoke this Sutta from the Saṃyutta Mahāvagga, saying, “Bhikkhus, graze in your own ancestral domain,” and then, “You stand here; but formerly, even animals, abandoning their own ancestral domain and grazing in unfamiliar territory, even when they fell into the hands of their enemies, escaped from their enemies' grasp through their wisdom and skillful means,” and then he recounted a past event.
Một ngày nọ, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo và nói: "Này các Tỳ-kheo, hãy đi trong cảnh giới của mình, trong lãnh vực gia truyền của mình" (Saṃ. Ni. 5.372). Khi thuyết bài kinh này trong Saṃyutta Mahāvagga, Ngài nói: "Các ông hãy đứng đó, ngay cả những loài vật trước đây, khi từ bỏ cảnh giới gia truyền của mình mà đi vào cảnh giới không phải của mình, dù đã rơi vào tay kẻ thù, nhưng nhờ trí tuệ và sự khéo léo của mình, chúng đã thoát khỏi tay kẻ thù." Sau đó, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
308
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto lāpasakuṇayoniyaṃ nibbattitvā naṅgalakaṭṭhakaraṇe leḍḍuṭṭhāne vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn as a quail and made his dwelling in a clod of earth in a ploughed field.
Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh làm một con chim cút và sống ở nơi cày ruộng hoặc nơi có những cục đất.
So ekadivasaṃ ‘‘sakavisaye gocaragahaṇaṃ pahāya paravisaye gocaraṃ gaṇhissāmī’’ti aṭavipariyantaṃ agamāsi.
One day, he thought, “I will abandon grazing in my own domain and graze in another's domain,” and went to the edge of a forest.
Một ngày nọ, Ngài nghĩ: "Ta sẽ từ bỏ việc kiếm ăn trong lãnh vực của mình mà đi kiếm ăn trong lãnh vực của kẻ khác," rồi đi đến rìa rừng.
Atha naṃ tattha gocaraṃ gaṇhantaṃ disvā sakuṇagghi sahasā ajjhappattā aggahesi.
Then, a hawk, seeing him grazing there, suddenly swooped down and seized him.
Khi chim ưng thấy Ngài đang kiếm ăn ở đó, nó liền lao xuống và bắt lấy Ngài.
So sakuṇagghiyā hariyamāno evaṃ paridevasi – ‘‘mayamevamha alakkhikā, mayaṃ appapuññā, ye mayaṃ agocare carimha paravisaye, sacejja mayaṃ gocare careyyāma sake pettike visaye, na myāyaṃ sakuṇagghi alaṃ abhavissa yadidaṃ yuddhāyā’’ti.
As he was being carried away by the hawk, he lamented thus: “We are indeed unfortunate, we are of little merit, we who grazed in unfamiliar territory, in another's domain. If only we had grazed in our own ancestral domain, this hawk would not have been able to contend with me.”
Khi bị chim ưng tha đi, Ngài than thở: "Chúng ta thật bất hạnh, chúng ta ít phước báu, vì chúng ta đã đi kiếm ăn trong cảnh giới không phải của mình, trong lãnh vực của kẻ khác. Nếu hôm nay chúng ta kiếm ăn trong cảnh giới của mình, trong lãnh vực gia truyền của mình, thì con chim ưng này đã không thể làm gì được chúng ta trong cuộc chiến này."
‘‘Ko pana, te lāpa, gocaro sako pettiko visayo’’ti?
“But what, quail, is your own ancestral domain?”
"Này chim cút, cảnh giới gia truyền của ngươi là gì?"
‘‘Yadidaṃ naṅgalakaṭṭhakaraṇaṃ leḍḍuṭṭhāna’’nti.
“It is a ploughed field, a clod of earth.”
"Đó là nơi cày ruộng, nơi có những cục đất."
Atha naṃ sakuṇagghi sake bale apatthaddhā amuñci – ‘‘gaccha kho, tvaṃ lāpa, tatrapi me gantvā na mokkhasī’’ti.
Then the hawk, confident in her own strength, released him, saying, “Go then, quail, even if you go there, you will not escape me.”
Sau đó, chim ưng, vì tự tin vào sức mạnh của mình, đã thả Ngài ra và nói: "Đi đi, chim cút, dù ngươi có đi đến đó, ngươi cũng sẽ không thoát khỏi ta."
So tattha gantvā mahantaṃ leḍḍuṃ abhiruhitvā ‘‘ehi kho dāni sakuṇagghī’’ti senaṃ avhayanto aṭṭhāsi.
He went there, climbed onto a large clod of earth, and stood calling out to the hawk, “Come now, hawk!”
Ngài đến đó, leo lên một cục đất lớn và đứng đó, gọi chim ưng: "Này chim ưng, đến đây đi!"
Sakuṇagghi sake bale apatthaddhā ubho pakkhe sannayha lāpasakuṇaṃ sahasā ajjhappattā.
The hawk, confident in her own strength, gathered both her wings and suddenly swooped down upon the quail.
Chim ưng, vì tự tin vào sức mạnh của mình, liền giang hai cánh và lao xuống bắt chim cút.
Yadā pana taṃ lāpo ‘‘bahuāgatā kho myāyaṃ sakuṇagghī’’ti aññāsi, atha parivattitvā tasseva leḍḍussa antaraṃ paccāpādi.
But when the quail realized, “This hawk has come very close to me,” he turned around and re-entered the space within that very clod of earth.
Nhưng khi chim cút biết rằng "con chim ưng này đã đến rất gần ta," nó liền xoay người và chui vào giữa cục đất đó.
Sakuṇagghi vegaṃ sandhāretuṃ asakkontī tattheva uraṃ paccatāḷesi.
The hawk, unable to restrain her speed, struck her chest right there.
Chim ưng không thể hãm lại đà bay, liền đập ngực vào cục đất đó.
Evaṃ sā bhinnena hadayena nikkhantehi akkhīhi jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
Thus, with her heart shattered and her eyes protruding, she met her demise.
Như vậy, nó đã mất mạng với trái tim tan vỡ và đôi mắt lồi ra.
309
Satthā imaṃ atītaṃ dassetvā ‘‘evaṃ, bhikkhave, tiracchānagatāpi agocare carantā sapattahatthaṃ gacchanti, gocare pana sake pettike visaye carantā sapatte niggaṇhanti, tasmā tumhepi mā agocare caratha paravisaye.
The Teacher, having shown this past event, said: "Thus, bhikkhus, even animals, when they wander in unsuitable pastures, fall into the hands of their enemies. But when they wander in their own ancestral domain, they overcome their enemies. Therefore, you too, do not wander in unsuitable pastures, in others' domains."
Đức Thế Tôn đã kể lại câu chuyện quá khứ này và nói: "Này các Tỳ-kheo, ngay cả loài vật, khi đi trong cảnh giới không phải của mình, chúng cũng rơi vào tay kẻ thù. Nhưng khi đi trong cảnh giới của mình, trong lãnh vực gia truyền của mình, chúng sẽ đánh bại kẻ thù. Vì vậy, các ông cũng chớ đi trong cảnh giới không phải của mình, trong lãnh vực của kẻ khác.
Agocare, bhikkhave, carataṃ paravisaye lacchati māro otāraṃ, lacchati māro ārammaṇaṃ.
"Bhikkhus, for those who wander in unsuitable pastures, in others' domains, Māra finds an opportunity, Māra finds a foothold."
Này các Tỳ-kheo, khi các ông đi trong cảnh giới không phải của mình, trong lãnh vực của kẻ khác, Ma vương sẽ tìm được cơ hội, Ma vương sẽ tìm được đối tượng.
Ko ca, bhikkhave, bhikkhuno agocaro paravisayo?
"And what, bhikkhus, is a bhikkhu's unsuitable pasture, others' domain?"
Này các Tỳ-kheo, cảnh giới không phải của Tỳ-kheo, lãnh vực của kẻ khác là gì?
Yadidaṃ pañca kāmaguṇā.
"It is these five strands of sensual pleasure."
Đó là năm dục lạc.
Katame pañca?
"Which five?"
Năm dục lạc nào?
Cakkhuviññeyyā rūpā…pe… ayaṃ, bhikkhave, bhikkhuno agocaro paravisayo’’ti vatvā abhisambuddho hutvā paṭhamaṃ gāthamāha –
"Visible forms cognizable by the eye... and so on... This, bhikkhus, is a bhikkhu's unsuitable pasture, others' domain," having said this, and having attained full enlightenment, he spoke the first verse:
Sắc do mắt nhận biết...v.v... Này các Tỳ-kheo, đây là cảnh giới không phải của Tỳ-kheo, lãnh vực của kẻ khác." Sau khi nói vậy, Đức Phật đã giác ngộ và thuyết bài kệ đầu tiên –
310
35.
35.
35.
311
‘‘Seno balasā patamāno, lāpaṃ gocaraṭhāyinaṃ;
"A hawk, swooping with force, on a quail standing in its pasture,
"Chim ưng lao xuống với sức mạnh, chim cút đang ở nơi kiếm ăn;
312
Sahasā ajjhappattova, maraṇaṃ tenupāgamī’’ti.
Suddenly swooped down, and thereby met its death."
Nó bất ngờ lao xuống, rồi chết vì điều đó."
313
Tattha balasā patamānoti ‘‘lāpaṃ gaṇhissāmī’’ti balena thāmena patamāno.
Therein, balasā patamāno means, "swooping with strength and might, thinking 'I will seize the quail'."
Ở đây, balasā patamānoti có nghĩa là: lao xuống với sức mạnh, với sự kiên cố, nghĩ rằng "Ta sẽ bắt chim cút."
Gocaraṭhāyinanti sakavisayā nikkhamitvā gocaratthāya aṭavipariyante ṭhitaṃ.
Gocaraṭṭhāyinaṃ means, "standing at the edge of the forest for pasture, having departed from its own domain."
Gocaraṭhāyina có nghĩa là đã rời khỏi lãnh địa của mình, đứng ở rìa rừng để kiếm ăn.
Ajjhappattoti sampatto.
Ajjhappatto means, "reached."
Ajjhappatto có nghĩa là đã đến.
Maraṇaṃ tenupāgamīti tena kāraṇena maraṇaṃ patto.
Maraṇaṃ tenupāgamī means, "met death for that reason."
Maraṇaṃ tenupāgamī có nghĩa là vì lý do đó mà đã chết.
314
Tasmiṃ pana maraṇaṃ patte lāpo nikkhamitvā ‘‘diṭṭhā vata me paccāmittassa piṭṭhī’’ti tassa hadaye ṭhatvā udānaṃ udānento dutiyaṃ gāthamāha –
When that hawk met its death, the quail came out and, saying, "Indeed, I have seen the back of my enemy," stood on its heart and uttered an udāna, speaking the second verse:
Khi con diều hâu đó chết, con chim cút bay ra, nói lời cảm thán rằng: “Ta đã thấy lưng của kẻ thù rồi!” và đứng trên tim nó, nói bài kệ thứ hai –
315
36.
36.
36.
316
‘‘Sohaṃ nayena sampanno, pettike gocare rato;
"I, endowed with wisdom, delighting in my ancestral pasture,
“Ta đây, đầy đủ phương tiện, vui thích trong lãnh địa cha truyền;
317
Apetasattu modāmi, sampassaṃ atthamattano’’ti.
Am free from enemies and rejoice, seeing my own welfare."
Không còn kẻ thù, ta hoan hỷ, thấy rõ lợi ích của chính mình.”
318
Tattha nayenāti upāyena.
Therein, nayena means, "by means of a stratagem."
Trong đó, nayena có nghĩa là bằng phương tiện.
Atthamattanoti attano arogabhāvasaṅkhātaṃ vuḍḍhiṃ.
Atthamattano means, "one's own well-being, which is freedom from illness."
Atthamattano có nghĩa là sự tăng trưởng được gọi là trạng thái không bệnh tật của chính mình.
319
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne bahū bhikkhū sotāpattiphalādīni pāpuṇiṃsu.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse and expounded the Noble Truths, identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, many bhikkhus attained the fruits of stream-entry and so on.
Đức Phật đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka, khi các chân lý được tuyên bố xong, nhiều Tỳ-kheo đã đạt được quả Dự Lưu và các quả khác.
‘‘Tadā seno devadatto ahosi, lāpo pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the hawk was Devadatta, but the quail was I myself."
“Khi ấy, con diều hâu là Devadatta, còn con chim cút chính là ta.”
320
Sakuṇagghijātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth, the Story of the Sakuṇagghi Jātaka.
Chuyện Jātaka về Chim Cút và Diều Hâu, thứ tám, đã xong.
321
* 9. Arakajātakavaṇṇanā
* 9. Story of the Arakajātakavaṇṇanā
* 9. Chuyện Jātaka về Arakā
322
Yo ve mettena cittenāti idaṃ satthā jetavane viharanto mettasuttaṃ ārabbha kathesi.
Yo ve mettena cittena (He who with a mind of loving-kindness) — This the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning the Metta Sutta.
Yo ve mettena cittenā – câu này được Đức Phật thuyết tại Jetavana, liên quan đến Kinh Từ Bi.
Ekasmiñhi samaye satthā bhikkhū āmantesi – ‘‘mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya ekādasānisaṃsā pāṭikaṅkhā.
For on one occasion, the Teacher addressed the bhikkhus: "Bhikkhus, when the liberation of mind by loving-kindness is cultivated, developed, made much of, made a vehicle, made a basis, established, consolidated, and properly undertaken, eleven advantages are to be expected.
Vào một thời điểm nọ, Đức Phật đã gọi các Tỳ-kheo và nói: “Này các Tỳ-kheo, khi tâm giải thoát từ bi được thực hành, phát triển, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành nền tảng, được kiên trì, được tích lũy, được thực hiện tốt, thì mười một lợi ích có thể được mong đợi.
Katame ekādasa?
Which eleven?
Mười một lợi ích đó là gì?
Sukhaṃ supati, sukhaṃ paṭibujjhati, na pāpakaṃ supinaṃ passati, manussānaṃ piyo hoti, amanussānaṃ piyo hoti, devatā rakkhanti, nāssa aggi vā visaṃ vā satthaṃ vā kamati, tuvaṭaṃ cittaṃ samādhiyati, mukhavaṇṇo vippasīdati, asammūḷho kālaṃ karoti, uttari appaṭivijjhanto brahmalokūpago hoti.
One sleeps happily, wakes happily, does not see bad dreams, is dear to human beings, is dear to non-human beings, devas protect one, fire, poison, or weapons do not affect one, one's mind is swiftly concentrated, one's facial complexion is clear, one dies unconfused, and if one does not penetrate further, one is reborn in the Brahma-world.
Ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy ác mộng, được loài người yêu mến, được loài phi nhân yêu mến, chư thiên bảo hộ, lửa, thuốc độc hay binh khí không thể tác hại, tâm nhanh chóng định tĩnh, sắc mặt trong sáng, chết không mê loạn, nếu không thể chứng ngộ cao hơn thì sẽ tái sinh vào cõi Phạm thiên.
Mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya…pe… susamāraddhāya ime ekādasānisaṃsā pāṭikaṅkhā’’ti (a. ni. 11.15).
Bhikkhus, when the liberation of mind by loving-kindness is cultivated... and so on... properly undertaken, these eleven advantages are to be expected."
Này các Tỳ-kheo, khi tâm giải thoát từ bi được thực hành…pe… được thực hiện tốt, thì mười một lợi ích này có thể được mong đợi.”
Ime ekādasānisaṃse gahetvā ṭhitaṃ mettābhāvanaṃ vaṇṇetvā ‘‘bhikkhave, bhikkhunā nāma sabbasattesu odissakānodissakavasena mettā bhāvetabbā, hitopi hitena pharitabbo, ahitopi hitena pharitabbo, majjhattopi hitena pharitabbo.
Having taken these eleven advantages, he praised the development of loving-kindness, saying, "Bhikkhus, a bhikkhu should develop loving-kindness towards all beings, both specified and unspecified. The friendly one should be pervaded with friendliness, the unfriendly one should be pervaded with friendliness, and the neutral one should be pervaded with friendliness.
Sau khi nắm giữ mười một lợi ích này, Đức Phật đã tán thán sự tu tập từ bi và nói: “Này các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo nên tu tập từ bi đối với tất cả chúng sinh, theo cách có đối tượng và không có đối tượng. Người thân cũng nên được bao trùm bằng từ bi, kẻ thù cũng nên được bao trùm bằng từ bi, người trung lập cũng nên được bao trùm bằng từ bi.
Evaṃ sabbasattesu odissakānodissakavasena mettā bhāvetabbā, karuṇā muditā upekkhā bhāvetabbā, catūsu brahmavihāresu kammaṃ kātabbameva.
Thus, loving-kindness should be developed towards all beings, both specified and unspecified; compassion, appreciative joy, and equanimity should be developed; work should certainly be done on the four Brahma-vihāras.
Như vậy, từ bi nên được tu tập đối với tất cả chúng sinh, theo cách có đối tượng và không có đối tượng. Bi, Hỷ, Xả cũng nên được tu tập, và công việc trong Tứ Vô Lượng Tâm phải được thực hiện.
Evaṃ karonto hi maggaṃ vā phalaṃ vā alabhantopi brahmalokaparāyaṇo ahosi, porāṇakapaṇḍitāpi satta vassāni mettaṃ bhāvetvā satta saṃvaṭṭavivaṭṭakappe brahmalokasmiṃyeva vasiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
One who does so, even if not attaining the path or its fruit, becomes destined for the Brahma-world. Ancient wise ones, too, having developed loving-kindness for seven years, dwelt in the Brahma-world for seven aeons of cosmic contraction and expansion," and having said this, he brought forth a past event.
Khi làm như vậy, dù không đạt được đạo quả, người đó cũng sẽ tái sinh vào cõi Phạm thiên. Các bậc hiền triết thời xưa cũng đã tu tập từ bi trong bảy năm, và đã sống trong cõi Phạm thiên suốt bảy kiếp thế giới hình thành và hoại diệt.” Sau đó, Đức Phật đã kể chuyện quá khứ.
323
Atīte ekasmiṃ kappe bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto kāme pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā catunnaṃ brahmavihārānaṃ lābhī arako nāma satthā hutvā himavantapadese vāsaṃ kappesi, tassa mahā parivāro ahosi.
In a past aeon, the Bodhisatta was born into a brahmin family. When he came of age, he renounced sensual pleasures, took up the ascetic life, and, having attained the four Brahma-vihāras, became a teacher named Araka and resided in the Himalayan region. He had a large retinue.
Trong một kiếp quá khứ, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn. Khi trưởng thành, Ngài từ bỏ dục lạc, xuất gia làm đạo sĩ, trở thành một bậc đạo sư tên là Arakā, người đã đạt được Tứ Vô Lượng Tâm, và cư trú tại vùng Hy Mã Lạp Sơn. Ngài có một đoàn đệ tử lớn.
So isigaṇaṃ ovadanto ‘‘pabbajitena nāma mettā bhāvetabbā, karuṇā muditā upekkhā bhāvetabbā.
Advising his assembly of ascetics, he said, "One who has gone forth should develop loving-kindness, and should develop compassion, appreciative joy, and equanimity.
Khi giáo huấn đoàn đạo sĩ, Ngài nói: “Người xuất gia phải tu tập từ bi, bi, hỷ, xả.
Mettacittañhi nāmetaṃ appanāppattaṃ brahmalokaparāyaṇataṃ sādhetī’’ti mettāya ānisaṃsaṃ pakāsento imā gāthā āha –
"For this mind of loving-kindness, when it attains absorption (appanā), accomplishes rebirth in the Brahma-world." Thus, wishing to declare the benefit of loving-kindness, he spoke these verses –
Vì tâm từ bi khi đạt đến định an chỉ sẽ dẫn đến sự tái sinh vào cõi Phạm thiên.” Ngài đã nói những bài kệ này để tuyên bố lợi ích của từ bi –
324
37.
37.
37.
325
‘‘Yo ve mettena cittena, sabbalokānukampati;
"Whoever, indeed, with a mind of loving-kindness,
“Ai với tâm từ bi, thương xót tất cả thế gian;
326
Uddhaṃ adho ca tiriyaṃ, appamāṇena sabbaso.
Has compassion for all the world, above, below, and across, boundlessly, in every way.
Trên, dưới và ngang, vô lượng khắp mọi nơi.
327
38.
38.
38.
328
‘‘Appamāṇaṃ hitaṃ cittaṃ, paripuṇṇaṃ subhāvitaṃ;
This boundless, benevolent mind, fully developed, well-cultivated;
Tâm thiện vô lượng, được tu tập viên mãn;
329
Yaṃ pamāṇakataṃ kammaṃ, na taṃ tatrāvasissatī’’ti.
Any limited action will not remain there."
Nghiệp hữu hạn đã làm, không còn tồn tại ở đó.”
330
Tattha yo ve mettena cittena, sabbalokānukampatīti khattiyādīsu vā samaṇabrāhmaṇesu vā yo koci appamāṇena mettena cittena sakalaṃ sattalokaṃ anukampati.
Therein, "Whoever, indeed, with a mind of loving-kindness, has compassion for all the world" means whoever, among khattiyas and others, or recluses and brahmins, has compassion for the entire world of beings with a boundless mind of loving-kindness.
Trong đó, yo ve mettena cittena, sabbalokānukampati có nghĩa là bất cứ ai, dù là vua chúa hay các vị Sa-môn, Bà-la-môn, đều thương xót toàn thể chúng sinh bằng tâm từ bi vô lượng.
Uddhanti pathavito yāva nevasaññānāsaññāyatanabrahmalokā.
"Above" means from the earth up to the Brahma-world of neither-perception-nor-non-perception.
Uddhaṃ có nghĩa là từ mặt đất cho đến cõi Phạm thiên Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Adhoti pathaviyā heṭṭhā ussade mahāniraye.
"Below" means beneath the earth, in the great Ussada hells.
Adho có nghĩa là bên dưới mặt đất, trong các địa ngục lớn.
Tiriyanti manussaloke, yattakāni cakkavāḷāni ca tesu sabbesu ettake ṭhāne nibbattā sabbe sattā averā hontu, abyāpajjhā anīghā, sukhī attānaṃ pariharantūti evaṃ bhāvitena mettena cittenāti attho.
"Across" means in the human realm, and in all the innumerable world-systems; the meaning is: "May all beings born in these places be free from enmity, free from affliction, free from suffering, and may they sustain themselves happily," with a mind of loving-kindness thus cultivated.
Tiriyaṃ có nghĩa là trong thế giới loài người, trong tất cả các cõi luân hồi, tất cả chúng sinh tái sinh ở những nơi đó, nguyện cho họ không có oán thù, không bị khổ não, không bị phiền muộn, sống an lạc – đó là ý nghĩa của tâm từ bi được tu tập như vậy.
Appamāṇenāti appamāṇasattānaṃ appamāṇārammaṇattā appamāṇena.
"Boundlessly" means boundlessly, because its object is boundless beings.
Appamāṇena có nghĩa là vô lượng, vì đối tượng của nó là vô lượng chúng sinh.
Sabbasoti sabbākārena, uddhaṃ adho tiriyanti evaṃ sabbasugatiduggativasenāti attho.
"In every way" means in all aspects, that is, in terms of all happy and unhappy destinations (sugati and duggati), above, below, and across.
Sabbaso có nghĩa là theo mọi cách, tức là theo tất cả các cõi thiện và ác.
331
Appamāṇaṃ hitaṃ cittanti appamāṇaṃ katvā bhāvitaṃ sabbasattesu hitacittaṃ.
"This boundless, benevolent mind" means a benevolent mind cultivated boundlessly towards all beings.
Appamāṇaṃ hitaṃ cittaṃ có nghĩa là tâm thiện được tu tập vô lượng đối với tất cả chúng sinh.
Paripuṇṇanti avikalaṃ.
"Fully developed" means complete.
Paripuṇṇaṃ có nghĩa là không thiếu sót.
Subhāvitanti suvaḍḍhitaṃ, appanācittassetaṃ nāmaṃ.
"Well-cultivated" means well-increased; this is a name for the absorption-mind (appanācitta).
Subhāvitaṃ có nghĩa là được phát triển tốt, đây là tên của tâm an chỉ định.
Yaṃ pamāṇakataṃ kammanti yaṃ ‘‘appamāṇaṃ appamāṇārammaṇa’’nti evaṃ ārammaṇattikavasena ca vasībhāvappattivasena ca avaḍḍhitvā kataṃ parittaṃ kāmāvacarakammaṃ.
"Any limited action" means any limited kāmāvacara action that has been performed without being increased in terms of the triad of objects (boundless, with boundless object) and without attaining mastery.
Yaṃ pamāṇakataṃ kammaṃ có nghĩa là nghiệp hữu hạn thuộc cõi dục, không được phát triển theo cách đối tượng là vô lượng và đạt đến sự thành thạo.
Na taṃ tatrāvasissatīti taṃ parittaṃ kammaṃ yaṃ taṃ ‘‘appamāṇaṃ hitaṃ citta’’nti saṅkhagataṃ rūpāvacarakammaṃ, tatra na avasissati.
"Will not remain there" means that limited action will not remain in that rūpāvacara action, which is referred to as "boundless, benevolent mind."
Na taṃ tatrāvasissatī (Điều đó không còn lại ở đó) có nghĩa là nghiệp nhỏ bé đó, tức là nghiệp sắc giới được gọi là "tâm từ vô lượng", thì không còn lại ở đó.
Yathā nāma mahoghena ajjhotthaṭaṃ parittodakaṃ oghassa abbhantare tena asaṃhīramānaṃ nāvasissati na tiṭṭhati, atha kho mahoghova taṃ ajjhottharitvā tiṭṭhati, evameva taṃ parittakammaṃ tassa mahaggatakammassa abbhantare tena mahaggatakammena acchinditvā aggahitavipākokāsaṃ hutvā na avasissati na tiṭṭhati, na sakkoti attano vipākaṃ dātuṃ, atha kho mahaggatakammameva taṃ ajjhottharitvā tiṭṭhati vipākaṃ detīti.
Just as a small amount of water overwhelmed by a great flood does not remain or stand within the flood, being carried away by it, but rather the great flood itself overwhelms and stands over it; in the same way, that limited action does not remain or stand within that exalted action, being cut off by that exalted action and having no opportunity to yield its result, nor can it give its result. Rather, the exalted action itself overwhelms it and stands over it, giving its result.
Ví như một lượng nước nhỏ bị dòng lũ lớn cuốn trôi thì không còn lại, không đứng vững trong dòng lũ đó, mà chính dòng lũ lớn đó đã cuốn trôi nó và đứng vững. Cũng vậy, nghiệp nhỏ bé đó không còn lại, không đứng vững trong nghiệp quảng đại đó, không bị nghiệp quảng đại đó cắt đứt, không có cơ hội cho quả chín, không thể cho quả của chính nó, mà chính nghiệp quảng đại đó đã cuốn trôi nó và đứng vững, cho quả.
332
Evaṃ bodhisatto antevāsikānaṃ mettābhāvanāya ānisaṃsaṃ kathetvā aparihīnajjhāno brahmaloke nibbattitvā satta saṃvaṭṭavivaṭṭakappe na imaṃ lokaṃ puna agamāsi.
Thus, the Bodhisatta, after explaining the benefits of loving-kindness meditation to his disciples, was reborn in the Brahma-world without losing his jhāna, and for seven aeons of cosmic contraction and expansion (saṃvaṭṭavivaṭṭakappe), he did not return to this world again.
Như vậy, Bồ-tát sau khi kể lợi ích của việc tu tập tâm từ cho các đệ tử, với thiền định không suy giảm, đã tái sinh vào cõi Phạm thiên và không trở lại thế gian này trong bảy kiếp hoại và kiếp thành.
333
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā isigaṇo buddhaparisā ahosi, arako pana satthā ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the group of ascetics was the Buddha's assembly, and Araka, the Teacher, was I myself."
Đức Phật sau khi thuyết pháp này đã kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi đó, nhóm ẩn sĩ là hội chúng của Đức Phật, còn Araka chính là Ta vậy.”
334
Arakajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Chapter on the Arakajātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka Araka, thứ chín.
335
* 10. Kakaṇṭakajātakavaṇṇanā
* 10. The Chapter on the Kakaṇṭakajātaka
* 10. Câu chuyện Jātaka Kakaṇṭaka
336
Nāyaṃ pure uṇṇamatīti idaṃ kakaṇṭakajātakaṃ mahāumaṅgajātake (jā. 2.22.590 ādayo) āvibhavissati.
"This does not rise up before" – this Kakaṇṭakajātaka will appear in the Mahāumaṅgajātaka.
Nāyaṃ pure uṇṇamatī (Điều này trước đây không nổi lên) – Câu chuyện Jātaka Kakaṇṭaka này sẽ được trình bày trong Mahāumaṅgajātaka (Jā. 2.22.590 và các câu tiếp theo).
337
Kakaṇṭakajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth Chapter on the Kakaṇṭakajātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka Kakaṇṭaka, thứ mười.
338
Santhavavaggo dutiyo.
The Second Chapter, Santhavavagga, is concluded.
Phẩm Santhava, thứ hai.
339
Tassuddānaṃ –
Summary of this chapter:
Tóm tắt phẩm đó –
340
Indasamānagottañca, santhavaṃ susīmaṃ gijjhaṃ;
Indasama, Nagotta, Santhava, Susīma, Gijjha,
Indasamānagotta, Santhava, Susīma, Gijjha;
341
Nakulaṃ upasāḷakaṃ, samiddhi ca sakuṇagghi;
Nakula, Upasāḷaka, Samiddhi, and Sakuṇagghi,
Nakula, Upasāḷaka, Samiddhi và Sakuṇagghi;
342
Arakañca kakaṇṭakaṃ.
Araka, and Kakaṇṭaka.
Araka và Kakaṇṭaka.
343

3. Kalyāṇavaggo

3. Kalyāṇavagga

3. Phẩm Kalyāṇa

344
* 1. Kalyāṇadhammajātakavaṇṇanā
* 1. The Chapter on the Kalyāṇadhammajātaka
* 1. Câu chuyện Jātaka Kalyāṇadhamma
345
Kalyāṇadhammoti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ badhirasassuṃ ārabbha kathesi.
"Kalyāṇadhamma" – this the Teacher related while residing at Jetavana, concerning a deaf mother-in-law.
Kalyāṇadhammo (Người có pháp lành) – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một người mẹ vợ bị lãng tai.
Sāvatthiyañhi eko kuṭumbiko saddho pasanno tisaraṇagato pañcasīlena samannāgato.
In Sāvatthī, there was a certain householder who was faithful, devout, had taken refuge in the Triple Gem, and was endowed with the five precepts.
Tại Sāvatthī, có một gia chủ tín tâm, hoan hỷ, quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới.
So ekadivasaṃ bahūni sappiādīni bhesajjāni ceva pupphagandhavatthādīni ca gahetvā ‘‘jetavane satthu santike dhammaṃ sossāmī’’ti agamāsi.
One day, he took many medicines such as ghee, and also flowers, perfumes, and clothes, and went to Jetavana, thinking, "I will listen to the Dhamma from the Teacher."
Một ngày nọ, ông mang nhiều loại thuốc như bơ ghee, cùng với hoa, hương, y phục, v.v., và đi đến Jetavana để nghe pháp từ Đức Phật.
Tassa tattha gatakāle sassu khādanīyabhojanīyaṃ gahetvā dhītaraṃ daṭṭhukāmā taṃ gehaṃ agamāsi, sā ca thokaṃ badhiradhātukā hoti.
When he had gone there, his mother-in-law, taking food and edibles, went to that house, wishing to see her daughter, and she was somewhat hard of hearing.
Trong khi ông đi vắng, mẹ vợ của ông mang đồ ăn thức uống đến nhà đó, muốn gặp con gái mình. Bà mẹ vợ này hơi bị lãng tai.
Sā dhītarā saddhiṃ bhuttabhojanā bhattasammadaṃ vinodayamānā dhītaraṃ pucchi – ‘‘kiṃ, amma, bhattā te sammodamāno avivadamāno piyasaṃvāsaṃ vasatī’’ti.
Having eaten with her daughter and dispelling the weariness of the meal, she asked her daughter, "Daughter, does your husband live in harmony, without quarreling, in pleasant companionship?"
Sau khi ăn uống cùng con gái, bà mẹ vợ hỏi con gái để xua tan sự mệt mỏi sau bữa ăn – “Này con, chồng con có sống hòa thuận, không tranh cãi, sống chung vui vẻ không?”
‘‘Kiṃ, amma, kathetha yādiso tumhākaṃ jāmātā sīlena ceva ācārasampadāya ca, tādiso pabbajitopi dullabho’’ti.
"Mother, what are you saying? A son-in-law like yours, endowed with both virtue and good conduct, is rare even among renunciants."
“Thưa mẹ, mẹ nói gì vậy? Chàng rể của mẹ, người có giới hạnh và đức độ như vậy, ngay cả một vị xuất gia cũng khó tìm được người tương tự.”
Upāsikā dhītu vacanaṃ sādhukaṃ asallakkhetvā ‘‘pabbajito’’ti padameva gahetvā ‘‘amma, kasmā te bhattā pabbajito’’ti mahāsaddaṃ akāsi.
The laywoman, not properly understanding her daughter's words, merely seized upon the word "renunciant" and exclaimed loudly, "Daughter, why has your husband renounced?"
Vị nữ cư sĩ không hiểu rõ lời con gái, chỉ nghe được từ “pabbajito” (đã xuất gia) và lớn tiếng hỏi: “Này con, tại sao chồng con lại xuất gia?”
Taṃ sutvā sakalagehavāsino ‘‘amhākaṃ kira kuṭumbiko pabbajito’’ti viraviṃsu.
Hearing that, all the household members cried out, "Our householder has apparently renounced!"
Nghe vậy, tất cả mọi người trong nhà đều la lên: “Gia chủ của chúng ta đã xuất gia rồi!”
Tesaṃ saddaṃ sutvā dvārena sañcarantā ‘‘kiṃ nāma kireta’’nti pucchiṃsu.
Hearing their noise, those passing by the door asked, "What is this about?"
Nghe tiếng ồn ào của họ, những người đi ngang qua cửa hỏi: “Chuyện gì vậy?”
‘‘Imasmiṃ kira gehe kuṭumbiko pabbajito’’ti.
"Apparently, the householder in this house has renounced."
“Nghe nói gia chủ trong nhà này đã xuất gia.”
Sopi kho kuṭumbiko dasabalassa dhammaṃ sutvā vihārā nikkhamma nagaraṃ pāvisi.
That householder, having heard the teaching of the Ten-Powered One, left the monastery and entered the city.
Vị gia chủ đó, sau khi nghe pháp của Đức Thập Lực, rời tu viện và vào thành phố.
346
Atha naṃ antarāmaggeyeva eko puriso disvā ‘‘samma, tvaṃ kira pabbajitoti tava gehe puttadāraparijano paridevatī’’ti āha.
Then, a certain man saw him right on the road and said, "Friend, your family, children, and wife at home are lamenting, saying that you have renounced!"
Khi đang đi trên đường, một người nhìn thấy ông và nói: “Này bạn, nghe nói bạn đã xuất gia, nên vợ con và gia đình bạn đang khóc than ở nhà.”
Athassa etadahosi – ‘‘ayaṃ apabbajitameva kira maṃ ‘pabbajito’ti vadati, uppanno kho pana me kalyāṇasaddo na antaradhāpetabbo, ajjeva mayā pabbajituṃ vaṭṭatī’’ti tatova nivattitvā satthu santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ nu kho, upāsaka, idāneva buddhupaṭṭhānaṃ katvā gantvā idāneva paccāgatosī’’ti vutte tamatthaṃ ārocetvā ‘‘bhante, kalyāṇasaddo nāma uppanno na antaradhāpetuṃ vaṭṭati, tasmā pabbajitukāmo hutvā āgatomhī’’ti āha.
Then it occurred to him, "This person is calling me 'renunciant' even though I have not renounced. However, a good reputation that has arisen should not be suppressed. I should renounce today." So, he turned back from that very spot, went to the Teacher, and when asked, "Upāsaka, did you just attend upon the Buddha and leave, and now you have returned?" he reported the matter and said, "Bhante, a good reputation that has arisen should not be suppressed. Therefore, I have come desiring to renounce."
Khi đó, ông nghĩ: “Người này nói ta đã xuất gia dù ta chưa xuất gia, nhưng tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất. Ngay hôm nay ta phải xuất gia.” Thế là ông quay lại, đến chỗ Đức Phật và khi được hỏi: “Này cư sĩ, sao ông vừa mới đến đảnh lễ Đức Phật rồi đi, mà giờ lại quay lại ngay?”, ông kể lại sự việc đó và nói: “Bạch Đức Thế Tôn, tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất, vì vậy con muốn xuất gia và đã trở lại đây.”
So pabbajjañca upasampadañca labhitvā sammā paṭipanno nacirasseva arahattaṃ pāpuṇi.
Having received both the going forth and the full ordination, and practicing correctly, he soon attained Arahantship.
Ông được thọ giới xuất gia và giới cụ túc, thực hành đúng đắn và không lâu sau đã chứng quả A-la-hán.
Idaṃ kira kāraṇaṃ bhikkhusaṅghe pākaṭaṃ jātaṃ.
This matter became known in the assembly of bhikkhus.
Sự việc này đã trở nên nổi tiếng trong Tăng đoàn.
Athekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko nāma kuṭumbiko ‘uppanno kalyāṇasaddo na antaradhāpetabbo’ti pabbajitvā idāni arahattaṃ patto’’ti.
Then, one day, in the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion: "Friends, that householder, so-and-so, renounced saying, 'A good reputation that has arisen should not be suppressed,' and has now attained Arahantship."
Một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-kheo bắt đầu câu chuyện: “Này chư Hiền, vị gia chủ tên kia đã xuất gia với ý nghĩ ‘tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất’, và nay đã chứng quả A-la-hán.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘bhikkhave, porāṇakapaṇḍitāpi ‘uppanno kalyāṇasaddo virādhetuṃ na vaṭṭatī’ti pabbajiṃsuyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what discussion are you engaged in now?" When they replied, "This one, Bhante," he said, "Bhikkhus, even the wise ones of old renounced, thinking, 'A good reputation that has arisen should not be discarded,'" and then he recounted a past story.
Đức Phật đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận về chuyện gì vậy?” Khi được cho biết, Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, ngay cả các bậc hiền trí thời xưa cũng đã xuất gia với ý nghĩ ‘tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất’,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
347
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto seṭṭhikule nibbattitvā vayappatto pitu accayena seṭṭhiṭṭhānaṃ pāpuṇi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a wealthy family, and upon reaching adulthood, he attained the position of chief merchant after his father's demise.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình trưởng giả, khi trưởng thành, sau khi cha qua đời, ngài kế thừa địa vị trưởng giả.
So ekadivasaṃ nivesanā nikkhamitvā rājupaṭṭhānaṃ agamāsi.
One day, he left his residence and went to attend upon the king.
Một ngày nọ, ngài rời nhà và đến yết kiến nhà vua.
Athassa sassu ‘‘dhītaraṃ passissāmī’’ti taṃ gehaṃ agamāsi, sā thokaṃ badhiradhātukāti sabbaṃ paccuppannavatthusadisameva.
Then his mother-in-law went to that house to see her daughter; she was somewhat hard of hearing, and everything else was just like the present story.
Khi đó, mẹ vợ của ngài đến nhà đó để thăm con gái, bà hơi bị lãng tai – tất cả đều giống như câu chuyện hiện tại.
Taṃ pana rājupaṭṭhānaṃ gantvā attano gharaṃ āgacchantaṃ disvā eko puriso ‘‘tumhe kira pabbajitāti tumhākaṃ gehe mahāparidevo pavattatī’’ti āha.
However, seeing him returning home after attending upon the king, a certain man said, "Apparently, you have renounced, and there is great lamentation in your house."
Một người nhìn thấy ngài từ chỗ yết kiến nhà vua trở về nhà, nói: “Nghe nói ngài đã xuất gia, nên ở nhà ngài đang có tiếng khóc than lớn.”
Bodhisatto ‘‘uppanno kalyāṇasaddo nāma na antaradhāpetuṃ vaṭṭatī’’ti tatova nivattitvā rañño santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ, mahāseṭṭhi, idāneva gantvā puna āgatosī’’ti vutte ‘‘deva, gehajano kira maṃ apabbajitameva ‘pabbajito’ti vatvā paridevati, uppanno kho pana kalyāṇasaddo na antaradhāpetabbo, pabbajissāmahaṃ, pabbajjaṃ me anujānāhī’’ti etamatthaṃ pakāsetuṃ imā gāthā āha –
The Bodhisatta thought, "A good reputation that has arisen should not be suppressed," and turned back from that very spot, went to the king, and when asked, "Great merchant, did you just leave and return again?" he revealed the matter, saying, "Your Majesty, my household members are lamenting, saying that I have renounced, even though I have not. However, a good reputation that has arisen should not be suppressed. I shall renounce. Please grant me permission to renounce," and to explain this matter, he uttered these verses:
Bồ-tát nghĩ: “Tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất.” Ngài liền quay lại, đến chỗ nhà vua và khi được hỏi: “Này Đại Trưởng giả, sao ngài vừa mới đi mà giờ lại trở về ngay?”, ngài nói: “Tâu Đại vương, người nhà của con đã khóc than vì nói con đã xuất gia dù con chưa xuất gia. Nhưng tiếng lành đã nổi lên thì không nên để mất, con sẽ xuất gia, xin Đại vương cho phép con xuất gia.” Để trình bày ý này, ngài đã nói những câu kệ sau –
348
41.
41.
41.
349
‘‘Kalyāṇadhammoti yadā janinda, loke samaññaṃ anupāpuṇāti;
"When, O King, one attains in the world the designation 'of good conduct,'
“Khi nào, thưa Đại vương, người ta được danh hiệu ‘Kalyāṇadhamma’ (Người có pháp lành) trên thế gian;
350
Tasmā na hiyyetha naro sapañño, hiriyāpi santo ghuramādiyanti.
Therefore, a wise man should not fall away; the virtuous, out of shame, even take up the yoke."
Thì người trí không nên từ bỏ nó, các bậc thiện nhân cũng gánh vác trách nhiệm vì lòng hổ thẹn.”
351
42.
42.
42.
352
‘‘Sāyaṃ samaññā idha majja pattā, kalyāṇadhammoti janinda loke;
"This designation, 'of good conduct,' has been attained by me today in the world, O King;
“Hôm nay, danh hiệu đó đã đến với con ở đây, ‘Kalyāṇadhamma’ trên thế gian, thưa Đại vương;
353
Tāhaṃ samekkhaṃ idha pabbajissaṃ, na hi matthi chando idha kāmabhoge’’ti.
Reflecting on that, I shall renounce here, for I have no desire for sensual pleasures here."
Con sẽ xuất gia ở đây khi quán xét điều đó, vì con không còn ham muốn hưởng thụ dục lạc ở đây nữa.”
354
Tattha kalyāṇadhammoti sundaradhammo.
Therein, kalyāṇadhammo means 'of beautiful conduct'.
Trong đó, kalyāṇadhammo có nghĩa là người có pháp đẹp.
Samaññaṃ anupāpuṇātīti yadā sīlavā kalyāṇadhammo pabbajitoti idaṃ paññattivohāraṃ pāpuṇāti.
Samaññaṃ anupāpuṇātī means 'when one attains this conventional designation of being virtuous, of good conduct, a renunciant'.
Samaññaṃ anupāpuṇātī có nghĩa là khi người có giới hạnh, có pháp lành, đạt được danh xưng “người xuất gia” này.
Tasmā na hiyyethāti tato sāmaññato na parihāyetha.
Tasmā na hiyyethā means 'therefore, one should not fall away from that designation'.
Tasmā na hiyyethā có nghĩa là từ danh xưng đó không nên suy giảm.
Hiriyāpi santo dhuramādiyantīti, mahārāja, sappurisā nāma ajjhattasamuṭṭhitāya hiriyā bahiddhasamuṭṭhitena ottappenapi etaṃ pabbajitadhuraṃ gaṇhanti.
"Hiriyāpi santo dhuramādiyantī" means, O great king, good people indeed undertake this burden of renunciation by means of inward-arising shame (hiri) and outward-arising fear of wrongdoing (ottappa).
Hiriyāpi santo dhuramādiyantī có nghĩa là, thưa Đại vương, các bậc thiện nhân gánh vác trách nhiệm xuất gia này vì lòng hổ thẹn phát sinh từ nội tâm và sự ghê sợ phát sinh từ bên ngoài.
Idha majja pattāti idha mayā ajja pattā.
"Idha majja pattā" means 'here, reached by me today'.
Idha majja pattā có nghĩa là điều đó đã đến với tôi hôm nay ở đây.
Tāhaṃ samekkhanti taṃ ahaṃ guṇavasena laddhasamaññaṃ samekkhanto passanto.
"Tāhaṃ samekkha" means 'observing, seeing that designation which is obtained by virtue of qualities'.
Tāhaṃ samekkhanti có nghĩa là tôi quán xét, nhìn thấy danh xưng đã đạt được dựa trên đức tính đó.
Na hi matthi chandoti na hi me atthi chando.
"Na hi matthi chando" means 'indeed, there is no desire for me'.
Na hi matthi chando có nghĩa là tôi không còn ham muốn.
Idha kāmabhogeti imasmiṃ loke kilesakāmavatthukāmaparibhogehi.
"Idha kāmabhoge" means 'in this world, by the enjoyment of sensual pleasures, which are defilements and objects of desire'.
Idha kāmabhoge có nghĩa là trong thế gian này, đối với sự hưởng thụ dục lạc của phiền não và đối tượng của dục lạc.
355
Bodhisatto evaṃ vatvā rājānaṃ pabbajjaṃ anujānāpetvā himavantapadesaṃ gantvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
The Bodhisatta, having spoken thus, and having made the king permit his renunciation, went to the Himalayan region, took up the ascetic's renunciation, developed supernormal powers (abhiññā) and attainments (samāpattiyo), and became destined for the Brahma-world.
Bồ-tát sau khi nói như vậy, được nhà vua cho phép xuất gia, ngài đến vùng Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia theo lối ẩn sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định, và trở thành người hướng về cõi Phạm thiên.
356
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, bārāṇasiseṭṭhi pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka – "At that time, the king was Ānanda; the wealthy man of Bārāṇasī was I myself."
Đức Phật sau khi thuyết pháp này đã kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi đó, nhà vua là Ānanda, còn trưởng giả Bārāṇasī chính là Ta vậy.”
357
Kalyāṇadhammajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first commentary on the Kalyāṇadhamma Jātaka.
Câu chuyện Jātaka Kalyāṇadhamma, thứ nhất.
358
* 2. Daddarajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Daddara Jātaka
* 2. Câu chuyện Jātaka Daddara
359
Ko nu saddena mahatāti idaṃ satthā jetavane viharanto kokālikaṃ ārabbha kathesi.
"Ko nu saddena mahatā" – This the Teacher related while residing at Jetavana, concerning Kokālika.
Ko nu saddena mahatā (Ai với tiếng lớn) – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Kokālika.
Tasmiñhi kāle bahū bahussutā bhikkhū manosilātale nadamānā taruṇasīhā viya ākāsagaṅgaṃ otārentā viya saṅghamajjhe sarabhāṇaṃ bhaṇanti.
At that time, many learned bhikkhus, like young lions roaring on a red arsenic slab, as if bringing down the celestial Ganges, recited in chorus (sarabhāṇa) in the midst of the Saṅgha.
Vào thời đó, nhiều Tỳ-kheo đa văn, như những con sư tử trẻ gầm thét trên tảng đá manosilā, như dòng sông Gaṅgā từ trời đổ xuống, tụng kinh bằng giọng điệu trong Tăng đoàn.
Kokāliko tesu sarabhāṇaṃ bhaṇantesu attano tucchabhāvaṃ ajānitvāva ‘‘ahampi sarabhāṇaṃ bhaṇissāmī’’ti bhikkhūnaṃ antaraṃ pavisitvā ‘‘amhākaṃ sarabhāṇaṃ na pāpenti.
Kokālika, not knowing his own worthlessness, thought, "I too will recite in chorus," and entering among the bhikkhus, he wandered about here and there saying, without naming the Bhikkhu Saṅgha, "They do not let us recite in chorus.
Kokālika, không nhận ra sự trống rỗng của mình, khi họ đang tụng kinh, đã đi vào giữa các Tỳ-kheo và nói: “Họ không thể tụng kinh của chúng ta. Nếu họ có thể tụng kinh của chúng ta, chúng ta cũng sẽ tụng.” Ông ta đi khắp nơi, nói như vậy mà không gọi tên Tăng đoàn.
Sace amhākampi pāpeyyuṃ, mayampi bhaṇeyyāmā’’ti bhikkhusaṅghassa nāmaṃ aggahetvāva tattha tattha kathento āhiṇḍati.
If they would let us too, we would recite."
Ông ta đi khắp nơi, nói như vậy mà không gọi tên Tăng đoàn.
Tassa sā kathā bhikkhusaṅghe pākaṭā jātā.
His talk became known in the Bhikkhu Saṅgha.
Lời nói đó của ông ta đã trở nên nổi tiếng trong Tăng đoàn.
Bhikkhū ‘‘vīmaṃsissāma tāva na’’nti saññāya evamāhaṃsu – ‘‘āvuso kokālika, ajja saṅghassa sarabhāṇaṃ bhaṇāhī’’ti.
The bhikkhus, with the intention of testing him, said, "Friend Kokālika, recite in chorus for the Saṅgha today."
Các Tỳ-kheo, với ý nghĩ “chúng ta hãy thử người này trước đã”, bèn nói như sau: “Này Hiền giả Kokālika, hôm nay hãy thuyết pháp bằng giọng ca (sarabhāṇa) cho Tăng chúng nghe.”
So attano balaṃ ajānitvāva ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā ‘‘ajja sarabhāṇaṃ bhaṇissāmī’’ti attano sappāyaṃ yāguṃ pivi, khajjakaṃ khādi, sappāyeneva sūpena bhuñji.
He, not knowing his own strength, consented with "Very well," and saying, "I will recite in chorus today," he drank suitable gruel, ate suitable solid food, and ate his meal with suitable curry.
Vị ấy, không biết sức mình, liền chấp thuận “lành thay”, rồi nghĩ “hôm nay ta sẽ thuyết pháp bằng giọng ca”, bèn uống cháo thích hợp cho mình, ăn thức ăn nhẹ, và dùng cơm với canh thích hợp.
360
Sūriye atthaṅgate dhammassavanakāle ghosite bhikkhusaṅgho sannipati.
When the sun had set and the time for listening to the Dhamma was announced, the Bhikkhu Saṅgha assembled.
Khi mặt trời lặn và tiếng trống hiệu nghe pháp được đánh, Tăng chúng Tỳ-kheo tề tựu.
So kaṇṭakuraṇḍakavaṇṇaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā kaṇikārapupphavaṇṇaṃ cīvaraṃ pārupitvā saṅghamajjhaṃ pavisitvā there vanditvā alaṅkataratanamaṇḍape paññattavaradhammāsanaṃ abhiruhitvā citrabījaniṃ gahetvā ‘‘sarabhāṇaṃ bhaṇissāmī’’ti nisīdi, tāvadevassa sarīrā sedā mucciṃsu, sārajjaṃ okkami, pubbagāthāya paṭhamaṃ padaṃ udāharitvā anantaraṃ na passi.
He put on a saffron robe the color of a scarlet gourd, draped himself in an outer robe the color of a kanikāra flower, entered the midst of the Saṅgha, paid homage to the elders, ascended the excellent Dhamma-seat arranged in the jeweled pavilion, took a beautiful fan, and sat down intending to recite in chorus; immediately, sweat broke out on his body, and embarrassment overcame him; he uttered the first line of the introductory verse but could not find the next.
Vị ấy mặc y kāṣāya màu vỏ cây kaṇṭakuraṇḍaka, đắp y citta màu hoa kaṇikāra, đi vào giữa Tăng chúng, đảnh lễ các Trưởng lão, rồi leo lên pháp tòa cao quý được sắp đặt trong bảo tháp trang hoàng lộng lẫy, cầm chiếc quạt hoa văn, và ngồi xuống, nghĩ “ta sẽ thuyết pháp bằng giọng ca”. Ngay lúc ấy, mồ hôi tuôn ra từ thân vị ấy, sự bối rối ập đến, sau khi xướng câu kệ đầu tiên của bài kệ mở đầu, vị ấy không còn nhớ gì nữa.
So kampamāno āsanā oruyha lajjito saṅghamajjhato apakkamma attano pariveṇaṃ agamāsi.
Trembling, he descended from the seat, and being ashamed, he departed from the midst of the Saṅgha and went to his own dwelling.
Vị ấy run rẩy, rời khỏi chỗ ngồi, xấu hổ bỏ đi khỏi giữa Tăng chúng và trở về tịnh xá của mình.
Añño bahussuto bhikkhu sarabhāṇaṃ bhaṇi.
Another learned bhikkhu recited in chorus.
Một Tỳ-kheo đa văn khác bèn thuyết pháp bằng giọng ca.
Tato paṭṭhāya bhikkhū tassa tucchabhāvaṃ jāniṃsu.
From that time on, the bhikkhus knew his worthlessness.
Từ đó trở đi, các Tỳ-kheo biết được sự trống rỗng của vị ấy.
Athekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, paṭhamaṃ kokālikassa tucchabhāvo dujjāno, idāni panesa sayaṃ naditvā pākaṭo jāto’’ti.
Then one day, in the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion – "Friends, at first Kokālika's worthlessness was difficult to know, but now he has become manifest by his own roaring."
Rồi một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-kheo khởi lên câu chuyện: “Này chư Hiền, ban đầu thật khó biết được sự trống rỗng của Kokālika, nhưng bây giờ thì vị ấy tự mình cất tiếng và đã lộ rõ.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, kokāliko idāneva naditvā pākaṭo jāto, pubbepi naditvā pākaṭo ahosī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic, bhikkhus, are you now assembled?" And when told, "On this topic," he said, "Bhikkhus, Kokālika did not become manifest by roaring only now; he was manifest by roaring in the past as well," and he related a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi lại với câu chuyện gì?”, khi được thưa “là câu chuyện này, bạch Đức Thế Tôn”, Ngài bèn nói: “Này các Tỳ-kheo, không phải chỉ bây giờ Kokālika mới tự mình cất tiếng và lộ rõ, mà trước kia vị ấy cũng đã tự mình cất tiếng và lộ rõ rồi”, rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
361
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese sīhayoniyaṃ nibbattitvā bahūnaṃ sīhānaṃ rājā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the lion species in the Himalayan region and became the king of many lions.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sanh làm sư tử trong vùng Hy Mã Lạp Sơn và trở thành vua của nhiều sư tử.
So anekasīhaparivāro rajataguhāyaṃ vāsaṃ kappesi.
He, surrounded by many lions, made his abode in a silver cave.
Ngài, được vô số sư tử vây quanh, sống trong hang bạc.
Tassa avidūre ekissāya guhāya eko siṅgālopi vasati.
Not far from him, a jackal also lived in a certain cave.
Không xa chỗ Ngài ở, có một con chó rừng cũng sống trong một cái hang.
Athekadivasaṃ deve vassitvā vigate sabbe sīhā sīharājasseva guhadvāre sannipatitvā sīhanādaṃ nadantā sīhakīḷaṃ kīḷiṃsu.
Then one day, after it had rained and cleared, all the lions gathered at the entrance of the lion king's cave and played the lion's game, roaring the lion's roar.
Rồi một ngày nọ, sau khi trời mưa tạnh, tất cả các sư tử đều tụ tập trước cửa hang của sư tử chúa, gầm thét tiếng sư tử và vui đùa như sư tử.
Tesaṃ evaṃ naditvā kīḷanakāle sopi siṅgālo nadati.
While they were roaring and playing thus, that jackal also roared.
Trong lúc chúng gầm thét và vui đùa như vậy, con chó rừng kia cũng cất tiếng sủa.
Sīhā tassa saddaṃ sutvā ‘‘ayaṃ siṅgālo amhehi saddhiṃ nadatī’’ti lajjitā tuṇhī ahesuṃ.
The lions, hearing his sound, were ashamed, thinking, "This jackal is roaring with us," and remained silent.
Các sư tử nghe tiếng nó, xấu hổ nghĩ: “Con chó rừng này đang sủa cùng với chúng ta”, bèn im lặng.
Tesaṃ tuṇhībhūtakāle bodhisattassa putto sīhapotako ‘‘tāta, ime sīhā naditvā sīhakīḷaṃ kīḷantā etassa saddaṃ sutvā lajjāya tuṇhī jātā, ko nāmesa attano saddena attānaṃ jānāpetī’’ti pitaraṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
When they were silent, the Bodhisatta’s son, the lion cub, said to his father, asking, ‘‘Father, these lions, having roared and played the lion’s game, became silent out of shame upon hearing that sound. Who is it that makes himself known by his own sound?’’ and spoke the first verse:
Trong lúc chúng im lặng, sư tử con, con của Bồ-tát, hỏi cha: “Thưa cha, các sư tử này đang gầm thét và vui đùa như sư tử, nhưng khi nghe tiếng của con vật ấy, chúng lại xấu hổ mà im lặng. Con vật nào lại tự cho mình là ai qua tiếng kêu của nó vậy?”, rồi nó nói lên bài kệ đầu tiên:
362
43.
43.
43.
363
‘‘Ko nu saddena mahatā, abhinādeti daddaraṃ;
‘‘Who is it that, with a mighty sound, makes the Daddara mountain resound?
“Ai với tiếng kêu lớn, làm vang dội núi Daddara?
364
Taṃ sīhā nappaṭinadanti, ko nāmeso migādhibhū’’ti.
The lions do not roar back at him. Who is this, O lord of beasts?’’
Các sư tử không gầm lại, con vật cầm thú này là ai?”
365
Tattha abhinādeti daddaranti daddaraṃ rajatapabbataṃ ekanādaṃ karoti.
Here, abhinādeti daddaraṃ means he makes the Daddara, the silver mountain, resound with a single roar.
Ở đây, abhinādeti daddaraṃ nghĩa là làm cho núi bạc Daddara vang lên một tiếng kêu.
Migādhibhūti pitaraṃ ālapati.
Migādhibhū is an address to the father.
Migādhibhū là gọi cha.
Ayañhettha attho – migādhibhū migajeṭṭhaka sīharāja pucchāmi taṃ ‘‘ko nāmeso’’ti.
The meaning here is, ‘‘O migādhibhū, chief of beasts, O lion king, I ask you, ‘Who is this?’ ’’
Ý nghĩa ở đây là: “Thưa Migādhibhū, sư tử chúa, bậc tối thượng trong loài thú, con hỏi cha: ‘Con vật này là ai?’”
366
Athassa vacanaṃ sutvā pitā dutiyaṃ gāthamāha –
Then, having heard his words, the father spoke the second verse:
Rồi nghe lời nó nói, người cha bèn nói lên bài kệ thứ hai:
367
44.
44.
44.
368
‘‘Adhamo migajātānaṃ, siṅgālo tāta vassati;
‘‘O son, it is a jackal, the lowest of the animal kind, that is howling;
“Này con, con chó rừng, loài thú thấp kém, đang sủa;
369
Jātimassa jigucchantā, tuṇhī sīhā samaccare’’ti.
The lions, despising his birth, became silent and gathered.’’
Các sư tử khinh ghét dòng dõi của nó, bèn im lặng.”
370
Tattha samaccareti santi upasaggamattaṃ, accantīti attho, tuṇhī hutvā nisīdantīti vuttaṃ hoti.
Here, samaccare means that sa is merely a prefix, and the meaning is ‘they go,’ which is to say, they sat down in silence.
Ở đây, samaccare thì sa chỉ là một tiền tố, nghĩa là accanti (ngồi xuống), tức là nói rằng chúng im lặng ngồi xuống.
Potthakesu pana ‘‘samacchare’’ti likhanti.
However, in the manuscripts, they write ‘‘samacchare.’’
Tuy nhiên, trong các bản kinh sách thì ghi là “samacchare”.
371
Satthā ‘‘na, bhikkhave, kokāliko idāneva attano nādena attānaṃ pākaṭaṃ karoti, pubbepi akāsiyevā’’ti vatvā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā siṅgālo kokāliko ahosi, sīhapotako rāhulo, sīharājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, saying, ‘‘Monks, Kokālika does not make himself known by his sound only now; he did so in the past as well,’’ brought forth this Dhamma discourse and connected the Jātaka: ‘‘At that time, the jackal was Kokālika; the lion cub was Rāhula; and the lion king was I myself.’’
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, không phải chỉ bây giờ Kokālika mới tự mình làm lộ rõ bản thân bằng tiếng kêu của mình, mà trước kia vị ấy cũng đã làm như vậy rồi”, rồi Ngài thuyết Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc ấy, con chó rừng chính là Kokālika, sư tử con chính là Rāhula, còn sư tử chúa thì chính là Ta.”
372
Daddarajātakavaṇṇanā dutiyā.
The Second Commentary on the Daddara Jātaka.
Chuyện Daddara Jātaka thứ hai.
373
* 3. Makkaṭajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Makkaṭa Jātaka
* 3. Chuyện Makkaṭa Jātaka
374
Tātamāṇavako esoti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuhakabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
The Teacher related this story, beginning with Tātamāṇavako eso, while residing at Jetavana, concerning a deceitful monk.
Tātamāṇavako eso (Này cha, đây là một chú tiểu) – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Jetavana liên quan đến một Tỳ-kheo lừa dối.
Vatthu pakiṇṇakanipāte uddālakajātake (jā. 1.14.62 ādayo) āvibhavissati.
The story will become evident in the Uddālaka Jātaka of the Pakiṇṇaka Nipāta.
Câu chuyện sẽ được trình bày trong Uddālaka Jātaka (Jā. 1.14.62 và tiếp theo) thuộc Pakiṇṇaka Nipāta.
Tadā pana satthā ‘‘bhikkhave, nāyaṃ bhikkhu idāneva kuhako, pubbepi makkaṭo hutvā aggissa kāraṇā kohaññaṃ akāsiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher, saying, ‘‘Monks, this monk is not deceitful only now; in the past too, as a monkey, he practiced deceit for the sake of fire,’’ recounted the past.
Lúc ấy, Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này không phải chỉ bây giờ mới là kẻ lừa dối, mà trước kia, khi còn là một con khỉ, nó cũng đã lừa dối vì lửa rồi”, rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
375
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ kāsigāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sippaṃ uggaṇhitvā gharāvāsaṃ saṇṭhapesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a certain Kāsī village. Having reached maturity, he learned his crafts in Takkasilā and established a household.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sanh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng Kāsī, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học nghề ở Takkasilā và lập gia đình.
Athassa brāhmaṇī ekaṃ puttaṃ vijāyitvā puttassa ādhāvitvā paridhāvitvā vicaraṇakāle kālamakāsi.
Then, his brahmin wife gave birth to a son and passed away when the son was able to run and move about.
Sau đó, người vợ Bà-la-môn của Ngài sanh được một người con trai, và khi đứa bé đến tuổi chập chững đi lại, bà qua đời.
Bodhisatto tassā petakiccaṃ katvā ‘‘kiṃ me dāni gharāvāsena, puttaṃ gahetvā pabbajissāmī’’ti assumukhaṃ ñātimittavaggaṃ pahāya puttaṃ ādāya himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā tattha vanamūlaphalāhāro vāsaṃ kappesi.
The Bodhisatta, having performed her funeral rites, thought, ‘‘What is the use of a household for me now? I will take my son and go forth.’’ He left his weeping relatives and friends, took his son, entered the Himālaya, and adopted the ascetic’s life, dwelling there, subsisting on roots and fruits of the forest.
Bồ-tát làm lễ tang cho bà, rồi nghĩ: “Bây giờ gia đình còn nghĩa lý gì với ta nữa, ta sẽ mang con đi xuất gia”, bèn từ bỏ họ hàng thân hữu đang khóc lóc, mang con vào Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia làm đạo sĩ, và sống ở đó, ăn rễ cây và trái cây rừng.
So ekadivasaṃ vassānakāle deve vassante sāradārūni aggiṃ jāletvā visibbanto phalakatthare nipajji, puttopissa tāpasakumārako pitu pāde sambāhantova nisīdi.
One day, during the rainy season, as it rained, he lit a fire with dry wood, warmed himself, and lay down on a mat of leaves, while his son, the ascetic boy, sat massaging his father’s feet.
Một ngày nọ, vào mùa mưa, khi trời đang mưa, Ngài đốt lửa bằng củi khô và nằm trên tấm ván trải lá, còn con trai Ngài, vị đạo sĩ trẻ, ngồi xoa bóp chân cha.
376
Atheko vanamakkaṭo sītena pīḷiyamāno tassa paṇṇasālāya taṃ aggiṃ disvā ‘‘sacāhaṃ ettha pavisissāmi, ‘makkaṭo makkaṭo’ti maṃ pothetvā nīharissanti, aggiṃ visibbetuṃ na labhissāmi, atthi dāni me upāyo, tāpasavesaṃ gahetvā kohaññaṃ katvā pavisissāmī’’ti cintetvā ekassa matatāpasassa vakkalāni nivāsetvā pacchiñca aṅkusayaṭṭhiñca gahetvā paṇṇasāladvāre ekaṃ tālarukkhaṃ nissāya saṃkuṭito aṭṭhāsi.
Then, a forest monkey, afflicted by the cold, saw that fire in the leaf-hut and thought, ‘‘If I enter here, they will beat me and drive me out, saying, ‘A monkey! A monkey!’ I will not be able to warm myself. Now I have a plan: I will assume the guise of an ascetic, act deceitfully, and enter.’’ Having thought this, he put on the bark garments of a dead ascetic, took a basket and a staff with a hook, and stood huddled by a palm tree near the entrance of the leaf-hut.
Rồi một con khỉ rừng, bị lạnh hành hạ, thấy ngọn lửa trong tịnh xá lá của vị đạo sĩ, bèn nghĩ: “Nếu ta vào đây, chúng sẽ đánh đập và đuổi ta ra ngoài, nói ‘khỉ, khỉ’, ta sẽ không được sưởi ấm. Bây giờ ta có cách rồi, ta sẽ giả dạng đạo sĩ, lừa dối mà vào trong”, nghĩ vậy, nó mặc áo vỏ cây của một đạo sĩ đã chết, cầm giỏ và gậy móc, rồi co ro đứng dựa vào một cây cọ trước cửa tịnh xá lá.
Tāpasakumārako taṃ disvā makkaṭabhāvaṃ ajānanto ‘‘eko mahallakatāpaso sītena pīḷito aggiṃ visibbetuṃ āgato bhavissatī’’ti pitu tāpasassa kathetvā ‘‘etaṃ paṇṇasālaṃ pavesetvā visibbāpessāmī’’ti cintetvā pitaraṃ ālapanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The ascetic boy, seeing him and not knowing he was a monkey, thought, ‘‘An old ascetic, afflicted by the cold, must have come to warm himself.’’ He told his father, the ascetic, and, thinking, ‘‘I will let him into this leaf-hut and let him warm himself,’’ he addressed his father and spoke the first verse:
Vị đạo sĩ trẻ thấy nó, không biết đó là khỉ, bèn nghĩ: “Chắc là một đạo sĩ già đang bị lạnh hành hạ đến để sưởi ấm”, rồi nói với cha mình, vị đạo sĩ, và nghĩ: “Ta sẽ mời nó vào tịnh xá lá và cho nó sưởi ấm”, bèn gọi cha và nói lên bài kệ đầu tiên:
377
45.
45.
45.
378
‘‘Tāta māṇavako eso, tālamūlaṃ apassito;
‘‘Father, this young man, having taken refuge at the base of a palm tree;
“Này cha, đây là một chú tiểu, đang dựa gốc cây cọ;
379
Agārakañcidaṃ atthi, handa demassagāraka’’nti.
There is a dwelling here; come, let us give him a dwelling.’’
Có một chỗ ở đây, chúng ta hãy cho nó một chỗ ở.”
380
Tattha māṇavakoti sattādhivacanaṃ.
Here, māṇavako is a term for a being.
Ở đây, māṇavako là từ chỉ một chúng sanh.
Tena ‘‘tāta, eso eko māṇavako satto eko tāpaso’’ti dīpeti.
By this, he indicates, ‘‘Father, this is a māṇavaka, a being, an ascetic.’’
Do đó, nó muốn nói: “Này cha, đây là một chúng sanh, một đạo sĩ.”
Tālamūlaṃ apassitoti tālakkhandhaṃ nissāya ṭhito.
Tālamūlaṃ apassito means standing relying on the trunk of a palm tree.
Tālamūlaṃ apassito nghĩa là đứng dựa vào thân cây cọ.
Agārakañcidaṃ atthīti idañca amhākaṃ pabbajitāgāraṃ atthi, paṇṇasālaṃ sandhāya vadati.
Agārakañcidaṃ atthi means, ‘‘And this dwelling of ours, the ascetic’s hut, exists,’’ referring to the leaf-hut.
Agārakañcidaṃ atthī nghĩa là chúng ta có một chỗ ở của người xuất gia này, là nói đến tịnh xá lá.
Handāti vavassaggatthe nipāto.
Handā is a particle in the sense of relinquishing.
Handā là một từ ngữ biểu thị sự mời gọi.
Demassagārakanti etassa ekamante vasanatthāya agārakaṃ dema.
Demassagārakaṃ means, 'let us give him a dwelling for him to live in a secluded place'.
Demassagārakaṃ nghĩa là chúng ta hãy cho nó một chỗ ở để sống ở một bên.
381
Bodhisatto puttassa vacanaṃ sutvā uṭṭhāya paṇṇasāladvāre ṭhatvā olokento tassa makkaṭabhāvaṃ ñatvā ‘‘tāta, manussānaṃ nāma na evarūpaṃ mukhaṃ hoti, makkaṭo esa, nayidha pakkositabbo’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, having heard his son's words, got up and stood at the door of the leaf-hut. Looking, he understood that it was a monkey, and said, "Dear son, humans do not have such a face. This is a monkey; he should not be invited in here." Having said this, he spoke the second verse:
Bồ-tát nghe lời con nói, đứng dậy, đứng trước cửa tịnh xá lá nhìn, biết đó là khỉ, bèn nói: “Này con, mặt người không phải như vậy, đó là một con khỉ, không nên gọi nó vào đây”, rồi Ngài nói lên bài kệ thứ hai:
382
46.
46.
46.
383
‘‘Mā kho tvaṃ tāta pakkosi, dūseyya no agārakaṃ;
"Do not invite him, dear son; he would defile our dwelling;
“Này con, chớ gọi nó vào, nó sẽ làm ô uế chỗ ở của chúng ta;
384
Netādisaṃ mukhaṃ hoti, brāhmaṇassa susīlino’’ti.
Such a face does not belong to a virtuous brahmin."
Mặt của một Bà-la-môn có giới hạnh không phải như vậy.”
385
Tattha dūseyya no agārakanti ayañhi idha paviṭṭho samāno imaṃ kicchena kataṃ paṇṇasālaṃ agginā vā jhāpento uccārādīni vā karonto dūseyya.
Therein, dūseyya no agārakaṃ means: "If he were to enter here, he would defile this leaf-hut, which was made with difficulty, either by burning it with fire or by depositing excrement and so forth."
Ở đây, dūseyya no agārakaṃ nghĩa là nếu nó vào đây, nó sẽ làm ô uế tịnh xá lá này, vốn được làm ra một cách khó khăn, bằng cách đốt cháy nó bằng lửa hoặc bằng cách phóng uế.
Netādisanti ‘‘etādisaṃ brāhmaṇassa susīlino mukhaṃ na hoti, makkaṭo eso’’ti vatvā bodhisatto ekaṃ ummukaṃ gahetvā ‘‘kiṃ ettha tiṭṭhasī’’ti khipitvā taṃ palāpesi.
Netādisaṃ means: "Such a face does not belong to a virtuous brahmin; this is a monkey." Having said this, the Bodhisatta took a burning log and, saying, "Why do you stand there?", threw it and chased him away.
Netādisaṃ nghĩa là nói “mặt của một Bà-la-môn có giới hạnh không phải như vậy, đó là một con khỉ”, rồi Bồ-tát cầm một khúc củi cháy, ném vào nó và nói: “Ngươi đứng đây làm gì?”, xua đuổi nó đi.
Makkaṭo vakkalāni chaḍḍetvā rukkhaṃ abhiruhitvā vanasaṇḍaṃ pāvisi.
The monkey threw away the bark-garments, climbed a tree, and entered the forest thicket.
Con khỉ bỏ lại áo vỏ cây, leo lên cây và đi vào rừng.
Bodhisatto cattāro brahmavihāre bhāvetvā brahmalokūpago ahosi.
The Bodhisatta, having developed the four Brahmavihāras, became one who attained the Brahma world.
Bồ-tát tu tập bốn pháp Phạm trú và tái sanh vào cõi Phạm thiên.
386
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā makkaṭo ayaṃ kuhakabhikkhu ahosi, tāpasakumāro rāhulo, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the monkey was this deceitful bhikkhu; the ascetic boy was Rāhula; and the ascetic was I myself."
Đức Bổn Sư thuyết Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc ấy, con khỉ chính là Tỳ-kheo lừa dối này, vị đạo sĩ trẻ chính là Rāhula, còn vị đạo sĩ thì chính là Ta.”
387
Makkaṭajātakavaṇṇanā tatiyā.
The Third Description of the Makkaṭa Jātaka.
Chuyện Makkaṭa Jātaka thứ ba.
388
* 4. Dubbhiyamakkaṭajātakaṇṇanā
* 4. Description of the Dubbhiyamakkaṭa Jātaka
* 4. Chuyện Dubbhiyamakkaṭa Jātaka
389
Adamha te vāri pahūtarūpanti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Adamha te vāri pahūtarūpaṃ – this the Teacher related while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta.
Adamha te vāri pahūtarūpaṃ (Chúng tôi đã cho ông rất nhiều nước) – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Veḷuvana liên quan đến Devadatta.
Ekadivasañhi dhammasabhāyaṃ bhikkhū devadattassa akataññumittadubbhibhāvaṃ kathentā nisīdiṃsu.
For one day, in the Dhamma hall, bhikkhus sat discussing Devadatta's ingratitude and treachery towards friends.
Một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-kheo đang ngồi nói chuyện về sự vô ơn và phản bội bạn bè của Devadatta.
Satthā āgantvā ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva akataññū mittadubbhī, pubbepi evarūpo ahosī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and said, "Bhikkhus, Devadatta was not ungrateful and treacherous towards friends only now; he was like this in the past too." Having said this, he related a past event.
Đức Bổn Sư đến, nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, Devadatta không phải chỉ bây giờ là kẻ vô ơn, phản bạn, mà ngay cả trong quá khứ cũng đã từng như vậy,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
390
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ kāsigāmake brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto gharāvāsaṃ saṇṭhapesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a certain Kāsī village. Having reached maturity, he established a household life.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở một làng thuộc xứ Kāsī, khi trưởng thành, Ngài lập gia đình.
Tasmiṃ pana samaye kāsiraṭṭhe vattanimahāmagge eko gambhīro udapāno hoti anotaraṇīyo tiracchānānaṃ, maggappaṭipannā puññatthikā manussā dīgharajjukena vārakena udakaṃ ussiñcitvā ekissā doṇiyā pūretvā tiracchānānaṃ pānīyaṃ denti.
At that time, on the main road that ran through the Kāsī country, there was a deep well, inaccessible to animals. People traveling on the road, seeking merit, would draw water with a long rope and fill a trough, giving drinking water to the animals.
Vào thời đó, trên con đường lớn ở xứ Kāsī có một cái giếng sâu mà các loài súc vật không thể xuống được. Những người hành khách có tâm làm phước thường dùng dây dài và gàu múc nước đổ đầy vào một máng để cho các loài súc vật uống.
Tassa sāmantato mahantaṃ araññaṃ, tattha bahū makkaṭā vasanti.
Adjacent to it was a large forest, where many monkeys lived.
Gần đó có một khu rừng lớn, nơi nhiều loài khỉ sinh sống.
Atha tasmiṃ magge dve tīṇi divasāni manussasañcāro pacchijji, tiracchānā pānīyaṃ na labhiṃsu.
Then, for two or three days, human traffic on that road ceased, and the animals did not receive drinking water.
Sau đó, trên con đường ấy, sự đi lại của con người bị gián đoạn trong hai hoặc ba ngày, các loài súc vật không có nước uống.
Eko makkaṭo pipāsāturo hutvā pānīyaṃ pariyesanto udapānassa santike vicarati.
One monkey, tormented by thirst, wandered near the well, searching for water.
Một con khỉ khát nước, đi tìm nước uống và loanh quanh gần cái giếng.
Bodhisatto kenacideva karaṇīyena taṃ maggaṃ paṭipajjitvā tattha gacchanto pānīyaṃ uttāretvā pivitvā hatthapāde dhovitvā ṭhito taṃ makkaṭaṃ addasa.
The Bodhisatta, traveling on that road for some purpose, went there, drew water, drank, washed his hands and feet, and stood. He then saw that monkey.
Bồ-tát, vì một việc cần làm, đã đi trên con đường ấy, đến đó, Ngài múc nước uống, rửa tay chân xong thì đứng dậy và nhìn thấy con khỉ đó.
Athassa pipāsitabhāvaṃ ñatvā pānīyaṃ ussiñcitvā doṇiyaṃ ākiritvā adāsi, datvā ca pana ‘‘vissamissāmī’’ti ekasmiṃ rukkhamūle nipajji.
Knowing its thirst, he drew water, poured it into the trough, and gave it. Having given it, he lay down at the foot of a tree, thinking, "I will rest."
Biết nó đang khát, Ngài múc nước đổ vào máng cho nó uống. Sau khi cho uống, Ngài nói: “Tôi sẽ nghỉ ngơi,” rồi nằm xuống dưới gốc cây.
Makkaṭo pānīyaṃ pivitvā avidūre nisīditvā mukhamakkaṭikaṃ karonto bodhisattaṃ bhiṃsāpesi.
The monkey drank the water and sat not far off, making grimaces and frightening the Bodhisatta.
Con khỉ uống nước xong, ngồi gần đó, làm trò khỉ nhăn nhó để dọa Bồ-tát.
Bodhisatto tassa taṃ kiriyaṃ disvā ‘‘are duṭṭhamakkaṭa, ahaṃ tava pipāsitassa kilantassa bahuṃ pānīyaṃ adāsiṃ, idāni tvaṃ mayhaṃ mukhamakkaṭikaṃ karosi, aho pāpajanassa nāma kato upakāro niratthako’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, seeing its action, said, "Oh, you wicked monkey! I gave you much water when you were thirsty and weary, and now you make grimaces at me. Alas, the help rendered to a wicked person is indeed useless!" Having said this, he spoke the first verse:
Bồ-tát thấy hành động đó của nó, nói: “Này con khỉ độc ác kia, ta đã cho ngươi rất nhiều nước khi ngươi khát và mệt mỏi, vậy mà bây giờ ngươi lại làm trò khỉ nhăn nhó với ta. Ôi, việc giúp đỡ kẻ ác thật vô ích!” rồi Ngài nói lên bài kệ đầu tiên:
391
47.
47.
47.
392
‘‘Adamha te vāri pahūtarūpaṃ, ghammābhitattassa pipāsitassa;
"We gave you abundant water, when you were oppressed by heat and thirsty;
“Chúng ta đã cho ngươi nước đầy đủ, khi ngươi nóng bức và khát khao;
393
So dāni pitvāna kiriṅkarosi, asaṅgamo pāpajanena seyyo’’ti.
Now, having drunk, you make grimaces; non-association with a wicked person is better."
Vậy mà bây giờ, sau khi uống, ngươi lại làm trò khỉ nhăn nhó. Tốt hơn là không giao du với kẻ ác.”
394
Tattha so dāni pitvāna kiriṅkarosīti so idāni tvaṃ mayā dinnapānīyaṃ pivitvā mukhamakkaṭikaṃ karonto ‘‘kiri kirī’’ti saddaṃ karosi.
Therein, so dāni pitvāna kiriṅkarosīti means: "Now, you, having drunk the water given by me, make grimaces, making a 'kiri kiri' sound."
Ở đây, so dāni pitvāna kiriṅkarosī có nghĩa là: Ngươi bây giờ, sau khi uống nước do ta cho, làm trò khỉ nhăn nhó, phát ra tiếng “kiri kirī”.
Asaṅgamo pāpajanena seyyoti pāpajanena saddhiṃ saṅgamo na seyyo, asaṅgamova seyyoti.
Asaṅgamo pāpajanena seyyoti means: "Association with a wicked person is not better; non-association is better."
Asaṅgamo pāpajanena seyyo có nghĩa là: Việc giao du với kẻ ác không tốt, tốt hơn là không giao du với họ.
395
Taṃ sutvā so mittadubbhī makkaṭo ‘‘tvaṃ ‘ettakenavetaṃ niṭṭhita’nti saññaṃ karosi, idāni te sīse vaccaṃ pātetvā gamissāmī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Having heard that, that treacherous monkey said, "You think, 'This is finished with this much.' Now I will drop excrement on your head and go," and spoke the second verse:
Nghe vậy, con khỉ phản bạn đó nghĩ: “Ngươi nghĩ rằng ‘chừng đó là xong’ ư? Bây giờ ta sẽ đi sau khi phóng uế lên đầu ngươi,” rồi nó nói lên bài kệ thứ hai:
396
48.
48.
48.
397
‘‘Ko te suto vā diṭṭho vā, sīlavā nāma makkaṭo;
"By whom have you heard or seen a monkey named 'virtuous'?
“Ngươi đã nghe hay thấy ở đâu, có con khỉ nào được gọi là có giới hạnh?
398
Idāni kho taṃ ohacchaṃ, esā asmāka dhammatā’’ti.
Now indeed I will drop it on you; this is our nature."
Bây giờ ta sẽ phóng uế lên ngươi, đó là bản chất của chúng ta.”
399
Tatrāyaṃ saṅkhepattho – bho brāhmaṇa, ‘‘makkaṭo kataguṇajānanako ācārasampanno sīlavā nāma atthī’’ti kahaṃ tayā suto vā diṭṭho vā, idāni kho ahaṃ taṃ ohacchaṃ vaccaṃ te sīse katvā pakkamissāmi, asmākañhi makkaṭānaṃ nāma esā dhammatā ayaṃ jātisabhāvo, yadidaṃ upakārakassa sīse vaccaṃ kātabbanti.
Herein is the condensed meaning: "O brahmin, where have you heard or seen that 'there is a monkey who knows gratitude, is endowed with good conduct, and is virtuous'? Now indeed, I will drop excrement on your head and depart. For this is the nature, the inherent disposition, of us monkeys: to drop excrement on the head of one who has helped us."
Ở đây, tóm tắt ý nghĩa là: Này Bà-la-môn, ngươi đã nghe hay thấy ở đâu rằng “có con khỉ nào biết ơn, có oai nghi, có giới hạnh”? Bây giờ ta sẽ phóng uế lên đầu ngươi rồi bỏ đi, vì đây là bản chất, là chủng tánh của loài khỉ chúng ta, tức là phải phóng uế lên đầu kẻ đã giúp đỡ.
400
Taṃ sutvā bodhisatto uṭṭhāya gantuṃ ārabhi.
Having heard that, the Bodhisatta rose and began to go.
Nghe vậy, Bồ-tát đứng dậy bắt đầu đi.
Makkaṭo taṅkhaṇaññeva uppatitvā sākhāyaṃ nisīditvā olambakaṃ otaranto viya tassa sīse vaccaṃ pātetvā viravanto vanasaṇḍaṃ pāvisi.
The monkey, at that very moment, sprang up, sat on a branch, and as if descending by swinging, dropped excrement on his head and, shouting, entered the forest thicket.
Con khỉ ngay lập tức nhảy lên, ngồi trên cành cây, như thể đang đu đưa xuống, nó phóng uế lên đầu Ngài rồi kêu la và chui vào rừng.
Bodhisatto nhatvā agamāsi.
The Bodhisatta bathed and went on his way.
Bồ-tát tắm rửa rồi đi tiếp.
401
Satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva devadatto, pubbepi mayā kataguṇaṃ na jānāsiyevā’’ti vatvā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā makkaṭo devadatto ahosi, brāhmaṇo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having said, "Monks, Devadatta was not ungrateful only now; even in the past, he did not know the good done to him by me," brought forth this Dhamma discourse and connected the Jātaka: "At that time, the monkey was Devadatta; the brahmin was myself."
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, Devadatta không phải chỉ bây giờ mà ngay cả trong quá khứ cũng không biết ơn ta,” rồi Ngài thuyết pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Con khỉ lúc đó chính là Devadatta, còn vị Bà-la-môn chính là ta.”
402
Dubbhiyamakkaṭajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth description of the Dubbhiyamakkaṭa Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka về con khỉ phản bạn là thứ tư.
403
* 5. Ādiccupaṭṭhānajātakavaṇṇanā
* 5. Description of the Ādiccupaṭṭhāna Jātaka
* 5. Lời bình luận về Jātaka Ādiccupaṭṭhāna
404
Sabbesu kira bhūtesūti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuhakabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Sabbesu kira bhūtesu – The Teacher, dwelling at Jetavana, related this concerning a certain deceitful monk.
Sabbesu kira bhūtesu (Trong tất cả các loài hữu tình) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu giả dối.
Vatthu heṭṭhā kathitasadisameva.
The story is similar to what was told before.
Câu chuyện cơ bản tương tự như đã kể ở dưới.
405
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā mahāparivāro gaṇasatthā hutvā himavante vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī country. Having come of age, he learned all crafts in Takkasilā, then renounced the world as an ascetic, developed supernormal powers and attainments, and became a teacher with a large retinue, dwelling in the Himavanta.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī. Khi trưởng thành, Ngài học tất cả các nghề tại Takkasilā, rồi xuất gia làm đạo sĩ, đạt được các thần thông và thiền định, trở thành một vị đạo sư có đông đồ chúng và sống ở Himavanta.
So tattha ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya pabbatā oruyha paccante ekaṃ gāmaṃ nissāya paṇṇasālāyaṃ vāsaṃ upagañchi.
After dwelling there for a long time, he descended from the mountains to partake of salt and sour flavors, and settled in a leaf-hut near a village in the border region.
Sau khi sống ở đó một thời gian dài, Ngài xuống núi để tìm vị mặn và chua, rồi trú ngụ trong một túp lều lá gần một ngôi làng ở biên giới.
Atheko lolamakkaṭo isigaṇe bhikkhācāraṃ gate assamapadaṃ āgantvā paṇṇasālā uttiṇṇā karoti, pānīyaghaṭesu udakaṃ chaḍḍeti, kuṇḍikaṃ bhindati, aggisālāyaṃ vaccaṃ karoti.
Then a mischievous monkey would come to the hermitage when the company of ascetics had gone for alms, and would scatter the thatch of the leaf-hut, spill the water from the water pots, break the water-strainer, and defecate in the fire-hut.
Sau đó, một con khỉ tham lam đến khu ẩn cư khi nhóm đạo sĩ đi khất thực, nó làm hỏng túp lều lá, đổ nước trong các bình nước, đập vỡ bình nước nhỏ, và phóng uế trong nhà lửa.
Tāpasā vassaṃ vasitvā ‘‘idāni himavanto pupphaphalasamiddho ramaṇīyo, tattheva gamissāmā’’ti paccantagāmavāsike āpucchiṃsu.
The ascetics, having spent the rainy season, said to the villagers of the border region, "Now the Himavanta is abundant with flowers and fruits and is delightful; we shall go there."
Sau khi an cư mùa mưa, các đạo sĩ nói: “Bây giờ Himavanta cây trái sum suê và đẹp đẽ, chúng ta sẽ đi về đó,” rồi họ từ biệt dân làng biên giới.
Manussā ‘‘sve, bhante, mayaṃ bhikkhaṃ gahetvā assamapadaṃ āgamissāma, taṃ paribhuñjitvāva gamissathā’’ti vatvā dutiyadivase pahūtaṃ khādanīyabhojanīyaṃ gahetvā tattha agamaṃsu.
The people said, "Tomorrow, venerable sirs, we will come to the hermitage with alms-food; please partake of it before you go," and on the next day, they brought abundant hard and soft foods and went there.
Người dân nói: “Thưa các Ngài, ngày mai chúng con sẽ mang đồ ăn đến khu ẩn cư, xin các Ngài dùng xong rồi hãy đi,” rồi ngày hôm sau họ mang nhiều thức ăn và đồ uống đến đó.
Taṃ disvā so makkaṭo cintesi – ‘‘kohaññaṃ katvā manusse ārādhetvā mayhampi khādanīyabhojanīyaṃ āharāpessāmī’’ti.
Seeing them, that monkey thought, "I will perform a feat to please the people and have them bring food for me too."
Thấy vậy, con khỉ nghĩ: “Ta sẽ làm trò giả dối để khiến mọi người hài lòng và họ sẽ mang thức ăn cho ta.”
So tāpasacaraṇaṃ caranto viya sīlavā viya ca hutvā tāpasānaṃ avidūre sūriyaṃ namassamāno aṭṭhāsi.
So, acting as if he were practicing asceticism and as if he were virtuous, he stood not far from the ascetics, worshipping the sun.
Nó đứng gần các đạo sĩ, như thể đang thực hành hạnh của đạo sĩ, như thể có giới hạnh, và lạy mặt trời.
Manussā taṃ disvā ‘‘sīlavantānaṃ santike vasantā sīlavantā hontī’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The people, seeing him, said, "Those who dwell near the virtuous become virtuous," and spoke the first verse:
Thấy vậy, người dân nói: “Những người sống gần người có giới hạnh thì cũng trở thành người có giới hạnh,” rồi họ nói lên bài kệ đầu tiên:
406
49.
49.
49.
407
‘‘Sabbesu kira bhūtesu, santi sīlasamāhitā;
"Indeed, among all beings, there are those endowed with virtue;
“Thật vậy, trong tất cả các loài hữu tình, có những người giữ giới và định.
408
Passa sākhamigaṃ jammaṃ, ādiccamupatiṭṭhatī’’ti.
See this wretched tree-dweller, worshipping the sun."
Hãy xem con khỉ rừng hèn hạ kia, đang lạy mặt trời.”
409
Tattha santi sīlasamāhitāti sīlena samannāgatā saṃvijjanti, sīlavantā ca samāhitā ca ekaggacittā saṃvijjantītipi attho.
Here, santi sīlasamāhitā means "endowed with virtue, they exist"; it also means "virtuous and composed, with one-pointed minds, they exist."
Ở đây, santi sīlasamāhitā có nghĩa là: có những người đầy đủ giới hạnh, có những người có giới hạnh và tâm định tĩnh.
Jammanti lāmakaṃ.
Jamma means "wretched."
Jamma có nghĩa là: hèn hạ.
Ādiccamupatiṭṭhatīti sūriyaṃ namassamāno tiṭṭhati.
Ādiccamupatiṭṭhatī means "stands worshipping the sun."
Ādiccamupatiṭṭhatī có nghĩa là: đang đứng lạy mặt trời.
410
Evaṃ te manusse tassa guṇaṃ kathente disvā bodhisatto ‘‘tumhe imassa lolamakkaṭassa sīlācāraṃ ajānitvā avatthusmiṃyeva pasannā’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Seeing them thus praising his qualities, the Bodhisatta said, "You are pleased with this mischievous monkey without knowing his virtuous conduct, and without cause," and spoke the second verse:
Thấy những người đó khen ngợi đức hạnh của con khỉ, Bồ-tát nói: “Các người không biết giới hạnh của con khỉ tham lam này mà lại tùy hỷ một cách vô căn cứ,” rồi Ngài nói lên bài kệ thứ hai:
411
50.
50.
50.
412
‘‘Nāssa sīlaṃ vijānātha, anaññāya pasaṃsatha;
"You do not know his virtue, you praise him without knowing;
“Các người không biết giới hạnh của nó, mà lại khen ngợi mà không hiểu biết;
413
Aggihuttañca uhannaṃ, dve ca bhinnā kamaṇḍalū’’ti.
The fire-hut is polluted, and two water-strainers are broken."
Lửa tế đã bị phóng uế, và hai cái bình nước nhỏ đã bị đập vỡ.”
414
Tattha anaññāyāti ajānitvā.
Here, anaññāyā means "without knowing."
Ở đây, anaññāyā có nghĩa là: không biết.
Uhannanti iminā pāpamakkaṭena ūhadaṃ.
Uhanna means "polluted by this wicked monkey."
Uhanna có nghĩa là: đã bị con khỉ ác này phóng uế.
Kamaṇḍalūti kuṇḍikā.
Kamaṇḍalū means "water-strainers."
Kamaṇḍalū có nghĩa là: bình nước nhỏ.
‘‘Dve ca kuṇḍikā tena bhinnā’’ti evamassa aguṇaṃ kathesi.
“And two water-pots were broken by him,” thus he spoke ill of him.
Ngài đã nói về những điều xấu của nó như vậy: “Hai cái bình nước nhỏ đã bị nó đập vỡ.”
415
Manussā makkaṭassa kuhakabhāvaṃ ñatvā leḍḍuñca yaṭṭhiñca gahetvā pothetvā palāpetvā isigaṇassa bhikkhaṃ adaṃsu.
The people, knowing the monkey's deceitful nature, took clods and sticks, beat him, and chased him away, then gave alms to the company of ascetics.
Người dân biết được sự giả dối của con khỉ, họ cầm đá và gậy đánh đuổi nó đi, rồi cúng dường thức ăn cho nhóm đạo sĩ.
Isayopi himavantameva gantvā aparihīnajjhānā brahmalokaparāyaṇā ahesuṃ.
The ascetics, too, went to the Himalayas, and with their jhāna unimpaired, they became destined for the Brahma-world.
Các đạo sĩ cũng đi về Himavanta, không bị suy giảm thiền định và tái sinh vào cõi Phạm thiên.
416
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā makkaṭo ayaṃ kuhako bhikkhu ahosi, isigaṇo buddhaparisā, gaṇasatthā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, that monkey was this deceitful bhikkhu; the company of ascetics was the Buddha's assembly; and the leader of the company was I myself.”
Đức Bổn Sư thuyết pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Con khỉ lúc đó chính là Tỳ-khưu giả dối này, nhóm đạo sĩ là hội chúng của Đức Phật, còn vị đạo sư chính là ta.”
417
Ādiccupaṭṭhānajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth, the Story of the Ādiccupaṭṭhāna Jātaka, is concluded.
Lời bình luận về Jātaka Ādiccupaṭṭhāna là thứ năm.
418
* 6. Kaḷāyamuṭṭhijātakavaṇṇanā
* 6. The Story of the Kaḷāyamuṭṭhi Jātaka
* 6. Lời bình luận về Jātaka Kaḷāyamuṭṭhi
419
Bālo vatāyaṃ dumasākhagocaroti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
“Indeed, this fool who roams among tree branches”—the Teacher told this story while dwelling at Jetavana, concerning King Pasenadi of Kosala.
Bālo vatāyaṃ dumasākhagocaro (Thật ngu si, kẻ sống trên cành cây này) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Ekasmiñhi samaye vassakāle kosalarañño paccanto kupi.
For at one time, during the rainy season, the border region of King Pasenadi rebelled.
Vào một thời điểm, trong mùa mưa, vùng biên giới của vua Kosala nổi loạn.
Tattha ṭhitā yodhā dve tīṇi yuddhāni katvā paccatthike abhibhavituṃ asakkontā rañño sāsanaṃ pesesuṃ.
The warriors stationed there, having fought two or three battles, were unable to overcome the enemies and sent a message to the king.
Các chiến binh đóng ở đó đã đánh hai ba trận nhưng không thể đánh bại kẻ thù, nên họ gửi tin cho vua.
Rājā akāle vassāneyeva nikkhamitvā jetavanasamīpe khandhāvāraṃ bandhitvā cintesi – ‘‘ahaṃ akāle nikkhanto, kandarapadarādayo udakapūrā, duggamo maggo, satthāraṃ upasaṅkamissāmi, so maṃ ‘kahaṃ gacchasi, mahārājā’ti pucchissati, athāhaṃ etamatthaṃ ārocessāmi, na kho pana maṃ satthā samparāyikenevatthena anuggaṇhāti, diṭṭhadhammikenāpi anuggaṇhātiyeva, tasmiṃ sace me gamanena avuḍḍhi bhavissati, ‘akālo, mahārājā’ti vakkhati.
The king, setting out unseasonably during the rains, pitched camp near Jetavana and thought: “I have set out unseasonably; the ravines and gorges are filled with water, the path is difficult. I will approach the Teacher; he will ask me, ‘Where are you going, great king?’ Then I will inform him of this matter. The Teacher does not only favor me with matters concerning the future life, but also with matters concerning this present life. If my journey will not lead to prosperity, he will say, ‘It is not the right time, great king.’
Vua xuất quân ngay trong mùa mưa không đúng lúc, lập doanh trại gần Jetavana và suy nghĩ: “Ta đã xuất quân không đúng lúc, các khe núi và thung lũng đầy nước, đường đi khó khăn. Ta sẽ đến gặp Đức Bổn Sư, Ngài sẽ hỏi ta ‘Đại vương đi đâu vào giữa ban ngày thế này?’, rồi ta sẽ kể cho Ngài nghe chuyện này. Đức Bổn Sư không chỉ giúp ta về lợi ích trong tương lai mà còn giúp về lợi ích hiện tại. Nếu việc đi của ta không mang lại lợi ích, Ngài sẽ nói ‘Đại vương, không phải lúc này’.
Sace pana vuḍḍi bhavissati, tuṇhī bhavissatī’’ti.
But if it will lead to prosperity, he will remain silent.”
Còn nếu có lợi ích, Ngài sẽ im lặng.”
So jetavanaṃ pavisitvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
So he entered Jetavana, paid homage to the Teacher, and sat down to one side.
Ngài đi vào Jetavana, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi ngồi xuống một bên.
Satthā ‘‘handa kuto nu tvaṃ, mahārāja, āgacchasi divā divassā’’ti pucchi.
The Teacher asked, “Well, great king, from where do you come at this time of day?”
Đức Bổn Sư hỏi: “Này Đại vương, giữa ban ngày thế này, Đại vương từ đâu đến vậy?”
‘‘Bhante, ahaṃ paccantaṃ vūpasametuṃ nikkhanto ‘tumhe vanditvā gamissāmī’ti āgatomhī’’ti.
“Venerable Sir, I set out to pacify the border region, and I have come to pay homage to you before I go.”
“Bạch Thế Tôn, con đã xuất quân để dẹp yên vùng biên thùy, con đến đây để đảnh lễ Thế Tôn rồi sẽ đi.”
Satthā ‘‘pubbepi, mahārāja, rājāno senāya abbhuggacchamānāya paṇḍitānaṃ kathaṃ sutvā akāle abbhuggamanaṃ nāma na gamiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Even in the past, great king, kings, when their army was advancing, did not set out unseasonably after hearing the words of the wise,” and being requested by him, he recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Đại vương, ngay cả trong quá khứ, các vị vua khi quân đội xuất chinh, sau khi nghe lời khuyên của các bậc hiền trí, đã không xuất quân vào thời điểm không thích hợp,” rồi theo lời thỉnh cầu của vị vua ấy, Ngài kể chuyện quá khứ.
420
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa atthadhammānusāsako sabbatthakaamacco ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his minister, advising him on welfare and Dhamma, and was helpful in all matters.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là vị đại thần cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho nhà vua, là vị quan lo mọi việc.
Atha rañño paccante kupite paccantayodhā paṇṇaṃ pesesuṃ.
Then, when the border region rebelled, the border warriors sent a letter to the king.
Sau đó, khi vùng biên thùy của nhà vua nổi loạn, các chiến sĩ biên thùy đã gửi thư báo.
Rājā vassakāle nikkhamitvā uyyāne khandhāvāraṃ bandhi, bodhisatto rañño santike aṭṭhāsi.
The king set out during the rainy season and pitched camp in the park; the Bodhisatta was in attendance on the king.
Nhà vua xuất quân vào mùa mưa và đóng trại trong vườn, Bồ Tát đứng cạnh nhà vua.
Tasmiṃ khaṇe assānaṃ kaḷāye sedetvā āharitvā doṇiyaṃ pakkhipiṃsu.
At that moment, they steamed chickpeas for the horses, brought them, and put them in a trough.
Vào lúc đó, người ta luộc đậu gà cho ngựa ăn, rồi đổ vào máng.
Uyyāne makkaṭesu eko makkaṭo rukkhā otaritvā tato kaḷāye gahetvā mukhaṃ pūretvā hatthehipi gahetvā uppatitvā rukkhe nisīditvā khādituṃ ārabhi, athassa khādamānassa hatthako eko kaḷāyo bhūmiyaṃ pati.
One of the monkeys in the park climbed down from a tree, took chickpeas from there, filled its mouth, also took some with its hands, leaped up, sat in the tree, and began to eat. As it was eating, one chickpea from its hand fell to the ground.
Trong vườn, một con khỉ từ trên cây leo xuống, lấy đậu gà từ đó, nhét đầy mồm và cầm cả bằng tay, rồi nhảy lên cây ngồi ăn, nhưng khi đang ăn, một hạt đậu gà trong tay nó rơi xuống đất.
So mukhena ca hatthehi ca gahite sabbe kaḷāye chaḍḍetvā rukkhā oruyha tameva kaḷāyaṃ olokento taṃ kaḷāyaṃ adisvāva puna rukkhaṃ abhiruhitvā aḍḍe sahassaparājito viya socamāno dummukho rukkhasākhāyaṃ nisīdi.
It threw away all the chickpeas it held in its mouth and hands, climbed down from the tree, looked for that very chickpea, and without finding it, it climbed back up the tree and sat on a tree branch, dejected and sorrowful, as if having lost half a thousand.
Nó bỏ tất cả đậu gà đang giữ trong mồm và trong tay, leo xuống cây, tìm kiếm hạt đậu gà đó, nhưng không thấy, nó lại leo lên cây, ngồi trên cành cây với vẻ mặt buồn rầu, như thể đã thua mất nửa nghìn.
Rājā makkaṭassa kiriyaṃ disvā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘passatha, kiṃ nāmetaṃ makkaṭena kata’’nti pucchi.
The king, seeing the monkey's action, called the Bodhisatta and asked, “Look, what is this that the monkey has done?”
Nhà vua thấy hành động của con khỉ, gọi Bồ Tát lại và hỏi: “Ngài thấy không, con khỉ này đã làm gì thế?”
Bodhisatto ‘‘mahārāja, bahuṃ anavaloketvā appaṃ oloketvā dubbuddhino bālā evarūpaṃ karontiyevā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta said, “Great king, fools and dull-witted people always act like this, disregarding much and focusing on little,” and then he recited the first verse:
Bồ Tát nói: “Đại vương, những kẻ ngu si, kém trí tuệ, chỉ nhìn vào cái nhỏ mà không nhìn vào cái lớn, thường hành động như vậy,” rồi nói lên bài kệ thứ nhất:
421
51.
51.
51.
422
‘‘Bālo vatāyaṃ dumasākhagocaro, paññā janinda nayimassa vijjati;
“Indeed, this fool who roams among tree branches, O king of men, has no wisdom;
“Này vua của loài người, con khỉ sống trên cành cây này thật ngu si,
423
Kaḷāyamuṭṭhiṃ avakiriya kevalaṃ, ekaṃ kaḷāyaṃ patitaṃ gavesatī’’ti.
He throws away a handful of chickpeas entirely, and searches for one fallen chickpea.”
Nó vứt bỏ cả nắm đậu gà, chỉ tìm kiếm một hạt đậu gà đã rơi.”
424
Tattha dumasākhagocaroti makkaṭo.
Here, dumasākhagocaro means the monkey.
Trong đó, dumasākhagocaro nghĩa là con khỉ.
So hi dumasākhāsu gocaraṃ gaṇhāti, sāva assa gocaro sañcaraṇabhūmibhūtā, tasmā ‘‘dumasākhagocaro’’ti vuccati.
For it seeks its food among tree branches; that is its roaming ground, therefore it is called “dumasākhagocaro.”
Vì nó tìm thức ăn trên cành cây, đó là nơi nó đi lại, nên được gọi là “dumasākhagocaro.”
Janindāti rājānaṃ ālapati.
Janindā addresses the king.
Janindā là lời gọi nhà vua.
Rājā hi paramissarabhāvena janassa indoti janindo.
For the king is the lord of the people by virtue of his supreme sovereignty, hence janinda.
Vì nhà vua là bậc tối thượng, là chúa tể của muôn dân, nên gọi là janinda.
Kaḷāyamuṭṭhinti caṇakamuṭṭhiṃ.
Kaḷāyamuṭṭhiṃ means a handful of chickpeas.
Kaḷāyamuṭṭhiṃ là nắm đậu gà.
‘‘Kāḷarājamāsamuṭṭhi’’ntipi vadantiyeva.
Some also say “kāḷarājamāsamuṭṭhiṃ” (a handful of black beans).
Người ta cũng nói “Kāḷarājamāsamuṭṭhiṃ” (nắm đậu đen).
Avakiriyāti avakiritvā.
Avakiriyā means having thrown away.
Avakiriyā là vứt bỏ.
Kevalanti sabbaṃ.
Kevala means "all."
Kevalaṃ là tất cả.
Gavesatīti bhūmiyaṃ patitaṃ ekameva pariyesati.
Gavesatī means "searches for" (he searches for only one fallen on the ground).
Gavesatī là tìm kiếm chỉ một hạt đã rơi xuống đất.
425
Evaṃ vatvā puna bodhisatto taṃ upasaṅkamitvā rājānaṃ āmantetvā dutiyaṃ gāthamāha –
Having said this, the Bodhisatta again approached the king, addressed him, and spoke the second verse:
Nói như vậy xong, Bồ Tát lại đến gần và nói với nhà vua bài kệ thứ hai:
426
52.
52.
52.
427
‘‘Evameva mayaṃ rāja, ye caññe atilobhino;
‘‘Even so, O King, we and others who are excessively greedy;
“Cũng vậy, thưa Đại vương, chúng ta và những kẻ tham lam khác;
428
Appena bahuṃ jiyyāma, kaḷāyeneva vānaro’’ti.
Lose much for little, like the monkey with the chickpea.’’
Vì cái ít mà mất cái nhiều, như con khỉ vì hạt đậu gà.”
429
Tatrāyaṃ saṅkhepattho – mahārāja, evameva mayañca ye caññe lobhābhibhūtā janā sabbepi appena bahuṃ jiyyāma.
Herein is the brief meaning: O great king, in the same way, we and all other people overcome by greed lose much for little.
Ý nghĩa tóm tắt ở đây là: Đại vương, cũng như vậy, chúng ta và tất cả những người bị lòng tham chi phối, vì cái ít mà mất cái nhiều.
Mayañhi etarahi akāle vassānasamaye maggaṃ gacchantā appakassa atthassa kāraṇā bahukā atthā parihāyāma.
For we, going on the road at this untimely rainy season, lose many advantages for the sake of a small advantage.
Chúng ta hiện nay, khi đi đường vào mùa mưa không đúng lúc, vì một lợi ích nhỏ mà mất đi nhiều lợi ích.
Kaḷāyeneva vānaroti yathā ayaṃ vānaro ekaṃ kaḷāyaṃ pariyesamāno tenekena kaḷāyena sabbakaḷāyehi parihīno, evaṃ mayampi akālena kandarapadarādīsu pūresu gacchamānā appamattakaṃ atthaṃ pariyesamānā bahūhi hatthivāhanaassavāhanādīhi ceva balakāyena ca parihāyissāma.
Kaḷāyeneva vānaro means just as this monkey, searching for a single chickpea, was deprived of all chickpeas by that one chickpea, so too, we, going through ravines and chasms at an untimely moment, searching for a small advantage, will be deprived of many elephants, chariots, horses, and a strong army.
Kaḷāyeneva vānaro có nghĩa là: như con khỉ này, khi tìm kiếm một hạt đậu gà, đã mất tất cả các hạt đậu gà vì một hạt đó, cũng vậy, chúng ta nếu đi vào lúc không thích hợp, qua những khe núi, hẻm vực đầy nước, vì tìm kiếm một chút lợi ích nhỏ nhoi mà sẽ mất đi nhiều voi, xe, ngựa và quân lính.
Tasmā akāle gantuṃ na vaṭṭatīti rañño ovādaṃ adāsi.
Therefore, it is not proper to go at an untimely moment, so he gave advice to the king.
Vì vậy, không nên đi vào lúc không thích hợp, Bồ Tát khuyên răn nhà vua như vậy.
430
Rājā tassa kathaṃ sutvā tato nivattitvā bārāṇasimeva pāvisi.
The king, hearing his words, turned back from there and entered Bārāṇasī itself.
Nhà vua nghe lời khuyên của ngài, quay về và trở vào Bārāṇasī.
Corāpi ‘‘rājā kira coramaddanaṃ karissāmīti nagarā nikkhanto’’ti sutvā paccantato palāyiṃsu.
The bandits, too, hearing, ‘‘The king has left the city to suppress the bandits,’’ fled from the border region.
Bọn cướp nghe nói: “Hình như nhà vua đã xuất quân để dẹp cướp,” liền bỏ trốn khỏi vùng biên thùy.
Paccuppannepi corā ‘‘kosalarājā kira nikkhanto’’ti sutvā palāyiṃsu.
Even in the present, the bandits, hearing, ‘‘King Kosala has departed,’’ fled.
Ngay cả trong hiện tại, bọn cướp nghe nói: “Hình như vua Kosala đã xuất quân,” liền bỏ trốn.
Rājā satthu dhammadesanaṃ sutvā uṭṭhāyāsanā vanditvā padakkhiṇaṃ katvā sāvatthimeva pāvisi.
The king, having heard the Buddha’s discourse, rose from his seat, paid homage, circumambulated, and entered Sāvatthī itself.
Nhà vua nghe pháp thoại của Đức Bổn Sư, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ, đi nhiễu hữu rồi trở về Sāvatthī.
431
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse, connected the Jātaka: ‘‘At that time, the king was Ānanda; the wise minister, however, was I myself.’’
Đức Bổn Sư sau khi kể pháp thoại này, đã kết nối câu chuyện Jātaka: “Vào thời đó, nhà vua là Ānanda, còn vị đại thần hiền trí chính là Ta vậy.”
432
Kaḷāyamuṭṭhijātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Description of the Kaḷāyamuṭṭhi Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Nắm Đậu Gà, thứ sáu, đã kết thúc.
433
* 7. Tindukajātakavaṇṇanā
* 7. Description of the Tinduka Jātaka
* 7. Câu chuyện Jātaka về cây Tinduka
434
Dhanuhatthakalāpehīti idaṃ satthā jetavane viharanto paññāpāramiṃ ārabbha kathesi.
Dhanuhatthakalāpehī (with bows in hand and snares) – this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning the perfection of wisdom (paññāpāramī).
Dhanuhatthakalāpehī (Với cung và tên trong tay) — Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến hạnh Ba-la-mật về trí tuệ.
Satthā hi mahābodhijātake (jā. 2.18.124 ādayo) viya umaṅgajātake (jā. 2.22.590 ādayo) viya ca attano paññāya vaṇṇaṃ vaṇṇitaṃ sutvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva tathāgato paññavā, pubbepi paññavā upāyakusaloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
For the Teacher, having heard his own wisdom praised, as in the Mahābodhi Jātaka and the Umaṅga Jātaka, said, ‘‘Monks, the Tathāgata was not wise only now; he was wise and skillful in means even in the past,’’ and then recounted a past event.
Quả thật, Đức Bổn Sư, sau khi nghe lời tán thán về trí tuệ của mình, như trong Mahābodhijātaka (Jā. 2.18.124 tt.) và Umaṅgajātaka (Jā. 2.22.590 tt.), đã nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới có trí tuệ, mà trong quá khứ, Như Lai cũng đã có trí tuệ và khéo léo trong phương tiện,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
435
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto vānarayoniyaṃ nibbattitvā asītisahassavānaragaṇaparivāro himavantapadese vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the monkey species and dwelt in the Himavanta region, surrounded by a troop of eighty thousand monkeys.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát tái sinh làm loài khỉ, sống ở vùng Himavanta cùng với tám vạn con khỉ khác.
Tassāsanne eko paccantagāmako kadāci vasati, kadāci ubbasati.
Near him, there was a border village that was sometimes inhabited and sometimes abandoned.
Gần đó có một làng biên thùy, đôi khi có người ở, đôi khi lại bỏ hoang.
Tassa pana gāmassa majjhe sākhāviṭapasampanno madhuraphalo eko tindukarukkho atthi, vānaragaṇo ubbasitakāle āgantvā tassa phalāni khādati.
In the middle of that village, there was a tinduka tree with many branches and sweet fruits; the monkey troop would come and eat its fruits when the village was abandoned.
Trong làng đó có một cây tinduka sai cành lá, quả ngọt, đàn khỉ thường đến ăn quả của nó khi làng bị bỏ hoang.
Athāparasmiṃ phalavāre so gāmo puna āvāso ahosi daḷhaparikkhitto dvārayutto, sopi rukkho phalabhāranamitasākho aṭṭhāsi.
Then, at another fruiting season, that village became inhabited again, strongly fortified and with a gate, and that tree stood with its branches bent low by the weight of its fruit.
Đến mùa quả tiếp theo, làng đó lại có người ở, được bao bọc kiên cố và có cổng, cây tinduka đó cũng sai trĩu quả, cành lá rủ xuống.
Vānaragaṇo cintesi – ‘‘mayaṃ pubbe asukagāme tindukaphalāni khādāma, phalito nu kho so etarahi rukkho, udāhu no, āvasito so gāmo, udāhu no’’ti.
The monkey troop thought, ‘‘We used to eat tinduka fruits in that village. Has that tree borne fruit now, or not? Is that village inhabited, or not?’’
Đàn khỉ nghĩ: “Trước đây chúng ta đã ăn quả tinduka ở làng kia, không biết bây giờ cây đó có ra quả không, làng đó có người ở hay không?”
Evañca pana cintetvā ‘‘gaccha imaṃ pavattiṃ jānāhī’’ti ekaṃ vānaraṃ pesesi.
Having thought thus, they sent a monkey, saying, ‘‘Go and find out this news.’’
Nghĩ như vậy, chúng cử một con khỉ đi: “Hãy đi tìm hiểu tình hình này.”
So gantvā rukkhassa ca phalitabhāvaṃ gāmassa ca gāḷhavāsabhāvaṃ ñatvā āgantvā vānarānaṃ ārocesi.
He went, learned that the tree had borne fruit and that the village was firmly inhabited, and then returned and reported to the monkeys.
Con khỉ đó đi, biết được cây đã ra quả và làng đã có người ở đông đúc, rồi trở về báo cho đàn khỉ biết.
436
Vānarā tassa phalitabhāvaṃ sutvā ‘‘madhurāni tindukaphalāni khādissāmā’’ti ussāhajātā vānarindassa tamatthaṃ ārocesuṃ.
The monkeys, hearing that it had borne fruit, were eager, thinking, ‘‘We will eat the sweet tinduka fruits,’’ and reported the matter to the monkey king.
Đàn khỉ nghe tin cây ra quả, vui mừng nghĩ: “Chúng ta sẽ ăn quả tinduka ngọt,” rồi báo cho vua khỉ biết điều đó.
Vānarindo ‘‘gāmo āvāso anāvāso’’ti pucchi.
The monkey king asked, ‘‘Is the village inhabited or uninhabited?’’
Vua khỉ hỏi: “Làng đó có người ở hay không?”
‘‘Āvāso, devā’’ti.
‘‘It is inhabited, lord.’’
“Có người ở, thưa Bệ hạ.”
‘‘Tena hi na gantabbaṃ.
‘‘Then it should not be visited.
“Vậy thì không nên đi.
Manussā hi bahumāyā hontī’’ti.
For humans are very cunning.’’
Vì loài người rất xảo quyệt.”
‘‘Deva, manussānaṃ paṭisallānavelāya aḍḍharattasamaye khādissāmā’’ti bahū gantvā vānarindaṃ sampaṭicchāpetvā himavantā otaritvā tassa gāmassa avidūre manussānaṃ paṭisallānakālaṃ āgamayamānā mahāpāsāṇapiṭṭhe sayitvā majjhimayāme manussesu niddaṃ okkamantesu rukkhaṃ āruyha phalāni khādiṃsu.
‘‘Lord, we will eat at midnight, when humans are resting,’’ many of them went and persuaded the monkey king, then descended from the Himavanta and, not far from that village, waited for the time when humans would be resting. They lay on a large rock slab, and when humans fell asleep in the middle watch of the night, they climbed the tree and ate the fruits.
“Thưa Bệ hạ, chúng ta sẽ ăn vào lúc nửa đêm, khi loài người đang nghỉ ngơi.” Nhiều con khỉ đã thuyết phục vua khỉ, rồi từ Himavanta xuống, không xa làng đó, chúng nằm trên một tảng đá lớn chờ đến giờ loài người nghỉ ngơi, khi loài người đã ngủ say vào canh giữa, chúng leo lên cây và ăn quả.
Atheko puriso sarīrakiccena gehā nikkhamitvā gāmamajjhagato vānare disvā manussānaṃ ācikkhi.
Then a man, having left his house for bodily needs, came to the middle of the village, saw the monkeys, and informed the other people.
Lúc đó, một người đàn ông ra khỏi nhà để đi vệ sinh, khi đến giữa làng, thấy đàn khỉ, liền báo cho dân làng biết.
Bahū manussā dhanukalāpaṃ sannayhitvā nānāvudhahatthā leḍḍudaṇḍādīni ādāya ‘‘pabhātāya rattiyā vānare gaṇhissāmā’’ti rukkhaṃ parivāretvā aṭṭhaṃsu.
Many people, having prepared their bows and quivers, and holding various weapons, clods, sticks, and so on, surrounded the tree, saying, "We will catch the monkeys when the night breaks," and stood there.
Nhiều người cầm cung tên, giáo mác và các loại vũ khí khác, cùng với gạch đá, đứng vây quanh cây, nói: “Khi trời sáng, chúng ta sẽ bắt lũ khỉ.”
Asītisahassavānarā manusse disvā maraṇabhayatajjitā ‘‘natthi no aññaṃ paṭissaraṇaṃ aññatra vānarindenā’’ti tassa santikaṃ gantvā paṭhamaṃ gāthamāhaṃsu –
Eighty thousand monkeys, seeing the people, were terrified by the fear of death and, thinking, "There is no other refuge for us except the monkey king," went to him and spoke the first verse:
Tám vạn con khỉ thấy loài người, sợ chết, liền đến gặp vua khỉ và nói lên bài kệ thứ nhất:
437
53.
53.
53.
438
‘‘Dhanuhatthakalāpehi, nettiṃsavaradhāribhi;
"By those with bows in hand and quivers,
“Chúng con bị vây quanh bởi những người cầm cung tên, mang giáo mác tốt nhất;
439
Samantā parikiṇṇamha, kathaṃ mokkho bhavissatī’’ti.
By those holding excellent swords, we are surrounded on all sides; how shall there be liberation?"
Làm sao chúng con có thể thoát được?”
440
Tattha dhanuhatthakalāpehīti dhanukalāpahatthehi, dhanūni ceva sarakalāpe ca gahetvā ṭhitehīti attho.
There, dhanuhatthakalāpehi means by those with bows and quivers in hand, meaning by those standing holding bows and quivers of arrows.
Trong đó, dhanuhatthakalāpehī nghĩa là những người cầm cung tên trong tay, tức là những người đứng cầm cung và giỏ tên.
Nettiṃsavaradhāribhīti nettiṃsā vuccanti khaggā, uttamakhaggadhārīhīti attho.
Nettiṃsavaradhāribhī means nettiṃsa are called swords, meaning by those holding excellent swords.
Nettiṃsavaradhāribhī nghĩa là những người mang kiếm tốt nhất, nettiṃsa là kiếm.
Parikiṇṇamhāti parivāritamha.
Parikiṇṇamhā means we are surrounded.
Parikiṇṇamhā là chúng con bị vây quanh.
Kathanti kena nu kho upāyena amhākaṃ mokkho bhavissatīti.
Kathaṃ means by what means, indeed, shall there be liberation for us?
Kathaṃ nghĩa là bằng cách nào chúng con có thể thoát được?
441
Tesaṃ kathaṃ sutvā vānarindo ‘‘mā bhāyittha, manussā nāma bahukiccā, ajjapi majjhimayāmo vattati, api nāma tesaṃ ‘amhe māressāmā’ti parivāritānaṃ imassa kiccassa antarāyakaraṃ aññaṃ kiccaṃ uppajjeyyā’’ti vānare samassāsetvā dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing their words, the monkey king reassured the monkeys, saying, "Do not be afraid, humans are busy with many tasks, and it is still the middle watch of the night. Perhaps some other task, hindering this one, might arise for those who have surrounded us to kill us," and he spoke the second verse:
Nghe lời chúng nói, vua khỉ nói: “Đừng sợ, loài người có nhiều việc phải làm, bây giờ vẫn là canh giữa, có lẽ sẽ có việc khác phát sinh cản trở công việc của những kẻ đang vây chúng ta để giết chúng ta,” rồi an ủi đàn khỉ và nói lên bài kệ thứ hai:
442
54.
54.
54.
443
‘‘Appeva bahukiccānaṃ, attho jāyetha koci naṃ;
"Perhaps some other purpose may arise for these busy people;
“Mong rằng những người có nhiều việc sẽ có một số việc khác;
444
Atthi rukkhassa acchinnaṃ, khajjathaññeva tinduka’’nti.
There are still unplucked tinduka fruits on the tree; just eat them."
Vẫn còn quả tinduka chưa hái trên cây, cứ tiếp tục ăn đi.”
445
Tattha nanti nipātamattaṃ, appeva bahukiccānaṃ manussānaṃ añño koci attho uppajjeyyāti ayamevettha attho.
There, naṃ is merely a particle; the meaning here is simply, perhaps some other purpose may arise for these busy people.
Trong đó, naṃ chỉ là một tiểu từ, ý nghĩa ở đây là: mong rằng những người có nhiều việc sẽ có việc khác phát sinh.
Atthi rukkhassa acchinnanti imassa rukkhassa phalānaṃ ākaḍḍhanaparikaḍḍhanavasena acchinnaṃ bahu ṭhānaṃ atthi.
Atthi rukkhassa acchinnaṃ means there are many unplucked places on this tree's fruits, by way of pulling and plucking.
Atthi rukkhassa acchinnaṃ nghĩa là trên cây này còn rất nhiều chỗ quả chưa hái, do kéo và giật.
Khajjathaññeva tindukanti tindukaphalaṃ khajjathaññeva.
Khajjathaññeva tinduka means just eat the tinduka fruits.
Khajjathaññeva tinduka nghĩa là cứ tiếp tục ăn quả tinduka.
Tumhe hi yāvatakena vo attho atthi, tattakaṃ khādatha, amhākaṃ paharaṇakālaṃ jānissāmāti.
For you, eat as much as you need; we will know the time to strike.
Các ngươi cứ ăn bao nhiêu tùy thích, chúng ta sẽ biết thời điểm để hành động.
446
Evaṃ mahāsatto kapigaṇaṃ samassāsesi.
Thus, the Great Being reassured the troop of monkeys.
Đại Bồ-tát đã an ủi đoàn khỉ như vậy.
Ettakañhi assāsaṃ alabhamānā sabbepi te phalitena hadayena jīvitakkhayaṃ pāpuṇeyyuṃ.
If they had not received such reassurance, all of them would have perished with broken hearts.
Nếu không nhận được sự an ủi như vậy, tất cả chúng có thể đã chết vì trái tim tan vỡ.
Mahāsatto pana evaṃ vānaragaṇaṃ assāsetvā ‘‘sabbe vānare samānethā’’ti āha.
The Great Being, having thus reassured the troop of monkeys, said, "Gather all the monkeys."
Đại Bồ-tát sau khi an ủi đoàn khỉ như vậy, nói: “Hãy tập hợp tất cả các con khỉ lại.”
Samānentā tassa bhāgineyyaṃ senakaṃ nāma vānaraṃ adisvā ‘‘senako nāgato’’ti ārocesuṃ.
As they gathered them, they did not see his nephew, a monkey named Senaka, and reported, "Senaka has not come."
Khi tập hợp, họ không thấy con khỉ tên Senaka, cháu của ngài, và báo cáo: “Senaka chưa đến.”
‘‘Sace senako nāgato, tumhe mā bhāyittha, idāni vo so sotthiṃ karissatī’’ti.
"If Senaka has not come, do not be afraid; he will now ensure your safety."
Ngài nói: “Nếu Senaka chưa đến, các ngươi đừng sợ, bây giờ nó sẽ cứu các ngươi.”
Senakopi kho vānaragaṇassa gamanakāle niddāyitvā pacchā pabuddho kañci adisvā padānupadiko hutvā āgacchanto manusse disvā ‘‘vānaragaṇassa bhayaṃ uppanna’’nti ñatvā ekasmiṃ pariyante gehe aggiṃ jāletvā suttaṃ kantantiyā mahallakitthiyā santikaṃ gantvā khettaṃ gacchanto gāmadārako viya ekaṃ ummukaṃ gahetvā uparivāte ṭhatvā gāmaṃ padīpesi.
Senaka, having slept when the troop of monkeys departed, later awoke and, seeing no one, followed their tracks. When he saw the people, he realized that "fear has arisen for the troop of monkeys." He then lit a fire at one end of a house, went to an old woman who was spinning thread, and like a village boy going to the field, he took a burning brand, stood upwind, and set the village on fire.
Con khỉ Senaka, khi đoàn khỉ ra đi, nó đã ngủ quên, sau đó thức dậy không thấy ai, liền lần theo dấu chân mà đến, thấy con người, biết rằng “đoàn khỉ gặp nguy hiểm”, bèn đốt lửa ở một góc nhà, và như một đứa trẻ làng đi ra đồng, nó đến chỗ một bà lão đang kéo sợi, lấy một cây củi cháy, đứng ở phía đầu gió và đốt cháy ngôi làng.
Manussā makkaṭe chaḍḍetvā aggiṃ nibbāpetuṃ agamaṃsu.
The people abandoned the monkeys and went to extinguish the fire.
Con người bỏ mặc lũ khỉ và đi dập lửa.
Vānarā palāyantā senakassatthāya ekekaṃ phalaṃ gahetvā palāyiṃsu.
The monkeys, fleeing, each took a fruit for Senaka and escaped.
Lũ khỉ chạy trốn, mỗi con cầm một quả cây để giúp Senaka rồi bỏ chạy.
447
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bhāgineyyo senako mahānāmo sakko ahosi, vānaragaṇo buddhaparisā, vānarindo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the nephew Senaka was Mahānāma Sakka; the troop of monkeys was the Buddha's assembly; and the monkey king was I myself."
Đức Bổn Sư sau khi giảng bài Pháp này đã kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, cháu của ta, Senaka vĩ đại, chính là Sakka (Đế Thích); đoàn khỉ là hội chúng của Đức Phật; còn Vua khỉ chính là ta vậy.”
448
Tindukajātakavaṇṇanā sattamā.
The seventh chapter, the Tinduka Jātaka.
Chuyện Tiṇḍuka Jātaka, thứ bảy.
449
* 8. Kacchapajātakavaṇṇanā
* 8. The Kacchapa Jātaka
* 8. Chuyện Kacchapa Jātaka
450
Janittaṃ me bhavittaṃ meti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ahivātakarogamuttaṃ ārabbha kathesi.
Janittaṃ me bhavittaṃ me – The Teacher, while residing at Jetavana, told this story concerning a certain monk who had recovered from a plague.
Janittaṃ me bhavittaṃ me” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một người thoát khỏi bệnh dịch tả.
Sāvatthiyaṃ kira ekasmiṃ kule ahivātakarogo uppajji.
It is said that a plague had arisen in a certain family in Sāvatthī.
Nghe nói, tại Sāvatthī, một bệnh dịch tả đã bùng phát trong một gia đình.
Mātāpitaro puttaṃ āhaṃsu – ‘‘tāta, mā imasmiṃ gehe vasa, bhittiṃ bhinditvā palāyitvā yattha katthaci gantvā jīvitaṃ rakkha, pacchā āgantvā imasmiṃ nāma ṭhāne mahānidhānaṃ atthi, taṃ uddharitvā kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā sukhena jīveyyāsī’’ti.
The parents said to their son, "Dear son, do not stay in this house. Break through the wall, escape, and go wherever you can to preserve your life. Afterwards, when you return, there is a great treasure in this particular place; unearth it, establish your family, and live happily."
Cha mẹ nói với con trai: “Con trai, đừng ở trong ngôi nhà này, hãy phá tường mà bỏ trốn, đi đến bất cứ nơi nào con có thể sống sót; sau này trở về, ở nơi này có một kho báu lớn, hãy khai quật nó, gây dựng lại gia đình và sống hạnh phúc.”
Putto tesaṃ vacanaṃ sampaṭicchitvā bhittiṃ bhinditvā palāyitvā attano roge vūpasante āgantvā mahānidhānaṃ uddharitvā kuṭumbaṃ saṇṭhapetvā gharāvāsaṃ vasi.
The son accepted their words, broke through the wall, escaped, and when his illness subsided, he returned, unearthed the great treasure, established his family, and lived a household life.
Người con trai vâng lời cha mẹ, phá tường bỏ trốn, và sau khi bệnh của mình thuyên giảm, anh ta trở về, khai quật kho báu lớn, gây dựng lại gia đình và sống cuộc đời gia chủ.
So ekadivasaṃ sappitelādīni ceva vatthacchādanādīni ca gāhāpetvā jetavanaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā nisīdi.
So, one day, having taken ghee, oil, and other things, as well as clothes and coverings, he went to Jetavana, paid homage to the Teacher, and sat down.
Một ngày nọ, anh ta mang theo dầu rắn và các loại vải vóc, y phục, v.v., đến Jetavana, đảnh lễ Đức Bổn Sư rồi ngồi xuống.
Satthā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘tumhākaṃ gehe ahivātakarogo uppannoti assumha, kinti katvā muttosī’’ti pucchi, so taṃ pavattiṃ ācikkhi.
The Teacher exchanged greetings with him and asked, "We heard that a snake-bite disease arose in your house; how did you escape it?" He recounted the incident.
Đức Bổn Sư chào hỏi anh ta và hỏi: “Chúng ta nghe nói bệnh dịch tả đã bùng phát trong nhà con, con đã thoát khỏi nó bằng cách nào?” Anh ta kể lại câu chuyện.
Satthā ‘‘pubbepi kho, upāsaka, bhaye uppanne attano vasanaṭṭhāne ālayaṃ katvā aññattha agatā jīvitakkhayaṃ pāpuṇiṃsu, anālayaṃ pana katvā aññattha gatā jīvitaṃ labhiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Indeed, Upāsaka, even in the past, when danger arose, those who clung to their dwelling place and did not go elsewhere met with loss of life, but those who did not cling and went elsewhere obtained life." Having said this, and being requested by him, the Teacher related a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này cư sĩ, ngay cả trong quá khứ, khi nguy hiểm xảy ra, những người bám víu vào nơi ở của mình mà không đi nơi khác đã mất mạng; còn những người không bám víu mà đi nơi khác đã sống sót.” Sau khi nói vậy, theo lời thỉnh cầu của anh ta, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
451
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsigāmake kumbhakārakule nibbattitvā kumbhakārakammaṃ katvā puttadāraṃ posesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a potter's family in a Kāsī village, and by practicing the potter's craft, he supported his wife and children.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào gia đình thợ gốm ở làng Kāsī, làm nghề thợ gốm để nuôi vợ con.
Tadā pana bārāṇasiyaṃ mahānadiyā saddhiṃ ekābaddho mahājātassaro ahosi.
At that time, in Bārāṇasī, there was a great natural lake connected to the great river.
Khi ấy, ở Bārāṇasī có một hồ lớn thông với sông lớn.
So bahuudakakāle nadiyā saddhiṃ ekodako hoti, udake mandībhūte visuṃ hoti.
When there was much water, it became one with the river; when the water receded, it became separate.
Khi nước dâng cao, hồ và sông hòa làm một; khi nước cạn, chúng tách rời.
Macchakacchapā pana ‘‘imasmiṃ saṃvacchare suvuṭṭhikā bhavissati, imasmiṃ saṃvacchare dubbuṭṭhikā’’ti jānanti.
But fish and tortoises knew, "There will be good rainfall this year; there will be drought this year."
Cá và rùa biết: “Năm nay sẽ có mưa tốt, năm nay sẽ có hạn hán.”
Atha tasmiṃ sare nibbattamacchakacchapā ‘‘imasmiṃ saṃvacchare dubbuṭṭhikā bhavissatī’’ti ñatvā udakassa ekābaddhakāleyeva tamhā sarā nikkhamitvā nadiṃ agamiṃsu.
Then, the fish and tortoises born in that lake, knowing "There will be a drought this year," left that lake and went to the river when the water was connected.
Khi ấy, cá và rùa sinh sống trong hồ đó, biết rằng “năm nay sẽ có hạn hán”, liền rời hồ đó và đi ra sông khi nước còn thông với sông.
Eko pana kacchapo ‘‘idaṃ me jātaṭṭhānaṃ vaḍḍhitaṭṭhānaṃ, mātāpitūhi vasitaṭṭhānaṃ, na sakkomi imaṃ jahitu’’nti nadiṃ na agamāsi.
However, one tortoise thought, "This is my birthplace, my growing place, the place where my parents lived; I cannot abandon this," and did not go to the river.
Nhưng có một con rùa nói: “Đây là nơi ta sinh ra, nơi ta lớn lên, nơi cha mẹ ta đã sống, ta không thể bỏ nó mà đi,” nên nó không đi ra sông.
Atha nidāghasamaye tattha udakaṃ chijji, so kacchapo bodhisattassa mattikagahaṇaṭṭhāne bhūmiṃ khaṇitvā pāvisi.
Then, in the dry season, the water there dried up, and that tortoise dug into the ground at the Bodhisatta's clay-gathering place and entered it.
Sau đó, vào mùa khô, nước ở đó cạn kiệt, con rùa đào đất ở nơi Bồ-tát lấy đất sét và chui vào.
Bodhisatto ‘‘mattikaṃ gahessāmī’’ti tattha gantvā mahākuddālena bhūmiṃ khaṇanto kacchapassa piṭṭhiṃ bhinditvā mattikapiṇḍaṃ viya kuddāleneva naṃ uddharitvā thale pātesi.
The Bodhisatta, intending to gather clay, went there and, while digging the ground with a large spade, broke the tortoise's back and lifted it out with the spade like a lump of clay, dropping it on the dry ground.
Bồ-tát đến đó để lấy đất sét, khi đang đào đất bằng cái cuốc lớn, ngài đã làm vỡ mai con rùa và nhấc nó lên khỏi mặt đất như một cục đất sét bằng chính cái cuốc, rồi ném nó xuống đất khô.
So vedanāppatto hutvā ‘‘vasanaṭṭhāne ālayaṃ jahituṃ asakkonto evaṃ vināsaṃ pāpuṇi’’nti vatvā paridevamāno imā gāthā avoca –
Suffering pain, it said, "Unable to abandon my attachment to my dwelling place, I met with such destruction," and lamenting, it spoke these verses:
Con rùa đau đớn, than thở nói: “Vì không thể từ bỏ sự bám víu vào nơi ở của mình mà ta đã gặp phải sự hủy diệt như vậy,” rồi nói những câu kệ này:
452
55.
55.
55.
453
‘‘Janittaṃ me bhavittaṃ me, iti paṅke avassayiṃ;
"This is my birthplace, my growing place"—thus I stayed in the mud;
“Đây là nơi ta sinh ra, đây là nơi ta lớn lên,”
454
Taṃ maṃ paṅko ajjhabhavi, yathā dubbalakaṃ tathā;
That mud overwhelmed me, just like one who is weak;
Vì vậy ta đã bám víu vào vũng bùn; vũng bùn ấy đã hủy diệt ta, như thể ta yếu ớt vậy.
455
Taṃ taṃ vadāmi bhaggava, suṇohi vacanaṃ mama.
Therefore, Bhaggava, I tell you, listen to my words.
Hỡi Bhaggava, ta nói với ngươi điều này, hãy lắng nghe lời ta.
456
56.
56.
56.
457
‘‘Gāme vā yadi vāraññe, sukhaṃ yatrādhigacchati;
"In a village or in a forest, wherever one finds happiness,
Dù ở làng hay trong rừng, nơi nào người ta tìm thấy hạnh phúc,
458
Taṃ janittaṃ bhavittañca, purisassa pajānato;
That is one's birthplace and growing place, for a discerning person;
Người trí biết rằng đó là nơi sinh ra và lớn lên của mình.
459
Yamhi jīve tamhi gacche, na niketahato siyā’’ti.
Where one lives, there one should go; one should not be destroyed by attachment to a dwelling."
Nơi nào có thể sống, hãy đến đó, đừng bị tiêu diệt bởi sự bám víu vào nhà cửa.
460
Tattha janittaṃ me bhavittaṃ meti idaṃ mama jātaṭṭhānaṃ, idaṃ mama vaḍḍhitaṭṭhānaṃ.
There, janittaṃ me bhavittaṃ me means "This is my birthplace, this is my growing place."
Trong đó, janittaṃ me bhavittaṃ me có nghĩa là đây là nơi ta sinh ra, đây là nơi ta lớn lên.
Iti paṅke avassayinti iminā kāraṇenāhaṃ imasmiṃ kaddame avassayiṃ nipajjiṃ, vāsaṃ kappesinti attho.
Iti paṅke avassayi means "For this reason, I lay down in this mud, I made my abode," is the meaning.
Iti paṅke avassayi có nghĩa là vì lý do này, ta đã nương tựa, đã nằm xuống, đã định cư trong vũng bùn này.
Ajjhabhavīti adhiabhavi vināsaṃ pāpesi.
Ajjhabhavī means "overwhelmed, brought to destruction."
Ajjhabhavī có nghĩa là đã vượt qua, đã dẫn đến sự hủy diệt.
Bhaggavāti kumbhakāraṃ ālapati.
Bhaggavā addresses the potter.
Bhaggavā là cách gọi người thợ gốm.
Kumbhakārānañhi nāmagottapaññatti esā, yadidaṃ bhaggavāti.
For potters, this is indeed their name and clan designation, namely Bhaggava.
Thật vậy, tên gọi và dòng họ của những người thợ gốm là Bhaggava.
Sukhanti kāyikacetasikassādaṃ.
Sukhaṃ means "bodily and mental delight."
Sukha là sự thích thú về thể chất và tinh thần.
Taṃ janittaṃ bhavittañcāti taṃ jātaṭṭhānañca vaḍḍhitaṭṭhānañca.
Taṃ janittaṃ bhavittañcāti means "that birthplace and growing place."
Taṃ janittaṃ bhavittañcā có nghĩa là nơi sinh ra và nơi lớn lên đó.
‘‘Jānittaṃ bhāvitta’’nti dīghavasenapi pāṭho, soyevattho.
There is also the reading "jānittaṃ bhāvitta" with long vowels; the meaning is the same.
Cũng có bản đọc là “Jānittaṃ bhāvitta”, nghĩa vẫn như vậy.
Pajānatoti atthānatthaṃ kāraṇākāraṇaṃ jānantassa.
Pajānato means "for one who knows what is beneficial and what is not, what is a reason and what is not."
Pajānato có nghĩa là người biết điều lợi và điều hại, điều đúng và điều sai.
Na niketahato siyāti nikete ālayaṃ katvā aññattha agantvā niketena hato, evarūpaṃ maraṇadukkhaṃ pāpito na bhaveyyāti.
Na niketahato siyāti means "one should not be destroyed by attachment to a dwelling, having clung to a dwelling and not gone elsewhere, one should not be brought to such suffering of death."
Na niketahato siyā có nghĩa là đừng bị tiêu diệt bởi sự bám víu vào nhà cửa, tức là đừng bị cái chết đau khổ như vậy vì bám víu vào nhà cửa mà không đi nơi khác.
461
Evaṃ so bodhisattena saddhiṃ kathento kālamakāsi.
Thus, while conversing with the Bodhisatta, it passed away.
Nói chuyện với Bồ-tát như vậy, con rùa đã chết.
Bodhisatto taṃ gahetvā sakalagāmavāsino sannipātāpetvā te manusse ovadanto evamāha – ‘‘passatha imaṃ kacchapaṃ, ayaṃ aññesaṃ macchakacchapānaṃ mahānadiṃ gamanakāle attano vasanaṭṭhāne ālayaṃ chindituṃ asakkonto tehi saddhiṃ agantvā mama mattikagahaṇaṭṭhānaṃ pavisitvā nipajji.
The Bodhisatta, taking it, assembled all the villagers and admonished those people, saying, "Look at this tortoise! When other fish and tortoises went to the great river, this one, unable to sever its attachment to its dwelling place, did not go with them but entered my clay-gathering place and lay down.
Bồ-tát nhặt nó lên, tập hợp tất cả dân làng, và khuyên răn họ như sau: “Hãy nhìn con rùa này, khi những con cá và rùa khác đi ra sông lớn, nó không thể từ bỏ sự bám víu vào nơi ở của mình, nên đã không đi cùng chúng mà chui vào nơi ta lấy đất sét và nằm xuống.
Athassāhaṃ mattikaṃ gaṇhanto mahākuddālena piṭṭhiṃ bhinditvā mattikapiṇḍaṃ viya naṃ thale pātesiṃ, ayaṃ attanā katakammaṃ saritvā dvīhi gāthāhi paridevitvā kālamakāsi.
Then, as I was gathering clay, I broke its back with a large spade and dropped it on the dry ground like a lump of clay. Remembering its own deed, it lamented with two verses and passed away.
Sau đó, khi ta lấy đất sét, ta đã dùng cái cuốc lớn làm vỡ mai nó và ném nó xuống đất khô như một cục đất sét; nó nhớ lại hành động của mình, than thở bằng hai câu kệ rồi chết.
Evamesa attano vasanaṭṭhāne ālayaṃ katvā maraṇaṃ patto, tumhepi mā iminā kacchapena sadisā ahuvattha, ito paṭṭhāya ‘mayhaṃ rūpaṃ mayhaṃ saddo mayhaṃ gandho mayhaṃ raso mayhaṃ phoṭṭhabbo mayhaṃ putto mayhaṃ dhītā mayhaṃ dāsadāsiparicchedo mayhaṃ hiraññasuvaṇṇa’nti taṇhāvasena upabhogavasena mā gaṇhittha, ekakovesa satto tīsu bhavesu parivattatī’’ti.
Thus, this one, having formed attachment to his dwelling place, met death. You too, do not be like this tortoise. From now on, do not grasp at 'my form, my sound, my smell, my taste, my touch, my son, my daughter, my servants and retinue, my gold and silver' out of craving and attachment. This one being revolves in the three existences."
Như vậy, nó đã chết vì bám víu vào nơi ở của mình. Các ngươi cũng đừng giống như con rùa này. Từ nay trở đi, đừng bám víu vào ‘hình sắc của ta, âm thanh của ta, mùi hương của ta, vị của ta, xúc chạm của ta, con trai của ta, con gái của ta, nô tỳ, người hầu, tài sản của ta, vàng bạc của ta’ vì tham ái và sự hưởng thụ. Chỉ có một chúng sinh này luân chuyển trong ba cõi.”
Evaṃ buddhalīlāya mahājanassa ovādamadāsi, so ovādo sakalajambudīpaṃ pattharitvā saṭṭhimattāni vassasahassāni aṭṭhāsi.
Thus, with the Buddha's demeanor, he gave counsel to the great multitude. That counsel spread throughout the entire Jambudīpa and lasted for about sixty thousand years.
Như vậy, ngài đã ban lời khuyên cho đại chúng với phong thái của một vị Phật. Lời khuyên đó đã lan rộng khắp toàn bộ Jambudīpa và tồn tại trong sáu mươi nghìn năm.
Mahājano bodhisattassa ovāde ṭhatvā dānādīni puññāni katvā āyupariyosāne saggapuraṃ pūresi, bodhisattopi tatheva puññāni katvā saggapuraṃ pūresi.
The great multitude, abiding by the Bodhisatta's counsel, performed meritorious deeds such as giving, and at the end of their lives, filled the heavenly city. The Bodhisatta also, having performed meritorious deeds in the same way, filled the heavenly city.
Đại chúng, giữ lời khuyên của Bồ-tát, đã thực hiện các công đức như bố thí, và khi tuổi thọ kết thúc, họ đã lấp đầy cõi trời; Bồ-tát cũng vậy, sau khi thực hiện các công đức, ngài đã lấp đầy cõi trời.
462
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne so kulaputto sotāpattiphale patiṭṭhāsi.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, proclaimed the Truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, that young man of good family was established in the fruit of stream-entry (sotāpatti).
Đức Bổn Sư sau khi giảng bài Pháp này, tuyên bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân Lý được tuyên bố xong, người thanh niên đó đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā kacchapo ānando ahosi, kumbhakāro pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the tortoise was Ānanda, but the potter was I myself."
“Khi ấy, con rùa là Ānanda; còn người thợ gốm chính là ta vậy.”
463
Kacchapajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth Commentary on the Kacchapa Jātaka.
Chuyện Kacchapa Jātaka, thứ tám.
464
* 9. Satadhammajātakavaṇṇanā
* 9. Commentary on the Satadhamma Jātaka
* 9. Chuyện Satadhamma Jātaka
465
Tañca appanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekavīsatividhaṃ anesanaṃ ārabbha kathesi.
Tañca appa — This the Teacher spoke while residing at Jetavana, concerning the twenty-one kinds of improper livelihood (anesanā).
Tañca appa” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến hai mươi mốt loại sinh kế bất chính.
Ekasmiñhi kāle bahū bhikkhū vejjakammena dūtakammena pahiṇakammena jaṅghapesanikena piṇḍapaṭipiṇḍenāti evarūpāya ekavīsatividhāya anesanāya jīvikaṃ kappesuṃ.
For at one time, many bhikkhus sustained their lives by twenty-one kinds of improper livelihood, such as practicing medicine, acting as a messenger, being a go-between, running errands, and exchanging alms-food.
Thật vậy, vào một thời điểm, nhiều Tỳ-kheo đã kiếm sống bằng hai mươi mốt loại sinh kế bất chính như nghề y, làm sứ giả, làm người đưa thư, đi lại vất vả, nhận cúng dường rồi lại cúng dường lại.
sāketajātake (jā. 1.2.173-174) āvibhavissati.
This will become clear in the Sāketa Jātaka.
Điều này sẽ được trình bày trong Sāketajātake (Jā. 1.2.173-174).
Satthā tesaṃ tathā jīvikakappanabhāvaṃ ñatvā ‘‘etarahi kho bahū bhikkhū anesanāya jīvikaṃ kappenti, te pana evaṃ jīvikaṃ kappetvā yakkhattabhāvā petattabhāvā na muccissanti, dhuragoṇā hutvāva nibbattissanti, niraye paṭisandhiṃ gaṇhissanti, etesaṃ hitatthāya sukhatthāya attajjhāsayaṃ sakapaṭibhānaṃ ekaṃ dhammadesanaṃ kathetuṃ vaṭṭatī’’ti bhikkhusaṅghaṃ sannipātāpetvā ‘‘na, bhikkhave, ekavīsatividhāya anesanāya paccayā uppādetabbā.
The Teacher, knowing that many bhikkhus were sustaining their lives in such an improper way, thought: "Indeed, many bhikkhus are now sustaining their lives by improper means. By living thus, they will not be freed from the state of yakkhas or pretas; they will be reborn as draft oxen, and they will take rebirth in hell. For their welfare and happiness, it is fitting to deliver a discourse on the Dhamma based on my own inclination and insight." Having assembled the Saṅgha of bhikkhus, he said: "Bhikkhus, requisites should not be obtained by the twenty-one kinds of improper livelihood.
Đức Phật biết rằng họ đang sống bằng cách đó, và nghĩ: “Hiện nay, nhiều Tỳ-kheo đang sống bằng những phương tiện không chính đáng. Nếu họ tiếp tục sống như vậy, họ sẽ không thoát khỏi trạng thái quỷ thần hay ngạ quỷ, mà sẽ tái sinh làm bò kéo cày, và sẽ tái sinh vào địa ngục. Vì lợi ích và hạnh phúc của họ, ta nên thuyết một bài pháp thoại dựa trên ý định và trí tuệ của ta.” Ngài đã triệu tập Tăng đoàn và nói: “Này các Tỳ-kheo, không nên tạo ra các phương tiện sinh sống bằng hai mươi mốt cách không chính đáng.
Anesanāya hi uppanno piṇḍapāto ādittalohaguḷasadiso halāhalavisūpamo.
For alms-food obtained by improper livelihood is like a burning ball of iron, like deadly poison.
Thức ăn khất thực có được bằng cách không chính đáng giống như viên sắt nung đỏ, giống như chất độc halāhala.
Anesanā hi nāmesā buddhapaccekabuddhasāvakehi garahitabbā paṭikuṭṭhā.
Indeed, improper livelihood is censured and condemned by Buddhas, Paccekabuddhas, and their disciples.
Sự sống không chính đáng này bị các vị Phật, Độc Giác Phật và Thanh Văn Phật quở trách và ghét bỏ.
Anesanāya uppannaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjantassa hi hāso vā somanassaṃ vā natthi.
One who consumes alms-food obtained by improper livelihood has no joy or happiness.
Khi một người ăn thức ăn khất thực có được bằng cách không chính đáng, người đó không có niềm vui hay sự hoan hỷ.
Evaṃ uppanno hi piṇḍapāto mama sāsane caṇḍālassa ucchiṭṭhabhojanasadiso, tassa paribhogo satadhammamāṇavassa caṇḍālucchiṭṭhabhattaparibhogo viya hotī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
For alms-food obtained in this way is like the leavings of an outcaste in my Dispensation; its consumption is like the consumption of the outcaste's leavings by the youth Satadhamma," and having said this, he related a past event.
Thức ăn khất thực có được như vậy giống như thức ăn thừa của người hạ tiện trong giáo pháp của ta, việc sử dụng nó giống như việc Mãn Đồng tử sử dụng thức ăn thừa của người hạ tiện.” Sau đó, Ngài kể chuyện quá khứ.
466
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto caṇḍālayoniyaṃ nibbattitvā vayappatto kenacideva karaṇīyena pātheyyataṇḍule ca bhattapuṭañca gahetvā maggaṃ paṭipajji.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into an outcaste family. Having come of age, for some reason, he took travel-rice and a packet of food and set out on the road.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào dòng dõi người hạ tiện. Khi trưởng thành, vì một lý do nào đó, Ngài mang theo gạo khô và một gói cơm rồi lên đường.
Tasmiñhi kāle bārāṇasiyaṃ eko māṇavo atthi satadhammo nāma udiccabrāhmaṇamahāsālakule nibbatto.
At that time, there was a youth in Bārāṇasī named Satadhamma, born into the family of a great Brahmin of the northern country.
Vào thời điểm đó, ở Bārāṇasī có một thanh niên tên là Satadhamma, sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ưu việt ở phương Bắc.
Sopi kenacideva karaṇīyena taṇḍule ca bhattapuṭañca agahetvāva maggaṃ paṭipajji, te ubhopi mahāmagge samāgacchiṃsu.
He too, for some reason, set out on the road without taking rice or a packet of food. Both of them met on the main road.
Anh ta cũng vì một lý do nào đó mà không mang theo gạo khô hay gói cơm, rồi lên đường. Cả hai người họ gặp nhau trên đại lộ.
Māṇavo bodhisattaṃ ‘‘kiṃjātikosī’’ti pucchi.
The youth asked the Bodhisatta, "What is your caste?"
Thanh niên hỏi Bồ-tát: “Ngươi thuộc dòng dõi nào?”
So ‘‘ahaṃ caṇḍālo’’ti vatvā ‘‘tvaṃ kiṃjātikosī’’ti māṇavaṃ pucchi.
He said, "I am an outcaste," and then asked the youth, "What is your caste?"
Ngài trả lời: “Ta là người hạ tiện,” rồi hỏi lại thanh niên: “Ngươi thuộc dòng dõi nào?”
‘‘Udiccabrāhmaṇo aha’’nti.
"I am a Brahmin from the northern country."
“Ta là Bà-la-môn ưu việt ở phương Bắc.”
‘‘Sādhu gacchāmā’’ti te ubhopi maggaṃ agamaṃsu.
"Very well, let us go," and both of them proceeded on their way.
“Tốt, chúng ta đi thôi.” Cả hai người họ tiếp tục đi trên đường.
Bodhisatto pātarāsavelāya udakaphāsukaṭṭhāne nisīditvā hatthe dhovitvā bhattapuṭaṃ mocetvā ‘‘māṇava, bhattaṃ bhuñjāhī’’ti āha.
At breakfast time, the Bodhisatta sat down in a place with water, washed his hands, untied his packet of food, and said, "Youth, eat the food."
Vào giờ ăn sáng, Bồ-tát ngồi ở một nơi có nước thuận tiện, rửa tay, mở gói cơm và nói: “Này thanh niên, hãy ăn cơm đi.”
‘‘Natthi, are caṇḍāla, mama bhattena attho’’ti.
"No, you outcaste, I have no need for your food."
“Không, này người hạ tiện, ta không cần cơm của ngươi.”
Bodhisatto ‘‘sādhū’’ti puṭakabhattaṃ ucchiṭṭhaṃ akatvāva attano yāpanamattaṃ aññasmiṃ paṇṇe pakkhipitvā puṭakabhattaṃ bandhitvā ekamante ṭhapetvā bhuñjitvā pānīyaṃ pivitvā dhotahatthapādo taṇḍule ca sesabhattañca ādāya ‘‘gacchāma, māṇavā’’ti maggaṃ paṭipajji.
The Bodhisatta said, "Very well," and without making the packet-food defiled, he put his portion for sustenance into another leaf, tied up the packet-food, placed it aside, ate his meal, drank water, and with hands and feet washed, took the rice and remaining food and said, "Let us go, youth," and set out on the road.
Bồ-tát nói: “Tốt,” rồi không làm ô uế gói cơm, Ngài lấy phần đủ dùng của mình ra một chiếc lá khác, gói phần cơm còn lại lại, đặt sang một bên, ăn xong, uống nước, rửa tay chân, rồi mang theo gạo khô và phần cơm còn lại, nói: “Đi thôi, này thanh niên,” rồi tiếp tục lên đường.
467
Te sakaladivasaṃ gantvā sāyaṃ ubhopi ekasmiṃ udakaphāsukaṭṭhāne nhatvā paccuttariṃsu.
Having traveled the entire day, in the evening, both of them bathed at a suitable watering place and came out.
Họ đi suốt cả ngày, đến tối cả hai cùng tắm ở một nơi có nước thuận tiện rồi đi lên bờ.
Bodhisatto phāsukaṭṭhāne nisīditvā bhattapuṭaṃ mocetvā māṇavaṃ anāpucchitvā bhuñjituṃ ārabhi.
The Bodhisatta sat down at the suitable place, untied his food packet, and began to eat without asking the young brahmin.
Bồ-tát ngồi xuống một chỗ thuận tiện, mở gói cơm ra và bắt đầu ăn mà không hỏi ý tiểu đồng.
Māṇavo sakaladivasaṃ maggagamanena kilanto chātajjhatto ‘‘sace me bhattaṃ dassati, bhuñjissāmī’’ti olokento aṭṭhāsi.
The young brahmin, tired from traveling all day and tormented by hunger, stood looking on, thinking, "If he gives me food, I will eat."
Tiểu đồng, mệt mỏi vì đi đường cả ngày và đói khát, đứng nhìn với ý nghĩ: “Nếu ông ấy cho cơm, mình sẽ ăn.”
Itaro kiñci avatvā bhuñjateva.
The other one ate without saying anything.
Người kia không nói gì, cứ thế ăn.
Māṇavo cintesi – ‘‘ayaṃ caṇḍālo mayhaṃ avatvāva sabbaṃ bhuñjati nippīḷetvāpi taṃ gahetvā upari ucchiṭṭhabhattaṃ chaḍḍetvā sesaṃ bhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti.
The young brahmin thought, "This caṇḍāla eats everything without offering me any; it is proper to take it from him by force, throw away the leftover food on top, and eat the rest."
Tiểu đồng suy nghĩ: “Tên caṇḍāla này ăn hết mà không nói với mình. Mình nên giật lấy, đổ cơm thừa lên trên rồi ăn phần còn lại.”
So tathā katvā ucchiṭṭhabhattaṃ bhuñji.
He did so and ate the leftover food.
Anh ta làm như vậy và ăn cơm thừa.
Athassa bhuttamattasseva ‘‘mayā attano jātigottakulapadesānaṃ ananucchavikaṃ kataṃ, caṇḍālassa nāma me ucchiṭṭhabhattaṃ bhutta’’nti balavavippaṭisāro uppajji, tāvadevassa salohitaṃ bhattaṃ mukhato uggacchi.
Immediately after he had eaten, a strong sense of remorse arose in him: "I have done something unworthy of my birth, lineage, and family; I have eaten the leftover food of a caṇḍāla." At that very moment, the food mixed with blood came out of his mouth.
Ngay khi vừa ăn xong, một sự hối hận mãnh liệt nổi lên trong anh ta: “Mình đã làm một việc không xứng đáng với dòng dõi, gia tộc và quê hương của mình, mình đã ăn cơm thừa của một caṇḍāla.” Ngay lập tức, cơm lẫn máu trào ra từ miệng anh ta.
So ‘‘appamattakassa vata me kāraṇā ananucchavikaṃ kammaṃ kata’’nti uppannabalavasokatāya paridevamāno paṭhamaṃ gāthamāha –
Lamenting with intense sorrow, thinking, "For such a small reason, I have done an unworthy deed," he spoke the first verse:
Anh ta than khóc vì nỗi buồn sâu sắc nổi lên: “Vì một chút việc nhỏ mà mình đã làm một hành động không xứng đáng,” rồi nói lên bài kệ đầu tiên:
468
57.
57.
57.
469
‘‘Tañca appañca ucchiṭṭhaṃ, tañca kicchena no adā;
"That was little and leftover, and he gave it with difficulty;
“Nó vừa ít lại là đồ thừa,
470
Sohaṃ brāhmaṇajātiko, yaṃ bhuttaṃ tampi uggata’’nti.
I, being of brahmin birth, what I ate, even that came out."
Lại còn khó khăn lắm mới cho. Ta là người dòng Bà-la-môn, vậy mà thứ đã ăn cũng phải trào ra.”
471
Tatrāyaṃ saṅkhepattho – yaṃ mayā bhuttaṃ, taṃ appañca ucchiṭṭhañca, tañca so caṇḍālo na attano ruciyā maṃ adāsi, atha kho nippīḷiyamāno kicchena kasirena adāsi, sohaṃ parisuddhabrāhmaṇajātiko, teneva me yaṃ bhuttaṃ, tampi saddhiṃ lohitena uggatanti.
Herein, the concise meaning is: "What I ate was little and leftover, and that caṇḍāla did not give it to me willingly, but being pressed, he gave it with difficulty and trouble. I am of pure brahmin birth, and for that very reason, what I ate, even that came out with blood."
Đây là ý nghĩa tóm tắt: “Thứ ta đã ăn vừa ít lại là đồ thừa, và tên caṇḍāla đó không cho ta vì ý muốn của hắn, mà phải bị ép buộc, khó khăn lắm mới cho. Ta là người dòng Bà-la-môn thanh tịnh, chính vì thế mà thứ ta đã ăn cũng trào ra cùng với máu.”
472
Evaṃ māṇavo paridevitvā ‘‘kiṃ dāni me evarūpaṃ ananucchavikaṃ kammaṃ katvā jīvitenā’’ti araññaṃ pavisitvā kassaci attānaṃ adassetvāva anāthamaraṇaṃ patto.
Thus, the young brahmin lamented and, thinking, "What use is life to me after doing such an unworthy deed?" he entered the forest and died an unprotected death without showing himself to anyone.
Sau khi than khóc như vậy, tiểu đồng nghĩ: “Giờ đây, sau khi làm một việc không xứng đáng như thế này, ta sống còn ý nghĩa gì nữa?” rồi đi vào rừng, không để ai thấy mình và chết một cái chết không nơi nương tựa.
473
Satthā imaṃ atītaṃ dassetvā ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, satadhammamāṇavassa taṃ caṇḍālucchiṭṭhakaṃ bhuñjitvā attano ayuttabhojanassa bhuttattā neva hāso, na somanassaṃ uppajji, evameva yo imasmiṃ sāsane pabbajito anesanāya jīvikaṃ kappento tathāladdhapaccayaṃ paribhuñjati, tassa buddhapaṭikuṭṭhagarahitajīvitabhāvato neva hāso, na somanassaṃ uppajjatī’’ti vatvā abhisambuddho hutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having related this past event, said, "Just as, bhikkhus, when the young brahmin Satadhamma ate that caṇḍāla's leftover food, no joy or happiness arose in him because he had eaten inappropriate food, even so, for one who has gone forth in this Dispensation and lives by improper means, consuming requisites thus obtained, no joy or happiness arises because his livelihood is condemned and censured by the Buddha." Having said this, and having become fully enlightened, he spoke the second verse:
Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện quá khứ này và nói: “Này các Tỳ-khưu, giống như tiểu đồng Satadhamma, sau khi ăn cơm thừa của caṇḍāla, vì đã ăn một món ăn không phù hợp với mình, không có sự vui vẻ, không có sự hoan hỷ nào khởi lên; cũng vậy, người xuất gia trong giáo pháp này, sống bằng cách kiếm sống bất chính (anesanā), và thọ dụng những vật phẩm nhận được như vậy, vì cách sống đó bị Đức Phật khiển trách và chê bai, nên không có sự vui vẻ, không có sự hoan hỷ nào khởi lên.” Nói xong, Đức Phật đã giác ngộ và nói bài kệ thứ hai:
474
58.
58.
58.
475
‘‘Evaṃ dhammaṃ niraṃkatvā, yo adhammena jīvati;
"Having rejected the Dhamma thus, whoever lives by unrighteousness;
“Ai hủy bỏ Chánh pháp như vậy,
476
Satadhammova lābhena, laddhenapi na nandatī’’ti.
Like Satadhamma, he does not rejoice in the gain, even when obtained."
Sống bằng phi pháp, thì dù có được lợi lộc cũng không hoan hỷ, giống như Satadhamma.”
477
Tattha dhammanti ājīvapārisuddhisīladhammaṃ.
Herein, Dhamma means the Dhamma of purity of livelihood and morality.
Trong đó, dhamma (pháp) là pháp giới đức hạnh thanh tịnh về sinh kế.
Niraṃkatvāti nīharitvā chaḍḍetvā.
Niraṃkatvā means having removed, having discarded.
Niraṃkatvā (hủy bỏ) nghĩa là loại bỏ, vứt bỏ.
Adhammenāti ekavīsatiyā anesanasaṅkhātena micchājīvena.
Adhammena means by wrong livelihood, which consists of twenty-one improper means of earning a living.
Adhammena (bằng phi pháp) là bằng tà mạng, bao gồm hai mươi mốt cách kiếm sống bất chính (anesanā).
Satadhammoti tassa nāmaṃ, ‘‘santadhammo’’tipi pāṭho.
Satadhammo is his name; "Santadhammo" is also a reading.
Satadhammo là tên của anh ta, cũng có bản đọc là “Santadhammo.”
Na nandatīti yathā satadhammo māṇavo ‘‘caṇḍālucchiṭṭhakaṃ me laddha’’nti tena lābhena na nandati, evaṃ imasmimpi sāsane pabbajito kulaputto anesanāya laddhalābhaṃ paribhuñjanto na nandati na tussati, ‘‘buddhagarahitajīvikāya jīvāmī’’ti domanassappatto hoti.
Na nandatī means just as the young brahmin Satadhamma did not rejoice in that gain, thinking, "I have received a caṇḍāla's leftover food," even so, a son of good family who has gone forth in this Dispensation and consumes gains obtained by improper means does not rejoice or delight, but becomes distressed, thinking, "I live by a livelihood censured by the Buddha."
Na nandatī (không hoan hỷ) nghĩa là, giống như tiểu đồng Satadhamma không hoan hỷ với lợi lộc đó khi nghĩ: “Mình đã nhận được cơm thừa của caṇḍāla,” thì cũng vậy, người con trai dòng dõi xuất gia trong giáo pháp này, khi thọ dụng lợi lộc nhận được bằng cách kiếm sống bất chính (anesanā), thì không hoan hỷ, không vui mừng, mà trở nên ưu phiền khi nghĩ: “Mình đang sống bằng một cách sống bị Đức Phật khiển trách.”
Tasmā anesanāya jīvikaṃ kappentassa satadhammamāṇavasseva araññaṃ pavisitvā anāthamaraṇaṃ marituṃ varanti.
Therefore, it is better for one who lives by improper means to enter the forest and die an unprotected death, just like the young brahmin Satadhamma.
Vì vậy, thà chết một cái chết không nơi nương tựa trong rừng, giống như tiểu đồng Satadhamma, còn hơn là sống bằng cách kiếm sống bất chính (anesanā).
478
Evaṃ satthā imaṃ dhammadesanaṃ desetvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne bahū bhikkhū sotāpattiphalādīni pāpuṇiṃsu.
Thus, the Teacher, having delivered this Dhamma discourse, revealed the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, many bhikkhus attained the fruits of stream-entry and so forth.
Như vậy, Đức Bổn Sư đã giảng bài pháp này, tuyên bố các Chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi các Chân lý được tuyên bố, nhiều Tỳ-khưu đã chứng đắc các quả vị như Sơ quả Dự lưu.
‘‘Tadā māṇavo ānando ahosi, ahameva caṇḍālaputto ahosi’’nti.
"At that time, the young brahmin was Ānanda, and I myself was the caṇḍāla's son."
“Khi ấy, tiểu đồng là Ānanda, còn ta chính là người con trai của caṇḍāla.”
479
Satadhammajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Commentary on the Satadhamma Jātaka.
Chuyện Jātaka về Satadhamma, thứ chín.
480
* 10. Duddadajātakavaṇṇanā
* 10. Commentary on the Duddada Jātaka
* 10. Chuyện Jātaka về Duddada
481
Duddadaṃ dadamānānanti idaṃ satthā jetavane viharanto gaṇadānaṃ ārabbha kathesi.
" Duddadaṃ dadamānaṃ" (Difficult to give, for givers) – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning a collective offering.
Duddadaṃ dadamānānaṃ (Khó cho những người đang cho) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một việc cúng dường tập thể.
Sāvatthiyaṃ kira dve sahāyakā kuṭumbiyaputtā chandakaṃ saṃharitvā sabbaparikkhāradānaṃ sajjetvā buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā sattāhaṃ mahādānaṃ pavattetvā sattame divase sabbaparikkhāre adaṃsu.
It is said that in Sāvatthī, two brahmin householder friends collected contributions, prepared an offering of all requisites, invited the Sangha headed by the Buddha, held a great offering for seven days, and on the seventh day, gave away all the requisites.
Người ta kể rằng, ở Sāvatthī, hai người bạn là con trai của các gia chủ đã cùng nhau góp tiền, chuẩn bị một lễ cúng dường đầy đủ mọi vật phẩm, mời Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, tổ chức một lễ cúng dường lớn trong bảy ngày, và vào ngày thứ bảy, họ đã cúng dường tất cả các vật phẩm.
Tesu gaṇajeṭṭhako satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīditvā ‘‘bhante, imasmiṃ dāne bahudāyakāpi atthi appadāyakāpi, tesaṃ sabbesampi ‘idaṃ dānaṃ mahapphalaṃ hotū’’’ti dānaṃ niyyādesi.
Among them, the group leader, having paid homage to the Teacher, sat down to one side and dedicated the offering, saying, "Venerable Sir, in this offering there are many donors and also few donors; may this offering be of great fruit for all of them."
Trong số đó, người đứng đầu nhóm đã đảnh lễ Đức Bổn Sư, ngồi sang một bên và nói: “Bạch Thế Tôn, trong lễ cúng dường này có nhiều người cúng dường và cũng có ít người cúng dường. Con xin hồi hướng lễ cúng dường này với mong muốn rằng ‘cầu mong lễ cúng dường này mang lại quả báo lớn’ cho tất cả họ.”
Satthā ‘‘tumhehi kho upāsakā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ datvā evaṃ niyyādentehi mahākammaṃ kataṃ, porāṇakapaṇḍitāpi dānaṃ datvā evameva niyyādiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Indeed, lay followers, by you, having given an offering to the Saṅgha of bhikkhus headed by the Buddha and having thus dedicated it, a great deed has been done. Ancient wise ones also gave offerings and dedicated them in just this way." Having said this, being requested by him, the Teacher related a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này các cư sĩ, việc các ông cúng dường cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu và hồi hướng như vậy là một việc làm vĩ đại. Các bậc hiền triết thời xưa cũng đã cúng dường và hồi hướng tương tự.” Nói xong, theo lời thỉnh cầu của họ, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
482
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā gharāvāsaṃ pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā gaṇasatthā hutvā himavantapadese ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya janapadacārikaṃ caramāno bārāṇasiṃ patvā rājuyyāne vasitvā punadivase dvāragāme saparivāro bhikkhāya cari.
In the past, when Brahmadatta reigned in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn into a brahmin family in the Kāsī country. Having reached maturity, he learned all crafts in Takkasilā, then abandoned the household life, took up the ascetic's renunciation, and became a group teacher. After dwelling for a long time in the Himalayan region, he wandered through the countryside to partake of salty and sour flavors, reached Bārāṇasī, stayed in the royal park, and on the next day, with his retinue, went for alms in a village near the city gate.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát được sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī. Khi trưởng thành, Ngài học tất cả các nghề ở Takkasilā, sau đó từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia làm ẩn sĩ, trở thành giáo chủ của một nhóm ẩn sĩ, sống lâu năm ở vùng Himalaya, rồi đi du hóa khắp các vùng đất để tìm muối và các vị chua, đến Bārāṇasī, trú trong vườn thượng uyển của nhà vua. Ngày hôm sau, Ngài cùng tùy tùng đi khất thực ở một ngôi làng gần cổng thành.
Manussā bhikkhaṃ adaṃsu.
The people gave alms.
Người dân đã cúng dường thức ăn.
Punadivase bārāṇasiyaṃ cari, manussā sampiyāyamānā bhikkhaṃ datvā gaṇabandhanena chandakaṃ saṃharitvā dānaṃ sajjetvā isigaṇassa mahādānaṃ pavattayiṃsu.
The next day, he went for alms in Bārāṇasī. The people, showing affection, gave alms, collected contributions by forming groups, prepared an offering, and presented a great offering to the group of ascetics.
Ngày hôm sau, Ngài đi khất thực ở Bārāṇasī. Người dân, vì yêu mến, đã cúng dường thức ăn, rồi cùng nhau góp tiền, chuẩn bị một lễ cúng dường và tổ chức một lễ cúng dường lớn cho nhóm ẩn sĩ.
Dānapariyosāne gaṇajeṭṭhako evameva vatvā imināva niyāmena dānaṃ niyyādesi.
At the conclusion of the offering, the group leader spoke in the same manner and dedicated the offering according to the same method.
Khi lễ cúng dường kết thúc, người đứng đầu nhóm cũng nói tương tự và hồi hướng lễ cúng dường theo cách này.
Bodhisatto ‘‘āvuso, cittappasāde sati appakaṃ nāma dānaṃ natthī’’ti vatvā anumodanaṃ karonto imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, saying, "Friends, when there is purity of mind, no offering is insignificant," spoke these verses while giving the anumodanā:
Bồ-tát nói: “Này các bạn, khi tâm hoan hỷ thì không có món cúng dường nào là nhỏ,” rồi Ngài nói những bài kệ sau để tùy hỷ:
483
59.
59.
59.
484
‘‘Duddadaṃ dadamānānaṃ, dukkaraṃ kamma kubbataṃ;
"Those who give what is hard to give,
“Khó cho người đang bố thí,
485
Asanto nānukubbanti, sataṃ dhammo durannayo.
those who do what is hard to do—
Khó cho người đang làm việc khó. Kẻ bất thiện không làm theo, pháp của bậc thiện khó hiểu.”
486
60.
60.
60.
487
‘‘Tasmā satañca asataṃ, nānā hoti ito gati;
The ignoble do not imitate them; the Dhamma of the noble is hard to follow.
“Vì thế, con đường đi của người thiện và người bất thiện khác nhau từ đây;
488
Asanto nirayaṃ yanti, santo saggaparāyaṇā’’ti.
Therefore, the destination of the noble and the ignoble is different from here: the ignoble go to hell, the noble have heaven as their destination."
Kẻ bất thiện đọa địa ngục, người thiện hướng về cõi trời.”
489
Tattha duddadanti dānaṃ nāma lobhadosavasikehi apaṇḍitehi dātuṃ na sakkā, tasmā ‘‘duddada’’nti vuccati.
Therein, duddada means that giving, being impossible for the foolish who are under the sway of greed and hatred, is therefore called "hard to give."
Trong đó, duddadanti (khó cho): bố thí là việc mà những kẻ ngu si, bị tham sân chi phối không thể làm được, vì thế gọi là “duddada” (khó cho).
Taṃ dadamānānaṃ.
To those giving that.
Đối với những người đang thực hiện việc bố thí đó.
Dukkaraṃ kamma kubbatanti tadeva dānakammaṃ sabbehi kātuṃ na sakkāti dukkaraṃ.
Dukkaraṃ kamma kubbataṃ means that very act of giving is hard because it cannot be done by all.
Dukkaraṃ kamma kubbatanti (đang làm việc khó): chính việc bố thí đó là việc khó, không phải ai cũng có thể làm được.
Taṃ kurumānānaṃ.
To those performing that.
Đối với những người đang thực hiện việc đó.
Asantoti apaṇḍitā bālā.
Asanto means the foolish, the ignorant.
Asantoti (kẻ bất thiện): là những kẻ ngu si, khờ dại.
Nānukubbantīti taṃ kammaṃ nānukaronti.
Nānukubbhantī means they do not imitate that act.
Nānukubbantīti (không làm theo): là không làm theo việc đó.
Sataṃ dhammoti paṇḍitānaṃ sabhāvo.
Sataṃ dhammo means the nature of the wise.
Sataṃ dhammoti (pháp của người thiện): là bản chất của những người trí tuệ.
Dānaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
This was said with reference to giving.
Điều này được nói đến để chỉ việc bố thí.
Durannayoti phalasambandhavasena dujjāno, evarūpassa dānassa evarūpo phalavipāko hotīti duranubodho.
Durannayo means hard to know in terms of its fruit connection, hard to comprehend that such a gift has such a result and ripening.
Durannayoti (khó hiểu): là khó biết về sự liên hệ quả báo, khó nhận thức rằng việc bố thí như thế này sẽ có quả báo như thế kia.
Apica durannayoti duradhigamo, apaṇḍitehi dānaṃ datvā dānaphalaṃ nāma laddhuṃ na sakkātipi attho.
Furthermore, durannayo means hard to attain; it also means that the foolish cannot obtain the fruit of giving after having given a gift.
Hơn nữa, durannayoti (khó đạt được): là khó đạt được, cũng có nghĩa là những kẻ ngu si không thể đạt được quả báo của việc bố thí sau khi đã bố thí.
Nānā hoti ito gatīti ito cavitvā paralokaṃ gacchantānaṃ paṭisandhiggahaṇaṃ nānā hoti.
Nānā hoti ito gatī means that for those who depart from here and go to the other world, their rebirth is diverse.
Nānā hoti ito gatīti (con đường đi khác nhau từ đây): là sự tái sinh của những người rời bỏ thế giới này để đi đến thế giới khác là khác nhau.
Asanto nirayaṃ yantīti apaṇḍitā dussīlā dānaṃ adatvā sīlaṃ arakkhitvā nirayaṃ gacchanti.
Asanto nirayaṃ yantī means that the foolish and immoral, not having given gifts and not having protected morality, go to hell.
Asanto nirayaṃ yantīti (kẻ bất thiện đọa địa ngục): là những kẻ ngu si, ác đức, không bố thí, không giữ giới sẽ đi đến địa ngục.
Santo saggaparāyaṇāti paṇḍitā pana dānaṃ datvā sīlaṃ rakkhitvā uposathakammaṃ karitvā tīṇi sucaritāni pūretvā saggaparāyaṇā honti, mahantaṃ saggasukhasampattiṃ anubhavantīti.
Santo saggaparāyaṇā means that the wise, however, having given gifts, protected morality, performed Uposatha duties, and fulfilled the three good conduct, have heaven as their destination, experiencing great heavenly bliss and prosperity.
Santo saggaparāyaṇāti (người thiện hướng về cõi trời): còn những người trí tuệ, sau khi bố thí, giữ giới, thực hành Uposatha, hoàn thành ba thiện hạnh, sẽ hướng về cõi trời, hưởng thụ sự giàu sang hạnh phúc lớn lao ở cõi trời.
490
Evaṃ bodhisatto anumodanaṃ katvā cattāro vassike māse tattheva vasitvā vassātikkame himavantaṃ gantvā jhānaṃ nibbattetvā aparihīnajjhāno brahmalokūpago ahosi.
Thus, the Bodhisatta, having given the anumodanā, dwelt there for the four months of the rainy season. After the rainy season, he went to the Himalayas, developed jhāna, and being one whose jhāna had not declined, he became one who attained the Brahma-world.
Như vậy, Bồ Tát đã tùy hỷ công đức, ở lại đó suốt bốn tháng mùa mưa, sau khi mùa mưa qua, Ngài đi đến Hy Mã Lạp Sơn, thực hành thiền định, và không bị mất thiền định, Ngài đã tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
491
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā isigaṇo buddhaparisā ahosi, gaṇasatthā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, identified the Jātaka: "At that time, the group of ascetics was the Buddha's assembly; the group teacher was I myself."
Đức Đạo Sư đã kể lại bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi ấy, nhóm đạo sĩ là hội chúng của Đức Phật, còn vị đạo sư của nhóm chính là ta vậy.”
492
Duddadajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth, the Duddada Jātaka, is concluded.
Chuyện Duddada Jātaka thứ mười.
493
Kalyāṇavaggo tatiyo.
The third chapter, Kalyāṇavagga.
Phẩm Kalyāṇa thứ ba.
494
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt của phẩm đó –
495
Kalyāṇadhammaṃ daddaraṃ, makkaṭi dubbhimakkaṭaṃ;
Kalyāṇadhamma, Daddara, Makkaṭī, Dubbhimakkaṭa,
Kalyāṇadhamma, Daddara, Makkaṭī, Dubbhimakkaṭa;
496
Ādiccupaṭṭhānañceva, kaḷāyamuṭṭhi tindukaṃ;
Ādiccupaṭṭhāna, Kaḷāyamuṭṭhi, Tinduka,
Ādiccupaṭṭhāna, Kaḷāyamuṭṭhi, Tinduka;
497
Kacchapaṃ satadhammañca, duddadanti ca te dasa.
Kacchapa, Satadhamma, and Duddada—these are the ten.
Kacchapa, Satadhamma, và Duddada – đó là mười chuyện.
498

4. Asadisavaggo

4. Asadisavagga

4. Phẩm Asadisa

499
* 1. Asadisajātakavaṇṇanā
* 1. Asadisa Jātaka
* 1. Chuyện Asadisa Jātaka
500
Dhanuggaho asadisoti idaṃ satthā jetavane viharanto mahābhinikkhamanaṃ ārabbha kathesi.
Dhanuggaho asadiso (The Incomparable Archer) – The Teacher told this story while residing at Jetavana, concerning the Great Renunciation.
Dhanuggaho asadisoti (Người bắn cung vô song): Câu chuyện này Đức Đạo Sư đã kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến sự Đại Xả Bỏ của Ngài.
Ekadivasañhi bhikkhū dhammasabhāyaṃ sannisinnā bhagavato mahānikkhamapāramiṃ vaṇṇentā nisīdiṃsu.
One day, bhikkhus were seated in the Dhamma hall, extolling the Blessed One's perfection of the Great Renunciation.
Một ngày nọ, các Tỳ Khưu tụ họp trong Pháp đường, đang ca ngợi sự Ba-la-mật về Đại Xả Bỏ của Đức Thế Tôn.
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, tathāgato idāneva mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto, pubbepi setacchattaṃ pahāya nikkhantoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Monks, what discussion are you engaged in now?" When they replied, "This one, venerable sir," he said, "Monks, the Tathāgata did not undertake the Great Renunciation only now; in the past too, he renounced, abandoning the white parasol," and then he related a past story.
Đức Đạo Sư đến và hỏi: “Này các Tỳ Khưu, hiện giờ các ông đang tụ họp nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời “Chuyện này đây,” Ngài nói: “Này các Tỳ Khưu, không phải chỉ bây giờ Như Lai mới thực hiện Đại Xả Bỏ, mà trước đây, Ngài cũng đã từ bỏ lọng trắng mà xuất gia rồi,” và Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
501
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi, tassa sotthinā jātassa nāmaggahaṇadivase ‘‘asadisakumāro’’ti nāmaṃ akaṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was conceived in the womb of his chief queen. On the naming day of the child, who was born safely, they named him "Asadisakumāra".
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào thai của vị hoàng hậu cả, và vào ngày đặt tên cho đứa bé sinh ra một cách an lành, họ đặt tên là “Asadisa Kumāra” (Hoàng tử Vô Song).
Athassa ādhāvitvā paridhāvitvā vicaraṇakāle añño puññavā satto deviyā kucchimhi paṭisandhiṃ gaṇhi, tassa sotthinā jātassa nāmaggahaṇadivase ‘‘brahmadattakumāro’’ti nāmaṃ akaṃsu.
Then, while he was running and playing around, another meritorious being was conceived in the womb of the queen. On the naming day of the child, who was born safely, they named him "Brahmadattakumāra".
Sau đó, khi Ngài đang chạy nhảy vui chơi, một chúng sinh có phước đức khác đã tái sinh vào thai của hoàng hậu, và vào ngày đặt tên cho đứa bé sinh ra một cách an lành, họ đặt tên là “Brahmadatta Kumāra” (Hoàng tử Brahmadatta).
Tesu bodhisatto soḷasavassakāle takkasilaṃ gantvā disāpāmokkhassa ācariyassa santike tayo vede aṭṭhārasa ca sippāni uggaṇhitvā tesu issāsasippe asadiso hutvā bārāṇasiṃ paccāgami.
Among them, when the Bodhisatta was sixteen years old, he went to Takkasilā, learned the three Vedas and eighteen crafts from the world-renowned teacher, and, becoming unequalled in archery, returned to Bārāṇasī.
Khi Bồ Tát được mười sáu tuổi, Ngài đi đến Takkasilā, học ba bộ Veda và mười tám môn nghệ thuật từ vị đạo sư danh tiếng, và trở thành vô song trong môn bắn cung, rồi Ngài trở về Bārāṇasī.
Rājā kālaṃ karonto ‘‘asadisakumārassa rajjaṃ datvā brahmadattassa oparajjaṃ dethā’’ti vatvā kālamakāsi.
The king, on his deathbed, said, "Give the kingdom to Asadisakumāra and the viceroyalty to Brahmadatta," and then passed away.
Khi vua băng hà, Ngài đã nói: “Hãy trao vương quốc cho Asadisa Kumāra và chức phó vương cho Brahmadatta,” rồi Ngài băng hà.
Tasmiṃ kālakate bodhisatto attano rajje dīyamāne ‘‘na mayhaṃ rajjenattho’’ti paṭikkhipi, brahmadattaṃ rajje abhisiñciṃsu.
When he had passed away, the Bodhisatta, when his own kingdom was offered, refused, saying, "I have no need of a kingdom." So they consecrated Brahmadatta as king.
Khi vua băng hà, Bồ Tát đã từ chối khi vương quốc được trao cho Ngài, nói rằng: “Ta không có ý muốn làm vua,” và họ đã tấn phong Brahmadatta lên ngôi vua.
Bodhisatto ‘‘mayhaṃ rajjena attho natthī’’ti kiñcipi na icchi, kaniṭṭhe rajjaṃ kārente pakatiyā vasanākāreneva vasi.
The Bodhisatta did not desire anything, saying, "I have no need of a kingdom," and lived in his usual manner while his younger brother reigned.
Bồ Tát không muốn bất cứ điều gì, nói rằng: “Ta không có ý muốn làm vua,” và Ngài sống như bình thường trong khi em trai Ngài trị vì.
Rājapādamūlikā ‘‘asadisakumāro rajjaṃ patthetī’’ti vatvā rañño santike bodhisattaṃ paribhindiṃsu.
The royal courtiers slandered the Bodhisatta to the king, saying, "Asadisakumāra desires the kingdom."
Những cận thần của vua đã nói: “Asadisa Kumāra đang mong muốn vương quốc,” và họ đã chia rẽ Bồ Tát với vua.
Sopi tesaṃ vacanaṃ gahetvā paribhinnacitto ‘‘bhātaraṃ me gaṇhathā’’ti manusse payojesi.
He, taking their words to heart and with a divided mind, sent men, saying, "Seize my brother."
Vua cũng nghe lời họ, tâm bị chia rẽ, và sai người đi bắt anh trai mình.
502
Atheko bodhisattassa atthacarako taṃ kāraṇaṃ bodhisattassa ārocesi.
Then a well-wisher of the Bodhisatta informed him of the matter.
Một người bạn của Bồ Tát đã báo tin đó cho Ngài.
Bodhisatto kaniṭṭhabhātikassa kujjhitvā nagarā nikkhamitvā aññaṃ raṭṭhaṃ gantvā ‘‘eko dhanuggaho āgantvā rājadvāre ṭhito’’ti rañño ārocāpesi.
The Bodhisatta, angry with his younger brother, left the city, went to another country, and sent word to the king, "An archer has arrived and is standing at the royal gate."
Bồ Tát nổi giận với em trai mình, rời khỏi thành phố, đi đến một quốc gia khác, và sai người báo với vua rằng: “Có một cung thủ đã đến và đang đứng trước cổng hoàng cung.”
Rājā ‘‘kittakaṃ bhogaṃ icchasī’’ti pucchi.
The king asked, "How much wealth do you desire?"
Vua hỏi: “Ngươi muốn bao nhiêu tài sản?”
‘‘Ekasaṃvaccharena satasahassa’’nti.
"One hundred thousand per year."
“Một trăm ngàn mỗi năm.”
‘‘Sādhu āgacchatū’’ti.
"Good, let him come."
“Tốt lắm, hãy đến đi.”
Atha naṃ āgantvā samīpe ṭhitaṃ pucchi – ‘‘tvaṃ dhanaggahosī’’ti?
Then, when he came and stood nearby, the king asked, "Are you an archer?"
Khi Ngài đến và đứng gần đó, vua hỏi: “Ngươi là cung thủ sao?”
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, Your Majesty."
“Vâng, thưa Đại Vương.”
‘‘Sādhu maṃ upaṭṭhahassū’’ti.
"Good, attend to me."
“Tốt lắm, hãy phục vụ ta đi.”
So tato paṭṭhāya rājānaṃ upaṭṭhahi.
From then on, he attended to the king.
Từ đó trở đi, Ngài đã phục vụ nhà vua.
Tassa paribbayaṃ dīyamānaṃ disvā ‘‘atibahuṃ labhatī’’ti porāṇakadhanuggahā ujjhāyiṃsu.
Seeing the expenses given to him, the old archers grumbled, "He receives too much."
Thấy Ngài được trả công hậu hĩnh, các cung thủ cũ đã phàn nàn: “Người này nhận được quá nhiều.”
Athekadivasaṃ rājā uyyānaṃ gantvā maṅgalasilāpaṭṭasamīpe sāṇipākāraṃ parikkhipāpetvā ambarukkhamūle mahāsayane nipanno uddhaṃ olokento rukkhagge ekaṃ ambapiṇḍiṃ disvā ‘‘imaṃ na sakkā abhiruhitvā gaṇhitu’’nti dhanuggahe pakkosāpetvā ‘‘imaṃ ambapiṇḍiṃ sarena chinditvā pātetuṃ sakkhissathā’’ti āha.
Then one day, the king went to the pleasure garden, had a curtain wall erected around the auspicious stone slab, and lay on a large couch under a mango tree. Looking up, he saw a mango fruit at the top of the tree and, thinking, "It's impossible to climb up and get this," he summoned the archers and asked, "Can you shoot this mango fruit down with an arrow?"
Một ngày nọ, vua đi đến vườn thượng uyển, cho dựng hàng rào vải quanh tảng đá may mắn, nằm trên chiếc giường lớn dưới gốc cây xoài, nhìn lên và thấy một quả xoài trên ngọn cây, nghĩ: “Không thể leo lên hái được,” vua cho gọi các cung thủ và hỏi: “Các ngươi có thể bắn mũi tên chặt rụng quả xoài này không?”
Na taṃ, deva, amhākaṃ garu, devena pana no bahuvāre kammaṃ diṭṭhapubbaṃ, adhunāgato dhanuggaho amhehi bahutaraṃ labhati, taṃ pātāpethāti.
"That is not difficult for us, Your Majesty. But Your Majesty has seen our work many times before. The archer who has just arrived receives much more than us. Let him shoot it down."
“Thưa Đại Vương, việc đó không khó với chúng tôi, nhưng Đại Vương đã thấy chúng tôi làm việc nhiều lần rồi, cung thủ mới đến này nhận được nhiều hơn chúng tôi, hãy bảo hắn bắn đi.”
503
Rājā bodhisattaṃ pakkosāpetvā ‘‘sakkhissasi, tāta, etaṃ pātetu’’nti pucchi.
The king summoned the Bodhisatta and asked, "My dear, can you shoot this down?"
Vua cho gọi Bồ Tát và hỏi: “Này con, con có thể bắn rụng quả này không?”
‘‘Āma, mahārāja, ekaṃ okāsaṃ labhamāno sakkhissāmī’’ti.
"Yes, Your Majesty, I can, if I get a suitable place."
“Vâng, thưa Đại Vương, nếu được một vị trí thích hợp, con có thể làm được.”
‘‘Katarokāsa’’nti?
"What kind of place?"
“Vị trí nào?”
‘‘Tumhākaṃ sayanassa antokāsa’’nti.
"A place inside your couch."
“Vị trí bên trong giường của Đại Vương.”
Rājā sayanaṃ harāpetvā okāsaṃ kāresi.
The king had the couch moved and made space.
Vua cho dời giường đi và tạo ra một khoảng trống.
Bodhisattassa hatthe dhanu natthi, nivāsanantare dhanuṃ sannayhitvā vicarati, tasmā ‘‘sāṇiṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti āha.
The Bodhisatta did not have a bow in his hand; he carried his bow concealed within his robes. Therefore, he said, "A curtain is needed."
Bồ Tát không cầm cung trên tay, Ngài giấu cung trong lớp áo, vì thế Ngài nói: “Cần phải có một tấm màn.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sāṇiṃ āharāpetvā parikkhipāpesi.
The king said, "Good," and had a curtain brought and erected.
Vua nói: “Tốt lắm,” và cho mang tấm màn đến để dựng lên.
Bodhisatto antosāṇiṃ pavisitvā uparinivatthaṃ setavatthaṃ haritvā ekaṃ rattapaṭaṃ nivāsetvā kacchaṃ bandhitvā ekaṃ rattapaṭaṃ udare bandhitvā pasibbakato sandhiyuttaṃ khaggaṃ nīharitvā vāmapasse sannayhitvā suvaṇṇakañcukaṃ paṭimuñcitvā cāpanāḷiṃ piṭṭhiyaṃ sannayhitvā sandhiyuttameṇḍakamahādhanuṃ ādāya pavāḷavaṇṇaṃ jiyaṃ āropetvā uṇhīsaṃ sīse paṭimuñcitvā tikhiṇakhurappaṃ nakhehi parivattayamāno sāṇiṃ dvidhā katvā pathaviṃ phāletvā alaṅkatanāgakumāro viya nikkhamitvā sarakhipanaṭṭhānaṃ gantvā khurappaṃ sannayhitvā rājānaṃ āha – ‘‘kiṃ, mahārāja, etaṃ ambapiṇḍiṃ uddhaṃ ārohanakaṇḍena pātemi, udāhu adho orohanakaṇḍenā’’ti.
The Bodhisatta entered the inner curtain, removed the white cloth he was wearing, put on a red cloth, tied a sash, tied another red cloth around his waist, drew out a jointed sword from its sheath, fastened it on his left side, put on a golden breastplate, fastened a quiver on his back, took a jointed ram's horn great bow, strung it with a coral-colored string, put a turban on his head, and while turning a sharp razor-arrow with his nails, he split the curtain in two, broke through the ground, and emerged like an adorned Nāga prince. He went to the arrow-storage place, fastened the razor-arrow, and said to the king: "Your Majesty, shall I fell this mango cluster with an upward-flying arrow, or with a downward-flying arrow?"
Bồ Tát bước vào bên trong tấm màn, cởi chiếc áo trắng đang mặc, mặc một chiếc y màu đỏ, thắt một chiếc y màu đỏ quanh eo, thắt một chiếc y màu đỏ quanh bụng, rút một thanh kiếm có khớp nối từ bao ra và thắt vào bên trái, mặc áo giáp vàng, thắt ống đựng tên sau lưng, cầm cây cung lớn có khớp nối làm bằng sừng dê, lắp dây cung màu san hô, đội vương miện lên đầu, xoay mũi tên sắc bén bằng móng tay, xé đôi tấm màn, xuyên thủng mặt đất, xuất hiện như một hoàng tử rắn được trang điểm, đi đến chỗ bắn tên, lắp mũi tên và nói với vua: “Thưa Đại Vương, con sẽ bắn rụng quả xoài này bằng mũi tên bay lên hay bằng mũi tên bay xuống?”
‘‘Tāta, bahū mayā ārohanakaṇḍena pātentā diṭṭhapubbā, orohanakaṇḍena pana pātentā mayā na diṭṭhapubbā, orohanakaṇḍena pātehī’’ti.
"My son, I have seen many felling with an upward-flying arrow before, but I have never seen anyone felling with a downward-flying arrow. Fell it with a downward-flying arrow."
“Này con, ta đã thấy nhiều người bắn rụng bằng mũi tên bay lên, nhưng ta chưa từng thấy ai bắn rụng bằng mũi tên bay xuống, hãy bắn bằng mũi tên bay xuống đi.”
‘‘Mahārāja, idaṃ kaṇḍaṃ dūraṃ ārohissati, yāva cātumahārājikabhavanaṃ, tāva gantvā sayaṃ orohissati, yāvassa orohanaṃ, tāva tumhehi adhivāsetuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Your Majesty, this arrow will ascend far, it will go as far as the Cātumahārājika realm, and then descend by itself. You must endure until its descent."
“Thưa Đại Vương, mũi tên này sẽ bay rất xa, nó sẽ bay đến tận cõi Tứ Đại Thiên Vương, rồi tự mình bay xuống, Đại Vương cần phải đợi cho đến khi nó bay xuống.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king assented, saying, "So be it."
Vua nói: “Tốt lắm,” và chấp thuận.
504
Atha naṃ puna āha – ‘‘mahārāja, idaṃ kaṇḍaṃ pana ārohamānaṃ ambapiṇḍivaṇṭaṃ yāvamajjhaṃ kantamānaṃ ārohissati, orohamānaṃ kesaggamattampi ito vā etto vā agantvā ujuññeva patitvā ambapiṇḍiṃ gahetvā otarissati, passa, mahārājā’’ti vegaṃ janetvā kaṇḍaṃ khipi.
Then he said to him again: "Your Majesty, this arrow, as it ascends, will cut the stem of the mango cluster right to the middle. As it descends, it will not go even a hair's breadth this way or that, but will fall straight down, take the mango cluster, and descend. See, Your Majesty!" He generated speed and shot the arrow.
Sau đó, Ngài lại nói: “Thưa Đại Vương, mũi tên này khi bay lên sẽ cắt cành quả xoài đến tận giữa, khi bay xuống sẽ không lệch một sợi tóc nào, mà sẽ rơi thẳng xuống, mang theo quả xoài. Hãy xem, thưa Đại Vương!” rồi Ngài tạo ra một lực mạnh và bắn mũi tên.
Taṃ kaṇḍaṃ ambapiṇḍivaṇṭaṃ yāvamajjhaṃ kantamānaṃ abhiruhi.
That arrow ascended, cutting the stem of the mango cluster right to the middle.
Mũi tên đó bay lên, cắt cành quả xoài đến tận giữa.
Bodhisatto ‘‘idāni taṃ kaṇḍaṃ yāva cātumahārājikabhavanaṃ gataṃ bhavissatī’’ti ñatvā paṭhamaṃ khittakaṇḍato adhikataraṃ vegaṃ janetvā aññaṃ kaṇḍaṃ khipi, taṃ gantvā purimakaṇḍapuṅkhe paharitvā nivattitvā sayaṃ tāvatiṃsabhavanaṃ abhiruhi.
Knowing that "now that arrow must have reached the Cātumahārājika realm," the Bodhisatta generated even greater speed than the first arrow and shot another arrow. That arrow went and struck the nock of the first arrow, turned back, and ascended to the Tāvatiṃsa realm.
Bồ Tát biết rằng: “Bây giờ mũi tên đó chắc đã đến cõi Tứ Đại Thiên Vương,” Ngài tạo ra một lực mạnh hơn mũi tên đã bắn trước đó và bắn một mũi tên khác, mũi tên đó bay đến, đập vào đuôi mũi tên trước, rồi quay trở lại và tự mình bay lên cõi Tam Thập Tam Thiên.
Tattha naṃ devatā aggahesuṃ, nivattanakaṇḍassa vātachinnasaddo asanisaddo viya ahosi.
There the devas took it. The sound of the returning arrow, cut by the wind, was like the sound of a thunderbolt.
Ở đó, các vị chư thiên đã đón lấy nó, và âm thanh của mũi tên quay trở lại bị gió cắt ngang giống như tiếng sấm sét.
Mahājanena ‘‘kiṃ eso saddo’’ti vutte bodhisatto ‘‘nivattanakaṇḍassa saddo’’ti vatvā attano attano sarīre kaṇḍassa patanabhāvaṃ ñatvā bhītatasitaṃ mahājanaṃ ‘‘mā bhāyitthā’’ti samassāsetvā ‘‘kaṇḍassa bhūmiyaṃ patituṃ na dassāmī’’ti āha.
When the great multitude asked, "What is that sound?" the Bodhisatta said, "It is the sound of the returning arrow," and knowing that the arrow was about to fall on their respective bodies, he reassured the frightened and terrified multitude, saying, "Do not be afraid," and added, "I will not let the arrow fall to the ground."
Khi đại chúng hỏi: “Tiếng gì vậy?”, Bồ Tát đáp: “Tiếng mũi tên quay về.” Sau khi biết mũi tên sẽ rơi vào thân thể mình, Ngài trấn an đại chúng đang sợ hãi, run rẩy: “Đừng sợ hãi,” và nói: “Ta sẽ không để mũi tên rơi xuống đất.”
Kaṇḍaṃ otaramānaṃ kesaggamattampi ito vā etto vā agantvā ujuññeva patitvā ambapiṇḍiṃ chindi.
The descending arrow did not go even a hair's breadth this way or that, but fell straight down and cut the mango cluster.
Mũi tên đang bay xuống, không lệch một sợi tóc nào, mà thẳng tắp rơi xuống và cắt đứt chùm xoài.
Bodhisatto ambapiṇḍiyā ca kaṇḍassa ca bhūmiyaṃ patituṃ adatvā ākāseyeva sampaṭicchanto ekena hatthena ambapiṇḍiṃ, ekena hatthena kaṇḍaṃ aggahesi.
The Bodhisatta, without letting the mango cluster or the arrow fall to the ground, caught them in mid-air, holding the mango cluster with one hand and the arrow with the other.
Bồ Tát không để chùm xoài và mũi tên rơi xuống đất, mà đón lấy chúng giữa không trung, một tay cầm chùm xoài, một tay cầm mũi tên.
Mahājano taṃ acchariyaṃ disvā ‘‘na no evarūpaṃ diṭṭhapubba’’nti mahāpurisaṃ pasaṃsati unnadati apphoṭeti aṅguliyo vidhūnati, celukkhepasahassāni pavatteti.
Seeing that wonder, the great multitude praised the great being, saying, "We have never seen such a thing before," and they cheered, clapped their hands, waved their fingers, and performed thousands of cloth-waving gestures.
Đại chúng thấy điều kỳ diệu đó, nói: “Chúng tôi chưa từng thấy điều gì như vậy trước đây,” và khen ngợi vị đại nhân, tung hô, vỗ tay, búng ngón tay, và tung hàng ngàn mảnh vải.
Rājaparisāya tuṭṭhapahaṭṭhāya bodhisattassa dinnadhanaṃ koṭimattaṃ ahosi.
The amount of wealth given to the Bodhisatta by the delighted and overjoyed royal assembly was a koti.
Số tiền mà triều đình hoan hỷ trao cho Bồ Tát lên đến hàng triệu.
Rājāpissa dhanavassaṃ vassento viya bahuṃ dhanaṃ mahantañca yasaṃ adāsi.
The king also gave him much wealth and great fame, as if raining down riches.
Đức vua cũng ban tặng Ngài rất nhiều tài sản và danh tiếng lớn, như thể đang làm mưa tiền.
505
Evaṃ bodhisatte tena raññā sakkate garukate tattha vasante ‘‘asadisakumāro kira bārāṇasiyaṃ natthī’’ti satta rājāno āgantvā bārāṇasinagaraṃ parivāretvā ‘‘rajjaṃ vā detu yuddhaṃ vā’’ti rañño paṇṇaṃ pesesuṃ.
While the Bodhisatta was thus honored and respected by that king, and was residing there, seven kings, hearing, "There is no prince like Asadisa in Bārāṇasī," came and surrounded the city of Bārāṇasī, sending a letter to the king, saying, "Either give up the kingdom or fight."
Khi Bồ Tát được nhà vua đó tôn kính và ở lại đó, bảy vị vua nghe nói: “Không có vị hoàng tử nào sánh bằng ở Bārāṇasī,” liền đến bao vây thành Bārāṇasī và gửi thư cho vua, nói: “Hãy giao vương quốc hoặc chiến đấu.”
Rājā maraṇabhayabhīto ‘‘kuhiṃ me bhātā vasatī’’ti pucchitvā ‘‘ekaṃ sāmantarājānaṃ upaṭṭhahatī’’ti sutvā ‘‘mama bhātike anāgacchante mayhaṃ jīvitaṃ natthi, gacchatha tassa mama vacanena pāde vanditvā khamāpetvā gaṇhitvā āgacchathā’’ti dūte pāhesi.
The king, terrified by the fear of death, asked, "Where does my brother live?" and hearing, "He attends upon a neighboring king," he sent messengers, saying, "If my brother does not come, I have no life. Go, pay homage at his feet on my behalf, apologize, and bring him back."
Đức vua sợ hãi cái chết, hỏi: “Em trai ta ở đâu?” Nghe nói: “Ngài đang phụng sự một vị vua chư hầu,” vua liền gửi sứ giả đi, nói: “Nếu em trai ta không đến, ta sẽ không sống nổi. Hãy đi, nhân danh ta, đảnh lễ dưới chân ngài, xin lỗi và đưa ngài về đây.”
Te gantvā bodhisattassa taṃ pavattiṃ ārocesuṃ.
They went and reported that news to the Bodhisatta.
Họ đi và báo tin đó cho Bồ Tát.
Bodhisatto taṃ rājānaṃ āpucchitvā bārāṇasiṃ paccāgantvā rājānaṃ ‘‘mā bhāyī’’ti samassāsetvā kaṇḍe akkharāni chinditvā ‘‘ahaṃ asadisakumāro āgato, aññaṃ ekakaṇḍaṃ khipanto sabbesaṃ vo jīvitaṃ harissāmi, jīvitena atthikā palāyantū’’ti aṭṭālake ṭhatvā sattannaṃ rājūnaṃ bhuñjantānaṃ kañcanapātimakuleyeva kaṇḍaṃ pātesi.
The Bodhisatta, having taken leave of that king, returned to Bārāṇasī, reassured the king saying, "Do not fear," inscribed letters on an arrow saying, "I, Asadisakumāra, have arrived. If I shoot another arrow, I will take the lives of all of you. Those who wish to live, flee!" and standing on a watchtower, shot the arrow right into the golden plates of the seven kings as they were eating.
Bồ Tát xin phép vị vua đó, trở về Bārāṇasī, trấn an nhà vua: “Đừng sợ hãi,” rồi khắc chữ lên mũi tên: “Ta là Hoàng tử Asadisa đã đến. Nếu ta bắn thêm một mũi tên nữa, ta sẽ lấy mạng tất cả các ngươi. Ai muốn sống thì hãy chạy đi.” Ngài đứng trên tháp canh và bắn mũi tên rơi đúng vào giữa mâm vàng của bảy vị vua đang dùng bữa.
Te akkharāni disvā maraṇabhayabhītā sabbeva palāyiṃsu.
Seeing the letters, they were terrified by the fear of death and all fled.
Họ thấy những chữ đó, sợ hãi cái chết mà bỏ chạy hết thảy.
Evaṃ mahāsatto khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ anuppādetvā satta rājāno palāpetvā kaniṭṭhabhātaraṃ apaloketvā kāme pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā jīvitapariyosāne brahmalokūpago ahosi.
Thus, the Great Being, without causing even a tiny fly's worth of blood to be shed, put the seven kings to flight, looked after his younger brother, renounced sensual pleasures, undertook the ascetic's ordination, developed the abhiññā and samāpattis, and at the end of his life, attained the Brahma-world.
Như vậy, Đại Sĩ đã đánh đuổi bảy vị vua mà không làm đổ một giọt máu nào dù chỉ bằng lượng một con ruồi uống, rồi từ giã người em trai, từ bỏ dục lạc, xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thắng trí và thiền định, và khi hết tuổi thọ, Ngài đã tái sinh vào cõi Phạm thiên.
506
Satthā ‘‘evaṃ, bhikkhave, asadisakumāro satta rājāno palāpetvā vijitasaṅgāmo isipabbajjaṃ pabbajito’’ti abhisambuddho hutvā imā gāthā avoca –
The Teacher, having become fully enlightened, said, "Thus, O bhikkhus, Asadisakumāra, having put seven kings to flight and won the battle, undertook the ascetic's ordination," and spoke these verses:
Đức Phật, sau khi giác ngộ, nói: “Này các Tỷ-kheo, như vậy, Hoàng tử Asadisa đã đánh đuổi bảy vị vua, chiến thắng trận chiến, và xuất gia làm đạo sĩ,” rồi Ngài thuyết những bài kệ này:
507
61.
61.
61.
508
‘‘Dhanuggaho asadiso, rājaputto mahabbalo;
"The archer Asadisa, a prince of great strength,
“Cung thủ Asadisa, hoàng tử đại hùng lực,
509
Dūrepātī akkhaṇavedhī, mahākāyappadālano.
A long-distance shooter, hitting without missing, piercing great bodies.
Bắn xa, trúng đích, xuyên thủng vật lớn.”
510
62.
62.
62.
511
‘‘Sabbāmitte raṇaṃ katvā, na ca kañci viheṭhayi;
Having fought with all enemies, he harmed no one;
“Đã chiến đấu với mọi kẻ thù, không làm hại một ai;
512
Bhātaraṃ sotthiṃ katvāna, saṃyamaṃ ajjhupāgamī’’ti.
Having ensured his brother's safety, he embraced self-restraint."
Cứu em trai an toàn, rồi đi vào sự tự chế.”
513
Tattha asadisoti na kevalaṃ nāmeneva, balavīriyapaññāhipi asadisova.
Therein, asadiso means not only in name, but also peerless in strength, energy, and wisdom.
Ở đây, Asadisa (Vô Song) không chỉ là tên gọi, mà còn là vô song về sức mạnh, nghị lực và trí tuệ.
Mahabbaloti kāyabalenapi paññābalenapi mahabbalo.
Mahabbalo means great in strength, both physical and intellectual.
Mahabbala (Đại Lực) có nghĩa là có sức mạnh lớn về thể chất và sức mạnh lớn về trí tuệ.
Dūrepātīti yāva cātumahārājikabhavanā tāvatiṃsabhavanā ca kaṇḍaṃ pesetuṃ samatthatāya dūrepātī.
Dūrepātī means a long-distance shooter, capable of sending an arrow as far as the Cātumahārājika heaven and the Tāvatiṃsa heaven.
Dūrepātī (Bắn Xa) có nghĩa là có khả năng bắn mũi tên đến tận cõi Tứ Đại Thiên Vương và cõi Đao Lợi.
Akkhaṇavedhīti avirādhitavedhī.
Akkhaṇavedhī means hitting without missing.
Akkhaṇavedhī (Bắn Không Sai) có nghĩa là bắn không sai lệch.
Atha vā akkhaṇā vuccati vijju, yāva ekā vijju niccharati, tāva tenobhāsena sattaṭṭha vāre kaṇḍāni gahetvā vijjhatīti akkhaṇavedhī.
Alternatively, akkhaṇā is said to be lightning; akkhaṇavedhī means that while a single flash of lightning appears, he takes and shoots seven or eight arrows by that illumination.
Hoặc, akkhaṇa được gọi là tia chớp; trong một khoảnh khắc chớp mắt, với ánh sáng đó, Ngài có thể lấy và bắn bảy hoặc tám mũi tên, vì vậy Ngài là Akkhaṇavedhī.
Mahākāyappadālanoti mahante kāye padāleti.
Mahākāyappadālano means piercing great bodies.
Mahākāyappadālano (Xuyên Thủng Vật Lớn) có nghĩa là xuyên thủng các vật lớn.
Cammakāyo, dārukāyo, lohakāyo, ayokāyo, vālikakāyo, udakakāyo, phalakakāyoti ime satta mahākāyā nāma.
These seven are called great bodies: a body of hide, a body of wood, a body of copper, a body of iron, a body of sand, a body of water, and a body of planks.
Bảy vật lớn này là: vật bằng da, vật bằng gỗ, vật bằng đồng, vật bằng sắt, vật bằng cát, vật bằng nước, vật bằng ván.
Tattha añño cammakāyapadālano mahiṃsacammaṃ vinivijjhati, so pana satampi mahiṃsacammānaṃ vinivijjhatiyeva.
Among these, another who pierces a body of hide can pierce a buffalo hide; he can pierce even a hundred buffalo hides.
Trong số đó, một người khác có thể xuyên thủng vật bằng da, xuyên thủng da trâu, nhưng Ngài có thể xuyên thủng hàng trăm tấm da trâu.
Añño aṭṭhaṅgulabahalaṃ udumbarapadaraṃ, caturaṅgulabahalaṃ asanapadaraṃ vinivijjhati, so pana phalakasatampi ekato baddhaṃ vinivijjhati, tathā dvaṅgulabahalaṃ tambalohapaṭṭaṃ, aṅgulabahalaṃ ayapaṭṭaṃ.
Another can pierce an udumbara plank eight fingers thick, an asana plank four fingers thick; he can pierce even a hundred planks bound together, as well as a copper plate two fingers thick, and an iron plate one finger thick.
Một người khác có thể xuyên thủng một tấm ván cây vả dày tám ngón tay, một tấm ván cây asana dày bốn ngón tay, nhưng Ngài có thể xuyên thủng hàng trăm tấm ván ghép lại, cũng như một tấm đồng dày hai ngón tay, một tấm sắt dày một ngón tay.
Vālikasakaṭassa badarasakaṭassa palālasakaṭassa vā pacchābhāgena kaṇḍaṃ pavesetvā purebhāgena atipāteti, pakatiyā udake catuusabhaṭṭhānaṃ kaṇḍaṃ peseti, thale aṭṭhausabhanti evaṃ imesaṃ sattannaṃ mahākāyānaṃ padālanato mahākāyappadālano.
He can shoot an arrow through the back of a cart full of sand, or a cart full of jujube fruits, or a cart full of straw, and make it pass through the front; normally, he can shoot an arrow four usabhas' distance in water and eight usabhas' distance on land; thus, he is mahākāyappadālano due to piercing these seven great bodies.
Ngài có thể bắn mũi tên xuyên qua phía sau một xe cát, xe táo tàu, hoặc xe rơm, và xuyên ra phía trước; thông thường, Ngài có thể bắn mũi tên xa bốn usabha trên mặt nước, và tám usabha trên đất liền. Vì vậy, Ngài là Mahākāyappadālano vì khả năng xuyên thủng bảy vật lớn này.
Sabbāmitteti sabbe amitte.
Sabbāmitte means all enemies.
Sabbāmitte có nghĩa là tất cả kẻ thù.
Raṇaṃ katvāti yuddhaṃ katvā palāpesīti attho.
Raṇaṃ katvā means having fought a battle and put them to flight.
Raṇaṃ katvā có nghĩa là đã chiến đấu và đánh đuổi họ.
Na ca kañci viheṭhayīti ekampi na viheṭhesi.
Na ca kañci viheṭhayī means he harmed not even one.
Na ca kañci viheṭhayī có nghĩa là không làm hại một ai.
Aviheṭhayantoyeva pana tehi saddhiṃ kaṇḍapesaneneva raṇaṃ katvā.
Indeed, without harming them, he fought a battle with them merely by shooting an arrow.
Tuy nhiên, Ngài đã chiến đấu với họ chỉ bằng cách bắn mũi tên mà không làm hại ai.
Saṃyamaṃ ajjhupāgamīti sīlasaṃyamaṃ pabbajjaṃ upagato.
Saṃyamaṃ ajjhupāgamī means he embraced the self-restraint of sīla, the ordination.
Saṃyamaṃ ajjhupāgamī có nghĩa là đi vào sự tự chế giới luật, tức là xuất gia.
514
Evaṃ satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kaniṭṭhabhātā ānando ahosi, asadisakumāro pana ahameva ahosi’’nti.
Thus, the Teacher, having delivered this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the younger brother was Ānanda, and Asadisakumāra was I myself."
Như vậy, Đức Phật đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, người em trai là Ānanda, còn Hoàng tử Asadisa chính là Ta.”
515
Asadisajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first commentary on the Asadisa Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka Asadisa thứ nhất đã kết thúc.
516
* 2. Saṅgāmāvacarajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Saṅgāmāvacara Jātaka
* 2. Câu chuyện Jātaka Saṅgāmāvacara
517
Saṅgāmāvacaro sūroti idaṃ satthā jetavane viharanto nandattheraṃ ārabbha kathesi.
Saṅgāmāvacaro sūro – The Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning the Elder Nanda.
Saṅgāmāvacaro sūro (Người chiến binh dũng cảm) – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài ở tại Jetavana, liên quan đến Trưởng lão Nanda.
Satthari hi paṭhamagamanena kapilapuraṃ gantvā kaniṭṭhabhātikaṃ nandarājakumāraṃ pabbājetvā kapilapurā nikkhamma anupubbena sāvatthiṃ gantvā viharante āyasmā nando bhagavato pattaṃ ādāya tathāgatena saddhiṃ gehā nikkhamanakāle ‘‘nandakumāro kira satthārā saddhiṃ gacchatī’’ti sutvā aḍḍhullikhitehi kesehi vātapānantarena oloketvā ‘‘tuvaṭaṃ kho, ayyaputta, āgaccheyyāsī’’ti idaṃ janapadakalyāṇiyā vuttavacanaṃ anussaranto ukkaṇṭhito anabhirato uppaṇḍuppaṇḍukajāto dhamanisanthatagatto ahosi.
When the Teacher, having first gone to Kapilapura and ordained his younger brother, Prince Nanda, had left Kapilapura and was dwelling in Sāvatthī after gradually arriving there, Venerable Nanda, holding the Bhagavā's bowl, at the time of leaving the house with the Tathāgata, heard, "Prince Nanda is said to be going with the Teacher," and looking through a window with his hair half-combed, remembered the words spoken by Janapadakalyāṇī, "Please come back quickly, my dear," and became weary, displeased, pale, and with his body covered in veins.
Khi Đức Phật lần đầu tiên đến Kapilapura, Ngài đã cho hoàng tử Nanda xuất gia. Sau khi rời Kapilapura và tuần tự đến Sāvatthī để cư trú, Tôn giả Nanda cầm bát của Đức Thế Tôn. Khi Đức Thế Tôn rời nhà, Nanda nghe nói: “Hoàng tử Nanda đang đi cùng Đức Thế Tôn,” liền nhìn qua cửa sổ với mái tóc chỉ mới cạo một nửa, nhớ lại lời nói của người đẹp trong vùng: “Này hoàng tử, xin hãy mau về,” và trở nên buồn bã, không vui, da dẻ xanh xao, thân thể gầy gò như mạng lưới gân.
Satthā tassa taṃ pavattiṃ ñatvā ‘‘yaṃnūnāhaṃ nandaṃ arahatte patiṭṭhāpeyya’’nti cintetvā tassa vasanapariveṇaṃ gantvā paññattāsane nisinno ‘‘kacci, nanda, imasmiṃ sāsane abhiramasī’’ti pucchi.
The Teacher, knowing that situation, thought, "What if I were to establish Nanda in Arahantship?" and going to his dwelling place, sat on the prepared seat and asked, "Nanda, are you content in this Dispensation?"
Đức Phật biết chuyện đó của Nanda, nghĩ: “Ta nên giúp Nanda an trú vào quả A-la-hán,” liền đến tịnh xá của Nanda, ngồi trên chỗ đã trải sẵn, và hỏi: “Này Nanda, con có hoan hỷ trong giáo pháp này không?”
‘‘Bhante, janapadakalyāṇiyā paṭibaddhacitto hutvā nābhiramāmī’’ti.
"Bhante, being attached to Janapadakalyāṇī, I am not content."
“Bạch Thế Tôn, con bị trói buộc bởi người đẹp trong vùng nên không hoan hỷ.”
‘‘Himavantacārikaṃ gatapubbosi nandā’’ti?
"Nanda, have you ever traveled in the Himavanta?"
“Này Nanda, con đã từng đi đến vùng Himavanta chưa?”
‘‘Na gatapubbo, bhante’’ti.
"No, Bhante, I have not."
“Bạch Thế Tôn, chưa từng.”
‘‘Tena hi gacchāmā’’ti.
"Then let us go."
“Vậy thì chúng ta hãy đi.”
‘‘Natthi me, bhante, iddhi, katāhaṃ gamissāmī’’ti.
"Bhante, I have no psychic power; how will I go?"
“Bạch Thế Tôn, con không có thần thông, làm sao con có thể đi được?”
Satthā ‘‘ahaṃ taṃ, nanda, mama iddhibalena nessāmī’’ti theraṃ hatthe gahetvā ākāsaṃ pakkhandanto antarāmagge ekasmiṃ jhāmakhette jhāmakhāṇuke nisinnaṃ chinnakaṇṇanāsanaṅguṭṭhaṃ jhāmalomaṃ chinnachaviṃ cammamattaṃ lohitapaliguṇṭhitaṃ ekaṃ paluṭṭhamakkaṭiṃ dassesi – ‘‘passasi, nanda, etaṃ makkaṭi’’nti.
The Teacher, saying, "Nanda, I will take you with my psychic power," took the Elder by the hand and leaped into the air, and on the way, in a burnt field, he showed him a burnt, mutilated monkey, sitting on a burnt stump, with its ears, nose, and tail cut off, its fur singed, its skin torn, consisting only of skin, smeared with blood, and asked, "Nanda, do you see that monkey?"
Đức Phật nói: “Này Nanda, Ta sẽ đưa con đi bằng thần thông của Ta.” Ngài nắm tay Trưởng lão, bay lên không trung. Trên đường đi, Ngài chỉ cho Nanda thấy một con khỉ cái bị cháy xém, tai, mũi, đuôi bị cắt, lông bị cháy, da bị lột, chỉ còn lại da bọc xương dính máu, đang ngồi trên một gốc cây cháy xém trong một cánh đồng cháy: “Này Nanda, con có thấy con khỉ đó không?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
"Yes, Bhante."
“Bạch Thế Tôn, con có thấy.”
‘‘Suṭṭhu paccakkhaṃ karohī’’ti.
"Observe it well."
“Hãy nhìn kỹ đi.”
518
Atha naṃ gahetvā saṭṭhiyojanikaṃ manosilātalaṃ, anotattadahādayo satta mahāsare, pañca mahānadiyo, suvaṇṇapabbatarajatapabbatamaṇipabbatapaṭimaṇḍitaṃ anekasatarāmaṇeyyakaṃ himavantapabbatañca dassetvā ‘‘tāvatiṃsabhavanaṃ te, nanda, diṭṭhapubba’’nti pucchitvā ‘‘na, diṭṭhapubbaṃ, bhante’’ti vutte ‘‘ehi, nanda, tāvatiṃsabhavanaṃ te dassayissāmī’’ti tattha netvā paṇḍukambalasilāsane nisīdi.
Then, taking him, he showed him the sixty-yojana-wide Manosilātala, the seven great lakes such as Anotatta, the five great rivers, and the Himavanta mountain adorned with golden, silver, and gem mountains, and many hundreds of delightful places, and asked, "Nanda, have you ever seen the Tāvatiṃsa abode?" When Nanda replied, "No, Bhante, I have not seen it," the Teacher said, "Come, Nanda, I will show you the Tāvatiṃsa abode," and taking him there, sat on the Paṇḍukambalasilāsana.
Sau đó, Ngài đưa Nanda đến một vùng đất đá son rộng sáu mươi dojana, bảy hồ lớn như hồ Anotatta, năm con sông lớn, và dãy núi Himavanta được trang trí bằng núi vàng, núi bạc, núi ngọc, với hàng trăm cảnh đẹp. Ngài hỏi: “Này Nanda, con đã từng thấy cõi trời Đao Lợi chưa?” Khi Nanda đáp: “Bạch Thế Tôn, chưa từng,” Ngài nói: “Này Nanda, hãy đến đây, Ta sẽ cho con thấy cõi trời Đao Lợi,” rồi đưa Nanda đến đó và ngồi trên tảng đá Paṇḍukambala.
Sakko devarājā dvīsu devalokesu devasaṅghena saddhiṃ āgantvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Sakka, the king of devas, came with the assembly of devas from both deva realms, paid homage, and sat to one side.
Sakka, vua chư thiên, cùng với chúng chư thiên từ hai cõi trời đã đến, đảnh lễ và ngồi sang một bên.
Aḍḍhatiyakoṭisaṅkhā tassa paricārikā pañcasatā kakuṭapādā devaccharāyopi āgantvā vanditvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
His two and a half crore attendants, five hundred Kakuṭapādā devaccharās, also came, paid homage, and sat to one side.
Năm trăm nữ thần với chân như chim cút, là các thị nữ của Ngài, cũng đến, đảnh lễ và ngồi sang một bên.
Satthā āyasmantaṃ nandaṃ tā pañcasatā accharā kilesavasena punappunaṃ olokāpesi.
The Teacher made Venerable Nanda look at those five hundred devaccharās again and again, due to his defilements.
Đức Phật đã nhiều lần khiến Tôn giả Nanda nhìn năm trăm nữ thần này với tâm tham dục.
‘‘Passasi, nanda, imā kakuṭapādiniyo accharāyo’’ti?
"Nanda, do you see these Kakuṭapādā devaccharās?"
“Này Nanda, con có thấy những nữ thần có chân như chim cút này không?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
"Yes, Bhante."
“Bạch Thế Tôn, con có thấy.”
‘‘Kiṃ nu kho etā sobhanti, udāhu janapadakalyāṇī’’ti.
"Which are more beautiful, these, or Janapadakalyāṇī?"
“Vậy thì, những nữ thần này đẹp hơn, hay người đẹp trong vùng đẹp hơn?”
‘‘Seyyathāpi, bhante, janapadakalyāṇiṃ upanidhāya sā paluṭṭhamakkaṭī, evameva imā upanidhāya janapadakalyāṇī’’ti.
"Bhante, compared to Janapadakalyāṇī, that monkey is like these devaccharās compared to Janapadakalyāṇī."
“Bạch Thế Tôn, ví như con khỉ bị cháy xém kia so với người đẹp trong vùng, thì người đẹp trong vùng cũng vậy so với những nữ thần này.”
‘‘Idāni kiṃ karissasi nandā’’ti?
"What will you do now, Nanda?"
"Nanda, bây giờ ngươi sẽ làm gì?"
‘‘Kiṃ kammaṃ katvā, bhante, imā accharā labhantī’’ti?
"Bhante, what kind of deed must one do to obtain these devaccharās?"
"Bạch Thế Tôn, làm nghiệp gì mà các tiên nữ này đạt được?"
‘‘Samaṇadhammaṃ katvā’’ti.
"By practicing the ascetic life."
"Sau khi thực hành pháp Sa-môn."
‘‘Sace me, bhante, imāsaṃ paṭilābhatthāya bhagavā pāṭibhogo hoti, ahaṃ samaṇadhammaṃ karissāmī’’ti.
"If, Bhante, the Bhagavā stands as guarantor for my attainment of these devaccharās, I will practice the ascetic life."
"Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn là người bảo đảm cho con để đạt được các tiên nữ này, con sẽ thực hành pháp Sa-môn."
‘‘Karohi, nanda, ahaṃ te pāṭibhogo’’ti.
"Do so, Nanda, I am your guarantor."
"Này Nanda, hãy làm đi, Ta là người bảo đảm cho con."
Evaṃ thero devasaṅghassa majjhe tathāgataṃ pāṭibhogaṃ gahetvā ‘‘mā, bhante, atipapañcaṃ karotha, etha gacchāma, ahaṃ samaṇadhammaṃ karissāmī’’ti āha.
Thus, the Elder, having taken the Tathāgata as guarantor in the midst of the assembly of devas, said, "Bhante, do not delay too much, let us go, I will practice the ascetic life."
Như vậy, vị Trưởng lão đã nhận Như Lai làm người bảo đảm giữa hội chúng chư thiên và nói: "Bạch Thế Tôn, xin đừng quá dài dòng, chúng ta hãy đi, con sẽ thực hành pháp Sa-môn."
Satthā taṃ ādāya jetavanameva paccāgami.
The Teacher took him and returned to Jetavana.
Đức Đạo Sư đưa vị ấy trở về Jetavana.
Thero samaṇadhammaṃ kātuṃ ārabhi.
The Elder began to practice the ascetic life.
Vị Trưởng lão bắt đầu thực hành pháp Sa-môn.
519
Satthā dhammasenāpatiṃ āmantetvā ‘‘sāriputta, mayhaṃ kaniṭṭhabhātā nando tāvatiṃsadevaloke devasaṅghassa majjhe devaccharānaṃ kāraṇā maṃ pāṭibhogaṃ aggahesī’’ti tassa ācikkhi.
The Teacher summoned the Dhammasenāpati and informed him, "Sāriputta, my younger brother Nanda took me as guarantor in the midst of the assembly of devas in the Tāvatiṃsa deva realm, for the sake of the devaccharās."
Đức Đạo Sư gọi vị Pháp tướng (Dhammasenāpati) và nói: "Này Sāriputta, Nanda, em trai của Ta, đã nhận Ta làm người bảo đảm giữa hội chúng chư thiên ở cõi trời Tāvatiṃsa vì các tiên nữ." Ngài đã kể cho vị ấy nghe.
Etenupāyena mahāmoggallānattherassa mahākassapattherassa anuruddhattherassa dhammabhaṇḍāgārikaānandattherassāti asītiyā mahāsāvakānaṃ yebhuyyena ca sesabhikkhūnaṃ ācikkhi.
In this way, he informed Mahāmoggallāna Thera, Mahākassapa Thera, Anuruddha Thera, Dhammabhaṇḍāgārika Ānanda Thera, and most of the other eighty great disciples.
Bằng cách này, Ngài đã kể cho Trưởng lão Mahāmoggallāna, Trưởng lão Mahākassapa, Trưởng lão Anuruddha, Trưởng lão Ānanda, vị giữ kho Pháp (Dhammabhaṇḍāgārika), và hầu hết tám mươi vị Đại Thanh văn cùng các Tỳ-khưu còn lại nghe.
Dhammasenāpati sāriputtatthero nandattheraṃ upasaṅkamitvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, āvuso nanda, tāvatiṃsadevaloke devasaṅghassa majjhe ‘devaccharā labhanto samaṇadhammaṃ karissāmī’ti dasabalaṃ pāṭibhogaṃ gaṇhī’’ti vatvā ‘‘nanu evaṃ sante tava brahmacariyavāso mātugāmasannissito kilesasannissito, tassa te itthīnaṃ atthāya samaṇadhammaṃ karontassa bhatiyā kammaṃ karontena kammakārakena saddhiṃ kiṃ nānākaraṇa’’nti theraṃ lajjāpesi nittejaṃ akāsi.
The General of the Dhamma, Elder Sāriputta, approached Elder Nanda and said, "Is it true, friend Nanda, that in the Tāvatiṃsa deva-world, amidst the assembly of devas, you took the Ten-Powered One as a guarantor, saying, 'I will practice the ascetic life if I obtain devas' nymphs'?" Then he continued, "If that is the case, your holy life is dependent on women, dependent on defilements. What difference is there between you, practicing the ascetic life for the sake of women, and a wage-earner performing work for wages?" With these words, he made the elder feel ashamed and dispirited.
Trưởng lão Sāriputta, vị Pháp tướng, đến gần Trưởng lão Nanda và nói: "Này hiền giả Nanda, có thật là hiền giả đã nhận Đức Thập Lực làm người bảo đảm giữa hội chúng chư thiên ở cõi trời Tāvatiṃsa rằng 'tôi sẽ thực hành pháp Sa-môn để đạt được các tiên nữ' không?" Rồi vị ấy nói: "Chẳng phải như vậy thì đời sống Phạm hạnh của hiền giả là nương tựa vào nữ giới, nương tựa vào phiền não sao? Hiền giả thực hành pháp Sa-môn vì phụ nữ thì có gì khác với người làm công ăn lương?" Vị ấy đã khiến vị Trưởng lão hổ thẹn và mất hết nhuệ khí.
Etenupāyena sabbepi asītimahāsāvakā avasesabhikkhū ca taṃ āyasmantaṃ nandaṃ lajjāpayiṃsu.
By this method, all eighty great disciples and the remaining bhikkhus made the Venerable Nanda feel ashamed.
Bằng cách này, tất cả tám mươi vị Đại Thanh văn và các Tỳ-khưu còn lại cũng đã khiến Tôn giả Nanda hổ thẹn.
520
So ‘‘ayuttaṃ vata me kata’’nti hiriyā ca ottappena ca vīriyaṃ daḷhaṃ paggaṇhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ patvā satthāraṃ upasaṅkamitvā ‘‘ahaṃ, bhante, bhagavato paṭissavaṃ muñcāmī’’ti āha.
He, thinking, "Indeed, what I have done is improper," firmly aroused energy through shame (hiri) and moral dread (ottappa), developed insight (vipassanā), attained Arahantship, and approached the Teacher, saying, "Venerable Sir, I release the Blessed One from his promise."
Vị ấy nghĩ: "Thật là không đúng đắn việc mình đã làm," rồi với sự hổ thẹn (hirī) và ghê sợ tội lỗi (ottappa), vị ấy đã kiên trì tinh tấn, phát triển thiền quán (vipassanā), đạt được A-la-hán quả, đến gần Đức Đạo Sư và nói: "Bạch Thế Tôn, con xin giải thoát lời hứa với Thế Tôn."
Satthāpi ‘‘yadā tvaṃ, nanda, arahattaṃ patto, tadāyevāhaṃ paṭissavā mutto’’ti āha.
The Teacher also said, "When you, Nanda, attained Arahantship, then I was released from the promise."
Đức Đạo Sư cũng nói: "Này Nanda, khi con đạt được A-la-hán quả, ngay lúc đó Ta đã được giải thoát khỏi lời hứa."
Etamatthaṃ viditvā dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘yāva ovādakkhamo cāyaṃ, āvuso, nandatthero ekovādeneva hirottappaṃ paccupaṭṭhapetvā samaṇadhammaṃ katvā arahattaṃ patto’’ti.
Knowing this matter, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "How amenable to admonition is this Elder Nanda, friends! By just one admonition, he brought forth shame and moral dread, practiced the ascetic life, and attained Arahantship."
Biết được điều này, các Tỳ-khưu đã khởi lên cuộc đàm thoại trong Pháp đường: "Này các hiền giả, Trưởng lão Nanda này thật dễ dạy, chỉ với một lời khuyên, vị ấy đã phát khởi sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, thực hành pháp Sa-môn và đạt được A-la-hán quả."
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi nando ovādakkhamoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic, bhikkhus, are you now gathered?" When told, "On this topic," he said, "Bhikkhus, it is not only now; in the past too, Nanda was amenable to admonition," and he related a past event.
Đức Đạo Sư đến và hỏi: "Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?" Khi được thưa: "Về chuyện này, bạch Thế Tôn," Ngài nói: "Này các Tỳ-khưu, không chỉ bây giờ, mà trước kia Nanda cũng đã dễ dạy như vậy," rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
521
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto hatthācariyakule nibbattitvā vayappatto hatthācariyasippe nipphattiṃ patto ekaṃ bārāṇasirañño sapattarājānaṃ upaṭṭhāsi.
In the past, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a family of elephant trainers. When he reached maturity, he attained mastery in the art of elephant training and served a rival king of the king of Bārāṇasī.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình huấn luyện voi, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài đã thành thạo nghệ thuật huấn luyện voi và phục vụ một vị vua đối địch của vua Bārāṇasī.
So tassa maṅgalahatthiṃ susikkhitaṃ katvā sikkhāpesi.
He trained the king's royal elephant, making it well-disciplined.
Vị ấy đã huấn luyện con voi chúa của mình rất thuần thục.
So rājā ‘‘bārāṇasirajjaṃ gaṇhissāmī’’ti bodhisattaṃ gahetvā maṅgalahatthiṃ āruyha mahatiyā senāya bārāṇasiṃ gantvā parivāretvā ‘‘rajjaṃ vā detu yuddhaṃ vā’’ti rañño paṇṇaṃ pesesi.
That rival king, intending to seize the kingdom of Bārāṇasī, took the Bodhisatta, mounted the royal elephant, and with a large army, went to Bārāṇasī, surrounded it, and sent a letter to the king saying, "Either give up the kingdom or fight."
Vị vua đối địch đó nói: "Ta sẽ chiếm lấy vương quốc Bārāṇasī," rồi đưa Bồ-tát, cưỡi voi chúa, cùng với một đạo quân lớn đến Bārāṇasī, bao vây thành và gửi thư cho vua (Bārāṇasī) nói: "Hoặc là hãy giao nộp vương quốc, hoặc là chiến đấu."
Brahmadatto ‘‘yuddhaṃ dassāmī’’ti pākāradvāraṭṭālakagopuresu balakāyaṃ āropetvā yuddhaṃ adāsi.
Brahmadatta, saying, "I will fight," stationed troops at the city gates, watchtowers, and ramparts, and engaged in battle.
Vua Brahmadatta nói: "Ta sẽ chiến đấu," rồi bố trí quân đội trên các cổng thành, tháp canh và cổng thành, rồi tiến hành chiến đấu.
Sapattarājā maṅgalahatthiṃ vammena chādetvā sayampi vammaṃ paṭimuñcitvā hattikkhandhavaragato tikhiṇaṃ aṅkusaṃ ādāya ‘‘nagaraṃ bhinditvā paccāmittaṃ jīvitakkhayaṃ pāpetvā rajjaṃ hatthagataṃ karissāmī’’ti hatthiṃ nagarābhimukhaṃ pesesi.
The rival king covered the royal elephant with armor, put on armor himself, and mounted on the elephant's back, taking a sharp goad. He sent the elephant towards the city, intending to break through the city, destroy the enemy, and seize the kingdom.
Vị vua đối địch che voi chúa bằng áo giáp, tự mình cũng mặc áo giáp, ngồi trên lưng voi, cầm một cây móc nhọn và nói: "Ta sẽ phá thành, tiêu diệt kẻ thù và chiếm lấy vương quốc," rồi thúc voi tiến về phía thành.
So uṇhakalalāni ceva yantapāsāṇe ca nānappakārāni ca paharaṇāni vissajjente disvā maraṇabhayabhīto upasaṅkamituṃ asakkonto paṭikkami.
Seeing hot mud, mechanical stones, and various weapons being discharged, the elephant, terrified by the fear of death, was unable to approach and retreated.
Con voi nhìn thấy những hòn đá nóng bỏng, những tảng đá từ máy bắn đá và các loại vũ khí khác được bắn ra, sợ hãi cái chết, không thể tiến lên và lùi lại.
Atha naṃ hatthācariyo upasaṅkamitvā ‘‘tāta, tvaṃ sūro saṅgāmāvacaro, evarūpe ṭhāne paṭikkamanaṃ nāma tuyhaṃ nānucchavika’’nti vatvā hatthiṃ ovadanto imā gāthā avoca –
Then the elephant trainer approached him and said, "My dear, you are brave, accustomed to battle; such a retreat is not fitting for you in such a situation," and admonishing the elephant, he spoke these verses:
Lúc đó, người huấn luyện voi đến gần nó và nói: "Này con, con là một chiến binh dũng mãnh, quen thuộc với chiến trường, việc lùi bước ở một nơi như thế này không phù hợp với con," rồi khuyên voi bằng những câu kệ sau:
522
63.
63.
63.
523
‘‘Saṅgāmāvacaro sūro, balavā iti vissuto;
"You are known as brave, accustomed to battle, and powerful;
“Này voi, ngươi được biết đến là dũng sĩ,
524
Kiṃ nu toraṇamāsajja, paṭikkamasi kuñjara.
Why, O elephant, do you retreat upon reaching the gate-tower?"
quen chiến trận, có sức mạnh;
525
64.
64.
64.
526
‘‘Omadda khippaṃ palighaṃ, esikāni ca abbaha;
"Quickly crush the crossbar, and pull out the pillars;
Sao lại đến gần cổng thành mà lùi bước?
527
Toraṇāni ca madditvā, khippaṃ pavisa kuñjarā’’ti.
Crush the gate-towers, and quickly enter, O elephant!"
Hãy nhanh chóng giẫm nát chốt cửa, nhổ các cột trụ;
528
Tattha iti vissutoti, tāta, tvaṃ pavattasampahāraṃ saṅgāmaṃ madditvā avacaraṇato saṅgāmāvacaro, thirahadayatāya sūro, thāmasampattiyā balavāti evaṃ vissuto paññāto pākaṭo.
There, iti vissuto means, "My dear, you are known, famous, and renowned as saṅgāmāvacaro (accustomed to battle) because you traverse the ongoing conflict, as sūro (brave) due to your firm heart, and as balavā (powerful) due to your strength."
Giẫm nát các cổng thành, nhanh chóng tiến vào, hỡi voi!”
Toraṇamāsajjāti nagaradvārasaṅkhātaṃ toraṇaṃ patvā.
Toraṇamāsajjā means "having reached the gate-tower, which is the city gate."
Ở đây, iti vissuto (được biết đến như vậy) nghĩa là: "Này con, ngươi được biết đến, được công nhận, được nổi tiếng là saṅgāmāvacaro (quen chiến trận) vì đã giẫm nát và đi qua chiến trường khốc liệt, là sūro (dũng mãnh) vì có trái tim kiên cường, là balavā (có sức mạnh) vì có sức lực dồi dào."
Paṭikkamasīti kiṃ nu kho osakkasi, kena kāraṇena nivattasīti vadati.
Paṭikkamasī means "why do you retreat, for what reason do you turn back?" he says.
Toraṇamāsajjā (đến gần cổng thành) nghĩa là đến gần cổng thành.
Omaddāti avamadda adho pātaya.
Omaddā means "crush, throw down."
Paṭikkamasī (ngươi lùi bước) nghĩa là: "Tại sao ngươi lại lùi bước, vì lý do gì mà ngươi quay lại?"
Esikāni ca abbahāti nagaradvāre soḷasaratanaṃ aṭṭharatanaṃ bhūmiyaṃ pavesetvā niccalaṃ katvā nikhātā esikatthambhā honti, te khippaṃ uddhara luñcāhīti āṇāpeti.
Esikāni ca abbahā means "the esikā pillars, which are sixteen or eighteen cubits long, are driven into the ground at the city gate and made firm; quickly pull them out, uproot them," he commands.
Omaddā (giẫm nát) nghĩa là giẫm nát, đánh đổ xuống.
Toraṇāni ca madditvāti nagaradvārassa piṭṭhasaṅghāṭe madditvā.
Toraṇāni ca madditvā means "having crushed the crossbeams of the city gate."
Esikāni ca abbahā (nhổ các cột trụ) nghĩa là: "Có những cột trụ (esikā) được chôn sâu mười sáu hoặc mười tám aratana vào lòng đất ở cổng thành, làm cho chúng vững chắc; hãy nhanh chóng nhổ chúng lên!"
Khippaṃ pavisāti sīghaṃ nagaraṃ pavisa.
Enter quickly means enter the city swiftly.
Toraṇāni ca madditvā (giẫm nát các cổng thành) nghĩa là giẫm nát những thanh ngang phía sau cổng thành.
Kuñjarāti nāgaṃ ālapati.
O elephant means addressing the elephant.
Khippaṃ pavisā (nhanh chóng tiến vào) nghĩa là nhanh chóng tiến vào thành.
529
Taṃ sutvā nāgo bodhisattassa ekovādeneva nivattitvā esikatthambhe soṇḍāya paliveṭhetvā ahicchattakāni viya luñcitvā toraṇaṃ madditvā palighaṃ otāretvā nagaradvāraṃ bhinditvā nagaraṃ pavisitvā rajjaṃ gahetvā adāsi.
Hearing that, the elephant, by the Bodhisatta's single instruction, turned back, wrapped its trunk around the main pillar, tore it down like mushroom umbrellas, crushed the archway, lowered the crossbar, broke open the city gate, entered the city, seized the kingdom, and gave it to him.
Nghe vậy, con voi, chỉ với một lời khuyên của Bồ-tát, đã quay lại, dùng vòi quấn quanh các cột trụ như những cây dù rắn, nhổ chúng lên, giẫm nát cổng thành, hạ chốt cửa, phá cổng thành, tiến vào thành, chiếm lấy vương quốc và trao lại.
530
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā hatthī nando ahosi, rājā ānando, hatthācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse, connected the Jātaka: "At that time, the elephant was Nanda, the king was Ānanda, and the elephant trainer was I myself."
Đức Đạo Sư đã kể lại bài Pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: "Khi đó, con voi chính là Nanda, vị vua là Ānanda, còn người huấn luyện voi chính là Ta vậy."
531
Saṅgāmāvacarajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Saṅgāmāvacara Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Voi quen chiến trận, thứ hai, đã hoàn tất.
532
* 3. Vālodakajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Vālodaka Jātaka
* 3. Câu chuyện Jātaka về Nước cám (Vālodaka)
533
Vālodakaṃ apparasaṃ nihīnanti idaṃ satthā jetavane viharanto pañcasate vighāsāde ārabbha kathesi.
"Water with hair, little essence, inferior" – The Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this in reference to five hundred hangers-on.
" Vālodakaṃ apparasaṃ nihīnaṃ (Nước cám là thứ ít vị, thấp kém)" - Đức Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến năm trăm người ăn xin.
Sāvatthiyaṃ kira pañcasatā upāsakā gharāvāsapalibodhaṃ puttadārassa niyyādetvā satthu dhammadesanaṃ suṇantā ekatova vicaranti.
It is said that in Sāvatthī, five hundred lay followers, having entrusted the domestic ties of children and spouses, used to wander together, listening to the Teacher's discourse.
Người ta kể rằng ở Sāvatthī, có năm trăm vị cư sĩ, sau khi giao phó gánh nặng gia đình, vợ con, cho người khác, họ cùng nhau đi đây đó lắng nghe Đức Đạo Sư thuyết pháp.
Tesu keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino, ekopi puthujjano nāma natthi, satthāraṃ nimantentāpi te upāsake antokaritvāva nimantenti.
Among them, some were sotāpannas, some sakadāgāmins, some anāgāmins; there was not a single ordinary person (puthujjano), and when inviting the Teacher, they would also include these lay followers in the invitation.
Trong số đó, có người là bậc Dự lưu (Sotāpanna), có người là bậc Nhất lai (Sakadāgāmī), có người là bậc Bất hoàn (Anāgāmī), không một ai là phàm phu (puthujjano) cả; khi thỉnh Đức Đạo Sư, họ cũng thỉnh luôn cả các vị cư sĩ đó.
Tesaṃ pana dantakaṭṭhamukhodakavatthagandhamāladāyakā pañcasatā cūḷupaṭṭhākā vighāsādā hutvā vasanti.
However, five hundred junior attendants, who provided them with tooth-sticks, mouth-water, clothes, perfumes, and garlands, lived as hangers-on (vighāsādā).
Tuy nhiên, có năm trăm người hầu cận nhỏ (cūḷupaṭṭhākā) của họ, những người chuyên cung cấp tăm xỉa răng, nước rửa mặt, y phục, hương liệu và vòng hoa, sống như những người ăn xin (vighāsādā).
Te bhuttapātarāsā niddāyitvā uṭṭhāya aciravatiṃ gantvā nadītīre unnadantā mallayuddhaṃ yujjhanti.
After eating their breakfast, they would wake up from sleep, go to the Aciravatī river, and wrestle on the riverbank, making loud noises.
Sau khi ăn sáng xong, họ ngủ một giấc rồi thức dậy, đi đến sông Aciravatī, và trên bờ sông, họ hò reo đánh vật với nhau.
Te pana pañcasatā upāsakā appasaddā appanigghosā paṭisallānamanuyuñjanti.
But those five hundred lay followers were quiet and soft-spoken, devoted to seclusion.
Còn năm trăm vị cư sĩ kia thì ít tiếng động, ít ồn ào, chuyên tâm vào sự độc cư (paṭisallāna).
Satthā tesaṃ vighāsādānaṃ uccāsaddaṃ sutvā ‘‘kiṃ eso, ānanda, saddo’’ti theraṃ pucchitvā ‘‘vighāsādasaddo, bhante’’ti vutte ‘‘na kho, ānanda, ime vighāsādā idāneva vighāsaṃ khāditvā unnadanti, pubbepi unnadantiyeva, imepi upāsakā na idāneva sannisinnā, pubbepi sannisinnāyevā’’ti vatvā therena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, hearing the loud noise of those hangers-on, asked the elder Ānanda, "What is that noise, Ānanda?" When told, "It is the noise of the hangers-on, Bhante," the Teacher said, "Indeed, Ānanda, these hangers-on are not making noise only now after eating their scraps; they were making noise in the past too. And these lay followers are not sitting quietly only now; they were sitting quietly in the past too," and being requested by the elder, he related a past story.
Đức Đạo Sư nghe tiếng ồn ào của những người ăn xin đó, hỏi Trưởng lão Ānanda: "Này Ānanda, tiếng ồn đó là gì?" Khi được thưa: "Bạch Thế Tôn, đó là tiếng ồn của những người ăn xin," Ngài nói: "Này Ānanda, không phải chỉ bây giờ những người ăn xin này mới ăn xong rồi hò reo, mà trước kia họ cũng hò reo như vậy; và những vị cư sĩ này cũng không phải chỉ bây giờ mới ngồi yên, mà trước kia họ cũng ngồi yên như vậy," rồi được Trưởng lão thỉnh cầu, Ngài kể chuyện quá khứ.
534
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto rañño atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family and, having come of age, became the king's advisor on welfare and Dhamma.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình quan chức, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành vị cố vấn về lợi ích và Pháp cho nhà vua.
Athekasmiṃ kāle so rājā ‘‘paccanto kupito’’ti sutvā pañcasate sindhave kappāpetvā caturaṅginiyā senāya gantvā paccantaṃ vūpasametvā bārāṇasimeva paccāgantvā ‘‘sindhavā kilantā allarasameva nesaṃ muddikapānaṃ dethā’’ti āṇāpesi.
Then, at one time, the king, hearing that "the border is disturbed," had five hundred Sindhu horses harnessed, went with a four-fold army, pacified the border, and returned to Bārāṇasī, ordering, "The Sindhu horses are tired; give them only fresh juice to drink."
Một thời nọ, vị vua đó nghe nói: "Vùng biên giới đang nổi loạn," liền chuẩn bị năm trăm con ngựa Sindhu, cùng với đạo quân bốn binh chủng, đi dẹp yên vùng biên giới, rồi trở về Bārāṇasī và ra lệnh: "Ngựa Sindhu đã mệt mỏi, hãy cho chúng uống nước ép trái cây tươi (muddikapānaṃ) thôi."
Sindhavā gandhapānaṃ pivitvā assasālaṃ gantvā attano attano ṭhānesu aṭṭhaṃsu.
The Sindhu horses drank the fragrant juice, went to the stable, and stood in their respective places.
Những con ngựa Sindhu uống nước ép trái cây thơm, rồi đi đến chuồng ngựa và đứng yên tại chỗ của mình.
Tesaṃ pana dinnāvasiṭṭhakaṃ apparasaṃ bahukasaṭaṃ ahosi.
However, what was left over after giving to them was of little essence and much dregs.
Phần còn lại sau khi đã cho chúng uống thì ít vị và có nhiều cặn bã.
Manussā ‘‘idaṃ kiṃ karomā’’ti rājānaṃ pucchiṃsu.
The people asked the king, "What shall we do with this?"
Người ta hỏi nhà vua: "Chúng tôi phải làm gì với cái này?"
Rājā udakena madditvā makacipilotikāhi parissāvetvā ‘‘ye gadrabhā sindhavānaṃ nivāpaṃ pahiṃsu, tesaṃ dāpethā’’ti dāpesi.
The king had it mixed with water, filtered through haircloth, and ordered, "Give it to the donkeys that carried fodder for the Sindhu horses."
Nhà vua ra lệnh: "Hãy trộn với nước, lọc qua vải mỏng, rồi cho những con lừa đã chở thức ăn cho ngựa Sindhu uống."
Gadrabhā kasaṭaudakaṃ pivitvā mattā hutvā viravantā rājaṅgaṇe vicariṃsu.
The donkeys, having drunk the dregs-water, became intoxicated and wandered in the royal courtyard, braying.
Những con lừa uống nước cặn bã, trở nên say sưa, hò hét đi lại trong sân cung điện.
Rājā mahāvātapānaṃ vivaritvā rājaṅgaṇaṃ olokayamāno samīpe ṭhitaṃ bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘passa, ime gadrabhā kasaṭodakaṃ pivitvā mattā hutvā viravantā uppatantā vicaranti, sindhavakule jātasindhavā pana gandhapānaṃ pivitvā nissaddā sannisinnā na uppilavanti, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The king opened the large window, looked at the royal courtyard, and addressing the Bodhisatta who stood nearby, asked, "Look, these donkeys, having drunk dregs-water, are intoxicated and wander about braying and leaping. But the Sindhu horses, born of Sindhu lineage, having drunk fragrant juice, are quiet and settled, not leaping about. What could be the reason?"—and he spoke the first verse:
Vua mở cửa sổ lớn, nhìn ra sân cung điện, gọi Bồ tát đang đứng gần đó và hỏi: “Hãy xem, những con lừa này uống nước cặn bã rồi say sưa, la hét, nhảy nhót, đi lại khắp nơi. Còn những con ngựa Sindhu sinh ra trong dòng dõi Sindhu lại uống nước thơm mà im lặng, trầm tĩnh, không nhảy nhót. Nguyên nhân là gì vậy?” – rồi vua nói bài kệ thứ nhất:
535
65.
65.
65.
536
‘‘Vālodakaṃ apparasaṃ nihīnaṃ, pitvā mado jāyati gadrabhānaṃ;
"Having drunk water with hair, of little essence, inferior,
“Uống nước cặn ít vị, thấp kém, lừa sinh ra sự say sưa;
537
Imañca pitvāna rasaṃ paṇītaṃ, mado na sañjāyati sindhavāna’’nti.
Intoxication arises in donkeys.
Còn uống vị ngon thượng hạng này, ngựa Sindhu không hề say sưa.”
538
Tattha vālodakanti makacivālehi parissāvitaudakaṃ.
There, vālodakaṃ means water filtered through haircloth.
Ở đây, vālodaka có nghĩa là nước được lọc qua lông khỉ (makaci).
‘‘Vāludaka’’ntipi pāṭho.
"Vāludaka" is also a reading.
Cũng có bản đọc là “Vāludaka”.
Nihīnanti nihīnarasabhāvena nihīnaṃ.
Nihīnaṃ means inferior due to its inferior essence.
Nihīna có nghĩa là thấp kém do bản chất vị thấp kém.
Na sañjāyatīti sindhavānaṃ mado na jāyati, kiṃ nu kho kāraṇanti pucchi.
Na sañjāyati means intoxication does not arise in Sindhu horses; what could be the reason, he asked.
Na sañjāyati có nghĩa là ngựa Sindhu không say sưa, nguyên nhân là gì vậy? – vua hỏi.
539
Athassa kāraṇaṃ ācikkhanto bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Then, explaining the reason to him, the Bodhisatta spoke the second verse:
Rồi Bồ tát, để giải thích nguyên nhân cho vua, nói bài kệ thứ hai:
540
66.
66.
66.
541
‘‘Appaṃ pivitvāna nihīnajacco, so majjatī tena janinda puṭṭho;
"Having drunk little, being of an inferior breed, he becomes intoxicated, O king, being thus nourished;
“Uống ít mà dòng dõi thấp kém, nên nó say sưa, thưa vua, được nuôi dưỡng bởi điều đó;
542
Dhorayhasīlī ca kulamhi jāto, na majjatī aggarasaṃ pivitvā’’ti.
But one born in a noble family, accustomed to bearing burdens, does not become intoxicated after drinking the finest juice."
Còn con vật có bản tính chịu gánh vác, sinh ra trong dòng dõi cao quý, uống vị thượng hạng cũng không say sưa.”
543
Tattha tena janinda puṭṭhoti janinda uttamarāja yo nihīnajacco, tena nihīnajaccabhāvena puṭṭho majjati pamajjati.
Therein, " tena janinda puṭṭho" means, O king, he who is of low birth, being questioned by that low birth, becomes intoxicated and negligent.
Ở đây, tena janinda puṭṭho có nghĩa là: Thưa vua, hỡi bậc vương giả tối thượng, kẻ nào thuộc dòng dõi thấp kém, do bản chất dòng dõi thấp kém đó mà say sưa, phóng dật.
Dhorayhasīlīti dhorayhasīlo dhuravahanakaācārena sampanno jātisindhavo.
" Dhorayhasīlī" means one who possesses the characteristic of bearing a burden, a thoroughbred horse endowed with the custom of carrying a burden.
Dhorayhasīlī là con ngựa Sindhu có bản tính chịu gánh vác, đầy đủ phong thái của kẻ chịu trách nhiệm.
Aggarasanti sabbapaṭhamaṃ gahitaṃ muddikarasaṃ pivitvāpi na majjati.
" Aggarasa" means that even after drinking the first-taken juice of the date palm, he does not become intoxicated.
Aggarasa có nghĩa là dù uống nước ép nho được lấy đầu tiên cũng không say sưa.
544
Rājā bodhisattassa vacanaṃ sutvā gadrabhe rājaṅgaṇā nīharāpetvā tasseva ovāde ṭhito dānādīni puññāni katvā yathākammaṃ gato.
The king, having heard the Bodhisatta's words, had the donkeys removed from the royal courtyard, and abiding by his advice, performed meritorious deeds such as giving alms, and passed away according to his kamma.
Vua nghe lời Bồ tát, cho đuổi những con lừa ra khỏi sân cung điện, rồi sống theo lời khuyên của Bồ tát, làm các công đức bố thí v.v., và tùy theo nghiệp mà tái sinh.
545
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā pañcasatā gadrabhā ime vighāsādā ahesuṃ, pañcasatā sindhavā ime upāsakā, rājā ānando, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the five hundred donkeys were these gluttons; the five hundred thoroughbred horses were these lay devotees; the king was Ānanda; and the wise minister was I myself."
Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp này, rồi kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, năm trăm con lừa chính là những người ăn đồ thừa (vighāsādā) này; năm trăm con ngựa Sindhu chính là những người cận sự nam này; vua chính là Ānanda; còn vị đại thần trí tuệ chính là Ta vậy.”
546
Vālodakajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third description of the Vālodaka Jātaka.
Vālodaka Jātaka, phần giải thích thứ ba, đã xong.
547
* 4. Giridattajātakavaṇṇanā
* 4. Description of the Giridatta Jātaka
* 4. Giridatta Jātaka, phần giải thích
548
Dūsito giridattenāti idaṃ satthā veḷuvane viharanto ekaṃ vipakkhaseviṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
" Dūsito giridattenā" – this the Teacher related while dwelling in Veḷuvana, concerning a bhikkhu who associated with opponents.
Dūsito giridattenā (Bị Giridatta làm hư hỏng) – câu này được Đức Thế Tôn thuyết khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến một Tỳ khưu kết giao với phe đối lập.
Vatthu heṭṭhā mahiḷāmukhajātake (jā. 1.1.26) kathitameva.
The story is already told below in the Mahiḷāmukha Jātaka.
Câu chuyện đã được kể trong Mahiḷāmukha Jātaka (Jā. 1.1.26) ở phần dưới.
Satthā pana ‘‘na, bhikkhave, ayaṃ bhikkhu idāneva vipakkhaṃ sevati, pubbepesa vipakkhasevakoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
But the Teacher said, "Bhikkhus, this bhikkhu does not associate with opponents only now; he was an associate of opponents in the past too," and then he brought up the past.
Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ khưu, Tỳ khưu này không phải chỉ bây giờ mới kết giao với phe đối lập, mà trước đây cũng đã từng là kẻ kết giao với phe đối lập rồi,” và Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
549
Atīte bārāṇasiyaṃ sāmarājā rajjaṃ kāresi.
In the past, King Sāma reigned in Bārāṇasī.
Trong quá khứ, khi vua Sāma trị vì tại Bārāṇasī.
Tadā bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa atthadhammānusāsako ahosi.
At that time, the Bodhisatta was born into a minister's family and, having reached maturity, became his advisor on what is beneficial and righteous.
Khi đó, Bồ tát tái sinh vào dòng dõi đại thần, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành người cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho vua.
Rañño pana paṇḍavo nāma maṅgalasso, tassa giridatto nāma assabandho, so khañjo ahosi.
The king had a royal elephant named Paṇḍava, and its mahout was named Giridatta, who was lame.
Vua có một con ngựa tốt tên là Paṇḍava, và người giữ ngựa của nó tên là Giridatta, anh ta bị què.
Asso mukharajjuke gahetvā taṃ purato purato gacchantaṃ disvā ‘‘maṃ esa sikkhāpetī’’ti saññāya tassa anusikkhanto khañjo ahosi.
The elephant, taking the reins in its mouth, saw him walking ahead and, thinking "he is training me," imitated him and became lame.
Con ngựa, khi bị nắm dây cương và thấy anh ta đi trước, nghĩ rằng “người này đang huấn luyện mình,” nên bắt chước anh ta và cũng bị què.
Tassa assassa khañjabhāvaṃ rañño ārocesuṃ, rājā vejje pesesi.
They reported the lameness of that elephant to the king, and the king sent physicians.
Họ báo cho vua biết về tình trạng què của con ngựa, và vua đã cử các thầy thuốc đến.
Te gantvā assassa sarīre rogaṃ apassantā ‘‘rogamassa na passāmā’’ti rañño kathayiṃsu.
They went and, finding no disease in the elephant's body, told the king, "We do not find any disease in it."
Họ đến, không tìm thấy bệnh tật nào trong thân thể con ngựa, nên báo với vua rằng “chúng tôi không thấy bệnh của nó.”
Rājā bodhisattaṃ pesesi – ‘‘gaccha vayassa, ettha kāraṇaṃ jānāhī’’ti.
The king sent the Bodhisatta, saying, "Go, friend, and find out the cause here."
Vua cử Bồ tát đi: “Này bạn, hãy đi tìm hiểu nguyên nhân ở đây.”
So gantvā khañjaassabandhasaṃsaggena tassa khañjabhūtabhāvaṃ ñatvā rañño tamatthaṃ ārocetvā ‘‘saṃsaggadosena nāma evaṃ hotī’’ti dassento paṭhamaṃ gāthamāha –-
He went and, realizing that its lameness was due to associating with the lame mahout, reported the matter to the king and, demonstrating that "such a thing happens due to the fault of association," he spoke the first verse:
Ngài đi, biết được rằng con ngựa bị què là do tiếp xúc với người giữ ngựa què, bèn báo lại sự việc đó với vua và nói: “Do lỗi giao du mà xảy ra như vậy,” rồi Ngài nói bài kệ thứ nhất để minh họa:
550
67.
67.
67.
551
‘‘Dūsito giridattena, hayo sāmassa paṇḍavo;
"The horse Paṇḍava of King Sāma is corrupted by Giridatta;
“Con ngựa Paṇḍava của vua Sāma, bị Giridatta làm hư hỏng;
552
Porāṇaṃ pakatiṃ hitvā, tassevānuvidhiyyatī’’ti.
Forsaking its former nature, it now imitates him."
Bỏ thói quen cũ, nó bắt chước theo y như anh ta.”
553
Tattha hayo sāmassāti sāmassa rañño maṅgalasso.
Therein, " hayo sāmassā" means the royal elephant of King Sāma.
Ở đây, hayo sāmassā là con ngựa tốt của vua Sāma.
Porāṇaṃ pakatiṃ hitvāti attano porāṇapakatiṃ siṅgārabhāvaṃ pahāya.
" Porāṇaṃ pakatiṃ hitvā" means abandoning its former nature, its graceful bearing.
Porāṇaṃ pakatiṃ hitvā có nghĩa là từ bỏ bản tính cũ của mình, sự duyên dáng.
Anuvidhiyyatīti anusikkhati.
" Anuvidhiyyatī" means it imitates.
Anuvidhiyyatī có nghĩa là bắt chước theo.
554
Atha naṃ rājā ‘‘idāni vayassa kiṃ kattabba’’nti pucchi.
Then the king asked him, "Now, friend, what should be done?"
Khi đó, vua hỏi Bồ tát: “Này bạn, bây giờ phải làm gì?”
Bodhisatto ‘‘sundaraṃ assabandhaṃ labhitvā yathā porāṇo bhavissatī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, saying, "If he gets a good mahout, he will become as he was before," spoke the second verse:
Bồ tát nói: “Nếu tìm được một người giữ ngựa đẹp trai, nó sẽ trở lại như xưa,” rồi Ngài nói bài kệ thứ hai:
555
68.
68.
68.
556
‘‘Sace ca tanujo poso, sikharākārakappito;
"If a young man, well-groomed in appearance,
“Nếu có một người thanh niên, được trang điểm đẹp đẽ,
557
Ānane naṃ gahetvāna, maṇḍale parivattaye;
Should take it by the mouth and lead it in circles;
Nắm dây cương nó, và dắt nó đi vòng tròn;
558
Khippameva pahantvāna, tassevānuvidhiyyatī’’ti.
It will quickly abandon it and imitate him."
Nó sẽ nhanh chóng từ bỏ (tật xấu), và bắt chước theo y như anh ta.”
559
Tattha tanujoti tassa anujo.
Therein, " tanujo" means his younger brother.
Ở đây, tanujo có nghĩa là em trai của anh ta.
Anurūpaṃ jāto hi anujo, tassa anujo tanujo.
A younger brother who is born suitable is called tanujo.
Người em trai phù hợp được gọi là tanujo.
Idaṃ vuttaṃ hoti – sace hi, mahārāja, tassa siṅgārassa ācārasampannassa assassa anurūpaṃ jāto siṅgāro ācārasampanno poso.
This is what is meant: "If, O great king, a young man, born suitable for that graceful, well-behaved horse, a graceful, well-behaved person.
Điều này có nghĩa là: “Thưa Đại vương, nếu có một người thanh niên duyên dáng, có phong thái tốt, phù hợp với con ngựa duyên dáng, có phong thái tốt đó.
Sikharākārakappitoti sikharena sundarena ākārena kappitakesamassu taṃ assaṃ ānane gahetvā assamaṇḍale parivatteyya, khippamevesa taṃ khañjabhāvaṃ pahāya ‘‘ayaṃ siṅgāro ācārasampanno assagopako maṃ sikkhāpetī’’ti saññāya khippameva tassa anuvidhiyyati anusikkhissati, pakatibhāveyeva ṭhassatīti attho.
" Sikharākārakappito" means one whose hair and beard are groomed with a beautiful appearance, were to take that horse by the mouth and lead it in circles in the horse arena, it would quickly abandon that lameness, and thinking, 'This graceful, well-behaved mahout is training me,' it would quickly imitate him, and return to its normal state."
Sikharākārakappito có nghĩa là người có tóc và râu được cắt tỉa đẹp đẽ, nếu người đó nắm dây cương con ngựa và dắt nó đi vòng tròn trong sân ngựa, nó sẽ nhanh chóng từ bỏ tật què đó, và nghĩ rằng ‘người giữ ngựa duyên dáng, có phong thái tốt này đang huấn luyện mình,’ nó sẽ nhanh chóng bắt chước theo anh ta, và sẽ trở lại trạng thái bình thường.”
Rājā tathā kāresi, asso pakatibhāve patiṭṭhāsi.
The king did so, and the horse returned to its normal state.
Vua đã làm như vậy, và con ngựa trở lại trạng thái bình thường.
Rājā ‘‘tiracchānānampi nāma āsayaṃ jānissatī’’ti tuṭṭhacitto bodhisattassa mahantaṃ yasaṃ adāsi.
The king, pleased that "he knows the disposition of even animals," bestowed great honor upon the Bodhisatta.
Vua rất vui mừng, nghĩ rằng “Ngài ấy còn biết được tâm tư của loài súc vật,” và ban cho Bồ tát một vinh dự lớn.
560
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā giridatto devadatto ahosi, asso vipakkhasevako bhikkhu, rājā ānando, amaccapaṇḍito pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, Giridatta was Devadatta, the horse was the bhikkhu who associated with opponents, the king was Ānanda, and the wise minister was I myself."
Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp này, rồi kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, Giridatta chính là Devadatta; con ngựa chính là Tỳ khưu kết giao với phe đối lập; vua chính là Ānanda; còn vị đại thần trí tuệ chính là Ta vậy.”
561
Giridattajātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth Description of the Giridatta Jātaka.
Giridatta Jātaka, phần giải thích thứ tư, đã xong.
562
* 5. Anabhiratijātakavaṇṇanā
* 5. The Description of the Anabhirati Jātaka
* 5. Anabhirati Jātaka, phần giải thích
563
Yathodake āvile appasanneti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ brāhmaṇakumāraṃ ārabbha kathesi.
“Just as in turbid, unclear water”—this the Teacher spoke while dwelling in Jetavana, concerning a certain brahmin youth.
Yathodake āvile appasanne (Như nước đục không trong) – câu này được Đức Thế Tôn thuyết khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một thanh niên Bà la môn.
Sāvatthiyaṃ kira eko brāhmaṇakumāro tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū bahū khattiyakumāre ca brāhmaṇakumāre ca mante vācesi.
It is said that in Sāvatthī, a certain brahmin youth, proficient in the three Vedas, taught mantras to many Khattiya youths and brahmin youths.
Nghe nói, tại Sāvatthī có một thanh niên Bà la môn thông thạo ba bộ Veda, dạy chú thuật cho nhiều thanh niên Sát đế lỵ và thanh niên Bà la môn.
So aparabhāge gharāvāsaṃ saṇṭhapetvā vatthālaṅkāradāsadāsikhettavatthugomahiṃsaputtadārādīnaṃ atthāya cintayamāno rāgadosamohavasiko hutvā āvilacitto ahosi, mante paṭipāṭiyā parivattetuṃ nāsakkhi, ito cito ca mantā na paṭibhaṃsu.
Later, having established a household, his mind became turbid, being under the sway of passion, hatred, and delusion, as he contemplated on clothes, ornaments, male and female servants, fields, land, cattle, buffaloes, sons, wives, and so forth. He was unable to recite the mantras in sequence, and the mantras did not occur to him here and there.
Sau này, anh ta lập gia đình, tâm trí trở nên xáo động do lo lắng về nhà cửa, trang sức, nô tỳ nam nữ, ruộng đất, gia súc, con cái v.v., bị chi phối bởi tham, sân, si. Anh ta không thể đọc thuộc lòng các chú thuật một cách trôi chảy, và các chú thuật không hiện rõ trong tâm trí anh ta.
So ekadivasaṃ bahuṃ gandhamālādiṃ gahetvā jetavanaṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
One day, he took many perfumes, flowers, and so forth, went to Jetavana, honored the Teacher, paid homage, and sat down to one side.
Một ngày nọ, anh ta mang nhiều hương hoa v.v. đến Jetavana, cúng dường Đức Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi xuống một bên.
Satthā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘kiṃ, māṇava, mante vācesi, paguṇā te mantā’’ti pucchi.
The Teacher exchanged greetings with him and asked, “Young man, do you teach mantras? Are your mantras well-practiced?”
Đức Thế Tôn chào hỏi anh ta và hỏi: “Này thanh niên, con có đọc chú thuật không? Các chú thuật của con có thông thạo không?”
‘‘Pubbe me, bhante, mantā paguṇā ahesuṃ, gharāvāsassa pana gahitakālato paṭṭhāya cittaṃ me āvilaṃ jātaṃ, tena me mantā na paguṇā’’ti.
“Formerly, Venerable Sir, my mantras were well-practiced. But since I took up household life, my mind has become turbid. Therefore, my mantras are not well-practiced.”
Anh ta thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, trước đây các chú thuật của con rất thông thạo, nhưng từ khi lập gia đình, tâm con trở nên xáo động, nên con không còn thông thạo các chú thuật nữa.”
Atha naṃ satthā ‘‘na kho, māṇava, idāneva, pubbepi te cittassa anāvilakāle tava mantā paguṇā ahesuṃ, rāgādīhi pana āvilakāle tava mantā na paṭibhaṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, “Young man, it is not only now. Formerly too, when your mind was clear, your mantras were well-practiced. But when your mind was turbid due to passion and so forth, your mantras did not occur to you.” Having said this, being requested by him, the Teacher related a past event.
Đức Thế Tôn nói với anh ta: “Này thanh niên, không phải chỉ bây giờ mà trước đây, khi tâm con không xáo động, các chú thuật của con đã thông thạo. Nhưng khi tâm con bị tham ái v.v. làm xáo động, các chú thuật của con không hiện rõ,” rồi khi anh ta thỉnh cầu, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
564
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇamahāsālakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ mante uggaṇhitvā disāpāmokkho ācariyo hutvā bārāṇasiyaṃ bahū khattiyakumāre ca brāhmaṇakumāre ca mante vācesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in a brahmin chief’s family. Having come of age, he learned the mantras in Takkasilā, became a world-renowned teacher, and taught mantras to many Khattiya youths and brahmin youths in Bārāṇasī.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ tát tái sinh vào dòng dõi đại Bà la môn, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học chú thuật tại Takkasilā, trở thành một vị đạo sư danh tiếng khắp các phương, và dạy chú thuật cho nhiều thanh niên Sát đế lỵ và thanh niên Bà la môn tại Bārāṇasī.
Tassa santike eko brāhmaṇamāṇavo tayo vede paguṇe akāsi, ekapadepi nikkaṅkho piṭṭhiācariyo hutvā mante vācesi.
A certain brahmin youth, who was with him, made the three Vedas well-practiced, became a 'back-teacher' (assistant teacher) without doubt even in a single word, and taught the mantras.
Có một thanh niên Bà la môn học thông thạo ba bộ Veda từ Ngài, không còn nghi ngờ gì về một từ nào, và trở thành một vị đạo sư phụ tá để dạy chú thuật.
So aparena samayena gharāvāsaṃ gahetvā gharāvāsacintāya āvilacitto mante parivattetuṃ nāsakkhi.
Later, having taken up household life, his mind became turbid due to household concerns, and he was unable to recite the mantras.
Sau này, anh ta lập gia đình, tâm trí trở nên xáo động vì lo lắng về gia đình, không thể đọc thuộc lòng các chú thuật.
Atha naṃ ācariyo attano santikaṃ āgataṃ ‘‘kiṃ, māṇava, paguṇā te mantā’’ti pucchitvā ‘‘gharāvāsagahitakālato paṭṭhāya me cittaṃ āvilaṃ jātaṃ, mante parivattetuṃ na sakkomī’’ti vutte ‘‘tāta, āvile cittamhi paguṇāpi mantā na paṭibhanti, anāvile pana citte appaṭibhāṇaṃ nāma natthī’’ti vatvā imā gāthā āha –
Then his teacher, when the youth came to him, asked, “Young man, are your mantras well-practiced?” When the youth replied, “Since I took up household life, my mind has become turbid, and I cannot recite the mantras,” the teacher said, “My son, when the mind is turbid, even well-practiced mantras do not occur. But when the mind is clear, there is nothing that does not occur,” and then spoke these verses—
Khi đó, vị đạo sư thấy anh ta đến, hỏi: “Này thanh niên, các chú thuật của con có thông thạo không?” Khi anh ta đáp: “Bạch thầy, từ khi lập gia đình, tâm con trở nên xáo động, con không thể đọc thuộc lòng các chú thuật,” vị đạo sư nói: “Này con, khi tâm xáo động, ngay cả các chú thuật đã thông thạo cũng không hiện rõ. Nhưng khi tâm không xáo động, không có điều gì là không thể hiểu được,” rồi Ngài nói những bài kệ này:
565
69.
69.
69.
566
‘‘Yathodake āvile appasanne, na passati sippikasambukañca;
“Just as in turbid, unclear water, one does not see mussels and conchs,
“Như nước đục không trong, không thấy được sò ốc;
567
Sakkharaṃ vālukaṃ macchagumbaṃ, evaṃ āvilamhi citte;
Gravel, sand, or schools of fish; so too, in a turbid mind,
Sỏi, cát, đàn cá, cũng vậy, khi tâm xáo động;
568
Na so passati attadatthaṃ paratthaṃ.
One does not see one’s own good or the good of others.”
Người ấy không thấy được lợi ích cho mình và cho người khác.”
569
70.
70.
70.
570
‘‘Yathodake acche vippasanne, so passati sippikasambukañca;
“Just as in clear, perfectly serene water, one sees mussels and conchs,
“Như nước trong sạch, người ấy thấy được sò ốc;
571
Sakkharaṃ vālukaṃ macchagumbaṃ, evaṃ anāvilamhi citte;
Gravel, sand, and schools of fish; so too, in a clear mind,
Sỏi, cát, đàn cá, cũng vậy, khi tâm không xáo động;
572
So passati atthadatthaṃ parattha’’nti.
One sees one’s own good and the good of others.”
Người ấy thấy được lợi ích cho mình và cho người khác.”
573
Tattha āvileti kaddamāluḷite.
Therein, āvile means muddied.
Ở đây, āvile có nghĩa là bị bùn làm đục.
Appasanneti tāyeva āvilatāya avippasanne.
Appasanne means unclear due to that very turbidity.
Appasanne có nghĩa là không trong sạch do sự đục đó.
Sippikasambukañcāti sippikañca sambukañca.
Sippikasambukañcāti means mussels and conchs.
Sippikasambukañcā có nghĩa là sippika và sambuka.
Macchagumbanti macchaghaṭaṃ.
Macchagumbanti means a school of fish.
Macchagumbaṃ có nghĩa là đàn cá.
Evaṃ āvilamhīti evameva rāgādīhi āvile citte.
Evaṃ āvilamhīti means just so, in a mind turbid with passion and so forth.
Evaṃ āvilamhī có nghĩa là tâm bị vẩn đục bởi tham ái, v.v., cũng như vậy.
Attadatthaṃ paratthanti neva attadatthaṃ na paratthaṃ passatīti attho.
Attadatthaṃ paratthanti means one sees neither one’s own good nor the good of others—this is the meaning.
Attadatthaṃ paratthaṃ có nghĩa là không thấy lợi ích cho mình cũng không thấy lợi ích cho người khác.
So passatīti evameva anāvile citte so puriso attadatthaṃ paratthañca passatīti.
So passatīti means just so, in a clear mind, that person sees one’s own good and the good of others.
So passatī có nghĩa là cũng như vậy, với tâm không bị vẩn đục, người ấy thấy lợi ích cho mình và cho người khác.
574
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne brāhmaṇakumāro sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having related this past event and expounded the Noble Truths, connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the brahmin youth was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện quá khứ này, thuyết giảng các Chân lý, rồi kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị Bà-la-môn trẻ đã an trụ vào quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā māṇavo ayameva māṇavo ahosi, ācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, that youth was this very youth; but the teacher was I myself.”
“Khi ấy, chàng thanh niên chính là chàng thanh niên này; còn vị đạo sư thì chính là Ta.”
575
Anabhiratijātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth Description of the Anabhirati Jātaka.
Chuyện Anabhirati Jātaka thứ năm.
576
* 6. Dadhivāhanajātakavaṇṇanā
* 6. The Description of the Dadhivāhana Jātaka
* 6. Chuyện Dadhivāhana Jātaka
577
Vaṇṇagandharasūpetoti idaṃ satthā veḷuvane viharanto vipakkhaseviṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
“Endowed with color, fragrance, and taste”—this the Teacher spoke while dwelling in Veḷuvana, concerning a bhikkhu who associated with opponents.
Vaṇṇagandharasūpeto – câu này Đức Bổn Sư đã thuyết khi Ngài đang trú ngụ tại Veluvana, liên quan đến một Tỳ-khưu giao du với phe đối lập.
Vatthu heṭṭhā kathitameva.
The story is as told below.
Câu chuyện đã được kể ở phần dưới.
Satthā pana ‘‘bhikkhave, asādhusannivāso nāma pāpo anatthakaro, tattha manussabhūtānaṃ tāva pāpasannivāsassa anatthakaratāya kiṃ vattabbaṃ, pubbe pana asātena amadhurena nimbarukkhena saddhiṃ sannivāsamāgamma madhuraraso dibbarasapaṭibhāgo acetano ambarukkhopi amadhuro tittako jāto’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, however, said: "Monks, bad company is evil and brings misfortune. What need is there to speak of the misfortune caused by bad company for human beings? For in the past, even a sweet-juiced mango tree, which was like divine nectar, became unsweet and bitter by associating with a disagreeable, bitter neem tree, though it was inanimate." Having said this, he recounted a past event.
Đức Bổn Sư đã nói: “Này các Tỳ-khưu, sự giao du với kẻ xấu là điều ác, gây hại. Vậy thì cần gì phải nói đến sự giao du với kẻ xấu gây hại cho con người? Ngay cả cây xoài vô tri, có vị ngọt và hương thơm như vị trời, cũng đã trở nên không ngọt, đắng chát khi giao du với cây nimba (sầu đâu) không vị, không ngọt trong quá khứ.” Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.
578
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente kāsiraṭṭhe cattāro bhātaro brāhmaṇā isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantapadese paṭipāṭiyā paṇṇasālā katvā vāsaṃ kappesuṃ.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, four brahmin brothers in the Kāsī kingdom renounced the world to become ascetics and built hermitages in sequence in the Himālaya region, where they resided.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta đang trị vì tại Bārāṇasī, bốn anh em Bà-la-môn ở xứ Kāsī đã xuất gia làm đạo sĩ và lần lượt dựng các tịnh xá trong vùng Hy-mã-lạp Sơn để sinh sống.
Tesaṃ jeṭṭhakabhātā kālaṃ katvā sakkattaṃ pāpuṇi.
The eldest of them passed away and attained the state of Sakka.
Người anh cả trong số họ đã qua đời và đạt được địa vị Sakka.
So taṃ kāraṇaṃ ñatvā antarantarā sattaṭṭhadivasaccayena tesaṃ upaṭṭhānaṃ gacchanto ekadivasaṃ jeṭṭhakatāpasaṃ vanditvā ekamantaṃ nisīditvā – ‘‘bhante, kena te attho’’ti pucchi.
Knowing this, he would visit them every seven or eight days. One day, he bowed to the eldest ascetic and sat to one side, asking, "Venerable sir, what do you need?"
Biết được điều đó, cứ bảy tám ngày một lần, vị ấy đến thăm họ. Một ngày nọ, vị ấy đảnh lễ vị đạo sĩ trưởng lão, rồi ngồi sang một bên và hỏi: “Bạch Tôn giả, Tôn giả cần gì?”
Paṇḍurogo tāpaso ‘‘agginā me attho’’ti āha.
The ascetic, who suffered from a skin disease, said, "I need fire."
Vị đạo sĩ bị bệnh da trắng nói: “Tôi cần lửa.”
So taṃ sutvā tassa vāsipharasukaṃ adāsi.
Hearing this, Sakka gave him an axe-adze.
Nghe vậy, vị ấy đưa cho một chiếc rìu-đục.
Vāsipharasuko nāma daṇḍe pavesanavasena vāsipi hoti pharasupi.
An axe-adze is a tool that functions as both an adze and an axe when fitted onto a handle.
Chiếc rìu-đục có nghĩa là nó có thể là đục hoặc rìu tùy theo cách lắp vào cán.
Tāpaso ‘‘ko me imaṃ ādāya dārūni āharissatī’’ti āha.
The ascetic said, "Who will take this and bring me firewood?"
Vị đạo sĩ nói: “Ai sẽ mang củi đến cho tôi với cái này?”
Atha naṃ sakko evamāha – ‘‘yadā te, bhante, dārūhi attho, imaṃ pharasuṃ hatthena paharitvā ‘dārūni me āharitvā aggiṃ karohī’ti vadeyyāsi, dārūni āharitvā aggiṃ katvā dassatī’’ti.
Then Sakka said to him, "Venerable sir, whenever you need firewood, strike this axe with your hand and say, 'Bring me firewood and make a fire,' and it will bring firewood and make a fire for you."
Khi đó, Sakka nói với ông ấy: “Bạch Tôn giả, khi nào Tôn giả cần củi, Tôn giả hãy dùng tay đập vào chiếc rìu này và nói: ‘Hãy mang củi đến cho tôi và đốt lửa!’ Nó sẽ mang củi đến và đốt lửa cho Tôn giả.”
Tassa vāsipharasukaṃ datvā dutiyampi upasaṅkamitvā ‘‘bhante, kena te attho’’ti pucchi.
After giving him the axe-adze, he visited the second ascetic and asked, "Venerable sir, what do you need?"
Sau khi đưa chiếc rìu-đục cho vị ấy, Sakka lại đến thăm vị đạo sĩ thứ hai và hỏi: “Bạch Tôn giả, Tôn giả cần gì?”
Tassa paṇṇasālāya hatthimaggo hoti, so hatthīhi upadduto ‘‘hatthīnaṃ me vasena dukkhaṃ uppajjati, te palāpehī’’ti āha.
There was an elephant path near his hermitage, and being troubled by elephants, he said, "I suffer due to the elephants; drive them away!"
Có một con đường voi đi qua tịnh xá của vị ấy, và ông ấy bị voi quấy nhiễu. Ông ấy nói: “Tôi bị khổ sở vì voi, hãy xua đuổi chúng đi.”
Sakko tassa ekaṃ bheriṃ upanāmetvā ‘‘bhante, imasmiṃ tale pahaṭe tumhākaṃ paccāmittā palāyissanti, imasmiṃ tale pahaṭe mettacittā hutvā caturaṅginiyā senāya parivāressantī’’ti vatvā taṃ bheriṃ datvā kaniṭṭhassa santikaṃ gantvā ‘‘bhante, kena te attho’’ti pucchi.
Sakka presented him with a drum and said, "Venerable sir, when this side is struck, your enemies will flee; when that side is struck, they will become friendly and surround you with a four-fold army." After giving him the drum, he went to the youngest ascetic and asked, "Venerable sir, what do you need?"
Sakka đưa cho ông ấy một chiếc trống và nói: “Bạch Tôn giả, khi mặt này của trống được đánh, kẻ thù của Tôn giả sẽ bỏ chạy; khi mặt kia của trống được đánh, chúng sẽ trở nên thân thiện và bao vây Tôn giả với một đội quân bốn binh chủng.” Sau khi đưa chiếc trống đó, Sakka đến chỗ người em út và hỏi: “Bạch Tôn giả, Tôn giả cần gì?”
Sopi paṇḍurogadhātukova, tasmā ‘‘dadhinā me attho’’ti āha.
He too suffered from a skin disease, so he said, "I need curds."
Vị ấy cũng bị bệnh da trắng, nên nói: “Tôi cần sữa chua.”
Sakko tassa ekaṃ dadhighaṭaṃ datvā ‘‘sace tumhe icchamānā imaṃ āsiñceyyātha, mahānadī hutvā mahoghaṃ pavattetvā tumhākaṃ rajjaṃ gahetvā dātuṃ samatthopi bhavissatī’’ti vatvā pakkāmi.
Sakka gave him a pot of curds and said, "If you wish to pour this out, it can become a great river, create a mighty flood, and even take and give you a kingdom." Having said this, he departed.
Sakka đưa cho ông ấy một bình sữa chua và nói: “Nếu Tôn giả muốn, Tôn giả có thể đổ nó ra, nó sẽ trở thành một con sông lớn, tạo ra một dòng chảy mạnh mẽ, và thậm chí có thể chiếm lấy vương quốc của Tôn giả để trao cho Tôn giả.” Nói xong, vị ấy rời đi.
Tato paṭṭhāya vāsipharasuko jeṭṭhabhātikassa aggiṃ karoti, itarena bheritale pahaṭe hatthī palāyanti, kaniṭṭho dadhiṃ paribhuñjati.
From then on, the axe-adze made fire for the eldest brother; when the other struck the drum, the elephants fled; and the youngest consumed curds.
Từ đó trở đi, chiếc rìu-đục đốt lửa cho người anh cả; khi mặt trống được đánh bởi người kia, voi bỏ chạy; và người em út ăn sữa chua.
579
Tasmiṃ kāle eko sūkaro ekasmiṃ purāṇagāmaṭṭhāne caranto ānubhāvasampannaṃ ekaṃ maṇikkhandhaṃ addasa.
At that time, a boar, while foraging in an old village site, saw a powerful jewel.
Vào thời điểm đó, một con heo đang đi lang thang ở một khu làng cũ và tìm thấy một viên ngọc quý có uy lực.
So taṃ maṇikkhandhaṃ mukhena ḍaṃsitvā tassānubhāvena ākāse uppatitvā samuddassa majjhe ekaṃ dīpakaṃ gantvā ‘‘ettha dāni mayā vasituṃ vaṭṭatī’’ti otaritvā phāsukaṭṭhāne ekassa udumbararukkhassa heṭṭhā vāsaṃ kappesi.
It bit the jewel with its mouth, and by its power, flew up into the sky, went to an island in the middle of the ocean, and thinking, "Now I should reside here," it descended and made its dwelling under a fig tree in a comfortable spot.
Nó ngậm viên ngọc quý đó trong miệng, nhờ uy lực của viên ngọc, nó bay lên không trung, đến một hòn đảo giữa biển, rồi nghĩ: “Bây giờ ta nên sống ở đây,” và hạ xuống, chọn một nơi thuận tiện dưới gốc cây sung để trú ngụ.
So ekadivasaṃ tasmiṃ rukkhamūle maṇikkhandhaṃ purato ṭhapetvā niddaṃ okkami.
One day, it placed the jewel in front of it at the base of that tree and fell asleep.
Một ngày nọ, nó đặt viên ngọc quý trước mặt dưới gốc cây đó và ngủ thiếp đi.
Atheko kāsiraṭṭhavāsī manusso ‘‘nirupakāro esa amhāka’’nti mātāpitūhi gehā nikkaḍḍhito ekaṃ paṭṭanagāmaṃ gantvā nāvikānaṃ kammakāro hutvā nāvaṃ āruyha samuddamajjhe bhinnāya nāvāya phalake nipanno taṃ dīpakaṃ patvā phalāphalāni pariyesanto taṃ sūkaraṃ niddāyantaṃ disvā saṇikaṃ gantvā maṇikkhandhaṃ gaṇhitvā tassa ānubhāvena ākāse uppatitvā udumbararukkhe nisīditvā cintesi – ‘‘ayaṃ sūkaro imassa maṇikkhandhassa ānubhāvena ākāsacāriko hutvā idha vasati maññe, mayā paṭhamameva imaṃ sūkaraṃ māretvā maṃsaṃ khāditvā pacchā gantuṃ vaṭṭatī’’ti.
Then a man from the Kāsī kingdom, who had been driven out of his home by his parents with the words, "He is useless to us," went to a port village, became a laborer for sailors, boarded a ship, and when the ship broke apart in the middle of the ocean, he lay on a plank. He reached that island, and while searching for fruits, he saw the boar sleeping. He quietly approached, took the jewel, and by its power, flew up into the sky and sat in the fig tree, thinking, "This boar, I suppose, lives here, flying through the air by the power of this jewel. I should first kill this boar, eat its flesh, and then go."
Khi đó, một người đàn ông sống ở xứ Kāsī, bị cha mẹ đuổi ra khỏi nhà vì “người này vô dụng đối với chúng ta,” đã đến một làng cảng, làm công cho các thủy thủ, lên thuyền, và khi thuyền bị vỡ giữa biển, ông ta nằm trên một tấm ván, trôi dạt đến hòn đảo đó. Khi đang tìm kiếm trái cây, ông ta thấy con heo đang ngủ, liền nhẹ nhàng đến gần, lấy viên ngọc quý, nhờ uy lực của nó, ông ta bay lên không trung, ngồi trên cây sung và nghĩ: “Con heo này chắc là nhờ uy lực của viên ngọc quý này mà có thể bay trên không và sống ở đây. Ta nên giết con heo này trước, ăn thịt nó rồi sau đó mới đi.”
So ekaṃ daṇḍakaṃ bhañjitvā tassa sīse pāteti.
He broke off a stick and dropped it on its head.
Ông ta bẻ một cành cây và ném vào đầu con heo.
Sūkaro pabujjhitvā maṇiṃ apassanto ito cito ca kampamāno vidhāvati, rukkhe nisinnapuriso hasi.
The boar woke up, and not seeing the jewel, it ran about trembling here and there, while the man sitting in the tree laughed.
Con heo thức dậy, không thấy viên ngọc, liền run rẩy chạy đi khắp nơi. Người đàn ông ngồi trên cây cười.
Sūkaro olokento taṃ disvā taṃ rukkhaṃ sīsena paharitvā tattheva mato.
The boar, looking on, saw it, struck that tree with its head, and died right there.
Con heo nhìn lên, thấy ông ta, liền húc đầu vào cây đó và chết ngay tại chỗ.
580
So puriso otaritvā aggiṃ katvā tassa maṃsaṃ pacitvā khāditvā ākāse uppatitvā himavantamatthakena gacchanto assamapadaṃ disvā jeṭṭhabhātikassa tāpasassa assame otaritvā dvīhatīhaṃ vasitvā tāpasassa vattapaṭivattaṃ akāsi, vāsipharasukassa ānubhāvañca passi.
That man descended, made a fire, cooked and ate its flesh, then flew up into the sky. As he was going over the summit of the Himalayas, he saw the hermitage and descended into the hermitage of the elder ascetic brother. He stayed for two or three days, performed duties for the ascetic, and saw the power of the axe.
Người đàn ông đó liền xuống, đốt lửa, nấu thịt heo ăn, rồi bay lên không trung, đi qua đỉnh Hy-mã-lạp Sơn. Thấy khu ẩn cư, ông ta hạ xuống tịnh xá của vị đạo sĩ trưởng lão, ở lại hai ba ngày, làm các công việc phục vụ cho đạo sĩ, và thấy được uy lực của chiếc rìu-đục.
So ‘‘imaṃ mayā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti maṇikkhandhassa ānubhāvaṃ tāpasassa dassetvā ‘‘bhante, imaṃ maṇiṃ gahetvā vāsipharasukaṃ dethā’’ti āha.
He, thinking, "It is proper for me to take this," showed the ascetic the power of the jewel-bundle and said, "Venerable sir, take this jewel and give me the axe."
Ông ta nghĩ: “Mình nên lấy cái này,” liền cho đạo sĩ thấy uy lực của viên ngọc quý và nói: “Bạch Tôn giả, hãy lấy viên ngọc này và đưa cho con chiếc rìu-đục.”
Tāpaso ākāsena caritukāmo taṃ gahetvā vāsipharasukaṃ adāsi.
The ascetic, wishing to travel through the sky, took it and gave him the axe.
Vị đạo sĩ muốn bay trên không, liền lấy viên ngọc và đưa chiếc rìu-đục cho ông ta.
So taṃ gahetvā thokaṃ gantvā vāsipharasukaṃ paharitvā ‘‘vāsipharasuka tāpasassa sīsaṃ chinditvā maṇikkhandhaṃ me āharā’’ti āha.
He took it, went a short distance, struck the axe, and said, "Axe, cut off the ascetic's head and bring me the jewel-bundle."
Ông ta lấy chiếc rìu-đục, đi một đoạn, rồi đập vào nó và nói: “Rìu-đục ơi, hãy chặt đầu vị đạo sĩ và mang viên ngọc quý về cho ta!”
So gantvā tāpasassa sīsaṃ chinditvā maṇikkhandhaṃ āhari.
It went, cut off the ascetic's head, and brought the jewel-bundle.
Nó liền đi, chặt đầu vị đạo sĩ và mang viên ngọc quý về.
So vāsipharasukaṃ paṭicchannaṭṭhāne ṭhapetvā majjhimatāpasassa santikaṃ gantvā katipāhaṃ vasitvā bheriyā ānubhāvaṃ disvā maṇikkhandhaṃ datvā bheriṃ gaṇhitvā purimanayeneva tassapi sīsaṃ chindāpetvā kaniṭṭhaṃ upasaṅkamitvā dadhighaṭassa ānubhāvaṃ disvā maṇikkhandhaṃ datvā dadhighaṭaṃ gahetvā purimanayeneva tassa sīsaṃ chindāpetvā maṇikkhandhañca vāsipharasukañca bheriñca dadhighaṭañca gahetvā ākāse uppatitvā bārāṇasiyā avidūre ṭhatvā bārāṇasirañño ‘‘yuddhaṃ vā me detu rajjaṃ vā’’ti ekassa purisassa hatthe paṇṇaṃ pāhesi.
He placed the axe in a hidden spot, went to the middle ascetic, stayed for a few days, saw the power of the drum, gave the jewel-bundle, took the drum, and in the same manner as before, had that ascetic's head cut off. Then he approached the youngest ascetic, saw the power of the curds-pot, gave the jewel-bundle, took the curds-pot, and in the same manner as before, had his head cut off. He took the jewel-bundle, the axe, the drum, and the curds-pot, flew up into the sky, stood not far from Bārāṇasī, and sent a message with a man to the king of Bārāṇasī, saying, "Either give me battle or the kingdom."
Ông ta giấu chiếc rìu-đục vào chỗ kín, rồi đến chỗ vị đạo sĩ thứ hai, ở lại vài ngày, thấy được uy lực của chiếc trống, liền đưa viên ngọc quý và lấy chiếc trống. Với cách tương tự như trước, ông ta cũng sai chặt đầu vị đạo sĩ đó. Sau đó, ông ta đến chỗ người em út, thấy được uy lực của bình sữa chua, liền đưa viên ngọc quý và lấy bình sữa chua. Với cách tương tự như trước, ông ta cũng sai chặt đầu vị đạo sĩ đó. Rồi ông ta lấy viên ngọc quý, chiếc rìu-đục, chiếc trống và bình sữa chua, bay lên không trung, dừng lại gần thành Bārāṇasī, và gửi một bức thư cho vua Bārāṇasī qua một người đàn ông, nói: “Hoặc là chiến tranh, hoặc là vương quốc của ta.”
581
Rājā sāsanaṃ sutvāva ‘‘coraṃ gaṇhissāmī’’ti nikkhami.
As soon as the king heard the message, he set out, thinking, "I will seize the thief."
Nghe tin, nhà vua lập tức xuất quân với ý định “sẽ bắt tên trộm.”
So ekaṃ bheritalaṃ pahari, caturaṅginī senā parivāresi.
He struck one side of the drum, and a fourfold army surrounded him.
Người đàn ông đó đánh một mặt trống, và một đội quân bốn binh chủng bao vây.
Rañño avattharaṇabhāvaṃ ñatvā dadhighaṭaṃ vissajjesi, mahānadī pavatti.
Knowing the king's overwhelming force, he released the curds-pot, and a great river of curds flowed forth.
Biết rằng nhà vua đang bị áp đảo, ông ta đổ bình sữa chua ra, và một con sông lớn chảy xiết.
Mahājano dadhimhi osīditvā nikkhamituṃ nāsakkhi.
The great multitude, sinking in the curds, could not get out.
Đại chúng bị chìm trong sữa chua và không thể thoát ra được.
Vāsipharasukaṃ paharitvā ‘‘rañño sīsaṃ āharā’’ti āha, vāsipharasuko gantvā rañño sīsaṃ āharitvā pādamūle nikkhipi.
He struck the axe and said, "Bring the king's head." The axe went, brought the king's head, and laid it at his feet.
Ông ta đập vào chiếc rìu-đục và nói: “Hãy mang đầu nhà vua về đây!” Chiếc rìu-đục liền đi, mang đầu nhà vua về và đặt dưới chân ông ta.
Ekopi āvudhaṃ ukkhipituṃ nāsakkhi.
Not a single person could raise a weapon.
Không một ai có thể cầm vũ khí lên.
So mahantena balena parivuto nagaraṃ pavisitvā abhisekaṃ kāretvā dadhivāhano nāma rājā hutvā dhammena samena rajjaṃ kāresi.
He, surrounded by a great army, entered the city, had himself anointed, became King Dadhivāhana, and ruled the kingdom righteously and justly.
Ông ta, được bao quanh bởi một lực lượng lớn, tiến vào thành, làm lễ đăng quang, trở thành vua Dadhivāhana, và trị vì vương quốc một cách công bằng và chính đáng.
582
Tassekadivasaṃ mahānadiyaṃ jālakaraṇḍake kīḷantassa kaṇṇamuṇḍadahato devaparibhogaṃ ekaṃ ambapakkaṃ āgantvā jāle laggi, jālaṃ ukkhipantā taṃ disvā rañño adaṃsu.
One day, as he was playing in a fishing basket in the great river, a mango fruit, fit for divine enjoyment, came from the Kaṇṇamuṇḍa lake and got caught in the net. Those who lifted the net saw it and gave it to the king.
Một ngày nọ, khi nhà vua đang vui đùa trong một chiếc giỏ đánh cá trên con sông lớn, một quả xoài thần, thuộc về chư thiên, từ thác nước Kaṇṇamuṇḍa trôi đến và mắc vào lưới. Khi kéo lưới lên, họ thấy quả xoài và dâng lên nhà vua.
Taṃ mahantaṃ ghaṭappamāṇaṃ parimaṇḍalaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ ahosi.
It was large, the size of a pot, round, and golden in color.
Quả xoài đó to bằng một cái chum, tròn trịa và có màu vàng óng.
Rājā ‘‘kissa phalaṃ nāmeta’’nti vanacarake pucchitvā ‘‘ambaphala’’nti sutvā paribhuñjitvā tassa aṭṭhiṃ attano uyyāne ropāpetvā khīrodakena siñcāpesi.
The king asked the forest-dwellers, "What kind of fruit is this?" and hearing "It is a mango fruit," he ate it. He then had its seed planted in his own park and watered with milk and water.
Nhà vua hỏi những người sống trong rừng: “Quả này tên gì?” Nghe nói là “quả xoài,” ông ta ăn. Rồi ông ta sai trồng hạt xoài đó trong khu vườn của mình và tưới bằng sữa và nước.
Rukkho nibbattitvā tatiye saṃvacchare phalaṃ adāsi.
The tree grew and bore fruit in the third year.
Cây xoài mọc lên và ra quả vào năm thứ ba.
Ambassa sakkāro mahā ahosi, khīrodakena siñcanti, gandhapañcaṅgulikaṃ denti, mālādāmāni parikkhipanti, gandhatelena dīpaṃ jālenti, parikkhepo panassa paṭasāṇiyā ahosi.
The mango tree received great honor; it was watered with milk and water, offered five kinds of perfumes, encircled with garlands, and lamps were lit with perfumed oil. Its enclosure was made of fine cloth.
Cây xoài được chăm sóc rất chu đáo: được tưới bằng sữa và nước, được dâng hương năm ngón, được treo vòng hoa, được đốt đèn bằng dầu thơm, và được bao quanh bằng một tấm vải bạt.
Phalāni madhurāni suvaṇṇavaṇṇāni ahesuṃ.
The fruits were sweet and golden in color.
Quả có vị ngọt và màu vàng óng.
Dadhivāhanarājā aññesaṃ rājūnaṃ ambaphalaṃ pesento aṭṭhito rukkhanibbattanabhayena aṅkuranibbattanaṭṭhānaṃ maṇḍūkakaṇṭakena vijjhitvā pesesi.
King Dadhivāhana, when sending mango fruits to other kings, would pierce the place where the sprout emerges with a frog's thorn, fearing that a tree might grow from the seed.
Vua Dadhivāhana, khi gửi quả xoài cho các vị vua khác, vì sợ cây sẽ mọc lên từ hạt, nên đã dùng gai ếch đâm vào chỗ mọc mầm của hạt rồi mới gửi đi.
Tesaṃ ambaṃ khāditvā aṭṭhi ropitaṃ na sampajjati.
When they ate the mango and planted the seed, it did not sprout.
Những vị vua đó ăn xoài rồi trồng hạt nhưng không thành công.
Te ‘‘kiṃ nu kho ettha kāraṇa’’nti pucchantā taṃ kāraṇaṃ jāniṃsu.
They asked, "What could be the reason for this?" and thus learned the cause.
Họ hỏi: “Nguyên nhân ở đây là gì?” và biết được sự thật.
583
Atheko rājā uyyānapālaṃ pakkositvā ‘‘dadhivāhanassa ambaphalānaṃ rasaṃ nāsetvā tittakabhāvaṃ kātuṃ sakkhissasī’’ti pucchitvā ‘‘āma, devā’’ti vutte ‘‘tena hi gacchāhī’’ti sahassaṃ datvā pesesi.
Then one king summoned his park-keeper and asked, "Can you spoil the taste of Dadhivāhana's mango fruits and make them bitter?" When he replied, "Yes, Your Majesty," the king gave him a thousand coins and sent him off.
Sau đó, một vị vua gọi người trông vườn đến và hỏi: “Ngươi có thể làm cho xoài của Dadhivāhana mất vị ngọt và trở nên đắng được không?” Khi người trông vườn trả lời: “Tâu bệ hạ, được ạ,” nhà vua liền đưa cho anh ta một ngàn đồng và cử đi.
So bārāṇasiṃ gantvā ‘‘eko uyyānapālo āgato’’ti rañño ārocāpetvā tena pakkosāpito pavisitvā rājānaṃ vanditvā ‘‘tvaṃ uyyānapālo’’ti puṭṭho ‘‘āma, devā’’ti vatvā attano ānubhāvaṃ vaṇṇesi.
He went to Bārāṇasī, informed the king that "a park-keeper has arrived," and when summoned by the king, he entered, paid homage to the king, and when asked, "Are you a park-keeper?" he replied, "Yes, Your Majesty," and described his own abilities.
Anh ta đến Bārāṇasī, báo cho nhà vua biết: “Có một người trông vườn đã đến.” Khi được triệu kiến, anh ta vào, đảnh lễ nhà vua, và khi được hỏi: “Ngươi là người trông vườn phải không?” anh ta trả lời: “Tâu bệ hạ, đúng vậy,” rồi kể về tài năng của mình.
Rājā ‘‘gaccha amhākaṃ uyyānapālassa santike hohī’’ti āha.
The king said, "Go, be with our royal gardener."
Nhà vua nói: “Ngươi hãy đến và ở cùng với người trông vườn của chúng ta.”
Te tato paṭṭhāya dve janā uyyānaṃ paṭijagganti.
From then on, those two people tended the garden.
Từ đó, hai người họ cùng nhau chăm sóc vườn.
Adhunāgato uyyānapālo akālapupphāni suṭṭhu pupphāpento akālaphalāni gaṇhāpento uyyānaṃ ramaṇīyaṃ akāsi.
The recently arrived gardener made the garden delightful by causing out-of-season flowers to bloom beautifully and out-of-season fruits to be borne.
Người trông vườn mới đến đã làm cho vườn trở nên đẹp đẽ bằng cách làm cho hoa nở trái mùa và hái quả trái mùa.
Rājā tassa pasīditvā porāṇakauyyānapālaṃ nīharitvā tasseva uyyānaṃ adāsi.
The king, pleased with him, removed the old gardener and gave the garden to him.
Nhà vua hài lòng với anh ta, bãi nhiệm người trông vườn cũ và giao vườn cho anh ta.
So uyyānassa attano hatthagatabhāvaṃ ñatvā ambarukkhaṃ parivāretvā nimbe ca phaggavavalliyo ca ropesi, anupubbena nimbā vaḍḍhiṃsu, mūlehi mūlāni, sākhāhi ca sākhā saṃsaṭṭhā onaddhavinaddhā ahesuṃ.
Knowing that the garden was in his hands, he planted nimba trees and phaggava vines around the mango tree. Gradually, the nimba trees grew, their roots intertwining with the roots of the mango tree, and their branches intertwined and entangled with its branches.
Biết rằng khu vườn đã nằm trong tay mình, anh ta bao quanh cây xoài bằng cách trồng cây nimba và dây phaggava. Dần dần, các cây nimba lớn lên, rễ của chúng đan xen với rễ của cây xoài, và cành của chúng cũng đan xen, quấn chặt vào nhau.
Tena asātaamadhurasaṃsaggena tāvamadhuraphalo ambo tittako jāto nimbapaṇṇasadisaraso, ambaphalānaṃ tittakabhāvaṃ ñatvā uyyānapālo palāyi.
Due to that unpleasant and bitter association, the mango, which was so sweet, became bitter, tasting like nimba leaves. Knowing the bitterness of the mango fruits, the gardener fled.
Do sự tiếp xúc với vị không ngon và không ngọt đó, cây xoài ngọt lịm đã trở nên đắng, có vị giống như lá nimba. Người trông vườn biết rằng quả xoài đã đắng nên bỏ trốn.
584
Dadhivāhano uyyānaṃ gantvā ambaphalaṃ khādanto mukhe paviṭṭhaṃ ambarasaṃ nimbakasaṭaṃ viya ajjhoharituṃ asakkonto kakkāretvā niṭṭhubhi.
Dadhivāhana went to the garden and, eating a mango fruit, could not swallow the mango juice that entered his mouth, as it was like nimba residue, so he spat it out with a grimace.
Vua Dadhivāhana đi đến vườn, khi ăn quả xoài, không thể nuốt nước xoài vào miệng như nước xoài bị lẫn vị xoài đắng, bèn khạc nhổ ra.
Tadā bodhisatto tassa atthadhammānusāsako amacco ahosi.
At that time, the Bodhisatta was his minister, instructing him in welfare and righteousness.
Bấy giờ, Bồ-tát là vị đại thần cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho vua.
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘paṇḍita, imassa rukkhassa porāṇakaparihārato parihīnaṃ natthi, evaṃ santepissa phalaṃ tittakaṃ jātaṃ, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The king summoned the Bodhisatta and, asking, "Wise one, there is no decline in the care of this tree compared to its former care, yet its fruit has become bitter. What could be the reason?" then spoke the first verse:
Vua gọi Bồ-tát đến và hỏi: “Hiền sĩ, cây này không hề thiếu sự chăm sóc như trước, vậy mà quả lại trở nên đắng, nguyên nhân là gì vậy?” rồi nói kệ thứ nhất –
585
71.
71.
71.
586
‘‘Vaṇṇagandharasūpeto, amboyaṃ ahuvā pure;
"This mango tree was formerly endowed with color, fragrance, and taste;
“Xoài này xưa vốn đủ màu sắc, hương vị;
587
Tameva pūjaṃ labhamāno, kenambo kaṭukapphalo’’ti.
Receiving the same reverence, why has the mango become bitter-fruited?"
Được sự tôn kính như vậy, tại sao xoài lại có quả đắng?”
588
Athassa kāraṇaṃ ācikkhanto bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Then, explaining the reason, the Bodhisatta spoke the second verse:
Rồi Bồ-tát nói kệ thứ hai, giải thích nguyên nhân cho vua –
589
72.
72.
72.
590
‘‘Pucimandaparivāro, ambo te dadhivāhana;
"Your mango, Dadhivāhana, is surrounded by nimba trees;
“Này Dadhivāhana, cây xoài của ngài bị cây sầu đâu (nimb) vây quanh;
591
Mūlaṃ mūlena saṃsaṭṭhaṃ, sākhā sākhā nisevare;
Root is intertwined with root, branch serves branch;
Rễ hòa lẫn với rễ, cành nương tựa cành;
592
Asātasannivāsena, tenambo kaṭukapphalo’’ti.
Due to unpleasant proximity, that mango has become bitter-fruited."
Do sống chung với những thứ không ngon, nên xoài có quả đắng.”
593
Tattha pucimandaparivāroti nimbarukkhaparivāro.
Therein, pucimandaparivāro means surrounded by nimba trees.
Trong đó, pucimandaparivāro có nghĩa là bị cây sầu đâu vây quanh.
Sākhā sākhā nisevareti pucimandassa sākhāyo ambarukkhassa sākhāyo nisevanti.
Sākhā sākhā nisevare means the branches of the nimba tree serve the branches of the mango tree.
Sākhā sākhā nisevare có nghĩa là cành của cây sầu đâu nương tựa cành của cây xoài.
Asātasannivāsenāti amadhurehi pucimandehi saddhiṃ sannivāsena.
Asātasannivāsenā means by dwelling together with the bitter nimba trees.
Asātasannivāsenā có nghĩa là do sống chung với những cây sầu đâu không ngọt.
Tenāti tena kāraṇena ayaṃ ambo kaṭukapphalo asātaphalo tittakaphalo jātoti.
Tenā means for that reason this mango has become bitter-fruited, unpleasant-fruited, bitter-tasting.
Tenā có nghĩa là vì lý do đó, cây xoài này đã trở thành quả đắng, quả không ngon, quả có vị chát.
594
Rājā tassa vacanaṃ sutvā sabbepi pucimande ca phaggavavalliyo ca chindāpetvā mūlāni uddharāpetvā samantā amadhurapaṃsuṃ harāpetvā madhurapaṃsuṃ pakkhipāpetvā khīrodakasakkharodakagandhodakehi ambaṃ paṭijaggāpesi.
The king, hearing his words, had all the nimba trees and phaggava vines cut down, their roots dug out, the unpleasant soil removed from all around, sweet soil put in its place, and the mango tree tended with milk, sugar water, and scented water.
Nghe lời Bồ-tát, vua ra lệnh chặt bỏ tất cả cây sầu đâu và dây phaggava, nhổ tận gốc rễ, dọn sạch đất không ngọt xung quanh, đổ đất ngọt vào, và chăm sóc cây xoài bằng nước sữa, nước đường, nước hương.
So madhurasaṃsaggena puna madhurova ahosi.
Through association with sweetness, it became sweet again.
Do tiếp xúc với vị ngọt, cây xoài lại trở nên ngọt ngào như cũ.
Rājā pakatiuyyānapālasseva uyyānaṃ niyyādetvā yāvatāyukaṃ ṭhatvā yathākammaṃ gato.
The king entrusted the garden to the original gardener and, having lived his full lifespan, passed away according to his kamma.
Vua giao lại khu vườn cho người giữ vườn cũ, sống cho đến hết đời và tùy theo nghiệp mà ra đi.
595
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā ahameva paṇḍitāmacco ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, I myself was the wise minister."
Đức Phật đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Bấy giờ, vị đại thần hiền sĩ chính là Ta vậy.”
596
Dadhivāhanajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Dadhivāhana Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka Dadhivāhana thứ sáu đã xong.
597
* 7. Catumaṭṭhajātakavaṇṇanā
* 7. Catumaṭṭha Jātaka
* 7. Câu chuyện Jātaka Catumaṭṭha
598
Ucce viṭabhimāruyhāti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ mahallakabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Ucce viṭabhimāruyhā (Having climbed a high branch) – The Teacher told this while dwelling in Jetavana, concerning a certain elder monk.
Ucce viṭabhimāruyhā (Leo lên cành cây cao) – Đức Phật đã kể câu chuyện này khi ngụ tại Jetavana, liên quan đến một vị tỳ-khưu già.
Ekadivasaṃ kira dvīsu aggasāvakesu aññamaññaṃ pañhapucchanavissajjanakathāya nisinnesu eko mahallako bhikkhu tesaṃ santikaṃ gantvā tatiyo hutvā nisīditvā ‘‘bhante, mayampi tumhe pañhaṃ pucchissāma, tumhepi attano kaṅkhaṃ amhe pucchathā’’ti āha.
It is said that one day, when the two chief disciples were seated discussing and answering questions with each other, an elder monk went to them, sat down as the third, and said, "Venerable sirs, we too will ask you questions, and you may ask us your doubts."
Một hôm, khi hai vị Trưởng lão đệ tử tối thắng đang ngồi đàm luận, hỏi đáp lẫn nhau, một vị tỳ-khưu già đến ngồi xuống làm người thứ ba và nói: “Thưa các ngài, chúng tôi cũng sẽ hỏi các ngài một câu, và các ngài cũng hãy hỏi chúng tôi những điều còn nghi vấn.”
Therā taṃ jigucchitvā uṭṭhāya pakkamiṃsu.
The Theras, disgusted by him, rose and departed.
Các vị Trưởng lão ghê tởm, đứng dậy bỏ đi.
Therānaṃ dhammaṃ sotuṃ nisinnaparisā samāgamassa bhinnakāle satthu santikaṃ gantvā ‘‘kiṃ akāle āgatatthā’’ti vutte taṃ kāraṇaṃ ārocayiṃsu.
The assembly, who had been seated to listen to the Dhamma of the Theras, went to the Teacher when the gathering dispersed and, when asked, "Why have you come at an unusual time?", they reported the reason.
Đoàn chúng đang ngồi nghe pháp của các vị Trưởng lão, khi buổi tụ họp tan rã, đến gặp Đức Phật và khi được hỏi: “Tại sao các con đến không đúng lúc vậy?”, họ đã kể lại sự việc đó.
Satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva sāriputtamoggallānā etaṃ jigucchitvā akathetvā pakkamanti, pubbepi pakkamiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Monks, it is not only now that Sāriputta and Moggallāna are disgusted with him and depart without speaking; they departed in the past too," and then related a past event.
Đức Phật nói: “Này các tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Sāriputta và Moggallāna mới ghê tởm vị ấy mà không nói gì rồi bỏ đi, mà trước đây họ cũng đã bỏ đi như vậy,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
599
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto araññāyatane rukkhadevatā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a tree deity in a forest grove.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là một vị thần cây trong khu rừng.
Atha dve haṃsapotakā cittakūṭapabbatā nikkhamitvā tasmiṃ rukkhe nisīditvā gocarāya gantvā nivattantāpi tasmiṃyeva vissamitvā cittakūṭaṃ gacchanti.
Then two young swans departed from Cittakūṭa mountain, rested in that tree, went to forage, and upon returning, rested there again before going to Cittakūṭa.
Bấy giờ, hai chú chim thiên nga rời núi Cittakūṭa, đậu trên cây đó, rồi đi kiếm ăn và khi trở về cũng nghỉ ngơi ở đó trước khi bay về Cittakūṭa.
Gacchante gacchante kāle tesaṃ bodhisattena saddhiṃ vissāso ahosi.
As time passed, they became intimate with the Bodhisatta.
Cứ thế, thời gian trôi qua, chúng trở nên thân thiết với Bồ-tát.
Gacchantā ca āgacchantā ca aññamaññaṃ sammoditvā dhammakathaṃ kathetvā pakkamiṃsu.
Coming and going, they rejoiced with each other, spoke of the Dhamma, and then departed.
Khi đi và về, chúng chào hỏi nhau, nói chuyện pháp rồi bay đi.
Athekadivasaṃ tesu rukkhagge nisīditvā bodhisattena saddhiṃ kathentesu eko siṅgālo tassa rukkhassa heṭṭhā ṭhatvā tehi haṃsapotakehi saddhiṃ mantento paṭhamaṃ gāthamāha –
Then one day, as they were sitting at the top of the tree and conversing with the Bodhisatta, a jackal stood beneath that tree and, speaking with those cygnets, uttered the first verse:
Một hôm, khi chúng đang đậu trên ngọn cây nói chuyện với Bồ-tát, một con chó rừng đứng dưới gốc cây đó, nói chuyện với hai chú thiên nga, rồi nói kệ thứ nhất –
600
73.
73.
73.
601
‘‘Ucce viṭabhimāruyha, mantayavho rahogatā;
“Having climbed a high branch, you converse in private;
“Các ngài hãy leo lên cành cây cao, bàn bạc riêng tư;
602
Nīce oruyha mantavho, migarājāpi sossatī’’ti.
Descend to a lower place and converse, lest the king of beasts should hear.”
Hãy xuống thấp mà bàn bạc, vua chúa loài thú cũng sẽ nghe thấy đấy!”
603
Tattha ucce viṭabhimāruyhāti pakatiyā ca ucce imasmiṃ rukkhe uccataraṃ ekaṃ viṭapaṃ abhiruhitvā.
Here, ucce viṭabhimāruyhāti means "having climbed a branch, which is naturally high, to an even higher branch on this tree."
Trong đó, ucce viṭabhimāruyhā có nghĩa là leo lên một cành cây cao hơn trên cây vốn đã cao này.
Mantayavhoti mantetha kathetha.
Mantayavhoti means "you converse, you speak."
Mantayavho có nghĩa là hãy bàn bạc, hãy nói chuyện.
Nīce oruyhāti otaritvā nīce ṭhāne ṭhatvā mantetha.
Nīce oruyhāti means "descend and converse while standing in a low place."
Nīce oruyhā có nghĩa là hãy xuống và đứng ở chỗ thấp mà bàn bạc.
Migarājāpi sossatīti attānaṃ migarājānaṃ katvā āha.
Migarājāpi sossatīti means he spoke, making himself out to be the king of beasts.
Migarājāpi sossatī có nghĩa là nó tự xưng mình là vua loài thú mà nói.
Haṃsapotakā jigucchitvā uṭṭhāya cittakūṭameva gatā.
The cygnets, disgusted, rose up and went to Cittakūṭa itself.
Hai chú thiên nga ghê tởm, đứng dậy bay thẳng về Cittakūṭa.
604
Tesaṃ gatakāle bodhisatto siṅgālassa dutiyaṃ gāthamāha –
After they had gone, the Bodhisatta spoke the second verse to the jackal:
Khi chúng đã đi, Bồ-tát nói kệ thứ hai với con chó rừng –
605
74.
74.
74.
606
‘‘Yaṃ suvaṇṇo suvaṇṇena, devo devena mantaye;
“When a golden one converses with a golden one, a deva with a deva;
“Khi chim vàng nói chuyện với chim vàng, thiên thần nói chuyện với thiên thần;
607
Kiṃ tettha catumaṭṭhassa, bilaṃ pavisa jambukā’’ti.
What is there for you, the four-filthy one? Enter your hole, jackal!”
Con chó rừng, ngươi có liên quan gì ở đây, hãy chui vào hang đi!”
608
Tattha suvaṇṇoti sundaravaṇṇo.
Here, suvaṇṇoti means "of beautiful color."
Trong đó, suvaṇṇo có nghĩa là có màu sắc đẹp.
Suvaṇṇenāti dutiyena haṃsapotakena.
Suvaṇṇenāti means "with the second cygnet."
Suvaṇṇenā có nghĩa là với chú thiên nga thứ hai.
Devo devenāti teyeva dve deve katvā katheti.
Devo devenāti means he refers to those two as devas.
Devo devenā có nghĩa là nói về hai chú thiên nga đó như hai vị thiên thần.
Catumaṭṭhassāti sarīrena jātiyā sarena guṇenāti imehi catūhi maṭṭhassa suddhassāti akkharattho.
Catumaṭṭhassāti: The literal meaning of the word is "purified by these four: body, birth, voice, and qualities."
Catumaṭṭhassā có nghĩa là theo nghĩa đen của từ, là trong bốn phương diện: thân thể, chủng tộc, giọng nói, và phẩm chất, nó là thuần khiết.
Asuddhaṃyeva pana taṃ pasaṃsāvacanena nindanto evamāha, catūhi lāmakassa kiṃ te ettha siṅgālassāti ayamettha adhippāyo.
However, he spoke thus, criticizing that impure one with words of praise; the meaning here is, "What is there for you, the jackal, who is contemptible in four ways?"
Tuy nhiên, ở đây, nó nói như vậy để chê bai cái không thuần khiết bằng lời khen, ý nghĩa ở đây là: “Con chó rừng, ngươi có liên quan gì ở đây khi ngươi là kẻ thấp kém trong bốn phương diện?”
‘‘Bilaṃ pavisā’’ti idaṃ bodhisatto bheravārammaṇaṃ dassetvā taṃ palāpento āha.
‘‘Bilaṃ pavisā’’ti: The Bodhisatta spoke this, showing a terrifying object, driving him away.
“Bilaṃ pavisā” – Bồ-tát nói câu này để xua đuổi nó, thể hiện sự đáng sợ.
609
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā siṅgālo mahallako ahosi, dve haṃsapotakā sāriputtamoggallānā, rukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the jackal was the elder Kokālika; the two cygnets were Sāriputta and Moggallāna; and the tree deity was I myself.”
Đức Phật đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Bấy giờ, con chó rừng chính là vị tỳ-khưu già đó, hai chú thiên nga là Sāriputta và Moggallāna, còn thần cây chính là Ta vậy.”
610
Catumaṭṭhajātakavaṇṇanā sattamā.
The Catumaṭṭa Jātaka, the seventh, is concluded.
Câu chuyện Jātaka Catumaṭṭha thứ bảy đã xong.
611
* 8. Sīhakotthujātakavaṇṇanā
* 8. The Sīhakotthu Jātaka
* 8. Câu chuyện Jātaka Sīhakotthu
612
Sīhaṅgulī sīhanakhoti idaṃ satthā jetavane viharanto kokālikaṃ ārabbha kathesi.
Sīhaṅgulī sīhanakhoti: This the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning Kokālika.
Sīhaṅgulī sīhanakho (Ngón tay sư tử, móng sư tử) – Đức Phật đã kể câu chuyện này khi ngụ tại Jetavana, liên quan đến Kokālika.
Ekadivasaṃ kira kokāliko aññesu bahussutesu dhammaṃ kathentesu sayampi kathetukāmo ahosīti sabbaṃ heṭṭhā vuttanayeneva vitthāretabbaṃ.
It is said that one day Kokālika, desiring to speak himself when others, who were learned, were speaking the Dhamma—all this should be elaborated in the manner stated below.
Một hôm, Kokālika muốn thuyết pháp khi những vị đa văn khác đang thuyết pháp, tất cả đều được kể chi tiết theo cách đã nói ở dưới.
Taṃ pana pavattiṃ sutvā satthā ‘‘na, bhikkhave, kokāliko idāneva attano saddena pākaṭo jāto, pubbepi pākaṭo ahosī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Having heard that incident, the Teacher said, “Monks, Kokālika has not become notorious only now by his voice; he was notorious in the past as well,” and then he recounted a past event.
Nghe được sự việc đó, Đức Phật nói: “Này các tỳ-khưu, Kokālika không phải chỉ bây giờ mới nổi tiếng vì tiếng nói của mình, mà trước đây cũng đã nổi tiếng rồi,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
613
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese sīho hutvā ekāya siṅgāliyā saddhiṃ saṃvāsamanvāya puttaṃ paṭilabhi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta, having become a lion in the Himavanta region, cohabited with a she-jackal and begot a son.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là một con sư tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, sống chung với một con chó rừng cái và có một đứa con.
So aṅgulīhi nakhehi kesarena vaṇṇena saṇṭhānenāti imehi ākārehi pitusadiso ahosi, saddena mātusadiso.
He resembled his father in these aspects: his paws, claws, mane, color, and build; but in voice, he resembled his mother.
Đứa con đó giống cha về ngón chân, móng vuốt, bờm, màu sắc và hình dáng, nhưng giọng nói thì giống mẹ.
Athekadivasaṃ deve vassitvā vigate sīhesu naditvā sīhakīḷaṃ kīḷantesu sopi tesaṃ antare naditukāmo hutvā siṅgālikaṃ nādaṃ nadi.
Then one day, after it had rained and the rain had ceased, when the lions were roaring and playing their lion's game, he too, wishing to roar among them, uttered a jackal's cry.
Một hôm, trời mưa tạnh, các con sư tử đang gầm thét và chơi trò sư tử, đứa con đó cũng muốn gầm thét cùng chúng, nhưng lại phát ra tiếng chó rừng.
Athassa saddaṃ sutvā sīhā tuṇhī ahesuṃ.
Then, hearing his sound, the lions became silent.
Nghe tiếng nó, các con sư tử im lặng.
Tassa saddaṃ sutvā aparo bodhisattassa sajātiputto ‘‘tāta, ayaṃ sīho vaṇṇādīhi amhehi samāno, saddo panassa aññādiso, ko nāmeso’’ti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Hearing his sound, another son of the Bodhisatta, of the same species, asking, “Father, this lion is like us in color and so on, but his voice is different; who can this be?” uttered the first verse:
Nghe tiếng nó, một người con khác cùng loài của Bồ-tát hỏi: “Thưa cha, con sư tử này giống chúng ta về màu sắc và các đặc điểm khác, nhưng tiếng nói của nó lại khác, nó là ai vậy?” rồi nói kệ thứ nhất –
614
75.
75.
75.
615
‘‘Sīhaṅgulī sīhanakho, sīhapādapatiṭṭhito;
“With lion-paws, with lion-claws, standing on lion-feet;
“Ngón chân sư tử, móng sư tử, đứng vững bằng chân sư tử;
616
So sīho sīhasaṅghamhi, eko nadati aññathā’’ti.
That one lion in the lion-assembly roars differently.”
Con sư tử đó, giữa bầy sư tử, một mình nó gầm thét khác thường.”
617
Tattha sīhapādapatiṭṭhitoti sīhapādeheva patiṭṭhito.
Here, sīhapādapatiṭṭhitoti means "standing firmly on lion-feet."
Trong đó, sīhapādapatiṭṭhito có nghĩa là đứng vững bằng chính đôi chân sư tử.
Eko nadati aññathāti ekova avasesasīhehi asadisena siṅgālasaddena nadanto aññathā nadati.
Eko nadati aññathāti means "he alone roars differently, uttering a jackal's cry unlike the other lions."
Eko nadati aññathā có nghĩa là một mình nó gầm thét khác thường, với tiếng chó rừng không giống với các con sư tử còn lại.
618
Taṃ sutvā bodhisatto ‘‘tāta, esa tava bhātā siṅgāliyā putto, rūpena mayā sadiso, saddena mātarā sadiso’’ti vatvā siṅgāliputtaṃ āmantetvā ‘‘tāta, tvaṃ ito paṭṭhāya idha vasanto appasaddo vasa, sace puna nadissasi, siṅgālabhāvaṃ te jānissantī’’ti ovadanto dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the Bodhisatta said, “Son, this is your brother, the son of the she-jackal. He is like me in form, but like his mother in voice.” Then, addressing the jackal’s son, he advised him, “Son, from now on, if you live here, live quietly. If you roar again, they will know your jackal nature,” and uttered the second verse:
Nghe vậy, Bồ-tát nói: “Này con, đó là em con, con của chó rừng cái, về hình dáng thì giống cha, về giọng nói thì giống mẹ,” rồi Ngài gọi con của chó rừng cái đến và khuyên: “Này con, từ nay trở đi, con hãy sống yên lặng ở đây, nếu con gầm thét nữa, chúng sẽ biết con là chó rừng,” rồi Ngài nói kệ thứ hai –
619
76.
76.
76.
620
‘‘Mā tvaṃ nadi rājaputta, appasaddo vane vasa;
‘Do not you roar, O prince, dwell silently in the forest;
“Này vương tử, đừng gầm thét, hãy sống yên lặng trong rừng;
621
Sarena kho taṃ jāneyyuṃ, na hi te pettiko saro’’ti.
For they would surely know you by your voice, as your voice is not ancestral to you.’
Người ta sẽ biết con qua giọng nói, vì giọng nói đó không phải của cha con.”
622
Tattha rājaputtāti sīhassa migarañño putta.
Here, by rājaputta is meant the son of the lion, the king of beasts.
Trong đó, rājaputtā có nghĩa là con của vua sư tử, chúa tể loài thú.
Imañca pana ovādaṃ sutvā puna so nadituṃ nāma na ussahi.
Having heard this advice, he then did not dare to roar again.
Nghe lời khuyên này, nó không bao giờ dám gầm thét nữa.
623
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā siṅgālo kokāliko ahosi, sajātiputto rāhulo, migarājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, the jackal was Kokālika, the son of the same family was Rāhula, and the king of beasts was I myself.”
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi ấy, con chó rừng là Kokālika, con trai cùng dòng họ là Rāhula, còn vua loài thú chính là Ta vậy.”
624
Sīhakotthujātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth Story: The Sīhakotthu Jātaka.
Lời giải thích về Sīhakotthu Jātaka thứ tám.
625
* 9. Sīhacammajātakavaṇṇanā
* 9. The Sīhacamma Jātaka
* 9. Lời giải thích về Sīhacamma Jātaka
626
Netaṃ sīhassa naditanti idaṃ satthā jetavane viharanto kokālikaññeva ārabbha kathesi.
Netaṃ sīhassa naditaṃ (This is not the roar of a lion)—the Teacher told this story while dwelling at Jetavana, concerning Kokālika himself.
Đây không phải tiếng gầm của sư tử” – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến chính Kokālika.
So imasmiṃ kāle sarabhaññaṃ bhaṇitukāmo ahosi.
At this time, he wished to recite a chant.
Vào thời điểm đó, người ấy muốn ngâm tụng sarabhañña.
Satthā taṃ pavattiṃ sutvā atītaṃ āhari.
The Teacher, hearing of this incident, brought forth a past event.
Đức Bổn Sư nghe chuyện đó, liền kể lại câu chuyện quá khứ.
627
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kassakakule nibbattitvā vayappatto kasikammena jīvikaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a farmer’s family and, having reached maturity, earned his livelihood by farming.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình nông dân, khi trưởng thành, Ngài sống bằng nghề nông.
Tasmiṃ kāle eko vāṇijo gadrabhabhārakena vohāraṃ karonto vicarati.
At that time, a certain merchant traveled around, conducting business with a donkey carrying loads.
Vào thời điểm đó, có một thương nhân đi khắp nơi buôn bán với một con lừa thồ hàng.
So gatagataṭṭhāne gadrabhassa piṭṭhito bhaṇḍikaṃ otāretvā gadrabhaṃ sīhacammena pārupitvā sāliyavakhettesu vissajjeti.
Wherever he went, he would unload his goods from the donkey’s back, cover the donkey with a lion’s skin, and release it into the barley and rice fields.
Ở mỗi nơi đến, ông ta dỡ hàng khỏi lưng lừa, rồi khoác da sư tử lên con lừa và thả nó vào các cánh đồng lúa mạch.
Khettarakkhakā taṃ disvā ‘‘sīho’’ti saññāya upasaṅkamituṃ na sakkonti.
The field guards, seeing it, would think it was a “lion” and were unable to approach it.
Những người canh giữ ruộng thấy nó, vì nghĩ là “sư tử” nên không dám đến gần.
Athekadivasaṃ so vāṇijo ekasmiṃ gāmadvāre nivāsaṃ gahetvā pātarāsaṃ pacāpento tato gadrabhaṃ sīhacammaṃ pārupitvā yavakhette vissajjesi.
Then one day, that merchant took lodging at the entrance of a village and, while having his breakfast prepared, released the donkey, covered in a lion’s skin, into a barley field.
Một ngày nọ, người thương nhân đó dừng chân tại cổng một ngôi làng, khi đang nấu bữa sáng, ông ta thả con lừa đã khoác da sư tử vào cánh đồng lúa mạch.
Khettarakkhakā ‘‘sīho’’ti saññāya taṃ upasaṅkamituṃ asakkontā gehaṃ gantvā ārocesuṃ.
The field guards, thinking it was a “lion” and unable to approach it, went home and reported it.
Những người canh giữ ruộng, vì nghĩ là “sư tử” nên không dám đến gần, họ về nhà báo cáo.
Sakalagāmavāsino āvudhāni gahetvā saṅkhe dhamentā bheriyo vādentā khettasamīpaṃ gantvā unnadiṃsu, gadrabho maraṇabhayabhīto gadrabharavaṃ ravi.
All the villagers took up weapons, blew conch shells, beat drums, went near the field, and made a great noise. The donkey, terrified by the fear of death, brayed with the sound of a donkey.
Tất cả dân làng cầm vũ khí, thổi ốc tù và, đánh trống, đến gần cánh đồng và hò hét ầm ĩ; con lừa sợ chết, liền cất tiếng kêu của lừa.
Athassa gadrabhabhāvaṃ ñatvā bodhisatto paṭhamaṃ gāthamāha –
Then, knowing it was a donkey, the Bodhisatta uttered the first verse:
Khi biết đó là con lừa, Bồ Tát liền nói bài kệ đầu tiên:
628
77.
77.
77.
629
‘‘Netaṃ sīhassa naditaṃ, na byagghassa na dīpino;
“This is not the roar of a lion, nor of a tiger, nor of a leopard;
“Đây không phải tiếng gầm của sư tử, không phải của hổ, cũng không phải của báo;
630
Pāruto sīhacammena, jammo nadati gadrabho’’ti.
Covered in a lion’s skin, the wretched donkey brays.”
Khoác da sư tử, con lừa hèn hạ cất tiếng kêu.”
631
Tattha jammoti lāmako.
Here, jammo means contemptible.
Trong đó, jammo có nghĩa là hèn hạ.
Gāmavāsinopi tassa gadrabhabhāvaṃ ñatvā taṃ aṭṭhīni bhañjantā pothetvā sīhacammaṃ ādāya agamaṃsu.
The villagers also, knowing it was a donkey, broke its bones, beat it, took the lion’s skin, and departed.
Dân làng cũng biết đó là con lừa, liền đánh đập nó tan xương, lấy da sư tử rồi bỏ đi.
632
Atha so vāṇijo āgantvā taṃ byasanabhāvappattaṃ gadrabhaṃ disvā dutiyaṃ gāthamāha –
Then the merchant came and, seeing the donkey in such a state of distress, uttered the second verse:
Rồi người thương nhân đến, thấy con lừa gặp nạn, liền nói bài kệ thứ hai:
633
78.
78.
78.
634
‘‘Cirampi kho taṃ khādeyya, gadrabho haritaṃ yavaṃ;
“For a long time, indeed, that donkey could have eaten green barley,
“Con lừa ấy lẽ ra đã ăn lúa mạch xanh trong một thời gian dài;
635
Pāruto sīhacammena, ravamānova dūsayī’’ti.
Covered in a lion’s skin, but by braying, it ruined itself.”
Khoác da sư tử, chính tiếng kêu đã làm hại nó.”
636
Tattha tanti nipātamattaṃ, ayaṃ gadrabho attano gadrabhabhāvaṃ ajānāpetvā sīhacammena pāruto cirampi kālaṃ haritaṃ yavaṃ khādeyyāti attho.
Here, taṃ is merely a particle; the meaning is that this donkey, without revealing its donkey-nature and covered in a lion’s skin, could have eaten green barley for a long time.
Trong đó, taṃ chỉ là một tiểu từ, ý nói: con lừa này, nếu không để lộ bản chất lừa của mình, mà khoác da sư tử, thì đã có thể ăn lúa mạch xanh trong một thời gian dài.
Ravamānova dūsayīti attano pana gadrabharavaṃ ravamānovesa attānaṃ dūsayi, natthettha sīhacammassa dosoti.
Ravamānova dūsayī means that by braying its own donkey-sound, it ruined itself; there is no fault here of the lion’s skin.
Ravamānova dūsayī có nghĩa là: chính tiếng kêu của lừa đã làm hại nó, không phải lỗi của da sư tử.
Tasmiṃ evaṃ kathenteyeva gadrabho tattheva nipanno mari, vāṇijopi taṃ pahāya pakkāmi.
While he was speaking thus, the donkey, lying there, died, and the merchant, abandoning it, departed.
Khi ông ta đang nói như vậy, con lừa nằm đó mà chết, người thương nhân cũng bỏ nó mà đi.
637
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā vāṇijo devadatto ahosi, gadrabho kokāliko, paṇḍitakassako pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, the merchant was Devadatta, the donkey was Kokālika, and the wise farmer was I myself.”
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi ấy, người thương nhân là Devadatta, con lừa là Kokālika, còn người nông dân trí tuệ chính là Ta vậy.”
638
Sīhacammajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Story: The Sīhacamma Jātaka.
Lời giải thích về Sīhacamma Jātaka thứ chín.
639
* 10. Sīlānisaṃsajātakavaṇṇanā
* 10. The Sīlānisaṃsa Jātaka
* 10. Lời giải thích về Sīlānisaṃsa Jātaka
640
Passa saddhāya sīlassāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ saddhaṃ upāsakaṃ ārabbha kathesi.
Passa saddhāya sīlassā (See the faith and virtue)—the Teacher told this story while dwelling at Jetavana, concerning a certain faithful lay follower.
Hãy xem thành quả của đức tin và giới đức” – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một nam cư sĩ có đức tin.
So kira saddho pasanno ariyasāvako ekadivasaṃ jetavanaṃ gacchanto sāyaṃ aciravatinadītīraṃ gantvā nāvike nāvaṃ tīre ṭhapetvā dhammassavanatthāya gate titthe nāvaṃ adisvā buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā nadiṃ otari, pādā udakamhi na osīdiṃsu.
It is said that this faithful, confident noble disciple, one day while going to Jetavana, reached the bank of the Aciravatī River in the evening. As the boatmen had left their boat on the bank and gone to listen to the Dhamma, he did not see the boat. He then, filled with joy focused on the Buddha, entered the river, and his feet did not sink into the water.
Vị Thánh đệ tử có đức tin và lòng tịnh tín ấy, một hôm, khi đang đi đến Jetavana vào buổi chiều, đến bờ sông Aciravatī, thấy những người lái đò đã để thuyền trên bờ và đi nghe pháp, không thấy thuyền ở bến, ông ta liền khởi lên niềm hoan hỷ hướng về Đức Phật và bước xuống sông; chân ông ta không chìm trong nước.
So pathavītale gacchanto viya vemajjhaṃ gatakāle vīciṃ passi.
He walked as if on solid ground, but when he reached the middle, he saw a wave.
Ông ta đi như trên mặt đất, khi đến giữa sông, ông ta thấy sóng nước.
Athassa buddhārammaṇā pīti mandā jātā, pādā osīdituṃ ārabhiṃsu, so puna buddhārammaṇaṃ pītiṃ daḷhaṃ katvā udakapiṭṭheneva gantvā jetavanaṃ pavisitvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Then his joy focused on the Buddha weakened, and his feet began to sink. He again strengthened his joy focused on the Buddha and, walking on the surface of the water, entered Jetavana, paid homage to the Teacher, and sat down to one side.
Khi đó, niềm hoan hỷ hướng về Đức Phật của ông ta giảm sút, chân ông ta bắt đầu chìm xuống; ông ta liền củng cố lại niềm hoan hỷ hướng về Đức Phật, rồi đi trên mặt nước vào Jetavana, đảnh lễ Đức Bổn Sư và ngồi sang một bên.
Satthā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘upāsaka, kacci maggaṃ āgacchanto appakilamathena āgatosī’’ti pucchitvā ‘‘bhante, buddhārammaṇaṃ pītiṃ gahetvā udakapiṭṭhe patiṭṭhaṃ labhitvā pathaviṃ maddanto viya āgatomhī’’ti vutte ‘‘na kho pana, upāsaka, tvaññeva buddhaguṇe anussaritvā patiṭṭhaṃ laddho, pubbepi upāsakā samuddamajjhe nāvāya bhinnāya buddhaguṇe anussarantā patiṭṭhaṃ labhiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, having exchanged pleasantries with him, asked, ‘‘Lay follower, did you arrive without much fatigue on the journey?’’ When it was said, ‘‘Venerable Sir, having taken delight in the Buddha as the object, and having found a footing on the surface of the water, I arrived as if treading on solid ground,’’ the Teacher said, ‘‘Indeed, lay follower, it is not only you who, recollecting the virtues of the Buddha, found a footing; in the past too, lay followers, when their ship broke in the middle of the ocean, found a footing by recollecting the virtues of the Buddha,’’ and being entreated by him, he brought forth a past event.
Đức Bổn Sư chào hỏi ông ta và hỏi: “Này cư sĩ, ông đến đây không mệt mỏi chứ?” Khi được trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã khởi lên niềm hoan hỷ hướng về Đức Phật, đứng vững trên mặt nước, đi như trên mặt đất mà đến đây,” Đức Bổn Sư nói: “Này cư sĩ, không phải chỉ riêng ông đã nương tựa vào sự hồi tưởng các công đức của Đức Phật mà đứng vững được đâu; ngay cả trong quá khứ, các cư sĩ cũng đã nương tựa vào sự hồi tưởng các công đức của Đức Phật mà đứng vững được khi thuyền của họ bị vỡ giữa biển,” rồi theo lời thỉnh cầu của ông ta, Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện quá khứ.
641
Atīte kassapasammāsambuddhakāle sotāpanno ariyasāvako ekena nhāpitakuṭumbikena saddhiṃ nāvaṃ abhiruhi, tassa nhāpitassa bhariyā ‘‘ayya, imassa sukhadukkhaṃ tava bhāro’’ti nhāpitaṃ tassa upāsakassa hatthe nikkhipi.
In the past, during the time of Kassapa Sammāsambuddha, a Sotāpanna noble disciple boarded a ship with a barber’s family head; the barber’s wife placed the barber in the hands of that lay follower, saying, ‘‘Sir, his weal and woe are your responsibility.’’
Trong quá khứ, vào thời Đức Phật Kassapa Chánh Đẳng Giác, một Thánh đệ tử đã chứng Sơ quả (Sotāpanna) cùng với một gia đình thợ cắt tóc lên thuyền; vợ của người thợ cắt tóc đó đã giao phó người thợ cắt tóc cho vị cư sĩ, nói: “Kính bạch ngài, mọi khổ lạc của người này là trách nhiệm của ngài.”
Atha sā nāvā sattame divase samuddamajjhe bhinnā, tepi dve janā ekasmiṃ phalake nipannā ekaṃ dīpakaṃ pāpuṇiṃsu.
Then, on the seventh day, that ship broke in the middle of the ocean, and those two people, resting on a plank, reached an island.
Rồi chiếc thuyền đó bị vỡ giữa biển vào ngày thứ bảy, hai người họ bám vào một tấm ván và đến được một hòn đảo nhỏ.
Tattha so nhāpito sakuṇe māretvā pacitvā khādanto upāsakassapi deti.
There, the barber killed birds, cooked them, ate them, and offered some to the lay follower.
Ở đó, người thợ cắt tóc giết chim, nấu chín và ăn, rồi cũng đưa cho vị cư sĩ.
Upāsako ‘‘alaṃ mayha’’nti na khādati.
The lay follower said, ‘‘Enough for me,’’ and did not eat.
Vị cư sĩ nói: “Đủ rồi cho tôi,” và không ăn.
So cintesi – ‘‘imasmiṃ ṭhāne amhākaṃ ṭhapetvā tīṇi saraṇāni aññā patiṭṭhā natthī’’ti.
He thought, ‘‘In this place, apart from us, there is no other refuge than the Three Refuges.’’
Ông ta suy nghĩ: “Ở nơi này, ngoài chúng ta ra, không có chỗ nương tựa nào khác ngoài Ba Ngôi Báu.”
So tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇe anussari.
He recollected the virtues of the Three Jewels.
Ông ta hồi tưởng các công đức của Ba Ngôi Báu.
Athassānusarantassa tasmiṃ dīpake nibbatto nāgarājā attano sarīraṃ mahānāvaṃ katvā māpesi, samuddadevatā niyāmako ahosi, nāvā sattahi ratanehi pūrayittha, tayo kūpakā indanīlamaṇimayā ahesuṃ, suvaṇṇamayo laṅkāro, rajatamayāni yottāni, suvaṇṇamayāni yaṭṭhiphiyāni.
Then, as he recollected, the Nāga king born on that island transformed his own body into a great ship; a sea deity became the helmsman; the ship was filled with seven jewels; the three masts were made of sapphire; the ornamentation was of gold; the ropes were of silver; the mast-fittings were of gold.
Khi ông ta đang hồi tưởng, một vua rắn (nāgarāja) sinh ra trên hòn đảo đó đã biến thân mình thành một chiếc thuyền lớn; một vị thần biển làm người lái thuyền; chiếc thuyền được chất đầy bảy loại châu báu, ba cột buồm làm bằng ngọc bích (indanīlamaṇi), trang trí bằng vàng, dây thừng bằng bạc, và các thanh gỗ bằng vàng.
642
Samuddadevatā nāvāya ṭhatvā ‘‘atthi jambudīpagamikā’’ti ghosesi.
The sea deity, standing on the ship, announced, ‘‘Is there anyone going to Jambudīpa?’’
Vị thần biển đứng trên thuyền và hô lớn: “Có ai muốn đi Jambudīpa không?”
Upāsako ‘‘mayaṃ gamissāmā’’ti āha.
The lay follower said, ‘‘We will go.’’
Vị cư sĩ nói: “Chúng tôi sẽ đi.”
Tena hi ehi, nāvaṃ abhiruhāti.
‘‘Then come, board the ship.’’
“Vậy thì hãy đến, lên thuyền đi.”
So nāvaṃ abhiruhitvā nhāpitaṃ pakkosi, samuddadevatā – ‘‘tuyhaññeva labbhati, na etassā’’ti āha.
He boarded the ship and called the barber; the sea deity said, ‘‘Only you are allowed, not him.’’
Ông ta lên thuyền và gọi người thợ cắt tóc, vị thần biển nói: “Chỉ ông mới được phép, không phải người này.”
‘‘Kiṃkāraṇā’’ti?
‘‘For what reason?’’
“Vì lý do gì?”
‘‘Etassa sīlaguṇācāro natthi, taṃ kāraṇaṃ.
‘‘He has no virtuous conduct; that is the reason.
“Người này không có giới đức và hạnh kiểm, đó là lý do.
Ahañhi tuyhaṃ nāvaṃ āhariṃ, na etassā’’ti.
For I brought the ship for you, not for him.’’
Ta đã mang thuyền đến cho ông, không phải cho người này.”
‘‘Hotu, ahaṃ attanā dinnadānena rakkhitasīlena bhāvitabhāvanāya etassa pattiṃ dammī’’ti.
‘‘Let it be, I will give him a share of the merit from the generosity I have given, the morality I have protected, and the meditation I have cultivated.’’
“Được thôi, con sẽ hồi hướng công đức bố thí, giữ giới và tu tập của con cho người này.”
Nhāpito ‘‘anumodāmi, sāmī’’ti āha.
The barber said, ‘‘I rejoice, master.’’
Người thợ cắt tóc nói: “Con xin tùy hỷ, thưa ngài.”
Devatā ‘‘idāni gaṇhissāmī’’ti tampi āropetvā ubhopi jane samuddā nikkhāmetvā nadiyā bārāṇasiṃ gantvā attano ānubhāvena dvinnampi tesaṃ gehe dhanaṃ patiṭṭhapetvā ‘‘paṇḍiteheva saddhiṃ saṃsaggo nāma kātabbo.
The deity said, ‘‘Now I will take him,’’ and having put him on board too, brought both of them out of the ocean, went to Bārāṇasī by river, and by her power, established wealth in the homes of both of them, saying, ‘‘One should associate with the wise.
Vị thần nói: “Bây giờ ta sẽ đưa cả hai,” rồi đưa cả hai người ra khỏi biển, đi vào sông đến Bārāṇasī, và bằng thần thông của mình, đã đặt tài sản vào nhà của cả hai người, rồi nói: “Người ta nên kết giao với những người trí tuệ.
Sace hi imassa nhāpitassa iminā upāsakena saddhiṃ saṃsaggo nābhavissa, samuddamajjheyeva nassissā’’ti paṇḍitasaṃsaggaguṇaṃ kathayamānā imā gāthā avoca –
For if this barber had not associated with this lay follower, he would have perished in the middle of the ocean itself,’’ thus extolling the virtue of associating with the wise, she spoke these verses—
Nếu người thợ cắt tóc này không kết giao với vị cư sĩ này, thì anh ta đã bị tiêu diệt giữa biển rồi,” nói về công đức của việc kết giao với người trí tuệ, vị thần đã đọc những bài kệ sau:
643
79.
79.
79.
644
‘‘Passa saddhāya sīlassa, cāgassa ca ayaṃ phalaṃ;
‘‘Behold this fruit of faith, morality, and generosity;
“Hãy xem thành quả của đức tin, giới đức và sự bố thí này;
645
Nāgo nāvāya vaṇṇena, saddhaṃ vahatupāsakaṃ.
The Nāga, in the form of a ship, carries the faithful lay follower.
Vị Nāga, trong hình dạng con thuyền, chở vị cư sĩ có đức tin.”
646
80.
80.
80.
647
‘‘Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ;
‘‘Associate only with the good, cultivate friendship with the good;
“Chỉ nên kết giao với người hiền, nên thân thiết với người hiền;
648
Satañhi sannivāsena, sotthiṃ gacchati nhāpito’’ti.
For by dwelling with the good, the barber attained safety.’’
Vì nhờ sống chung với người thiện, người thợ cắt tóc đã được an toàn.”
649
Tattha passāti kañci aniyametvā passathāti ālapati.
There, passā means addressing without specifying anyone, ‘‘behold!’’
Trong đó, passa là lời kêu gọi “hãy xem” mà không chỉ định rõ ai.
Saddhāyāti lokiyalokuttarāya saddhāya.
Saddhāya means by mundane and supramundane faith.
Saddhāya có nghĩa là đức tin thế gian và siêu thế.
Sīlepi eseva nayo.
The same method applies to Sīla.
Giới đức cũng vậy.
Cāgassāti deyyadhammapariccāgassa ceva kilesapariccāgassa ca.
Cāgassa means of the giving up of gifts and the giving up of defilements.
Cāgassāti là sự bố thí các pháp đáng dâng cúng và sự xả bỏ các phiền não.
Ayaṃ phalanti idaṃ phalaṃ, guṇaṃ ānisaṃsanti attho.
Ayaṃ phalaṃ means this is the fruit, the benefit, the advantage.
Ayaṃ phalanti nghĩa là quả này, lợi ích, công đức.
Atha vā cāgassa ca phalaṃ passa, ayaṃ nāgo nāvāya vaṇṇenāti evampettha attho daṭṭhabbo.
Alternatively, the meaning here should be understood as, ‘‘Behold the fruit of generosity, this Nāga in the form of a ship.’’
Hoặc giả, hãy xem quả của sự bố thí, con voi này có vẻ đẹp như chiếc thuyền, ý nghĩa ở đây nên được hiểu như vậy.
Nāvāya vaṇṇenāti nāvāya saṇṭhānena.
Nāvāya vaṇṇenāti means in the form of a ship.
Nāvāya vaṇṇenāti nghĩa là theo hình dáng của chiếc thuyền.
Saddhanti tīsu ratanesu patiṭṭhitasaddhaṃ.
Saddhaṃ means faith established in the Three Jewels.
Saddhanti là lòng tin kiên cố vào Ba Ngôi Báu.
Sabbhirevāti paṇḍitehiyeva.
Sabbhirevāti means only with the wise.
Sabbhirevāti nghĩa là chỉ với những người hiền trí.
Samāsethāti ekato āvaseyya, upavaseyyāti attho.
Samāsethāti means one should live together, one should reside near.
Samāsethāti nghĩa là nên sống chung, nên ở gần.
Kubbethāti kareyya.
Kubbethāti means one should do.
Kubbethāti nghĩa là nên làm.
Santhavanti mittasanthavaṃ.
Santhavaṃ means friendly association.
Santhavanti là tình bạn thân thiết.
Taṇhāsanthavo pana kenacipi saddhiṃ na kātabbo.
However, association rooted in craving should not be made with anyone.
Nhưng sự thân thiết do ái dục thì không nên kết giao với bất cứ ai.
Nhāpitoti nhāpitakuṭumbiko.
Nhāpitoti means the barber’s family head.
Nhāpitoti là người chủ gia đình thợ cắt tóc.
‘‘Nahāpito’’tipi pāṭho.
‘‘Nahāpito’’ is also a reading.
Cũng có bản đọc là ‘‘Nahāpito’’.
650
Evaṃ samuddadevatā ākāse ṭhatvā dhammaṃ desetvā ovaditvā nāgarājānaṃ gaṇhitvā attano vimānameva agamāsi.
Thus, the sea deity, standing in the sky, taught the Dhamma, gave admonition, took the Nāga king, and returned to her own celestial mansion.
Như vậy, vị chư thiên biển đứng trên hư không, thuyết pháp, khuyên dạy rồi nắm lấy vua rắn và trở về cung trời của mình.
651
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne upāsako sakadāgāmiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought this discourse, having revealed the truths, connected the Jātaka – at the conclusion of the truths, the lay follower was established in the fruit of Sakadāgāmī.
Đức Bổn Sư đã mang bài pháp thoại này đến, tuyên bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka – sau khi kết thúc các Chân Lý, vị cư sĩ đã an trú vào quả vị Nhất Lai.
‘‘Tadā sotāpannaupāsako parinibbāyi, nāgarājā sāriputto ahosi, samuddadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the stream-entrant lay follower attained final Nibbāna; the Nāga king was Sāriputta; and the ocean deity was I myself.”
“Khi ấy, vị cư sĩ đã nhập lưu đã nhập Niết Bàn, vua rắn là ngài Sāriputta, còn vị chư thiên biển chính là Ta.”
652
Sīlānisaṃsajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth Commentary on the Sīlānisaṃsa Jātaka is concluded.
Chuyện Tiền Thân Sīlānisaṃsa (Lợi ích của Giới) thứ mười.
653
Asadisavaggo catuttho.
The Fourth Chapter, Asadisa Vagga, is concluded.
Phẩm Asadisa (Vô Song) thứ tư.
654
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt phẩm đó –
655
Asadisañca saṅgāmaṃ, vālodakaṃ giridattaṃ;
Asadisa and Saṅgāma, Vālodaka and Giridatta;
Asadisa, Saṅgāma, Vālodaka, Giridatta;
656
Nabhirati dadhivāhaṃ, catumaṭṭhaṃ sīhakoṭṭhaṃ;
Nabhirati, Dadivāha, Catumaṭṭha, Sīhakoṭṭha;
Nabhirati, Dadhivāha, Catumaṭṭha, Sīhakoṭṭha;
657
Sīhacammaṃ sīlānisaṃsaṃ.
Sīhacamma, Sīlānisaṃsa.
Sīhacamma, Sīlānisaṃsa.
658

5. Ruhakavaggo

5. Ruhaka Vagga

5. Phẩm Ruhaka

659
* 1. Ruhakajātakavaṇṇanā
* 1. Ruhaka Jātaka Commentary
* 1. Chuyện Tiền Thân Ruhaka
660
Api ruhaka chinnāpīti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
“Even, Ruhaka, though broken” – the Teacher spoke this while dwelling at Jetavana, concerning the enticement by a former wife.
Api ruhaka chinnāpīti – Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp này trong khi ngự tại Jetavana, liên quan đến việc bị người vợ cũ quyến rũ.
Vatthu aṭṭhakanipāte indriyajātake (jā. 1.8.60 ādayo) āvibhavissati.
The story will appear in the Aṭṭhakanipāta in the Indriya Jātaka.
Câu chuyện sẽ được trình bày trong Indriyajātaka (Jā. 1.8.60 trở đi) ở phần Tám Phẩm.
Satthā pana taṃ bhikkhuṃ ‘‘ayaṃ te bhikkhu itthī anatthakārikā, pubbepi te esā sarājikāya parisāya majjhe lajjāpetvā gehā nikkhamanākāraṃ kāresī’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, however, saying to that bhikkhu, “This woman, bhikkhu, is harmful to you; even in the past, she caused you to be ashamed in the midst of a royal assembly and to leave home,” and being requested by him, related a past event.
Đức Bổn Sư đã nói với vị Tỳ khưu đó: “Này Tỳ khưu, người phụ nữ này không có lợi cho ngươi. Ngay cả trong quá khứ, cô ta cũng đã khiến ngươi xấu hổ giữa hội chúng có vua và phải rời khỏi nhà.” Sau khi được vị Tỳ khưu đó thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
661
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbattitvā vayappatto pitu accayena rajje patiṭṭhāya dhammena rajjaṃ kāresi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the womb of his chief queen, and having come of age, he succeeded his father to the throne and ruled righteously.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào bụng hoàng hậu của ngài. Khi trưởng thành, sau khi phụ vương băng hà, ngài đã lên ngôi và trị vì đất nước theo Chánh pháp.
Tassa ruhako nāma purohito ahosi, tassa purāṇī nāma brāhmaṇī bhariyā.
He had a purohita named Ruhaka, whose wife was a brāhmaṇī named Purāṇī.
Ngài có một vị quan tư tế tên là Ruhaka, vợ ông là một bà Bà la môn tên là Purāṇī.
Rājā brāhmaṇassa assabhaṇḍakena alaṅkaritvā assaṃ adāsi.
The king gave the brāhmaṇa a horse adorned with horse-trappings.
Nhà vua đã ban cho vị Bà la môn một con ngựa đã được trang bị yên cương.
So taṃ assaṃ āruyha rañño upaṭṭhānaṃ gacchati.
He would ride that horse to attend upon the king.
Ông cưỡi con ngựa đó đến hầu vua.
Atha naṃ alaṅkataassassa piṭṭhe nisīditvā gacchantaṃ āgacchantañca disvā tahiṃ tahiṃ ṭhitā manussā ‘‘aho assassa rūpaṃ, aho asso sobhatī’’ti assameva pasaṃsanti.
Then, seeing him going and coming, seated on the adorned horse’s back, people standing here and there would praise the horse, saying, “Oh, how beautiful the horse is! Oh, how splendid the horse is!”
Khi mọi người đứng ở khắp nơi thấy ông đi và đến trên lưng con ngựa được trang bị, họ đều ca ngợi con ngựa: “Ôi, con ngựa đẹp làm sao! Ôi, con ngựa oai vệ làm sao!”
So gehaṃ āgantvā pāsādaṃ abhiruyha bhariyaṃ āmantesi – ‘‘bhadde, amhākaṃ asso ativiya sobhati, ubhosu passesu ṭhitā manussā amhākaṃ assameva vaṇṇentī’’ti.
He came home, ascended the palace, and addressed his wife, “My dear, our horse is exceedingly splendid; people standing on both sides praise only our horse.”
Ông về nhà, lên lầu và gọi vợ: “Này hiền thê, con ngựa của chúng ta đẹp vô cùng, mọi người đứng hai bên đường đều ca ngợi con ngựa của chúng ta.”
Sā pana brāhmaṇī thokaṃ chinnikā dhuttikadhātukā, tena naṃ evamāha – ‘‘ayya, tvaṃ assassa sobhanakāraṇaṃ na jānāsi, ayaṃ asso attano alaṅkataṃ assabhaṇḍakaṃ nissāya sobhati, sace tvampi asso viya sobhitukāmo assabhaṇḍakaṃ piḷandhitvā antaravīthiṃ oruyha asso viya pāde koṭṭayamāno gantvā rājānaṃ passa, rājāpi taṃ vaṇṇayissati, manussāpi taññeva vaṇṇayissantī’’ti.
But that brāhmaṇī was somewhat cunning and mischievous, so she said to him, “Sir, you do not know the reason for the horse’s splendor. This horse is splendid because of its adorned horse-trappings. If you also wish to be splendid like the horse, put on the horse-trappings, go down into the main street, prance like a horse, and visit the king. The king will praise you, and people will praise only you.”
Nhưng bà Bà la môn đó hơi lẳng lơ và xảo quyệt, nên bà nói với ông: “Này phu quân, ông không biết lý do con ngựa đẹp đâu. Con ngựa này đẹp là nhờ bộ yên cương được trang bị. Nếu ông cũng muốn đẹp như con ngựa, hãy mặc bộ yên cương vào, đi xuống đường, đá chân như con ngựa rồi đến gặp vua. Nhà vua cũng sẽ ca ngợi ông, và mọi người cũng sẽ ca ngợi ông.”
662
So ummattakajātiko brāhmaṇo tassā vacanaṃ sutvā ‘‘iminā nāma kāraṇena sā maṃ vadatī’’ti ajānitvā tathāsaññī hutvā tathā akāsi.
That foolish brāhmaṇa, hearing her words, did not understand that “she says this to me for this reason,” and being thus deluded, he did so.
Vị Bà la môn bị điên loạn đó, không biết rằng bà ta nói điều này với ý đồ gì, đã nghĩ như vậy và làm theo.
Ye ye passanti, te te parihāsaṃ karontā ‘‘sobhati ācariyo’’ti vadiṃsu.
Whoever saw him, they would mockingly say, “How splendid, master!”
Ai thấy ông cũng chế giễu và nói: “Thưa tôn sư, ngài thật oai vệ!”
Rājā pana naṃ ‘‘kiṃ, ācariya, pittaṃ te kupitaṃ, ummattakosi jāto’’tiādīni vatvā lajjāpesi.
The king, however, shamed him, saying, “What, master, has your bile become agitated? Have you gone mad?” and so forth.
Nhà vua thì nói: “Này tôn sư, có phải ông bị bệnh mật không? Ông bị điên rồi sao?” và khiến ông xấu hổ.
Tasmiṃ kāle brāhmaṇo ‘‘ayuttaṃ mayā kata’’nti lajjito brāhmaṇiyā kujjhitvā ‘‘tāyamhi sarājikāya parisāya antare lajjāpito, pothetvā taṃ nikkaḍḍhissāmī’’ti gehaṃ agamāsi.
At that time, the brāhmaṇa, ashamed that “I have done something improper,” became angry with the brāhmaṇī and went home, thinking, “I have been shamed in the midst of a royal assembly; I will beat her and throw her out.”
Lúc đó, vị Bà la môn xấu hổ vì “ta đã làm điều không phải”, tức giận với bà Bà la môn và nghĩ: “Ta đã bị làm cho xấu hổ giữa hội chúng có vua, ta sẽ đánh đập và đuổi bà ta ra ngoài.” Ông về nhà.
Dhuttikabrāhmaṇī tassa kujjhitvā āgamanabhāvaṃ ñatvā puretaraññeva cūḷadvārena nikkhamitvā rājanivesanaṃ gantvā catūhapañcāhaṃ tattheva ahosi.
The mischievous brāhmaṇī, knowing that he was coming back angry, left quickly through the small door, went to the royal palace, and stayed there for four or five days.
Bà Bà la môn xảo quyệt biết ông đang tức giận trở về, liền đi ra bằng cửa nhỏ trước, đến cung điện của nhà vua và ở đó bốn, năm ngày.
Rājā taṃ kāraṇaṃ ñatvā purohitaṃ pakkosāpetvā ‘‘ācariya, mātugāmassa nāma doso hotiyeva, brāhmaṇiyā khamituṃ vaṭṭatī’’ti khamāpanatthāya paṭhamaṃ gāthamāha –
The king, knowing the reason, sent for the purohita and, to reconcile him, first spoke this verse: “Master, women naturally have faults; it is proper to forgive the brāhmaṇī.”
Nhà vua biết chuyện, cho gọi vị quan tư tế đến và nói: “Này tôn sư, phụ nữ thì thường có lỗi lầm. Nên tha thứ cho bà Bà la môn.” Để hòa giải, ngài đã nói câu kệ đầu tiên –
663
81.
81.
81.
664
‘‘Api ruhaka chinnāpi, jiyā sandhīyate puna;
“Even, Ruhaka, though broken,
“Này Ruhaka, dù dây cung bị đứt, nó vẫn có thể nối lại được;
665
Sandhīyassu purāṇiyā, mā kodhassa vasaṃ gamī’’ti.
A bowstring is joined again;
Hãy hòa giải với Purāṇī, đừng để bị cơn giận chế ngự.”
666
Tatrāyaṃ saṅkhepattho – bho ruhaka, nanu chinnāpi dhanujiyā puna sandhīyati ghaṭīyati, evameva tvampi purāṇiyā saddhiṃ sandhīyassu, kodhassa vasaṃ mā gamīti.
Be joined with Purāṇī, do not succumb to anger.”
Ý nghĩa tóm tắt ở đây là: Này Ruhaka, chẳng phải dây cung dù bị đứt vẫn có thể nối lại được sao? Cũng vậy, ngươi hãy hòa giải với Purāṇī, đừng để bị cơn giận chế ngự.
667
Taṃ sutvā ruhako dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, Ruhaka spoke the second verse:
Nghe vậy, Ruhaka đã nói câu kệ thứ hai –
668
82.
82.
82.
669
‘‘Vijjamānesu vākesu, vijjamānesu kārisu;
“While there are fibers, while there are artisans,
“Khi còn có vỏ cây, khi còn có thợ làm,
670
Aññaṃ jiyaṃ karissāmi, alaññeva purāṇiyā’’ti.
I shall make another bowstring; enough of Purāṇī!”
Ta sẽ làm một dây cung khác, đủ rồi với Purāṇī cũ.”
671
Tassattho – mahārāja, dhanukāramuduvākesu ca jiyakārakesu ca manussesu vijjamānesu aññaṃ jiyaṃ karissāmi, imāya chinnāya purāṇiyā jiyāya alaṃ, natthi me koci atthoti.
Its meaning is: ‘O great king, while there are people who are bow-makers and string-makers, I will make another bowstring. This old, broken bowstring is enough. There is no purpose for me with it.’
Ý nghĩa của câu kệ là: Tâu Đại vương, khi còn có những vỏ cây mềm mại của thợ làm cung và những người thợ làm dây cung, tôi sẽ làm một dây cung khác. Dây cung cũ đã đứt này đủ rồi, tôi không còn cần gì nữa. Nói như vậy, ông đã đuổi bà ta đi và cưới một bà Bà la môn khác.
Evañca pana vatvā taṃ nīharitvā aññaṃ brāhmaṇiṃ ānesi.
And having said this, he removed her and brought another brahmin woman.
Nói như vậy, ông đã đuổi bà ta đi và cưới một bà Bà la môn khác.
672
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, revealed the Truths, and connected the Jātaka – at the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu became established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã mang bài pháp thoại này đến, tuyên bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka – sau khi kết thúc các Chân Lý, vị Tỳ khưu chán nản đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā, brāhmaṇī, purāṇadutiyikā ahosi, ruhako ukkaṇṭhitabhikkhu, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
‘‘At that time, the brahmin woman was the former wife; Ruhaka was the discontented bhikkhu; and the King of Bārāṇasī was I myself.’’
“Khi ấy, bà Bà la môn là người vợ cũ, Ruhaka là vị Tỳ khưu chán nản, còn vua xứ Bārāṇasī chính là Ta.”
673
Ruhakajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The First Commentary on the Ruhaka Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Ruhaka (Ruhakajātaka) thứ nhất.
674
* 2. Sirikāḷakaṇṇijātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Sirikāḷakaṇṇī Jātaka
* 2. Chuyện Tiền Thân Sirikāḷakaṇṇī
675
Itthī siyā rūpavatīti idaṃ sirikāḷakaṇṇijātakaṃ mahāumaṅgajātake āvibhavissati.
Itthī siyā rūpavatī – This Sirikāḷakaṇṇī Jātaka will appear in the Mahāumaṅga Jātaka.
Itthī siyā rūpavatīti – Chuyện Tiền Thân Sirikāḷakaṇṇī này sẽ được trình bày trong Mahāumaṅgajātaka.
676
Sirikāḷakaṇṇijātakavaṇṇanā dutiyā.
The Second Commentary on the Sirikāḷakaṇṇī Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Sirikāḷakaṇṇī thứ hai.
677
* 3. Cūḷapadumajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Cūḷapaduma Jātaka
* 3. Chuyện Tiền Thân Cūḷapaduma
678
Ayameva sā ahamapi so anaññoti idaṃ satthā jetavane viharanto ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Ayameva sā ahamapi so anañño – This the Teacher related while dwelling in Jetavana, concerning a discontented bhikkhu.
Ayameva sā ahamapi so anaññoti – Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp này trong khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ khưu chán nản.
Vatthu ummādantījātake (jā. 2.20.57 ādayo) āvibhavissati.
The story will appear in the Ummādantī Jātaka.
Câu chuyện sẽ được trình bày trong Ummādantījātaka (Jā. 2.20.57 trở đi).
So pana bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhito’’ti vutte ‘‘saccaṃ, bhagavā’’ti vatvā ‘‘kena pana tvaṃ ukkaṇṭhāpito’’ti vutte ‘‘ahaṃ, bhante, ekaṃ alaṅkatapaṭiyattaṃ mātugāmaṃ disvā kilesānuvattako hutvā ukkaṇṭhitomhī’’ti āha.
When the Teacher asked that bhikkhu, ‘‘Is it true, bhikkhu, that you are discontented?’’ and he replied, ‘‘It is true, Blessed One,’’ and when asked, ‘‘By whom were you made discontented?’’ he said, ‘‘Venerable sir, having seen a woman adorned and prepared, I became discontented, following my defilements.’’
Khi Đức Bổn Sư hỏi vị Tỳ khưu đó: “Này Tỳ khưu, có thật là ngươi chán nản không?” Vị Tỳ khưu đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, thật vậy.” Khi được hỏi: “Vậy ngươi bị ai làm cho chán nản?” Vị Tỳ khưu trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã thấy một người phụ nữ được trang điểm lộng lẫy và đã bị phiền não chi phối nên con chán nản.”
Atha naṃ satthā ‘‘bhikkhu, mātugāmo nāma akataññū mittadubbhī bahumāyā, porāṇakapaṇḍitāpi attano dakkhiṇajāṇulohitaṃ pāyetvā yāvajīvitadānampi datvā mātugāmassa cittaṃ na labhiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, ‘‘Bhikkhu, women are ungrateful, treacherous to friends, and full of deceit; even ancient sages, having given their right knee’s blood to drink and even a lifetime’s gift, could not win a woman’s heart,’’ and then he related a past event.
Thế rồi, Đức Bổn Sư nói với vị Tỳ khưu đó: “Này Tỳ khưu, phụ nữ là những người vô ơn, bội bạc, nhiều mưu mẹo. Ngay cả các bậc hiền triết thời xưa, dù đã cho họ uống máu từ đầu gối phải của mình và ban tặng suốt đời, cũng không thể có được trái tim của phụ nữ.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
679
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchimhi nibbatti, nāmaggahaṇadivase cassa ‘‘padumakumāro’’ti nāmaṃ akaṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the womb of his chief queen, and on the name-giving day, they named him ‘‘Padumakumāra.’’
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào bụng hoàng hậu của ngài. Vào ngày đặt tên, ngài được đặt tên là “Hoàng tử Paduma”.
Tassa aparena cha kaniṭṭhabhātikā ahesuṃ.
After him, there were six younger brothers.
Sau đó, ngài có sáu người em trai.
Te sattapi janā anupubbena vuḍḍhippattā gharāvāsaṃ gahetvā rañño sahāyā viya vicaranti.
All seven of them, having gradually grown up, took up household life and moved about as companions to the king.
Bảy anh em họ lớn lên, lập gia đình và sống như những người bạn của nhà vua.
Athekadivasaṃ rājā rājaṅgaṇaṃ olokento ṭhito te mahāparivārena rājupaṭṭhānaṃ āgacchante disvā ‘‘ime maṃ vadhitvā rajjampi gaṇheyyu’’nti āsaṅkaṃ uppādetvā te pakkosāpetvā – ‘‘tātā, tumhe imasmiṃ nagare vasituṃ na labhatha, aññattha gantvā mama accayena āgantvā kulasantakaṃ rajjaṃ gaṇhathā’’ti āha.
Then one day, the king, standing and looking at the royal courtyard, saw them coming to attend the king with a large retinue, and conceiving the suspicion, ‘‘These might kill me and seize the kingdom,’’ he sent for them and said, ‘‘My sons, you cannot dwell in this city; go elsewhere, and after my passing, come and take the kingdom that belongs to our family.’’
Rồi một ngày nọ, nhà vua đứng nhìn sân cung điện, thấy họ đến hầu vua với đoàn tùy tùng đông đảo. Ngài nảy sinh nghi ngờ: “Những người này có thể giết ta và chiếm lấy vương quốc.” Ngài cho gọi họ đến và nói: “Này các con, các con không thể sống trong thành phố này. Hãy đi nơi khác, sau khi ta băng hà, hãy trở về và nhận lấy vương quốc của gia tộc.”
Te pitu vacanaṃ sampaṭicchitvā roditvā kanditvā attano attano gharāni gantvā pajāpatiyo ādāya ‘‘yattha vā tattha vā gantvā jīvissāmā’’ti nagarā nikkhamitvā maggaṃ gacchantā ekaṃ kantāraṃ patvā annapānaṃ alabhamānā khudaṃ adhivāsetuṃ asakkontā ‘‘mayaṃ jīvamānā itthiyo labhissāmā’’ti kaniṭṭhassa bhariyaṃ māretvā terasa koṭṭhāse katvā maṃsaṃ khādiṃsu.
They accepted their father’s words, wept and cried, went to their respective homes, took their wives, and saying, ‘‘We will live wherever we go,’’ they left the city and, traveling along the road, reached a wilderness; unable to find food and drink, and unable to endure hunger, they killed the youngest brother’s wife, cut her into thirteen pieces, and ate the flesh, thinking, ‘‘While we are alive, we will find other women.’’
Họ chấp nhận lời của phụ vương, khóc lóc than vãn, rồi trở về nhà mình, dẫn theo vợ và nói: “Chúng ta sẽ đi bất cứ nơi nào và sống.” Họ rời khỏi thành phố, đi trên đường và đến một vùng hoang mạc. Không tìm được thức ăn và nước uống, không thể chịu đựng được cơn đói, họ nghĩ: “Chúng ta còn sống thì sẽ có vợ khác,” rồi giết vợ của người em út, cắt thành mười ba phần và ăn thịt.
Bodhisatto attano ca bhariyāya ca laddhakoṭṭhāsesu ekaṃ ṭhapetvā ekaṃ dvepi khādiṃsu.
The Bodhisatta, keeping one piece from his and his wife’s allotted portions, ate one himself, and his wife also ate one.
Bồ Tát và vợ ngài đã ăn một phần trong số các phần được chia cho mình, sau khi giữ lại một phần.
Evaṃ cha divase cha itthiyo māretvā maṃsaṃ khādiṃsu.
In this way, for six days, they killed six women and ate their flesh.
Cứ như vậy, trong sáu ngày, họ đã giết sáu người vợ và ăn thịt.
680
Bodhisatto pana divase divase ekekaṃ ṭhapetvā cha koṭṭhāse ṭhapesi.
However, the Bodhisatta saved six portions, one each day.
Bồ Tát mỗi ngày để lại một phần, giữ sáu phần.
Sattame divase ‘‘bodhisattassa bhariyaṃ māressāmā’’ti vutte bodhisatto te cha koṭṭhāse tesaṃ datvā ‘‘ajja tāva ime cha koṭṭhāse khādatha, sve jānissāmā’’ti vatvā tesaṃ maṃsaṃ khāditvā niddāyanakāle bhariyaṃ gahetvā palāyi.
On the seventh day, when it was said, ‘‘We will kill the Bodhisatta’s wife,’’ the Bodhisatta gave them those six portions and said, ‘‘Eat these six portions today; we shall see tomorrow,’’ and after they had eaten the flesh and were sleeping, he took his wife and fled.
Vào ngày thứ bảy, khi nghe nói: “Chúng ta sẽ giết vợ của Bồ Tát,” Bồ Tát đã đưa sáu phần đó cho chúng và nói: “Hôm nay các ngươi hãy ăn sáu phần này trước đã, ngày mai chúng ta sẽ tính.” Sau khi chúng ăn thịt và ngủ say, Bồ Tát liền đưa vợ bỏ trốn.
Sā thokaṃ gantvā ‘‘gantuṃ na sakkomi, sāmī’’ti āha.
Having gone a short distance, she said, ‘‘I cannot go, my lord.’’
Nàng đi được một đoạn thì nói: “Thiếp không thể đi được nữa, phu quân.”
Atha naṃ bodhisatto khandhenādāya aruṇuggamanavelāya kantārā nikkhami.
Then the Bodhisatta carried her on his shoulder and emerged from the wilderness at dawn.
Bồ Tát bèn cõng nàng trên vai và rời khỏi sa mạc vào lúc bình minh.
Sā sūriye uggate ‘‘pipāsitāmhi, sāmī’’ti āha.
When the sun rose, she said, ‘‘I am thirsty, my lord.’’
Khi mặt trời mọc, nàng nói: “Thiếp khát nước quá, phu quân.”
Bodhisatto ‘‘udakaṃ natthi, bhadde’’ti vatvā punappunaṃ kathite khaggena dakkhiṇajāṇukaṃ paharitvā – ‘‘bhadde, pānīyaṃ natthi, idaṃ pana me dakkhiṇajāṇulohitaṃ pivamānā nisīdāhī’’ti āha.
The Bodhisatta said, ‘‘There is no water, good lady,’’ and when she repeatedly asked, he struck his right knee with his sword and said, ‘‘Good lady, there is no drinking water, but drink this blood from my right knee and sit down.’’
Bồ Tát nói: “Này hiền thê, không có nước đâu.” Khi nàng cứ lặp đi lặp lại, Ngài dùng gươm chém vào đầu gối phải của mình và nói: “Này hiền thê, không có nước uống, nhưng nàng hãy ngồi xuống và uống máu từ đầu gối phải của ta đây.”
Sā tathā akāsi.
She did so.
Nàng đã làm như vậy.
Te anupubbena mahāgaṅgaṃ patvā pivitvā ca nhatvā ca phalāphalaṃ khāditvā phāsukaṭṭhāne vissamitvā ekasmiṃ gaṅgānivattane assamapadaṃ māpetvā vāsaṃ kappesuṃ.
Gradually, they reached the great Ganges, and having drunk and bathed, eaten fruits and roots, and rested at a comfortable spot, they built an hermitage at a certain bend of the Ganges and took up residence.
Dần dần, họ đến được sông Mahāgaṅgā, uống nước, tắm rửa, ăn trái cây và nghỉ ngơi ở một nơi tiện lợi, rồi dựng một am thất ở khúc quanh của sông Gaṅgā và sống ở đó.
681
Athekadivasaṃ uparigaṅgāya rājāparādhikaṃ coraṃ hatthapāde ca kaṇṇanāsañca chinditvā ekasmiṃ ambaṇake nipajjāpetvā mahāgaṅgāya pavāhesuṃ.
Then one day, upstream on the Ganges, having cut off the hands, feet, ears, and nose of a thief who had offended the king, they made him lie in a basket and set him adrift on the great Ganges.
Rồi một ngày nọ, một tên cướp phạm tội chống lại nhà vua ở thượng nguồn sông Gaṅgā đã bị chặt tay chân, tai mũi, rồi bị đặt vào một chiếc chậu và thả trôi trên sông Mahāgaṅgā.
So mahantaṃ aṭṭassaraṃ karonto taṃ ṭhānaṃ pāpuṇi.
He reached that place, making a loud, distressed cry.
Hắn kêu la thảm thiết và đến được nơi đó.
Bodhisatto tassa karuṇaṃ paridevitasaddaṃ sutvā ‘‘dukkhappatto satto mayi ṭhite mā nassī’’ti gaṅgātīraṃ gantvā taṃ uttāretvā assamapadaṃ ānetvā kāsāvadhovanalepanādīhi vaṇapaṭikammaṃ akāsi.
The Bodhisatta, hearing his pitiful lament, thought, ‘‘May a suffering being not perish while I am here,’’ and going to the bank of the Ganges, he pulled him out, brought him to the hermitage, and treated his wounds with saffron-water, ointments, and so on.
Bồ Tát nghe tiếng than khóc thảm thương của hắn, nghĩ: “Một chúng sanh đau khổ không nên chết khi ta còn sống,” liền đi đến bờ sông Gaṅgā, kéo hắn lên và đưa về am thất, rồi băng bó vết thương cho hắn bằng cách rửa và đắp thuốc bằng vải kāsa.vāna.
Bhariyā panassa ‘‘evarūpaṃ nāma dussīlaṃ kuṇṭhaṃ gaṅgāya āvāhetvā paṭijagganto vicaratī’’ti vatvā taṃ kuṇṭhaṃ jigucchamānā niṭṭhubhantī vicarati.
But his wife, saying, ‘‘He brings such a wicked, crippled man from the Ganges and cares for him,’’ went about despising and spitting at the cripple.
Nhưng vợ Ngài lại nói: “Đúng là một kẻ vô đạo đức, tàn tật như vậy mà Ngài lại rước từ sông về chăm sóc.” Nàng ghê tởm tên tàn tật đó và đi lại khạc nhổ.
Bodhisatto tassa vaṇesu saṃviruḷhesu bhariyāya saddhiṃ taṃ assamapadeyeva ṭhapetvā aṭavito phalāphalāni āharitvā tañca bhariyañca posesi.
When the cripple's wounds had healed, the Bodhisatta left him and his wife in the hermitage, brought fruits and roots from the forest, and supported both him and his wife.
Khi vết thương của hắn lành, Bồ Tát để hắn và vợ Ngài ở lại am thất, rồi vào rừng hái trái cây về nuôi cả hai.
Tesu evaṃ vasantesu sā itthī etasmiṃ kuṇṭhe paṭibaddhacittā hutvā tena saddhiṃ anācāraṃ caritvā ekenupāyena bodhisattaṃ māretukāmā hutvā evamāha – ‘‘sāmi, ahaṃ tumhākaṃ aṃse nisīditvā kantārā nikkhamamānā ekaṃ pabbataṃ oloketvā ayye pabbatamhi nibbattadevate ‘sace ahaṃ sāmikena saddhiṃ arogā jīvitaṃ labhissāmi, balikammaṃ te karissāmī’ti āyāciṃ, sā maṃ idāni uttāseti, karomassā balikamma’’nti.
As they lived thus, that woman became enamored of the cripple, engaged in improper conduct with him, and desiring to kill the Bodhisatta by some means, she said, ‘‘My lord, as I was leaving the wilderness, sitting on your shoulder, I looked at a mountain and invoked the deity residing on the mountain, saying, ‘If I obtain a healthy life with my lord, I will make an offering to you.’ She is now urging me, so let us make the offering to her.’’
Trong khi họ sống như vậy, người phụ nữ đó đã bị cuốn hút bởi tên tàn tật này, liền ngoại tình với hắn và tìm cách giết Bồ Tát bằng một mưu kế. Nàng nói: “Thưa phu quân, khi thiếp được Ngài cõng trên vai rời khỏi sa mạc, thiếp đã nhìn thấy một ngọn núi và cầu khấn với vị thần núi: ‘Nếu thiếp được sống khỏe mạnh cùng phu quân, thiếp sẽ cúng dường cho Ngài.’ Bây giờ Ngài ấy đang hối thúc thiếp, chúng ta hãy làm lễ cúng dường cho Ngài ấy đi.”
Bodhisatto taṃ māyaṃ ajānanto ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā balikammaṃ sajjetvā tāya balibhājanaṃ gāhāpetvā pabbatamatthakaṃ abhiruhi.
The Bodhisatta, not knowing her trick, agreed, saying, ‘‘Very well,’’ prepared the offering, had her take the offering vessel, and ascended to the mountaintop.
Bồ Tát không biết mưu kế của nàng, liền đồng ý: “Tốt lắm,” rồi chuẩn bị lễ cúng dường, bảo nàng cầm vật cúng dường và cùng leo lên đỉnh núi.
Atha naṃ sā evamāha – ‘‘sāmi, devatāyapi tvaññeva uttamadevatā, paṭhamaṃ tāva taṃ vanapupphehi pūjetvā padakkhiṇaṃ katvā vanditvā pacchā devatāya balikammaṃ karissāmī’’ti.
Then she said to him, ‘‘My lord, you yourself are the supreme deity even for the gods. First, I will honor you with forest flowers, circumambulate you, and pay homage, and only then will I make the offering to the deity.’’
Rồi nàng nói với Ngài: “Thưa phu quân, đối với các vị thần, Ngài chính là vị thần tối thượng. Trước tiên, thiếp sẽ cúng dường Ngài bằng hoa rừng, đi nhiễu quanh và đảnh lễ, sau đó mới cúng dường cho vị thần.”
Sā bodhisattaṃ papātābhimukhaṃ ṭhapetvā vanapupphehi pūjetvā padakkhiṇaṃ katvā vanditukāmā viya hutvā piṭṭhipasse ṭhatvā piṭṭhiyaṃ paharitvā papāte pātetvā ‘‘diṭṭhā me paccāmittassa piṭṭhī’’ti tuṭṭhamānasā pabbatā orohitvā kuṇṭhassa santikaṃ agamāsi.
She made the Bodhisatta stand facing a precipice, honored him with forest flowers, circumambulated him, and pretending to pay homage, she stood behind him, struck him on the back, and pushed him down the precipice. With a joyful mind, thinking, ‘‘I have seen the back of my enemy,’’ she descended the mountain and went to the cripple.
Nàng đặt Bồ Tát đối mặt với vách đá, cúng dường bằng hoa rừng, đi nhiễu quanh, rồi giả vờ muốn đảnh lễ, đứng phía sau lưng Ngài, đẩy mạnh vào lưng Ngài, làm Ngài rơi xuống vách đá. Nàng vui sướng nghĩ: “Ta đã thấy lưng kẻ thù của ta,” rồi xuống núi đi đến chỗ tên tàn tật.
682
Bodhisattopi papātānusārena pabbatā patanto udumbararukkhamatthake ekasmiṃ akaṇṭake pattasañchanne gumbe laggi, heṭṭhāpabbataṃ pana orohituṃ na sakkā.
The Bodhisatta, falling down the mountain along the precipice, became entangled in a thornless, leaf-covered cluster of fig trees at the top of an udumbara tree, and it was impossible to descend to the base of the mountain.
Bồ Tát cũng rơi từ núi xuống theo vách đá, mắc kẹt vào một bụi cây không gai, đầy lá trên đỉnh cây vả, nhưng không thể xuống được chân núi.
So udumbaraphalāni khāditvā sākhantare nisīdi.
He ate the fig fruits and sat among the branches.
Ngài ăn trái vả và ngồi giữa các cành cây.
Atheko mahāsarīro godharājā heṭṭhāpabbatapādato abhiruhitvā tasmiṃ udumbaraphalāni khādati.
Then a large monitor lizard king climbed up from the base of the mountain below and ate the fig fruits on that tree.
Rồi một con kỳ đà chúa khổng lồ leo từ chân núi lên và ăn trái vả trên cây đó.
So taṃ divasaṃ bodhisattaṃ disvā palāyi, punadivase āgantvā ekasmiṃ passe phalāni khāditvā pakkāmi.
That day, seeing the Bodhisatta, it fled. The next day, it came, ate fruits on one side, and departed.
Ngày hôm đó, nó nhìn thấy Bồ Tát thì bỏ chạy, nhưng ngày hôm sau lại đến, ăn trái cây ở một bên rồi rời đi.
So evaṃ punappunaṃ āgacchanto bodhisattena saddhiṃ vissāsaṃ āpajjitvā ‘‘tvaṃ imaṃ ṭhānaṃ kena kāraṇena āgatosī’’ti pucchitvā ‘‘iminā nāma kāraṇenā’’ti vutte ‘‘tena hi mā bhāyī’’ti vatvā bodhisattaṃ attano piṭṭhiyaṃ nipajjāpetvā otāretvā araññato nikkhamitvā mahāmagge ṭhapetvā ‘‘tvaṃ iminā maggena gacchāhī’’ti uyyojetvā araññameva pāvisi.
Coming repeatedly in this manner, it became familiar with the Bodhisatta, and when asked, ‘‘For what reason have you come to this place?’’ and told, ‘‘For this reason,’’ it said, ‘‘Then do not fear,’’ and making the Bodhisatta lie on its back, it carried him down, came out of the forest, placed him on the main road, and saying, ‘‘You go by this path,’’ it sent him off and re-entered the forest.
Cứ như vậy, nó thường xuyên đến, dần dần thân thiết với Bồ Tát. Nó hỏi: “Ngài đến nơi này vì lý do gì?” Khi được kể lý do, nó nói: “Nếu vậy thì đừng sợ,” rồi bảo Bồ Tát nằm trên lưng mình, đưa Ngài xuống, rời khỏi rừng và đặt Ngài trên đường lớn. Nó nói: “Ngài hãy đi theo con đường này,” rồi tiễn Ngài và tự mình trở lại rừng.
Bodhisatto ekaṃ gāmakaṃ gantvā tattheva vasanto pitu kālakatabhāvaṃ sutvā bārāṇasiṃ gantvā kulasantake rajje patiṭṭhāya padumarājā nāma hutvā dasa rājadhamme akopetvā dhammena rajjaṃ kārento catūsu nagaradvāresu nagaramajjhe nivesanadvāreti cha dānasālāyo kāretvā devasikaṃ cha satasahassāni vissajjetvā dānaṃ adāsi.
The Bodhisatta went to a certain village and lived there. Hearing that his father had passed away, he went to Bārāṇasī, established himself in the ancestral kingdom, became King Paduma, and ruling righteously without violating the ten royal duties, he had six alms-halls built at the four city gates, in the middle of the city, and at the palace gate, and daily gave alms, spending six hundred thousand.
Bồ Tát đến một làng nọ và sống ở đó. Khi nghe tin cha mình đã qua đời, Ngài đến Bārāṇasī, lên ngôi vua của dòng tộc, trở thành vua Paduma, trị vì đất nước một cách công bằng, không vi phạm mười pháp độ của bậc quân vương. Ngài cho xây sáu nhà bố thí ở bốn cổng thành, ở trung tâm thành phố và ở cổng cung điện, mỗi ngày chi sáu trăm ngàn đồng để bố thí.
683
Sāpi kho itthī taṃ kuṇṭhaṃ khandhe nisīdāpetvā araññā nikkhamitvā manussapathe bhikkhaṃ caramānā yāgubhattaṃ saṃharitvā taṃ kuṇṭhaṃ posesi.
That woman, too, placing the cripple on her shoulder, came out of the forest and supported him by begging for gruel and food along the human paths.
Người phụ nữ đó cũng cõng tên tàn tật trên vai, rời khỏi rừng, đi khất thực trên đường người qua lại, gom cháo và cơm để nuôi tên tàn tật đó.
Manussā ‘‘ayaṃ te kiṃ hotī’’ti pucchiyamānā ‘‘ahaṃ etassa mātuladhītā, pitucchāputto me eso, etasseva maṃ adaṃsu, sāhaṃ vajjhappattampi attano sāmikaṃ ukkhipitvā pariharantī bhikkhaṃ caritvā posemī’’ti.
People, when asked, "Who is this to you?", replied, "I am his maternal uncle's daughter; he is my paternal aunt's son. They gave me to him. Even though my husband is afflicted, I carry him and support him by going for alms."
Khi người ta hỏi: “Người này là gì của cô?”, nàng trả lời: “Tôi là con gái của cậu anh, đây là con trai của cô tôi, họ đã gả tôi cho hắn. Dù chồng tôi bị tàn tật, tôi vẫn cõng hắn đi khất thực để nuôi hắn.”
Manussā ‘‘ayaṃ patibbatā’’ti tato paṭṭhāya bahutaraṃ yāgubhattaṃ adaṃsu.
People, saying "This woman is devoted to her husband," gave her much more gruel and rice from then on.
Người ta nói: “Đây là một người vợ trung trinh,” và từ đó họ bố thí cháo và cơm nhiều hơn cho nàng.
Apare pana janā evamāhaṃsu – ‘‘tvaṃ mā evaṃ vicari, padumarājā bārāṇasiyaṃ rajjaṃ kāreti, sakalajambudīpaṃ saṅkhobhetvā dānaṃ deti, so taṃ disvā tussissati, tuṭṭho te bahuṃ dhanaṃ dassati, tava sāmikaṃ idheva nisīdāpetvā gacchā’’ti thiraṃ katvā vettapacchiṃ adaṃsu.
Other people said, "Do not wander about like this. King Paduma rules in Bārāṇasī and gives alms, shaking the entire Jambudīpa. He will be pleased to see you, and being pleased, he will give you much wealth. Leave your husband sitting here and go." Having thus encouraged her, they gave her a bamboo basket.
Những người khác lại nói: “Cô đừng đi như vậy nữa. Vua Paduma đang trị vì ở Bārāṇasī, Ngài bố thí làm chấn động cả Jambudīpa. Ngài sẽ vui mừng khi thấy cô, và sẽ ban cho cô nhiều của cải. Hãy để chồng cô ở đây và đi đi.” Họ kiên quyết và đưa cho nàng một cái giỏ mây.
Sā anācārā taṃ kuṇṭhaṃ vettapacchiyaṃ nisīdāpetvā pacchiṃ ukkhipitvā bārāṇasiṃ gantvā dānasālāsu bhuñjamānā vicarati.
That immoral woman made the cripple sit in the bamboo basket, lifted the basket, went to Bārāṇasī, and wandered about eating in the alms halls.
Người phụ nữ vô đạo đức đó đặt tên tàn tật vào giỏ mây, xách giỏ lên và đến Bārāṇasī, sống bằng cách ăn uống ở các nhà bố thí.
Bodhisatto alaṅkatahatthikkhandhavaragato dānaggaṃ gantvā aṭṭhannaṃ vā dasannaṃ vā sahatthā dānaṃ datvā puna gehaṃ gacchati.
The Bodhisatta, mounted on the back of a splendid elephant, went to the alms hall, gave alms with his own hands to eight or ten people, and then returned home.
Bồ Tát ngồi trên lưng voi hoàng gia được trang trí lộng lẫy, đến nơi bố thí, tự tay bố thí cho tám hoặc mười người, rồi trở về cung điện.
Sā anācārā taṃ kuṇṭhaṃ pacchiyaṃ nisīdāpetvā pacchiṃ ukkhipitvā tassa gamanamagge aṭṭhāsi.
That immoral woman made the cripple sit in the basket, lifted the basket, and stood in his path.
Người phụ nữ vô đạo đức đó đặt tên tàn tật vào giỏ, xách giỏ lên và đứng trên đường đi của Ngài.
684
Rājā disvā ‘‘kiṃ eta’’nti pucchi.
The king saw and asked, "What is this?"
Đức Vua thấy vậy liền hỏi: “Người này là ai?”
‘‘Ekā, deva, patibbatā’’ti.
"One devoted to her husband, Your Majesty."
“Thưa Đại vương, đó là một người vợ trung trinh.”
Atha naṃ pakkosāpetvā sañjānitvā kuṇṭhaṃ pacchiyā nīharāpetvā ‘‘ayaṃ te kiṃ hotī’’ti pucchi.
Then, having called her and recognized her, he had the cripple taken out of the basket and asked, "Who is this to you?"
Rồi Ngài cho gọi nàng đến, nhận ra nàng, bảo người ta đưa tên tàn tật ra khỏi giỏ và hỏi: “Người này là gì của cô?”
Sā ‘‘pitucchāputto me, deva, kuladattiko sāmiko’’ti āha.
She said, "He is my paternal aunt's son, Your Majesty, my husband given by the family."
Nàng đáp: “Thưa Đại vương, đây là con trai của cô tôi, là chồng được gia đình gả cho tôi.”
Manussā taṃ antaraṃ ajānantā ‘‘aho patibbatā’’tiādīni vatvā taṃ anācāritthiṃ vaṇṇayiṃsu.
People, not knowing the truth, praised that immoral woman, saying, "Oh, how devoted to her husband!" and so on.
Người dân không biết sự thật, liền ca ngợi người phụ nữ vô đạo đức đó, nói: “Ôi, thật là một người vợ trung trinh!”
Puna rājā ‘‘ayaṃ te kuṇṭho kuladattiko sāmiko’’ti pucchi.
Again, the king asked, "Is this cripple your husband given by the family?"
Vua lại hỏi: “Người tàn tật này có phải là chồng được gia đình gả cho cô không?”
Sā rājānaṃ asañjānantī ‘‘āma, devā’’ti sūrā hutvā kathesi.
Not recognizing the king, she boldly said, "Yes, Your Majesty."
Nàng không nhận ra Đức Vua, liền dũng cảm nói: “Vâng, thưa Đại vương.”
Atha naṃ rājā ‘‘kiṃ esa bārāṇasirañño putto, nanu tvaṃ padumakumārassa bhariyā asukarañño dhītā, asukā nāma mama jāṇulohitaṃ pivitvā imasmiṃ kuṇṭhe paṭibaddhacittā maṃ papāte pātesi.
Then the king said to her, "Is this the son of the King of Bārāṇasī? Are you not the wife of Prince Paduma, the daughter of such and such a king? Such a one, having drunk my knee-blood, became attached to this cripple and threw me down a precipice.
Khi đó, Đức Vua nói với nàng: “Người này có phải là con trai của vua Bārāṇasī không? Nàng không phải là vợ của thái tử Paduma, con gái của vua nọ sao? Chính nàng đã uống máu từ đầu gối ta, rồi bị cuốn hút bởi tên tàn tật này mà đẩy ta xuống vách đá.
Sā idāni tvaṃ nalāṭena maccuṃ gahetvā maṃ ‘mato’ti maññamānā imaṃ ṭhānaṃ āgatā, nanu ahaṃ jīvāmī’’ti vatvā amacce āmantetvā ‘‘bho, amaccā nanu cāhaṃ tumhehi puṭṭho evaṃ kathesiṃ ‘mama kaniṭṭhabhātikā cha itthiyo māretvā maṃsaṃ khādiṃsu, ahaṃ pana mayhaṃ bhariyaṃ arogaṃ katvā gaṅgātīraṃ netvā assamapade vasanto ekaṃ vajjhappattaṃ kuṇṭhaṃ uttāretvā paṭijaggiṃ.
Now, you have come to this place, having embraced death on your forehead, thinking me dead. Am I not alive?" Having said this, he addressed his ministers, "Sirs, ministers, did I not tell you when you asked that 'my younger sister's six wives killed and ate meat, but I, having made my wife well, took her to the bank of the Gaṅgā and, dwelling in the hermitage, rescued and cared for an afflicted cripple.
Bây giờ nàng mang cái chết trên trán mà đến đây, nghĩ rằng ta đã chết. Chẳng phải ta vẫn còn sống sao?” Nói xong, Ngài gọi các đại thần và nói: “Này các đại thần, chẳng phải ta đã nói với các ngươi rằng: ‘Sáu người vợ của em trai ta đã giết và ăn thịt ta, nhưng ta đã cứu vợ ta khỏe mạnh, đưa nàng đến bờ sông Gaṅgā, sống trong am thất và chăm sóc một kẻ tàn tật đáng bị trừng phạt.
Sā itthī etasmiṃ paṭibaddhacittā maṃ pabbatapāde pātesi.
That woman, being attached to him, threw me down the mountainside.
Người phụ nữ đó đã bị cuốn hút bởi kẻ này mà đẩy ta xuống vách núi.
Ahaṃ attano mettacittatāya jīvitaṃ labhi’nti.
I gained my life through my own loving-kindness.'
Nhờ tâm từ bi của mình mà ta đã sống sót’ sao?
Yāya ahaṃ pabbatā pātito, na sā aññā, esā dussīlā, sopi vajjhappatto kuṇṭho na añño, ayamevā’’ti vatvā imā gāthā avoca –
The one by whom I was thrown from the mountain is no other; she is this immoral woman. And that afflicted cripple is no other; he is this one." Having said this, he spoke these verses:
Kẻ đã đẩy ta từ núi xuống không phải ai khác, chính là người phụ nữ vô đạo đức này. Và tên tàn tật đáng bị trừng phạt đó cũng không phải ai khác, chính là kẻ này.” Nói xong, Ngài đọc những câu kệ sau:
685
85.
85.
85.
686
‘‘Ayameva sā ahamapi so anañño, ayameva so hatthacchinno anañño;
"This is she, and I am that very one, none other; this is he, the one with severed hands, none other;
“Chính nàng là người ấy, ta cũng là người ấy, không ai khác;
687
Yamāha ‘komārapatī mama’nti, vajjhitthiyo natthi itthīsu saccaṃ.
Whom she calls 'my youthful husband,' there is no truth in women, they are to be slain."
Chính kẻ bị chặt tay chân ấy, không ai khác, mà nàng gọi là ‘chồng từ thuở thiếu thời của ta.’ Thật vậy, không có sự thật nào ở những người phụ nữ vô đạo đức.
688
86.
86.
86.
689
‘‘Imañca jammaṃ musalena hantvā, luddaṃ chavaṃ paradārūpaseviṃ;
"Strike this wretched, cruel, corpse-like man, who consorts with others' wives, with a pestle;
“Hãy dùng chùy đập chết kẻ thấp hèn, tàn bạo, kẻ ngoại tình này;
690
Imissā ca naṃ pāpapatibbatāya, jīvantiyā chindatha kaṇṇanāsa’’nti.
And for this wicked woman devoted to her husband, while she lives, cut off her ears and nose."
Và hãy chặt tai mũi của người phụ nữ vô đạo đức này khi nàng còn sống.”
691
Tattha yamāha komārapatī mamanti yaṃ esā ‘‘ayaṃ me, komārapati, kuladattiko sāmiko’’ti āha, ayameva so, na añño.
Here, yamāha komārapatī mamāti: that which she said, "This, my youthful husband, is my husband given by the family," this is he, no other.
Ở đó, câu " Yamāha komārapati mama" (người mà nàng nói là của tôi, hỡi Komārapati) tức là điều mà nàng nói rằng "Người này, hỡi Komārapati, là chồng của tôi, được gia đình trao cho", chính là người này, không phải người khác.
‘‘Yamāhu, komārapatī’’tipi pāṭho.
" Yamāhu, komārapatī" is also a reading.
Cũng có bản đọc là " Yamāhu, komārapati" (người mà họ nói, hỡi Komārapati).
Ayameva hi potthakesu likhito, tassāpi ayamevattho, vacanavipallāso panettha veditabbo.
This is indeed written in the books, and its meaning is the same; a reversal of words should be understood here.
Chính bản này được ghi trong các sách, ý nghĩa của nó cũng là như vậy, ở đây cần hiểu là sự đảo ngược từ ngữ.
Yañhi raññā vuttaṃ, tadeva idha āgataṃ.
For what the king said, that very thing is presented here.
Vì điều đã được vua nói, chính điều đó đã được đưa ra ở đây.
Vajjhitthiyoti itthiyo nāma vajjhā vadhitabbā eva.
Vajjhitthiyoti: women are indeed to be slain, to be killed.
Vajjhitthiyo (phụ nữ đáng bị trừng phạt) nghĩa là phụ nữ đáng bị trừng phạt, đáng bị giết.
Natthi itthīsu saccanti etāsu sabhāvo nāmeko natthi.
Natthi itthīsu saccanti: there is no single nature in these women.
Natthi itthīsu sacca (không có sự thật nơi phụ nữ) nghĩa là không có một bản chất nào nơi những người phụ nữ ấy.
‘‘Imañca jamma’’ntiādi dvinnampi tesaṃ daṇḍāṇāpanavasena vuttaṃ.
"Imañca jamma"tiādi: this and "wretched" etc., are spoken in the sense of ordering punishment for both of them.
Câu " Imañca jamma" (và kẻ hạ tiện này) v.v. được nói ra với mục đích ra lệnh trừng phạt cả hai người đó.
Tattha jammanti lāmakaṃ.
Here, jammanti: wretched.
Ở đó, jamma (hạ tiện) nghĩa là thấp kém.
Musalena hantvāti musalena hanitvā pothetvā aṭṭhīni bhañjitvā cuṇṇavicuṇṇaṃ katvā.
Musalena hantvāti: having struck with a pestle, having crushed, having broken the bones, having reduced to powder.
Musalena hantvā (dùng chày đánh) nghĩa là dùng chày đánh, đập nát, bẻ gãy xương, làm cho tan nát thành từng mảnh vụn.
Luddanti dāruṇaṃ.
Luddanti: cruel.
Ludda (hung ác) nghĩa là tàn bạo.
Chavanti guṇābhāvena nijjīvaṃ matasadisaṃ.
Chavanti: lifeless like a corpse due to lack of virtues.
Chava (xác chết) nghĩa là vô sinh, giống như người chết do thiếu phẩm chất.
Imissā ca nanti ettha nanti nipātamattaṃ, imissā ca pāpapatibbatāya anācārāya dussīlāya jīvantiyāva kaṇṇanāsaṃ chindathāti attho.
Here, "na" is merely a particle. The meaning is, "Cut off the ears and nose of this woman who lives as a wicked, immoral, and unvirtuous wife."
Trong câu " Imissā ca na" (và của người phụ nữ này), từ na chỉ là một tiểu từ, ý nghĩa là: "Hãy cắt tai và mũi của người phụ nữ bất chính, vô đạo đức, tà hạnh này khi nàng còn sống."
692
Bodhisatto kodhaṃ adhivāsetuṃ asakkonto evaṃ tesaṃ daṇḍaṃ āṇāpetvāpi na tathā kāresi.
The Bodhisatta, unable to suppress his anger, even though he ordered such a punishment for them, did not act accordingly.
Bồ Tát, không thể chịu đựng được cơn giận, dù đã ra lệnh trừng phạt họ như vậy nhưng không thực hiện.
Kopaṃ pana mandaṃ katvā yathā sā pacchiṃ sīsato oropetuṃ na sakkoti, evaṃ gāḷhataraṃ bandhāpetvā kuṇṭhaṃ tattha pakkhipāpetvā attano vijitā nīharāpesi.
But having lessened his anger, he had it bound more tightly so that she could not remove the basket from her head, had the cripple put into it, and had them expelled from his kingdom.
Tuy nhiên, Ngài đã giảm bớt cơn giận và ra lệnh trói chặt nàng hơn để nàng không thể nhấc giỏ ra khỏi đầu, sau đó cho người què vào trong giỏ và đuổi họ ra khỏi lãnh địa của mình.
693
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Master, having brought this Dhamma discourse, proclaimed the Truths, and identified the Jātaka – at the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Thế Tôn đã kể lại bài pháp thoại này, công bố các sự thật, và kết nối câu chuyện Jātaka – sau khi các sự thật được công bố, vị Tỳ-khưu chán nản đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā cha bhātaro aññatarā therā ahesuṃ, bhariyā ciñcamāṇavikā, kuṇṭho devadatto, godharājā ānando, padumarājā pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the six brothers were certain Theras; the wife was Ciñcamāṇavikā; the cripple was Devadatta; the king of the monitor lizards was Ānanda; and King Paduma was myself."
"Khi ấy, sáu anh em là các vị trưởng lão khác, người vợ là Ciñcamāṇavikā, người què là Devadatta, vua rắn là Ānanda, còn vua Paduma chính là Ta."
694
Cūḷapadumajātakavaṇṇanā tatiyā.
The Story of the Cūḷapaduma Jātaka, the Third.
Chuyện Tiền Thân Tiểu Paduma, thứ ba.
695
* 4. Maṇicorajātakavaṇṇanā
* 4. The Story of the Maṇicora Jātaka
* 4. Chuyện Tiền Thân Kẻ Trộm Ngọc
696
Na santi devā pavasanti nūnāti idaṃ satthā veḷuvane viharanto vadhāya parisakkantaṃ devadattaṃ ārabbha kathesi.
"There are no devas, they must have departed" – this the Master related while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta who was striving for his destruction.
Na santi devā pavasanti nūnā (chắc chắn không có chư thiên nào đang trú ngụ) – Đức Thế Tôn đã nói điều này khi ngự tại Veḷuvana, liên quan đến Devadatta đang cố gắng sát hại Ngài.
Tadā pana satthā ‘‘devadatto vadhāya parisakkatī’’ti sutvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi devadatto mayhaṃ vadhāya parisakkatiyeva, parisakkantopi pana maṃ vadhituṃ nāsakkhī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Master, having heard that "Devadatta is striving for his destruction," said, "Not only now, bhikkhus, but in the past too, Devadatta always strove for my destruction, yet even striving, he was unable to destroy me," and he related a past event.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe rằng "Devadatta đang cố gắng sát hại Ngài", liền nói: "Này các Tỳ-khưu, không chỉ bây giờ, mà trước kia Devadatta cũng đã cố gắng sát hại Ta, nhưng dù cố gắng cũng không thể sát hại Ta," rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
697
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto bārāṇasito avidūre gāmake gahapatikule nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a householder's family in a village not far from Bārāṇasī.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình gia chủ ở một ngôi làng không xa Bārāṇasī.
Athassa vayappattassa bārāṇasito kuladhītaraṃ ānesuṃ, sā suvaṇṇavaṇṇā ahosi abhirūpā dassanīyā devaccharā viya pupphalatā viya laḷamānā mattakinnarī viya ca sujātāti nāmena patibbatā sīlācārasampannā vattasampannā.
Then, when he came of age, they brought him a daughter from a family in Bārāṇasī. She was golden-skinned, beautiful, charming like a celestial nymph, graceful like a flowering creeper, and well-born like a drunken Kinnarī. Her name was Sujātā, and she was a devoted wife, endowed with virtue, good conduct, and duties.
Khi đến tuổi trưởng thành, họ đã cưới một cô gái từ Bārāṇasī cho Ngài; nàng có nước da vàng óng, xinh đẹp, đáng yêu như một vị nữ thần, duyên dáng như một dây hoa, và hoàn hảo như một kinnarī say đắm, tên là Sujātā, là một người vợ hiền, đầy đủ giới hạnh và đức độ, hoàn hảo trong bổn phận.
Niccakālampissā pativattaṃ sassuvattaṃ sasuravattañca katameva hoti, sā bodhisattassa piyā ahosi manāpā.
Always, her duties towards her husband, mother-in-law, and father-in-law were fulfilled. She was dear and pleasing to the Bodhisatta.
Nàng luôn chu toàn bổn phận đối với chồng, mẹ chồng và cha chồng; nàng là người vợ yêu quý và vừa lòng của Bồ Tát.
Iti ubhopi te sammodamānā ekacittā samaggavāsaṃ vasiṃsu.
Thus, both of them lived in harmony, of one mind, in concord.
Cứ như vậy, cả hai người đều sống hòa hợp, đồng lòng và đoàn kết.
698
Athekadivasaṃ sujātā ‘‘mātāpitaro daṭṭhukāmāmhī’’ti bodhisattassa ārocesi.
Then, one day, Sujātā informed the Bodhisatta, "I wish to see my parents."
Một ngày nọ, Sujātā nói với Bồ Tát rằng: "Thiếp muốn gặp cha mẹ."
‘‘Sādhu, bhadde, maggapātheyyaṃ pahonakaṃ paṭiyādehī’’ti khajjavikatiṃ pacāpetvā khajjakādīni yānake ṭhapetvā yānakaṃ pājento yānakassa purato ahosi, itarā pacchato.
"Very well, my dear, prepare sufficient provisions for the journey." Having cooked various foods, he placed snacks and other items in the cart and drove the cart, being in front, while she was behind.
Bồ Tát nói: "Tốt lắm, hiền thê, hãy chuẩn bị đủ lương thực cho chuyến đi," rồi cho nấu các món ăn nhẹ, đặt bánh kẹo và các thứ khác lên xe, rồi tự mình đi trước xe, còn nàng đi sau.
Te nagarasamīpaṃ gantvā yānakaṃ mocetvā nhatvā bhuñjiṃsu.
They went near the city, unyoked the cart, bathed, and ate.
Họ đến gần thành phố, tháo xe, tắm rửa và dùng bữa.
Puna bodhisatto yānakaṃ yojetvā purato nisīdi, sujātā vatthāni parivattetvā alaṅkaritvā pacchato nisīdi.
Again, the Bodhisatta yoked the cart and sat in front; Sujātā changed her clothes, adorned herself, and sat behind.
Sau đó, Bồ Tát lại thắng xe và ngồi phía trước, Sujātā thay quần áo, trang điểm và ngồi phía sau.
Yānakassa antonagaraṃ paviṭṭhakāle bārāṇasirājā hatthikkhandhavaragato nagaraṃ padakkhiṇaṃ karonto taṃ padesaṃ agamāsi.
When the cart entered the city, the King of Bārāṇasī, mounted on the back of a noble elephant, was circumambulating the city and came to that spot.
Khi chiếc xe đi vào nội thành, vua Bārāṇasī, đang ngự trên lưng voi chúa, tuần hành thành phố và đi đến khu vực đó.
Sujātā otaritvā yānakassa pacchato padasā pāyāsi.
Sujātā dismounted and walked on foot behind the cart.
Sujātā bước xuống và đi bộ phía sau chiếc xe.
Rājā taṃ disvā tassā rūpasampattiyā ākaḍḍhiyamānalocano paṭibaddhacitto hutvā ekaṃ amaccaṃ āṇāpesi – ‘‘gaccha tvaṃ etissā sassāmikabhāvaṃ vā assāmikabhāvaṃ vā jānāhī’’ti.
The King, seeing her, with his eyes drawn by her beauty, became infatuated and ordered an minister, "Go, find out if she has a husband or not."
Vua nhìn thấy nàng, đôi mắt bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của nàng, tâm trí bị ràng buộc, liền ra lệnh cho một vị quan: "Ngươi hãy đi tìm hiểu xem nàng đã có chồng hay chưa."
So gantvā tassā sassāmikabhāvaṃ ñatvā ‘‘sassāmikā kira, deva, yānake nisinno puriso etissā sāmiko’’ti āha.
He went and, having learned that she had a husband, said, "Indeed, Your Majesty, she has a husband; the man seated in the cart is her husband."
Vị quan đi đến, biết được nàng đã có chồng, liền tâu: "Tâu Đại vương, nàng đã có chồng; người đàn ông ngồi trên xe chính là chồng của nàng."
699
Rājā paṭibaddhacittaṃ vinodetuṃ asakkonto kilesāturo hutvā ‘‘ekena naṃ upāyena mārāpetvā itthiṃ gaṇhissāmī’’ti cintetvā ekaṃ purisaṃ āmantetvā ‘‘gaccha, bho, imaṃ cūḷāmaṇiṃ vīthiṃ gacchanto viya hutvā etassa purisassa yānake pakkhipitvā ehī’’ti cūḷāmaṇiṃ datvā uyyojesi.
The King, unable to dispel his infatuation, overcome by defilements, thought, "I will have him killed by some means and take the woman." He summoned a man and said, "Go, sir, as if you are walking along the street, place this crest-jewel in that man's cart and return." He gave him the crest-jewel and sent him off.
Vua, không thể xua tan tâm trí bị ràng buộc, bị phiền não hành hạ, liền nghĩ: "Ta sẽ tìm cách giết hắn để chiếm lấy người phụ nữ này," rồi gọi một người đàn ông đến và nói: "Này ngươi, hãy đi như thể đang đi trên đường, đặt viên ngọc cài tóc này vào xe của người đàn ông đó rồi quay về đây," rồi trao viên ngọc cài tóc và sai đi.
So ‘‘sādhū’’ti taṃ gahetvā gantvā yānake ṭhapetvā ‘‘ṭhapito me, devā’’ti āgantvā ārocesi.
He said, "Yes, sir," took it, went, placed it in the cart, and returned, reporting, "It has been placed, Your Majesty."
Người đó vâng lời, cầm viên ngọc đi đến, đặt vào xe, rồi quay về tâu: "Tâu Đại vương, thần đã đặt xong."
Rājā ‘‘cūḷāmaṇi me naṭṭho’’ti āha, manussā ekakolāhalaṃ akaṃsu.
The King then said, "My crest-jewel is lost!" The people raised a great clamor.
Vua liền nói: "Viên ngọc cài tóc của ta đã mất," và mọi người liền xôn xao.
Rājā ‘‘sabbadvārāni pidahitvā sañcāraṃ chinditvā coraṃ pariyesathā’’ti āha, rājapurisā tathā akaṃsu, nagaraṃ ekasaṅkhobhaṃ ahosi.
The King said, "Close all gates, cut off traffic, and search for the thief!" The royal officers did so, and the city was in an uproar.
Vua ra lệnh: "Hãy đóng tất cả các cổng, chặn mọi lối đi và tìm kiếm kẻ trộm," các quan quân của vua liền làm theo, cả thành phố trở nên hỗn loạn.
Itaro puriso manusse gahetvā bodhisattassa santikaṃ gantvā ‘‘bho, yānakaṃ ṭhapehi, rañño cūḷāmaṇi naṭṭho, yānakaṃ sodhessāmī’’ti yānakaṃ sodhento attanā ṭhapitamaṇiṃ gahetvā bodhisattaṃ gahetvā ‘‘maṇicoro’’ti hatthehi ca pādehi ca pothetvā pacchābāhaṃ bandhitvā netvā ‘‘ayaṃ maṇicoro’’ti rañño dassesi.
The other man, taking some people, went to the Bodhisatta and said, "Sir, stop the cart, the king's crest-jewel is lost, I will search the cart." While searching the cart, he took the jewel he himself had placed, seized the Bodhisatta, beat him with hands and feet, bound his arms behind his back, led him away, and showed him to the king, saying, "This is the jewel-thief."
Người đàn ông kia liền bắt người dân, đi đến chỗ Bồ Tát và nói: "Này ông, hãy dừng xe lại, viên ngọc cài tóc của vua đã mất, chúng tôi sẽ lục soát xe," rồi khi lục soát xe, hắn lấy viên ngọc mà hắn đã đặt vào, bắt Bồ Tát, đánh đập bằng tay và chân, trói tay ra sau lưng, dẫn đi và trình lên vua: "Đây là kẻ trộm ngọc."
Rājāpi ‘‘sīsamassa chindathā’’ti āṇāpesi.
The king also commanded, "Cut off his head."
Vua liền ra lệnh: "Hãy chém đầu hắn."
700
Atha naṃ rājapurisā catukke catukke kasāhi tāḷentā dakkhiṇadvārena nagarā nikkhamāpesuṃ.
Then the king's men, beating him with whips at every crossroad, made him exit the city through the southern gate.
Sau đó, các quan quân của vua đánh đập Ngài bằng roi ở mỗi ngã tư, rồi đưa Ngài ra khỏi thành phố qua cổng phía nam.
Sujātāpi yānakaṃ pahāya bāhā paggayha paridevamānā ‘‘sāmi, maṃ nissāya imaṃ dukkhaṃ pattosī’’ti paridevamānā pacchato pacchato agamāsi.
Sujātā too, abandoning the cart, raised her arms and lamented, "My lord, because of me you have reached this suffering," and she followed behind, lamenting.
Sujātā cũng bỏ xe lại, giơ tay lên than khóc: "Chồng ơi, vì thiếp mà chàng phải chịu khổ đau này," rồi than khóc đi theo sau.
Rājapurisā ‘‘sīsamassa chindissāmā’’ti bodhisattaṃ uttānaṃ nipajjāpesuṃ.
The king's men made the Bodhisatta lie down on his back, saying, "We will cut off his head."
Các quan quân của vua đặt Bồ Tát nằm ngửa xuống để chém đầu Ngài.
Taṃ disvā sujātā attano sīlaguṇaṃ āvajjetvā ‘‘natthi vata maññe imasmiṃ loke sīlavantānaṃ viheṭhake pāpasāhasikamanusse nisedhetuṃ samatthā devatā nāmā’’tiādīni vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Seeing that, Sujātā, reflecting on her own virtue, said, "Indeed, I think there are no deities in this world capable of restraining wicked, audacious people who torment the virtuous," and so on, and then recited the first verse:
Thấy vậy, Sujātā hồi tưởng lại phẩm hạnh của mình, rồi nói: "Chắc chắn không có vị thần nào trên thế gian này có thể ngăn cản những kẻ ác độc, bạo ngược đang làm hại những người có giới hạnh," v.v., rồi nói lên bài kệ đầu tiên:
701
87.
87.
87.
702
‘‘Na santi devā pavasanti nūna, na hi nūna santi idha lokapālā;
"There are no deities, they surely dwell far away; indeed, there are no guardians of the world here.
"Chắc chắn không có chư thiên nào đang trú ngụ, chắc chắn không có vị hộ thế nào ở đời này;
703
Sahasā karontānamasaññatānaṃ, na hi nūna santi paṭisedhitāro’’ti.
For those who act audaciously, unrestrained, indeed, there are no restrainers."
Đối với những kẻ vô kỷ luật hành động một cách bạo ngược, chắc chắn không có ai ngăn cản."
704
Tattha na santi, devāti imasmiṃ loke sīlavantānaṃ olokanakā pāpānañca nisedhakā na santi nūna devā.
Therein, na santi, devā means, "Indeed, there are no deities in this world who watch over the virtuous and restrain the wicked."
Ở đó, na santi, devā (không có chư thiên) nghĩa là: chắc chắn không có chư thiên nào ở thế gian này là người bảo hộ cho những người có giới hạnh và ngăn cản những kẻ ác.
Pavasanti nūnāti evarūpesu vā kiccesu uppannesu nūna pavasanti pavāsaṃ gacchanti.
Pavasanti nūnā means, "Or, when such matters arise, they surely dwell far away, they go into exile."
Pavasanti nūnā (chắc chắn đang trú ngụ) nghĩa là: hoặc khi những việc như vậy xảy ra, chắc chắn họ đang trú ngụ, đang đi xa.
Idha, lokapālāti imasmiṃ loke lokapālasammatā samaṇabrāhmaṇāpi sīlavantānaṃ anuggāhakā na hi nūna santi.
Idha, lokapālā means, "Indeed, there are no recluses and brahmins, considered world-guardians in this world, who support the virtuous."
Idha, lokapālā (ở đây, các vị hộ thế) nghĩa là: ngay cả các Sa-môn, Bà-la-môn được xem là hộ thế ở thế gian này, chắc chắn cũng không có ai ủng hộ những người có giới hạnh.
Sahasā karontānamasaññatānanti sahasā avīmaṃsitvā sāhasikaṃ dāruṇaṃ kammaṃ karontānaṃ dussīlānaṃ.
Sahasā karontānamasaññatānaṃ means, "For those unrestrained, wicked people who act audaciously, brutally, without investigation."
Sahasā karontānamasaññatāna (đối với những kẻ vô kỷ luật hành động một cách bạo ngược) nghĩa là: đối với những kẻ ác đức, hành động tàn bạo một cách bạo ngược, không suy xét.
Paṭisedhitāroti evarūpaṃ kammaṃ mā karittha, na labbhā etaṃ kātunti paṭisedhentā natthīti attho.
Paṭisedhitāro means, "There are no restrainers who say, 'Do not commit such an act, it is not permissible to do this.'"
Paṭisedhitāro (những người ngăn cản) nghĩa là: không có ai ngăn cản rằng "Đừng làm việc như vậy, không được phép làm điều này."
705
Evaṃ tāya sīlasampannāya paridevamānāya sakkassa devarañño nisinnāsanaṃ uṇhākāraṃ dassesi, sakko ‘‘ko nu kho maṃ sakkattato cāvetukāmo’’ti āvajjento imaṃ kāraṇaṃ ñatvā ‘‘bārāṇasirājā atipharusakammaṃ karoti, sīlasampannaṃ sujātaṃ kilameti, gantuṃ dāni me vaṭṭatī’’ti devalokā oruyha attano ānubhāvena hatthipiṭṭhe nisinnaṃ taṃ pāparājānaṃ hatthikkhandhato otāretvā dhammagaṇḍikāya uttānaṃ nipajjāpetvā bodhisattaṃ ukkhipitvā sabbālaṅkārehi alaṅkaritvā rājavesaṃ gāhāpetvā hatthikkhandhe nisīdāpesi.
As that virtuous woman lamented thus, the seat of Sakka, the king of devas, showed signs of heat. Sakka, reflecting, "Who indeed wishes to dislodge me from my position as Sakka?" and understanding this situation, thought, "The King of Bārāṇasī is committing an excessively harsh deed, he is tormenting the virtuous Sujātā; it is now right for me to go." Descending from the deva world, by his power, he made that wicked king, who was seated on an elephant's back, alight from the elephant's shoulder, laid him face up on a sacrificial block, lifted the Bodhisatta, adorned him with all ornaments, had him assume royal attire, and seated him on the elephant's shoulder.
Khi nàng có giới hạnh ấy than khóc như vậy, ngai vàng của Sakka, vua chư thiên, đã hiển thị dấu hiệu nóng bức; Sakka liền suy xét: "Ai đang muốn truất phế ta khỏi vị trí Sakka?" và biết được sự việc này, liền nghĩ: "Vua Bārāṇasī đang làm một hành động quá tàn bạo, làm khổ Sujātā có giới hạnh, bây giờ ta phải đi," rồi từ cõi trời giáng xuống, bằng thần thông của mình, Ngài đã kéo vị vua độc ác đang ngồi trên lưng voi xuống khỏi lưng voi, đặt hắn nằm ngửa trên một cái bệ hình cây gậy pháp (dhammagaṇḍikā), nhấc Bồ Tát lên, trang điểm cho Ngài bằng mọi đồ trang sức, cho Ngài mặc trang phục hoàng gia và đặt Ngài ngồi trên lưng voi.
Rājapurisā pharasuṃ ukkhipitvā sīsaṃ chindantā rañño sīsaṃ chindiṃsu, chinnakāleyeva cassa rañño sīsabhāvaṃ jāniṃsu.
The king's men, raising an axe to cut off the Bodhisatta's head, cut off the king's head instead, and they only realized it was the king's head at the moment it was severed.
Các quan quân của vua, đang giơ rìu lên để chém đầu, đã chém đầu của vị vua độc ác; ngay khi bị chém, họ mới biết đó là đầu của nhà vua.
Sakko devarājā dissamānakasarīreneva bodhisattassa santikaṃ gantvā bodhisattassa rājābhisekaṃ katvā sujātāya ca aggamahesiṭṭhānaṃ dāpesi.
Sakka, the king of devas, in a visible body, went to the Bodhisatta, performed the Bodhisatta's anointing as king, and granted Sujātā the position of chief queen.
Sakka, vua chư thiên, với thân thể hiện hữu, đã đến chỗ Bồ Tát, làm lễ đăng quang cho Bồ Tát và ban cho Sujātā vị trí hoàng hậu.
Amaccā ceva brāhmaṇagahapatikādayo ca sakkaṃ devarājānaṃ disvā ‘‘adhammikarājā mārito, idāni amhehi sakkadattiko dhammikarājā laddho’’ti somanassappattā ahesuṃ.
The ministers, brahmins, householders, and others, seeing Sakka, the king of devas, were filled with joy, thinking, "The unrighteous king has been killed; now we have obtained a righteous king given by Sakka."
Các vị quan, Bà-la-môn, gia chủ v.v. thấy Sakka, vua chư thiên, liền vui mừng nói: "Vị vua bất chính đã bị giết, bây giờ chúng ta đã có một vị vua chính pháp do Sakka ban cho."
706
Sakkopi ākāse ṭhatvā ‘‘ayaṃ vo sakkadattiko rājā, ito paṭṭhāya dhammena rajjaṃ kāressati.
Sakka, standing in the sky, said, "This is your king given by Sakka; from now on, he will rule the kingdom righteously.
Sakka cũng đứng trên không trung và nói: "Đây là vị vua do Sakka ban cho các ngươi, từ nay Ngài sẽ trị vì đất nước theo Pháp."
Sace hi rājā adhammiko hoti, devo akāle vassati, kāle na vassati, chātabhayaṃ rogabhayaṃ satthabhayanti imāni tīṇi bhayāni upagatāneva hontī’’ti ovadanto dutiyaṃ gāthamāha –
For if a king is unrighteous, the deva rains at the wrong time and does not rain at the right time, and these three fears—famine, disease, and weapons—surely arise," thus advising, he recited the second verse:
Nếu nhà vua là người bất chính, trời sẽ mưa trái mùa, không mưa đúng mùa, và ba nỗi sợ hãi này—nạn đói, dịch bệnh, và chiến tranh—sẽ ập đến." Vị trời dạy bảo như vậy rồi nói bài kệ thứ hai –
707
88.
88.
88.
708
‘‘Akāle vassatī tassa, kāle tassa na vassati;
"For him, it rains at the wrong time; for him, it does not rain at the right time;
“Mưa trái mùa cho người ấy, không mưa đúng mùa cho người ấy;
709
Saggā ca cavati ṭhānā, nanu so tāvatā hato’’ti.
He falls from his heavenly abode—is he not thereby slain?"
Người ấy sẽ rơi khỏi vị trí trên cõi trời, há chẳng phải người ấy đã bị hủy diệt sao?”
710
Tattha akāleti adhammikarañño rajje ayuttakāle sassānaṃ pakkakāle vā lāyanamaddanādikāle vā devo vassati.
Therein, akāle means, "In the kingdom of an unrighteous king, the deva rains at an unsuitable time, at the time when crops are ripe, or at the time of harvesting and threshing."
Ở đây, akāle (trái mùa) có nghĩa là khi vị vua bất chính cai trị, trời mưa vào thời điểm không thích hợp, chẳng hạn như vào mùa thu hoạch hoặc mùa đập lúa.
Kāleti yuttapayuttakāle vapanakāle taruṇasassakāle gabbhaggahaṇakāle ca na vassati.
Kāle means, "At the suitable and appropriate time, at the time of sowing, when crops are young, and at the time of conception, it does not rain."
Kāle (đúng mùa) có nghĩa là trời không mưa vào thời điểm thích hợp, chẳng hạn như mùa gieo hạt, khi cây con đang lớn, hoặc khi cây đang ra trái.
Saggā ca cavati ṭhānāti saggasaṅkhātā ṭhānā devalokā cavatīti attho.
Saggā ca cavati ṭhānā means, "He falls from his abode, which is heaven, that is, the deva world."
Saggā ca cavati ṭhānā (rơi khỏi vị trí trên cõi trời) có nghĩa là rơi khỏi vị trí được gọi là cõi trời, tức là cõi chư thiên.
Adhammikarājā hi appaṭilābhavasena devalokā cavati nāma, saggepi vā rajjaṃ kārento adhammikarājā tato cavatītipi attho.
Indeed, an unrighteous king falls from the deva realm due to not receiving offerings, or an unrighteous king, even while ruling in heaven, falls from there; this is the meaning.
Thật vậy, một vị vua bất chính được gọi là rơi khỏi cõi chư thiên vì không đạt được lợi ích, hoặc cũng có nghĩa là một vị vua bất chính cai trị trên cõi trời cũng sẽ rơi khỏi đó.
Nanu so tāvatā hatoti nanu so adhammiko rājā ettakena hato hoti.
"Was he not slain by that much?" means, was that unrighteous king not slain by that much?
Nanu so tāvatā hato (há chẳng phải người ấy đã bị hủy diệt sao) có nghĩa là há chẳng phải vị vua bất chính ấy đã bị hủy diệt bởi chừng đó sao?
Atha vā ekaṃsavācī ettha nu-kāro, neso ekaṃsena ettāvatā hato, aṭṭhasu pana mahānirayesu soḷasasu ca ussadanirayesu dīgharattaṃ so haññissatīti ayamettha attho.
Or, the particle "nu" here expresses certainty, meaning, he was not certainly slain by that much; rather, he will be tormented for a long time in the eight great hells and sixteen subsidiary hells. This is the meaning here.
Hoặc nu-kāro ở đây là một từ khẳng định chắc chắn, người ấy không nhất thiết bị hủy diệt ngay lập tức bởi chừng đó, mà người ấy sẽ bị hành hạ lâu dài trong tám đại địa ngục và mười sáu tiểu địa ngục—đó là ý nghĩa ở đây.
711
Evaṃ sakko mahājanassa ovādaṃ datvā attano devaṭṭhānameva agamāsi.
Thus Sakka, having given advice to the great multitude, went to his own divine abode.
Như vậy, Sakka đã ban lời khuyên cho đại chúng rồi trở về nơi ở của chư thiên của mình.
Bodhisattopi dhammena rajjaṃ kāretvā saggapuraṃ pūresi.
The Bodhisatta also ruled righteously and filled the city of devas.
Bồ Tát cũng cai trị vương quốc bằng Chánh pháp rồi viên mãn cõi trời.
712
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā adhammikarājā devadatto ahosi, sakko anuruddho, sujātā rāhulamātā, sakkadattiyarājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, proclaimed the Truths and connected the Jātaka: "At that time, the unrighteous king was Devadatta; Sakka was Anuruddha; Sujātā was Rāhula's mother; and King Sakkadattiya was I myself."
Đức Phật đã mang bài Pháp thoại này đến, tuyên bố các Chân lý, rồi kết nối câu chuyện Jātaka – “Vào thời đó, vị vua bất chính là Devadatta, Sakka là Anuruddha, Sujātā là mẹ của Rāhula, còn vua Sakkadattiya chính là Ta vậy.”
713
Maṇicorajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth commentary on the Maṇicora Jātaka.
Chuyện Maṇicora Jātaka, thứ tư, đã chấm dứt.
714
* 5. Pabbatūpattharajātakavaṇṇanā
* 5. The Pabbatūpatthara Jātaka Commentary
* 5. Chuyện Pabbatūpatthara Jātaka
715
Pabbatūpatthare rammeti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
"In the delightful Pabbatūpatthara" – the Teacher related this while residing at Jetavana, concerning the King of Kosala.
Pabbatūpatthare ramme (trên sườn núi đẹp đẽ) – Đức Phật đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Kosalarañño kira eko amacco antepure padussi.
It is said that one of the Kosala king's ministers committed misconduct in the inner palace.
Nghe nói, một vị quan của vua Kosala đã phạm lỗi trong hậu cung.
Rājāpi parivīmaṃsamāno taṃ tathato ñatvā ‘‘satthu ārocessāmī’’ti jetavanaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā ‘‘bhante, amhākaṃ antepure eko amacco padussi, tassa kiṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti pucchi.
The king, investigating and knowing it to be true, thought, "I shall report it to the Teacher," and going to Jetavana, he saluted the Teacher and asked, "Bhante, one of our ministers committed misconduct in the inner palace; what should be done to him?"
Vua, sau khi điều tra và biết sự thật, nghĩ: “Ta sẽ báo cho Đức Phật biết,” rồi đến Jetavana, đảnh lễ Đức Phật và hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, một vị quan của chúng con đã phạm lỗi trong hậu cung, con nên làm gì với người ấy?”
Atha naṃ satthā ‘‘upakārako te, mahārāja, so ca amacco sā ca itthī piyā’’ti pucchitvā ‘‘āma, bhante, ativiya upakārako sakalaṃ rājakulaṃ sandhāreti, sāpi me itthī piyā’’ti vutte ‘‘mahārāja, ‘attano upakārakesu sevakesu piyāsu ca itthīsu dubbhituṃ na sakkā’ti pubbepi rājāno paṇḍitānaṃ kathaṃ sutvā majjhattāva ahesu’’nti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher asked him, "Mahārāja, is that minister helpful to you, and is that woman dear to you?" When the king replied, "Yes, Bhante, he is very helpful and maintains the entire royal household, and that woman is also dear to me," the Teacher said, "Mahārāja, 'it is not possible to betray one's helpful servants and dear women,' and in the past, kings, having heard the words of the wise, remained impartial," and being requested by the king, he related a past event.
Bấy giờ, Đức Phật hỏi vua: “Đại vương, vị quan ấy có phải là người hữu ích cho ngài không, và người phụ nữ ấy có phải là người ngài yêu quý không?” Khi vua đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, người ấy vô cùng hữu ích, giữ gìn toàn bộ hoàng gia, và người phụ nữ ấy cũng là người con yêu quý,” Đức Phật nói: “Đại vương, các vị vua hiền triết thời xưa, sau khi nghe lời khuyên của các bậc hiền trí, đã giữ thái độ trung lập, vì họ không thể làm hại những người phục vụ hữu ích và những người phụ nữ yêu quý của mình,” rồi theo lời thỉnh cầu của vua, Đức Phật kể câu chuyện quá khứ.
716
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family, and having reached maturity, he became the king's advisor on welfare and Dhamma.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta cai trị ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình quan lại, khi trưởng thành, Ngài trở thành cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho nhà vua.
Athassa rañño eko amacco antepure padussi.
Then, one of that king's ministers committed misconduct in the inner palace.
Bấy giờ, một vị quan của nhà vua đã phạm lỗi trong hậu cung.
Rājā naṃ tathato ñatvā ‘‘amaccopi me bahūpakāro, ayaṃ itthīpi me piyā, dvepi ime nāsetuṃ na sakkā, paṇḍitāmaccaṃ pañhaṃ pucchitvā sace sahitabbaṃ bhavissati, sahissāmi, no ce, na sahissāmī’’ti bodhisattaṃ pakkosāpetvā āsanaṃ datvā ‘‘paṇḍita, pañhaṃ pucchissāmī’’ti vatvā ‘‘pucchatha, mahārāja, vissajjessāmī’’ti vutte pañhaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The king, knowing it to be true, thought, "My minister is very helpful, and this woman is dear to me; I cannot destroy both of them. I shall ask the wise minister a question, and if it is to be endured, I will endure it; if not, I will not endure it." So, he summoned the Bodhisatta, gave him a seat, and said, "Wise one, I shall ask a question." When the Bodhisatta replied, "Ask, Mahārāja, I shall answer," the king, asking the question, first spoke this verse:
Vua biết sự thật, nghĩ: “Vị quan này đã giúp đỡ ta rất nhiều, người phụ nữ này cũng là người ta yêu quý. Ta không thể hủy hoại cả hai. Ta sẽ hỏi vị quan hiền trí, nếu có thể tha thứ thì ta sẽ tha, nếu không thì ta sẽ không tha.” Rồi vua cho gọi Bồ Tát đến, ban chỗ ngồi và nói: “Thưa hiền sĩ, ta muốn hỏi một câu hỏi.” Khi Bồ Tát đáp: “Xin Đại vương cứ hỏi, con sẽ giải đáp,” vua hỏi câu hỏi đầu tiên bằng bài kệ –
717
89.
89.
89.
718
‘‘Pabbatūpatthare ramme, jātā pokkharaṇī sivā;
"In the delightful mountain slope, a pure pond arose;
“Trên sườn núi đẹp đẽ, một hồ nước trong lành sinh ra;
719
Taṃ siṅgālo apāpāyi, jānaṃ sīhena rakkhita’’nti.
A jackal drank from it, knowing it was guarded by a lion."
Con chó rừng đã uống nước đó, dù biết rằng nó được sư tử bảo vệ.”
720
Tattha pabbatūpatthare rammeti himavantapabbatapāde pattharitvā ṭhite aṅgaṇaṭṭhāneti attho.
Here, "in the delightful Pabbatūpatthara" means in the courtyard spread out at the foot of the Himavanta mountain.
Ở đây, pabbatūpatthare ramme (trên sườn núi đẹp đẽ) có nghĩa là trên khoảng đất bằng phẳng trải dài dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn.
Jātā pokkharaṇī sivāti sivā sītalā madhurodakā pokkharaṇī nibbattā, apica kho pokkharasañchannā nadīpi pokkharaṇīyeva.
"A pure pond arose" means a pure, cool pond with sweet water appeared; moreover, a river covered with lotus flowers is also called a pond.
Jātā pokkharaṇī sivā (một hồ nước trong lành sinh ra) có nghĩa là một hồ nước mát lạnh, ngọt ngào đã xuất hiện, và hơn nữa, một con sông đầy hoa sen cũng được gọi là pokkharaṇī.
Apāpāyīti apa-iti upasaggo, apāyīti attho.
"Apāpāyī" means "apa" is a prefix, and it means "drank."
Apāpāyī (đã uống) – apa là một tiền tố, và apāyī là đã uống.
Jānaṃ sīhena rakkhitanti sā pokkharaṇī sīhaparibhogā sīhena rakkhitā, sopi naṃ siṅgālo ‘‘sīhena rakkhitā aya’’nti jānantova apāyi.
"Knowing it was guarded by a lion" means that pond was for the lion's enjoyment and guarded by a lion, and that jackal drank from it even knowing, "This is guarded by a lion."
Jānaṃ sīhena rakkhita (dù biết rằng nó được sư tử bảo vệ) có nghĩa là hồ nước đó được sư tử sử dụng và bảo vệ, và con chó rừng ấy đã uống nước dù biết rằng “hồ này được sư tử bảo vệ.”
Taṃ kiṃ maññati, bālo siṅgālo sīhassa abhāyitvā piveyya evarūpaṃ pokkharaṇinti ayametthādhippāyo.
What do you think? Would a foolish jackal drink from such a pond without fearing the lion? This is the intention here.
Ý nghĩa ở đây là: “Ngươi nghĩ gì, con chó rừng ngu ngốc ấy dám uống nước hồ đó mà không sợ sư tử sao?”
721
Bodhisatto ‘‘addhā etassa antepure eko amacco paduṭṭho bhavissatī’’ti ñatvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, knowing, "Certainly, one of his ministers in the inner palace must have misbehaved," spoke the second verse:
Bồ Tát, biết rằng “chắc chắn có một vị quan đã phạm lỗi trong hậu cung của vua,” rồi nói bài kệ thứ hai –
722
90.
90.
90.
723
‘‘Pivanti ce mahārāja, sāpadāni mahānadiṃ;
"If wild animals drink from the great river, Mahārāja,
“Nếu các loài thú dữ uống nước sông lớn, thưa Đại vương;
724
Na tena anadī hoti, khamassu yadi te piyā’’ti.
It does not cease to be a river; forgive if she is dear to you."
Nó không trở thành không phải sông, nếu ngài yêu quý thì hãy tha thứ.”
725
Tattha sāpadānīti na kevalaṃ siṅgālova, avasesāni sunakhapasadabiḷāramigādīni sabbasāpadāni taṃ pokkharasañchannattā ‘‘pokkharaṇī’’ti laddhanāmaṃ nadiṃ pivanti ce.
Here, "sāpadānī" means not only a jackal, but all other wild animals such as dogs, leopards, cats, and deer, if they drink from that river, which is called a "pond" because it is covered with lotuses.
Ở đây, sāpadānī (các loài thú dữ) có nghĩa là không chỉ chó rừng, mà tất cả các loài thú dữ còn lại như chó, báo, mèo, hươu, v.v., đều uống nước sông được gọi là pokkharaṇī vì nó đầy hoa sen.
Na tena anadī hotīti nadiyañhi dvipadacatuppadāpi ahimacchāpi sabbe pipāsitā pānīyaṃ pivanti, na sā tena kāraṇena anadī nāma hoti, nāpi ucchiṭṭhanadī.
“By that, she does not become a non-river.” For indeed, in a river, two-footed and four-footed creatures, snakes and fish, all being thirsty, drink water, but for that reason, it does not become a ‘non-river,’ nor a ‘defiled river.’
Na tena anadī hotī (nó không trở thành không phải sông) có nghĩa là trên sông, cả loài hai chân và bốn chân, cả rắn và cá, tất cả những ai khát đều uống nước, nhưng vì lý do đó mà nó không trở thành không phải sông, cũng không phải là sông dơ bẩn.
Kasmā?
Why?
Tại sao?
Sabbesaṃ sādhāraṇattā.
Because it is common to all.
Vì nó là tài sản chung của tất cả.
Yathā nadī yena kenaci pītā na dussati, evaṃ itthīpi kilesavasena sāmikaṃ atikkamitvā aññena saddhiṃ saṃvāsaṃ gatā neva anitthī hoti.
Just as a river, drunk by anyone, is not defiled, so too a woman, having transgressed her husband due to defilements and gone to cohabit with another, does not become a ‘non-woman.’
Cũng như một con sông, dù ai uống cũng không bị ô uế, thì một người phụ nữ, vì phiền não mà vượt qua chồng để quan hệ với người khác, cũng không trở thành không phải phụ nữ.
Kasmā?
Why?
Tại sao?
Sabbesaṃ sādhāraṇabhāvena.
Because of her common nature to all.
Vì bản chất là tài sản chung của tất cả.
Nāpi ucchiṭṭhitthī.
Nor is she a ‘defiled woman.’
Cũng không phải là người phụ nữ dơ bẩn.
Kasmā?
Why?
Tại sao?
Odakantikatāya suddhabhāvena.
Because of her purity due to being like water.
Vì sự thanh tịnh như nước.
Khamassu yadi te piyāti yadi pana te sā itthī piyā, so ca amacco bahūpakāro, tesaṃ ubhinnampi khamassu majjhattabhāvena tiṭṭhāhīti.
“Forgive if she is dear to you” means: if that woman is dear to you, and that minister is very helpful, then forgive both of them, and remain impartial.
Khamassu yadi te piyā (nếu ngài yêu quý thì hãy tha thứ) có nghĩa là nếu người phụ nữ ấy là người ngài yêu quý, và vị quan ấy là người hữu ích, thì hãy tha thứ cho cả hai, và giữ thái độ trung lập.
726
Evaṃ mahāsatto rañño ovādaṃ adāsi.
Thus, the Great Being gave counsel to the king.
Như vậy, Đại Bồ Tát đã ban lời khuyên cho nhà vua.
Rājā tassa ovāde ṭhatvā ‘‘puna evarūpaṃ pāpakammaṃ mā karitthā’’ti vatvā ubhinnampi khami.
The king, abiding by his counsel, said, “Do not commit such an evil deed again,” and forgave both of them.
Nhà vua, tuân theo lời khuyên của Ngài, nói: “Đừng bao giờ làm điều ác như vậy nữa,” rồi tha thứ cho cả hai.
Tato paṭṭhāya te oramiṃsu.
From then on, they ceased.
Từ đó trở đi, họ đã kiềm chế.
Rājāpi dānādīni puññāni katvā jīvitapariyosāne saggapuraṃ pūresi.
The king, having performed meritorious deeds such as giving alms, filled the city of devas at the end of his life.
Nhà vua cũng thực hiện các công đức như bố thí, rồi khi hết tuổi thọ, Ngài viên mãn cõi trời.
Kosalarājāpi imaṃ dhammadesanaṃ sutvā tesaṃ ubhinnampi khamitvā majjhatto ahosi.
The King of Kosala, having heard this Dhamma discourse, also forgave both of them and remained impartial.
Vua Kosala, sau khi nghe bài Pháp thoại này, cũng tha thứ cho cả hai người đó và giữ thái độ trung lập.
727
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the king was Ānanda, and the wise minister was I myself.”
Đức Phật đã mang bài Pháp thoại này đến rồi kết nối câu chuyện Jātaka – “Vào thời đó, nhà vua là Ānanda, còn vị quan hiền trí chính là Ta vậy.”
728
Pabbatūpattharajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth, the Pabbatūpatthara Jātaka.
Chuyện Pabbatūpatthara Jātaka, thứ năm, đã chấm dứt.
729
* 6. Valāhakassajātakavaṇṇanā
* 6. The Valāhakassa Jātaka
* 6. Chuyện Valāhakassa Jātaka
730
Ye na kāhanti ovādanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
“Those who will not heed advice”—this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain discouraged bhikkhu.
Ye na kāhanti ovāda (những ai không tuân theo lời khuyên) – Đức Phật đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ kheo chán nản.
So hi bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘kiṃ kāraṇā’’ti vutte ‘‘ekaṃ alaṅkataṃ mātugāmaṃ disvā kilesavasenā’’ti āha.
Indeed, when that bhikkhu was asked by the Teacher, “Is it true, bhikkhu, that you are discouraged?” he replied, “It is true.” When asked, “For what reason?” he said, “Having seen an adorned woman, due to defilements.”
Khi Đức Phật hỏi vị Tỳ kheo đó: “Này Tỳ kheo, có thật là ông đang chán nản không?” Vị ấy đáp: “Thật vậy.” Khi được hỏi: “Vì lý do gì?” Vị ấy nói: “Vì con đã thấy một người phụ nữ trang điểm lộng lẫy và bị phiền não chi phối.”
Atha naṃ satthā ‘‘itthiyo nāmetā bhikkhu attano rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbehi ceva itthikuttavilāsehi ca purise palobhetvā attano vase katvā vasaṃ upagatabhāvaṃ ñatvā sīlavināsañceva dhanavināsañca pāpanaṭṭhena ‘yakkhiniyo’ti vuccanti.
Then the Teacher said to him, “Bhikkhu, these women are called ‘yakkhiṇīs’ because they entice men with their forms, sounds, smells, tastes, and touches, and with their feminine wiles and allurements, bring them under their control, and then, knowing them to be under their sway, lead them to the destruction of morality and wealth.
Bấy giờ, Đức Phật nói với vị Tỳ kheo đó: “Này Tỳ kheo, những người phụ nữ này, bằng sắc đẹp, âm thanh, mùi hương, vị giác, xúc giác của họ, và bằng sự quyến rũ, điệu bộ của phụ nữ, họ lôi kéo đàn ông, biến họ thành nô lệ của mình. Khi biết họ đã trở thành nô lệ, họ được gọi là yakkhinī (nữ Dạ Xoa) vì họ dẫn đến sự hủy hoại giới hạnh và sự hủy hoại tài sản.
Pubbepi hi yakkhiniyo itthikuttena ekaṃ purisasatthaṃ upasaṅkamitvā vāṇije palobhetvā attano vase katvā puna aññe purise disvā te sabbepi jīvitakkhayaṃ pāpetvā ubhohi hanukapassehi lohitena paggharantena mukhaṃ pūrāpetvā khādiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
For even in the past, yakkhiṇīs approached a group of men, merchants, and enticed them with feminine wiles, brought them under their control, and then, seeing other men, caused all of them to lose their lives, and devoured them, filling their mouths with blood gushing from both sides of their jaws,” and then he related a past event.
Trong quá khứ, các nữ Dạ Xoa cũng đã dùng sự quyến rũ của phụ nữ để tiếp cận một đoàn người đàn ông, lôi kéo các thương nhân, biến họ thành nô lệ của mình. Sau đó, khi thấy những người đàn ông khác, họ đã giết chết tất cả những người đó, rồi miệng đầy máu chảy ra từ hai bên hàm, họ đã ăn thịt những người đó.” Rồi Đức Phật kể câu chuyện quá khứ.
731
Atīte tambapaṇṇidīpe sirīsavatthu nāma yakkhanagaraṃ ahosi, tattha yakkhiniyo vasiṃsu.
In the past, on the island of Tambapaṇṇi, there was a city of yakkhas called Sirīsavatthu, where yakkhiṇīs resided.
Trong quá khứ, trên đảo Tambapaṇṇi có một thành phố của Dạ Xoa tên là Sirīsavatthu, nơi các nữ Dạ Xoa sinh sống.
Tā bhinnanāvānaṃ vāṇijānaṃ āgatakāle alaṅkatapaṭiyattā khādanīyabhojanīyaṃ gāhāpetvā dāsigaṇaparivutā dārake aṅkenādāya vāṇije upasaṅkamanti.
When shipwrecked merchants arrived, these yakkhiṇīs, adorned and ready, would have food and drink prepared, and surrounded by a retinue of female servants, carrying children on their hips, would approach the merchants.
Khi các thương nhân bị đắm tàu đến, họ trang điểm lộng lẫy, chuẩn bị đồ ăn thức uống, rồi cùng với đoàn tỳ nữ và ôm con nhỏ trên tay, họ tiếp cận các thương nhân.
Tesaṃ ‘‘manussāvāsaṃ āgatamhā’’ti sañjānanatthaṃ tattha tattha kasigorakkhādīni karonte manusse gogaṇe sunakheti evamādīni dassenti, vāṇijānaṃ santikaṃ gantvā ‘‘imaṃ yāguṃ pivatha, bhattaṃ bhuñjatha, khādanīyaṃ khādathā’’ti vadanti.
To make the merchants believe they had arrived at a human settlement, they would show them people engaged in farming, cattle-rearing, dogs, and so forth, here and there, and going to the merchants, they would say, “Drink this gruel, eat this rice, eat these snacks.”
Để các thương nhân biết rằng họ đã đến một nơi có người ở, họ chỉ cho thấy những người đang làm nông, chăn nuôi gia súc, chó, v.v., ở khắp nơi. Rồi họ đến gặp các thương nhân và nói: “Hãy uống cháo này, ăn cơm này, ăn đồ ăn vặt này.”
Vāṇijā ajānantā tāhi dinnaṃ paribhuñjanti.
The merchants, not knowing, would consume what was given by them.
Các thương nhân, không biết, đã ăn uống những gì họ đưa.
Atha tesaṃ khāditvā bhuñjitvā pivitvā vissamitakāle paṭisanthāraṃ karonti, ‘‘tumhe kattha vāsikā, kuto āgatā, kahaṃ gacchissatha, kena kammena idhāgatatthā’’ti pucchanti.
Then, after they had eaten, consumed, drunk, and rested, the yakkhiṇīs would greet them and ask, “Where are you from, where have you come from, where are you going, for what purpose have you come here?”
Sau khi các thương nhân đã ăn, uống, nghỉ ngơi, họ hỏi thăm: “Các ông từ đâu đến, đến từ đâu, sẽ đi đâu, đến đây vì công việc gì?”
‘‘Bhinnanāvā hutvā idhāgatamhā’’ti vutte ‘‘sādhu, ayyā, amhākampi sāmikānaṃ nāvaṃ abhiruhitvā gatānaṃ tīṇi saṃvaccharāni atikkantāni, te matā bhavissanti; tumhepi vāṇijāyeva, mayaṃ tumhākaṃ pādaparicārikā bhavissāmā’’ti vatvā te vāṇije itthikuttahāvabhāvavilāsehi palobhetvā yakkhanagaraṃ netvā sace paṭhamagahitā manussā atthi, te devasaṅkhalikāya bandhitvā kāraṇaghare pakkhipanti, attano vasanaṭṭhāne bhinnanāve manusse alabhantiyo pana parato kalyāṇiṃ orato nāgadīpanti evaṃ samuddatīraṃ anusañcaranti.
When told, “We have come here after being shipwrecked,” they would say, “Good, sirs, it has been three years since our husbands went on a ship; they must be dead; you are also merchants, we will be your foot-servants,” and having enticed those merchants with feminine wiles, gestures, and allurements, they would lead them to the yakkha city. If there were previously captured humans, they would bind them with iron chains and throw them into a prison house. If they did not find shipwrecked men in their dwelling place, they would wander along the seashore, to Kalyāṇī further on, and to Nāgadīpa nearer by.
Khi họ nói: “Chúng tôi bị đắm thuyền nên đến đây,” các nữ dạ-xoa liền nói: “Tốt lắm, các ngài! Chủ của chúng tôi cũng đã đi thuyền ba năm rồi, chắc họ đã chết. Các ngài cũng là thương nhân, chúng tôi sẽ làm người hầu hạ các ngài.” Nói xong, họ quyến rũ các thương nhân ấy bằng cử chỉ, điệu bộ, vẻ duyên dáng của phụ nữ, rồi dẫn họ đến thành của dạ-xoa. Nếu có những người bị bắt trước đó, họ sẽ dùng xiềng xích thần thánh trói lại và nhốt vào nhà tù. Nếu không tìm được người bị đắm thuyền ở nơi mình ở, họ sẽ đi dọc bờ biển, từ Kalyāṇī (phía trên) đến Nāgadīpa (phía dưới).
Ayaṃ tāsaṃ dhammatā.
This was their custom.
Đó là tập quán của họ.
732
Athekadivasaṃ pañcasatā bhinnanāvā vāṇijā tāsaṃ nagarasamīpe uttariṃsu.
Then, one day, five hundred shipwrecked merchants landed near their city.
Rồi một ngày nọ, năm trăm thương nhân bị đắm thuyền đã lên bờ gần thành phố của các nữ dạ-xoa.
Tā tesaṃ santikaṃ gantvā palobhetvā yakkhanagaraṃ netvā paṭhamaṃ gahite manusse devasaṅkhalikāya bandhitvā kāraṇaghare pakkhipitvā jeṭṭhayakkhinī jeṭṭhakavāṇijaṃ, sesā seseti tā pañcasatā yakkhiniyo te pañcasate vāṇije attano sāmike akaṃsu.
They went to them, enticed them, led them to the city of yakkhas, bound the previously captured humans with divine chains, and cast them into the prison house. The chief yakkhaṇī took the chief merchant, and the rest of the five hundred yakkhaṇīs took the five hundred merchants as their husbands.
Các nữ dạ-xoa đến chỗ họ, quyến rũ họ, dẫn họ về thành của dạ-xoa, rồi trói những người bị bắt trước đó bằng xiềng xích thần thánh và nhốt vào nhà tù. Nữ dạ-xoa trưởng lấy thương nhân trưởng, những người còn lại cũng làm như vậy, và năm trăm nữ dạ-xoa ấy đã biến năm trăm thương nhân thành chồng của mình.
Atha sā jeṭṭhayakkhinī rattibhāge vāṇije niddaṃ upagate uṭṭhāya gantvā kāraṇaghare manusse māretvā maṃsaṃ khāditvā āgacchati, sesāpi tatheva karonti.
Then, at night, when the merchants had fallen asleep, the chief yakkhaṇī arose, went, killed the humans in the prison house, ate their flesh, and returned. The others also did likewise.
Rồi nữ dạ-xoa trưởng, vào ban đêm, khi các thương nhân đã ngủ say, liền thức dậy, đi đến nhà tù, giết người và ăn thịt, rồi trở về. Những người còn lại cũng làm như vậy.
Jeṭṭhayakkhiniyā manussamaṃsaṃ khāditvā āgatakāle sarīraṃ sītalaṃ hoti.
When the chief yakkhaṇī returned after eating human flesh, her body was cold.
Khi nữ dạ-xoa trưởng trở về sau khi ăn thịt người, thân thể nàng lạnh lẽo.
Jeṭṭhavāṇijo pariggaṇhanto tassā yakkhinibhāvaṃ ñatvā ‘‘imā pañcasatā yakkhiniyo bhavissanti, amhehi palāyituṃ vaṭṭatī’’ti punadivase pātova mukhadhovanatthāya gantvā sesavāṇijānaṃ ārocesi – ‘‘imā yakkhiniyo, na manussitthiyo, aññesaṃ bhinnanāvānaṃ āgatakāle te sāmike katvā amhepi khādissanti, etha ito palāyissāmā’’ti tesu pañcasatesu aḍḍhateyyasatā ‘‘na mayaṃ etā vijahituṃ sakkhissāma, tumhe gacchatha, mayaṃ na palāyissāmā’’ti āhaṃsu.
The chief merchant, noticing this, understood her to be a yakkhaṇī and thought, "These five hundred must be yakkhaṇīs; we must escape." The next day, early in the morning, he went to wash his face and informed the other merchants: "These are yakkhaṇīs, not human women. When other shipwrecked people arrive, they will take them as husbands and eat us too. Come, let us escape from here." Among those five hundred, two hundred and fifty said, "We cannot abandon them; you go, we will not escape."
Thương nhân trưởng sờ thấy, liền biết nàng là dạ-xoa và nghĩ: “Năm trăm người này chắc chắn là dạ-xoa. Chúng ta phải trốn thoát khỏi đây.” Sáng hôm sau, ông thức dậy sớm để rửa mặt và báo cho các thương nhân còn lại biết: “Những người này là dạ-xoa, không phải phụ nữ loài người. Khi có những người bị đắm thuyền khác đến, họ sẽ biến những người đó thành chồng và ăn thịt chúng ta. Hãy đến đây, chúng ta sẽ trốn thoát khỏi đây.” Trong số năm trăm người đó, hai trăm năm mươi người nói: “Chúng tôi không thể rời bỏ họ được, các ngài cứ đi đi, chúng tôi sẽ không trốn thoát.”
Jeṭṭhavāṇijo attano vacanakāre aḍḍhateyyasate gahetvā tāsaṃ bhīto palāyi.
The chief merchant, taking the two hundred and fifty who heeded his words, fled in fear of them.
Thương nhân trưởng, sợ hãi các nữ dạ-xoa, dẫn hai trăm năm mươi người nghe lời mình và trốn thoát.
733
Tasmiṃ pana kāle bodhisatto valāhakassayoniyaṃ nibbatti, sabbaseto kāḷasīso muñjakeso iddhimā vehāsaṅgamo ahosi.
At that time, the Bodhisatta was born as a cloud-horse (valāhaka-assa), entirely white, with a black head and muñja-grass-like mane, endowed with psychic power, and able to travel through the air.
Vào thời điểm đó, Bồ-tát tái sinh làm một vị vua ngựa gió (valāhaka-assa-rāja), toàn thân trắng muốt, đầu đen, bờm như cỏ muñja, có thần thông và có thể bay trên không.
So himavantato ākāse uppatitvā tambapaṇṇidīpaṃ gantvā tattha tambapaṇṇisare pallale sayaṃjātasāliṃ khāditvā gacchati.
He would fly from the Himalayas to Tambapaṇṇidīpa, and there, at the Tambapaṇṇi lake, he would eat naturally grown rice and then depart.
Ngài bay từ dãy Hy-mã-lạp-sơn trên không trung, đến đảo Tambapaṇṇī, rồi ăn gạo tự nhiên mọc trong hồ Tambapaṇṇī ở đó và bay đi.
Evaṃ gacchanto ca ‘‘janapadaṃ gantukāmā atthī’’ti tikkhattuṃ karuṇāparibhāvitaṃ mānusiṃ vācaṃ bhāsati.
As he went, he would utter a human voice, filled with compassion, three times, asking, "Are there any who wish to go to the mainland?"
Khi bay đi như vậy, ngài cất tiếng người được thấm nhuần lòng bi mẫn ba lần: “Có ai muốn về đất liền không?”
Te bodhisattassa vacanaṃ sutvā upasaṅkamitvā añjaliṃ paggayha ‘‘sāmi, mayaṃ janapadaṃ gamissāmā’’ti āhaṃsu.
Hearing the Bodhisatta's words, they approached him, raised their hands in respectful salutation, and said, "Lord, we wish to go to the mainland."
Nghe lời Bồ-tát, họ đến gần, chắp tay và nói: “Bạch Đức Chúa, chúng tôi muốn về đất liền.”
Tena hi mayhaṃ piṭṭhiṃ abhiruhathāti.
"Then climb onto my back," he said.
Vậy thì hãy lên lưng ta.
Appekacce abhiruhiṃsu, tesu ekacce vāladhiṃ gaṇhiṃsu, ekacce añjaliṃ paggahetvā aṭṭhaṃsuyeva.
Some climbed onto his back, some held his tail, and some stood with their hands clasped in respectful salutation.
Một số người trèo lên, một số người nắm đuôi, một số người chỉ chắp tay đứng đó.
Bodhisatto antamaso añjaliṃ paggahetvā ṭhite sabbepi te aḍḍhateyyasate vāṇije attano ānubhāvena janapadaṃ netvā sakasakaṭṭhānesu patiṭṭhapetvā attano vasanaṭṭhānaṃ āgamāsi.
The Bodhisatta, by his power, carried all those two hundred and fifty merchants, even those who merely stood with hands clasped in respectful salutation, to the mainland, established them in their respective places, and returned to his dwelling place.
Bồ-tát, bằng thần thông của mình, đã đưa tất cả hai trăm năm mươi thương nhân ấy, kể cả những người chỉ chắp tay đứng đó, về đất liền, đưa họ về nơi chốn của mình, rồi ngài trở về nơi mình ở.
Tāpi kho yakkhiniyo aññesaṃ āgatakāle tattha ohīnake aḍḍhateyyasate manusse vadhitvā khādiṃsu.
The yakkhaṇīs, when others arrived, killed and ate the two hundred and fifty humans who had remained there.
Còn các nữ dạ-xoa kia, khi những người khác đến, đã giết và ăn thịt hai trăm năm mươi người còn lại ở đó.
734
Satthā bhikkhū āmantetvā ‘‘bhikkhave, yathā te yakkhinīnaṃ vasaṃ gatā vāṇijā jīvitakkhayaṃ pattā, valāhakassarājassa vacanakarā vāṇijā sakasakaṭṭhānesu patiṭṭhitā, evameva buddhānaṃ ovādaṃ akarontā bhikkhūpi bhikkhuniyopi upāsakāpi upāsikāyopi catūsu apāyesu pañcavidhabandhanakammakaraṇaṭṭhānādīsu mahādukkhaṃ pāpuṇanti.
The Teacher, addressing the bhikkhus, said: "Bhikkhus, just as those merchants who fell into the power of the yakkhaṇīs met with destruction of life, while those merchants who heeded the words of the Valāhaka horse-king were established in their respective places, even so, bhikkhus, bhikkhunīs, male lay followers, and female lay followers who do not heed the advice of the Buddhas will experience great suffering in the four lower realms, in places of fivefold bondage and torture, and so on.
Đức Bổn Sư gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, giống như các thương nhân vâng lời vua ngựa gió đã trở về nơi chốn của mình, còn các thương nhân rơi vào tay dạ-xoa thì mất mạng, cũng vậy, các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ không vâng lời các Đức Phật sẽ phải chịu khổ đau lớn trong bốn đường ác, nơi bị trói buộc bằng năm loại xiềng xích và các hình phạt khác.
Ovādakarā pana tisso kulasampattiyo ca cha kāmasagge vīsati brahmaloketi imāni ca ṭhānāni patvā amatamahānibbānaṃ sacchikatvā mahantaṃ sukhaṃ anubhavantī’’ti vatvā abhisambuddho hutvā imā gāthā avoca –
However, those who heed the advice will attain the three kinds of family prosperity, the six heavenly realms of sensual pleasure, and the twenty Brahma realms, and realizing the great Nibbāna, will experience great bliss," and having become fully enlightened, he spoke these verses:
Còn những người vâng lời thì sẽ đạt được ba sự thành tựu về gia đình, sáu cõi trời dục giới, hai mươi cõi Phạm thiên, và sau khi chứng ngộ Niết-bàn bất tử vĩ đại, họ sẽ hưởng thụ hạnh phúc lớn lao.” Nói xong, Đức Phật toàn giác đã thuyết những bài kệ này:
735
91.
91.
91.
736
‘‘Ye na kāhanti ovādaṃ, narā buddhena desitaṃ;
"Those men who will not heed the advice taught by the Buddha
“Những người không vâng lời, được Phật thuyết giảng;
737
Byasanaṃ te gamissanti, rakkhasīhiva vāṇijā.
will fall into misfortune, like the merchants with the yakkhaṇīs.
Họ sẽ gặp tai họa, như thương nhân bị dạ-xoa.”
738
92.
92.
92.
739
‘‘Ye ca kāhanti ovādaṃ, narā buddhena desitaṃ;
But those men who will heed the advice taught by the Buddha
“Còn những người vâng lời, được Phật thuyết giảng;
740
Sotthiṃ pāraṃ gamissanti, valāheneva vāṇijā’’ti.
will reach the safe shore, like the merchants with the cloud-horse."
Họ sẽ an toàn đến bờ bên kia, như thương nhân nhờ ngựa gió.”
741
Tattha ye na kāhantīti ye na karissanti.
Therein, ye na kāhanti means "who will not do."
Ở đây, ye na kāhanti có nghĩa là những người không làm.
Byasanaṃ te gamissantīti te mahāvināsaṃ pāpuṇissanti.
Byasanaṃ te gamissanti means "they will fall into great ruin."
Byasanaṃ te gamissanti có nghĩa là họ sẽ gặp sự hủy diệt lớn.
Rakkhasīhiva vāṇijāti rakkhasīhi palobhitavāṇijā viya.
Rakkhasīhiva vāṇijā means "like the merchants enticed by the yakkhaṇīs."
Rakkhasīhiva vāṇijā có nghĩa là như các thương nhân bị dạ-xoa quyến rũ.
Sotthiṃ pāraṃ gamissantīti anantarāyena nibbānaṃ pāpuṇissanti.
Sotthiṃ pāraṃ gamissanti means "they will attain Nibbāna without hindrance."
Sotthiṃ pāraṃ gamissanti có nghĩa là sẽ đạt đến Niết-bàn một cách an toàn.
Valāheneva vāṇijāti valāheneva ‘‘āgacchathā’’ti vuttā tassa vacanakarā vāṇijā viya.
Valāheneva vāṇijā means "like the merchants who heeded the Valāhaka when he said, 'Come!'"
Valāheneva vāṇijā có nghĩa là như các thương nhân vâng lời ngựa gió khi được nói “Hãy đến đây.”
Yathā hi te samuddapāraṃ gantvā sakasakaṭṭhānaṃ agamaṃsu, evaṃ buddhānaṃ ovādakarā saṃsārapāraṃ nibbānaṃ gacchantīti amatamahānibbānena dhammadesanāya kūṭaṃ gaṇhi.
Just as they went to the other side of the ocean and returned to their respective places, so too do those who follow the Buddhas' advice go to Nibbāna, the other shore of saṃsāra. Thus, he concluded the discourse with the deathless great Nibbāna.
Giống như họ đã đến bờ bên kia của biển và trở về nơi chốn của mình, những người vâng lời các Đức Phật cũng sẽ đến bờ bên kia của luân hồi, tức là Niết-bàn. Như vậy, bài pháp đã kết thúc bằng Niết-bàn bất tử vĩ đại.
742
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi, aññepi bahū sotāpattiphalasakadāgāmiphalaanāgāmiphalaarahattaphalāni pāpuṇiṃsu.
The Teacher, having delivered this discourse and revealed the Truths, identified the Jātaka: at the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry, and many others attained the fruits of stream-entry, once-returning, non-returning, and Arahantship.
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này, công bố các Chân lý và kết nối câu chuyện Jātaka – khi các Chân lý được hoàn tất, vị Tỳ-khưu chán nản đã an trú vào quả Dự lưu, và nhiều người khác cũng đã đạt được quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn và quả A-la-hán.
‘‘Tadā valāhakassarājassa vacanakarā aḍḍhateyyasatā vāṇijā buddhaparisā ahesuṃ, valāhakassarājā pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the two hundred and fifty merchants who followed the word of the Valāhaka Naga king were the Buddha's assembly, and the Valāhaka Naga king was myself."
“Khi đó, hai trăm năm mươi thương nhân vâng lời vua ngựa gió là hội chúng của Đức Phật, còn vua ngựa gió chính là ta vậy.”
743
Valāhakassajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth, the Valāhaka Jātaka, is concluded.
Câu chuyện về Jātaka Valāhaka-assa thứ sáu.
744
* 7. Mittāmittajātakavaṇṇanā
* 7. Mittāmitta Jātaka Commentary
* 7. Câu chuyện về Jātaka Mittāmitta
745
Na naṃ umhayate disvāti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
"Seeing him, he does not smile" – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning a certain bhikkhu.
Na naṃ umhayate disvā – câu này được Đức Bổn Sư thuyết tại Tịnh xá Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ-khưu nọ.
Aññataro bhikkhu ‘‘mayā gahite mayhaṃ upajjhāyo na kujjhissatī’’ti upajjhāyena ṭhapitaṃ vissāsena ekaṃ vatthakhaṇḍaṃ gahetvā upāhanatthavikaṃ katvā pacchā upajjhāyaṃ āpucchi.
A certain bhikkhu, thinking "My preceptor will not be angry if I take it," took a piece of cloth that his preceptor had set aside, out of familiarity, made it into a sandal-bag, and only afterwards asked his preceptor.
Một vị Tỳ-khưu nọ đã lấy một mảnh vải mà vị Upajjhāya (Thầy tế độ) của mình đã cất giữ với sự tin tưởng, nghĩ rằng “Thầy tế độ của mình sẽ không giận nếu mình lấy,” rồi làm một túi đựng dép, sau đó mới hỏi ý kiến vị Upajjhāya.
Atha taṃ upajjhāyo ‘‘kiṃkāraṇā gaṇhī’’ti vatvā ‘‘mayā gahite na kujjhissatīti tumhākaṃ vissāsenā’’ti vutte ‘‘ko mayā saddhiṃ tuyhaṃ vissāso nāmā’’ti vatvā kuddho uṭṭhahitvā pahari.
Then the preceptor asked him, "For what reason did you take it?" And when the bhikkhu replied, "Out of familiarity with you, thinking you would not be angry if I took it," the preceptor, saying "What familiarity is there between me and you?", became angry, stood up, and struck him.
Vị Upajjhāya hỏi: “Vì lý do gì mà con lấy?” Khi được trả lời: “Vì con nghĩ rằng Thầy sẽ không giận khi con lấy, do sự tin tưởng của con,” vị Upajjhāya liền nói: “Ta với con có sự tin tưởng gì mà con lại nói vậy?” Rồi giận dữ đứng dậy đánh vị Tỳ-khưu đó.
Tassa sā kiriyā bhikkhūsu pākaṭā jātā.
This action of his became known among the bhikkhus.
Hành động đó của ông đã trở nên công khai trong chúng Tỳ-khưu.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko kira daharo upajjhāyassa vissāsena vatthakhaṇḍaṃ gahetvā upāhanatthavikaṃ akāsi.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, it seems that such-and-such a young bhikkhu, out of familiarity with his preceptor, took a piece of cloth and made a sandal-bag.
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-khưu đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Này các huynh đệ, nghe nói vị Tỳ-khưu trẻ kia đã lấy một mảnh vải của vị Upajjhāya với sự tin tưởng và làm một túi đựng dép.
Atha naṃ upajjhāyo ‘ko mayā saddhiṃ tuyhaṃ vissāso nāmā’ti vatvā kuddho uṭṭhahitvā paharī’’ti.
Then his preceptor, saying 'What familiarity is there between me and you?', became angry, stood up, and struck him."
Rồi vị Upajjhāya đã nói với ông ta: ‘Ta với con có sự tin tưởng gì mà con lại nói vậy?’ Rồi giận dữ đứng dậy đánh ông ta.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idānevesa bhikkhu attano saddhivihārikena saddhiṃ avissāsiko, pubbepi avissāsikoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic, bhikkhus, are you now gathered?" When they replied, "On this topic," he said, "Bhikkhus, this bhikkhu is not distrustful of his co-resident only now; he was distrustful in the past as well," and then he related a past event.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các con đang tụ họp để nói chuyện gì?” Khi được trả lời: “Chuyện này,” Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu này không chỉ bây giờ mới không tin tưởng đệ tử của mình, mà trước đây cũng vậy.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
746
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā gaṇasatthā hutvā himavantapadese vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī kingdom. Having come of age, he entered the ascetic life, developed supernormal powers and attainments, and became a teacher of a group, dwelling in the Himalayan region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī. Khi trưởng thành, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ, phát triển các thần thông và thiền định, trở thành bậc đạo sư của một nhóm ẩn sĩ và sống ở vùng Hy-mã-lạp-sơn.
Tasmiṃ isigaṇe eko tāpaso bodhisattassa vacanaṃ akatvā ekaṃ matamātikaṃ hatthipotakaṃ paṭijaggi.
Among that group of ascetics, one ascetic, disregarding the Bodhisatta's words, cared for a baby elephant whose mother had died.
Trong nhóm ẩn sĩ đó, có một vị ẩn sĩ không nghe lời Bồ-tát mà chăm sóc một con voi con mồ côi mẹ.
Atha naṃ so vuddhippatto māretvā araññaṃ pāvisi.
Then, when it grew up, it killed him and entered the forest.
Rồi khi con voi đó trưởng thành, nó đã giết vị ẩn sĩ ấy và bỏ vào rừng.
Tassa sarīrakiccaṃ katvā isigaṇo bodhisattaṃ parivāretvā – ‘‘bhante, kena nu ko kāraṇena mittabhāvo vā amittabhāvo vā sakkā jānitu’’nti pucchi.
After performing his funeral rites, the group of ascetics gathered around the Bodhisatta and asked, "Venerable sir, by what means can one know whether someone is a friend or an enemy?"
Sau khi làm lễ tang cho vị ẩn sĩ, nhóm ẩn sĩ vây quanh Bồ-tát và hỏi: “Bạch Đức Chúa, vì lý do gì mà có thể biết được tình bạn hay tình thù?”
Bodhisatto ‘‘iminā ca iminā ca kāraṇenā’’ti ācikkhanto imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, explaining "By these and these reasons," spoke these verses:
Bồ-tát đã giải thích: “Vì lý do này và lý do này,” rồi thuyết những bài kệ sau:
747
93.
93.
93.
748
‘‘Na naṃ umhayate disvā, na ca naṃ paṭinandati;
"Seeing him, he does not smile, nor does he welcome him;
“Thấy người, chẳng mỉm cười, chẳng hoan hỷ;
749
Cakkhūni cassa na dadāti, paṭilomañca vattati.
He does not meet his gaze, and acts in opposition.
Chẳng nhìn thẳng vào mắt, lại còn đối nghịch.
750
94.
94.
94.
751
‘‘Ete bhavanti ākārā, amittasmiṃ patiṭṭhitā;
These are the signs, established in an enemy;
“Đó là những dấu hiệu, của kẻ thù;
752
Yehi amittaṃ jāneyya, disvā sutvā ca paṇḍito’’ti.
By which a wise person may know an enemy, having seen and heard."
Người trí thấy, nghe, sẽ nhận ra kẻ thù.”
753
Tattha na naṃ umhayate disvāti yo hi yassa amitto hoti, so taṃ puggalaṃ disvā na umhayate, hasitaṃ na karoti, pahaṭṭhākāraṃ na dasseti.
Therein, seeing him, he does not smile means: whoever is an enemy to someone, seeing that person, does not smile, does not show a joyful expression, does not show a pleased demeanor.
Ở đây, na naṃ umhayate disvā có nghĩa là: Bất cứ ai là kẻ thù của người nào, khi thấy người đó, sẽ không mỉm cười, không tỏ vẻ vui mừng.
Na ca naṃ paṭinandatīti tassa vacanaṃ sutvāpi taṃ puggalaṃ na paṭinandati, sādhu subhāsitanti na cānumodati.
Nor does he welcome him means: even hearing his words, he does not welcome that person, does not approve, saying "well said, excellent."
Na ca naṃ paṭinandati có nghĩa là: Ngay cả khi nghe lời nói của người đó, cũng không hoan hỷ, không tán thán rằng “Tốt lắm, lời nói hay.”
Cakkhūni cassa na dadātīti cakkhunā cakkhuṃ āhacca paṭimukho hutvā na oloketi, aññato cakkhūni harati.
He does not meet his gaze means: he does not look at him face-to-face, eye to eye; he turns his eyes away.
Cakkhūni cassa na dadātī có nghĩa là không nhìn thẳng vào mắt người đó, mà quay mắt đi chỗ khác.
Paṭilomañca vattatīti tassa kāyakammampi vacīkammampi na roceti, paṭilomagāhaṃ gaṇhāti paccanīkagāhaṃ.
And acts in opposition means: he does not approve of his bodily actions or verbal actions; he takes an opposing stance, a hostile stance.
Paṭilomañca vattatī có nghĩa là không hài lòng với hành động thân và khẩu của người đó, giữ thái độ phản đối, thái độ chống đối.
Ākārāti kāraṇāni.
Signs means: reasons.
Ākārā có nghĩa là những lý do.
Yehi amittanti yehi kāraṇehi tāni kāraṇāni disvā sutvā ca paṇḍito puggalo ‘‘ayaṃ me amitto’’ti jāneyya, tato viparītehi pana mittabhāvo jānitabboti.
By which an enemy means: by which reasons, having seen and heard those reasons, a wise person may know, "This is my enemy." And by the opposite of these, friendship should be known.
Yehi amittanti có nghĩa là: nhờ những lý do nào, khi thấy và nghe những lý do đó, người trí tuệ sẽ biết “người này là kẻ thù của tôi,” và ngược lại, nhờ những lý do trái ngược mà biết được tình bạn.
754
Evaṃ bodhisatto mittāmittabhāvakāraṇāni ācikkhitvā brahmavihāre bhāvetvā brahmalokūpago ahosi.
Thus the Bodhisatta, having explained the reasons for being friends and non-friends, and having developed the Brahma-vihāras, attained the Brahma world.
Bồ-tát, sau khi giảng giải về các nguyên nhân của tình bạn và tình thù, đã tu tập các Phạm trú (brahmavihāra) và tái sinh vào cõi Phạm thiên (brahmaloka).
755
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā hatthiposakatāpaso saddhivihāriko ahosi, hatthī upajjhāyo, isigaṇo buddhaparisā, gaṇasatthā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the ascetic who nourished the elephant was the pupil, the elephant was the preceptor, the company of ascetics was the Buddha's assembly, and the teacher of the company was I myself."
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này, rồi kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, vị ẩn sĩ nuôi voi chính là Tỳ-kheo đồng phạm hạnh, con voi là vị Upajjhāya (Hòa thượng), nhóm ẩn sĩ là hội chúng của Đức Phật, còn vị Đạo sư của nhóm ấy chính là Ta vậy.”
756
Mittāmittajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh Story: Mittāmitta Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Tình Bạn Và Tình Thù, thứ bảy.
757
* 8. Rādhajātakavaṇṇanā
* 8. The Story of the Rādhā Jātaka
* 8. Chuyện Tiền Thân Rādhā
758
Pavāsā āgato tātāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
" Pavāsā āgato tātā" – this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain discontented bhikkhu.
“Này con, cha từ nơi xa trở về” (Pavāsā āgato tātā) — câu này được Bậc Đạo Sư thuyết tại Tịnh xá Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ-kheo chán nản.
So kira satthārā ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhito’’ti puṭṭho ‘‘saccaṃ, bhante’’ti vatvā ‘‘kiṃkāraṇā’’ti vutte ‘‘ekaṃ alaṅkataitthiṃ disvā kilesavasenā’’ti āha.
When asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he replied, "It is true, venerable sir," and when asked "For what reason?" he said, "Having seen a certain adorned woman, due to defilement."
Nghe Bậc Đạo Sư hỏi: “Này Tỳ-kheo, có thật là ông chán nản không?”, vị ấy đáp: “Bạch Thế Tôn, thật vậy.” Khi được hỏi: “Do nguyên nhân gì?”, vị ấy thưa: “Do thấy một người phụ nữ trang điểm lộng lẫy, con bị phiền não chi phối.”
Atha naṃ satthā ‘‘mātugāmo nāma bhikkhu na sakkā rakkhituṃ, pubbepi dovārike ṭhapetvā rakkhantāpi rakkhituṃ na sakkhiṃsu, kiṃ te itthiyā, laddhāpi sā rakkhituṃ na sakkā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, women cannot be guarded; even in the past, those who guarded them by placing doorkeepers could not guard them. What is a woman to you? Even if obtained, she cannot be guarded," and he related a past event.
Bậc Đạo Sư liền nói với vị ấy: “Này Tỳ-kheo, người nữ thì không thể bảo vệ được. Ngay cả trong quá khứ, những người bảo vệ họ bằng cách đặt lính gác cũng không thể giữ được. Người nữ có ích gì cho ông? Dù có được rồi cũng không thể bảo vệ được.” Sau đó, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
759
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto suvayoniyaṃ nibbatti, ‘‘rādho’’tissa nāmaṃ, kaniṭṭhabhātā panassa poṭṭhapādo nāma.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into the parrot species; his name was Rādha, and his younger brother was named Poṭṭhapāda.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào loài vẹt, tên là Rādhā, còn em trai của ngài tên là Poṭṭhapāda.
Te ubhopi taruṇakāleyeva eko luddako gahetvā bārāṇasiyaṃ aññatarassa brāhmaṇassa adāsi, brāhmaṇo te puttaṭṭhāne ṭhapetvā paṭijaggi.
Both of them, while still young, were caught by a hunter and given to a certain brahmin in Bārāṇasī; the brahmin cherished them as his own sons.
Khi cả hai còn non trẻ, một người thợ săn đã bắt chúng và dâng cho một Bà-la-môn ở Bārāṇasī. Vị Bà-la-môn nuôi dưỡng chúng như con trai.
Brāhmaṇassa pana brāhmaṇī arakkhitā dussīlā.
But the brahmin's wife was unguarded and immoral.
Nhưng Bà-la-môn ni của vị Bà-la-môn ấy thì không giữ gìn giới hạnh, và có hành vi xấu.
So vohārakaraṇatthāya gacchanto te suvapotake āmantetvā ‘‘tātā, ahaṃ vohārakaraṇatthāya gacchāmi, kāle vā vikāle vā tumhākaṃ mātu karaṇakammaṃ olokeyyātha, aññassa purisassa gamanabhāvaṃ vā agamanabhāvaṃ vā jāneyyāthā’’ti brāhmaṇiṃ suvapotakānaṃ paṭicchāpetvā agamāsi.
So, when the brahmin went out for business, he called those parrot chicks and said, "My dear ones, I am going out for business. At the proper time or improper time, observe what your mother does, and know whether another man comes or not," and entrusting his brahmin wife to the parrot chicks, he departed.
Khi vị Bà-la-môn đi làm ăn, ông gọi hai chú vẹt con lại và nói: “Này các con, cha đi làm ăn đây. Dù sớm hay muộn, các con hãy để mắt đến hành vi của mẹ các con, và hãy biết liệu có người đàn ông nào đến hay không đến.” Sau khi giao phó Bà-la-môn ni cho hai chú vẹt con, ông ra đi.
Sā tassa nikkhantakālato paṭṭhāya anācāraṃ cari, rattimpi divāpi āgacchantānañca gacchantānañca pamāṇaṃ natthi.
From the time of his departure, she behaved improperly; there was no limit to those who came and went, day and night.
Từ khi ông đi, Bà-la-môn ni đã có hành vi bất chính, số lượng người đến và đi cả ngày lẫn đêm là vô số.
760
Taṃ disvā poṭṭhapādo rādhaṃ pucchi – ‘‘brāhmaṇo imaṃ brāhmaṇiṃ amhākaṃ niyyādetvā gato, ayañca pāpakammaṃ karoti, vadāmi na’’nti.
Seeing this, Poṭṭhapāda asked Rādha, "The brahmin entrusted this brahmin woman to us and left, and she is committing evil deeds. Shall I tell him?"
Thấy vậy, Poṭṭhapāda hỏi Rādhā: “Vị Bà-la-môn đã giao phó Bà-la-môn ni này cho chúng ta, mà bà ấy lại làm điều ác. Tôi có nên nói với bà ấy không?”
Rādho ‘‘mā vadāhī’’ti āha.
Rādha said, "Do not tell him."
Rādhā nói: “Đừng nói.”
So tassa vacanaṃ aggahetvā ‘‘amma, kiṃkāraṇā pāpakammaṃ karosī’’ti āha.
He did not heed his words and said, "Mother, why are you committing evil deeds?"
Nhưng Poṭṭhapāda không nghe lời anh, liền nói: “Thưa mẹ, vì sao mẹ lại làm điều ác?”
Sā taṃ māretukāmā hutvā ‘‘tāta, tvaṃ nāma mayhaṃ putto, ito paṭṭhāya na karissāmi, ehi, tāta, tāvā’’ti piyāyamānā viya pakkositvā āgataṃ gahetvā ‘‘tvaṃ maṃ ovadasi, attano pamāṇaṃ na jānāsī’’ti gīvaṃ parivattetvā māretvā uddhanantaresu pakkhipi.
Wishing to kill him, she called him as if affectionately, saying, "My dear, you are my son. From now on, I will not do it. Come, my dear, for now." When he came, she seized him and said, "You advise me, you do not know your own measure!" She twisted his neck, killed him, and threw him into the ashes of the oven.
Bà ấy muốn giết chú vẹt, liền nói: “Này con, con là con của mẹ. Từ nay mẹ sẽ không làm vậy nữa. Lại đây con yêu.” Bà ấy giả vờ yêu thương gọi chú vẹt đến, rồi khi chú vẹt đến, bà ấy túm lấy nó và nói: “Ngươi dám khuyên răn ta, ngươi không biết thân phận của mình sao?” Bà ấy vặn cổ chú vẹt, giết chết rồi ném vào trong lò.
Brāhmaṇo āgantvā vissamitvā bodhisattaṃ ‘‘kiṃ, tāta rādha, mātā te anācāraṃ karoti, na karotī’’ti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
When the brahmin returned and rested, he asked the Bodhisatta, "My dear Rādha, does your mother behave improperly, or not?" and spoke the first verse:
Khi vị Bà-la-môn trở về và nghỉ ngơi, ông hỏi Bồ-tát: “Này con Rādhā, mẹ con có hành vi bất chính không, hay không?” Ông nói câu kệ đầu tiên:
761
95.
95.
95.
762
‘‘Pavāsā āgato tāta, idāni nacirāgato;
"Having returned from a journey, my dear, I have just arrived;
“Này con, cha từ nơi xa trở về, vừa mới trở về đây;
763
Kaccinnu tāta te mātā, na aññamupasevatī’’ti.
I hope, my dear, your mother does not associate with another man?"
Này con, mẹ con có phải là không giao du với người khác không?”
764
Tassattho – ahaṃ, tāta rādha, pavāsā āgato, so camhi idāneva āgato nacirāgato, tena pavattiṃ ajānanto taṃ pucchāmi – ‘‘kacci nu te, tāta, mātā aññaṃ purisaṃ na upasevatī’’ti.
Its meaning is: "My dear Rādha, I have returned from a journey, and I have just arrived. Therefore, not knowing the news, I ask you: 'I hope, my dear, your mother does not associate with another man?'"
Ý nghĩa của câu kệ là: “Này con Rādhā, cha từ nơi xa trở về, cha vừa mới đến đây, chưa lâu. Vì thế, cha không biết chuyện gì đã xảy ra, nên cha hỏi con: ‘Này con, mẹ con có phải là không giao du với người đàn ông nào khác không?’”
765
Rādho ‘‘tāta, paṇḍitā nāma bhūtaṃ vā abhūtaṃ vā aniyyānikaṃ nāma na kathesu’’nti ñāpento dutiyaṃ gāthamāha –
Rādha, making him understand, "My dear, the wise do not speak of what is unbeneficial, whether it is true or false," spoke the second verse:
Rādhā, để cho vị Bà-la-môn biết rằng “người hiền trí không nên nói những lời không có lợi, dù là thật hay không thật”, đã nói câu kệ thứ hai:
766
96.
96.
96.
767
‘‘Na kho panetaṃ subhaṇaṃ, giraṃ saccupasaṃhitaṃ;
"Indeed, it is not good speech, words containing truth;
“Lời nói chân thật ấy không phải là lời nói tốt đẹp,
768
Sayetha poṭṭhapādova, mummure upakūthito’’ti.
One might lie like Poṭṭhapāda, burnt in the ashes."
Kẻ nào nói ra sẽ nằm như Poṭṭhapāda, bị thiêu cháy trong lò tro.”
769
Tattha giranti vacanaṃ.
There, gira means speech.
Ở đây, gira có nghĩa là lời nói.
Tañhi yathā idāni girā, evaṃ tadā ‘‘gira’’nti vuccati, so suvapotako liṅgaṃ anādiyitvā evamāha.
Just as it is now girā, so it was then called gira; that parrot chick spoke thus, disregarding gender.
Chữ “gira” vào thời đó được dùng như “girā” bây giờ, chú vẹt con ấy đã nói như vậy mà không quan tâm đến giống (ngữ pháp).
Ayaṃ panettha attho – tāta, paṇḍitena nāma saccupasaṃhitaṃ yathābhūtaṃ atthayuttaṃ sabhāvavacanampi aniyyānikaṃ na subhaṇaṃ.
The meaning here is: "My dear, for a wise person, even a truthful, factual, and meaningful statement is not good speech if it is unbeneficial.
Ý nghĩa ở đây là: “Này cha, người hiền trí không nên nói những lời chân thật, đúng như sự thật, có ý nghĩa nhưng không có lợi, đó không phải là lời nói tốt đẹp.”
Aniyyānikañca saccaṃ bhaṇanto sayetha poṭṭhapādova, mummure upakūthito, yathā poṭṭhapādo kukkuḷe jhāmo sayati, evaṃ sayeyyāti.
And one who speaks an unbeneficial truth might lie like Poṭṭhapāda, burnt in the ashes, just as Poṭṭhapāda lies burnt in the hot ashes."
“Và kẻ nào nói ra sự thật không có lợi thì sẽ nằm như Poṭṭhapāda, bị thiêu cháy trong lò tro, tức là sẽ nằm như Poṭṭhapāda bị thiêu cháy trong đống tro nóng.”
‘‘Upakūdhito’’tipi pāṭho, ayamevattho.
"Upakūdhito" is also a reading; the meaning is the same.
Cũng có bản đọc là “Upakūdhito”, ý nghĩa vẫn như vậy.
770
Evaṃ bodhisatto brāhmaṇassa dhammaṃ desetvā ‘‘mayāpi imasmiṃ ṭhāne vasituṃ na sakkā’’ti brāhmaṇaṃ āpucchitvā araññameva pāvisi.
Thus the Bodhisatta, having taught the Dhamma to the brahmin, and having asked the brahmin's leave, saying, "It is not possible for me to dwell in this place," entered the forest.
Như vậy, Bồ-tát đã thuyết pháp cho vị Bà-la-môn, rồi nói: “Tôi cũng không thể ở lại nơi này được nữa.” Ngài từ biệt vị Bà-la-môn và đi vào rừng.
771
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, having proclaimed the Truths, concluded the Jātaka; at the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này, tuyên bố các sự thật, rồi kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi các sự thật được tuyên bố, vị Tỳ-kheo chán nản đã an trú vào quả vị Dự lưu (sotāpatti).
‘‘Tadā poṭṭhapādo ānando ahosi, rādho pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, Poṭṭhapāda was Ānanda; but Rādha was I myself."
“Khi ấy, Poṭṭhapāda chính là Ānanda, còn Rādhā chính là Ta vậy.”
772
Rādhajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth, the Story of the Rādha Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Rādhā, thứ tám.
773
* 9. Gahapatijātakavaṇṇanā
* 9. The Story of the Gahapati Jātaka
* 9. Chuyện Tiền Thân Gia Chủ
774
Ubhayaṃ me na khamatīti idaṃ satthā jetavane viharanto ukkaṇṭhitameva bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
"Neither of these pleases me" – this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning that same discontented bhikkhu.
“Cả hai điều đó đều không hợp với tôi” (Ubhayaṃ me na khamatī) — câu này được Bậc Đạo Sư thuyết tại Tịnh xá Jetavana, liên quan đến chính vị Tỳ-kheo chán nản ấy.
Kathento ca ‘‘mātugāmo nāma arakkhito, pāpakammaṃ katvā yena kenaci upāyena sāmikaṃ vañcetiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
And speaking, he said, "A woman, being unguarded, having done evil deeds, always deceives her husband by some means or another," and then recounted a past event.
Khi thuyết pháp, Ngài nói: “Người nữ thì không được bảo vệ. Sau khi làm điều ác, họ sẽ lừa dối chồng bằng bất cứ cách nào.” Sau đó, Ngài kể một câu chuyện quá khứ.
775
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe gahapatikule nibbattitvā vayappatto gharāvāsaṃ gaṇhi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a householder's family in the Kāsī kingdom, and having come of age, he took up household life.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình gia chủ ở xứ Kāsī, và khi đến tuổi trưởng thành, ngài lập gia đình.
Tassa bhariyā dussīlā gāmabhojakena saddhiṃ anācāraṃ carati.
His wife was immoral, having an illicit affair with the village headman.
Vợ của ngài là một người phụ nữ hư hỏng, có quan hệ bất chính với vị trưởng làng.
Bodhisatto taṃ ñatvā pariggaṇhanto carati.
The Bodhisatta, knowing this, kept watch over her.
Bồ-tát biết điều đó và luôn theo dõi bà ta.
Tadā pana antovasse bījesu nīhaṭesu chātakaṃ ahosi, sassānaṃ gabbhagahaṇakālo jāto.
At that time, during the rainy season, when the seeds had been sown, there was a famine; it was the time for the crops to form their grains.
Khi ấy, vào mùa mưa, sau khi gieo hạt, có một nạn đói xảy ra, và đây là thời điểm cây lúa đang kết hạt.
Sakalagāmavāsino ‘‘ito māsadvayena sassāni uddharitvā vīhiṃ dassāmā’’ti ekato hutvā gāmabhojakassa hatthato ekaṃ jaragoṇaṃ gahetvā maṃsaṃ khādiṃsu.
All the villagers gathered together and, saying, "We will harvest the crops and give you rice in two months," took an old ox from the village headman and ate its meat.
Tất cả dân làng cùng nhau nói: “Chúng ta sẽ thu hoạch lúa và trả gạo trong hai tháng nữa.” Họ lấy một con bò già từ tay vị trưởng làng và ăn thịt.
776
Athekadivasaṃ gāmabhājako khaṇaṃ oloketvā bodhisattassa bahigatavelāyaṃ gehaṃ pāvisi.
Then one day, the village headman, observing an opportune moment, entered the house when the Bodhisatta was away.
Một ngày nọ, vị trưởng làng tìm cơ hội, và khi Bồ-tát ra ngoài, ông ta đi vào nhà.
Tesaṃ sukhanipannakkhaṇeyeva bodhisatto gāmadvārena pavisitvā gehābhimukho pāyāsi.
Just as they were comfortably settled, the Bodhisatta entered through the village gate and headed towards the house.
Ngay khi họ đang nằm thoải mái, Bồ-tát đi vào làng qua cổng và tiến về phía nhà.
Sā itthī gāmadvārābhimukhī taṃ disvā ‘‘ko nu kho eso’’ti ummāre ṭhatvā olokentī ‘‘soyevā’’ti ñatvā gāmabhojakassa ācikkhi, gāmabhojako bhīto pakampi.
That woman, facing the village gate, saw him and stood on the threshold, looking to see "Who is that?" Having recognized "It is he," she informed the village headman, who trembled with fear.
Người phụ nữ ấy, nhìn về phía cổng làng, thấy ngài và tự hỏi: “Ai đó?” Bà ta đứng ở ngưỡng cửa nhìn ra, rồi nhận ra “chính là ông ấy”, liền báo cho vị trưởng làng. Vị trưởng làng sợ hãi run rẩy.
Atha naṃ sā ‘‘mā bhāyi, attheko upāyo, amhehi tava hatthato goṇamaṃsaṃ khāditaṃ, tvaṃ maṃsamūlaṃ sodhento viya hohi, ahaṃ koṭṭhaṃ āruyha koṭṭhadvāre ṭhatvā ‘vīhi natthī’ti vakkhāmi.
Then she said to him, "Do not be afraid, there is a way. We have eaten the ox meat from your hand. You pretend to be collecting the payment for the meat. I will climb into the granary and stand at the granary door, saying, 'There is no rice.'
Bà ấy liền nói với ông ta: “Đừng sợ, có một cách này. Chúng ta đã ăn thịt con bò già của ông. Ông hãy giả vờ như đang đòi tiền thịt. Tôi sẽ trèo lên kho thóc và đứng ở cửa kho nói: ‘Không có gạo.’
Tvaṃ gehamajjhe ṭhatvā ‘amhākaṃ ghare dārakā chātā, maṃsamūlaṃ me dehī’ti punappunaṃ codeyyāsī’’ti vatvā koṭṭhaṃ āruyha koṭṭhadvāre nisīdi.
You stand in the middle of the house and repeatedly demand, 'Our children are hungry, give me the payment for the meat!'" Having said this, she climbed into the granary and sat at the granary door.
Ông hãy đứng giữa nhà và liên tục đòi: ‘Con cái chúng tôi đói, hãy trả tiền thịt cho tôi!’” Sau khi nói vậy, bà ấy trèo lên kho thóc và ngồi ở cửa kho.
Itaro gehamajjhe ṭhatvā ‘‘maṃsamūlaṃ dehī’’ti vadati.
The other man stood in the middle of the house and said, "Give me the payment for the meat!"
Người kia đứng giữa nhà và nói: “Hãy trả tiền thịt cho tôi!”
Sā koṭṭhadvāre nisinnā ‘‘koṭṭhe vīhi natthi, sasse uddharante dassāmi gacchāhī’’ti āha.
She, seated at the granary door, said, "There is no rice in the granary; I will give it when the crops are harvested. Go away!"
Bà ấy ngồi ở cửa kho nói: “Trong kho không có gạo, tôi sẽ trả khi thu hoạch lúa. Ông hãy đi đi!”
777
Bodhisatto gehaṃ pavisitvā tesaṃ kiriyaṃ disvā ‘‘imāya pāpāya kataupāyo esa bhavissatī’’ti ñatvā gāmabhojakaṃ āmantetvā ‘‘so gāmabhojaka amhe tava jaragoṇassa maṃsaṃ khādantā ‘ito māsadvayena vīhiṃ dassāmā’ti khādimha, tvaṃ aḍḍhamāsampi anatikkamitvā idāneva kasmā āharāpesi, na tvaṃ iminā kāraṇena āgato, aññena kāraṇena āgato bhavissasi, mayhaṃ tava kiriyā na ruccati, ayampi anācārā pāpadhammā koṭṭhe vīhīnaṃ abhāvaṃ jānāti, sā dāni koṭṭhaṃ āruyha ‘vīhi natthī’ti vadati, tvampi ‘dehī’ti vadati, ubhinnampi vo karaṇaṃ mayhaṃ na ruccatī’’ti etamatthaṃ pakāsento imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, entering the house and seeing their actions, knew, "This must be a trick devised by this wicked woman." He then addressed the village headman, saying, "O village headman, we ate the meat of your old ox, saying, 'We will give you rice in two months.' Why do you demand it now, not even half a month having passed? You have not come for this reason; you must have come for another reason. Your conduct does not please me. This immoral, wicked woman knows there is no rice in the granary, yet she now climbs into the granary and says, 'There is no rice.' And you say, 'Give it!' The actions of both of you do not please me." Proclaiming this meaning, he spoke these verses:
Bồ-tát đi vào nhà, thấy hành động của họ, liền biết: “Đây chắc chắn là kế của người phụ nữ xấu xa này.” Ngài gọi vị trưởng làng đến và nói: “Này trưởng làng, chúng tôi đã ăn thịt con bò già của ông và nói rằng ‘chúng tôi sẽ trả gạo trong hai tháng nữa.’ Vì sao ông không đợi đến nửa tháng mà lại đòi ngay bây giờ? Ông không đến vì lý do này, chắc hẳn ông đến vì lý do khác. Tôi không hài lòng với hành động của ông. Người phụ nữ bất chính, xấu xa này biết trong kho không có gạo, vậy mà bây giờ bà ấy trèo lên kho và nói ‘không có gạo.’ Ông cũng nói ‘hãy trả.’ Cả hai hành động của hai người đều không làm tôi hài lòng.” Để làm rõ điều này, ngài đã nói những câu kệ sau:
778
97.
97.
97.
779
‘‘Ubhayaṃ me na khamati, ubhayaṃ me na ruccati;
"Neither of these pleases me, neither of these delights me;
“Cả hai điều đó đều không hợp với tôi, cả hai điều đó đều không làm tôi hài lòng;
780
Yācāyaṃ koṭṭhamotiṇṇā, nadassaṃ iti bhāsati.
This woman who has entered the granary, says, 'I will not give it.'
Người phụ nữ này đã trèo lên kho thóc, và nói rằng ‘không có gì để cho.’
781
98.
98.
98.
782
‘‘Taṃ taṃ gāmapati brūmi, kadare appasmi jīvite;
"That I say to you, O village headman, in our meager life,
“Này trưởng làng, tôi nói với ông, trong cuộc sống ngắn ngủi này;
783
Dve māse saṅgaraṃ katvā, maṃsaṃ jaraggavaṃ kisaṃ;
Having made a promise for two months, for the lean meat of an old ox,
Sau khi đã lập giao ước hai tháng, (ăn) thịt bò già gầy yếu;
784
Appattakāle codesi, tampi mayhaṃ na ruccatī’’ti.
You demand it before the appointed time; that too does not please me."
Đòi hỏi vào lúc chưa đến hạn, điều đó cũng không vừa ý ta.”
785
Tattha taṃ taṃ gāmapati brūmīti, ambho gāmajeṭṭhaka, tena kāraṇena taṃ vadāmi.
Therein, taṃ taṃ gāmapati brūmīti means, "O village elder, for that reason I speak to you."
Trong đó, “Này trưởng làng, ta nói với ngươi điều đó” có nghĩa là: Này trưởng làng, vì lý do đó ta nói với ngươi.
Kadare appasmi jīviteti amhākaṃ jīvitaṃ nāma kadarañceva thaddhaṃ lūkhaṃ kasiraṃ appañca mandaṃ parittaṃ, tasmiṃ no evarūpe jīvite vattamāne.
Kadare appasmi jīviteti means, "Our life is indeed wretched, harsh, difficult, meager, weak, and limited; while we are living such a life."
“Trong cuộc sống ngắn ngủi, khốn khó này” có nghĩa là: Cuộc sống của chúng ta thì khốn khó, thô cứng, khô khan, khó nhọc, ngắn ngủi, yếu ớt và ít ỏi; trong khi cuộc sống của chúng ta đang diễn ra như thế.
Dve māse saṅgaraṃ katvā, maṃsaṃ jaraggavaṃ kisanti amhākaṃ maṃsaṃ gaṇhantānaṃ jaraggavaṃ kisaṃ dubbalaṃ jaragoṇaṃ dadamāno tvaṃ ‘‘dvīhi māsehi mūlaṃ dātabba’’nti evaṃ dve māse saṅgaraṃ paricchedaṃ katvā.
“Having made an agreement for two months, giving the meat of an old, lean ox”—you, giving the meat of an old, lean, weak ox to us who take meat, saying, “the price should be paid in two months,” thus made a stipulation for two months.
“Sau khi đã thỏa thuận hai tháng, (thịt của) con bò già ốm yếu” có nghĩa là: Ngươi đã cho chúng ta thịt của con bò già ốm yếu, gầy gò, yếu đuối, con bò già, và đã thỏa thuận, đã định ra hai tháng, rằng “tiền phải được trả trong hai tháng”.
Appattakāle codesīti tasmiṃ kāle asampatte antarāva codesi.
“You demanded at an unsuitable time”—you demanded prematurely, before that time arrived.
“Đòi hỏi vào lúc chưa đến hạn” có nghĩa là: Ngươi đã đòi hỏi giữa chừng, khi thời gian đó chưa đến.
Tampi mayhaṃ na ruccatīti yā cāyaṃ pāpadhammā dussīlā antokoṭṭhe vīhīnaṃ natthibhāvaṃ jānamānāva ajānantī viya hutvā koṭṭhamotiṇṇā koṭṭhadvāre ṭhatvā na dassaṃ iti bhāsati, yañca tvaṃ akāle codesi, tampīti idaṃ ubhayampi mama neva khamati na ruccatīti.
“That too does not please me”—this wicked, immoral woman, knowing that there was no rice inside the granary, yet acting as if she did not know, descended into the granary, stood at the granary door, and spoke, “I will not give”; and that you demanded at an unsuitable time—both of these do not please me, do not appeal to me.
“Điều đó cũng không vừa ý ta” có nghĩa là: Người phụ nữ ác hạnh, vô đạo đức này, biết rõ rằng không có lúa trong kho nhưng lại giả vờ như không biết, đi xuống kho, đứng ở cửa kho và nói rằng “không cho”; và việc ngươi đòi hỏi không đúng lúc, điều đó – cả hai điều này – cũng không chấp nhận được đối với ta, không vừa ý ta.
786
Evaṃ so kathentova gāmabhojakaṃ cūḷāya gahetvā kaḍḍhitvā gehamajjhe pātetvā ‘‘gāmabhojakomhīti parassa rakkhitagopitabhaṇḍe aparajjhasī’’tiādīhi paribhāsitvā pothetvā dubbalaṃ katvā gīvāya gahetvā gehā nikkaḍḍhitvā tampi duṭṭhaitthiṃ kesesu gahetvā koṭṭhā otāretvā nippothetvā ‘‘sace puna evarūpaṃ karosi, jānissasī’’ti santajjesi.
Speaking thus, he seized the village headman by the topknot, dragged him, threw him down in the middle of the house, rebuked him with words like, “You, being the village headman, transgress against another’s protected and guarded property!” then struck him, weakened him, seized him by the neck, dragged him out of the house; and he seized that wicked woman by her hair, dragged her down from the granary, beat her, and threatened her, saying, “If you do such a thing again, you will know!”
Trong khi nói như vậy, ông ta túm lấy trưởng làng bằng búi tóc, kéo lê, quật ngã xuống giữa nhà, mắng nhiếc bằng những lời như “Ngươi là trưởng làng mà lại phạm lỗi với tài sản được người khác bảo vệ và cất giữ!” rồi đánh đập, làm cho yếu ớt, túm lấy cổ kéo ra khỏi nhà, rồi túm lấy tóc người phụ nữ xấu xa đó, kéo xuống kho, đánh đập và đe dọa: “Nếu ngươi còn làm điều như vậy nữa, ngươi sẽ biết tay!”
Tato paṭṭhāya gāmabhojako taṃ gehaṃ oloketumpi na visahi, sāpi pāpā puna manasāpi aticarituṃ nāsakkhi.
From then on, the village headman could not even look at that house, and that wicked woman could not transgress even in thought again.
Từ đó trở đi, trưởng làng không dám nhìn ngôi nhà đó nữa, và người phụ nữ xấu xa đó cũng không thể phạm lỗi trong tâm nữa.
787
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, elucidated the Truths, and connected the Jātaka; at the conclusion of the Truths, the discontented monk was established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã thuyết pháp này, công bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân Lý được hoàn tất, vị Tỳ-kheo chán nản đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā gāmabhojako devadatto, niggahakārako gahapati pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the village headman was Devadatta; the householder who rebuked him was I myself.”
“Khi ấy, trưởng làng là Devadatta; còn vị gia chủ đã khiển trách chính là ta.”
788
Gahapatijātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Story of the Householder Jātaka.
Chuyện Jātaka về Gia Chủ, thứ chín.
789
* 10. Sādhusīlajātakavaṇṇanā
* 10. The Story of the Sādhusīla Jātaka
* 10. Chuyện Jātaka về Sādhusīla
790
Sarīradabyanti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ brāhmaṇaṃ ārabbha kathesi.
Sarīradabbyaṃ”—this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain brahmin.
Sarīradabyaṃ (Sức mạnh thân thể) – câu này được Bậc Đạo Sư thuyết tại Jetavana, liên quan đến một vị Bà-la-môn nọ.
Tassa kira catasso dhītaro ahesuṃ.
He, it is said, had four daughters.
Vị Bà-la-môn đó có bốn người con gái.
Tā cattāro janā patthenti, tesu eko abhirūpo sarīrasampanno, eko vayappatto mahallako, eko jātisampanno, eko sīlavā.
Four men sought them; among them, one was handsome and physically well-endowed, one was old and advanced in years, one was of noble birth, and one was virtuous.
Bốn người đó được bốn người đàn ông cầu hôn; trong số họ, một người có hình thể đẹp đẽ, đầy đủ; một người đã lớn tuổi, già nua; một người có dòng dõi cao quý; một người có giới hạnh.
Brāhmaṇo cintesi – ‘‘dhītaro nivesentena patiṭṭhāpentena kassa nu kho dātabbā, kiṃ rūpasampannassa, udāhu vayappattassa, jātisampannasīlavantānaṃ aññatarassā’’ti.
The brahmin thought, “To whom should I give my daughters when settling them in marriage? Should it be to the one endowed with beauty, or to the one advanced in years, or to one of those of noble birth or virtuous?”
Vị Bà-la-môn suy nghĩ: “Khi gả con gái, nên gả cho ai? Cho người có hình thể đẹp đẽ chăng, hay cho người lớn tuổi, hay cho một trong những người có dòng dõi cao quý và có giới hạnh?”
So cintentopi ajānitvā ‘‘imaṃ kāraṇaṃ sammāsambuddho jānissati, taṃ pucchitvā etesaṃ antare anucchavikassa dassāmī’’ti gandhamālādīni gāhāpetvā vihāraṃ gantvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisinno ādito paṭṭhāya tamatthaṃ ārocetvā ‘‘bhante, imesu catūsu janesu kassa dātuṃ vaṭṭatī’’ti pucchi.
Though he pondered, he did not know, and thought, “The Perfectly Enlightened One will know this matter; I will ask him and give to the one suitable among them.” So, having taken perfumes and garlands, he went to the monastery, paid homage to the Teacher, sat down to one side, reported the matter from the beginning, and asked, “Venerable Sir, to whom among these four men is it proper to give?”
Dù suy nghĩ, ông vẫn không biết, bèn nghĩ: “Đấng Chánh Đẳng Giác sẽ biết điều này. Ta sẽ hỏi Ngài và gả cho người phù hợp trong số họ.” Ông bèn sai người mang hương hoa và các vật phẩm khác, đến tinh xá, đảnh lễ Bậc Đạo Sư, ngồi sang một bên, rồi trình bày sự việc từ đầu và hỏi: “Bạch Thế Tôn, trong bốn người này, nên gả cho ai là phù hợp?”
Satthā ‘‘pubbepi paṇḍitā etaṃ pañhaṃ kathayiṃsu, bhavasaṅkhepagatattā pana sallakkhetuṃ na sakkosī’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Wise ones in the past also spoke on this problem, but because it is concealed by the cycle of existence, you cannot discern it,” and being requested by him, related a past event.
Bậc Đạo Sư nói: “Ngay cả trong quá khứ, các bậc hiền trí cũng đã nói về vấn đề này, nhưng vì sự rút gọn của các kiếp sống, ông không thể nhớ được.” Sau khi được ông thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
791
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sippaṃ uggaṇhitvā āgantvā bārāṇasiyaṃ disāpāmokkho ācariyo ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn into a brahmin family, and when he came of age, he learned all the arts in Takkasilā, returned, and became a world-renowned teacher in Bārāṇasī.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài đã học nghề tại Takkasilā rồi trở về Bārāṇasī và trở thành một vị đạo sư nổi tiếng khắp nơi.
Athekassa brāhmaṇassa catasso dhītaro ahesuṃ, tā evameva cattāro janā patthayiṃsu.
Then a certain brahmin had four daughters, and similarly, four men sought them.
Bấy giờ, một vị Bà-la-môn có bốn người con gái, và bốn người đàn ông cũng cầu hôn họ như vậy.
Brāhmaṇo ‘‘kassa nu kho dātabbā’’ti ajānanto ‘‘ācariyaṃ pucchitvā dātabbayuttakassa dassāmī’’ti tassa santikaṃ gantvā tamatthaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The brahmin, not knowing “to whom should they be given?”, thought, “I will ask the teacher and give to the one worthy of being given,” and asking him about the matter, he first spoke this verse:
Vị Bà-la-môn không biết nên gả cho ai, bèn nghĩ: “Ta sẽ hỏi vị đạo sư và gả cho người phù hợp.” Ông bèn đến chỗ vị đạo sư, hỏi về sự việc đó, và nói lên câu kệ đầu tiên:
792
99.
99.
99.
793
‘‘Sarīradabyaṃ vuḍḍhabyaṃ, sojaccaṃ sādhusīliyaṃ;
“Physical beauty, old age, noble birth, good conduct;
“Sức mạnh thân thể, tuổi tác, dòng dõi cao quý, giới hạnh tốt đẹp;
794
Brāhmaṇaṃ teva pucchāma, kannu tesaṃ vanimhase’’ti.
We ask you, brahmin, which of them should we choose?”
Chúng con hỏi Ngài, hỡi Bà-la-môn, chúng con nên chọn ai trong số họ?”
795
Tattha ‘‘sarīradabya’’ntiādīhi tesaṃ catunnaṃ vijjamāne guṇe pakāseti.
Here, with “ sarīradabbyaṃ” and so on, he declares the existing qualities of those four.
Trong đó, “Sarīradabyaṃ” (sức mạnh thân thể) và các từ khác nói lên những phẩm chất hiện có của bốn người đó.
Ayañhettha adhippāyo – dhītaro me cattāro janā patthenti, tesu ekassa sarīradabyamatthi, sarīrasampadā abhirūpabhāvo saṃvijjati.
The intention here is: four men seek my daughters; among them, one has physical beauty, meaning physical perfection and handsomeness.
Ý nghĩa ở đây là: Con gái tôi được bốn người đàn ông cầu hôn. Trong số họ, một người có sức mạnh thân thể, có vẻ đẹp hình thể, có dung mạo ưa nhìn.
Ekassa vuḍḍhabyaṃ vuḍḍhibhāvo mahallakatā atthi.
One has old age, meaning advancement in years and seniority.
Một người có tuổi tác, có sự lớn tuổi, già nua.
Ekassa sojaccaṃ sujātitā jātisampadā atthi.
One has noble birth, meaning good lineage and birth perfection.
Một người có dòng dõi cao quý, có phẩm chất dòng dõi.
‘‘Sujacca’’ntipi pāṭho.
“Sujacca” is also a reading.
Cũng có bản đọc là “Sujaccaṃ” (dòng dõi tốt).
Ekassa sādhusīliyaṃ sundarasīlabhāvo sīlasampadā atthi.
One has sādhusīliyaṃ, meaning beautiful conduct and moral perfection.
Một người có giới hạnh tốt đẹp, có phẩm chất giới hạnh.
Brāhmaṇaṃ teva pucchāmāti tesu asukassa nāmetā dātabbāti ajānantā mayaṃ bhavantaṃ brāhmaṇaññeva pucchāma.
“We ask you, brahmin”—not knowing to whom among them these (daughters) should be given, we ask you, venerable brahmin.
“Brāhmaṇaṃ teva pucchāmā” (Chúng con hỏi Ngài, hỡi Bà-la-môn) có nghĩa là: Vì không biết nên gả cho ai trong số họ, chúng con chỉ hỏi Ngài, vị Bà-la-môn.
Kannu tesaṃ vanimhaseti tesaṃ catunnaṃ janānaṃ kaṃ vanimhase, kaṃ icchāma, kassa tā kumārikā dadāmāti pucchati.
“Whom among them should we choose?”—meaning, whom among those four people should we choose, whom do we desire, to whom should we give these maidens? he asks.
“Kannu tesaṃ vanimhase” (Chúng con nên chọn ai trong số họ) có nghĩa là: Trong số bốn người đó, chúng con nên chọn ai, chúng con muốn ai, chúng con nên gả các cô gái đó cho ai – ông ta hỏi như vậy.
796
Taṃ sutvā ācariyo ‘‘rūpasampadādīsu vijjamānāsupi vipannasīlo gārayho, tasmā taṃ nappamāṇaṃ, amhākaṃ sīlavantabhāvo ruccatī’’ti imamatthaṃ pakāsento dutiyaṃ gāthamāha –
Having heard that, the teacher, revealing this meaning, “Even if beauty and so on are present, one who is corrupt in conduct is blameworthy; therefore, that is not the criterion, our virtuous state is pleasing,” spoke the second verse:
Nghe vậy, vị đạo sư nói rằng: “Mặc dù có những phẩm chất như vẻ đẹp hình thể, nhưng người có giới hạnh suy đồi thì đáng bị khiển trách. Do đó, điều đó không phải là tiêu chuẩn. Chúng ta ưa thích người có giới hạnh.” Để công bố ý nghĩa này, Ngài đã nói lên câu kệ thứ hai:
797
100.
100.
100.
798
‘‘Attho atthi sarīrasmiṃ, vuḍḍhabyassa namo kare;
“There is benefit in a body; one should pay homage to old age;
“Có lợi ích trong thân thể, tôi kính trọng tuổi tác;
799
Attho atthi sujātasmiṃ, sīlaṃ asmāka ruccatī’’ti.
There is benefit in one of good birth; but virtue is pleasing to us.”
Có lợi ích trong dòng dõi cao quý, nhưng chúng tôi ưa thích giới hạnh.”
800
Tattha attho atthi sarīrasminti rūpasampanne sarīrepi attho viseso vuddhi atthiyeva, ‘‘natthī’’ti na vadāmi.
Therein, Attho atthi sarīrasmiṃ means there is indeed benefit, a special quality, growth, even in a body endowed with beauty; “there is not” I do not say.
Trong đó, “Attho atthi sarīrasmiṃ” (Có lợi ích trong thân thể) có nghĩa là: Ngay cả trong thân thể có vẻ đẹp hình thể, vẫn có lợi ích, có sự phát triển, ta không nói là không có.
Vuḍḍhabyassa namo kareti vuḍḍhabhāvassa pana namakkārameva karomi.
Vuḍḍhabyassa namo kare means I pay homage to old age itself.
“Vuḍḍhabyassa namo kare” (Tôi kính trọng tuổi tác) có nghĩa là: Ta chỉ kính trọng tuổi tác.
Vuḍḍhabhāvo hi vandanamānanaṃ labhati.
For old age receives veneration and respect.
Thật vậy, tuổi tác nhận được sự tôn kính và ngưỡng mộ.
Attho atthi sujātasminti sujātepi purise vuḍḍhi atthi, jātisampattipi icchitabbāyeva.
Attho atthi sujātasmiṃ means there is growth even in a well-born man; good birth is also to be desired.
“Attho atthi sujātasmiṃ” (Có lợi ích trong dòng dõi cao quý) có nghĩa là: Ngay cả trong người có dòng dõi cao quý, cũng có sự phát triển; phẩm chất dòng dõi cũng đáng được mong muốn.
Sīlaṃ asmāka ruccatīti amhākaṃ pana sīlameva ruccati.
Sīlaṃ asmāka ruccatīti means, but virtue itself is pleasing to us.
“Sīlaṃ asmāka ruccatī” (Nhưng chúng tôi ưa thích giới hạnh) có nghĩa là: Đối với chúng ta, chỉ có giới hạnh là đáng ưa thích.
Sīlavā hi ācārasampanno sarīradabyavirahitopi pujjo pāsaṃsoti.
For a virtuous person, endowed with good conduct, is worthy of veneration and praise, even if lacking physical strength.
Thật vậy, người có giới hạnh, có tư cách đạo đức, dù không có vẻ đẹp hình thể, vẫn đáng được tôn kính và ca ngợi.
Brāhmaṇo tassa vacanaṃ sutvā sīlavantasseva dhītaro adāsi.
The brahmin, having heard his words, gave his daughters to the virtuous one.
Vị Bà-la-môn nghe lời Ngài, bèn gả con gái cho người có giới hạnh.
801
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – saccapariyosāne brāhmaṇo sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, revealed the Truths, and connected the Jātaka—at the conclusion of the Truths, the brahmin was established in the fruit of stream-entry.
Bậc Đạo Sư đã thuyết pháp này, công bố các Chân Lý và kết nối câu chuyện Jātaka – khi các Chân Lý được hoàn tất, vị Bà-la-môn đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā brāhmaṇo ayameva brāhmaṇo ahosi, disāpāmokkho ācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the brahmin was this very brahmin; the world-renowned teacher was I myself.”
“Khi ấy, vị Bà-la-môn chính là vị Bà-la-môn này; còn vị đạo sư nổi tiếng khắp nơi chính là ta.”
802
Sādhusīlajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth Story, the Sādhusīla Jātaka, is concluded.
Chuyện Jātaka về Sādhusīla, thứ mười.
803
Ruhakavaggo pañcamo.
The Fifth Chapter, Ruhakavagga.
Chương Ruhaka, thứ năm.
804
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt của chương đó –
805
Ruhakaṃ sirikāḷakaṃ, padumaṃ maṇicorakaṃ;
Ruhaka, Sirikāḷaka, Paduma, Maṇicoraka;
Ruhaka, Sirikāḷaka, Paduma, Maṇicoraka;
806
Pabbatūpattharavalāhaṃ, mittāmittañca rādhañca;
Pabbatūpatthara, Valāha, Mittāmitta, and Rādha;
Pabbatūpatthara, Valāha, Mittāmitta và Rādha;
807
Gahapati sādhusīlaṃ.
Gahapati, Sādhusīla.
Gahapati, Sādhusīla.
808

6. Nataṃdaḷhavaggo

6. Nataṃdaḷhavaggo

6. Chương Nataṃdaḷha

809
* 1. Bandhanāgārajātakavaṇṇanā
* 1. Bandhanāgāra Jātaka
* 1. Chuyện Jātaka về Bandhanāgāra
810
Na taṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrāti idaṃ satthā jetavane viharanto bandhanāgāraṃ ārabbha kathesi.
Na taṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrā (That which the wise say is not a strong bond)—the Teacher spoke this while dwelling at Jetavana, concerning a prison.
“Những người hiền trí không gọi đó là sự trói buộc kiên cố” – câu này được Bậc Đạo Sư thuyết tại Jetavana, liên quan đến nhà tù.
Tasmiṃ kira kāle bahū sandhicchedakapanthaghātakacore ānetvā kosalarañño dassesuṃ.
At that time, it is said, many house-breakers and highway robbers were brought and shown to the King of Kosala.
Vào thời đó, nhiều tên trộm đột nhập nhà cửa, cướp đường đã bị bắt và trình lên vua Kosala.
Te rājā addubandhanarajjubandhanasaṅkhalikabandhanehi bandhāpesi.
The king had them bound with bonds of rope, bonds of cord, and bonds of chains.
Vua đã ra lệnh trói chúng bằng dây thừng, dây da và xiềng xích.
Tiṃsamattā jānapadā bhikkhū satthāraṃ daṭṭhukāmā āgantvā disvā vanditvā punadivase piṇḍāya carantā bandhanāgāraṃ gantvā te core disvā piṇḍapātapaṭikkantā sāyanhasamaye tathāgataṃ upasaṅkamitvā ‘‘bhante, ajja amhehi piṇḍāya carantehi bandhanāgāre bahū corā addubandhanādīhi baddhā mahādukkhaṃ anubhavantā diṭṭhā, te tāni bandhanāni chinditvā palāyituṃ na sakkonti, atthi nu kho tehi bandhanehi thirataraṃ nāma aññaṃ bandhana’’nti pucchiṃsu.
About thirty monks from the countryside came desiring to see the Teacher, and having seen and paid homage, on the next day, while on alms-round, they went to the prison, saw those robbers, and after their alms-round, in the evening, approached the Tathāgata and asked, “Venerable Sir, today, while we were on alms-round, we saw many robbers in the prison, bound with rope-bonds and so forth, experiencing great suffering. They are unable to break those bonds and escape. Is there, Venerable Sir, any other bond stronger than these?”
Khoảng ba mươi vị Tỳ-kheo từ vùng quê đến muốn gặp Bậc Đạo Sư, sau khi gặp và đảnh lễ, vào ngày hôm sau, khi đi khất thực, họ đến nhà tù và thấy những tên trộm đó bị trói bằng dây thừng và các loại dây khác, đang chịu đựng khổ sở. Sau khi khất thực xong, vào buổi chiều, họ đến gặp Đức Như Lai và hỏi: “Bạch Thế Tôn, hôm nay khi chúng con đi khất thực, chúng con đã thấy nhiều tên trộm bị trói bằng dây thừng và các loại dây khác trong nhà tù, đang chịu đựng khổ sở. Chúng không thể cắt đứt những dây trói đó để trốn thoát. Có loại trói buộc nào kiên cố hơn những dây trói này không?”
Satthā ‘‘bhikkhave, kiṃ bandhanāni nāmetāni, yaṃ panetaṃ dhanadhaññaputtadārādīsu taṇhāsaṅkhātaṃ kilesabandhanaṃ, etaṃ etehi bandhanehi sataguṇena sahassaguṇena thirataraṃ, evaṃ mahantampi panetaṃ ducchindaniyaṃ bandhanaṃ porāṇakapaṇḍitā chinditvā himavantaṃ pavisitvā pabbajiṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Monks, what are these called bonds? But that defilement-bond, called craving, for wealth, grain, sons, wives, and so forth—that is a hundred times, a thousand times stronger than these bonds. And even such a mighty, hard-to-break bond as this was broken by the ancient wise ones, who entered the Himalayas and went forth into homelessness,” and then he recounted a past event.
Bậc Đạo Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, những thứ đó có phải là trói buộc gì đâu? Nhưng sự trói buộc của phiền não, tức là tham ái đối với tài sản, ngũ cốc, con cái, vợ con, v.v., thì kiên cố hơn những dây trói này gấp trăm lần, gấp ngàn lần. Ngay cả sự trói buộc to lớn và khó cắt đứt này, các bậc hiền trí thời xưa đã cắt đứt, đi vào dãy Himalaya và xuất gia.” Sau khi nói vậy, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
811
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ duggatagahapatikule nibbatti, tassa vayappattassa pitā kālamakāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a poor householder’s family. When he reached maturity, his father passed away.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình gia chủ nghèo khó. Khi Ngài đến tuổi trưởng thành, cha Ngài qua đời.
So bhatiṃ katvā mātaraṃ posesi, athassa mātā anicchamānasseva ekaṃ kuladhītaraṃ gehe katvā aparabhāge kālamakāsi.
He worked for wages and supported his mother. Then, his mother, against his wishes, brought a daughter of a good family into the house, and later passed away.
Ngài làm thuê để nuôi mẹ. Sau đó, mẹ Ngài đã cưới một cô gái dòng dõi cho Ngài dù Ngài không muốn, rồi bà qua đời sau đó.
Bhariyāyapissa kucchiyaṃ gabbho patiṭṭhāsi.
A pregnancy was established in his wife’s womb.
Vợ Ngài cũng có thai trong bụng.
So gabbhassa patiṭṭhitabhāvaṃ ajānanto ‘‘bhadde, tvaṃ bhatiṃ katvā jīvāhi, ahaṃ pabbajissāmī’’ti āha.
Not knowing that the pregnancy was established, he said, “Good wife, you make a living by working for wages; I will go forth into homelessness.”
Ông ấy không biết việc mang thai, nói: “Này hiền thê, nàng hãy làm công mà sống, còn ta sẽ xuất gia.”
Sāpi ‘‘gabbho me patiṭṭhito, mayi vijātāya dārakaṃ disvā pabbajissasī’’ti āha.
She replied, “My pregnancy is established; you may go forth after I have given birth and you have seen the child.”
Bà ấy cũng nói: “Con đã mang thai rồi, sau khi thiếp sinh con, chàng hãy thấy đứa bé rồi hãy xuất gia.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tassā vijātakāle ‘‘bhadde, tvaṃ sotthinā vijātā, idānāhaṃ pabbajissāmī’’ti āpucchi.
He consented, saying “Very well.” When she had given birth, he asked permission, saying, “Good wife, you have given birth safely; now I will go forth.”
Ông ấy chấp thuận “Tốt lắm,” và khi bà ấy sinh con, ông hỏi: “Này hiền thê, nàng đã sinh nở bình an rồi, bây giờ ta sẽ xuất gia.”
Atha naṃ sā ‘‘puttakassa tāva thanapānato apagamanakālaṃ āgamehī’’ti vatvā puna gabbhaṃ gaṇhi.
Then she, saying, "Wait until the time for the child to stop suckling," became pregnant again.
Bấy giờ, bà ấy nói: “Chàng hãy đợi đến khi đứa con cai sữa đã,” rồi lại mang thai.
812
So cintesi – ‘‘imaṃ sampaṭicchāpetvā gantuṃ na sakkā, imissā anācikkhitvāva palāyitvā pabbajissāmī’’ti.
He thought, "It is not possible to go after getting her consent; I will run away without telling her and go forth."
Ông ấy suy nghĩ: “Không thể chấp thuận lời cô ấy rồi ra đi được, ta sẽ bỏ trốn mà xuất gia mà không báo cho cô ấy biết.”
So tassā anācikkhitvā ratthibhāge uṭṭhāya palāyi.
So without telling her, he got up in the night and fled.
Ông ấy không báo cho bà ấy biết, thức dậy vào ban đêm rồi bỏ trốn.
Atha naṃ nagaraguttikā aggahesuṃ.
Then the city guards arrested him.
Bấy giờ, những người canh gác thành phố đã bắt giữ ông ấy.
So ‘‘ahaṃ, sāmi, mātuposako nāma, vissajjetha ma’’nti tehi attānaṃ vissajjāpetvā ekasmiṃ ṭhāne vasitvā aggadvāreneva nikkhamitvā himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā jhānakīḷaṃ kīḷanto vihāsi.
He, saying, "Sirs, I am a supporter of my mother; release me," got himself released by them, stayed in one place, then departed through the main gate, entered the Himalayas, undertook the ascetic's going forth (isipabbajjā), developed supernormal powers (abhiññā) and attainments (samāpatti), and dwelt enjoying the sport of jhāna.
Ông ấy nói: “Thưa ngài, tôi là người nuôi dưỡng cha mẹ, xin hãy thả tôi ra,” và đã được họ thả ra. Sau đó, ông ấy ở một nơi, rồi ra khỏi thành phố qua cổng chính, đi vào dãy Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định, an trú trong niềm vui thiền định.
So tattha vasanto ‘‘evarūpampi nāma me ducchindaniyaṃ puttadārabandhanaṃ kilesabandhanaṃ chindita’’nti udānaṃ udānento imā gāthā avoca –
Dwelling there, he uttered this solemn utterance (udāna), "Such a difficult-to-sever bond of children and wife, a bond of defilements, has been severed by me!" and spoke these verses:
Khi ở đó, ông ấy đã thốt lên lời cảm hứng này: “Ta đã cắt đứt được sự trói buộc con cái và vợ con, sự trói buộc phiền não khó cắt đứt đến mức này,” và đã nói những câu kệ này:
813
101.
101.
101.
814
‘‘Na taṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrā, yadāyasaṃ dārujapabbajañca;
"That which is made of iron, or of wood and grass, the wise do not call a strong bond;
Những bậc trí giả không gọi đó là sự trói buộc kiên cố,
815
Sārattarattā maṇikuṇḍalesu, puttesu dāresu ca yā apekkhā.
But the longing for sons and wives, and the intense attachment to jewels and earrings, that is the strong bond.
Là xiềng xích sắt, dây thừng gỗ, hay dây bện bằng cỏ; mà là sự quyến luyến, sự tham đắm vào ngọc ngà, hoa tai, con cái và vợ con.
816
102.
102.
102.
817
‘‘Etaṃ daḷhaṃ bandhanamāhu dhīrā, ohārinaṃ sīthilaṃ duppamuñcaṃ;
This the wise call a strong bond, dragging down, loose, and hard to escape;
Những bậc trí giả gọi đó là sự trói buộc kiên cố, là sự lôi kéo xuống, lỏng lẻo nhưng khó thoát ra;
818
Etampi chetvāna vajanti dhīrā, anapekkhino kāmasukhaṃ pahāyā’’ti.
But even this the wise cut, and go forth, abandoning sensual pleasures without longing."
Những bậc trí giả đã cắt đứt được cả điều này, từ bỏ lạc thú dục vọng mà ra đi không chút quyến luyến.
819
Tattha dhīrāti dhitimantā, dhikkatapāpāti dhīrā.
There, dhīrā means those who are resolute, those who have scorned evil, thus dhīrā. Or, dhī means wisdom, so those endowed with that wisdom are dhīrā; Buddhas, Paccekabuddhas, disciples of the Buddha, and Bodhisattas are called dhīrā.
Ở đây, dhīrā có nghĩa là những người có nghị lực, những người đã khinh miệt tội lỗi nên được gọi là dhīrā.
Atha vā dhī vuccati paññā, tāya paññāya samannāgatāti dhīrā, buddhā paccekabuddhā buddhasāvakā bodhisattā ca ime dhīrā nāma.
The meaning is: "Fathers, those who are wise do not call a strong bond that which is made of iron, or of wood and grass."
Hoặc dhī được gọi là tuệ, những người có đầy đủ tuệ đó được gọi là dhīrā, tức là các vị Phật, Phật Độc Giác, Thanh Văn đệ tử của Phật và các vị Bồ Tát, những vị này được gọi là dhīrā.
Yadāyasantiādīsu yaṃ saṅkhalikasaṅkhātaṃ ayasā nibbattaṃ āyasaṃ, yaṃ addubandhanasaṅkhātaṃ dārujaṃ, yañca pabbajatiṇehi vā aññehi vā vākādīhi rajjuṃ katvā katarajjubandhanaṃ, taṃ āyasādiṃ chindituṃ sakkuṇeyyabhāvena dhīrā daḷhaṃ thiranti nāhu na kathenti.
In yadāyasaṃ and so on, that which is made of iron, like a chain, is āyasaṃ; that which is made of wood, like a fetter; and that which is a rope-bond made by twisting grass or other fibers like bark into a rope—the wise do not call such iron, etc., strong or firm, because it can be cut.
Trong yadāyasa và các từ tiếp theo, cái được tạo ra từ sắt, tức là xiềng xích sắt; cái được làm từ gỗ, tức là dây cột bằng gỗ; và cái được làm bằng dây thừng bện từ cỏ hoặc các loại vỏ cây khác, những thứ như sắt đó, các bậc trí giả không gọi là kiên cố, bền vững, vì chúng có thể bị cắt đứt.
Sārattarattāti sārattā hutvā rattā, balavarāgarattāti attho.
Sārattarattā means being strongly attached, meaning intensely attached with powerful craving.
Sārattarattā có nghĩa là đã trở nên tham đắm, tức là tham đắm mạnh mẽ.
Maṇikuṇḍalesūti maṇīsu ca kuṇḍalesu ca, maṇiyuttesu vā kuṇḍalesu.
Maṇikuṇḍalesu means in jewels and earrings, or in earrings adorned with jewels.
Maṇikuṇḍalesu có nghĩa là trong ngọc ngà và hoa tai, hoặc trong hoa tai có ngọc.
820
Etaṃ daḷhanti ye maṇikuṇḍalesu sārattarattā, tesaṃ yo ca sārāgo, yā ca tesaṃ puttadāresu apekkhā taṇhā, etaṃ kilesamayaṃ bandhanaṃ daḷhaṃ thiranti dhīrā āhu.
Etaṃ daḷhaṃ: The wise call this bond of defilements strong and firm—the intense attachment of those who are strongly attached to jewels and earrings, and their longing (taṇhā) for sons and wives.
Etaṃ daḷhaṃ có nghĩa là những bậc trí giả gọi sự tham đắm và sự quyến luyến, tham ái của những người đã tham đắm vào ngọc ngà và hoa tai, con cái và vợ con, là sự trói buộc phiền não kiên cố, bền vững.
Ohārinanti ākaḍḍhitvā catūsu apāyesu pātanato avaharati heṭṭhā haratīti ohārinaṃ.
Ohārinaṃ means dragging down, pulling down, because it drags one down and casts one into the four lower realms.
Ohārinaṃ có nghĩa là kéo xuống, lôi xuống các bốn cõi khổ, tức là kéo xuống, mang xuống thấp.
Sithilanti bandhanaṭṭhāne chavicammamaṃsāni na chindati, lohitaṃ na nīharati, bandhanabhāvampi na jānāpeti, thalapathajalapathādīsu kammāni kātuṃ detīti sithilaṃ.
Sithilaṃ means loose, because it does not cut the skin, flesh, or muscles at the point of binding, does not draw blood, does not even make one aware of being bound, and allows one to perform tasks on land or water routes.
Sithilaṃ có nghĩa là lỏng lẻo, vì nó không cắt đứt da, thịt, gân ở chỗ bị trói buộc, không làm chảy máu, không cho biết là đang bị trói buộc, và cho phép thực hiện các công việc trên đất liền, trên biển, v.v.
Duppamuñcanti taṇhālobhavasena hi ekavārampi uppannaṃ kilesabandhanaṃ daṭṭhaṭṭhānato kacchapo viya dummocayaṃ hotīti duppamuñcaṃ.
Duppamuñcaṃ means hard to escape, because a bond of defilements that has arisen even once due to craving and greed is difficult to release, like a tortoise from its shell.
Duppamuñcaṃ có nghĩa là khó thoát ra, vì sự trói buộc phiền não đã phát sinh dù chỉ một lần do tham ái và lòng tham, thì rất khó thoát ra như con rùa khỏi chỗ bị cắn.
Etampi chetvānāti etaṃ evaṃ daḷhampi kilesabandhanaṃ ñāṇakhaggena chinditvā ayadāmāni chinditvā mattavaravāraṇā viya pañjare chinditvā sīhapotakā viya ca dhīrā vatthukāmakilesakāme ukkārabhūmiṃ viya jigucchamānā anapekkhino hutvā kāmasukhaṃ pahāya vajanti pakkamanti, pakkamitvā ca pana himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā jhānasukhena vītināmentīti.
Etampi chetvānā: Even this strong bond of defilements, the wise cut with the sword of wisdom, and like mighty elephants breaking iron chains, or like lion cubs breaking out of a cage, they go forth, abandoning sensual pleasures without longing, detesting them as if they were a charnel ground. Having gone forth, they enter the Himalayas, undertake the ascetic's going forth, and spend their time in the bliss of jhāna.
Etampi chetvānā có nghĩa là các bậc trí giả, ghê tởm dục lạc vật chất và dục lạc phiền não như một bãi rác, không chút quyến luyến, đã cắt đứt sự trói buộc phiền não kiên cố này bằng thanh gươm trí tuệ, như những con voi chúa dũng mãnh cắt đứt dây xích, và như những chú sư tử con phá vỡ lồng, từ bỏ lạc thú dục vọng mà ra đi, tức là rời bỏ; và sau khi ra đi, họ đi vào dãy Hy Mã Lạp Sơn, xuất gia làm đạo sĩ, và sống an lạc trong thiền định.
821
Evaṃ bodhisatto imaṃ udānaṃ udānetvā aparihīnajjhāno brahmalokaparāyaṇo ahosi.
Thus, the Bodhisatta, having uttered this udāna, became one whose jhānas were not lost and whose destination was the Brahma-world.
Như vậy, Bồ Tát đã thốt lên lời cảm hứng này, và không đánh mất thiền định, đã tái sinh vào cõi Phạm Thiên.
822
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino, keci arahanto ahesuṃ.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma and expounded the Truths, connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, some became stream-enterers, some once-returners, some non-returners, and some Arahants.
Đức Đạo Sư đã kể lại bài pháp này, tuyên bố các Chân Lý, và kết hợp câu chuyện Jātaka. Sau khi các Chân Lý được tuyên bố, một số người đã chứng Sơ Quả, một số chứng Nhị Quả, một số chứng Tam Quả, một số chứng A La Hán.
‘‘Tadā mātā mahāmāyā ahosi, pitā suddhodanamahārājā, bhariyā rāhulamātā, putto rāhulo, puttadāraṃ pahāya nikkhamitvā pabbajito puriso pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the mother was Mahāmāyā, the father was King Suddhodana, the wife was Rāhulamātā, the son was Rāhula, and the man who abandoned his children and wife and went forth was I myself."
“Khi ấy, mẹ là Mahāmāyā, cha là Đại vương Suddhodana, vợ là Rāhulamātā, con trai là Rāhula, còn người đàn ông đã từ bỏ vợ con mà xuất gia, chính là Ta vậy.”
823
Bandhanāgārajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first commentary on the Bandhanāgāra Jātaka is concluded.
Chuyện Jātaka về Ngục Tù (Bandhanāgāra Jātaka) thứ nhất đã hoàn thành.
824
* 2. Keḷisīlajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Keḷisīla Jātaka
* 2. Chuyện Jātaka về Keḷisīla
825
Haṃsā koñcā mayūrā cāti idaṃ satthā jetavane viharanto āyasmantaṃ lakuṇḍakabhaddiyaṃ ārabbha kathesi.
Haṃsā koñcā mayūrā cā (Geese, cranes, and peacocks) – The Teacher spoke this while dwelling at Jetavana, concerning the Venerable Lakuṇḍaka Bhaddiya.
Haṃsā koñcā mayūrā cā (Thiên nga, sếu, công và...) – Đức Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến Tôn giả Lakuṇḍakabhaddiya.
So kirāyasmā buddhasāsane pākaṭo ahosi paññāto madhurassaro madhuradhammakathiko paṭisambhidāppatto mahākhīṇāsavo asītiyā mahātherānaṃ antaro pamāṇena omako lakuṇḍako sāmaṇero viya, khuddako kīḷanatthāya kato viya.
Indeed, that Venerable One was renowned and well-known in the Buddha's Dispensation, having a sweet voice, being a sweet Dhamma speaker, having attained the analytical knowledges, a great Arahant, yet among the eighty great Elder monks, he was small in stature, like a dwarf novice, like a small toy made for playing.
Tôn giả ấy được biết đến trong giáo pháp của Đức Phật là người nổi tiếng, có giọng nói ngọt ngào, là người thuyết pháp ngọt ngào, đã đạt được các Phân Tích Giới, là một vị A La Hán vĩ đại trong số tám mươi vị Đại Trưởng Lão, nhưng thân hình nhỏ bé như một chú tiểu Lakuṇḍaka, như một món đồ chơi nhỏ.
Tasmiṃ ekadivasaṃ tathāgataṃ vanditvā jetavanakoṭṭhakaṃ gate janapadā tiṃsamattā bhikkhū ‘‘dasabalaṃ vandissāmā’’ti jetavanaṃ pavisantā vihārakoṭṭhake theraṃ disvā ‘‘sāmaṇero eso’’ti saññāya theraṃ cīvarakaṇṇe gaṇhantā hatthe gaṇhantā sīsaṃ gaṇhantā nāsāya parāmasantā kaṇṇesu gahetvā cāletvā hatthakukkuccaṃ katvā pattacīvaraṃ paṭisāmetvā satthāraṃ upasaṅkamitvā vanditvā nisīditvā satthārā madhurapaṭisanthāre kate pucchiṃsu – ‘‘bhante, lakuṇḍakabhaddiyatthero kira nāmeko tumhākaṃ sāvako madhuradhammakathiko atthi, kahaṃ so idānī’’ti.
One day, after paying homage to the Tathāgata, when he had gone to the Jetavana gatehouse, thirty monks from the countryside, entering Jetavana with the thought, "We will pay homage to the Ten-Powered One," saw the Elder in the monastery gatehouse and, perceiving him as "This is a novice," they grabbed the Elder by the corner of his robe, grabbed his hands, grabbed his head, touched his nose, took him by the ears and shook him, and after performing such mischievous acts with their hands, they put away their bowls and robes, approached the Teacher, paid homage, sat down, and after the Teacher had exchanged pleasantries, they asked, "Venerable Sir, there is said to be a disciple of yours named Lakuṇḍaka Bhaddiya Thera, a sweet Dhamma speaker. Where is he now?"
Một ngày nọ, ba mươi vị tỳ khưu từ các vùng quê, sau khi đảnh lễ Đức Như Lai và vào Jetavana với ý định “Chúng tôi sẽ đảnh lễ Đức Thập Lực,” đã thấy vị Trưởng Lão ở cổng tu viện và nghĩ rằng “Đây là một chú tiểu,” nên đã nắm góc y, nắm tay, nắm đầu, chạm vào mũi, kéo tai và lắc, rồi sau khi đã làm những hành động thiếu tôn kính đó, chỉnh lại y bát, họ đến gặp Đức Đạo Sư, đảnh lễ và ngồi xuống. Sau khi Đức Đạo Sư đã hỏi thăm một cách ân cần, họ hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, có một vị đệ tử của Ngài tên là Trưởng Lão Lakuṇḍakabhaddiya, người thuyết pháp ngọt ngào, hiện giờ Ngài ấy ở đâu?”
‘‘Kiṃ pana, bhikkhave, daṭṭhukāmatthā’’ti?
"But, monks, do you wish to see him?"
“Này các tỳ khưu, các ông muốn gặp Ngài ấy sao?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Vâng, bạch Đức Thế Tôn.”
‘‘Yaṃ, bhikkhave, tumhe dvārakoṭṭhake disvā cīvarakaṇṇādīsu gaṇhantā hatthakukkuccaṃ katvā āgatā, esa so’’ti.
"Monks, the one you saw at the gatehouse, whom you grabbed by the corner of his robe and so on, and with whom you performed mischievous acts with your hands before coming here, that is he."
“Này các tỳ khưu, người mà các ông đã thấy ở cổng, và đã nắm góc y, v.v., làm những hành động thiếu tôn kính rồi đến đây, chính là Ngài ấy.”
‘‘Bhante, evarūpo patthitapatthano abhinīhārasampanno sāvako kiṃkāraṇā appesakkho jāto’’ti?
"Venerable Sir, for what reason did a disciple of such aspirations, endowed with such a strong resolve, become of little power?"
“Bạch Đức Thế Tôn, tại sao một vị đệ tử có nguyện vọng cao cả như vậy lại có ít uy lực như thế?”
Satthā ‘‘attanā katapāpakammaṃ nissāyā’’ti vatvā tehi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Because of evil deeds done by himself," and being requested by them, recounted a past event.
Đức Đạo Sư nói: “Do nghiệp ác mà chính Ngài ấy đã tạo ra,” và theo lời thỉnh cầu của họ, đã kể lại câu chuyện quá khứ.
826
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto sakko devarājā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was Sakka, king of devas.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là Sakka, vua của các chư thiên.
Tadā brahmadattassa jiṇṇaṃ jarāppattaṃ hatthiṃ vā assaṃ vā goṇaṃ vā dassetuṃ na sakkā, keḷisīlo hutvā tathārūpaṃ disvāva anubandhāpeti, jiṇṇasakaṭampi disvā bhindāpeti, jiṇṇamātugāme disvā pakkosāpetvā udare paharāpetvā pātāpetvā puna uṭṭhāpetvā bhāyāpeti, jiṇṇapurise disvā laṅghake viya bhūmiyaṃ saṃparivattakādikīḷaṃ kīḷāpeti, apassanto ‘‘asukaghare kira mahallako atthī’’ti sutvāpi pakkosāpetvā kīḷati.
At that time, Brahmadatta could not be shown an old, decrepit elephant, horse, or ox, for he was playful by nature and, upon seeing such, would have them pursued; upon seeing an old cart, he would have it broken; upon seeing old women, he would have them called, hit them in the stomach, make them fall, then make them stand up again, and frighten them; upon seeing old men, he would make them play tumbling and other games on the ground like acrobats; if he did not see any, he would have them called even if he only heard, "There is an old man in such-and-such a house," and play with them.
Bấy giờ, Brahmadatta không thể chịu đựng được khi thấy một con voi, ngựa, hoặc bò già yếu; ông ta có tính cách thích đùa cợt, hễ thấy những thứ như vậy là ra lệnh đuổi theo; thấy một chiếc xe cũ kỹ thì ra lệnh đập phá; thấy những phụ nữ già thì gọi đến, đánh vào bụng, xô ngã, rồi lại bắt đứng dậy và hăm dọa; thấy những người đàn ông già thì bắt họ lăn lộn trên đất như những người nhào lộn, chơi các trò chơi như vậy; nếu không thấy, nghe nói “có một người già ở nhà kia,” ông ta cũng gọi đến để chơi đùa.
Manussā lajjantā attano mātāpitaro tiroraṭṭhāni pesenti, mātupaṭṭhānadhammo pitupaṭṭhānadhammo pacchijji, rājasevakāpi keḷisīlāva ahesuṃ.
People, feeling ashamed, sent their parents to other countries; the duties of caring for mothers and fathers ceased; royal servants also became playful.
Người dân xấu hổ, đã gửi cha mẹ của mình đến các vùng xa xôi; bổn phận phụng dưỡng mẹ cha đã bị gián đoạn; các quan lại của nhà vua cũng có tính cách thích đùa cợt như vậy.
Matamatā cattāro apāye pūrenti, devaparisā parihāyati.
Those who died filled the four lower realms, and the assembly of devas diminished.
Những người đã chết đều đầy bốn cõi khổ, và hội chúng chư thiên bị suy giảm.
827
Sakko abhinave devaputte apassanto ‘‘kiṃ nu kho kāraṇa’’nti āvajjento taṃ kāraṇaṃ ñatvā ‘‘damessāmi na’’nti mahallakavaṇṇaṃ abhinimminitvā jiṇṇayānake dve takkacāṭiyo āropetvā dve jaragoṇe yojetvā ekasmiṃ chaṇadivase alaṅkatahatthiṃ abhiruhitvā brahmadatte alaṅkatanagaraṃ padakkhiṇaṃ karonte pilotikanivattho taṃ yānakaṃ pājento rañño abhimukho agamāsi.
Sakka, not seeing new devaputtas, pondered, "What could be the reason?" and knowing the reason, he thought, "I will tame him." He then created the appearance of an old man, loaded two pots of buttermilk onto an old cart, yoked two old oxen, and on a festival day, while Brahmadatta was circumambulating the decorated city riding on a decorated elephant, Sakka, dressed in worn-out clothes, drove his cart towards the king.
Thấy không có các vị thiên tử mới, Sakka suy nghĩ: “Nguyên nhân là gì vậy?” và khi biết được nguyên nhân đó, Ngài nói: “Ta sẽ chế ngự hắn,” rồi hóa hiện thành hình dạng một người già, chất hai chum bơ sữa lên một chiếc xe cũ kỹ, buộc hai con bò già vào, và vào một ngày lễ hội, khi Brahmadatta đang cưỡi voi trang sức đi vòng quanh thành phố được trang hoàng, Ngài mặc quần áo vải thô, điều khiển chiếc xe đó đi thẳng về phía nhà vua.
Rājā jiṇṇayānakaṃ disvā ‘‘etaṃ yānakaṃ apanethā’’ti vadati.
The king, seeing the old cart, said, "Remove that cart!"
Nhà vua thấy chiếc xe cũ kỹ thì nói: “Hãy dẹp chiếc xe đó đi!”
Manussā ‘‘kahaṃ, deva, na passāmā’’ti āhaṃsu.
The people said, "Where, Your Majesty? We do not see it."
Người dân nói: “Bạch Đức Vua, chúng tôi không thấy ở đâu cả.”
Sakko attano ānubhāvena raññoyeva dassesi.
Sakka, by his power, made it visible only to the king.
Sakka, bằng thần thông của mình, chỉ cho nhà vua thấy.
Atha naṃ bahusampatte tasmiṃ tassa uparibhāgena pājento rañño matthake ekaṃ cāṭiṃ bhinditvā nivattāpento dutiyaṃ bhindi.
Then, as it came very close, Sakka drove it over the king, broke one pot on his head, and as he turned back, broke the second.
Bấy giờ, khi chiếc xe đến gần, Sakka điều khiển nó đi phía trên đầu nhà vua, làm vỡ một chum bơ sữa trên đầu nhà vua, rồi quay lại làm vỡ chum thứ hai.
Athassa sīsato paṭṭhāya ito cito ca takkaṃ paggharati, so tena aṭṭīyati harāyati jigucchati.
Then buttermilk flowed from his head, here and there, and he was distressed, ashamed, and disgusted by it.
Bấy giờ, bơ sữa chảy từ đầu nhà vua xuống khắp nơi, khiến ông ta cảm thấy khó chịu, ghê tởm và kinh hãi.
Athassa taṃ upaddutabhāvaṃ ñatvā sakko yānakaṃ antaradhāpetvā sakkattabhāvaṃ māpetvā vajirahattho ākāse ṭhatvā ‘‘pāpa adhammikarāja, kiṃ tvaṃ mahallako na bhavissasi, tava sarīraṃ jarā na paharissati, keḷisīlo hutvā vuḍḍhe viheṭhanakammaṃ karosi, ekakaṃ taṃ nissāya etaṃ kammaṃ katvā matamatā apāye paripūrenti, manussā mātāpitaro paṭijaggituṃ na labhanti.
Then, knowing his distressed state, Sakka made the cart disappear, manifested his form as Sakka, and standing in the sky with a thunderbolt in his hand, said, "O wicked, unrighteous king, will you not become old? Will old age not strike your body? Being playful, you torment the old. Because of you alone, people who commit such deeds and die fill the lower realms; people are unable to care for their parents.
Sau đó, biết được tình trạng bị quấy nhiễu của họ, Sakka làm cho cỗ xe biến mất, hiện ra thân tướng Sakka, cầm chày kim cương đứng trên không và nói: “Hỡi vua ác, phi pháp! Chẳng lẽ ngươi sẽ không già sao? Thân thể ngươi sẽ không bị già yếu tấn công sao? Ngươi vui đùa mà làm hại người già. Do một mình ngươi mà người ta làm việc này rồi chết đi, đầy ắp các cõi khổ. Loài người không thể chăm sóc cha mẹ.
Sace imamhā kammā na viramissasi, vajirena te sīsaṃ padālessāmi, mā ito paṭṭhāyetaṃ kammaṃ akatthā’’ti santajjetvā mātāpitūnaṃ guṇaṃ kathetvā vuḍḍhāpacāyikakammassa ānisaṃsaṃ pakāsetvā ovaditvā sakaṭṭhānameva agamāsi.
If you do not desist from this action, I will cleave your head with a thunderbolt. Do not commit such an act from now on!" Having thus threatened him, and having spoken of the virtues of parents and declared the benefits of revering elders, he advised him and returned to his own abode.
Nếu ngươi không từ bỏ hành động này, ta sẽ dùng chày kim cương đập vỡ đầu ngươi. Từ nay trở đi đừng làm việc đó nữa!” Sau khi đe dọa, nói về công đức của cha mẹ, kể về lợi ích của việc tôn kính người già và khuyên dạy, ông ta trở về chỗ của mình.
Rājā tato paṭṭhāya tathārūpaṃ kammaṃ kātuṃ cittampi na uppādesi.
From that time onwards, the king did not even conceive the thought of doing such a deed.
Từ đó trở đi, nhà vua không còn khởi tâm muốn làm những việc như vậy nữa.
828
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā abhisambuddho hutvā imā gāthā avoca –
The Teacher, having brought forth this past event, and being fully enlightened, uttered these verses –
Đức Bổn Sư đã mang câu chuyện quá khứ này ra, sau khi giác ngộ, Ngài đã nói những câu kệ này:
829
103.
103.
103.
830
‘‘Haṃsā koñcā mayūrā ca, hatthayo pasadā migā;
"Swans, cranes, and peacocks, elephants, pasada deer, and other deer;
“Thiên nga, sếu, công,
831
Sabbe sīhassa bhāyanti, natthi kāyasmi tulyatā.
All fear the lion, there is no equality in body.
Voi, linh dương, hươu nai;
832
104.
104.
Tất cả đều sợ sư tử, không có sự tương đồng về thân thể.
833
‘‘Evameva manussesu, daharo cepi paññavā;
Even so, among humans, though young, if one is wise;
104.
834
So hi tattha mahā hoti, neva bālo sarīravā’’ti.
He is indeed great there, not a fool, however large in body."
Cũng vậy, giữa loài người, dù là người trẻ tuổi nhưng có trí tuệ; người đó thực sự là vĩ đại ở nơi ấy, không phải kẻ ngu si có thân thể to lớn.”
835
Tattha pasadā migāti pasadasaṅkhātā migā, pasadā migā ca avasesā migā cātipi attho.
Here, pasadā migā means deer called pasada, or it means pasada deer and other deer. The reading is also "pasadamigā," meaning pasada deer.
Ở đây, pasadā migā có nghĩa là những loài hươu nai được gọi là pasada, hoặc có nghĩa là những loài hươu nai pasadā và những loài hươu nai còn lại.
‘‘Pasadamigā’’tipi pāṭho, pasadā migāti attho.
The reading is also "pasadamigā," meaning pasada deer.
Cũng có bản đọc là “pasadamigāti”, có nghĩa là pasadā migā.
Natthi kāyasmi tulyatāti sarīre pamāṇaṃ nāma natthi.
Natthi kāyasmi tulyatā means there is no measure in the body.
Natthi kāyasmi tulyatā có nghĩa là không có sự tương đồng về thân thể.
Yadi bhaveyya, mahāsarīrā hatthino ceva pasadamigā ca sīhaṃ māreyyuṃ, sīho haṃsādayo khuddakasarīreyeva māreyya, khuddakāyeva sīhassa bhāyeyyuṃ, na mahantā.
If there were, large-bodied elephants and pasada deer would kill the lion, and the lion would kill only small-bodied swans and others; only the small would fear the lion, not the large.
Nếu có, những con voi và linh dương pasadā có thân hình to lớn sẽ giết sư tử, sư tử sẽ giết những con thiên nga và các loài nhỏ bé khác có thân hình nhỏ, và chỉ những con nhỏ mới sợ sư tử, chứ không phải những con to lớn.
Yasmā panetaṃ natthi, tasmā sabbepi te sīhassa bhāyanti.
But since this is not the case, all of them fear the lion.
Vì điều này không có, nên tất cả chúng đều sợ sư tử.
Sarīravāti bālo mahāsarīropi mahā nāma na hoti, tasmā lakuṇḍakabhaddiyo sarīrena khuddakopi mā taṃ ñāṇenapi khuddakoti maññitthāti attho.
Sarīravā means that a fool, even with a large body, is not called great; therefore, though Lakuṇḍaka Bhaddiya is small in body, do not think he is small in wisdom either.
Sarīravā có nghĩa là kẻ ngu si dù có thân thể to lớn cũng không được gọi là vĩ đại. Do đó, Lakunḍakabhaddiya dù thân hình nhỏ bé cũng đừng nghĩ rằng trí tuệ của vị ấy cũng nhỏ bé.
836
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne tesu bhikkhūsu keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino, keci arahanto ahesuṃ.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, declared the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, some of those bhikkhus became sotāpannas, some sakadāgāmins, some anāgāmins, and some arahants.
Đức Bổn Sư đã mang bài pháp này ra, sau khi tuyên bố Tứ Diệu Đế, Ngài đã kết hợp câu chuyện Jātaka. Khi kết thúc Tứ Diệu Đế, trong số các Tỳ-kheo ấy, một số đã chứng Sơ quả, một số Nhị quả, một số Tam quả, một số đã chứng A-la-hán.
‘‘Tadā rājā lakuṇḍakabhaddiyo ahosi, so tāya keḷisīlatāya paresaṃ keḷinissayo jāto, sakko pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the king was Lakuṇḍaka Bhaddiya; due to his playful nature, he became a source of play for others. But Sakka was I myself."
“Khi ấy, vị vua là Lakunḍakabhaddiya. Do tính cách thích vui đùa của mình, ông đã trở thành nguyên nhân cho người khác vui đùa. Còn Sakka chính là ta vậy.”
837
Keḷisīlajātakavaṇṇanā dutiyā.
The Second Chapter on the Keḷisīla Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Keli Sīla, thứ hai, đã hết.
838
* 3. Khandhajātakavaṇṇanā
* 3. Chapter on the Khandha Jātaka
* 3. Chuyện Tiền Thân Khandha
839
Virūpakkhehi me mettanti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Virūpakkhehi me mettaṃ – The Teacher, while residing at Jetavana, spoke this concerning a certain bhikkhu.
Virūpakkhehi me mettaṃ (Tình thương của ta với loài Virūpakka) – câu này được Đức Bổn Sư nói khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-kheo nọ.
Taṃ kira jantāgharadvāre kaṭṭhāni phālentaṃ pūtirukkhantarā nikkhamitvā eko sappo pādaṅguliyaṃ ḍaṃsi, so tattheva mato.
It is said that as he was splitting firewood at the entrance to the hot-bath house, a snake emerged from a decaying tree and bit his toe, and he died right there.
Người ta kể rằng, khi vị ấy đang bổ củi ở cửa nhà tắm, một con rắn đã chui ra từ một cây mục và cắn vào ngón chân của vị ấy, và vị ấy đã chết ngay tại đó.
Tassa matabhāvo sakalavihāre pākaṭo ahosi.
The news of his death became known throughout the entire monastery.
Tin tức về cái chết của vị ấy đã lan truyền khắp tịnh xá.
Dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko kira bhikkhu jantāgharadvāre kaṭṭhāni phālento sappena daṭṭho tattheva mato’’ti.
In the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion: "Friends, it is said that a certain bhikkhu, while splitting firewood at the entrance to the hot-bath house, was bitten by a snake and died right there."
Trong Pháp đường, các Tỳ-kheo đã khởi lên câu chuyện: “Này chư Hiền, nghe nói Tỳ-kheo nọ đang bổ củi ở cửa nhà tắm thì bị rắn cắn và chết ngay tại đó.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘sace so, bhikkhave, bhikkhu cattāri ahirājakulāni ārabbha mettaṃ abhāvayissa, na naṃ sappo ḍaṃseyya.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what is the topic of your present discussion?" When told, "This is it," he said, "Bhikkhus, if that bhikkhu had cultivated loving-kindness towards the four royal families of snakes, the snake would not have bitten him.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Này chư Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi lại với câu chuyện gì vậy?” Khi được trả lời là “chuyện này đây”, Ngài nói: “Này chư Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo ấy đã tu tập tâm từ đối với bốn dòng rắn chúa, thì rắn đã không cắn vị ấy.
Porāṇakatāpasāpi anuppanne buddhe catūsu ahirājakulesu mettaṃ bhāvetvā tāni ahirājakulāni nissāya uppajjanakabhayato mucciṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Even ancient ascetics, before the appearance of a Buddha, cultivated loving-kindness towards the four royal families of snakes and were freed from the fear arising from those royal families of snakes." Having said this, he brought forth a past event.
Ngay cả các đạo sĩ thời xưa, khi Đức Phật chưa xuất hiện, cũng đã tu tập tâm từ đối với bốn dòng rắn chúa và thoát khỏi nỗi sợ hãi phát sinh từ những dòng rắn chúa ấy.” Nói xong, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
840
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto kāme pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā himavantapadese ekasmiṃ gaṅgānivattane assamapadaṃ māpetvā jhānakīḷaṃ kīḷanto isigaṇaparivuto vihāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī kingdom. Having come of age, he abandoned sensual pleasures, went forth into the ascetic life, developed supernormal powers and attainments, built an hermitage at a bend in the Gaṅgā in the Himavanta region, and lived there, delighting in jhāna, surrounded by a company of ascetics.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī. Khi trưởng thành, Ngài từ bỏ dục lạc, xuất gia làm đạo sĩ, thành tựu các thần thông và thiền định. Ngài đã xây dựng một am thất ở một khúc quanh sông Gaṅgā thuộc vùng Himavanta và sống ở đó cùng với một nhóm đạo sĩ, vui hưởng thiền định.
Tadā gaṅgātīre nānappakārā dīghajātikā isīnaṃ paripanthaṃ karonti, yebhuyyena isayo jīvitakkhayaṃ pāpuṇanti.
At that time, various kinds of long-bodied snakes on the banks of the Gaṅgā caused danger to the ascetics, and most of the ascetics met their end of life.
Khi ấy, bên bờ sông Gaṅgā có nhiều loại rắn dài gây nguy hiểm cho các đạo sĩ, phần lớn các đạo sĩ đã mất mạng.
Tāpasā tamatthaṃ bodhisattassa ārocesuṃ.
The ascetics reported this matter to the Bodhisatta.
Các đạo sĩ đã báo cáo sự việc đó cho Bồ-tát.
Bodhisatto sabbe tāpase sannipātāpetvā ‘‘sace tumhe catūsu ahirājakulesu mettaṃ bhāveyyātha, na vo sappā ḍaṃseyyuṃ, tasmā ito paṭṭhāya catūsu ahirājakulesu evaṃ mettaṃ bhāvethā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta gathered all the ascetics and said, "If you cultivate loving-kindness towards the four royal families of snakes, snakes will not bite you. Therefore, from now on, cultivate loving-kindness towards the four royal families of snakes in this way." Having said this, he uttered this verse –
Bồ-tát triệu tập tất cả các đạo sĩ lại và nói: “Nếu các vị tu tập tâm từ đối với bốn dòng rắn chúa, thì rắn sẽ không cắn các vị. Vì vậy, từ nay trở đi, các vị hãy tu tập tâm từ đối với bốn dòng rắn chúa như sau:” Nói xong, Ngài đọc câu kệ này:
841
105.
105.
105.
842
‘‘Virūpakkhehi me mettaṃ, mettaṃ erāpathehi me;
"My loving-kindness be with the Virūpakkhas, my loving-kindness be with the Erāpathas;
“Tâm từ của tôi với Virūpakkhā,
843
Chabyāputtehi me mettaṃ, mettaṃ kaṇhāgotamakehi cā’’ti.
My loving-kindness be with the Chabyāputtas, and my loving-kindness be with the Kaṇhāgotamakas."
Tâm từ của tôi với Erāpathā;
844
Tattha virūpakkhehi me mettanti virūpakkhanāgarājakulehi saddhiṃ mayhaṃ mettaṃ.
Therein, 'my mettā with the Virūpakkhas' means my mettā with the Virūpakkhā naga royal family.
Tâm từ của tôi với Chabyāputtā, và tâm từ của tôi với Kaṇhāgotamakā.”
Erāpathādīsupi eseva nayo.
The same method applies to Erāpatha and others.
Ở đây, virūpakkhehi me mettaṃ có nghĩa là tâm từ của tôi với dòng rắn chúa Virūpakkhā.
Etānipi hi erāpathanāgarājakulaṃ chabyāputtanāgarājakulaṃ kaṇhāgotamakanāgarājakulanti nāgarājakulāneva.
For these are also naga royal families: the Erāpatha naga royal family, the Chabyāputta naga royal family, and the Kaṇhāgotamaka naga royal family.
Đối với Erāpathā và các loài khác cũng vậy. Đây là những dòng rắn chúa như dòng rắn chúa Erāpathā, dòng rắn chúa Chabyāputtā và dòng rắn chúa Kaṇhāgotamakā.
845
Evaṃ cattāri nāgarājakulāni dassetvā ‘‘sace tumhe etesu mettaṃ bhāvetuṃ sakkhissatha, dīghajātikā vo na ḍaṃsissanti na viheṭhessantī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Having thus shown the four naga royal families and said, "If you are able to cultivate mettā towards them, the long-bodied creatures will not bite or harm you," he then spoke the second verse:
Như vậy, sau khi chỉ ra bốn dòng rắn chúa, Ngài nói: “Nếu các vị có thể tu tập tâm từ đối với những loài này, thì những loài rắn dài sẽ không cắn hay làm hại các vị.” Rồi Ngài đọc câu kệ thứ hai:
846
‘‘Apādakehi me mettaṃ, mettaṃ dvipādakehi me;
"My mettā is with the footless, my mettā is with the two-footed;
“Tâm từ của tôi với loài không chân, tâm từ của tôi với loài hai chân;
847
Catuppadehi me mettaṃ, mettaṃ bahuppadehi me’’ti.
My mettā is with the four-footed, my mettā is with the many-footed."
Tâm từ của tôi với loài bốn chân, tâm từ của tôi với loài nhiều chân.”
848
Tattha paṭhamapadena odissakaṃ katvā sabbesu apādakesu dīghajātikesu ceva macchesu ca mettābhāvanā dassitā, dutiyapadena manussesu ceva pakkhijātesu ca, tatiyapadena hatthiassādīsu sabbacatuppadesu, catutthapadena vicchikasatapadiuccāliṅgapāṇakamakkaṭakādīsu.
Therein, by the first line, the cultivation of mettā is shown, specifically directed towards all footless long-bodied creatures and fish; by the second line, towards humans and bird species; by the third line, towards all four-footed creatures like elephants and horses; and by the fourth line, towards scorpions, centipedes, spiders, insects, and so forth.
Ở đây, câu đầu tiên chỉ ra sự tu tập tâm từ đối với tất cả các loài không chân như rắn dài và cá; câu thứ hai đối với loài người và loài chim; câu thứ ba đối với tất cả các loài bốn chân như voi, ngựa, v.v.; câu thứ tư đối với bọ cạp, rết, nhện, rệp, v.v.
849
Evaṃ sarūpena mettābhāvanaṃ dassetvā idāni āyācanavasena dassento imaṃ gāthamāha –
Having thus shown the cultivation of mettā in its specific form, he now speaks this verse, showing it in the form of a request:
Sau khi trình bày sự tu tập tâm từ theo cách này, bây giờ Ngài trình bày theo cách cầu nguyện, đọc câu kệ này:
850
‘‘Mā maṃ apādako hiṃsi, mā maṃ hiṃsi dvipādako;
"May no footless creature harm me, may no two-footed creature harm me;
“Cầu mong loài không chân đừng làm hại tôi, cầu mong loài hai chân đừng làm hại tôi;
851
Mā maṃ catuppado hiṃsi, mā maṃ hiṃsi bahuppado’’ti.
May no four-footed creature harm me, may no many-footed creature harm me."
Cầu mong loài bốn chân đừng làm hại tôi, cầu mong loài nhiều chân đừng làm hại tôi.”
852
Tattha mā manti etesu apādakādīsu koci ekopi mā maṃ hiṃsatu, mā viheṭhetūti evaṃ āyācantā mettaṃ bhāvethāti attho.
Therein, 'may no me' means, "may not even one of these footless creatures, etc., harm me, may they not torment me." This is the meaning: "Cultivate mettā by making such a request."
Ở đây, mā maṃ có nghĩa là cầu mong không một loài nào trong số các loài không chân, v.v., làm hại tôi, làm khổ tôi. Như vậy, ý nghĩa là hãy tu tập tâm từ bằng cách cầu nguyện như thế.
853
Idāni anodissakavasena mettābhāvanaṃ dassento imaṃ gāthamāha –
Now, showing the cultivation of mettā in a non-specific way, he speaks this verse:
Bây giờ, Ngài trình bày sự tu tập tâm từ theo cách tổng quát, đọc câu kệ này:
854
‘‘Sabbe sattā sabbe pāṇā, sabbe bhūtā ca kevalā;
"May all beings, all creatures, and all existing things entirely;
“Tất cả chúng sinh, tất cả loài hữu tình, tất cả loài hiện hữu toàn bộ;
855
Sabbe bhadrāni passantu, mā kañci pāpamāgamā’’ti.
See all good things, may evil not come to anyone."
Cầu mong tất cả đều thấy điều tốt lành, cầu mong không điều ác nào đến với ai.”
856
Tattha taṇhādiṭṭhivasena vaṭṭe pañcasu khandhesu āsattā visattā laggā laggitāti sattā, assāsapassāsapavattanasaṅkhātena pāṇanavasena pāṇā, bhūtabhāvitanibbattanavasena bhūtāti evaṃ vacanamattaviseso veditabbo.
Therein, 'beings' refers to those who are attached, clinging, and stuck to the five aggregates in the cycle of existence due to craving and wrong view; 'creatures' refers to those who breathe through the process of inhalation and exhalation; 'existing things' refers to those that have come into being and are produced. Thus, a mere distinction in wording should be understood.
Ở đây, sattā (chúng sinh) là những kẻ bám víu, dính mắc, mắc kẹt vào năm uẩn trong vòng luân hồi do tham ái và tà kiến; pāṇā (hữu tình) là những kẻ có sự sống do hơi thở vào và ra; bhūtā (hiện hữu) là những kẻ đã được sinh ra và tồn tại. Như vậy, cần hiểu sự khác biệt về cách dùng từ.
Avisesena pana sabbānipetāni padāni sabbasattasaṅgāhakāneva.
However, these terms, without distinction, all encompass all beings.
Tuy nhiên, nói chung, tất cả những từ này đều bao gồm tất cả chúng sinh.
Kevalāti sakalā.
'Entirely' means completely.
Kevalā có nghĩa là toàn bộ.
Idaṃ sabbasaddasseva hi pariyāyavacanaṃ.
Indeed, this is a synonym for the word 'all'.
Đây là một từ đồng nghĩa với từ “sabba” (tất cả).
Bhadrāni passantūti sabbepete sattā bhadrāni sādhūni kalyāṇāneva passantu.
'May see good things' means may all these beings see only good, wholesome, and auspicious things.
Bhadrāni passantū có nghĩa là cầu mong tất cả chúng sinh này đều thấy những điều tốt lành, thiện hảo, an lạc.
Mā kañci pāpamāgamāti etesu kañci ekaṃ sattampi pāpaṃ lāmakaṃ dukkhaṃ mā āgamā, mā āgacchatu mā pāpuṇātu, sabbe averā abyāpajjā sukhī niddukkhā hontūti.
'May evil not come to anyone' means may no evil, wretchedness, or suffering come to even a single one of them; may all be free from enmity, free from ill-will, happy, and free from suffering.
Mā kañci pāpamāgamā có nghĩa là cầu mong không một chúng sinh nào trong số này gặp phải điều ác, điều xấu, đau khổ, cầu mong tất cả đều không có hận thù, không có ác ý, sống hạnh phúc và không đau khổ.
857
Evaṃ ‘‘sabbasattesu anodissakavasena mettaṃ bhāvethā’’ti vatvā puna tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇe anussarāpetuṃ –
Having thus said, "Cultivate mettā towards all beings in a non-specific way," he then, to remind them of the qualities of the Three Jewels, says:
Như vậy, sau khi nói: “Hãy tu tập tâm từ đối với tất cả chúng sinh một cách tổng quát,” Ngài lại nhắc nhở về công đức của Tam Bảo –
858
106.
106.
106.
859
‘‘Appamāṇo buddho, appamāṇo dhammo;
"Immeasurable is the Buddha, immeasurable is the Dhamma;
“Phật vô lượng, Pháp vô lượng;
860
Appamāṇo saṅgho’’ti āha.
Immeasurable is the Saṅgha."
Tăng vô lượng,” Ngài nói.
861
Tattha pamāṇakarānaṃ kilesānaṃ abhāvena guṇānañca pamāṇābhāvena buddharatanaṃ appamāṇaṃ.
Therein, the Buddha-gem is immeasurable due to the absence of defilements that set limits and the boundlessness of his qualities.
Ở đây, Bảo Phật vô lượng (appamāṇaṃ) vì không có các phiền não có thể đo lường và vì công đức của Ngài không thể đo lường.
Dhammoti navavidho lokuttaradhammo.
Dhamma refers to the ninefold supramundane Dhamma.
Dhammo là chín loại Pháp siêu thế.
Tassapi pamāṇaṃ kātuṃ na sakkāti appamāṇo.
It is also immeasurable because it cannot be measured.
Pháp ấy cũng không thể đo lường được, nên gọi là vô lượng.
Tena appamāṇena dhammena samannāgatattā saṅghopi appamāṇo.
And the Saṅgha is also immeasurable because they are endowed with that immeasurable Dhamma.
Vì Tăng đoàn được thành tựu với Pháp vô lượng ấy, nên Tăng đoàn cũng vô lượng.
862
Iti bodhisatto ‘‘imesaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇe anussarathā’’ti vatvā tiṇṇaṃ ratanānaṃ appamāṇaguṇataṃ dassetvā sappamāṇe satte dassetuṃ –
Thus, the Bodhisatta, having said, "Recollect the qualities of these Three Jewels," and having shown the immeasurable qualities of the Three Jewels, then, to show the measurable beings, says:
Như vậy, Bồ-tát nói: “Hãy nhớ đến công đức của Tam Bảo này,” sau khi chỉ ra công đức vô lượng của Tam Bảo, Ngài tiếp tục chỉ ra những chúng sinh có giới hạn:
863
‘‘Pamāṇavantāni sarīsapāni, ahi vicchika satapadī;
"Measurable are the creeping things: snake, scorpion, centipede;
“Những loài bò sát có giới hạn,
864
Uṇṇanābhi sarabū mūsikā’’ti āha.
Spider, lizard, mouse."
Rắn, bọ cạp, rết, nhện, cắc kè, chuột.” Ngài nói.
865
Tattha sarīsapānīti sappadīghajātikānaṃ nāmaṃ.
Therein, 'creeping things' is a name for snakes and long-bodied creatures.
Ở đây, sarīsapāni là tên gọi của các loài rắn dài.
Te hi sarantā gacchanti, sirena vā sapantīti sarīsapā.
For they move by creeping, or they move with their heads, hence they are called sarīsapā.
Chúng di chuyển bằng cách bò, hoặc chúng trườn bằng đầu, nên gọi là sarīsapā.
‘‘Ahī’’tiādi tesaṃ sarūpato nidassanaṃ.
'Snake' and so forth are examples of their forms.
“Ahī” và các từ khác là những ví dụ về hình dạng của chúng.
Tattha uṇṇanābhīti makkaṭako.
Therein, 'uṇṇanābhi' is a spider.
Ở đây, uṇṇanābhī là con nhện.
Tassa hi nābhito uṇṇāsadisaṃ suttaṃ nikkhamati, tasmā ‘‘uṇṇanābhī’’ti vuccati.
From its navel, a thread like wool emerges, therefore it is called uṇṇanābhi.
Vì từ rốn của nó tiết ra sợi tơ giống như len, nên nó được gọi là “uṇṇanābhī”.
Sarabūti gharagoḷikā.
'Sarabū' is a house lizard.
Sarabū là con cắc kè nhà.
866
Iti bodhisatto ‘‘yasmā etesaṃ antorāgādayo pamāṇakarā dhammā atthi, tasmā tāni sarīsapādīni pamāṇavantānī’’ti dassetvā ‘‘appamāṇānaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ ānubhāvena ime pamāṇavantā sattā rattindivaṃ parittakammaṃ karontūti evaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ guṇe anussarathā’’ti vatvā tato uttari kattabbaṃ dassetuṃ imaṃ gāthamāha –
Thus, the Bodhisatta, having shown that "because these creeping things, etc., have defilements like inner craving that set limits, they are measurable," and having said, "Recollect the qualities of the Three Jewels so that by the power of the immeasurable Three Jewels, these measurable beings may perform protective acts day and night," then, to show what should be done further, speaks this verse:
Như vậy, Bồ Tát đã chỉ ra rằng: “Vì những loài bò sát này có những pháp như nội tâm tham ái làm thước đo, nên chúng có giới hạn,” và nói: “Hãy quán tưởng các đức của Tam Bảo để những chúng sinh có giới hạn này, nhờ uy lực của Tam Bảo vô lượng, có thể thực hiện những hành động nhỏ nhặt ngày đêm,” rồi để chỉ ra điều cần làm tiếp theo, Ngài nói bài kệ này:
867
‘‘Katā me rakkhā katā me parittā, paṭikkamantu bhūtāni;
“Protection has been made by me, a safeguard has been made by me; may the beings retreat;
“Tôi đã tạo sự bảo vệ, tôi đã tạo sự phòng hộ; các loài hữu tình hãy tránh xa;
868
Sohaṃ namo bhagavato, namo sattannaṃ sammāsambuddhāna’’nti.
I pay homage to the Blessed One, homage to the seven Perfectly Self-Enlightened Ones.”
Tôi xin đảnh lễ Đức Thế Tôn, tôi xin đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác.”
869
Tattha katā me rakkhāti mayā ratanattayaguṇe anussarantena attano rakkhā gutti katā.
Therein, “protection has been made by me” means that by me, recollecting the virtues of the Triple Gem, protection and safeguard for myself have been made.
Trong đó, katā me rakkhā có nghĩa là tôi, người đã quán tưởng các đức của Tam Bảo, đã tạo sự bảo vệ, che chở cho mình.
Katā me parittāti parittāṇampi me attano kataṃ.
“A safeguard has been made by me” means that a safeguard for myself has also been made.
Katā me parittā có nghĩa là tôi cũng đã tự mình tạo sự phòng hộ.
Paṭikkamantu bhūtānīti mayi ahitajjhāsayāni bhūtāni paṭikkamantu apagacchantu.
“May the beings retreat” means may the beings with hostile intentions towards me retreat, may they go away.
Paṭikkamantu bhūtāni có nghĩa là các loài hữu tình có ý định bất lợi đối với tôi hãy tránh xa, hãy rời đi.
Sohaṃ namo bhagavatoti so ahaṃ evaṃ kataparitto atītassa parinibbutassa sabbassapi buddhassa bhagavato namo karomi.
“I pay homage to the Blessed One” means that I, having thus made a safeguard, pay homage to all Buddhas, the Blessed Ones, who have passed away into parinibbāna in the past.
Sohaṃ namo bhagavato có nghĩa là tôi, người đã được phòng hộ như vậy, xin đảnh lễ tất cả chư Phật quá khứ đã nhập Niết Bàn, Đức Thế Tôn.
Namo sattannaṃ sammāsambuddhānanti visesena pana atīte paṭipāṭiyā parinibbutānaṃ sattannaṃ sammāsambuddhānaṃ namo karomīti.
“Homage to the seven Perfectly Self-Enlightened Ones” means, specifically, I pay homage to the seven Perfectly Self-Enlightened Ones who passed away into parinibbāna in succession in the past.
Namo sattannaṃ sammāsambuddhānanti có nghĩa là đặc biệt, tôi xin đảnh lễ bảy vị Chánh Đẳng Giác quá khứ đã nhập Niết Bàn theo thứ tự.
870
Evaṃ ‘‘namakkāraṃ karontāpi satta buddhe anussarathā’’ti bodhisatto isigaṇassa imaṃ parittaṃ bandhitvā adāsi.
Thus, the Bodhisatta, having bound this protection for the assembly of ascetics, gave it, saying, “Even while paying homage, recollect the seven Buddhas.”
Như vậy, Bồ Tát đã trao bài kinh bảo hộ này cho nhóm ẩn sĩ, nói: “Khi đảnh lễ, hãy quán tưởng bảy vị Phật.”
Ādito pana paṭṭhāya dvīhi gāthāhi catūsu ahirājakulesu mettāya dīpitattā odissakānodissakavasena vā dvinnaṃ mettābhāvanānaṃ dīpitattā idaṃ parittaṃ idha vuttanti veditabbaṃ, aññaṃ vā kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ.
It should be understood that this protection is mentioned here because, from the very beginning, loving-kindness has been taught in two verses to the four royal families of snakes, or because two types of mettā-bhāvanā, specified and unspecified, have been taught; or another reason should be sought.
Tuy nhiên, cần biết rằng bài kinh bảo hộ này được nói ở đây vì từ đầu đã có sự giảng giải về lòng từ bi đối với bốn loài rắn chúa bằng hai bài kệ, hoặc đã có sự giảng giải về hai loại tu tập lòng từ bi theo cách có đối tượng và không có đối tượng, hoặc có thể tìm kiếm một lý do khác.
Tato paṭṭhāya isigaṇo bodhisattassa ovāde ṭhatvā mettaṃ bhāvesi, buddhaguṇe anussari.
From then on, the assembly of ascetics, abiding by the Bodhisatta’s advice, cultivated mettā and recollected the virtues of the Buddha.
Từ đó trở đi, nhóm ẩn sĩ đã tu tập lòng từ bi và quán tưởng các đức của chư Phật theo lời khuyên của Bồ Tát.
Evametesu buddhaguṇe anussarantesuyeva sabbe dīghajātikā paṭikkamiṃsu.
As they thus recollected the virtues of the Buddha, all the long-bodied snakes retreated.
Khi họ đang quán tưởng các đức của chư Phật như vậy, tất cả các loài rắn lớn đều tránh xa.
Bodhisattopi brahmavihāre bhāvetvā brahmalokaparāyaṇo ahosi.
The Bodhisatta also, having cultivated the Brahmavihāras, became destined for the Brahma world.
Bồ Tát cũng tu tập Tứ Vô Lượng Tâm và trở thành người đạt đến cõi Phạm Thiên.
871
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā isigaṇo buddhaparisā ahosi, gaṇasatthā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, the assembly of ascetics was the Buddha’s assembly, and the teacher of the assembly was I myself.”
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, nhóm ẩn sĩ là hội chúng của Đức Phật, còn giáo chủ của nhóm ấy chính là Ta.”
872
Khandhajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third chapter, the Khandha Jātaka, is concluded.
Chuyện Jātaka về loài Rắn (Khaṇḍa Jātaka), thứ ba, đã xong.
873
* 4. Vīrakajātakavaṇṇanā
* 4. The Vīraka Jātaka
* 4. Chuyện Jātaka về Vīraka
874
Api vīraka passesīti idaṃ satthā jetavane viharanto sugatālayaṃ ārabbha kathesi.
“O Vīraka, do you see?” The Teacher spoke this while dwelling at Jetavana, concerning the imitation of the Sugata.
Api vīraka passesī (Này Vīraka, ông có thấy không) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến nơi trú ngụ của Đức Thế Tôn.
Devadattassa parisaṃ gahetvā āgatesu hi theresu satthā ‘‘sāriputta, devadatto tumhe disvā kiṃ akāsī’’ti pucchitvā ‘‘sugatālayaṃ, bhante, dassesī’’ti vutte ‘‘na kho, sāriputta, idāneva devadatto mama anukiriyaṃ karonto vināsaṃ patto, pubbepi vināsaṃ pāpuṇī’’ti vatvā therena yācito atītaṃ āhari.
When the elders returned, having taken Devadatta’s retinue, the Teacher asked, “Sāriputta, what did Devadatta do when he saw you?” When it was said, “Bhante, he imitated the Sugata,” the Teacher said, “Sāriputta, it is not only now that Devadatta, imitating me, has met with ruin; he met with ruin in the past as well,” and being requested by the elder, he related a past event.
Khi các vị Trưởng Lão trở về sau khi Devadatta đã dẫn dắt hội chúng của mình, Đức Bổn Sư hỏi: “Này Sāriputta, Devadatta đã làm gì khi thấy các ông?” Khi được trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, hắn đã bắt chước nơi trú ngụ của Đức Thế Tôn,” Đức Bổn Sư nói: “Này Sāriputta, không phải chỉ bây giờ Devadatta mới bắt chước Ta mà bị hủy hoại, mà ngay cả trong quá khứ hắn cũng đã bị hủy hoại,” rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng Lão, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
875
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese udakakākayoniyaṃ nibbattitvā ekaṃ saraṃ upanissāya vasi, ‘‘vīrako’’tissa nāmaṃ ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn as a water crow in the Himālaya region and lived near a certain lake; his name was Vīraka.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh thành một con quạ nước ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, sống gần một hồ nước, tên của nó là Vīraka.
Tadā kāsiraṭṭhe dubbhikkhaṃ ahosi, manussā kākabhattaṃ vā dātuṃ yakkhanāgabalikammaṃ vā kātuṃ nāsakkhiṃsu.
At that time, there was a famine in the Kāsī country, and people were unable to give food to crows or perform sacrifices for yakkhas and nāgas.
Khi ấy, ở xứ Kāsī có nạn đói, người dân không thể cúng dường cơm cho quạ hay thực hiện lễ vật cho dạ xoa và nāga.
Chātakaraṭṭhato kākā yebhuyyena araññaṃ pavisiṃsu.
Most of the crows from the famine-stricken country entered the forest.
Đa số quạ từ vùng bị đói đã bay vào rừng.
Tattheko bārāṇasivāsī saviṭṭhako nāma kāko kākiṃ ādāya vīrakassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā taṃ saraṃ nissāya ekamante vāsaṃ kappesi.
One crow from Bārāṇasī, named Saviṭṭhaka, taking his mate, went to Vīraka’s dwelling place and settled at one side near that lake.
Một con quạ tên Saviṭṭhaka, sống ở Bārāṇasī, đã dẫn theo một con quạ cái đến nơi Vīraka ở và trú ngụ một bên hồ.
So ekadivasaṃ tasmiṃ sare gocaraṃ gaṇhanto vīrakaṃ saraṃ otaritvā macche khāditvā paccuttaritvā sarīraṃ sukkhāpentaṃ disvā ‘‘imaṃ udakakākaṃ nissāya sakkā bahū macche laddhuṃ, imaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti taṃ upasaṅkamitvā ‘‘kiṃ, sammā’’ti vutte ‘‘icchāmi taṃ sāmi upaṭṭhahitu’’nti vatvā ‘‘sādhū’’ti tena sampaṭicchito tato paṭṭhāya upaṭṭhāsi.
One day, while foraging in that lake, he saw Vīraka descend into the lake, eat fish, then ascend and dry his body, and thought, “By relying on this water crow, many fish can be obtained; I will attend upon him.” He approached Vīraka and, when asked, “What is it, friend?” he said, “Master, I wish to attend upon you.” Vīraka agreed, saying, “Good,” and from then on, Saviṭṭhaka attended upon him.
Một ngày nọ, khi đang kiếm ăn ở hồ đó, nó thấy Vīraka lặn xuống hồ, ăn cá, rồi lên bờ phơi khô mình, bèn nghĩ: “Nhờ con quạ nước này, mình có thể kiếm được nhiều cá, mình sẽ phụng sự nó,” rồi đến gần nó. Khi Vīraka hỏi: “Này bạn, có chuyện gì vậy?” Nó đáp: “Thưa chủ, tôi muốn phụng sự ngài,” và được Vīraka chấp thuận: “Tốt lắm,” rồi từ đó trở đi nó phụng sự Vīraka.
Vīrakopi tato paṭṭhāya attano yāpanamattaṃ khāditvā macche uddharitvā saviṭṭhakassa deti.
From then on, Vīraka, after eating enough for his own sustenance, would pull out fish and give them to Saviṭṭhaka.
Từ đó, Vīraka cũng chỉ ăn đủ cho mình rồi bắt cá đưa cho Saviṭṭhaka.
Sopi attano yāpanamattaṃ khāditvā sesaṃ kākiyā deti.
Saviṭṭhaka, in turn, would eat enough for his own sustenance and give the rest to his mate.
Saviṭṭhaka cũng ăn đủ cho mình rồi phần còn lại đưa cho quạ cái.
876
Tassa aparabhāge māno uppajji – ‘‘ayampi udakakāko kāḷako, ahampi kāḷako, akkhituṇḍapādehipi etassa ca mayhañca nānākaraṇaṃ natthi, ito paṭṭhāya iminā gahitamacchehi mayhaṃ kammaṃ natthi, ahameva gaṇhissāmī’’ti.
Later, conceit arose in him: “This water crow is black, and I am also black. There is no difference between him and me in terms of eyes, beak, and feet. From now on, I have no need for the fish caught by him; I myself will catch them.”
Sau đó, Saviṭṭhaka sinh lòng kiêu mạn: “Con quạ nước này cũng đen, mình cũng đen; về mắt, mỏ và chân cũng không có gì khác biệt giữa nó và mình. Từ nay trở đi, mình sẽ không cần cá do nó bắt nữa, mình sẽ tự mình bắt.”
So vīrakaṃ upasaṅkamitvā ‘‘samma, ito paṭṭhāya ahameva saraṃ otaritvā macche gaṇhissāmī’’ti vatvā ‘‘na tvaṃ, samma, udakaṃ otaritvā macche gaṇhanakakule nibbatto, mā nassī’’ti tena vāriyamānopi vacanaṃ anādiyitvā saraṃ oruyha udakaṃ pavisitvā ummujjamāno sevālaṃ chinditvā nikkhamituṃ nāsakkhi, sevālantare laggi, aggatuṇḍameva paññāyi.
He approached Vīraka and said, ‘‘Friend, from now on, I will descend into the lake myself and catch fish.’’ Even though he was warned by Vīraka, ‘‘Friend, you are not born into a family that descends into water to catch fish; do not perish,’’ he disregarded the warning, descended into the lake, entered the water, and while surfacing, was unable to break through the moss and come out. He got stuck in the moss, and only the tip of his beak was visible.
Nó đến gần Vīraka và nói: “Này bạn, từ nay trở đi, chính tôi sẽ lặn xuống hồ bắt cá.” Mặc dù Vīraka ngăn cản: “Này bạn, bạn không sinh ra trong dòng dõi có thể lặn xuống nước bắt cá, đừng tự hủy hoại mình,” nhưng nó không nghe lời, lặn xuống hồ và chui vào nước. Khi cố gắng ngoi lên, nó không thể thoát ra vì bị mắc kẹt trong rong rêu, chỉ còn thấy phần đầu mỏ.
So nirassāso antoudakeyeva jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
Without being able to breathe, he met his end right there in the water.
Nó chết ngạt ngay trong nước.
Athassa bhariyā āgamanaṃ apassamānā taṃ pavattiṃ jānanatthaṃ vīrakassa santikaṃ gantvā ‘‘sāmi, saviṭṭhako na paññāyati, kahaṃ nu kho so’’ti pucchamānā paṭhamaṃ gāthamāha –
Then his wife, not seeing his return, went to Vīraka to learn what had happened and, asking, ‘‘Master, Saviṭṭhaka is not to be seen; where might he be?’’ she spoke the first verse –
Sau đó, vợ nó không thấy nó trở về, bèn đến chỗ Vīraka để tìm hiểu sự việc, hỏi: “Thưa chủ, Saviṭṭhaka không thấy đâu cả, nó ở đâu vậy?” và nói bài kệ đầu tiên:
877
107.
107.
107.
878
‘‘Api vīraka passesi, sakuṇaṃ mañjubhāṇakaṃ;
‘‘O Vīraka, do you see my husband Saviṭṭhaka, the bird with a sweet voice,
“Này Vīraka, ông có thấy không, con chim có tiếng hót ngọt ngào,
879
Mayūragīvasaṅkāsaṃ, patiṃ mayhaṃ saviṭṭhaka’’nti.
who resembles a peacock’s neck?’’
Chồng tôi, Saviṭṭhaka, có màu sắc như cổ chim công?”
880
Tattha api, vīraka, passesīti, sāmi vīraka, api passasi.
Therein, api, vīraka, passesīti means, ‘‘Master Vīraka, do you see?’’
Trong đó, api, vīraka, passesī có nghĩa là, thưa chủ Vīraka, ông có thấy không.
Mañjubhāṇakanti mañjubhāṇinaṃ.
Mañjubhāṇakanti means ‘‘one with a sweet voice.’’
Mañjubhāṇakanti có nghĩa là người có tiếng nói ngọt ngào.
Sā hi rāgavasena ‘‘madhurassaro me patī’’ti maññati, tasmā evamāha.
She, out of passion, thought, ‘‘My husband has a sweet voice,’’ and therefore spoke thus.
Vì nàng, do lòng tham ái, nghĩ rằng: “Chồng mình có giọng nói ngọt ngào,” nên nói như vậy.
Mayūragīvasaṅkāsanti moragīvasamānavaṇṇaṃ.
Mayūragīvasaṅkāsanti means ‘‘having a color similar to a peacock’s neck.’’
Mayūragīvasaṅkāsanti có nghĩa là có màu sắc giống cổ chim công.
881
Taṃ sutvā vīrako ‘‘āma, jānāmi te sāmikassa gataṭṭhāna’’nti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, Vīraka said, ‘‘Yes, I know where your husband has gone,’’ and spoke the second verse –
Nghe vậy, Vīraka nói: “Phải, tôi biết nơi chồng cô đã đi,” rồi nói bài kệ thứ hai:
882
108.
108.
108.
883
‘‘Udakathalacarassa pakkhino, niccaṃ āmakamacchabhojino;
‘‘Saviṭṭhaka, imitating the bird that lives on water and land, always eating raw fish,
“Con chim sống trên cạn và dưới nước, thường ăn cá sống;
884
Tassānukaraṃ saviṭṭhako, sevāle paliguṇṭhito mato’’ti.
died entangled in moss.’’
Saviṭṭhaka đã bắt chước nó, bị mắc kẹt trong rong rêu mà chết.”
885
Tattha udakathalacarassāti udake ca thale ca carituṃ samatthassa.
Therein, udakathalacarassāti means ‘‘of one capable of moving on water and land.’’
Trong đó, udakathalacarassāti có nghĩa là có khả năng đi lại cả trên nước và trên cạn.
Pakkhinoti attānaṃ sandhāya vadati.
Pakkhinoti refers to himself.
Pakkhinoti nói về chính mình.
Tassānukaranti tassa anukaronto.
Tassānukaranti means ‘‘imitating him.’’
Tassānukaranti có nghĩa là bắt chước nó.
Sevāle paliguṇṭhito matoti udakaṃ pavisitvā sevālaṃ chinditvā nikkhamituṃ asakkonto sevālapariyonaddho antoudakeyeva mato, passa, etassa tuṇḍaṃ dissatīti.
Sevāle paliguṇṭhito matoti means, ‘‘Having entered the water and being unable to break through the moss and come out, he died, enveloped by moss, right there in the water. Look, his beak is visible!’’
Sevāle paliguṇṭhito matoti có nghĩa là nó đã lặn xuống nước, nhưng không thể thoát ra khỏi rong rêu, bị mắc kẹt trong rong rêu và chết ngay trong nước. Hãy nhìn, mỏ của nó đang lộ ra kìa.
Taṃ sutvā kākī paridevitvā bārāṇasimeva agamāsi.
Hearing that, the crow lamented and went to Bārāṇasī.
Nghe vậy, con quạ cái than khóc rồi bay về Bārāṇasī.
886
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā saviṭṭhako devadatto ahosi, vīrako pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka – ‘‘At that time, Saviṭṭhaka was Devadatta; Vīraka was I myself.’’
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, Saviṭṭhaka là Devadatta, còn Vīraka chính là Ta.”
887
Vīrakajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth, the Vīraka Jātaka.
Chuyện Jātaka về Vīraka, thứ tư, đã xong.
888
* 5. Gaṅgeyyajātakavaṇṇanā
* 5. The Gaṅgeyya Jātaka
* 5. Chuyện Jātaka về Gaṅgeyya
889
Sobhati maccho gaṅgeyyoti idaṃ satthā jetavane viharanto dve daharabhikkhū ārabbha kathesi.
Sobhati maccho gaṅgeyyoti – This the Teacher related while residing at Jetavana, concerning two young bhikkhus.
Sobhati maccho gaṅgeyyo (Con cá Gaṅgeyya đẹp đẽ) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến hai vị tỳ khưu trẻ.
Te kira sāvatthivāsino kulaputtā sāsane pabbajitvā asubhabhāvanaṃ anunuyuñjitvā rūpapasaṃsakā hutvā rūpaṃ upalāḷentā vicariṃsu.
It is said that these young men, sons of families from Sāvatthī, having gone forth into the Dispensation, cultivated the meditation on foulness but became praisers of beauty and went about indulging in form.
Nghe nói, hai vị ấy là con nhà lành ở Sāvatthī, đã xuất gia trong giáo pháp, nhưng lại không chuyên tâm tu tập pháp quán bất tịnh, mà lại ca ngợi vẻ đẹp hình thể, và sống trong sự nuông chiều sắc đẹp.
Te ekadivasaṃ ‘‘tvaṃ na sobhasi, ahaṃ sobhāmī’’ti rūpaṃ nissāya uppannavivādā avidūre nisinnaṃ ekaṃ mahallakattheraṃ disvā ‘‘eso amhākaṃ sobhanabhāvaṃ vā asobhanabhāvaṃ vā jānissatī’’ti taṃ upasaṅkamitvā ‘‘bhante, ko amhesu sobhano’’ti pucchiṃsu.
One day, having a dispute arising from their beauty, saying, ‘‘You are not beautiful, I am beautiful,’’ they saw an elderly thera sitting not far away and, thinking, ‘‘He will know whether we are beautiful or not beautiful,’’ they approached him and asked, ‘‘Venerable sir, who among us is beautiful?’’
Một ngày nọ, họ cãi nhau về vẻ đẹp của mình, nói: “Ông không đẹp, tôi mới đẹp.” Thấy một vị trưởng lão ngồi gần đó, họ nghĩ: “Vị này sẽ biết ai trong chúng ta đẹp hay không đẹp,” rồi đến gần Ngài hỏi: “Bạch Tôn giả, ai trong chúng con đẹp hơn?”
So ‘‘āvuso, tumhehi ahameva sobhanataro’’ti āha.
He said, ‘‘Friends, I am more beautiful than you.’’
Vị ấy đáp: “Này các hiền giả, chính tôi mới đẹp hơn các ông.”
Daharā ‘‘ayaṃ mahallako amhehi pucchitaṃ akathetvā apucchitaṃ kathetī’’ti taṃ paribhāsitvā pakkamiṃsu.
The young bhikkhus, thinking, ‘‘This elder does not answer what we asked but answers what we did not ask,’’ criticized him and departed.
Hai vị tỳ khưu trẻ bèn chê bai Ngài: “Vị trưởng lão này không trả lời điều chúng con hỏi mà lại nói điều không hỏi,” rồi bỏ đi.
Sā tesaṃ kiriyā bhikkhusaṅghe pākaṭā jātā.
Their action became known in the Saṅgha of bhikkhus.
Hành động của họ đã trở nên rõ ràng trong Tăng đoàn.
Athekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko mahallako thero kira te rūpanissitake dahare lajjāpesī’’ti.
Then, one day, in the Dhamma hall, they started a discussion – ‘‘Friends, it seems that such-and-such an elder thera shamed those young bhikkhus who were attached to beauty.’’
Rồi một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-khưu khởi lên câu chuyện: “Này chư Hiền, nghe nói vị trưởng lão kia đã làm cho các Sa-di trẻ dựa vào sắc đẹp phải hổ thẹn.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, ime dve daharā idāneva rūpapasaṃsakā, pubbepete rūpameva upalāḷentā vicariṃsū’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and, asking, ‘‘Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?’’ and being told, ‘‘This is it,’’ he said, ‘‘Bhikkhus, these two young bhikkhus are not praisers of beauty only now; in the past too, they went about indulging in beauty,’’ and he related a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này, bạch Ngài,” Ngài liền nói: “Này các Tỳ-khưu, hai Sa-di trẻ này không phải chỉ bây giờ mới tán dương sắc đẹp, mà trong quá khứ họ cũng đã từng sống chỉ để nuông chiều sắc đẹp mà thôi,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
890
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto gaṅgātīre rukkhadevatā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a tree deity on the bank of the Gaṅgā.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là một vị cây thần sống bên bờ sông Gaṅgā.
Tadā gaṅgāyamunānaṃ samāgamaṭṭhāne gaṅgeyyo ca yāmuneyyo ca dve macchā ‘‘ahaṃ sobhāmi, tvaṃ na sobhasī’’ti rūpaṃ nissāya vivadamānā avidūre gaṅgātīre kacchapaṃ nipannaṃ disvā ‘‘eso amhākaṃ sobhanabhāvaṃ vā asobhanabhāvaṃ vā jānissatī’’ti taṃ upasaṅkamitvā ‘‘kiṃ nu kho, samma kacchapa, gaṅgeyyo sobhati, udāhu yāmuneyyo’’ti pucchiṃsu.
At that time, at the confluence of the Gaṅgā and Yamunā rivers, two fish, one from the Gaṅgā and one from the Yamunā, arguing about their appearance, saying, "I am beautiful, you are not beautiful," saw a tortoise lying on the bank of the Gaṅgā not far away. Thinking, "This one will know whether we are beautiful or not beautiful," they approached it and asked, "Friend tortoise, is it the Gaṅgā fish that is beautiful, or the Yamunā fish?"
Lúc bấy giờ, tại nơi hợp lưu của sông Ganga và Yamuna, hai con cá, một con cá sông Ganga và một con cá sông Yamuna, cãi nhau về vẻ đẹp, rằng: "Ta đẹp, ngươi không đẹp." Khi thấy một con rùa đang nằm gần bờ sông Ganga, chúng nghĩ: "Con này sẽ biết ai đẹp, ai không đẹp." Chúng bèn đến gần con rùa và hỏi: "Này bạn rùa, cá sông Ganga đẹp hơn, hay cá sông Yamuna đẹp hơn?"
Kacchapo ‘‘gaṅgeyyopi sobhati, yāmuneyyopi sobhati, tumhehi pana dvīhi ahameva atirekataraṃ sobhāmī’’ti imamatthaṃ pakāsento paṭhamaṃ gāthamāha –
The tortoise, revealing this meaning, saying, "Both the Gaṅgā fish is beautiful and the Yamunā fish is beautiful, but among you two, I am more beautiful," then spoke the first verse:
Con rùa nói: "Cá sông Ganga cũng đẹp, cá sông Yamuna cũng đẹp, nhưng trong hai ngươi, ta còn đẹp hơn nhiều." Nói xong, nó tuyên bố ý này bằng bài kệ đầu tiên –
891
109.
109.
109.
892
‘‘Sobhati maccho gaṅgeyyo, atho sobhati yāmuno;
"The Gaṅgā fish is beautiful, and the Yamunā fish is also beautiful;
“Cá sông Ganga đẹp, và cá sông Yamuna cũng đẹp;
893
Catuppadoyaṃ puriso, nigrodhaparimaṇḍalo;
This four-footed being, like a banyan tree's girth,
Người bốn chân này, thân hình tròn trịa như cây bàng;
894
Īsakāyatagīvo ca, sabbeva atirocatī’’ti.
With a slightly long neck, surpasses all."
Với cái cổ hơi dài, vượt trội hơn tất cả.”
895
Tattha catuppadoyanti catuppado ayaṃ.
Therein, catuppadoyaṃ means "this four-footed being."
Trong đó, catuppadoyaṃ có nghĩa là ‘người bốn chân này’.
Purisoti attānaṃ sandhāya vadati.
Puriso refers to himself.
Puriso là nói về chính mình.
Nigrodhaparimaṇḍaloti sujāto nigrodho viya parimaṇḍalo.
Nigrodhaparimaṇḍalo means "round like a well-grown banyan tree."
Nigrodhaparimaṇḍalo là tròn trịa, cân đối như cây bàng sum suê.
Īsakāyatagīvoti rathīsā viya āyatagīvo.
Īsakāyatagīvo means "having a neck as long as a chariot pole."
Īsakāyatagīvo là cổ dài như trục xe.
Sabbeva atirocatīti evaṃ saṇṭhānasampanno kacchapo sabbeva atirocati, ahameva sabbe tumhe atikkamitvā sobhāmīti vadati.
Sabbeva atirocati means "a tortoise with such a physique surpasses all; I alone am more beautiful than all of you."
Sabbeva atirocatī là con rùa có hình dáng hoàn hảo như vậy vượt trội hơn tất cả, ý nói: "Chính ta vượt trội hơn tất cả các ngươi và đẹp hơn."
896
Macchā tassa kathaṃ hutvā ‘‘ambho!
The fish, becoming angry at its words, said, "Hey!
Hai con cá nghe lời đó, nói: "Này!
Pāpakacchapa amhehi pucchitaṃ akathetvā aññameva kathesī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Wicked tortoise, you did not answer what we asked, but spoke of something else," and then spoke the second verse:
Con rùa xấu xa kia, ngươi không trả lời điều chúng ta hỏi mà lại nói chuyện khác." Nói xong, chúng đọc bài kệ thứ hai –
897
110.
110.
110.
898
‘‘Yaṃ pucchito na taṃ akkhāsi, aññaṃ akkhāsi pucchito;
"What was asked, that you did not tell; when asked, you told something else.
“Ngươi được hỏi mà không nói điều đã hỏi, lại nói điều khác;
899
Atthappasaṃsako poso, nāyaṃ asmāka ruccatī’’ti.
This person who praises himself is not pleasing to us."
Kẻ tự khen mình như thế, chúng ta không ưa.”
900
Tattha attappasaṃsakoti attānaṃ pasaṃsanasīlo attukkaṃsako poso.
Therein, attappasaṃsako means "a person who is accustomed to praising himself, who exalts himself."
Trong đó, attappasaṃsako là kẻ tự khen mình, tự đề cao mình.
Nāyaṃ asmāka ruccatīti ayaṃ pāpakacchapo amhākaṃ na ruccati na khamatīti kacchapassa upari udakaṃ khipitvā sakaṭṭhānameva gamiṃsu.
Nāyaṃ asmāka ruccatīti means "this wicked tortoise is not pleasing to us, not acceptable to us." Having said this, they splashed water on the tortoise and returned to their own place.
Nāyaṃ asmāka ruccatī là con rùa xấu xa này chúng ta không ưa, không chấp nhận. Nói xong, chúng hắt nước vào con rùa rồi trở về chỗ cũ.
901
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā dve macchā dve daharabhikkhū ahesuṃ, kacchapo mahallako, imassa kāraṇassa paccakkhakārikā gaṅgātīre nibbattarukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the two fish were the two young bhikkhus, the tortoise was the elder bhikkhu, and the tree deity who witnessed this event on the bank of the Gaṅgā was I myself."
Đức Bổn Sư sau khi thuyết Pháp này đã liên kết câu chuyện Jātaka: “Lúc bấy giờ, hai con cá là hai vị Tỳ-khưu trẻ, con rùa là vị Tỳ-khưu già. Còn vị thiên nữ cây cối sinh ra ở bờ sông Ganga, người chứng kiến câu chuyện này, chính là Ta.”
902
Gaṅgeyyajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth, the Gaṅgeyya Jātaka, is concluded.
Gaṅgeyyajātakavaṇṇanā, thứ năm.
903
* 6. Kuruṅgamigajātakavaṇṇanā
* 6. The Kuruṅgamiga Jātaka
* 6. Kuruṅgamigajātakavaṇṇanā
904
Iṅgha vaṭṭamayaṃ pāsanti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Iṅgha vaṭṭamayaṃ pāsaṃ – This the Teacher related while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta.
Iṅgha vaṭṭamayaṃ pāsaṃ – câu chuyện này Đức Bổn Sư đã kể khi ngự tại Veḷuvana, liên quan đến Devadatta.
Tadā hi satthā ‘‘devadatto vadhāya parisakkatī’’ti sutvā ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva mayhaṃ vadhāya parisakkati, pubbepi parisakkiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher, hearing that "Devadatta is striving for my destruction," said, "Bhikkhus, Devadatta is not only striving for my destruction now, but he also strove for it in the past," and then he related a past event.
Lúc bấy giờ, Đức Bổn Sư nghe nói: "Devadatta đang tìm cách ám hại Ngài," Ngài nói: "Này các Tỳ-khưu, không phải bây giờ Devadatta mới tìm cách ám hại Ta, mà trước đây y cũng đã từng tìm cách ám hại Ta rồi." Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.
905
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kuruṅgamigo hutvā araññe ekassa sarassa avidūre ekasmiṃ gumbe vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born as a Kuruṅga deer and made his abode in a thicket near a certain lake in the forest.
Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát sinh làm một con nai Kuruṅga, sống trong một bụi cây gần một cái hồ trong rừng.
Tasseva sarassa avidūre ekasmiṃ rukkhagge satapatto, sarasmiṃ pana kacchapo vāsaṃ kappesi.
Not far from that same lake, a woodpecker (satapatta) lived at the top of a tree, and a tortoise lived in the lake.
Gần cái hồ đó, có một con chim Satapatta sống trên ngọn cây, và một con rùa sống trong hồ.
Evaṃ te tayopi sahāyakā aññamaññaṃ piyasaṃvāsaṃ vasiṃsu.
Thus, all three of them lived in friendly companionship with each other.
Ba chúng sống hòa thuận với nhau như những người bạn thân thiết.
Atheko migaluddako araññe caranto pānīyatitthe bodhisattassa padavalañjaṃ disvā lohanigaḷasadisaṃ vaṭṭamayaṃ pāsaṃ oḍḍetvā agamāsi.
Then a hunter, roaming in the forest, saw the Bodhisatta's footprint at the watering place, set a snare made of twisted rope like an iron chain, and went away.
Một ngày nọ, một người thợ săn nai đi trong rừng, thấy dấu chân Bồ-tát ở chỗ uống nước, bèn đặt một cái bẫy bằng dây sắt giống như gông xiềng rồi bỏ đi.
Bodhisatto pānīyaṃ pātuṃ āgato paṭhamayāmeyeva pāse bajjhitvā baddharavaṃ ravi.
The Bodhisatta, coming to drink water, was caught in the snare in the first watch of the night and cried out loudly.
Bồ-tát đến uống nước, ngay trong canh đầu tiên đã bị mắc bẫy và kêu la.
Tassa tena saddena rukkhaggato satapatto udakato ca kacchapo āgantvā ‘‘kiṃ nu kho kātabba’’nti mantayiṃsu.
Hearing his cry, the woodpecker came from the treetop and the tortoise from the water, and they consulted, "What should be done?"
Nghe tiếng kêu đó, chim Satapatta từ ngọn cây và rùa từ dưới nước đến, bàn bạc: "Chúng ta phải làm gì đây?"
Atha satapatto kacchapaṃ āmantetvā ‘‘samma, tava dantā atthi, tvaṃ imaṃ pāsaṃ chinda, ahaṃ gantvā yathā so nāgacchati, tathā karissāmi, evaṃ amhehi dvīhipi kataparakkamena sahāyo no jīvitaṃ labhissatī’’ti imamatthaṃ pakāsento paṭhamaṃ gāthamāha –
Then the woodpecker addressed the tortoise, saying, "Friend, you have teeth; cut this snare. I will go and ensure that the hunter does not come. Thus, by the effort made by us two, our friend will regain his life," and revealing this meaning, he spoke the first verse:
Lúc đó, chim Satapatta gọi rùa và nói: "Này bạn, bạn có răng, bạn hãy cắn đứt cái bẫy này. Tôi sẽ đi và làm cho người thợ săn không đến được. Như vậy, nhờ sự cố gắng của hai chúng ta, bạn của chúng ta sẽ được sống." Nói xong, nó tuyên bố ý này bằng bài kệ đầu tiên –
906
111.
111.
111.
907
‘‘Iṅgha vaṭṭamayaṃ pāsaṃ, chinda dantehi kacchapa;
"Come, tortoise, cut this twisted snare with your teeth;
“Này rùa, hãy dùng răng cắn đứt cái bẫy bằng dây này;
908
Ahaṃ tathā karissāmi, yathā nehiti luddako’’ti.
I will act so that the hunter does not come."
Ta sẽ làm cho người thợ săn không đến được.”
909
Atha kacchapo cammavarattaṃ khādituṃ ārabhi, satapatto luddakassa vasanagāmaṃ gato avidūre rukkhe nisīdi.
Then the tortoise began to gnaw the leather thong, and the woodpecker went to the hunter's village and perched on a tree not far away.
Lúc đó, con rùa bắt đầu cắn dây da, còn chim Satapatta bay đến làng của người thợ săn và đậu trên một cái cây gần đó.
Luddako paccūsakāleyeva sattiṃ gahetvā nikkhami.
The hunter set out early in the morning, taking his spear.
Người thợ săn dậy sớm, cầm giáo đi ra.
Sakuṇo tassa nikkhamanabhāvaṃ ñatvā vassitvā pakkhe papphoṭetvā taṃ purimadvārena nikkhamantaṃ mukhe pahari.
The bird, knowing his intention to leave, chirped, flapped its wings, and struck him in the face as he exited through the front door.
Con chim biết người thợ săn đi ra, bèn kêu lên, vỗ cánh và mổ vào mặt hắn khi hắn đi ra bằng cửa trước.
Luddo ‘‘kāḷakaṇṇinā sakuṇenamhi pahaṭo’’ti nivattitvā thokaṃ sayitvā puna sattiṃ gahetvā uṭṭhāsi.
The hunter, thinking, "I have been struck by an inauspicious bird," turned back, lay down for a while, and then, taking his spear again, got up.
Người thợ săn nghĩ: "Ta bị con chim đen đủi này mổ," bèn quay vào, ngủ một lát, rồi lại cầm giáo đứng dậy.
Sakuṇo ‘‘ayaṃ paṭhamaṃ purimadvārena nikkhanto idāni pacchimadvārena nikkhamissatī’’ti ñatvā gantvā pacchimagehe nisīdi.
The bird, knowing, "He first exited through the front door; now he will exit through the back door," went and sat in the back part of the house.
Con chim biết: "Lần trước hắn đi ra bằng cửa trước, bây giờ hắn sẽ đi ra bằng cửa sau," bèn bay đến đậu ở ngôi nhà phía sau.
Luddopi ‘‘purimadvārena me nikkhantena kāḷakaṇṇī sakuṇo diṭṭho, idāni pacchimadvārena nikkhamissāmī’’ti pacchimadvārena nikkhami, sakuṇo puna vassitvā gantvā mukhe pahari.
The hunter also, thinking, "When I exited through the front door, I saw an inauspicious bird; now I will exit through the back door," exited through the back door. The bird again chirped, went, and struck him in the face.
Người thợ săn cũng nghĩ: "Khi ta đi ra bằng cửa trước, ta đã thấy con chim đen đủi, bây giờ ta sẽ đi ra bằng cửa sau," bèn đi ra bằng cửa sau. Con chim lại kêu lên và bay đến mổ vào mặt hắn.
Luddo ‘‘punapi kāḷakaṇṇīsakuṇena pahaṭo, na dāni me esa nikkhamituṃ detī’’ti nivattitvā yāva aruṇuggamanā sayitvā aruṇuggamanavelāya sattiṃ gahetvā nikkhami.
The hunter, thinking, "I have been struck again by the inauspicious bird; now it won't let me leave," turned back, lay down until dawn, and at dawn, taking his spear, he departed.
Người thợ săn nghĩ: "Lại bị con chim đen đủi này mổ nữa, nó không cho ta đi ra," bèn quay vào, ngủ cho đến khi trời sáng, rồi khi mặt trời mọc, hắn cầm giáo đi ra.
Sakuṇo vegena gantvā ‘‘luddo āgacchatī’’ti bodhisattassa kathesi.
The bird quickly went and told the Bodhisatta, "The hunter is coming!"
Con chim bay nhanh đến và báo cho Bồ-tát biết: "Người thợ săn đang đến!"
910
Tasmiṃ khaṇe kacchapena ekameva cammavaddhaṃ ṭhapetvā sesavarattā khāditā honti.
At that moment, the tortoise had eaten all the leather straps except for one.
Vào khoảnh khắc đó, con rùa đã cắn đứt tất cả các dây bẫy, chỉ còn lại một sợi dây da.
Dantā panassa patanākārappattā jātā, mukhato lohitaṃ paggharati.
Its teeth were on the verge of falling out, and blood flowed from its mouth.
Răng của nó sắp rụng, máu chảy ra từ miệng.
Bodhisatto luddaputtaṃ sattiṃ gahetvā asanivegena āgacchantaṃ disvā taṃ vaddhaṃ chinditvā vanaṃ pāvisi, sakuṇo rukkhagge nisīdi, kacchapo pana dubbalattā tattheva nipajji.
The Bodhisatta, seeing the hunter's son approaching with a spear with the speed of a thunderbolt, cut that strap and entered the forest. The bird perched on a treetop, but the tortoise, being weak, lay down right there.
Bồ-tát thấy con trai người thợ săn cầm giáo đến nhanh như chớp, bèn cắn đứt sợi dây còn lại và chạy vào rừng. Con chim đậu trên ngọn cây, còn con rùa vì yếu sức nên nằm ngay tại chỗ.
Luddo kacchapaṃ gahetvā pasibbake pakkhipitvā ekasmiṃ khāṇuke laggesi.
The hunter took the tortoise, put it in a net-bag, and hung it on a tree stump.
Người thợ săn bắt con rùa, bỏ vào giỏ và treo lên một gốc cây.
Bodhisatto nivattitvā olokento kacchapassa gahitabhāvaṃ ñatvā ‘‘sahāyassa jīvitadānaṃ dassāmī’’ti dubbalo viya hutvā luddassa attānaṃ dassesi.
The Bodhisatta, turning back and looking, knew that the tortoise had been caught, and thinking, "I will give my friend the gift of life," he made himself appear weak and showed himself to the hunter.
Bồ-tát quay lại nhìn, biết con rùa đã bị bắt, bèn giả vờ yếu ớt để người thợ săn thấy mình, nghĩ: "Ta sẽ hiến mạng sống để cứu bạn."
So ‘‘dubbalo esa bhavissati, māressāmi na’’nti sattiṃ ādāya anubandhi.
The hunter, thinking, "He must be weak; I will kill him," took his spear and pursued him.
Người thợ săn nghĩ: "Con này chắc yếu rồi, ta sẽ giết nó," bèn cầm giáo đuổi theo.
Bodhisatto nātidūre nāccāsanne gacchanto taṃ ādāya araññaṃ pāvisi, dūraṃ gatabhāvaṃ ñatvā padaṃ vañcetvā aññena maggena vātavegena gantvā siṅgena pasibbakaṃ ukkhipitvā bhūmiyaṃ pātetvā phāletvā kacchapaṃ nīhari.
The Bodhisatta, moving neither too far nor too near, led him into the forest. When he knew they had gone a long distance, he feigned a step, went swiftly by another path, lifted the net-bag with his horn, threw it to the ground, tore it open, and released the tortoise.
Bồ-tát chạy không quá xa, không quá gần, dẫn hắn vào rừng. Khi biết đã đi xa, Ngài đổi đường, chạy nhanh như gió, dùng sừng húc cái giỏ rơi xuống đất, xé toạc ra và giải thoát con rùa.
Satapattopi rukkhā otari.
The woodpecker also descended from the tree.
Chim Satapatta cũng bay xuống từ cây.
Bodhisatto dvinnampi ovādaṃ dadamāno ‘‘ahaṃ tumhe nissāya jīvitaṃ labhiṃ, tumhehi sahāyakassa kattabbaṃ mayhaṃ kataṃ, idāni luddo āgantvā tumhe gaṇheyya, tasmā, samma satapatta, tvaṃ attano puttake gahetvā aññattha yāhi, tvampi, samma kacchapa, udakaṃ pavisāhī’’ti āha.
The Bodhisatta, advising both of them, said, "I gained my life through you; you have done for me what a friend should do. Now the hunter might come and catch you. Therefore, friend woodpecker, take your young and go elsewhere. And you too, friend tortoise, enter the water."
Bồ-tát khuyên cả hai: "Ta đã được sống nhờ các bạn, các bạn đã làm điều một người bạn nên làm cho ta. Bây giờ người thợ săn có thể đến bắt các bạn. Vì vậy, này bạn Satapatta, bạn hãy đưa con cái của mình đi nơi khác. Còn bạn, này bạn rùa, bạn hãy xuống nước đi."
Te tathā akaṃsu.
They did so.
Chúng làm theo lời Ngài.
911
Satthā abhisambuddho hutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having become fully enlightened, spoke the second verse:
Đức Bổn Sư sau khi thành tựu giác ngộ đã đọc bài kệ thứ hai –
912
112.
112.
112.
913
‘‘Kacchapo pāvisī vāriṃ, kuruṅgo pāvisī vanaṃ;
“The tortoise entered the water, the antelope entered the forest;
“Rùa đã xuống nước, nai Kuruṅga đã vào rừng;
914
Satapatto dumaggamhā, dūre putte apānayī’’ti.
The woodpecker carried its young far away from the treetop.”
Chim Satapatta từ ngọn cây, đã đưa con cái đi xa.”
915
Tattha apānayīti ānayi, gahetvā agamāsīti attho;
Here, apānayī means 'took away', 'went carrying'.
Trong đó, apānayī có nghĩa là ‘ānayi’, tức là ‘đã đưa đi’, ‘đã mang đi’.
916
Luddopi taṃ ṭhānaṃ āgantvā kañci apassitvā chinnapasibbakaṃ gahetvā domanassappatto attano gehaṃ agamāsi.
The hunter also came to that spot, saw no one, took the torn net-bag, and, filled with sorrow, went to his own house.
Người thợ săn cũng đến chỗ đó, không thấy ai, bèn cầm cái giỏ bị xé rách và đau khổ trở về nhà.
Te tayopi sahāyā yāvajīvaṃ vissāsaṃ acchinditvā yathākammaṃ gatā.
Those three friends, without breaking their trust throughout their lives, went according to their kamma.
Ba người bạn đó đã sống hòa thuận suốt đời và sau đó đã đi theo nghiệp của mình.
917
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā luddako devadatto ahosi, satapatto sāriputto, kacchapo moggallāno, kuruṅgamigo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the hunter was Devadatta, the woodpecker was Sāriputta, the tortoise was Moggallāna, and the antelope was I myself."
Đức Bổn Sư sau khi thuyết Pháp này đã liên kết câu chuyện Jātaka: “Lúc bấy giờ, người thợ săn là Devadatta, chim Satapatta là Sāriputta, con rùa là Moggallāna, còn nai Kuruṅga chính là Ta.”
918
Kuruṅgamigajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth, the Kuruṅgamiga Jātaka.
Kuruṅgamigajātakavaṇṇanā, thứ sáu.
919
* 7. Assakajātakavaṇṇanā
* 7. The Assaka Jātaka
* 7. Assakajātakavaṇṇanā
920
Ayamassakarājenāti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
Ayamassakarājenāti: This the Teacher related while residing at Jetavana, concerning a monk who was tempted by his former wife.
Ayamassakarājenā – câu chuyện này Đức Bổn Sư đã kể khi ngự tại Jetavana, liên quan đến việc một vị Tỳ-khưu bị vợ cũ quyến rũ.
So hi bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘kena ukkaṇṭhāpitosī’’ti vutte ‘‘purāṇadutiyikāyā’’ti āha.
Indeed, when that monk was asked by the Teacher, "Is it true, monk, that you are discontented?" he said, "It is true." When asked, "By whom were you made discontented?" he replied, "By my former wife."
Vị Tỳ-khưu đó được Đức Bổn Sư hỏi: "Này Tỳ-khưu, có thật là ngươi chán nản phải không?" Vị ấy trả lời: "Thật vậy." Khi được hỏi: "Ai đã làm ngươi chán nản?" Vị ấy nói: "Vợ cũ của con."
Atha naṃ satthā ‘‘na idāneva tassā bhikkhu itthiyā tayi sineho atthi, pubbepi tvaṃ taṃ nissāya mahādukkhaṃ patto’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "It is not only now that this woman has affection for you, monk; in the past too, you experienced great suffering because of her," and he related a past event.
Lúc đó, Đức Bổn Sư nói với vị ấy: "Không phải bây giờ người phụ nữ đó mới có tình cảm với ngươi, mà trước đây ngươi cũng đã từng gặp đại khổ vì cô ta rồi." Nói xong, Ngài kể chuyện quá khứ.
921
Atīte kāsiraṭṭhe pāṭalinagare assako nāma rājā rajjaṃ kāresi.
In the past, in the Kasi kingdom, in the city of Pāṭali, a king named Assaka reigned.
Thuở xưa, tại thành Pāṭali thuộc xứ Kāsī, có vị vua tên là Assaka trị vì.
Tassa uparī nāma aggamahesī piyā ahosi manāpā abhirūpā dassanīyā pāsādikā atikkantā mānusavaṇṇaṃ, apattā dibbavaṇṇaṃ.
His chief queen, named Uparī, was dear, pleasing, beautiful, charming, surpassing human beauty, yet not attaining divine beauty.
Hoàng hậu của Ngài tên là Uparī, là người được yêu mến, xinh đẹp, khả ái, dễ nhìn, vượt trên vẻ đẹp của con người nhưng chưa đạt đến vẻ đẹp của chư thiên.
Sā kālamakāsi, tassā kālakiriyāya rājā sokābhibhūto ahosi dukkhī dummano.
She passed away. Due to her passing, the king became overwhelmed with sorrow, distressed, and dejected.
Nàng qua đời. Vì cái chết của nàng, nhà vua bị sầu khổ lấn át, đau đớn và buồn bã.
So tassā sarīraṃ doṇiyaṃ nipajjāpetvā telakalalaṃ pakkhipāpetvā heṭṭhāmañce ṭhapāpetvā nirāhāro rodamāno paridevamāno nipajji.
He had her body laid in a trough, had oil and paste put in it, placed it under his bed, and lay there, without food, weeping and lamenting.
Ngài cho đặt thi thể nàng vào một cái bồn, cho dầu mè vào, đặt dưới gầm giường, rồi tự mình nhịn ăn, khóc than, rên rỉ mà nằm xuống.
Mātāpitaro avasesañātakā mittāmaccabrāhmaṇagahapatikādayopi ‘‘mā soci, mahārāja, aniccā saṅkhārā’’tiādīni vadantā saññāpetuṃ nāsakkhiṃsu.
His parents, other relatives, friends, ministers, brahmins, and householders, even while saying things like, "Do not grieve, great king, impermanent are all formations," were unable to console him.
Cha mẹ, những người thân còn lại, bạn bè, quan lại, bà-la-môn, gia chủ, v.v… cũng không thể khuyên răn ngài, nói những lời như: “Đại vương, chớ buồn rầu, các hành là vô thường,” v.v…
Tassa vilapantasseva satta divasā atikkantā.
Seven days passed while he was thus lamenting.
Bảy ngày trôi qua trong khi ngài vẫn than khóc như vậy.
Tadā bodhisatto pañcābhiññaaṭṭhasamāpattilābhī tāpaso hutvā himavantapadese viharanto ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā jambudīpaṃ olokento taṃ rājānaṃ tathā paridevamānaṃ disvā ‘‘etassa mayā avassayena bhavitabba’’nti iddhānubhāvena ākāse uppatitvā rañño uyyāne otaritvā maṅgalasilāpaṭṭe kañcanapaṭimā viya nisīdi.
At that time, the Bodhisatta, having attained the five higher knowledges and eight attainments, was living as an ascetic in the Himalayan region. He extended his light and, looking over Jambudīpa with his divine eye, saw the king thus lamenting. Thinking, "I must surely help him," he ascended into the sky by his psychic power, descended into the king's park, and sat on an auspicious stone slab like a golden statue.
Khi ấy, Bồ Tát, đạt được năm thắng trí và tám định, trở thành một đạo sĩ, đang an trú tại vùng Hy Mã Lạp Sơn. Ngài tăng cường ánh sáng, dùng thiên nhãn quán sát khắp Jambudīpa, thấy nhà vua than khóc như vậy, nghĩ: “Ta nhất định phải giúp người này.” Với thần thông, ngài bay lên không trung, hạ xuống khu vườn của nhà vua, ngồi trên phiến đá cát tường như một bức tượng vàng.
922
Atheko pāṭalinagaravāsī brāhmaṇamāṇavo uyyānaṃ gato bodhisattaṃ disvā vanditvā nisīdi.
Then a brahmin youth from Pāṭali City went to the park, saw the Bodhisatta, paid homage, and sat down.
Sau đó, một thanh niên Bà-la-môn cư ngụ tại thành Pāṭali đến khu vườn, thấy Bồ Tát, đảnh lễ rồi ngồi xuống.
Bodhisatto tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘kiṃ, māṇava, rājā dhammiko’’ti pucchi.
The Bodhisatta exchanged greetings with him and asked, "Is the king righteous, young man?"
Bồ Tát chào hỏi anh ta rồi hỏi: “Này thanh niên, nhà vua có phải là người giữ Pháp không?”
‘‘Āma, bhante, dhammiko rājā, bhariyā panassa kālakatā, so tassā sarīraṃ doṇiyaṃ pakkhipāpetvā vilapamāno nipanno, ajja sattamo divaso, kissa tumhe rājānaṃ evarūpā dukkhā na mocetha, yuttaṃ nu kho tumhādisesu sīlavantesu saṃvijjamānesu rañño evarūpaṃ dukkhaṃ anubhavitu’’nti.
"Yes, Venerable Sir, the king is righteous, but his queen has passed away. He has placed her body in a trough and lies lamenting. Today is the seventh day. Why do you not free the king from such suffering? Is it proper for the king to experience such suffering while virtuous ones like yourselves are present?"
“Thưa Tôn giả, nhà vua là người giữ Pháp, nhưng hoàng hậu của ngài đã qua đời. Ngài đã cho đặt thi thể nàng vào một cái bồn và nằm than khóc. Hôm nay là ngày thứ bảy. Sao các vị không giải thoát nhà vua khỏi nỗi khổ như vậy? Chẳng phải là không hợp lý sao khi có những người giữ giới như các vị mà nhà vua lại phải chịu đựng nỗi khổ như thế?”
‘‘Na kho ahaṃ, māṇava, rājānaṃ jānāmi, sace pana so āgantvā maṃ puccheyya, ahamevassa tassā nibbattaṭṭhānaṃ ācikkhitvā rañño santikeyeva taṃ kathāpeyya’’nti.
"Young man, I do not know the king. But if he were to come and ask me, I would tell him where she was reborn and have her speak in the king's presence."
“Này thanh niên, ta không biết nhà vua. Nhưng nếu ngài đến và hỏi ta, ta sẽ chỉ cho ngài nơi nàng tái sinh và sẽ cho nàng nói chuyện ngay trước mặt nhà vua.”
‘‘Tena hi, bhante, yāva rājānaṃ ānemi, tāva imeva nisīdathā’’ti māṇavo bodhisattassa paṭiññaṃ gahetvā rañño santikaṃ gantvā tamatthaṃ ārocetvā ‘‘tassa dibbacakkhukassa santikaṃ gantuṃ vaṭṭatī’’ti āha.
"In that case, Venerable Sir, please remain seated here until I bring the king," said the youth, and after receiving the Bodhisatta's assent, he went to the king, reported the matter, and said, "It is proper to go to that one with the divine eye."
“Vậy thì, thưa Tôn giả, xin ngài cứ ngồi đây cho đến khi tôi đưa nhà vua đến.” Người thanh niên nhận lời hứa của Bồ Tát, đi đến chỗ nhà vua, kể lại câu chuyện đó và nói: “Nên đến gặp vị có thiên nhãn đó.”
923
Rājā ‘‘upariṃ kira daṭṭhuṃ labhissāmī’’ti tuṭṭhamānaso rathaṃ abhiruhitvā tattha gantvā bodhisattaṃ vanditvā ekamantaṃ nisinno – ‘‘saccaṃ kira tumhe deviyā nibbattaṭṭhānaṃ jānāthā’’ti pucchi.
The king, thinking, "I will surely get to see Uparī," was delighted. He mounted his chariot, went there, paid homage to the Bodhisatta, and sat to one side, asking, "Is it true that you know the queen's place of rebirth?"
Nhà vua, với tâm hoan hỷ nghĩ: “Mình có thể gặp lại Uparī,” liền lên xe ngựa, đến đó, đảnh lễ Bồ Tát rồi ngồi sang một bên. Ngài hỏi: “Có thật là Tôn giả biết nơi tái sinh của hoàng hậu không?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, great king," he replied.
“Vâng, Đại vương.”
‘‘Kattha nibbattā’’ti?
"Where was she reborn?"
“Nàng tái sinh ở đâu?”
‘‘Sā kho, mahārāja, rūpasmiṃyeva mattā pamādamāgamma kalyāṇakammaṃ akatvā imasmiṃyeva uyyāne gomayapāṇakayoniyaṃ nibbattā’’ti.
"Great king, she was infatuated with form, and through negligence, without performing wholesome deeds, she was reborn in this very park as a dung-beetle."
“Này Đại vương, nàng vì say đắm sắc đẹp mà phóng dật, không tạo thiện nghiệp, đã tái sinh trong chính khu vườn này, vào loài côn trùng trong phân bò.”
‘‘Nāhaṃ saddahāmī’’ti.
"I do not believe it," said the king.
“Tôi không tin.”
‘‘Tena hi te dassetvā kathāpemī’’ti.
"Then I will show her to you and have her speak," said the Bodhisatta.
“Vậy thì tôi sẽ cho ngài thấy và cho nàng nói chuyện.”
‘‘Sādhu kathāpethā’’ti.
"Please have her speak, Venerable Sir," said the king.
“Tốt lắm, xin Tôn giả hãy cho nàng nói chuyện.”
Bodhisatto attano ānubhāvena ‘‘ubhopi gomayapiṇḍaṃ vaṭṭayamānā rañño purato āgacchantū’’ti tesaṃ āgamanaṃ akāsi.
By his psychic power, the Bodhisatta caused them to approach, saying, "Let both dung-beetles roll a ball of dung and come before the king."
Bồ Tát, với thần thông của mình, đã làm cho hai con côn trùng bò ra trước mặt nhà vua, nói: “Cả hai con hãy lăn cục phân bò mà đi đến trước mặt nhà vua.”
Te tatheva āgamiṃsu.
They came just as he willed.
Chúng đã đến như vậy.
Bodhisatto taṃ dassento ‘‘ayaṃ te, mahārāja, uparidevī, taṃ jahitvā gomayapāṇakassa pacchato pacchato gacchati, passatha na’’nti āha.
Pointing to her, the Bodhisatta said, "This, great king, is your former queen, Uparī. She has abandoned you and follows behind the male dung-beetle. Do you not see her?"
Bồ Tát chỉ vào con côn trùng đó và nói: “Này Đại vương, đây là hoàng hậu Uparī của ngài. Nàng đã từ bỏ ngài mà đi theo sau con côn trùng phân bò kia. Ngài có thấy không?”
Bhante ‘‘‘uparī nāma gomayapāṇakayoniyaṃ nibbattissatī’ti na saddahāmaha’’nti.
"Venerable Sir, we do not believe that Uparī would be reborn as a dung-beetle."
“Thưa Tôn giả, tôi không tin rằng Uparī lại tái sinh vào loài côn trùng phân bò.”
‘‘Kathāpemi naṃ, mahārājā’’ti.
"Shall I make her speak, great king?"
“Này Đại vương, tôi sẽ cho nàng nói chuyện.”
‘‘Kathāpetha, bhante’’ti.
"Please make her speak, Venerable Sir," said the king.
“Xin Tôn giả hãy cho nàng nói chuyện,” nhà vua nói.
924
Bodhisatto attano ānubhāvena taṃ kathāpento ‘‘uparī’’ti āha.
By his psychic power, the Bodhisatta made her speak, saying, "Uparī!"
Bồ Tát, với thần thông của mình, cho nàng nói chuyện, gọi: “Uparī!”
Sā manussabhāsāya ‘‘kiṃ, bhante’’ti āha.
She replied in human speech, "What is it, Venerable Sir?"
Nàng nói bằng tiếng người: “Thưa Tôn giả, có việc gì ạ?”
‘‘Tvaṃ atītabhave kā nāma ahosī’’ti?
"Who were you in your past life?"
“Trong kiếp quá khứ, ngươi tên là gì?”
‘‘Bhante, assakarañño aggamahesī uparī nāma ahosi’’nti.
"Venerable Sir, I was Queen Uparī, the chief consort of King Assaka."
“Thưa Tôn giả, con là hoàng hậu Uparī của vua Assaka.”
‘‘Kiṃ pana te idāni assakarājā piyo, udāhu gomayapāṇako’’ti?
"Now, do you prefer King Assaka or the dung-beetle?"
“Vậy bây giờ, vua Assaka là người ngươi yêu quý, hay con côn trùng phân bò kia?”
‘‘Bhante, so mayhaṃ purimajātiyā sāmiko, tadā ahaṃ imasmiṃ uyyāne tena saddhiṃ rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbe anubhavamānā vicariṃ.
"Venerable Sir, he was my husband in my previous birth. At that time, I wandered in this park with him, experiencing forms, sounds, smells, tastes, and tactile objects.
“Thưa Tôn giả, ngài là chồng của con trong kiếp trước. Khi ấy, con đã cùng ngài hưởng thụ sắc, thanh, hương, vị, xúc trong khu vườn này.
Idāni pana me bhavasaṅkhepagatakālato paṭṭhāya so kiṃ hoti, ahañhi idāni assakarājānaṃ māretvā tassa galalohitena mayhaṃ sāmikassa gomayapāṇakassa pāde makkheyya’’nti vatvā parisamajjhe manussabhāsāya imā gāthā avoca –
But now, since the time of my change of existence, what is he to me? Indeed, I would kill King Assaka and smear the feet of my husband, the dung-beetle, with his throat-blood," she said, and then spoke these verses in human speech in the midst of the assembly:
Nhưng bây giờ, từ khi con chấm dứt kiếp sống đó, ngài là gì của con? Bây giờ, con sẽ giết vua Assaka, dùng máu ở cổ ngài để bôi chân cho chồng con là con côn trùng phân bò này.” Nói xong, nàng đọc những bài kệ này bằng tiếng người giữa hội chúng:
925
113.
113.
113.
926
‘‘Ayamassakarājena, deso vicarito mayā;
"This place was roamed by me with King Assaka;
“Nơi này, ta đã cùng
927
Anukāmaya kāmena, piyena patinā saha.
Desiring with desire, together with a beloved husband.
Vua Assaka dạo chơi, với người chồng yêu quý, cùng nhau hưởng thụ dục lạc.
928
114.
114.
114.
929
‘‘Navena sukhadukkhena, porāṇaṃ apidhīyati;
“By new pleasure and pain, the old is concealed;
Nỗi khổ vui mới đến,
930
Tasmā assakaraññāva, kīṭo piyataro mamā’’ti.
Therefore, to me, a worm is dearer than the Assaka king.”
Che lấp những điều xưa. Bởi thế, con côn trùng này, đối với ta, còn đáng yêu hơn vua Assaka.”
931
Tattha ayamassakarājena, deso vicarito mayāti ayaṃ ramaṇīyo uyyānapadeso pubbe mayā assakarājena saddhiṃ vicarito.
There, this region was roamed by me with the Assaka king means: this delightful garden area was previously roamed by me together with the Assaka king.
Ở đây, câu ayamassakarājena, deso vicarito mayā nghĩa là: Khu vườn xinh đẹp này, trước đây ta đã cùng vua Assaka dạo chơi.
Anukāmaya kāmenāti anūti nipātamattaṃ, mayā taṃ kāmayamānāya tena maṃ kāmayamānena sahāti attho.
Desiring with desire means anū is merely a particle; the meaning is, by me desiring him, and by him desiring me, together.
Anukāmaya kāmenā là một từ vô nghĩa anū, có nghĩa là: Ta yêu ngài, ngài yêu ta, chúng ta cùng nhau.
Piyenāti tasmiṃ attabhāve piyena.
Beloved means beloved in that existence.
Piyenā nghĩa là: Người yêu quý trong kiếp đó.
Navena sukhadukkhena, porāṇaṃ apidhīyatīti, bhante, navena hi sukhena porāṇaṃ sukhaṃ, navena ca dukkhena porāṇaṃ dukkhaṃ pidhīyati paṭicchādīyati, esā lokassa dhammatāti dīpeti.
By new pleasure and pain, the old is concealed means, Venerable Sir, by new pleasure, old pleasure, and by new pain, old pain is covered, is concealed; this is the nature of the world, she reveals.
Navena sukhadukkhena, porāṇaṃ apidhīyatī nghĩa là: Thưa Tôn giả, nỗi vui mới che lấp nỗi vui cũ, nỗi khổ mới che lấp nỗi khổ cũ. Đó là quy luật của thế gian.
Tasmā assakaraññāva, kīṭo piyataro mamāti yasmā navena porāṇaṃ pidhīyati, tasmā mama assakarājato sataguṇena sahassaguṇena kīṭova piyataroti.
Therefore, to me, a worm is dearer than the Assaka king means: because the old is concealed by the new, therefore, to me, a worm is a hundred times, a thousand times dearer than the Assaka king.
Tasmā assakaraññāva, kīṭo piyataro mamā nghĩa là: Vì cái mới che lấp cái cũ, nên con côn trùng này đối với ta còn đáng yêu hơn vua Assaka cả trăm, ngàn lần.
932
Taṃ sutvā assakarājā vippaṭisārī hutvā tattha ṭhitova kuṇapaṃ nīharāpetvā sīsaṃ nhatvā bodhisattaṃ vanditvā nagaraṃ pavisitvā aññaṃ aggamahesiṃ katvā dhammena rajjaṃ kāresi.
Hearing that, the Assaka king became remorseful, and remaining there, he had the corpse removed, washed his head, paid homage to the Bodhisatta, entered the city, appointed another chief queen, and ruled the kingdom righteously.
Nghe vậy, vua Assaka hối hận, ngay tại chỗ đó, ngài sai người mang xác chết đi, gội đầu, đảnh lễ Bồ Tát, rồi trở về thành, lập một hoàng hậu khác và trị vì vương quốc theo Chánh Pháp.
Bodhisattopi rājānaṃ ovaditvā nissokaṃ katvā himavantameva agamāsi.
The Bodhisatta, too, having advised the king and made him free from sorrow, returned to the Himalayas.
Bồ Tát cũng khuyên răn nhà vua, làm cho ngài hết sầu khổ, rồi trở về Hy Mã Lạp Sơn.
933
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, elucidated the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Thế Tôn thuyết giảng bài Pháp này, công bố các Chân Lý, rồi kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân Lý được công bố xong, vị tỳ-khưu chán nản đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā uparī purāṇadutiyikā ahosi, assakarājā ukkaṇṭhito bhikkhu, māṇavo sāriputto, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the former second wife was the former wife; the Assaka king was the discontented bhikkhu; the young man was Sāriputta; and the ascetic was I myself.”
“Khi ấy, Uparī là người vợ cũ, vua Assaka là vị tỳ-khưu chán nản, người thanh niên là Sāriputta, còn vị đạo sĩ chính là Ta.”
934
Assakajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh, the Commentary on the Assaka Jātaka.
Chuyện Tiền Thân Vua Assaka, thứ bảy, chấm dứt.
935
* 8. Susumārajātakavaṇṇanā
* 8. Commentary on the Susumāra Jātaka
* 8. Chuyện Tiền Thân Susumāra
936
Alaṃ metehi ambehīti idaṃ satthā jetavane viharanto devadattassa vadhāya parisakkanaṃ ārabbha kathesi.
Enough with these of ours—this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning Devadatta’s efforts to kill him.
Alaṃ metehi ambehī – Câu này được Đức Thế Tôn thuyết giảng khi ngài đang an trú tại Jetavana, liên quan đến nỗ lực của Devadatta nhằm sát hại ngài.
Tadā hi satthā ‘‘devadatto vadhāya parisakkatī’’ti sutvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva devadatto mayhaṃ vadhāya parisakkati, pubbepi parisakkiyeva, santāsamattampi pana kātuṃ na sakkhī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, when the Teacher heard, “Devadatta is striving to kill him,” he said, “Bhikkhus, it is not only now that Devadatta strives to kill me; he strove before as well, but he could not cause even the slightest fear,” and he recounted a past event.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe nói: “Devadatta đang nỗ lực sát hại ngài,” liền nói: “Này các tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Devadatta mới nỗ lực sát hại Ta. Trước đây, hắn cũng đã từng nỗ lực, nhưng không thể làm Ta sợ hãi chút nào.” Nói xong, ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
937
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente himavantapadese bodhisatto kapiyoniyaṃ nibbattitvā nāgabalo thāmasampanno mahāsarīro sobhaggappatto hutvā gaṅgānivattane araññāyatane vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was ruling in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn in the monkey species in the Himalayan region. Possessing the strength of an elephant, endowed with vigor, and of great physique, he attained beauty and resided in a forest sanctuary at a bend of the Gaṅgā.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta đang trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát tái sinh làm một con khỉ tại vùng Hy Mã Lạp Sơn, có sức mạnh của voi, thân hình to lớn, đẹp đẽ, và sống trong một khu rừng gần khúc quanh sông Gaṅgā.
Tadā gaṅgāya eko susumāro vasi.
At that time, a certain crocodile lived in the Gaṅgā.
Khi ấy, có một con cá sấu sống ở sông Gaṅgā.
Athassa bhariyā bodhisattassa sarīraṃ disvā tassa hadayamaṃse dohaḷaṃ uppādetvā susumāraṃ āha – ‘‘ahaṃ sāmi, etassa kapirājassa hadayamaṃsaṃ khāditukāmā’’ti.
Then his wife, seeing the Bodhisatta’s body, conceived a longing for his heart-flesh and said to the crocodile, “My lord, I wish to eat the heart-flesh of this monkey king.”
Vợ của nó nhìn thấy thân hình của Bồ Tát, liền nảy sinh ý muốn ăn tim của ngài, và nói với cá sấu: “Chồng ơi, em muốn ăn tim của vua khỉ này.”
‘‘Bhadde, mayaṃ jalagocarā, eso thalagocaro, kinti naṃ gaṇhituṃ sakkhissāmā’’ti.
“My dear, we are aquatic creatures, he is a terrestrial creature; how can we catch him?”
“Này hiền thê, chúng ta sống dưới nước, còn nó sống trên cạn. Làm sao chúng ta có thể bắt được nó?”
‘‘Yena kenaci upāyena gaṇha, sace na labhissāmi, marissāmī’’ti.
“Catch him by any means; if I don’t get it, I will die.”
“Bằng bất cứ cách nào, hãy bắt nó. Nếu không bắt được, em sẽ chết.”
‘‘Tena hi mā soci, attheko upāyo, khādāpessāmi taṃ tassa hadayamaṃsa’’nti susumāriṃ samassāsetvā bodhisattassa gaṅgāya pānīyaṃ pivitvā gaṅgātīre nisinnakāle santikaṃ gantvā evamāha – ‘‘vānarinda, imasmiṃ padese kasāyaphalāni khādanto kiṃ tvaṃ niviṭṭhaṭṭhāneyeva carasi, pāragaṅgāya ambalabujādīnaṃ madhuraphalānaṃ anto natthi, kiṃ te tattha gantvā phalāphalaṃ khādituṃ na vaṭṭatī’’ti?
“Then do not grieve; there is a way. I will make you eat his heart-flesh.” Having reassured his wife, the crocodile approached the Bodhisatta when he had drunk water from the Gaṅgā and was sitting on the bank of the Gaṅgā, and said this: “O King of Monkeys, why do you wander only in this fixed place, eating sour fruits? On the other side of the Gaṅgā, there is no end to sweet fruits like mangoes and rose-apples. Is it not proper for you to go there and eat fruits?”
“Vậy thì đừng buồn, có một cách. Ta sẽ cho nàng ăn tim của nó.” Cá sấu an ủi vợ, rồi khi Bồ Tát uống nước sông Gaṅgā và ngồi trên bờ, nó đến gần và nói: “Này vua khỉ, sao ngài cứ ở mãi một chỗ này ăn những trái cây chát? Bên kia sông Gaṅgā có vô số trái cây ngọt như xoài, ổi, v.v… Sao ngài không đến đó ăn trái cây?”
‘‘Kumbhīlarāja, gaṅgā mahodakā vitthiṇṇā, kathaṃ tattha gamissāmī’’ti?
“O King of Crocodiles, the Gaṅgā is vast and wide with much water; how shall I go there?”
“Này vua cá sấu, sông Gaṅgā nước sâu và rộng lớn, làm sao ta có thể qua đó?”
‘‘Sace icchasi, ahaṃ taṃ mama piṭṭhiṃ āropetvā nessāmī’’ti.
“If you wish, I will carry you on my back.”
“Nếu ngài muốn, tôi sẽ cõng ngài trên lưng đưa qua.”
So saddahitvā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
He believed him and agreed, saying, “Good.”
Bồ Tát tin lời và đồng ý: “Tốt lắm.”
‘‘Tena hi ehi piṭṭhiṃ me abhirūhā’’ti ca vutte taṃ abhiruhi.
When it was said, “Then come, climb onto my back,” he climbed on.
Khi được nói: “Vậy thì hãy đến leo lên lưng tôi,” ngài liền leo lên.
Susumāro thokaṃ netvā udake osīdāpesi.
The crocodile carried him a short distance and then submerged him in the water.
Cá sấu đi một đoạn rồi lặn xuống nước.
938
Bodhisatto ‘‘samma, udake maṃ osīdāpesi, kiṃ nu kho eta’’nti āha.
The Bodhisatta said, “Friend, you are submerging me in the water; what is this?”
Bồ Tát nói: “Này bạn, sao bạn lại dìm tôi xuống nước? Chuyện gì vậy?”
‘‘Nāhaṃ taṃ dhammasudhammatāya gahetvā gacchāmi, bhariyāya pana me tava hadayamaṃse dohaḷo uppanno, tamahaṃ tava hadayaṃ khādāpetukāmo’’ti.
“I am not taking you out of pure righteousness; rather, my wife has conceived a longing for your heart-flesh, and I wish to make her eat your heart.”
“Tôi không đưa ngài đi vì lòng tốt hay sự chân thật. Vợ tôi đã nảy sinh ý muốn ăn tim của ngài, tôi muốn cho nàng ăn tim ngài.”
‘‘Samma, kathentena te sundaraṃ kataṃ.
“Friend, you have done well by telling me.”
“Này bạn, bạn nói ra thật là tốt.”
Sace hi amhākaṃ udare hadayaṃ bhaveyya, sākhaggesu carantānaṃ cuṇṇavicuṇṇaṃ bhaveyyā’’ti.
"If indeed our hearts were in our stomachs, while we roam on treetops, they would be crushed to pieces."
Nếu tim chúng tôi nằm trong bụng, khi chúng tôi di chuyển trên ngọn cây, nó sẽ bị nghiền nát thành từng mảnh.”
‘‘Kahaṃ pana tumhe ṭhapethā’’ti?
"But where do you keep them?"
“Vậy các ngươi đặt chúng ở đâu?”
Bodhisatto avidūre ekaṃ udumbaraṃ pakkaphalapiṇḍisañchannaṃ dassento ‘‘passetāni amhākaṃ hadayāni etasmiṃ udumbare olambantī’’ti āha.
The Bodhisatta, pointing to a single udumbara tree nearby, covered with ripe clusters of fruit, said, "Look, our hearts hang on this udumbara tree."
Bồ Tát chỉ vào một cây vả gần đó, phủ đầy những chùm quả chín, nói: “Hãy nhìn xem, những trái tim của chúng tôi đang treo lủng lẳng trên cây vả này.”
‘‘Sace me hadayaṃ dassasi, ahaṃ taṃ na māressāmī’’ti.
"If you give me your heart, I will not kill you."
“Nếu ngươi cho ta trái tim của ngươi, ta sẽ không giết ngươi.”
‘‘Tena hi maṃ ettha nehi, ahaṃ te rukkhe olambantaṃ dassāmī’’ti.
"Then take me there, and I will show you it hanging on the tree."
“Vậy thì hãy đưa ta đến đó, ta sẽ chỉ cho ngươi thấy nó đang treo trên cây.”
So taṃ ādāya tattha agamāsi.
He took him and went there.
Nó liền đưa Bồ Tát đến đó.
Bodhisatto tassa piṭṭhito uppatitvā udumbararukkhe nisīditvā ‘‘samma, bāla susumāra, ‘imesaṃ sattānaṃ hadayaṃ nāma rukkhagge hotī’ti saññī ahosi, bālosi, ahaṃ taṃ vañcesiṃ, tava phalāphalaṃ taveva hotu, sarīrameva pana te mahantaṃ paññā pana natthī’’ti vatvā imamatthaṃ pakāsento imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, leaping from his back and sitting on the udumbara tree, said, "Friend, foolish crocodile, you thought that the hearts of these beings are on treetops; you are foolish, I have deceived you. Let your good and bad fortune be yours alone. Your body is large, but you have no wisdom." Having said this, revealing this matter, he spoke these verses:
Bồ Tát nhảy lên từ lưng nó, ngồi trên cây vả và nói: “Này cá sấu ngu ngốc, ngươi đã nghĩ rằng trái tim của những sinh vật này nằm trên ngọn cây sao? Ngươi thật ngu ngốc, ta đã lừa ngươi. Hậu quả của ngươi hãy tự chịu lấy, thân thể ngươi tuy to lớn nhưng trí tuệ lại không có.” Nói xong, để làm rõ ý nghĩa này, Ngài đã đọc những câu kệ sau:
939
115.
115.
115.
940
‘‘Alaṃ metehi ambehi, jambūhi panasehi ca;
"Enough for me are these mangoes, jambu fruits, and jackfruits;
“Đủ rồi với những quả xoài, quả jambu và quả mít;
941
Yāni pāraṃ samuddassa, varaṃ mayhaṃ udumbaro.
Which are beyond the ocean; better for me is the udumbara tree.
Những thứ nằm bên kia biển, cây vả này tốt hơn cho ta.
942
116.
116.
116.
943
‘‘Mahatī vata te bondi, na ca paññā tadūpikā;
"Great indeed is your body, but your wisdom is not commensurate with it;
Thân thể ngươi thật to lớn, nhưng trí tuệ không tương xứng;
944
Susumāra vañcito mesi, gaccha dāni yathāsukha’’nti.
O crocodile, you have been deceived by me; go now as you please."
Này cá sấu, ngươi đã bị ta lừa, giờ hãy đi theo ý ngươi.”
945
Tattha alaṃ metehīti yāni tayā dīpake niddiṭṭhāni, etehi mayhaṃ alaṃ.
Therein, enough for me are these means, "Enough for me are these that you mentioned on the island."
Trong đó, alaṃ metehī có nghĩa là: những quả mà ngươi đã chỉ định trên hòn đảo, đủ rồi với những thứ đó đối với ta.
Varaṃ mayhaṃ udumbaroti mayhaṃ ayameva udumbararukkho varaṃ.
Better for me is the udumbara means, "This very udumbara tree is better for me."
Varaṃ mayhaṃ udumbaro có nghĩa là: đối với ta, chính cây vả này là tốt nhất.
Bondīti sarīraṃ.
Body means the physical form.
Bondī có nghĩa là thân thể.
Tadūpikāti paññā pana te tadūpikā tassa sarīrassa anucchavikā natthi.
Commensurate with it means, "Your wisdom is not commensurate with that body."
Tadūpikā có nghĩa là trí tuệ của ngươi không tương xứng với thân thể đó.
Gaccha dāni yathāsukhanti idāni yathāsukhaṃ gaccha, natthi te hadayamaṃsagahaṇūpāyoti attho.
Go now as you please means, "Go now as you please; there is no way for you to obtain the heart-flesh."
Gaccha dāni yathāsukhanti có nghĩa là: giờ đây hãy đi theo ý ngươi, không có cách nào để ngươi lấy được miếng thịt tim đó.
Susumāro sahassaṃ parājito viya dukkhī dummano pajjhāyantova attano nivāsaṭṭhānameva gato.
The crocodile, as if having lost a thousand (coins), sorrowful and dejected, sighing, went to his own dwelling place.
Cá sấu, như một kẻ thua cuộc ngàn lần, đau khổ, buồn bã, chỉ biết thở dài mà quay về nơi ở của mình.
946
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā susumāro devadatto ahosi, susumārī ciñcamāṇavikā, kapirājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the crocodile was Devadatta, the female crocodile was Ciñcamāṇavikā, and the monkey king was I myself."
Đức Thế Tôn sau khi thuyết bài pháp này, đã kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, cá sấu là Devadatta, cá sấu cái là Ciñcamāṇavikā, còn vua khỉ chính là Ta vậy.”
947
Susumārajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth, the Story of the Crocodile Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Cá Sấu (Susumāra-jātaka) thứ tám.
948
* 9. Kukkuṭajātakavaṇṇanā
* 9. The Story of the Fowl Jātaka
* 9. Câu chuyện Jātaka về Gà Rừng (Kukkuṭa-jātaka)
949
Diṭṭhā mayā vane rukkhāti idaṃ satthā jetavane viharanto dhammasenāpatisāriputtattherassa saddhivihārikaṃ daharabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
"Trees in the forest have been seen by me" — The Teacher, while dwelling at Jetavana, told this in reference to a young monk, a co-resident of the Dhamma General Sāriputta Thera.
Diṭṭhā mayā vane rukkhā (Ta đã thấy những cây trong rừng) – Đức Thế Tôn khi ngự tại Jetavana, đã kể câu chuyện này liên quan đến một vị tỳ khưu trẻ là đệ tử của Trưởng lão Sāriputta, vị Tướng quân Pháp.
So kira attano sarīrassa guttikamme cheko ahosi.
It is said that he was skilled in the protection of his own body.
Vị ấy rất khéo léo trong việc giữ gìn thân thể của mình.
‘‘Sarīrassa me na sukhaṃ bhaveyyā’’ti bhayena atisītaṃ accuṇhaṃ paribhogaṃ na karoti, ‘‘sītuṇhehi sarīraṃ kilameyyā’’ti bhayena bahi na nikkhamati, atikilinnauttaṇḍulādīni na bhuñjati.
Fearing, "My body might not be well," he would not use things that were too cold or too hot; fearing, "My body might suffer from cold and heat," he would not go outside; he would not eat overly soaked or dry rice, etc.
Vì sợ thân thể không được thoải mái, vị ấy không dùng đồ quá lạnh hay quá nóng; vì sợ thân thể bị mệt mỏi do lạnh hoặc nóng, vị ấy không ra ngoài; vị ấy không ăn những món như gạo quá ẩm ướt hoặc quá khô.
Tassa sā sarīraguttikusalatā saṅghamajjhe pākaṭā jātā.
His skill in body protection became well-known in the monastic community.
Sự khéo léo trong việc giữ gìn thân thể của vị ấy đã trở nên nổi tiếng trong Tăng đoàn.
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko daharo kira bhikkhu sarīraguttikamme cheko’’ti.
The monks raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, it is said that a certain young monk is skilled in body protection."
Các tỳ khưu đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: “Thưa các bạn, nghe nói vị tỳ khưu trẻ kia rất khéo léo trong việc giữ gìn thân thể.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, ayaṃ daharo idāneva sarīraguttikamme cheko, pubbepi chekova ahosī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Monks, what discussion are you sitting together with now?" When told, "It is this one," he said, "Monks, this young monk is not skilled in body protection only now; he was skilled in it in the past too." Having said this, he recounted a past event.
Đức Thế Tôn đến và hỏi: “Này các tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Thưa Thế Tôn, chúng con đang nói chuyện này,” Ngài nói: “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trẻ này không phải chỉ bây giờ mới khéo léo trong việc giữ gìn thân thể, mà trước kia cũng đã từng khéo léo như vậy,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
950
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto araññāyatane rukkhadevatā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a tree deity in a forest region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là một vị thần cây trong rừng.
Atheko sakuṇaluddako ekaṃ dīpakakukkuṭamādāya vālarajjuñca yaṭṭhiñca gahetvā araññe kukkuṭe bandhanto ekaṃ palāyitvā araññaṃ paviṭṭhaṃ porāṇakukkuṭaṃ bandhituṃ ārabhi.
Then a fowler, taking a wild fowl, a hair-snare, and a stick, tying fowls in the forest, began to tie an old fowl that had escaped and entered the forest.
Bấy giờ, một người thợ săn chim, mang theo một con gà rừng từ đảo, cùng với dây thòng lọng làm bằng lông đuôi và một cây gậy, đi vào rừng để bắt gà rừng. Anh ta bắt đầu tìm cách bắt một con gà rừng già đã trốn thoát vào rừng.
So vālapāse kusalatāya attānaṃ bandhituṃ na deti, uṭṭhāyuṭṭhāya nilīyati.
Being skilled with hair-snares, he did not allow himself to be caught, but kept rising and hiding.
Con gà rừng đó, vì khéo léo với những chiếc bẫy lông đuôi, không để mình bị bắt, cứ bay lên rồi ẩn nấp.
Luddako attānaṃ sākhāpallavehi paṭicchādetvā punappunaṃ yaṭṭhiñca pāsañca oḍḍeti.
The fowler, concealing himself with branches and leaves, repeatedly set the stick and snare.
Người thợ săn che mình bằng cành lá, liên tục giăng gậy và bẫy.
Kukkuṭo taṃ lajjāpetukāmo mānusiṃ vācaṃ nicchāretvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The fowl, wishing to shame him, uttered a human voice and first spoke the verse:
Con gà rừng, muốn làm cho người thợ săn hổ thẹn, đã cất tiếng người và đọc câu kệ đầu tiên:
951
117.
117.
117.
952
‘‘Diṭṭhā mayā vane rukkhā, assakaṇṇā vibhīṭakā;
"Trees in the forest have been seen by me, assakaṇṇa and vibhīṭaka;
“Ta đã thấy trong rừng nhiều cây assakaṇṇa và vibhīṭaka;
953
Na tāni evaṃ sakkanti, yathā tvaṃ rukkha sakkasī’’ti.
They are not as skilled as you, O tree, are skilled."
Chúng không thể di chuyển như ngươi, này cây, ngươi có thể di chuyển.”
954
Tassattho – samma luddaka, mayā imasmiṃ vane jātā bahū assakaṇṇā ca vibhīṭakā ca rukkhā diṭṭhapubbā, tāni pana rukkhāni yathā tvaṃ sakkasi saṅkamasi ito cito ca vicarasi, evaṃ na sakkanti na saṅkamanti na vicarantīti.
Its meaning is: "Friend hunter, I have seen many assakaṇṇa and vibhīṭaka trees born in this forest. But those trees cannot move or wander here and there as you are able to move and wander."
Ý nghĩa của câu kệ đó là: Này người thợ săn, ta đã từng thấy nhiều cây assakaṇṇa và vibhīṭaka mọc trong rừng này. Nhưng những cây đó không thể di chuyển, không thể đi đây đi đó như ngươi di chuyển, ngươi đi đây đi đó.
955
Evaṃ vatvā ca pana so kukkuṭo palāyitvā aññattha agamāsi.
Having said this, that rooster fled and went elsewhere.
Nói xong, con gà rừng bay đi nơi khác.
Tassa palāyitvā gatakāle luddako dutiyaṃ gāthamāha –
When it had fled and gone, the hunter spoke the second verse –
Khi nó đã bay đi, người thợ săn đọc câu kệ thứ hai:
956
118.
118.
118.
957
‘‘Porāṇakukkuṭo ayaṃ, bhetvā pañjaramāgato;
"This is an old rooster, having broken out of the cage he has come;
“Đây là con gà rừng già, đã phá lồng mà ra;
958
Kusalo vālapāsānaṃ, apakkamati bhāsatī’’ti.
Skillful with snares of hair, he departs and speaks."
Nó khéo léo với bẫy lông đuôi, nó bỏ đi và nói chuyện.”
959
Tattha kusalo vālapāsānanti vālamayesu pāsesu kusalo attānaṃ bandhituṃ adatvā apakkamati ceva bhāsati ca, bhāsitvā ca pana palātoti evaṃ vatvā luddako araññe caritvā yathāladdhamādāya gehameva gato.
There, kusalo vālapāsānaṃ means "skillful with snares made of hair," not allowing himself to be caught, he departs and speaks, and having spoken, he fled. Having said this, the hunter, after wandering in the forest, took whatever he found and went home.
Trong đó, kusalo vālapāsānanti có nghĩa là: khéo léo với những chiếc bẫy làm bằng lông đuôi, nó không để mình bị bắt mà bỏ đi và nói chuyện, nói xong rồi bỏ chạy. Nói vậy, người thợ săn đi lang thang trong rừng, lấy những gì kiếm được rồi trở về nhà.
960
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā luddako devadatto ahosi, kukkuṭo kāyaguttikusalo daharabhikkhu, tassa pana kāraṇassa paccakkhakārikā rukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the hunter was Devadatta, the rooster was the young bhikkhu skilled in guarding the body, and the tree deity who was an eyewitness to that event was I myself."
Đức Thế Tôn sau khi thuyết bài pháp này, đã kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, người thợ săn là Devadatta, con gà rừng là vị tỳ khưu trẻ khéo léo giữ gìn thân thể, còn vị thần cây chứng kiến sự việc đó chính là Ta vậy.”
961
Kukkuṭajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Story of the Rooster Jātaka, is finished.
Câu chuyện Jātaka về Gà Rừng (Kukkuṭa-jātaka) thứ chín.
962
* 10. Kandagalakajātakavaṇṇanā
* 10. The Story of the Kandagalaka Jātaka
* 10. Câu chuyện Jātaka về Kandagalaka (Kandagalaka-jātaka)
963
Ambho ko nāmayaṃ rukkhoti idaṃ satthā veḷuvane viharanto sugatālayaṃ ārabbha kathesi.
Ambho ko nāmayaṃ rukkho – The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, spoke this in reference to Sugatālaya.
Ambho ko nāmayaṃ rukkho (Này, cây này tên gì) – Đức Thế Tôn khi ngự tại Veḷuvana, đã kể câu chuyện này liên quan đến Sugatālaya.
Tadā hi satthā ‘‘devadatto sugatālayaṃ akāsī’’ti sutvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva devadatto mayhaṃ anukiriyaṃ karonto vināsaṃ patto, pubbepi pāpuṇiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher, having heard that "Devadatta made Sugatālaya," said, "Monks, it is not only now that Devadatta, imitating me, has met with ruin; he met with it in the past too," and he related a past event.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nghe nói “Devadatta đã làm Sugatālaya,” Ngài nói: “Này các tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ Devadatta mới bắt chước Ta mà bị hủy hoại, trước kia cũng đã từng như vậy,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
964
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese rukkhakoṭṭakasakuṇayoniyaṃ nibbatti, ‘‘khadiravaniyo’’tissa nāmaṃ ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born as a woodpecker in the Himavanta region; his name was Khadiravaniya.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát tái sinh làm một con chim gõ kiến trong vùng Himavanta, tên là “Khadiravaniya.”
So khadiravaneyeva gocaraṃ gaṇhi, tasseko kandagalako nāma sahāyo ahosi, so simbalipālibhaddakavane gocaraṃ gaṇhāti.
He sought food only in the acacia forest. He had a friend named Kandagalaka, who sought food in the simbalipālibhaddaka forest.
Nó chỉ kiếm ăn trong rừng cây khadira. Nó có một người bạn tên là Kandagalaka, con này kiếm ăn trong rừng cây simbali và pālibhaddaka.
So ekadivasaṃ khadiravaniyassa santikaṃ agamāsi.
One day, he came to Khadiravaniya.
Một ngày nọ, nó đến chỗ Khadiravaniya.
Khadiravaniyo ‘‘sahāyo me āgato’’ti kandagalakaṃ gahetvā khadiravanaṃ pavisitvā khadirakhandhaṃ tuṇḍena paharitvā rukkhato pāṇake nīharitvā adāsi.
Khadiravaniya, thinking "my friend has come," took Kandagalaka, entered the acacia forest, struck an acacia trunk with his beak, extracted insects from the tree, and gave them to him.
Khadiravaniya, nghĩ “bạn ta đã đến,” liền dẫn Kandagalaka vào rừng khadira, dùng mỏ gõ vào thân cây khadira, lôi côn trùng ra và cho bạn ăn.
Kandagalako dinne dinne madhurapūve viya chinditvā chinditvā khādi.
Kandagalaka ate them, breaking them off as if they were sweet cakes, one by one as they were given.
Kandagalaka, cứ thế mà ăn, như thể đang ăn bánh ngọt.
Tassa khādantasseva māno uppajji – ‘‘ayampi rukkhakoṭṭakayoniyaṃ nibbatto, ahampi, kiṃ me etena dinnagocarena, sayameva khadiravane gocaraṃ gaṇhissāmī’’ti.
As he was eating, pride arose in him – "He is born of the woodpecker species, and so am I. What is this food given by him to me? I will seek food in the acacia forest myself."
Khi đang ăn, nó nảy sinh kiêu mạn: “Con này cũng sinh ra làm chim gõ kiến, ta cũng vậy. Cần gì nó cho ăn, ta sẽ tự kiếm ăn trong rừng khadira.”
So khadiravaniyaṃ āha – ‘‘samma, mā tvaṃ dukkhaṃ anubhavi, ahameva khadiravane gocaraṃ gaṇhissāmī’’ti.
He said to Khadiravaniya, "Friend, do not suffer; I will seek food in the acacia forest myself."
Nó nói với Khadiravaniya: “Này bạn, đừng chịu khổ nữa, ta sẽ tự kiếm ăn trong rừng khadira.”
965
Atha naṃ so ‘‘handa tvaṃ samma, simbalipālibhaddakādivane nissāre gocaraggahaṇakule jāto, khadirā nāma jātasārā thaddhā, mā te etaṃ ruccī’’ti āha.
Then he said to him, "Listen, friend, you were born in a family that seeks food in the simbalipālibhaddaka and other barren forests. Acacias are inherently hard and strong; may you not like this."
Bấy giờ, Khadiravaniya nói với nó: “Này bạn, ngươi sinh ra trong dòng dõi kiếm ăn ở những rừng cây vô vị như simbali và pālibhaddaka. Cây khadira thì cứng chắc, có lõi. Đừng làm điều đó.”
Kandagalako ‘‘kiṃ dānāhaṃ na rukkhakoṭṭakayoniyaṃ nibbatto’’ti tassa vacanaṃ anādiyitvā vegena gantvā khadirarukkhaṃ tuṇḍena pahari.
Kandagalaka, thinking "Am I not also born of the woodpecker species?", disregarded his words and quickly went and struck an acacia tree with his beak.
Kandagalaka, nghĩ “Sao ta lại không sinh ra làm chim gõ kiến chứ?”, không để ý lời bạn, liền nhanh chóng bay đến, dùng mỏ gõ vào cây khadira.
Tāvadevassa tuṇḍaṃ bhijji, akkhīni nikkhamanākārappattāni jātāni, sīsaṃ phalitaṃ.
Immediately, his beak broke, his eyes were on the verge of popping out, and his head split open.
Ngay lập tức, mỏ nó bị vỡ, mắt gần như lồi ra, đầu bị nứt.
So khandhe patiṭṭhātuṃ asakkonto bhūmiyaṃ patitvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Unable to remain on the trunk, he fell to the ground and spoke the first verse –
Nó không thể đứng vững trên thân cây, ngã xuống đất và đọc câu kệ đầu tiên:
966
119.
119.
119.
967
‘‘Ambho ko nāmayaṃ rukkho, sinnapatto sakaṇṭako;
"Oh, what kind of tree is this, with fine leaves and thorns,
“Này, cây này tên gì, lá nhỏ, có gai;
968
Yattha ekappahārena, uttamaṅgaṃ vibhijjita’’nti.
Where with a single strike, the head is shattered?"
Nơi mà chỉ một cú gõ, đỉnh đầu đã nứt vỡ?”
969
Tattha ambho ko nāmayaṃ rukkhoti, bho khadiravaniya, ko nāma ayaṃ rukkho.
There, ambho ko nāmayaṃ rukkho means, "Oh Khadiravaniya, what kind of tree is this?"
Trong đó, ambho ko nāmayaṃ rukkho có nghĩa là: Này Khadiravaniya, cây này tên gì?
‘‘Ko nāma so’’tipi pāṭho.
"What is its name?" is also a reading.
Cũng có bản đọc là “Ko nāma so” (Nó tên gì?).
Sinnapattoti sukhumapatto.
Sinnapatto means "with fine leaves."
Sinnapatto có nghĩa là lá nhỏ.
Yattha ekappahārenāti yasmiṃ rukkhe ekeneva pahārena.
Yattha ekappahārenā means "in which tree, with a single strike."
Yattha ekappahārenā có nghĩa là: trên cây đó, chỉ với một cú gõ.
Uttamaṅgaṃ vibhijjitanti sīsaṃ bhinnaṃ, na kevalañca sīsaṃ, tuṇḍampi bhinnaṃ.
Uttamaṅgaṃ vibhijjita means "the head is broken," and not only the head, but the beak is also broken.
Uttamaṅgaṃ vibhijjitanti có nghĩa là: đầu bị nứt, không chỉ đầu mà mỏ cũng bị vỡ.
So vedanāppattatāya khadirarukkhaṃ ‘‘kiṃ rukkho nāmeso’’ti jānituṃ asakkonto vedanāppatto hutvā imāya gāthāya vippalapi.
Being afflicted with pain, he was unable to know what kind of tree the acacia was, and being in pain, he lamented with this verse.
Vì đau đớn, Kandagalaka không thể biết cây khadira là cây gì, nó đau đớn mà than thở bằng câu kệ này.
970
Taṃ vacanaṃ sutvā khadiravaniyo dutiyaṃ gāthamāha –
Having heard those words, Khadiravaniya spoke the second verse –
Nghe lời đó, Khadiravaniya đọc câu kệ thứ hai:
971
120.
120.
120.
972
‘‘Acāri vatāyaṃ vitudaṃ vanāni, kaṭṭhaṅgarukkhesu asārakesu;
"Indeed, this one wandered pecking at forests, at trees with no heartwood,
“Này, con chim này đã từng kiếm ăn trong rừng, trên những cây gỗ mục không có lõi;
973
Athāsadā khadiraṃ jātasāraṃ, yatthabbhidā garuḷo uttamaṅga’’nti.
"Then he reached a khadira tree, full of heartwood, where the Garuḷa split its head."
Rồi nó gặp cây khadira có lõi, nơi mà con chim garuḷa đã làm vỡ đầu.”
974
Tattha acāri vatāyanti acari vata ayaṃ.
There, acāri vatāya means 'indeed, this one wandered'.
Trong đó, acāri vatāyanti có nghĩa là: con chim này đã từng kiếm ăn.
Vitudaṃ vanānīti nissārasimbalipālibhaddakavanāni vitudanto vijjhanto.
Vitudaṃ vanānī means 'piercing, striking the forests of pithless silk-cotton and palibhaddaka trees'.
Vitudaṃ vanānī có nghĩa là đâm chọc, xuyên thủng các khu rừng cây bông gòn và cây san hô vô dụng.
Kaṭṭhaṅgarukkhesūti vanakaṭṭhakoṭṭhāsesu rukkhesu.
Kaṭṭhaṅgarukkhesū means 'among trees that are remnants of forest wood'.
Kaṭṭhaṅgarukkhesū có nghĩa là các cây đã thành củi trong rừng.
Asārakesūti nissāresu pālibhaddakasimbaliādīsu.
Asārakesū means 'among pithless ones, such as palibhaddaka and silk-cotton trees'.
Asārakesū có nghĩa là các cây vô dụng như cây san hô, cây bông gòn, v.v.
Athāsadā khadiraṃ jātasāranti atha potakakālato paṭṭhāya jātasāraṃ khadiraṃ sampāpuṇi.
Athāsadā khadiraṃ jātasāra means 'then, from the time of its youth, it reached a khadira tree that had developed heartwood'.
Athāsadā khadiraṃ jātasāranti có nghĩa là sau đó nó đã tìm thấy cây khadira đã có lõi cứng từ khi còn là cây non.
Yatthabbhidā garuḷo uttamaṅganti yatthabbhidāti yasmiṃ khadire abhindi padālayi.
Yatthabbhidā garuḷo uttamaṅga means yatthabbhidā refers to 'in which khadira tree it split, tore apart'.
Yatthabbhidā garuḷo uttamaṅganti, yatthabbhidā có nghĩa là đã đâm thủng, đã xuyên qua cây khadira đó.
Garuḷoti sakuṇo.
Garuḷo means 'the bird'.
Garuḷo có nghĩa là con chim.
Sabbasakuṇānañhetaṃ sagāravasappatissa vacanaṃ.
This is a respectful and reverent term for all birds.
Đây là lời nói tôn kính dành cho tất cả các loài chim.
975
Iti naṃ khadiravaniyo vatvā ‘‘bho kandagalaka, yattha tvaṃ uttamaṅgaṃ abhindi, khadiro nāmeso sārarukkho’’ti āha.
Thus, the Khadiravaniyo, saying to him, 'Hey Kandagalaka, where you split your head, this is a khadira tree, a tree with heartwood,' spoke.
Như vậy, người rừng khadira nói với nó: “Này Kandagalaka, nơi ngươi đã đâm thủng đầu mình, cây khadira này là một cây có lõi cứng.”
So tattheva jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
He met his end of life right there.
Nó liền chết ngay tại đó.
976
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kandagalako devadatto ahosi, khadiravaniyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, Kandagalaka was Devadatta, but the Khadiravaniyo was I myself."
Đức Bổn Sư đã kể bài Pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, Kandagalaka là Devadatta, còn người rừng khadira chính là Ta vậy.”
977
Kandagalakajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth, the Kandagalaka Jātaka.
Chuyện Kandagalaka Jātaka thứ mười.
978
Nataṃdaḷhavaggo chaṭṭho.
The Sixth, the Nataṃdaḷhavagga.
Phẩm Nataṃdaḷha thứ sáu.
979
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tóm tắt phẩm đó –
980
Bandhanāgāraṃ keḷisīlaṃ, khaṇḍaṃ vīrakagaṅgeyyaṃ;
Bandhanāgāra, Keḷisīla, Khaṇḍa, Vīraka, Gaṅgeyya;
Bandhanāgāra, Keḷisīla, Khaṇḍa, Vīraka, Gaṅgeyya;
981
Kuruṅgamassakañceva, susumārañca kukkuṭaṃ;
Kuruṅga, Assaka, Susumāra, and Kukkuṭa;
Kuruṅga, Assaka, Susumāra, Kukkuṭa;
982
Kandagalakanti te dasa.
Kandagalaka—these are the ten.
Kandagalaka – đó là mười câu chuyện.
983

7. Bīraṇathambhavaggo

7. Bīraṇathambhavagga

7. Phẩm Bīraṇathambha

984
* 1. Somadattajātakavaṇṇanā
* 1. Somadatta Jātaka
* 1. Chuyện Somadatta Jātaka
985
Akāsi yogganti idaṃ satthā jetavane viharanto lāḷudāyittheraṃ ārabbha kathesi.
Akāsi yoggaṃ—the Teacher related this while residing at Jetavana, concerning Thera Lāḷudāyī.
Akāsi yogganti – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến Trưởng lão Lāḷudāyī.
So hi dvinnaṃ tiṇṇaṃ janānaṃ antare ekavacanampi sampādetvā kathesuṃ na sakkoti, sārajjabahulo ‘‘aññaṃ kathessāmī’’ti aññameva kathesi.
Indeed, he could not manage to speak even a single word among two or three people; being very shy, he would say 'I will say something else' and say something entirely different.
Vị ấy không thể nói trọn một câu giữa hai hoặc ba người, do quá bẽn lẽn, khi định nói một điều thì lại nói một điều khác.
Tassa taṃ pavattiṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathentā nisīdiṃsu.
The bhikkhus were sitting in the Dhamma hall, discussing this matter of his.
Các Tỳ-khưu ngồi trong Pháp đường kể về sự việc đó của vị ấy.
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, lāḷudāyī idāneva sārajjabahulo, pubbepi sārajjabahuloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what topic are you gathered for now?" When told, "This one, venerable sir," he said, "Bhikkhus, Lāḷudāyī is not only shy now, he was shy in the past too," and then recounted a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này, bạch Ngài,” Ngài liền nói: “Này các Tỳ-khưu, Lāḷudāyī không phải chỉ bây giờ mới bẽn lẽn, mà trong quá khứ vị ấy cũng đã từng bẽn lẽn,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
986
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe aññatarasmiṃ brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sippaṃ uggaṇhitvā puna gehaṃ āgantvā mātāpitūnaṃ duggatabhāvaṃ ñatvā ‘‘parihīnakulato seṭṭhikulaṃ patiṭṭhapessāmī’’ti mātāpitaro āpucchitvā bārāṇasiṃ gantvā rājānaṃ upaṭṭhāsi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a certain brahmin family in the Kāsī kingdom. Having reached maturity, he learned a craft in Takkasilā, then returned home. Knowing his parents' impoverished state, and thinking, "I will establish my family, which has declined, in a wealthy position," he asked his parents' permission and went to Bārāṇasī, where he served the king.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kāsī, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài học nghề ở Takkasilā, rồi trở về nhà, nhận thấy cha mẹ mình nghèo khó, Ngài nghĩ: “Ta sẽ giúp gia đình từ chỗ sa sút trở thành gia đình trưởng giả,” rồi xin phép cha mẹ đến Bārāṇasī và phục vụ nhà vua.
So raññā piyo ahosi manāpo.
He was dear and pleasing to the king.
Ngài được nhà vua yêu mến và hài lòng.
Athassa pituno ‘‘dvīhiyeva goṇehi kasiṃ katvā jīvikaṃ kappentassa eko goṇo mato.
Then, one of his father's two oxen, with which he earned his livelihood by farming, died.
Sau đó, một trong hai con bò của cha Ngài, người sống bằng nghề cày ruộng với hai con bò, đã chết.
So bodhisattaṃ upasaṅkamitvā ‘‘tāta, eko goṇo mato, kasikammaṃ na pavattati, rājānaṃ ekaṃ goṇaṃ yācāhī’’ti āha.
He approached the Bodhisatta and said, "My son, one ox has died, and farming cannot proceed. Ask the king for an ox."
Cha Ngài đến gặp Bồ-tát và nói: “Con ơi, một con bò đã chết, công việc cày cấy không tiến triển được, con hãy xin nhà vua một con bò.”
‘‘Tāta, nacirasseva me rājā diṭṭho, idāneva goṇaṃ yācituṃ na yuttaṃ, tumhe yācathā’’ti.
"Father, I have only recently seen the king; it is not appropriate to ask for an ox right now. You should ask."
“Cha ơi, con mới gặp nhà vua không lâu, bây giờ mà xin bò thì không thích hợp, cha hãy xin đi.”
‘‘Tāta, tvaṃ mayhaṃ sārajjabahulabhāvaṃ na jānāsi, ahañhi dvinnaṃ tiṇṇaṃ sammukhe kathaṃ sampādetuṃ na sakkomi.
"My son, you do not know my shyness; I cannot manage to speak in the presence of two or three people.
“Con ơi, con không biết tính bẽn lẽn của cha, cha không thể nói chuyện trôi chảy trước hai ba người được.
Sace ahaṃ rañño santikaṃ goṇaṃ yācituṃ gamissāmi, imampi datvā āgamissāmī’’ti.
If I go to the king to ask for an ox, I will come back having given away even this one."
Nếu cha đến chỗ nhà vua để xin bò, cha sẽ còn dâng cả con bò đang có mà về mất.”
‘‘Tāta, yaṃ hoti, taṃ hotu, na sakkā mayā rājānaṃ yācituṃ, apica kho panāhaṃ tumhe yoggaṃ kāressāmī’’ti.
"Father, whatever happens, let it happen; I cannot ask the king. However, I will train you."
“Cha ơi, chuyện gì đến thì đến, con không thể xin nhà vua được, nhưng con sẽ huấn luyện cha.”
‘‘Tena hi sādhu maṃ yoggaṃ kārehī’’ti.
"Then, good, train me."
“Vậy thì tốt, con hãy huấn luyện cha đi.”
987
Bodhisatto pitaraṃ ādāya bīraṇatthambhakasusānaṃ gantvā tattha tattha tiṇakalāpe bandhitvā ‘‘ayaṃ rājā, ayaṃ uparājā, ayaṃ senāpatī’’ti nāmāni katvā paṭipāṭiyā pitu dassetvā ‘‘tāta, tvaṃ rañño santikaṃ gantvā ‘jayatu, mahārājā’ti evaṃ imaṃ gāthaṃ vatvā goṇaṃ yāceyyāsī’’ti gāthaṃ uggaṇhāpesi –
The Bodhisatta took his father to the Bīraṇathambhaka cemetery. There, he tied bundles of grass here and there, named them 'this is the king, this is the viceroy, this is the commander,' and showed them to his father in order, saying, "Father, you should go to the king, say 'Victory to Your Majesty,' and then recite this verse to ask for an ox." He taught him the verse:
Bồ-tát dẫn cha đến nghĩa địa Bīraṇathambha, buộc các bó cỏ ở đó, đặt tên “Đây là vua, đây là phó vương, đây là tổng tư lệnh,” rồi lần lượt chỉ cho cha xem và nói: “Cha ơi, cha hãy đến chỗ nhà vua, nói ‘Vạn tuế, Đại vương!’ rồi đọc bài kệ này mà xin bò,” Ngài đã dạy cha học bài kệ:
988
‘‘Dve me goṇā mahārāja, yehi khettaṃ kasāmase;
"Two oxen, great king, by which we plough the field;
“Đại vương, con có hai con bò, dùng chúng để cày ruộng;
989
Tesu eko mato deva, dutiyaṃ dehi khattiyā’’ti.
Of these, one is dead, O god; give me a second, O warrior."
Một con trong số đó đã chết, Thiên nhân, xin hãy ban cho con con thứ hai, Khattiya.”
990
Brāhmaṇo ekena saṃvaccharena imaṃ gāthaṃ paguṇaṃ katvā bodhisattaṃ āha – ‘‘tāta, somadatta, gāthā me paguṇā jātā, idāni ahaṃ yassa kassaci santike vattuṃ sakkomi, maṃ rañño santikaṃ nehī’’ti.
The brahmin, having mastered this verse in one year, said to the Bodhisatta: "My dear Somadatta, the verse is now mastered by me; now I can recite it before anyone. Take me to the king."
Sau một năm, vị Bà-la-môn đã thuộc lòng bài kệ này và nói với Bồ-tát: “Con ơi, Somadatta, bài kệ cha đã thuộc lòng rồi, bây giờ cha có thể nói với bất cứ ai, con hãy đưa cha đến chỗ nhà vua.”
So ‘‘sādhu, tātā’’ti tathārūpaṃ paṇṇākāraṃ gāhāpetvā pitaraṃ rañño santikaṃ nesi.
He, saying "Very well, dear father," had such a gift prepared and took his father to the king.
Bồ-tát nói: “Vâng, cha,” rồi bảo cha mang theo lễ vật thích hợp và đưa cha đến chỗ nhà vua.
Brāhmaṇo ‘‘jayatu, mahārājā’’ti vatvā paṇṇākāraṃ adāsi.
The brahmin, saying "May Your Majesty be victorious," offered the gift.
Vị Bà-la-môn nói: “Vạn tuế, Đại vương!” rồi dâng lễ vật.
Rājā ‘‘ayaṃ te somadatta brāhmaṇo kiṃ hotī’’ti āha.
The king said, "Somadatta, what is this brahmin to you?"
Nhà vua hỏi: “Này Somadatta, vị Bà-la-môn này là gì của ngươi?”
‘‘Pitā me, mahārājā’’ti.
"He is my father, Your Majesty."
“Là cha của con, Đại vương.”
‘‘Kenaṭṭhenāgato’’ti?
"For what purpose has he come?"
“Đến vì mục đích gì?”
Tasmiṃ khaṇe brāhmaṇo goṇayācanatthāya gāthaṃ vadanto –
At that moment, the brahmin, reciting the verse to beg for oxen –
Ngay lúc đó, vị Bà-la-môn đọc bài kệ xin bò –
991
‘‘Dve me goṇā mahārāja, yehi khettaṃ kasāmase;
"Two oxen I had, great king, with which we used to plough the field;
“Đại vương, con có hai con bò, dùng chúng để cày ruộng;
992
Tesu eko mato deva, dutiyaṃ gaṇha khattiyā’’ti– āha;
One of them is dead, O god; take the second, O khattiya," he said.
Một con trong số đó đã chết, Thiên nhân, xin hãy nhận con thứ hai, Khattiya.”
993
Rājā brāhmaṇena virajjhitvā kathitabhāvaṃ ñatvā sitaṃ katvā ‘‘somadatta, tumhākaṃ gehe bahū maññe goṇā’’ti āha.
The king, knowing that the brahmin had spoken incorrectly, smiled and said, "Somadatta, you must have many oxen at your house."
Nhà vua biết vị Bà-la-môn đã nói sai, liền mỉm cười và nói: “Somadatta, ta nghĩ nhà ngươi có nhiều bò lắm.”
‘‘Tumhehi dinnā bhavissanti, mahārājā’’ti.
"They will be given by you, Your Majesty."
“Sẽ là do ngài ban cho, Đại vương.”
Rājā bodhisattassa tussitvā brāhmaṇassa soḷasa goṇe alaṅkārabhaṇḍake nivāsanagāmañcassa brahmadeyyaṃ datvā mahantena yasena brāhmaṇaṃ uyyojesi.
The king, pleased with the Bodhisatta, gave the brahmin sixteen oxen, ornaments, a dwelling village, and a brahmadeyya, and sent him off with great honor.
Nhà vua hài lòng với Bồ-tát, ban cho vị Bà-la-môn mười sáu con bò, đồ trang sức và một ngôi làng để ở làm đất ban tặng, rồi tiễn vị Bà-la-môn với sự vinh dự lớn.
Brāhmaṇo sabbasetasindhavayuttaṃ rathaṃ abhiruyha mahantena parivārena gāmaṃ agamāsi.
The brahmin, having mounted a chariot drawn by pure white Sindhu horses, went to the village with a large retinue.
Vị Bà-la-môn lên cỗ xe được kéo bởi những con ngựa Sindhu trắng muốt, cùng đoàn tùy tùng lớn trở về làng.
Bodhisatto pitarā saddhiṃ rathe nisīditvā gacchanto ‘‘tāta, ahaṃ tumhe sakalasaṃvaccharaṃ yoggaṃ kāresiṃ, sanniṭṭhānakāle pana tumhākaṃ goṇaṃ rañño adatthā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, riding in the chariot with his father, said, "Father, I trained you for a whole year, but at the time of completion, you gave your ox to the king," and then spoke the first verse –
Bồ-tát ngồi trên xe cùng cha, vừa đi vừa nói: “Cha ơi, con đã huấn luyện cha suốt cả năm, nhưng đến lúc quyết định thì cha lại dâng con bò của mình cho nhà vua,” rồi Ngài đọc bài kệ đầu tiên –
994
121.
121.
121.
995
‘‘Akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasmiṃ;
"You diligently practiced for a year on a pillar of bīraṇa grass;
“Không lơ đễnh, ngươi đã huấn luyện đều đặn, suốt một năm trên bãi cỏ Bīraṇathambha;
996
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayha, na niyyamo tāyati appapañña’’nti.
You changed the meaning, having entered the assembly; discipline does not protect the unwise."
Ngươi đã thay đổi lời hứa khi vào giữa hội chúng, sự kiên định không bảo vệ kẻ kém trí tuệ.”
997
Tattha akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasminti, tāta, tvaṃ niccaṃ appamatto bīraṇatthambhamaye susāne yoggaṃ akāsi.
There, akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasmiṃ means, "My dear, you constantly and diligently practiced on a pillar of bīraṇa grass in the charnel ground."
Trong đó, akāsi yoggaṃ dhuvamappamatto, saṃvaccharaṃ bīraṇathambhakasminti, cha ơi, cha đã luôn không lơ đễnh huấn luyện trên nghĩa địa làm từ cỏ bīraṇa.
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhāti atha ca pana parisaṃ vigāhitvā taṃ saññaṃ viakāsi vikāraṃ āpādesi, parivattesīti attho.
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhā means, "And yet, having entered the assembly, you distorted that meaning, you changed it."
Byākāsi saññaṃ parisaṃ vigayhāti nghĩa là, nhưng khi vào giữa hội chúng, cha đã thay đổi lời hứa đó, có nghĩa là đã làm cho nó biến dạng, đã thay đổi nó.
Na niyyamo tāyati appapaññanti appahaññaṃ nāma puggalaṃ niyyamo yoggāciṇṇaṃ caraṇaṃ na tāyati na rakkhatīti.
Na niyyamo tāyati appapañña means, "Discipline, the practice of training, does not protect an unwise person."
Na niyyamo tāyati appapaññanti, sự kiên định, tức là hành vi đã được huấn luyện, không bảo vệ, không che chở cho người kém trí tuệ.
998
Athassa vacanaṃ sutvā brāhmaṇo dutiyaṃ gāthamāha –
Then, hearing his words, the brahmin spoke the second verse –
Nghe lời Ngài nói, vị Bà-la-môn đọc bài kệ thứ hai –
999
122.
122.
122.
1000
‘‘Dvayaṃ yācanako tāta, somadatta nigacchati;
"A beggar, dear Somadatta, meets with two things;
“Này con Somadatta, người cầu xin gặp hai điều;
1001
Alābhaṃ dhanalābhaṃ vā, evaṃdhammā hi yācanā’’ti.
Either loss or gain of wealth, for such is the nature of begging."
Hoặc không được lợi lộc, hoặc được lợi lộc, vì việc cầu xin vốn là như vậy.”
1002
Tattha evaṃdhammā hi yācanāti yācanā hi evaṃsabhāvāti.
There, evaṃdhammā hi yācanā means, "For begging is of such a nature."
Trong đó, evaṃdhammā hi yācanāti có nghĩa là việc cầu xin vốn có bản chất như vậy.
1003
Satthā ‘‘na, bhikkhave, lāḷudāyī idāneva sārajjabahulo, pubbepi sārajjabahuloyevā’’ti vatvā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando, somadattassa pitā lāḷudāyī ahosi, somadatto pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher said, "Monks, Lāḷudāyī is not arrogant only now; he was arrogant in the past too," and having brought this discourse on Dhamma, he connected the Jātaka: "At that time, the king was Ānanda, Somadatta's father was Lāḷudāyī, and Somadatta was I myself."
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, Lāḷudāyī không phải chỉ bây giờ mới bẽn lẽn, mà trong quá khứ vị ấy cũng đã từng bẽn lẽn,” rồi Ngài kể bài Pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, nhà vua là Ānanda, cha của Somadatta là Lāḷudāyī, còn Somadatta chính là Ta vậy.”
1004
Somadattajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first, the Somadatta Jātaka.
Chuyện Somadatta Jātaka thứ nhất.
1005
* 2. Ucchiṭṭhabhattajātakavaṇṇanā
* 2. The Ucchiṭṭhabhatta Jātaka
* 2. Chuyện Ucchiṭṭhabhatta Jātaka
1006
Añño uparimo vaṇṇoti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
Añño uparimo vaṇṇo (Another story above) – The Teacher, while dwelling at Jetavana, related this concerning the enticement by a former wife.
Añño uparimo vaṇṇoti – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến việc một Tỳ-khưu bị vợ cũ quyến rũ.
So hi bhikkhu satthārā ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘ko taṃ ukkaṇṭhāpesī’’ti vutte ‘‘purāṇadutiyikā’’ti āha.
Indeed, when that bhikkhu was asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he said, "It is true," and when asked, "Who made you discontented?" he replied, "My former wife."
Vị Tỳ-khưu ấy, khi được Đức Bổn Sư hỏi: “Này Tỳ-khưu, có thật là ông chán nản không?”, đã đáp: “Thật vậy”. Khi được hỏi: “Ai đã khiến ông chán nản?”, vị ấy nói: “Người vợ cũ của con”.
Atha naṃ satthā ‘‘bhikkhu ayaṃ te itthī anatthakārikā, pubbepi attano jārassa ucchiṭṭhakaṃ bhojesī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, this woman is harmful to you; in the past too, she fed her lover leftovers," and then related a past story.
Rồi Đức Bổn Sư nói với vị ấy: “Này Tỳ-khưu, người phụ nữ này là kẻ gây hại cho ông, ngay cả trong quá khứ cô ta cũng đã cho kẻ tình nhân của mình ăn đồ thừa”. Sau đó, Ngài kể chuyện quá khứ.
1007
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ ṭhāne bhikkhaṃ caritvā jīvikakappake kapaṇe naṭakakule nibbattitvā vayappatto duggato durūpako hutvā bhikkhaṃ caritvā jīvikaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta, having lived by begging in one place, was reborn into a poor, wretched family of actors, and having grown up, he lived by begging, being poor and ill-favored.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình diễn viên nghèo khó, sống bằng nghề khất thực ở một nơi. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong cảnh nghèo khổ, dung mạo xấu xí, và kiếm sống bằng cách khất thực.
Tadā kāsiraṭṭhe ekasmiṃ gāmake ekassa brāhmaṇassa brāhmaṇī dussīlā pāpadhammā aticāraṃ carati.
At that time, in a certain village in the Kāsi kingdom, a brahmin's wife was immoral, wicked, and committed adultery.
Lúc bấy giờ, tại một ngôi làng ở xứ Kāsī, có một nữ Bà-la-môn, vợ của một Bà-la-môn, là người có giới hạnh xấu xa, hành động bất thiện, và ngoại tình.
Athekadivasaṃ brāhmaṇe kenacideva karaṇīyena bahi gate tassā jāro taṃ khaṇaṃ oloketvā taṃ gehaṃ pāvisi.
Then one day, when the brahmin had gone out for some business, her lover, watching for that moment, entered the house.
Rồi một ngày nọ, khi người Bà-la-môn đi ra ngoài vì có việc, kẻ tình nhân của cô ta đã lợi dụng cơ hội đó để vào nhà.
Sā tena saddhiṃ aticaritvā ‘‘muhuttaṃ accha, bhuñjitvāva gamissasī’’ti bhattaṃ sampādetvā sūpabyañjanasampannaṃ uṇhabhattaṃ vaḍḍhetvā ‘‘tvaṃ bhuñjā’’ti tassa datvā sayaṃ brāhmaṇassa āgamanaṃ olokayamānā dvāre aṭṭhāsi.
She, having transgressed with him, prepared a meal, saying, "Stay a moment; you will go only after eating." She served him hot rice, complete with curries and sauces, saying, "You eat," and then she herself stood at the door, watching for the brahmin's arrival.
Cô ta đã ngoại tình với hắn, rồi nói: “Hãy ở lại một lát, anh sẽ đi sau khi ăn xong”, cô ta chuẩn bị bữa ăn, múc một phần cơm nóng đầy đủ canh và món ăn, đưa cho hắn và nói: “Anh hãy ăn đi”. Rồi cô ta tự mình đứng ở cửa, trông chừng sự trở về của người Bà-la-môn.
Bodhisatto brāhmaṇiyā jārassa bhuñjanaṭṭhāne piṇḍaṃ paccāsīsanto aṭṭhāsi.
The Bodhisatta stood, expecting alms at the place where the brahmin's paramour was eating.
Bồ-tát đứng chờ nhận thức ăn khất thực tại nơi kẻ tình nhân của nữ Bà-la-môn đang ăn.
1008
Tasmiṃ khaṇe brāhmaṇo gehābhimukho āgacchati.
At that moment, the brahmin came, facing the house.
Vào khoảnh khắc đó, vị Bà-la-môn hướng về nhà mà đến.
Brāhmaṇī taṃ āgacchantaṃ disvā vegena pavisitvā ‘‘uṭṭhehi, brāhmaṇo āgacchatī’’ti jāraṃ koṭṭhe otāretvā brāhmaṇassa pavisitvā nisinnakāle phalakaṃ upanetvā hatthadhovanaṃ datvā itarena bhuttāvasiṭṭhassa sītabhattassa upari uṇhabhattaṃ vaḍḍhetvā brāhmaṇassa adāsi.
The brahmin woman, having seen him coming, quickly entered and, saying, "Get up, the brahmin is coming!" made the paramour descend into the storeroom. When the brahmin had entered and was seated, she brought him a plank, gave him water for washing his hands, and then served hot rice on top of the cold rice that was the leftover from the other's meal, giving it to the brahmin.
Bà-la-môn ni thấy ông ấy đang đến, liền vội vàng đi vào, rồi nói: “Dậy đi, Bà-la-môn đang đến!” và đưa người tình xuống kho thóc. Khi Bà-la-môn đã vào và ngồi xuống, bà mang cái mâm đến, đưa nước rửa tay, rồi múc cơm nóng lên trên phần cơm nguội còn thừa của người kia đã ăn, và dâng cho Bà-la-môn.
So bhatte hatthaṃ otāretvā upari uṇhaṃ heṭṭhā ca bhattaṃ sītalaṃ disvā cintesi – ‘‘iminā aññassa bhuttādhikena ucchiṭṭhabhattena bhavitabba’’nti.
He put his hand into the rice and, seeing that it was hot on top and cold underneath, thought, "This must be leftover rice from someone else's meal."
Ông ấy đưa tay vào cơm, thấy phần trên thì nóng, phần dưới thì nguội, liền suy nghĩ: “Đây chắc là cơm thừa của người khác đã ăn rồi.”
So brāhmaṇiṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Questioning the brahmin woman, he first spoke this verse:
Vị ấy hỏi Bà-la-môn ni, trước tiên nói lên bài kệ:
1009
123.
123.
123.
1010
‘‘Añño uparimo vaṇṇo, añño vaṇṇo ca heṭṭhimo;
"The upper appearance is one, and the lower appearance is another;
“Màu sắc phía trên khác, màu sắc phía dưới cũng khác;
1011
Brāhmaṇī tveva pucchāmi, kiṃ heṭṭhā kiñca upparī’’ti.
O brahmin woman, I ask you, what is below and what is above?"
Này Bà-la-môn ni, tôi hỏi, cái gì ở dưới, cái gì ở trên?”
1012
Tattha vaṇṇoti ākāro.
Here, vaṇṇo means 'appearance'.
Ở đây, vaṇṇo có nghĩa là hình dạng.
Ayañhi uparimassa uṇhabhāvaṃ heṭṭhimassa ca sītabhāvaṃ pucchanto evamāha.
Indeed, asking about the hotness of the upper part and the coldness of the lower part, he spoke thus.
Vị ấy hỏi về việc phần trên nóng và phần dưới nguội, nên đã nói như vậy.
Kiṃ heṭṭhā kiñca upparīti vuḍḍhitabhattena nāma upari sītalena, heṭṭhā uṇhena bhavitabbaṃ, idañca pana na tādisaṃ, tena taṃ pucchāmi – ‘‘kena kāraṇena upari bhattaṃ uṇhaṃ, heṭṭhimaṃ sītala’’nti.
Kiṃ heṭṭhā kiñca upparīti: When rice is served, the upper part should be cold and the lower part hot, but this is not so. Therefore, I ask you, "For what reason is the rice hot on top and cold underneath?"
Cái gì ở dưới, cái gì ở trên? có nghĩa là, cơm mới múc thì phần trên phải nguội, phần dưới phải nóng, nhưng cái này lại không như vậy. Vì thế, tôi hỏi bà: “Vì lý do gì mà cơm ở trên thì nóng, cơm ở dưới lại nguội?”
1013
Brāhmaṇī attanā katakammassa uttānabhāvabhayena brāhmaṇe punappunaṃ kathentepi tuṇhīyeva ahosi.
The brahmin woman, fearing the disclosure of her deed, remained silent even though the brahmin questioned her repeatedly.
Bà-la-môn ni, vì sợ hành động của mình bị lộ rõ, nên dù Bà-la-môn hỏi đi hỏi lại, bà vẫn im lặng.
Tasmiṃ khaṇe naṭaputtassa etadahosi – ‘‘koṭṭhe nisīdāpitapāpapurisena jārena bhavitabbaṃ, iminā gehassāmikena, brāhmaṇī pana attanā katakammassa pākaṭabhāvabhayena kiñci na katheti, handāhaṃ imissā katakammaṃ pakāsetvā jārassa koṭṭhake nisīdāpitabhāvaṃ brāhmaṇassa kathemī’’ti.
At that moment, it occurred to the acrobat's son: "The wicked man made to sit in the storeroom must be her paramour, and this is the master of the house. The brahmin woman says nothing, fearing the disclosure of her deed. Let me reveal her deed and tell the brahmin that the paramour has been made to sit in the storeroom."
Lúc đó, người diễn viên nghĩ: “Kẻ xấu xa bị giấu trong kho thóc chắc là người tình. Ông này là chủ nhà. Còn Bà-la-môn ni thì vì sợ hành động của mình bị phơi bày nên không nói gì. Thôi được, ta sẽ tiết lộ hành động của bà ta và kể cho Bà-la-môn biết việc người tình đang bị giấu trong kho thóc.”
So brāhmaṇassa gehā nikkhantakālato paṭṭhāya itarassa gehapavesanaṃ aticaraṇaṃ aggabhattabhuñjanaṃ brāhmaṇiyā dvāre ṭhatvā maggaṃ olokanaṃ itarassa koṭṭhe otāritabhāvanti sabbaṃ taṃ pavattiṃ ācikkhitvā dutiyaṃ gāthamāha –
So, recounting the entire incident—from the time the brahmin left the house, the other's entry into the house, their transgression, his eating the first portion of rice, the brahmin woman standing at the door watching the road, and the other being made to descend into the storeroom—he spoke the second verse:
Vị ấy kể lại tất cả sự việc: từ lúc Bà-la-môn ra khỏi nhà, người kia vào nhà, việc ngoại tình, việc ăn cơm đầu tiên, việc Bà-la-môn ni đứng ở cửa nhìn đường, và việc người kia bị giấu trong kho thóc, rồi nói lên bài kệ thứ hai:
1014
124.
124.
124.
1015
‘‘Ahaṃ naṭosmi bhaddante, bhikkhakosmi idhāgato;
"I am an acrobat, good sir, a beggar who has come here;
“Thưa ngài, tôi là diễn viên, tôi đến đây để xin ăn;
1016
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇo, ayaṃ so yaṃ gavesasī’’ti.
This one has descended into the storeroom; this is he whom you seek."
Người này đã chui xuống kho thóc, đây chính là người mà ngài đang tìm kiếm.”
1017
Tattha ahaṃ naṭosmi, bhaddanteti, sāmi, ahaṃ naṭajātiko.
Here, ahaṃ naṭosmi, bhaddanteti means, "Sir, I am of the acrobat caste."
Ở đây, ahaṃ naṭosmi, bhaddante có nghĩa là, thưa chủ, tôi là người thuộc dòng dõi diễn viên.
Bhikkhakosmi idhāgatoti svāhaṃ imaṃ ṭhānaṃ bhikkhako bhikkhaṃ pariyesamāno āgatosmi.
Bhikkhakosmi idhāgatoti means, "I have come to this place as a beggar, seeking alms."
Bhikkhakosmi idhāgato có nghĩa là, tôi đến nơi này để xin ăn, tìm kiếm thức ăn.
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇoti ayaṃ pana etissā jāro imaṃ bhattaṃ bhuñjanto tava bhayena koṭṭhaṃ otiṇṇo.
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇoti means, "This paramour of hers, having eaten this rice, has descended into the storeroom out of fear of you."
Ayañhi koṭṭhamotiṇṇo có nghĩa là, người tình của bà ta, sau khi ăn cơm này, vì sợ ngài nên đã chui xuống kho thóc.
Ayaṃ so yaṃ gavesasīti yaṃ tvaṃ kassa nu kho iminā ucchiṭṭhakena bhavitabbanti gavesasi, ayaṃ so.
Ayaṃ so yaṃ gavesasīti means, "This is he whom you seek, wondering whose leftover this might be."
Ayaṃ so yaṃ gavesasī có nghĩa là, người mà ngài đang tìm kiếm, tự hỏi “cơm thừa này là của ai?”, thì đây chính là người đó.
Cūḷāya naṃ gahetvā koṭṭhā nīharitvā yathā na punevarūpaṃ pāpaṃ karoti, tathā assa satiṃ janehīti vatvā pakkāmi.
Having said, "Take him by the topknot, pull him out of the storeroom, and make him mindful so that he does not commit such evil again," he departed.
Nói xong, rằng: “Hãy nắm tóc anh ta lôi ra khỏi kho thóc và dạy dỗ anh ta để anh ta không bao giờ làm điều ác như vậy nữa,” rồi vị ấy bỏ đi.
Brāhmaṇo ubhopi te yathā naṃ na punevarūpaṃ pāpaṃ karonti, tajjanapothanehi tathā sikkhāpetvā yathākammaṃ gato.
The brahmin, having disciplined both of them with rebukes and beatings so that they would not commit such evil again, went his way.
Vị Bà-la-môn dạy dỗ cả hai người bằng cách đe dọa và đánh đập để họ không bao giờ làm điều ác như vậy nữa, rồi tiếp tục cuộc sống của mình.
1018
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhito bhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, revealed the Truths, and identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Phật đã kể lại bài pháp này, thuyết giảng Tứ Diệu Đế và kết nối câu chuyện Jātaka. Sau khi kết thúc Tứ Diệu Đế, vị tỳ khưu chán nản đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā brāhmaṇī purāṇadutiyikā ahosi, brāhmaṇo ukkaṇṭhito bhikkhu, naṭaputto pana ahameva ahosi’’nti.
"The brahmin woman was the former companion, the brahmin was the discontented bhikkhu, and I myself was the acrobat's son."
“Khi đó, Bà-la-môn ni là người vợ cũ, Bà-la-môn là vị tỳ khưu chán nản, còn người diễn viên chính là Ta.”
1019
Ucchiṭṭhabhattajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Ucchiṭṭhabhatta Jātaka is concluded.
Câu chuyện Ucchiṭṭhabhattajātaka thứ hai đã kết thúc.
1020
* 3. Bharujātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Bharu Jātaka
* 3. Câu chuyện Bharujātaka
1021
Isīnamantaraṃ katvāti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
Isīnamantaraṃ katvāti: This the Teacher related while residing at Jetavana, concerning King Pasenadi of Kosala.
Isīnamantaraṃ katvā (làm cho các đạo sĩ tranh chấp): Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Bhagavato hi bhikkhusaṅghassa ca lābhasakkāro mahā ahosi.
Indeed, great gain and honor accrued to the Blessed One and the assembly of bhikkhus.
Thật vậy, Đức Thế Tôn và Tăng đoàn đã nhận được rất nhiều lợi lộc và sự tôn kính.
Yathāha –
As it is said:
Như đã nói:
1022
‘‘Tena kho pana samayena bhagavā sakkato hoti garukato mānito pūjito apacito lābhī cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānaṃ.
Now at that time the Blessed One was honored, respected, esteemed, revered, and venerated, and was a recipient of robes, almsfood, lodgings, and requisites for the sick, including medicine.
“Vào lúc đó, Đức Thế Tôn được tôn trọng, được kính trọng, được ngưỡng mộ, được cúng dường, được phục vụ, được lợi lộc về y phục, vật thực khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cần thiết cho người bệnh.
Bhikkhusaṅghopi kho sakkato hoti…pe… parikkhārānaṃ.
And the Saṅgha of bhikkhus was also honored... and requisites.
Tăng đoàn cũng được tôn trọng…pe… các vật dụng cần thiết.”
Aññatitthiyā pana paribbājakā asakkatā honti…pe… parikkhārāna’’nti (udā. 14).
But the wanderers of other sects were not honored... and requisites."
Còn các du sĩ ngoại đạo thì không được tôn trọng…pe… các vật dụng cần thiết.”
1023
Te evaṃ parihīnalābhasakkārā ahorattaṃ guḷhasannipātaṃ katvā mantayanti ‘‘samaṇassa gotamassa uppannakālato paṭṭhāya mayaṃ hatalābhasakkārā jātā, samaṇo gotamo lābhaggayasaggappatto jāto, kena nu kho kāraṇenassa esā sampattī’’ti.
Having thus fallen short in gains and honors, they held a secret meeting day and night and deliberated, "From the time the ascetic Gotama arose, we have suffered a loss of gains and honors; the ascetic Gotama has attained the highest and best of gains. By what cause, then, is this prosperity his?"
Vì lợi lộc và sự tôn kính bị suy giảm như vậy, họ họp kín ngày đêm và bàn bạc: “Từ khi Sa-môn Gotama xuất hiện, chúng ta đã mất đi lợi lộc và sự tôn kính, Sa-môn Gotama đã đạt đến đỉnh cao của lợi lộc. Vì lý do gì mà Ngài có được sự thịnh vượng này?”
Tatreke evamāhaṃsu – ‘‘samaṇo gotamo sakalajambudīpassa uttamaṭṭhāne bhūmisīse vasati.
Thereupon some said, "The ascetic Gotama dwells in the highest place, on the summit of the earth, in the entire Jambudīpa.
Một số người trong số họ nói: “Sa-môn Gotama sống ở nơi tối thượng, trên đỉnh đất của toàn bộ Jambudīpa (Ấn Độ).”
Tenassa lābhasakkāro uppajjatī’’ti, sesā ‘‘atthetaṃ kāraṇaṃ, mayampi jetavanapiṭṭhe titthiyārāmaṃ kāremu, evaṃ lābhino bhavissāmā’’ti āhaṃsu.
That is why gains and honors arise for him." The others said, "This is the reason for it. Let us also build a hermitage for sectarians behind the Jetavana. Thus we will become recipients of gains."
“Vì thế mà Ngài có được lợi lộc và sự tôn kính.” Những người khác nói: “Đây là lý do. Chúng ta cũng hãy xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana, như vậy chúng ta sẽ có lợi lộc.”
Te sabbepi ‘‘evameta’’nti sanniṭṭhānaṃ katvā ‘‘sacepi mayaṃ rañño anārocetvā ārāmaṃ kāressāma, bhikkhū vāressanti, lañjaṃ labhitvā abhijjanako nāma natthi, tasmā rañño lañjaṃ datvā ārāmaṭṭhānaṃ gaṇhissāmā’’ti sammantetvā upaṭṭhāke yācitvā rañño satasahassaṃ datvā ‘‘mahārāja, mayaṃ jetavanapiṭṭhiyaṃ titthiyārāmaṃ karissāma, sace bhikkhū ‘kātuṃ na dassāmā’ti tumhākaṃ ārocenti, nesaṃ paṭivacanaṃ na dātabba’’nti āhaṃsu.
All of them, having concluded "This is the way," then deliberated, "Even if we build a hermitage without informing the king, the bhikkhus will prevent us. There is no one who will not be swayed by a bribe. Therefore, we will give a bribe to the king and obtain the site for the hermitage." Having consulted their supporters, they gave a hundred thousand to the king and said, "Great King, we will build a sectarian hermitage behind the Jetavana. If the bhikkhus report to you, saying, 'We will not allow it to be built,' you should not give them a reply."
Tất cả họ đều đồng ý rằng “đúng là như vậy.” Sau đó, họ bàn bạc: “Nếu chúng ta xây dựng tịnh xá mà không báo cho vua, các tỳ khưu sẽ ngăn cản. Không có ai không bị mua chuộc bởi hối lộ. Vì vậy, chúng ta sẽ hối lộ vua và lấy đất để xây tịnh xá.” Họ đã xin những người hộ trì, đưa cho vua một trăm ngàn (đơn vị tiền tệ) và nói: “Đại vương, chúng thần sẽ xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana. Nếu các tỳ khưu đến báo với ngài rằng ‘chúng thần sẽ không cho xây dựng’, thì ngài đừng trả lời họ.”
Rājā lañjalobhena ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
The king, out of greed for the bribe, consented, saying, "So be it."
Vua, vì tham lam hối lộ, đã đồng ý “tốt thôi.”
1024
Titthiyā rājānaṃ saṅgaṇhitvā vaḍḍhakiṃ pakkosāpetvā kammaṃ paṭṭhapesuṃ, mahāsaddo ahosi.
The sectarians, having won over the king, summoned a carpenter and started the work, and there was a great noise.
Các du sĩ ngoại đạo đã mua chuộc vua, cho gọi thợ mộc đến và bắt đầu công việc. Có một tiếng ồn lớn.
Satthā ‘‘ke panete, ānanda, uccāsaddamahāsaddā’’ti pucchi.
The Teacher asked, "Who are these, Ānanda, making such a loud and great noise?"
Đức Phật hỏi: “Này Ānanda, tiếng ồn lớn này là của ai?”
‘‘Aññatitthiyā, bhante, jetavanapiṭṭhiyaṃ titthiyārāmaṃ kārenti, tattheso saddo’’ti.
"Bhante, other sectarians are building a sectarian hermitage behind the Jetavana; that is the noise," he replied.
“Bạch Đức Thế Tôn, đó là tiếng ồn của các du sĩ ngoại đạo đang xây dựng một tịnh xá ngoại đạo ở phía sau Jetavana.”
‘‘Ānanda, netaṃ ṭhānaṃ titthiyārāmassa anucchavikaṃ, titthiyā uccāsaddakāmā, na sakkā tehi saddhiṃ vasitu’’nti vatvā bhikkhusaṅghaṃ sannipātetvā ‘‘gacchatha, bhikkhave, rañño ācikkhitvā titthiyārāmakaraṇaṃ nivārethā’’ti āha.
The Teacher said, "Ānanda, that place is not suitable for a sectarian hermitage. Sectarians are fond of loud noises; it is not possible to dwell with them." Having gathered the Saṅgha of bhikkhus, he said, "Go, bhikkhus, inform the king and stop the building of the sectarian hermitage."
“Này Ānanda, nơi đó không thích hợp cho tịnh xá ngoại đạo. Các du sĩ ngoại đạo thích ồn ào, không thể sống chung với họ được.” Nói xong, Ngài tập hợp Tăng đoàn và nói: “Này các tỳ khưu, hãy đi báo cho vua và ngăn cản việc xây dựng tịnh xá ngoại đạo.”
Bhikkhusaṅgho gantvā rañño nivesanadvāre aṭṭhāsi.
The Saṅgha of bhikkhus went and stood at the entrance to the king's palace.
Tăng đoàn đã đi và đứng trước cổng cung điện của vua.
Rājā saṅghassa āgatabhāvaṃ sutvāpi ‘‘titthiyārāmaṃ nissāya āgatā bhavissantī’’ti lañjassa gahitattā ‘‘rājā gehe natthī’’ti vadāpesi.
Even though the king heard of the Saṅgha's arrival, thinking, "They must have come concerning the sectarian hermitage," and because he had taken the bribe, he had them told, "The king is not at home."
Vua, dù nghe tin Tăng đoàn đã đến, nhưng vì đã nhận hối lộ và nghĩ rằng “họ chắc đến vì chuyện tịnh xá ngoại đạo,” nên đã cho người nói rằng “vua không có ở nhà.”
Bhikkhū gantvā satthu ārocesuṃ.
The bhikkhus went and reported to the Teacher.
Các tỳ khưu trở về và báo lại cho Đức Phật.
Satthā ‘‘lañjaṃ nissāya evaṃ karotī’’ti dve aggasāvake pesesi.
The Teacher, thinking, "He is acting thus because of the bribe," sent the two chief disciples.
Đức Phật nghĩ: “Ông ta làm vậy vì hối lộ,” nên đã cử hai vị Đại đệ tử đi.
Rājā tesampi āgatabhāvaṃ sutvā tatheva vadāpesi.
The king, hearing of their arrival too, had them told the same thing.
Vua, nghe tin hai vị ấy cũng đến, đã cho người nói y như vậy.
Tepi āgantvā satthu ārācesuṃ.
They also came and reported to the Teacher.
Hai vị ấy cũng trở về và báo lại cho Đức Phật.
Satthā ‘‘na idāni, sāriputta, rājā gehe nisīdituṃ labhissati, bahi nikkhamissatī’’ti punadivase pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ rañño nivesanadvāraṃ agamāsi.
The Teacher said, "Now, Sāriputta, the king will not be able to stay at home; he will go out." The next day, in the forenoon, having dressed and taken his bowl and robe, he went to the entrance of the king's palace with five hundred bhikkhus.
Đức Phật nói: “Này Sāriputta, bây giờ vua sẽ không thể ở trong cung được, ông ta sẽ phải ra ngoài.” Sáng hôm sau, Ngài đắp y, mang bát và cùng với năm trăm tỳ khưu đến trước cổng cung điện của vua.
Rājā sutvā pāsādā otaritvā pattaṃ gahetvā satthāraṃ pavesetvā buddhappamukhassa saṅghassa yāgukhajjakaṃ datvā satthāraṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
The king, hearing of it, descended from the palace, took the bowl, invited the Teacher in, gave gruel and solid food to the Saṅgha headed by the Buddha, worshipped the Teacher, and sat down to one side.
Vua nghe tin, liền bước xuống từ cung điện, nhận bát và mời Đức Phật vào. Sau khi dâng cháo và thức ăn nhẹ cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, vua đảnh lễ Đức Phật và ngồi sang một bên.
Satthā rañño ekaṃ pariyāyadhammadesanaṃ ārabhanto ‘‘mahārāja, porāṇakarājāno lañjaṃ gahetvā sīlavante aññamaññaṃ kalahaṃ kāretvā attano raṭṭhassa assāmino hutvā mahāvināsaṃ pāpuṇiṃsū’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, beginning a discourse on a certain aspect of Dhamma to the king, said, "Great King, ancient kings, having taken bribes and caused virtuous people to quarrel with each other, became dispossessed of their own kingdom and met with great destruction." Having said this, he recounted a past event when requested by the king.
Đức Phật bắt đầu một bài pháp thoại cho vua, nói: “Đại vương, các vị vua thời xưa, vì nhận hối lộ, đã khiến những người có giới đức tranh chấp lẫn nhau, và cuối cùng đã mất vương quốc của mình, chịu đại họa.” Sau đó, theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1025
Atīte bharuraṭṭhe bharurājā nāma rajjaṃ kāresi.
In the past, in the Bharu kingdom, a king named Bharu reigned.
Trong quá khứ, tại vương quốc Bharu, có một vị vua tên là Bharu trị vì.
Tadā bodhisatto pañcābhiñño aṭṭhasamāpattilābhī gaṇasatthā tāpaso hutvā himavantapadese ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya pañcasatatāpasaparivuto himavantā otaritvā anupubbena bharunagaraṃ patvā tattha piṇḍāya caritvā nagarā nikkhamitvā uttaradvāre sākhāviṭapasampannassa vaṭarukkhassa mūle nisīditvā bhattakiccaṃ katvā tattheva rukkhamūle vāsaṃ kappesi.
At that time, the Bodhisatta, a leader of a group of ascetics, endowed with five supernormal powers and eight attainments, having lived for a long time in the Himālaya region, descended from the Himālaya with five hundred ascetics to partake of salt and sour food. Gradually, he reached the city of Bharu, begged for alms there, left the city, and sat at the foot of a banyan tree rich in branches and twigs at the northern gate. Having finished his meal, he took up residence at the foot of that very tree.
Khi đó, Bồ-tát là một vị đạo sĩ có năm thần thông và tám thiền định, là giáo chủ của một đoàn thể. Sau khi sống lâu ở vùng Hy Mã Lạp Sơn, Ngài cùng với năm trăm đạo sĩ tùy tùng đi xuống từ Hy Mã Lạp Sơn để tìm muối và vị chua. Dần dần, Ngài đến thành Bharu, khất thực trong thành, rồi ra khỏi thành và ngồi dưới gốc cây đa có nhiều cành lá sum suê ở cổng phía bắc. Sau khi dùng bữa, Ngài trú ngụ ngay dưới gốc cây đó.
Evaṃ tasmiṃ isigaṇe tattha vasante aḍḍhamāsaccayena añño gaṇasatthā pañcasataparivāro āgantvā nagare bhikkhāya caritvā nagarā nikkhamitvā dakkhiṇadvāre tādisasseva vaṭarukkhassa mūle nisīditvā bhattakiccaṃ katvā tattha rukkhamūle vāsaṃ kappesi.
Thus, while that group of ascetics was dwelling there, after half a month, another teacher of a group, accompanied by five hundred disciples, came, wandered for alms in the city, left the city, sat at the foot of a similar banyan tree at the southern gate, performed their meal, and established their residence at the foot of that tree.
Cứ như vậy, khi đoàn đạo sĩ đó đang trú ngụ ở đó, sau nửa tháng, một giáo chủ khác cùng với năm trăm tùy tùng đến, khất thực trong thành, rồi ra khỏi thành và ngồi dưới gốc cây đa tương tự ở cổng phía nam. Sau khi dùng bữa, vị ấy cũng trú ngụ dưới gốc cây đó.
Iti te dvepi isigaṇā tattha yathābhirantaṃ viharitvā himavantameva agamaṃsu.
Thus, both groups of ascetics, having dwelled there as long as they pleased, went to the Himalayas.
Như vậy, cả hai đoàn đạo sĩ đã trú ngụ ở đó tùy thích, rồi trở về Hy Mã Lạp Sơn.
1026
Tesaṃ gatakāle dakkhiṇadvāre vaṭarukkho sukkho.
When they had gone, the banyan tree at the southern gate withered.
Sau khi họ đi, cây đa ở cổng phía nam bị khô héo.
Punavāre tesu āgacchantesu dakkhiṇadvāre vaṭarukkhavāsino paṭhamataraṃ āgantvā attano vaṭarukkhassa sukkhabhāvaṃ ñatvā bhikkhāya caritvā nagarā nikkhamitvā uttaradvāre vaṭarukkhamūlaṃ gantvā bhattakiccaṃ katvā tattha vāsaṃ kappesuṃ.
The next time, when they were returning, those who had resided at the banyan tree at the southern gate came first, and knowing that their banyan tree had withered, they wandered for alms, left the city, went to the foot of the banyan tree at the northern gate, performed their meal, and established their residence there.
Lần nữa, khi các vị ấy đến, những vị cư ngụ ở cây đa phía cổng phía nam đã đến trước, biết được cây đa của mình đã khô, sau khi đi khất thực, họ rời khỏi thành phố, đến gốc cây đa ở cổng phía bắc, dùng bữa và an cư tại đó.
Itare pana isayo pacchā āgantvā nagare bhikkhāya caritvā attano rukkhamūlameva gantvā bhattakiccaṃ katvā vāsaṃ kappesuṃ.
But the other ascetics came later, wandered for alms in the city, went to the foot of their own tree, performed their meal, and established their residence.
Còn các vị ẩn sĩ khác thì đến sau, sau khi đi khất thực trong thành phố, họ trở về gốc cây của mình, dùng bữa và an cư.
Te ‘‘na so tumhākaṃ rukkho, amhākaṃ rukkho’’ti rukkhaṃ nissāya aññamaññaṃ kalahaṃ kariṃsu, kalaho mahā ahosi.
They quarreled with each other concerning the tree, saying, "That is not your tree, it is our tree!" The quarrel became great.
Họ đã cãi vã lẫn nhau về cái cây, nói rằng: “Đó không phải là cây của các ông, đó là cây của chúng tôi,” và cuộc cãi vã trở nên lớn.
Eke ‘‘amhākaṃ paṭhamaṃ vasitaṭṭhānaṃ tumhe na labhissathā’’ti vadanti.
Some said, "You will not get our first dwelling place."
Một số nói: “Các ông sẽ không có được nơi chúng tôi đã ở trước.”
Eke ‘‘mayaṃ imasmiṃ vāre paṭhamataraṃ idhāgatā, tumhe na labhissathā’’ti vadanti.
Others said, "We came here first this time; you will not get it."
Một số nói: “Lần này chúng tôi đã đến đây trước, các ông sẽ không có được.”
Iti te ‘‘mayaṃ sāmino, mayaṃ sāmino’’ti kalahaṃ karontā rukkhamūlassatthāya rājakulaṃ agamaṃsu.
Thus, quarreling, "We are the owners, we are the owners," they went to the royal court for the sake of the tree's root.
Cứ thế, họ cãi vã: “Chúng tôi là chủ, chúng tôi là chủ,” và đi đến triều đình vì gốc cây.
Rājā paṭhamaṃ vutthaisigaṇaññeva sāmikaṃ akāsi.
The king made only the first group of ascetics the owners.
Vua đã phong cho nhóm ẩn sĩ đến trước làm chủ.
Itare ‘‘na dāni mayaṃ imehi parājitāti attānaṃ vadāpessāmā’’ti dibbacakkhunā oloketvā ekaṃ cakkavattiparibhogaṃ rathapañjaraṃ disvā āharitvā rañño lañjaṃ datvā ‘‘mahārāja, amhepi sāmike karohī’’ti āhaṃsu.
The others, saying, "Now we will not let ourselves be called defeated by these," looked with divine sight, saw a chariot frame that had been used by a Cakkavatti, brought it, gave it as a bribe to the king, and said, "Great king, make us owners too."
Các vị khác, nói rằng: “Chúng ta sẽ không để mình bị họ đánh bại,” bèn nhìn bằng thiên nhãn, thấy một khung xe của một vị Chuyển Luân Vương, bèn mang đến, hối lộ cho vua và nói: “Đại vương, xin hãy phong chúng tôi làm chủ nữa.”
1027
Rājā lañjaṃ gahetvā ‘‘dvepi gaṇā vasantū’’ti dvepi sāmike akāsi.
The king took the bribe and made both groups owners, saying, "Let both groups dwell."
Vua nhận hối lộ và phong cả hai nhóm làm chủ, nói: “Cả hai nhóm hãy cư ngụ.”
Itare isayo tassa rathapañjarassa rathacakkāni nīharitvā lañjaṃ datvā ‘‘mahārāja, amheyeva sāmike karohī’’ti āhaṃsu.
The other ascetics removed the chariot wheels from that chariot frame, gave them as a bribe, and said, "Great king, make only us the owners."
Các vị ẩn sĩ kia bèn lấy bánh xe của khung xe đó ra, hối lộ và nói: “Đại vương, xin hãy phong chỉ chúng tôi làm chủ.”
Rājā tathā akāsi.
The king did so.
Vua đã làm như vậy.
Isigaṇā ‘‘amhehi vatthukāme ca kilesakāme ca pahāya pabbajitehi rukkhamūlassa kāraṇā kalahaṃ karontehi lañjaṃ dadantehi ayuttaṃ kata’’nti vippaṭisārino hutvā vegena palāyitvā himavantameva agamaṃsu.
The groups of ascetics, regretting, "It was improper for us, who have renounced sensual desires and defilement desires and gone forth, to quarrel and give bribes for the sake of a tree's root," quickly fled and went to the Himalayas.
Các nhóm ẩn sĩ cảm thấy hối hận: “Chúng ta, những người đã từ bỏ dục lạc vật chất và dục lạc phiền não để xuất gia, lại cãi vã và hối lộ vì một gốc cây, điều này thật không đúng đắn,” bèn nhanh chóng bỏ chạy và đi đến dãy Hy Mã Lạp Sơn.
Sakalabharuraṭṭhavāsino devatā ekato hutvā ‘‘sīlavante kalahaṃ karontena raññā ayuttaṃ kata’’nti bharurañño kujjhitvā tiyojanasatikaṃ bharuraṭṭhaṃ samuddaṃ ubbattetvā araṭṭhamakaṃsu.
All the deities dwelling in the Bharu kingdom gathered together and, angered at the king of Bharu, saying, "The king has acted improperly by causing quarrel among virtuous ones," they caused the Bharu kingdom, which was three hundred yojanas in extent, to be submerged in the ocean, making it a non-kingdom.
Các vị thiên nhân cư ngụ khắp xứ Bharu tập hợp lại và nói: “Vua đã hành động sai trái khi gây ra cuộc cãi vã giữa các vị có giới hạnh,” bèn nổi giận với vua Bharu, làm cho xứ Bharu rộng một trăm dojana bị biển nhấn chìm, biến thành không có người ở.
Iti ekaṃ bharurājānaṃ nissāya sakalaraṭṭhavāsinopi vināsaṃ pattāti.
Thus, because of one Bharu king, all the inhabitants of the kingdom also met with destruction.
Vì vậy, do một vị vua Bharu, tất cả cư dân trong xứ cũng đã bị hủy diệt.
1028
Satthā imaṃ atītaṃ āharitvā abhisambuddho hutvā imā gāthā avoca –
The Teacher, having recounted this past event, being fully enlightened, spoke these verses:
Bậc Đạo Sư, sau khi kể lại câu chuyện quá khứ này, đã giác ngộ và nói những vần kệ sau:
1029
125.
125.
125.
1030
‘‘Isīnamantaraṃ katvā, bharurājāti me sutaṃ;
“I have heard that King Bharu, having caused discord among ascetics,
“Do gây chia rẽ giữa các vị ẩn sĩ,
1031
Ucchinno saha raṭṭhehi, sa rājā vibhavaṅgato.
was destroyed together with his kingdom, that king met with ruin.
Vua Bharu, ta nghe nói, đã bị diệt vong cùng với vương quốc của mình, và đã mất đi sự thịnh vượng.”
1032
126.
126.
126.
1033
‘‘Tasmā hi chandāgamanaṃ, nappasaṃsanti paṇḍitā;
“Therefore, the wise do not praise going by way of desire;
“Vì vậy, những người trí không tán dương sự thiên vị;
1034
Aduṭṭhacitto bhāseyya, giraṃ saccupasaṃhita’’nti.
One should speak words imbued with truth, with an undefiled mind.”
Với tâm không sân hận, hãy nói lời chân thật.”
1035
Tattha antaraṃ katvāti chandāgativasena vivaraṃ katvā.
Therein, antaraṃ katvā means having caused a rift by going by way of desire.
Ở đây, antaraṃ katvā có nghĩa là tạo ra sự chia rẽ do sự thiên vị (chandāgati).
Bharurājāti bharuraṭṭhe rājā.
Bharurājā means the king in the Bharu kingdom.
Bharurājā là vị vua của xứ Bharu.
Iti me sutanti iti mayā pubbe etaṃ sutaṃ.
Iti me sutaṃ means thus I have heard this before.
Iti me sutaṃ có nghĩa là “ta đã nghe điều này trước đây.”
Tasmā hi chandāgamananti yasmā hi chandāgamanaṃ gantvā bharurājā saha raṭṭhena ucchinno, tasmā chandāgamanaṃ paṇḍitā nappasaṃsanti.
Tasmā hi chandāgamanaṃ means because King Bharu, having gone by way of desire, was destroyed together with his kingdom, therefore the wise do not praise going by way of desire.
Tasmā hi chandāgamanaṃ có nghĩa là “vì vua Bharu đã bị diệt vong cùng với vương quốc do hành động thiên vị, nên những người trí không tán dương sự thiên vị.”
Aduṭṭhacittoti kilesehi adūsitacitto hutvā.
Aduṭṭhacitto means having a mind undefiled by defilements.
Aduṭṭhacitto có nghĩa là với tâm không bị ô nhiễm bởi các phiền não.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhitanti sabhāvanissitaṃ atthanissitaṃ kāraṇanissitameva giraṃ bhāseyya.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhita means one should speak words that are indeed based on truth, based on meaning, based on reason.
Bhāseyya giraṃ saccupasaṃhita có nghĩa là chỉ nên nói lời dựa trên sự thật, dựa trên ý nghĩa, dựa trên lý do.
Ye hi tattha bharurañño lañjaṃ gaṇhantassa ayuttaṃ etanti paṭikkosantā saccupasaṃhitaṃ giraṃ bhāsiṃsu, tesaṃ ṭhitaṭṭhānaṃ nāḷikeradīpe ajjāpi dīpakasahassaṃ paññāyatīti.
Indeed, the place where those who, in protest of King Bharu taking bribes, spoke words imbued with truth, is still known today as a thousand islands in the Nāḷikera Island.
Những người đã nói lời chân thật, phản đối rằng việc vua Bharu nhận hối lộ là sai trái, nơi họ ở, hòn đảo dừa, ngày nay vẫn còn được biết đến với hàng ngàn hòn đảo.
1036
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā ‘‘mahārāja, chandavasikena nāma na bhavitabbaṃ, dve pabbajitagaṇe kalahaṃ kāretuṃ na vaṭṭatī’’ti vatvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘ahaṃ tena samayena jeṭṭhakaisi ahosi’’nti, rājā tathāgatassa bhattakiccaṃ katvā gatakāle manusse pesetvā titthiyārāmaṃ viddhaṃsāpesi, titthiyā appatiṭṭhā ahesuṃ.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, and saying, ‘‘Great king, one should not be subject to desire; it is not proper to cause strife between two groups of ascetics,’’ connected the Jātaka, saying, ‘‘I was the elder Kaisi at that time.’’ The king, having offered a meal to the Tathāgata, when the Tathāgata had departed, sent men and caused the hermitage of the sectarians to be destroyed. The sectarians became without support.
Bậc Đạo Sư, sau khi kể lại bài pháp này, nói: “Đại vương, không nên bị chi phối bởi dục vọng, không nên để hai nhóm xuất gia cãi vã,” rồi kết hợp câu chuyện Jātaka: “Ta vào thời đó là vị ẩn sĩ lớn tuổi,” và sau khi vua đã cúng dường bữa ăn cho Đức Như Lai, ngài đã sai người đi phá hủy tu viện của các đạo sĩ ngoại đạo, khiến các đạo sĩ ngoại đạo không còn nơi nương tựa.
1037
Bharujātakavaṇṇanā tatiyā.
The third commentary on the Bharu Jātaka.
Câu chuyện Jātaka Bharu, thứ ba, đã kết thúc.
1038
* 4. Puṇṇanadījātakavaṇṇanā
* 4. Commentary on the Puṇṇanadī Jātaka
* 4. Câu chuyện Jātaka Puṇṇanadī
1039
Puṇṇaṃ nadinti idaṃ satthā jetavane viharanto paññāpāramiṃ ārabbha kathesi.
Puṇṇaṃ nadiṃ (A full river)—The Teacher, residing at Jetavana, told this story concerning the perfection of wisdom.
Puṇṇaṃ nadiṃ (Dòng sông đầy) – câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể tại Jetavana, liên quan đến Ba-la-mật về trí tuệ.
Ekasmiñhi divase dhammasabhāyaṃ bhikkhū tathāgatassa paññaṃ ārabbha kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, sammāsambuddho mahāpañño puthupañño hāsapañño javanapañño tikkhapañño gambhīrapañño nibbedhikapañño upāyapaññāya samannāgato’’ti.
Indeed, one day in the Dhamma hall, bhikkhus raised a discussion concerning the Tathāgata’s wisdom, saying, ‘‘Friends, the Perfectly Awakened One is greatly wise, widely wise, joyfully wise, swiftly wise, sharply wise, profoundly wise, penetratively wise, endowed with skillful wisdom.’’
Một ngày nọ, trong pháp đường, các tỳ khưu đã khởi xướng cuộc đàm luận về trí tuệ của Đức Như Lai: “Thưa các bạn, Đức Chánh Đẳng Giác là bậc có đại trí tuệ, có quảng trí tuệ, có trí tuệ nhanh nhạy, có trí tuệ sắc bén, có trí tuệ sâu sắc, có trí tuệ thấu suốt, và được trang bị trí tuệ phương tiện khéo léo.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi tathāgato paññavā upāyakusaloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having arrived, asked, ‘‘Bhikkhus, with what topic are you now gathered?’’ And when they replied, ‘‘With this topic, venerable sir,’’ he said, ‘‘Bhikkhus, it is not only now, but in the past too, the Tathāgata was wise and skillful in means,’’ and he related a past event.
Bậc Đạo Sư đến, hỏi: “Này các tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Thưa Tôn giả, chúng con đang nói chuyện này,” ngài nói: “Này các tỳ khưu, không chỉ bây giờ, mà trước đây Đức Như Lai cũng là bậc có trí tuệ và khéo léo trong phương tiện,” rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1040
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto purohitakule nibbattitvā vayappatto takkasilāyaṃ sabbasippāni uggaṇhitvā pitu accayena purohitaṭṭhānaṃ labhitvā bārāṇasirañño atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family. When he came of age, he learned all arts at Takkasilā, and after his father’s passing, he obtained the position of royal chaplain and became the advisor on welfare and Dhamma to the king of Bārāṇasī.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong gia đình một vị quan tư tế. Khi trưởng thành, ngài học tất cả các nghề ở Takkasilā, và sau khi cha ngài qua đời, ngài nhận chức quan tư tế và trở thành người cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho vua Bārāṇasī.
Aparabhāge rājā paribhedakānaṃ kathaṃ gahetvā bodhisattassa kuddho ‘‘mā mama santike vasī’’ti bodhisattaṃ bārāṇasito pabbājesi.
Later, the king, swayed by the words of slanderers, became angry with the Bodhisatta and banished him from Bārāṇasī, saying, ‘‘Do not live near me.’’
Sau đó, vua nghe lời những kẻ chia rẽ, nổi giận với Bồ Tát và trục xuất ngài khỏi Bārāṇasī, nói: “Đừng ở gần ta nữa.”
Bodhisatto puttadāraṃ gahetvā ekasmiṃ kāsikagāmake vāsaṃ kappesi.
The Bodhisatta, taking his wife and children, settled in a certain Kāsika village.
Bồ Tát cùng vợ con đến cư ngụ tại một ngôi làng ở xứ Kāsī.
Aparabhāge rājā tassa guṇaṃ saritvā ‘‘mayhaṃ kañci pesetvā ācariyaṃ pakkosituṃ na yuttaṃ, ekaṃ pana gāthaṃ bandhitvā paṇṇaṃ likhitvā kākamaṃsaṃ pacāpetvā paṇṇañca maṃsañca setavatthena paliveṭhetvā rājamuddikāya lañchetvā pesessāmi.
Later, the king, remembering his virtues, thought, ‘‘It is not proper for me to send someone to summon my teacher. However, I shall compose a verse, write it on a letter, have crow’s meat cooked, wrap both the letter and the meat in white cloth, seal it with the royal seal, and send it.
Sau đó, vua nhớ đến đức hạnh của ngài và nghĩ: “Không nên sai ai đó đi mời vị thầy của ta. Ta sẽ làm một bài kệ, viết vào một lá thư, nấu thịt quạ, gói lá thư và thịt vào một tấm vải trắng, đóng ấn hoàng gia và gửi đi.
Yadi paṇḍito bhavissati, paṇṇaṃ vācetvā kākamaṃsabhāvaṃ ñatvā āgamissati, no ce, nāgamissatī’’ti ‘‘puṇṇaṃ nadi’’nti imaṃ gāthaṃ paṇṇe likhi –
If he is wise, he will read the letter, understand it is crow’s meat, and come. If not, he will not come.’’ Thus, he wrote this verse, ‘‘Puṇṇaṃ nadiṃ’’ (A full river), on the letter:
Nếu ngài là bậc trí tuệ, ngài sẽ đọc lá thư, biết đó là thịt quạ và sẽ đến; nếu không, ngài sẽ không đến.” Rồi ngài viết bài kệ “Puṇṇaṃ nadiṃ” này vào lá thư:
1041
127.
127.
127.
1042
‘‘Puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhu, jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhu;
‘‘A full river, they say, where one may drink; the grown barley, they say, where one may hide;
“Dòng sông đầy, người ta nói là có thể uống được; lúa đã mọc, người ta nói là có thể ẩn nấp được;
1043
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayanti, so tyāgato handa ca bhuñja brāhmaṇā’’ti.
He who has gone far, they say, where one may call; that one has come to you, O brahmin, now eat!’’
Người đi xa, người ta nói là có thể gọi về. Vị ấy đã đến, này Bà-la-môn, hãy dùng bữa đi.”
1044
Tattha puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhūti kākapeyyā nadīhi vadantā yena puṇṇaṃ nadiṃ kākapeyyamāhu, na hi apuṇṇā nadī ‘‘kākapeyyā’’ti vuccati.
Here, puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhū means that by which they speak of a river drinkable by crows. An incomplete river is not called ‘‘drinkable by crows.’’
Ở đây, puṇṇaṃ nadiṃ yena ca peyyamāhū có nghĩa là, khi họ nói về những dòng sông mà quạ có thể uống được, họ nói về dòng sông đầy, vì một dòng sông không đầy thì không được gọi là “quạ uống được.”
Yadāpi nadītīre ṭhatvā gīvaṃ pasāretvā kākena pātuṃ sakkā hoti, tadā naṃ ‘‘kākapeyyā’’ti vadanti.
When a crow can stand on the riverbank and stretch its neck to drink, then they call it ‘‘drinkable by crows.’’
Khi một con quạ có thể vươn cổ ra để uống nước khi đứng trên bờ sông, thì người ta gọi nó là “quạ uống được.”
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūti yavanti desanāsīsamattaṃ, idha pana sabbampi jātaṃ uggataṃ sampannataruṇasassaṃ adhippetaṃ.
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūyavaṃ (barley) is merely the head of the teaching; here, all grown, risen, and well-developed young crops are intended.
Jātaṃ yavaṃ yena ca guyhamāhūyavaṃ chỉ là một phần của lời dạy, nhưng ở đây có nghĩa là tất cả các loại cây trồng non đã mọc lên và phát triển đầy đủ.
Tañhi yadā anto paviṭṭhakākaṃ paṭicchādetuṃ sakkoti, tadā guyhatīti guyhaṃ.
For when it can conceal a crow that has entered it, then it is hidden, hence ‘‘guyhaṃ’’ (hidden).
Khi cây trồng đó có thể che giấu một con quạ đã vào bên trong, thì nó được gọi là guyhaṃ (nơi ẩn nấp).
Kiṃ guyhati?
What is hidden?
Cái gì được che giấu?
Kākaṃ.
A crow.
Con quạ.
Iti kākassa guyhaṃ kākaguyhanti taṃ vadamānā kākena guyhavacanassa kāraṇabhūtena ‘‘guyha’’nti vadanti.
Thus, speaking of the crow’s hiding place as ‘‘kākaguyhaṃ,’’ they call it ‘‘guyhaṃ’’ (hidden) because it is the cause of the crow’s being hidden.
Vì vậy, khi nói về nơi ẩn nấp của quạ, họ gọi nó là “guyha” (nơi ẩn nấp) do con quạ là nguyên nhân của lời nói đó.
Tena vuttaṃ ‘‘yena ca guyhamāhū’’ti.
Therefore, it is said, ‘‘yena ca guyhamāhū’’ (where one may hide).
Do đó, có câu: “yena ca guyhamāhū.”
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantīti dūraṃ gataṃ vippavutthaṃ piyapuggalaṃ yaṃ āgantvā nisinnaṃ disvā sace itthannāmo āgacchati, vassa kākāti vā vassantaññeva vā sutvā ‘‘yathā kāko vassati, itthannāmo āgamissatī’’ti evaṃ vadantā yena ca avhayanti kathenti mantenti, udāharantīti attho.
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantīti means that by which they call, speak, consult, or utter when they see a beloved person who has gone far, who is absent, and has come and sat down, saying, ‘‘If so-and-so comes, a crow calls,’’ or hearing a crow call, they say, ‘‘Just as the crow calls, so-and-so will come.’’ This is the meaning.
Dūraṃ gataṃ yena ca avhayantī có nghĩa là, khi một người thân yêu đã đi xa, vắng mặt, và khi thấy một con quạ đến đậu, họ nói: “Nếu người tên là X đến, con quạ sẽ kêu,” hoặc khi nghe tiếng quạ kêu, họ nói: “Con quạ kêu như vậy, người tên là X sẽ đến.” Bằng cách đó, họ gọi, nói chuyện, bàn bạc, hoặc tường thuật, đó là ý nghĩa.
So tyāgatoti so te ānīto.
So tyāgatoti means ‘‘that one has been brought to you.’’
So tyāgato có nghĩa là “người đó đã được mang đến cho ông.”
Handa ca bhuñja, brāhmaṇāti gaṇha, brāhmaṇa, bhuñjassu naṃ, khāda idaṃ kākamaṃsanti attho.
Handa ca bhuñja, brāhmaṇāti means ‘‘Take it, brahmin, eat it, consume this crow’s meat.’’
Handa ca bhuñja, brāhmaṇā có nghĩa là “này Bà-la-môn, hãy nhận lấy và dùng bữa, hãy ăn thịt quạ này,” đó là ý nghĩa.
1045
Iti rājā imaṃ gāthaṃ paṇṇe likhitvā bodhisattassa pesesi.
Thus, the king wrote this verse on a letter and sent it to the Bodhisatta.
Vua đã viết bài kệ này vào lá thư và gửi cho Bồ Tát.
So paṇṇaṃ vācetvā ‘‘rājā maṃ daṭṭhukāmo’’ti ñatvā dutiyaṃ gāthamāha –
He read the letter, understood that ‘‘the king wishes to see me,’’ and spoke the second verse:
Ngài đọc lá thư, biết rằng “vua muốn gặp ta,” bèn nói bài kệ thứ hai:
1046
128.
128.
128.
1047
‘‘Yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetave;
‘‘Since the king remembers me, even to send a crow;
“Khi vua nhớ đến ta, ngay cả để gửi thịt quạ;
1048
Haṃsā koñcā mayūrā ca, asatīyeva pāpiyā’’ti.
Swans, cranes, and peacocks – indeed, unfaithfulness is evil."
Thiên nga, sếu, công, chúng còn xấu xa hơn.”
1049
Tattha yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetaveti yadā rājā vāyasamaṃsaṃ labhitvā tampi pahetuṃ maṃ sarati.
There, regarding the verse: "Since the king remembers me, even to send crow's flesh," it means when the king obtains crow's flesh and remembers me to send even that.
Ở đây, yato maṃ saratī rājā, vāyasampi pahetave có nghĩa là “khi vua nhớ đến ta ngay cả để gửi thịt quạ mà ngài đã nhận được.”
Haṃsā koñcā mayūrā cāti yadā panassa ete haṃsādayo upanītā bhavissanti, ekāni haṃsamaṃsādīni lacchati, tadā maṃ kasmā na sarissatīti attho?
"Swans, cranes, and peacocks" means when these swans and others are brought to him, he will obtain swan's flesh and so on; at that time, why would he not remember me? This is the meaning.
Haṃsā koñcā mayūrā cā có nghĩa là “khi những con thiên nga, sếu, công này được mang đến cho ngài, ngài sẽ nhận được thịt thiên nga, v.v., vậy tại sao ngài lại không nhớ đến ta?” Đó là ý nghĩa.
Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘haṃsakoñcamayūrāna’’nti pāṭho.
In the Commentary, however, the reading is "of swans, cranes, and peacocks."
Tuy nhiên, trong Aṭṭhakathā, có một cách đọc là “haṃsakoñcamayūrānaṃ.”
So sundaratarā, imesaṃ haṃsādīnaṃ maṃsaṃ labhitvā kasmā maṃ na sarissati, sarissatiyevāti attho.
That is more beautiful. When he obtains the flesh of these swans and so on, why would he not remember me? He will certainly remember me, this is the meaning.
Cách đọc đó hay hơn, ý nghĩa là: “Khi ngài nhận được thịt của những con thiên nga, v.v., tại sao ngài lại không nhớ đến ta? Ngài chắc chắn sẽ nhớ đến.”
Asatīyeva pāpiyāti yaṃ vā taṃ vā labhitvā saraṇaṃ nāma sundaraṃ, lokasmiṃ pana asatiyeva pāpiyā, asatikaraṇaṃyeva hīnaṃ lāmakaṃ, tañca amhākaṃ rañño natthi.
"Indeed, unfaithfulness is evil" means that remembering, having obtained whatever it may be, is good. But in the world, unfaithfulness itself is evil; the act of being unfaithful is indeed inferior and wretched, and that is not present in our king.
Quên lãng là tệ hại nhất (Asatīyeva pāpiyā) nghĩa là, dù có được bất cứ thứ gì, sự ghi nhớ là điều tốt đẹp. Nhưng trên thế gian này, sự quên lãng là tệ hại nhất, hành động quên lãng là thấp hèn, đáng khinh bỉ, và điều đó không có ở vua của chúng ta.
Sarati maṃ rājā, āgamanaṃ me paccāsīsati, tasmā gamissāmīti yānaṃ yojāpetvā gantvā rājānaṃ passi, rājā tussitvā purohitaṭṭhāneyeva patiṭṭhāpesi.
The king remembers me, he will expect my arrival, therefore I shall go. So, he had a carriage yoked, went, and saw the king. The king was pleased and established him in the position of chief chaplain.
"Đức vua nhớ đến ta, Ngài sẽ mong đợi sự trở lại của ta, vậy nên ta sẽ đi," nói xong, ông cho chuẩn bị xe và đi gặp đức vua. Đức vua hoan hỷ và lập ông vào đúng vị trí của vị đạo sĩ hoàng gia (purohita).
1050
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, purohito pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the king was Ānanda, and the chief chaplain was I myself."
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka – "Khi ấy, đức vua là Ānanda, còn vị đạo sĩ hoàng gia chính là Ta vậy."
1051
Puṇṇanadījātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth Account of the Puṇṇanadī Jātaka.
Câu chuyện Puṇṇanadī Jātaka, thứ tư, chấm dứt.
1052
* 5. Kacchapajātakavaṇṇanā
* 5. The Account of the Kacchapa Jātaka
* 5. Câu chuyện Kacchapa Jātaka
1053
Avadhī vata attānanti idaṃ satthā jetavane viharanto kokālikaṃ ārabbha kathesi.
"Indeed, he has killed himself" – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning Kokālika.
Thật đáng tiếc, nó đã tự hủy hoại chính mình (Avadhī vata attānaṃ) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến Kokālika.
Vatthu mahātakkārijātake (jā. 1.13.104 ādayo) āvi-bhavissati.
The story will be revealed in the Mahātakkāri Jātaka.
Câu chuyện này sẽ được trình bày rõ trong Mahātakkāri Jātaka.
Tadā pana satthā ‘‘na, bhikkhave, kokāliko idāneva vācāya hato, pubbepi vācāya hatoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher said, "Monks, Kokālika was not destroyed by speech only now; he was destroyed by speech in the past as well," and then recounted a past event.
Khi đó, Bậc Đạo Sư nói: "Này các Tỳ-khưu, Kokālika không chỉ bị hủy hoại bởi lời nói trong hiện tại, mà trong quá khứ cũng đã bị hủy hoại bởi lời nói," rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1054
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family and, having come of age, became his advisor on matters of welfare and righteousness.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình quan đại thần, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành cố vấn về lợi ích và Chánh pháp (atthadhammānusāsaka) cho đức vua.
So pana rājā bahubhāṇī ahosi, tasmiṃ kathente aññesaṃ vacanassa okāso nāma natthi.
That king, however, was very talkative; when he spoke, there was no opportunity for others to speak.
Nhưng vị vua này nói rất nhiều, đến nỗi khi ngài nói, không ai khác có cơ hội cất lời.
Bodhisatto tassa taṃ bahubhāṇitaṃ vāretukāmo ekaṃ upāyaṃ upadhārento vicarati.
The Bodhisatta, wishing to curb his excessive talkativeness, sought a way to do so.
Bồ-tát mong muốn ngăn chặn thói nói nhiều của đức vua, nên Ngài đi tìm một phương cách.
Tasmiñca kāle himavantapadese ekasmiṃ sare kacchapo vasati, dve haṃsapotakā gocarāya carantā tena saddhiṃ vissāsaṃ akaṃsu.
At that time, a tortoise lived in a certain lake in the Himālaya region, and two young swans, while foraging, became intimate with him.
Vào thời điểm đó, có một con rùa sống trong một cái hồ ở vùng Himavanta. Hai con ngỗng con đi kiếm ăn và trở nên thân thiết với nó.
Te daḷhavissāsikā hutvā ekadivasaṃ kacchapaṃ āhaṃsu – ‘‘samma kacchapa, amhākaṃ himavante cittakūṭapabbatatale kañcanaguhāyaṃ vasanaṭṭhānaṃ ramaṇīyo padeso, gacchasi amhākaṃ saddhi’’nti.
Having become very intimate, one day they said to the tortoise, "Friend tortoise, our dwelling place at the foot of the Cittakūṭa mountain in the Himālaya is a delightful region. Will you come with us?"
Sau khi trở nên rất thân thiết, một ngày nọ, chúng nói với con rùa: "Này bạn rùa, nơi chúng tôi sống ở Himavanta, dưới chân núi Cittakūṭa trong hang Kañcana, là một vùng đất đẹp đẽ. Bạn có muốn đi cùng chúng tôi không?"
‘‘Ahaṃ kinti katvā gamissāmī’’ti?
"How shall I go?"
"Tôi sẽ đi bằng cách nào đây?"
‘‘Mayaṃ taṃ gahetvā gamissāma, sace tvaṃ mukhaṃ rakkhituṃ sakkhissasi, kassaci kiñci na kathessasī’’ti.
"We will carry you. If you can guard your mouth and say nothing to anyone."
"Chúng tôi sẽ mang bạn đi. Nếu bạn có thể giữ miệng, không nói bất cứ điều gì với ai."
‘‘Rakkhissāmi, sāmi, gahetvā maṃ gacchathā’’ti.
"I will guard it, masters; take me and go," he said.
"Tôi sẽ giữ miệng, thưa chủ nhân, xin hãy mang tôi đi," con rùa nói.
Te ‘‘sādhū’’ti vatvā ekaṃ daṇḍakaṃ kacchapena ḍaṃsāpetvā sayaṃ tassa ubho koṭiyo ḍaṃsitvā ākāsaṃ pakkhandiṃsu.
They said, "Very well," and made the tortoise bite a stick, then they themselves bit both ends of it and soared into the sky.
Chúng nói "Được thôi," rồi cho con rùa cắn vào một cành cây, còn chúng thì cắn vào hai đầu cành cây và bay lên không trung.
Taṃ tathā haṃsehi nīyamānaṃ gāmadārakā disvā ‘‘dve haṃsā kacchapaṃ daṇḍakena harantī’’ti āhaṃsu.
Village children, seeing him being carried thus by the swans, exclaimed, "Two swans are carrying a tortoise with a stick!"
Những đứa trẻ trong làng nhìn thấy con rùa được ngỗng mang đi như vậy liền reo lên: "Hai con ngỗng đang mang một con rùa bằng cành cây!"
1055
Kacchapo ‘‘yadi maṃ sahāyakā nenti, tumhākaṃ ettha kiṃ duṭṭhaceṭakā’’ti vattukāmo haṃsānaṃ sīghavegatāya bārāṇasinagare rājanivesanassa uparibhāgaṃ sampattakāle daṭṭhaṭṭhānato daṇḍakaṃ vissajjetvā ākāsaṅgaṇe patitvā dvebhāgo ahosi, ‘‘kacchapo ākāsato patitvā dvedhā bhinno’’ti ekakolāhalaṃ ahosi.
The tortoise, wishing to say, "If my friends are carrying me, what concern is it of yours, you naughty boys?" released the stick from the place where he was biting it when they had reached above the royal palace in Bārāṇasī due to the swans' swift flight, and fell into the open sky, breaking into two parts. There was a great clamour: "The tortoise fell from the sky and split in two!"
Con rùa, muốn nói: "Nếu bạn bè tôi mang tôi đi, thì lũ trẻ hư đốn các người có liên quan gì đâu?", nhưng vì tốc độ bay nhanh của ngỗng, khi chúng đến trên cung điện hoàng gia ở thành phố Bārāṇasī, con rùa đã buông cành cây từ nơi nó đang cắn, rơi xuống sân trời và bị vỡ làm đôi. Có một tiếng ồn ào: "Con rùa rơi từ trên trời xuống và bị vỡ làm đôi!"
Rājā bodhisattaṃ ādāya amaccagaṇaparivuto taṃ ṭhānaṃ gantvā kacchapaṃ disvā bodhisattaṃ pucchi – ‘‘paṇḍita, kinti katvā esa patito’’ti?
The king, taking the Bodhisatta and accompanied by a retinue of ministers, went to that spot, saw the tortoise, and asked the Bodhisatta, "Sage, how did this one fall?"
Đức vua, cùng với Bồ-tát và đoàn đại thần, đến nơi đó, nhìn thấy con rùa và hỏi Bồ-tát: "Này hiền giả, tại sao nó lại rơi xuống như vậy?"
Bodhisatto ‘‘cirapaṭikaṅkhohaṃ rājānaṃ ovaditukāmo upāyaṃ upadhārento carāmi, iminā kacchapena haṃsehi saddhiṃ vissāso kato bhavissati, tehi imaṃ ‘himavantaṃ nessāmā'ti daṇḍakaṃ ḍaṃsāpetvā ākāsaṃ pakkhantehi bhavitabbaṃ, atha iminā kassaci vacanaṃ sutvā arakkhitamukhatāya kiñci vattukāmena daṇḍakā vissaṭṭho bhavissati, evaṃ ākāsato patitvā jīvitakkhayaṃ patteneva bhavitabba’’nti cintetvā ‘‘āma mahārāja, atimukharā nāma apariyantavacanā evarūpaṃ dukkhaṃ pāpuṇantiyevā’’ti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, thinking, "For a long time I have desired to admonish the king, and I have been seeking a means. This tortoise will have become intimate with the geese. They will have made it bite a stick, saying, 'We will take you to the Himalayas,' and flown into the sky. Then, upon hearing someone's words, this one, due to its unguarded mouth, will desire to say something and release the stick. Thus, it will have fallen from the sky and met its end," said, "Yes, great king, indeed, talkative ones, those with endless words, certainly meet with such suffering," and spoke these verses:
Bồ-tát nghĩ: "Ta đã mong muốn khuyên răn đức vua từ lâu và đang tìm kiếm một phương cách. Con rùa này chắc hẳn đã trở nên thân thiết với những con ngỗng. Chắc hẳn chúng đã cho nó cắn vào cành cây và bay lên không trung để mang nó đến Himavanta. Sau đó, con rùa này, vì không giữ được miệng, muốn nói điều gì đó khi nghe lời của ai đó, nên đã buông cành cây. Chắc hẳn nó đã rơi từ trên trời xuống và mất mạng như vậy." Rồi Ngài nói: "Đúng vậy, Đại vương, những kẻ nói quá nhiều, lời nói không có giới hạn, thường gặp phải những khổ đau như thế này," và Ngài đọc những câu kệ sau:
1056
129.
129.
129.
1057
‘‘Avadhī vata attānaṃ, kacchapo byāharaṃ giraṃ;
“The tortoise, indeed, destroyed itself by uttering words;
"Thật đáng tiếc, con rùa tự hủy hoại mình,
1058
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasmiṃ, vācāya sakiyāvadhi.
Though firmly holding the stick, it destroyed itself by its own speech.
Khi nó đang cắn chặt cành cây, nó đã tự hủy hoại mình bằng lời nói của chính nó.
1059
130.
130.
130.
1060
‘‘Etampi disvā naravīriyaseṭṭha, vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ;
“Seeing this too, O best of men in vigor, one should utter wholesome speech, not excessively;
"Này bậc tối thượng trong những người dũng mãnh, thấy điều này,
1061
Passasi bahubhāṇena, kacchapaṃ byasanaṃ gata’’nti.
You see the tortoise has come to ruin through excessive talk.”
Hãy nói lời khéo léo, đừng nói quá nhiều! Ngươi thấy con rùa đã gặp tai họa vì nói nhiều đó sao?"
1062
Tattha avadhī vatāti ghātesi vata.
Therein, avadhī vatā means 'indeed killed'.
Trong đó, avadhī vatā có nghĩa là thật đáng tiếc, nó đã giết.
Byāharanti byāharanto.
Byāharanti means 'while speaking'.
Byāharanti có nghĩa là khi nói.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasminti mukhena suṭṭhu ḍaṃsitvā gahite daṇḍake.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasminti means 'when the stick was firmly bitten and held in its mouth'.
Suggahītasmiṃ kaṭṭhasmiṃ có nghĩa là khi cắn chặt cành cây bằng miệng.
Vācāya sakiyāvadhīti atimukharatāya akāle vācaṃ nicchārento daṭṭhaṭṭhānaṃ vissajjetvā tāya sakāya vācāya attānaṃ avadhi ghātesi.
Vācāya sakiyāvadhīti means 'by its own speech, due to being overly talkative, by uttering words at the wrong time, it released its biting hold and killed itself with that very speech'.
Vācāya sakiyāvadhī có nghĩa là vì nói quá nhiều, nói ra lời không đúng lúc, nó đã buông nơi đang cắn, và tự hủy hoại, tự giết mình bằng chính lời nói của nó.
Evamesa jīvitakkhayaṃ patto, na aññathāti.
Thus, it met its end, and not otherwise.
Như vậy, nó đã mất mạng, không phải cách nào khác.
Etampi disvāti etampi kāraṇaṃ disvā.
Etampi disvāti means 'seeing this reason too'.
Etampi disvā có nghĩa là khi thấy cả nguyên nhân này.
Naravīriyaseṭṭhāti naresu vīriyena seṭṭha uttamavīriya rājavara.
Naravīriyaseṭṭhāti means 'O best of men in vigor, O king of supreme vigor'.
Naravīriyaseṭṭhā có nghĩa là bậc tối thượng về sự tinh tấn trong loài người, vị vua có sự tinh tấn tối thượng.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelanti saccādipaṭisaṃyuttaṃ kusalameva paṇḍito puriso muñceyya nicchāreyya, tampi hitaṃ kālayuttaṃ, na ativelaṃ, atikkantakālaṃ apariyantavācaṃ na bhāseyya.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelanti means 'a wise person should utter only wholesome speech connected with truth, etc.; that too should be beneficial and timely, not excessive, not untimely, not endless speech'.
Vācaṃ pamuñce kusalaṃ nātivelaṃ có nghĩa là một người hiền trí nên nói lời thiện lành, liên quan đến sự thật, và cũng là lời có lợi ích, đúng lúc, không quá lời, không nói lời không đúng lúc, không giới hạn.
Passasīti nanu paccakkhato passasi.
Passasīti means 'do you not see directly?'
Passasī có nghĩa là há chẳng phải ngươi thấy tận mắt sao?
Bahubhāṇenāti bahubhaṇanena.
Bahubhāṇenāti means 'by much talking'.
Bahubhāṇenā có nghĩa là do nói nhiều.
Kacchapaṃ byasanaṃ gatanti etaṃ kacchapaṃ jīvitakkhayaṃ pattanti.
Kacchapaṃ byasanaṃ gatanti means 'this tortoise met its end'.
Kacchapaṃ byasanaṃ gata có nghĩa là con rùa này đã mất mạng.
1063
Rājā ‘‘maṃ sandhāya bhāsatī’’ti ñatvā ‘‘amhe sandhāya kathesi, paṇḍitā’’ti āha.
The king, knowing that "he speaks referring to me," said, "You spoke referring to us, O wise one."
Đức vua, hiểu rằng "Ngài đang nói về ta," liền nói: "Hiền giả, ngài đã nói về chúng ta."
Bodhisatto ‘‘mahārāja, tvaṃ vā hohi añño vā, yo koci pamāṇātikkantaṃ bhāsanto evarūpaṃ byasanaṃ pāpuṇātī’’ti pākaṭaṃ katvā kathesi.
The Bodhisatta made it clear, saying, "Whether it be you, great king, or another, whoever speaks excessively meets with such ruin."
Bồ-tát công khai nói: "Đại vương, dù là ngài hay bất cứ ai khác, bất cứ ai nói quá mức đều sẽ gặp phải tai họa như vậy."
Rājā tato paṭṭhāya viramitvā mandabhāṇī ahosi.
From that time on, the king refrained and became a man of few words.
Từ đó trở đi, đức vua đã từ bỏ thói quen đó và trở nên ít nói hơn.
1064
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kacchapo kokāliko ahosi, dve haṃsapotakā dve mahātherā, rājā ānando, amaccapaṇḍito pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the tortoise was Kokālika, the two young geese were the two Mahātheras, the king was Ānanda, and the wise minister was I myself."
Bậc Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka – "Khi ấy, con rùa là Kokālika, hai con ngỗng con là hai vị Trưởng lão vĩ đại, đức vua là Ānanda, còn vị đại thần hiền trí chính là Ta vậy."
1065
Kacchapajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth description of the Kacchapa Jātaka.
Câu chuyện Kacchapa Jātaka, thứ năm, chấm dứt.
1066
* 6. Macchajātakavaṇṇanā
* 6. Description of the Maccha Jātaka
* 6. Câu chuyện Maccha Jātaka
1067
Na māyamaggi tapatīti idaṃ satthā jetavane viharanto purāṇadutiyikāpalobhanaṃ ārabbha kathesi.
Na māyamaggi tapatīti – the Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this in connection with a monk who was tempted by his former wife.
Ngọn lửa này không thiêu đốt ta (Na māyamaggi tapatī) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi đang trú ngụ tại Jetavana, liên quan đến việc một tỳ-khưu bị vợ cũ quyến rũ.
Tañhi bhikkhuṃ satthā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti pucchi.
The Teacher asked that monk, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?"
Bậc Đạo Sư hỏi vị tỳ-khưu đó: "Này tỳ-khưu, có thật là ông đang chán nản không?"
‘‘Saccaṃ, bhante’’ti vutte ‘‘kena ukkaṇṭhāpitosī’’ti puṭṭho ‘‘purāṇadutiyikāyā’’ti āha.
When he replied, "Yes, Venerable Sir," and was asked, "By whom were you made discontented?" he said, "By my former wife."
Khi được hỏi "Thật vậy, bạch Thế Tôn," và "Ai đã khiến ông chán nản?", vị tỳ-khưu đáp: "Vợ cũ của con."
Atha naṃ satthā ‘‘ayaṃ te bhikkhu itthī anatthakārikā, pubbepi tvaṃ etaṃ nissāya sūlena vijjhitvā aṅgāresu pacitvā khāditabbataṃ patto paṇḍite nissāya jīvitaṃ alatthā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "This woman, bhikkhu, is harmful to you; in the past too, relying on her, you were pierced with a spit, roasted on coals, and destined to be eaten, but you obtained life through the wise ones," and he recounted a past event.
Bấy giờ, Bậc Đạo Sư nói với ông ta: "Này tỳ-khưu, người phụ nữ này là kẻ gây hại cho ông. Trong quá khứ, vì cô ta mà ông đã bị đâm bằng xiên, bị nướng trên than hồng và suýt bị ăn thịt, nhưng nhờ có người hiền trí mà ông đã giữ được mạng sống," rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1068
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa purohito ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his purohita.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát là đạo sĩ hoàng gia (purohita) của đức vua.
Athekadivasaṃ kevaṭṭā jāle laggaṃ macchaṃ uddharitvā uṇhavālukāpiṭṭhe ṭhapetvā ‘‘aṅgāresu naṃ pacitvā khādissāmā’’ti sūlaṃ tacchiṃsu.
Then, one day, fishermen pulled out a fish caught in a net, placed it on hot sand, and sharpened a spit, saying, "We will roast it on coals and eat it."
Một ngày nọ, những người đánh cá bắt được một con cá mắc lưới, đặt nó trên bãi cát nóng và nói: "Chúng ta sẽ nướng nó trên than hồng mà ăn," rồi họ vót một cái xiên.
Maccho macchiṃ ārabbha paridevamāno imā gāthā avoca –
The fish, lamenting about its mate, spoke these verses:
Con cá, than khóc vì con cá cái của mình, đã đọc những câu kệ sau:
1069
131.
131.
131.
1070
‘‘Na māyamaggi tapati, na sūlo sādhutacchito;
“This fire does not burn me, nor does the well-sharpened spit;
"Ngọn lửa này không thiêu đốt ta, cái xiên được vót khéo này cũng không;
1071
Yañca maṃ maññate macchī, aññaṃ so ratiyā gato.
But that my mate thinks I have gone to another for pleasure.
Mà chính là ý nghĩ rằng con cá cái của ta đã đi với kẻ khác để hưởng lạc.
1072
132.
132.
132.
1073
‘‘So maṃ dahati rāgaggi, cittaṃ cūpatapeti maṃ;
“That fire of lust burns me, and my mind torments me;
"Ngọn lửa tham ái đó thiêu đốt ta, và tâm ta cũng đang thiêu đốt ta;
1074
Jālino muñcathāyirā maṃ, na kāme haññate kvacī’’ti.
Release me, sirs, from the net, for nowhere is one slain by sensual pleasures.”
Này các vị ngư phủ, xin hãy thả tôi ra, kẻ bị dục vọng hành hạ không đáng bị giết ở bất cứ đâu."
1075
Tattha na māyamaggi tapatīti na maṃ ayaṃ aggi tapati, na tāpaṃ janeti, na socayatīti attho.
Therein, na māyamaggi tapatīti means 'this fire does not burn me, it does not generate heat, it does not cause me sorrow'.
Trong đó, na māyamaggi tapatī có nghĩa là ngọn lửa này không thiêu đốt ta, không gây đau khổ, không làm ta sầu não.
Na sūloti ayaṃ sūlopi sādhutacchito maṃ na tapati, na me sokaṃ uppādeti.
Na sūlo means "Not a stake". This stake, even though well-sharpened, does not torment me, nor does it cause me sorrow.
Na sūlo có nghĩa là cái xiên được vót khéo này cũng không thiêu đốt ta, không gây sầu khổ cho ta.
Yañca maṃ maññateti yaṃ pana maṃ macchī evaṃ maññati ‘‘aññaṃ macchiṃ so pañcakāmaguṇaratiyā gato’’ti, tadeva maṃ tapati socayati.
Yañca maṃ maññate means "And that which she thinks of me". But that which the female fish thinks of me, saying, "He has gone to another female fish for the enjoyment of the five sense pleasures," that alone torments me and makes me grieve.
Yañca maṃ maññate có nghĩa là điều làm ta thiêu đốt và sầu não chính là việc con cá cái nghĩ rằng "nó đã đi với con cá cái khác để hưởng lạc thú của năm dục."
So maṃ dahatīti yo panesa rāgaggi, so maṃ dahati jhāpeti.
So maṃ dahatī means "That burns me". And that fire of lust (rāgaggi) burns me, consumes me.
So maṃ dahatī có nghĩa là ngọn lửa tham ái đó thiêu đốt ta, làm ta cháy bỏng.
Cittaṃ cūpatapeti manti rāgasampayuttakaṃ mama cittameva ca maṃ upatāpeti kilameti viheṭheti.
Cittaṃ cūpatapeti ma means "And the mind torments me". And my mind, associated with lust, itself torments me, exhausts me, and harasses me.
Cittaṃ cūpatapeti manti có nghĩa là chính tâm ta, bị tham ái chi phối, làm ta đau khổ, mệt mỏi, và hành hạ.
Jālinoti kevaṭṭe ālapati.
Jālino means "O net-men", addressing the fishermen.
Jālino là tiếng gọi những người đánh cá.
Te hi jālassa atthitāya ‘‘jālino’’ti vuccanti.
Indeed, because they possess nets, they are called "net-men."
Họ được gọi là "jālino" vì có lưới.
Muñcathāyirā manti muñcatha maṃ sāminoti yācati.
Muñcathāyirā ma means "Release me, sirs," he begs, saying, "Release me, masters."
Muñcathāyirā manti có nghĩa là xin các vị chủ nhân hãy thả tôi ra, nó cầu xin.
Na kāme haññate kvacīti kāme patiṭṭhito kāmena nīyamāno satto na kvaci haññati.
Na kāme haññate kvacī means "One is never harmed by sensual pleasures." A being established in sensual pleasures, led by sensual pleasures, is never harmed anywhere.
Na kāme haññate kvacīti có nghĩa là một chúng sinh bị dục vọng chi phối, bị dục vọng dẫn dắt, không đáng bị giết ở bất cứ đâu.
Na hi taṃ tumhādisā hanituṃ anucchavikāti paridevati.
Indeed, it is not proper for those like you to harm him, he laments.
Nó than khóc rằng không phải những kẻ như các người có thể giết nó.
Atha vā kāmeti hetuvacane bhummaṃ, kāmahetu macchiṃ anubandhamāno nāma na kvaci tumhādisehi haññatīti paridevati.
Alternatively, kāme is in the locative case with a causal meaning, meaning "for the sake of sensual pleasures". He laments, "One who pursues a female fish for the sake of sensual pleasures is never harmed by those like you anywhere."
Hoặc kāme là giới từ chỉ nguyên nhân, nó than khóc rằng một chúng sinh bị ràng buộc bởi dục vọng vì con cá cái không đáng bị giết bởi những kẻ như các người ở bất cứ đâu.
Tasmiṃ khaṇe bodhisatto nadītīraṃ gato tassa macchassa paridevitasaddaṃ sutvā kevaṭṭe upasaṅkamitvā taṃ macchaṃ mocesi.
At that moment, the Bodhisatta went to the riverbank, heard the lament of that fish, approached the fishermen, and released the fish.
Vào lúc đó, Bồ-tát đi đến bờ sông, nghe tiếng than khóc của con cá, Ngài đến gặp những người đánh cá và giải thoát cho con cá.
1076
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher brought forth this Dhamma discourse, revealed the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý, và kết nối tích truyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị Tỳ-khưu chán nản đã an trú vào quả Dự Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā macchī purāṇadutiyikā ahosi, maccho ukkaṇṭhitabhikkhu, purohito pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the female fish was the former wife; the fish was the discontented bhikkhu; and the purohita was I myself."
“Lúc ấy, con cá mái là người vợ cũ, con cá đực là vị Tỳ-khưu chán nản, còn vị đạo sĩ chính là Ta vậy”.
1077
Macchajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Commentary on the Maccha Jātaka.
Giải thích về tích truyện Jātaka về con cá (Macchajātakavaṇṇanā), thứ sáu.
1078
* 7. Seggujātakavaṇṇanā
* 7. Commentary on the Seggu Jātaka
* 7. Giải thích về tích truyện Jātaka Seggu
1079
Sabbo lokoti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ paṇṇikaupāsakaṃ ārabbha kathesi.
Sabbo loko means "The whole world". The Teacher told this story while residing at Jetavana, concerning a certain flower-seller lay follower.
Sabbo loko” (Toàn thể thế gian) – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một cư sĩ bán lá.
Vatthu ekakanipāte vitthāritameva.
The story is elaborated in the Ekakanipāta.
Câu chuyện đã được kể chi tiết trong Ekakanipāta.
Idhāpi satthā taṃ ‘‘kiṃ, upāsaka, cirassaṃ āgatosī’’ti pucchi.
Here too, the Teacher asked him, "Why, lay follower, have you come after such a long time?"
Ở đây, Đức Bổn Sư cũng hỏi ông ta: “Này cư sĩ, sao lâu rồi ông mới đến vậy?”.
Paṇṇikaupāsako ‘‘dhītā me, bhante, niccaṃ pahaṃsitamukhī, tamahaṃ vīmaṃsitvā ekassa kuladārakassa adāsiṃ, tattha itikattabbatāya tumhākaṃ dassanāya āgantuṃ okāsaṃ na labhi’’nti āha.
The flower-seller lay follower said, "Bhante, my daughter always had a cheerful face. After examining her, I gave her to a young man from a good family. Because of what needed to be done there, I could not find an opportunity to visit you."
Cư sĩ bán lá thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con gái con luôn có khuôn mặt tươi cười, con đã thử thách con bé và gả cho một chàng trai trong gia đình. Vì việc đó, con không có cơ hội đến yết kiến Đức Thế Tôn”.
Atha naṃ satthā ‘‘na kho, upāsaka, idānevesā sīlavatī, pubbepi sīlavatī, tvañca na idānevetaṃ vīmaṃsasi, pubbepi vīmaṃsiyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Lay follower, she is not virtuous only now; she was virtuous in the past too. And you did not examine her only now; you examined her in the past too." Having said this, and being requested by him, the Teacher related a past event.
Rồi Đức Bổn Sư nói với ông ta: “Này cư sĩ, không phải chỉ bây giờ con bé mới có giới hạnh, mà trong quá khứ nó cũng có giới hạnh. Và ông cũng không phải chỉ bây giờ mới thử thách nó, mà trong quá khứ ông cũng đã thử thách nó rồi”. Sau khi được ông ta thỉnh cầu, Ngài kể chuyện quá khứ.
1080
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto rukkhadevatā ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a tree deity.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh thành một vị thiên thần cây.
Tadā ayameva paṇṇikaupāsako ‘‘dhītaraṃ vīmaṃsissāmī’’ti araññaṃ netvā kilesavasena icchanto viya hatthe gaṇhi.
At that time, this same flower-seller lay follower, wishing to examine his daughter, took her to the forest and, as if desiring her out of defilement, seized her hand.
Lúc bấy giờ, chính cư sĩ bán lá này, muốn “thử thách con gái mình”, đã đưa con bé vào rừng và nắm tay nó như thể muốn làm điều gì đó theo dục vọng.
Atha naṃ paridevamānaṃ paṭhamagāthāya ajjhabhāsi –
Then, as she lamented, he addressed her with the first verse:
Rồi Ngài nói với cô bé đang than khóc bằng câu kệ đầu tiên:
1081
133.
133.
133.
1082
‘‘Sabbo loko attamano ahosi, akovidā gāmadhammassa seggu;
"The whole world was delighted, Seggu, unskilled in the ways of the village;
“Toàn thể thế gian đều hoan hỷ, Seggu, con thật không hiểu về tục lệ làng xã;
1083
Komāri ko nāma tavajja dhammo, yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasī’’ti.
O maiden, what is this nature of yours today, that you, being seized in the forest, lament?"
Này thiếu nữ, hôm nay con có hạnh kiểm gì, mà con bị nắm giữ giữa rừng lại than khóc?”
1084
Tattha sabbo loko attamano ahosīti, amma, sakalopi sattaloko etissā kāmasevanāya attamano jāto.
Therein, sabbo loko attamano ahosī means, "Mother, all beings are delighted by this indulgence in sensual pleasures."
Trong đó, sabbo loko attamano ahosīti (toàn thể thế gian đều hoan hỷ), này con, toàn thể chúng sinh thế gian đều hoan hỷ với việc hưởng thụ dục lạc này.
Akovidā gāmadhammassa seggūti seggūti tassā nāmaṃ.
Akovidā gāmadhammassa seggū means seggū is her name.
Akovidā gāmadhammassa seggūti (Seggu, con thật không hiểu về tục lệ làng xã), seggū là tên của cô bé.
Tena tvaṃ pana, amma, seggu akovidā gāmadhammassa, imasmiṃ gāmadhamme vasaladhamme akusalāsīti vuttaṃ hoti.
Therefore, "You, mother Seggu, are unskilled in the ways of the village, meaning you are unskillful in this base practice of the village," so it is said.
Do đó, này con, Seggu, con không hiểu về tục lệ làng xã (gāmadhamma), có nghĩa là con không khéo léo trong tục lệ thấp kém này.
Komāri ko nāma tavajja dhammoti, amma, kumāri ko nāmesa tava ajja sabhāvo.
Komāri ko nāma tavajja dhammo means, "Mother, what is this nature of yours today, O maiden?"
Komāri ko nāma tavajja dhammoti (Này thiếu nữ, hôm nay con có hạnh kiểm gì), này con, hôm nay bản chất của con là gì?
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasīti tvaṃ mayā imasmiṃ pavane santhavavasena hatthe gahitā parodasi na sampaṭicchasi, ko esa tava sabhāvo, kiṃ kumārikāyeva tvanti pucchati.
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasī means, "You, being seized by me in this forest out of familiarity, lament and do not consent. What is this nature of yours? Are you still a maiden?" he asks.
Yaṃ tvaṃ gahitā pavane parodasīti (mà con bị nắm giữ giữa rừng lại than khóc), con bị ta nắm tay giữa rừng vì sự thân mật mà lại than khóc, không chấp nhận. Bản chất này của con là gì? Có phải con vẫn còn là thiếu nữ không? Ngài hỏi.
1085
Taṃ sutvā kumārikā ‘‘āma, tāta, kumārikāyevāhaṃ, nāhaṃ methunadhammaṃ nāma jānāmī’’ti vatvā paridevamānā dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the maiden said, "Yes, father, I am indeed a maiden; I do not know anything about sexual intercourse," and lamenting, she spoke the second verse:
Nghe vậy, cô thiếu nữ nói: “Vâng, cha, con vẫn còn là thiếu nữ, con không biết đến việc giao hợp”, rồi than khóc và nói câu kệ thứ hai:
1086
134.
134.
134.
1087
‘‘Yo dukkhaphuṭṭhāya bhaveyya tāṇaṃ, so me pitā dubbhi vane karoti;
"He who should be a protector to me, afflicted by suffering, that father of mine commits treachery in the forest;
“Người đáng lẽ là chỗ nương tựa cho con khi gặp khổ đau, thì người cha ấy lại làm điều tồi tệ trong rừng;
1088
Sā kassa kandāmi vanassa majjhe, yo tāyitā so sahasaṃ karotī’’ti.
To whom shall I cry in the midst of the forest, when he who should protect me acts violently?"
Con biết kêu ai giữa rừng đây, khi người đáng lẽ che chở lại làm điều bạo ngược?”
1089
Sā heṭṭhā kathitāyeva.
That (explanation) has already been given above.
Ý nghĩa của câu kệ đã được giải thích ở trên.
Iti so paṇṇiko tadā dhītaraṃ vīmaṃsitvā gehaṃ netvā kuladārakassa datvā yathākammaṃ gato.
Thus, that flower-seller, having examined his daughter at that time, took her home, gave her to a young man from a good family, and went his way according to his karma.
Như vậy, người bán lá ấy đã thử thách con gái mình, đưa về nhà, gả cho chàng trai trong gia đình và đã ra đi theo nghiệp của mình.
1090
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne paṇṇikaupāsako sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma and revealed the Truths, connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the lay follower Paṇṇika was established in the fruit of stream-entry (sotāpatti).
Đức Bổn Sư đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các Chân lý, và kết nối tích truyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, cư sĩ bán lá đã an trú vào quả Dự Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā dhītā dhītāyeva, pitā pitāyeva ahosi, tassa kāraṇassa paccakkhakārikā rukkhadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the daughter was indeed the daughter, and the father was indeed the father. The tree deity who was an eyewitness to that event was none other than myself."
“Lúc ấy, con gái vẫn là con gái, người cha vẫn là người cha, còn vị thiên thần cây chứng kiến sự việc ấy chính là Ta vậy”.
1091
Seggujātakavaṇṇanā sattamā.
The seventh, the commentary on the Seggu Jātaka.
Giải thích về tích truyện Jātaka Seggu, thứ bảy.
1092
* 8. Kūṭavāṇijajātakavaṇṇanā
* 8. Commentary on the Kūṭavāṇija Jātaka
* 8. Giải thích về tích truyện Jātaka Kūṭavāṇija
1093
Saṭhassa sāṭheyyamidanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kūṭavāṇijaṃ ārabbha kathesi.
This, " This is deceit for the deceitful," the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a certain fraudulent merchant.
Saṭhassa sāṭheyyamidaṃ” (Đây là sự gian xảo của kẻ gian xảo) – Đức Bổn Sư đã nói điều này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một thương gia lừa đảo.
Sāvatthivāsino hi kūṭavāṇijo ca paṇḍitavāṇijo ca dve vāṇijā mittikā hutvā pañca sakaṭasatāni bhaṇḍassa pūrāpetvā pubbantato aparantaṃ vicaramānā vohāraṃ katvā bahuṃ lābhaṃ labhitvā sāvatthiṃ paccāgamiṃsu.
Indeed, two merchants dwelling in Sāvatthī, a fraudulent merchant and a wise merchant, became friends, loaded five hundred carts with goods, and traveling from one region to another, conducted trade, gained much profit, and returned to Sāvatthī.
Thật vậy, hai thương gia, một người lừa đảo và một người khôn ngoan, sống ở Sāvatthī, là bạn của nhau. Họ chất đầy hàng hóa lên năm trăm cỗ xe, đi từ miền đông sang miền tây, buôn bán và thu được nhiều lợi nhuận, rồi trở về Sāvatthī.
Paṇḍitavāṇijo kūṭavāṇijaṃ āha – ‘‘samma, bhaṇḍaṃ bhājemā’’ti.
The wise merchant said to the fraudulent merchant, "Friend, let us divide the goods."
Thương gia khôn ngoan nói với thương gia lừa đảo: “Này bạn, chúng ta hãy chia hàng hóa đi”.
Kūṭavāṇijo ‘‘ayaṃ dīgharattaṃ dukkhaseyyāya dubbhojanena kilanto attano ghare nānaggarasaṃ bhattaṃ bhuñjitvā ajīrakena marissati, atha sabbampetaṃ bhaṇḍaṃ mayhameva bhavissatī’’ti cintetvā ‘‘nakkhattaṃ na manāpaṃ, divaso na manāpo, sve jānissāmi, punadivase jānissāmī’’ti kālaṃ khepeti.
The fraudulent merchant thought, "This one, exhausted by a long period of suffering, poor food, and weariness, will eat a meal of various excellent flavors in his own home and die of indigestion, then all these goods will be mine," and so he procrastinated, saying, "The constellation is not auspicious, the day is not auspicious, I will know tomorrow, I will know the day after."
Thương gia lừa đảo nghĩ: “Kẻ này đã mệt mỏi vì nằm đau khổ lâu ngày và ăn uống kham khổ, hắn sẽ chết vì khó tiêu sau khi ăn bữa cơm ngon lành ở nhà, rồi tất cả hàng hóa này sẽ thuộc về ta”. Nghĩ vậy, hắn trì hoãn: “Sao chòm sao không tốt, ngày không tốt, ngày mai ta sẽ biết, ngày kia ta sẽ biết”.
Atha naṃ paṇḍitavāṇijo nippīḷetvā bhājāpetvā gandhamālaṃ ādāya satthu santikaṃ gantvā satthāraṃ pūjetvā vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
Then the wise merchant, having pressed him and had the goods divided, took perfumes and garlands, went to the Teacher's presence, paid homage to the Teacher, worshipped him, and sat down to one side.
Rồi thương gia khôn ngoan thúc ép hắn chia hàng hóa, sau đó mang theo hương hoa đến chỗ Đức Bổn Sư, cúng dường Đức Bổn Sư, đảnh lễ và ngồi xuống một bên.
Satthā ‘‘kadā āgatosī’’ti pucchitvā ‘‘aḍḍhamāsamatto me, bhante, āgatassā’’ti vatvā ‘‘atha kasmā evaṃ papañcaṃ katvā buddhupaṭṭhānaṃ āgatosī’’ti puṭṭho taṃ pavattiṃ ārocesi.
The Teacher asked, "When did you arrive?" and when he said, "It has been about half a month since I arrived, Venerable Sir," and was asked, "Then why have you made such a delay in coming to attend upon the Buddha?", he related the incident.
Đức Bổn Sư hỏi: “Ông đến từ khi nào?”. Khi ông ta thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã đến được nửa tháng rồi”, và được hỏi: “Vậy tại sao ông lại trì hoãn như vậy mà không đến yết kiến chư Phật?”, ông ta đã kể lại câu chuyện.
Satthā ‘‘na kho, upāsaka, idāneva, pubbepesa kūṭavāṇijoyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "It is not only now, lay follower, but in the past too, he was a fraudulent merchant," and being requested by him, recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này cư sĩ, không phải chỉ bây giờ hắn mới là thương gia lừa đảo, mà trong quá khứ hắn cũng là thương gia lừa đảo”. Sau khi được ông ta thỉnh cầu, Ngài kể chuyện quá khứ.
1094
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa vinicchayāmacco ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family, and when he came of age, he became the king's minister of justice.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào gia đình một vị quan, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành vị quan xét xử của nhà vua.
Tadā gāmavāsī ca nagaravāsī ca dve vāṇijā mittā ahesuṃ.
At that time, two merchants, one from a village and one from the city, were friends.
Lúc bấy giờ, có hai thương gia là bạn của nhau, một người sống ở làng và một người sống ở thành phố.
Gāmavāsī nagaravāsissa santike pañca phālasatāni ṭhapesi.
The village merchant deposited five hundred ploughshares with the city merchant.
Người ở làng đã gửi năm trăm lưỡi cày cho người ở thành phố.
So te phāle vikkiṇitvā mūlaṃ gahetvā phālānaṃ ṭhapitaṭṭhāne mūsikavaccaṃ ākiritvā ṭhapesi.
He sold those ploughshares, took the money, and scattered mouse droppings in the place where the ploughshares had been kept.
Người kia đã bán những lưỡi cày đó, lấy tiền, rồi rải phân chuột vào chỗ để lưỡi cày.
Aparabhāge gāmavāsī āgantvā ‘‘phāle me dehī’’ti āha.
Later, the village merchant came and said, "Give me my ploughshares."
Sau đó, người ở làng đến và nói: “Hãy trả lại lưỡi cày cho tôi”.
Kūṭavāṇijo ‘‘phālā te mūsikāhi khāditā’’ti mūsikavaccaṃ dassesi.
The fraudulent merchant showed the mouse droppings, saying, "Your ploughshares were eaten by mice."
Thương gia lừa đảo nói: “Lưỡi cày của ông đã bị chuột ăn hết rồi”, và chỉ cho xem phân chuột.
Itaro ‘‘khāditāva hontu, mūsikāhi khādite kiṃ sakkā kātu’’nti nhānatthāya tassa puttaṃ ādāya gacchanto ekassa sahāyakassa gehe ‘‘imassa katthaci gantuṃ mā adatthā’’ti vatvā antogabbhe nisīdāpetvā sayaṃ nhāyitvā kūṭavāṇijassa gehaṃ agamāsi.
The other replied, "Let them be eaten; what can be done if they were eaten by mice?" and taking the fraudulent merchant's son to bathe, he went to a friend's house, said, "Don't let him go anywhere," had him sit in an inner room, bathed himself, and then went to the fraudulent merchant's house.
Người kia nói: “Cứ cho là bị ăn đi, chuột ăn thì biết làm sao được”. Rồi ông ta dẫn con trai của người kia đi tắm, gửi ở nhà một người bạn và nói: “Đừng cho nó đi đâu cả”, rồi cho nó ngồi trong phòng kín. Sau khi tự mình tắm xong, ông ta đến nhà thương gia lừa đảo.
So ‘‘putto me kaha’’nti āha.
He asked, "Where is my son?"
Người kia hỏi: “Con trai tôi đâu?”.
‘‘Samma, tava puttaṃ tīre ṭhapetvā mama udake nimuggakāle eko kulalo āgantvā tava puttaṃ nakhapañjarena gahetvā ākāsaṃ pakkhanto, ahaṃ pāṇiṃ paharitvā viravitvā vāyamantopi mocetuṃ nāsakkhi’’nti.
"Friend, when I placed your son on the bank and immersed myself in the water, a kite came, seized your son with its talons, and flew into the sky. Although I struck with my hand, cried out, and struggled, I could not free him."
“Này bạn, khi tôi đặt con trai ông ở bờ sông và lặn xuống nước, một con diều hâu bay đến, dùng móng vuốt cắp con trai ông bay lên trời. Dù tôi đã vỗ tay, la hét và cố gắng, nhưng không thể cứu được”.
‘‘Tvaṃ musā bhaṇasi, kulalā dārake gahetvā gantuṃ samatthā nāma natthī’’ti.
"You are lying. Kites are not capable of carrying away children."
“Ông nói dối, diều hâu không thể cắp trẻ con mà bay đi được”.
‘‘Samma, hotu, ayuttepi honte ahaṃ kiṃ karomi, kulaleneva te putto nīto’’ti.
"Friend, so be it. Even if it is improper, what can I do? Your son was carried away by a kite."
“Này bạn, thôi đi, dù điều đó là vô lý, tôi biết làm sao được? Con trai ông đã bị diều hâu cắp đi rồi”.
So taṃ santajjetvā ‘‘are duṭṭhacora manussamāraka, idāni taṃ vinicchayaṃ gantvā kaḍḍhāpessāmī’’ti nikkhami.
He threatened him, saying, "Hey, wicked thief, murderer of men! Now I will go to court and have you brought there!" and he left.
Hắn đe dọa người kia, nói: “Này, tên trộm độc ác, kẻ giết người, bây giờ ta sẽ đưa ngươi ra tòa án và lôi ngươi đi!” rồi bỏ đi.
So ‘‘mama ruccanakameva karosī’’ti teneva saddhiṃ vinicchayaṭṭhānaṃ agamāsi.
He said, "You are doing what I like," and went with him to the place of judgment.
Hắn (Bồ tát) nói: “Ngươi chỉ làm điều ta thích thôi,” rồi cùng với người lái buôn đó đi đến nơi xét xử.
1095
Kūṭavāṇijo bodhisattaṃ āha – ‘‘ayaṃ, sāmi, mama puttaṃ gahetvā nhāyituṃ gato, ‘kahaṃ me putto’ti vutte ‘kulalena haṭo’ti āha, vinicchinatha me aḍḍa’’nti.
The fraudulent merchant said to the Bodhisatta, "My lord, this man went to bathe taking my son. When I asked, 'Where is my son?' he said, 'He was carried away by a kite.' Please judge my case."
Người lái buôn gian xảo nói với Bồ tát: “Thưa ngài, người này đã đưa con trai của tôi đi tắm, khi tôi hỏi ‘Con trai tôi đâu?’, hắn nói ‘Diều hâu đã tha đi’. Xin ngài hãy phân xử vụ kiện này cho tôi.”
Bodhisatto ‘‘saccaṃ bhaṇe’’ti itaraṃ pucchi.
The Bodhisatta asked the other, "Speak the truth."
Bồ tát hỏi người kia: “Có thật không?”
So āha – ‘‘āma, sāmi, ahaṃ taṃ ādāya gato, senena pahaṭabhāvo saccameva, sāmī’’ti.
He said, "Yes, my lord, I took him. It is true that he was carried away by a bird, my lord."
Người kia nói: “Vâng, thưa ngài, tôi đã đưa đứa bé đi, việc nó bị diều hâu tha đi là sự thật, thưa ngài.”
‘‘Kiṃ pana loke kulalā nāma dārake harantī’’ti?
"But do kites in this world carry away children?"
“Nhưng diều hâu có tha trẻ con trên đời này không?”
‘‘Sāmi, ahampi tumhe pucchāmi – ‘‘kulalā dārake gahetvā ākāse gantuṃ na sakkonti, mūsikā pana ayaphāle khādantī’’ti.
"Master, I also ask you: 'Kites cannot take children and go into the sky, but mice eat iron ploughshares.'"
“Thưa ngài, tôi cũng xin hỏi ngài – Diều hâu không thể tha trẻ con bay lên trời, nhưng chuột lại ăn được lưỡi cày bằng sắt sao?”
‘‘Idaṃ kiṃ nāmā’’ti?
"What is this?"
“Cái này là sao?”
‘‘Sāmi, mayā etassa ghare pañca phālasatāni ṭhapitāni, svāyaṃ ‘phālā te mūsikāhi khāditā’ti vatvā ‘idaṃ te phāle khāditamūsikānaṃ vacca’nti vaccaṃ dasseti, sāmi, mūsikā ce phāle khādanti, kulalāpi dārake harissanti.
"Master, I had placed five hundred ploughshares in his house, and he says, 'Your ploughshares were eaten by mice,' and shows excrement, saying, 'This is the excrement of the mice that ate your ploughshares.' Master, if mice eat ploughshares, then kites will also carry away children.
“Thưa ngài, tôi đã gửi năm trăm lưỡi cày ở nhà hắn, nhưng hắn nói ‘Lưỡi cày của ngươi đã bị chuột ăn hết rồi’ và chỉ cho tôi phân chuột, nói ‘Đây là phân của lũ chuột đã ăn lưỡi cày của ngươi’. Thưa ngài, nếu chuột ăn được lưỡi cày, thì diều hâu cũng sẽ tha trẻ con.
Sace na khādanti, senāpi taṃ na harissanti.
If they do not eat them, then the kites will not carry him away.
Nếu chuột không ăn được, thì diều hâu cũng sẽ không tha đứa bé đó.
Eso pana ‘phālā te mūsikāhi khāditā’ti vadati, tesaṃ khāditabhāvaṃ vā akhāditabhāvaṃ vā jānātha, aḍḍaṃ me vinicchinathā’’ti.
But he says, 'Your ploughshares were eaten by mice.' Know whether they were eaten or not eaten, and judge my case."
Nhưng hắn nói ‘Lưỡi cày của ngươi đã bị chuột ăn hết rồi’, xin ngài hãy tìm hiểu xem chúng có bị ăn hay không và phân xử vụ kiện này cho tôi.”
Bodhisatto ‘‘saṭhassa paṭisāṭheyyaṃ katvā jinissāmīti iminā cintitaṃ bhavissatī’’ti ñatvā ‘‘suṭṭhu te cintita’’nti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta, knowing, "This has been thought by him, 'I will conquer by acting deceitfully towards the deceitful,'" said, "You have thought well," and spoke these verses:
Bồ tát biết rằng: “Người này chắc đã nghĩ rằng mình sẽ chiến thắng bằng cách dùng sự xảo trá đối phó với kẻ xảo trá,” rồi nói “Ngươi đã nghĩ rất hay,” và đọc những bài kệ này:
1096
135.
135.
135.
1097
‘‘Saṭhassa sāṭheyyamiṃda sucintitaṃ, paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭaṃ;
"This cunning against the cunning is well-conceived; a trick against a trickster is well-placed.
“Sự xảo trá đối với kẻ xảo trá này đã được suy tính kỹ lưỡng,
1098
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikā, kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyuṃ.
If mice could eat ploughshares, why should kites not carry away a child?
là sự đáp trả lại mưu kế của kẻ lừa đảo. Nếu chuột có thể ăn lưỡi cày, tại sao diều hâu lại không thể tha đứa bé?”
1099
136.
136.
136.
1100
‘‘Kūṭassa hi santi kūṭakūṭā, bhavati cāpi nikatino nikatyā;
Indeed, there are counter-tricks for the trickster, and there is also deceit for the deceitful.
“Thật vậy, đối với kẻ xảo trá có những mưu kế còn xảo trá hơn,
1101
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālaṃ, mā te puttamahāsi phālanaṭṭho’’ti.
Give the ploughshare to the one whose ploughshare was lost, O man whose son was lost; lest the one whose ploughshare was lost take your son."
và đối với kẻ lừa đảo có những sự lừa đảo. Hỡi kẻ mất con, hãy trả lại lưỡi cày cho kẻ mất lưỡi cày, đừng để kẻ mất lưỡi cày cướp mất con của ngươi.”
1102
Tattha saṭhassāti saṭhabhāvena kerāṭikena ‘‘ekaṃ upāyaṃ katvā parasantakaṃ khādituṃ vaṭṭatī’’ti saṭhassa.
Here, saṭhassa means to the deceitful one, to the cunning one who thinks, "It is proper to take another's property by devising a scheme."
Ở đây, saṭhassā có nghĩa là, đối với người xảo quyệt, kẻ lừa đảo, kẻ nghĩ rằng "nên dùng một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của người khác".
Sāṭheyyamidaṃ sucintitanti idaṃ paṭisāṭheyyaṃ cintentena tayā suṭṭhu cintitaṃ.
Sāṭheyyamidaṃ sucintitaṃ means this counter-deceit has been well-conceived by you who conceived it.
Sự xảo quyệt này đã được tính toán kỹ lưỡng có nghĩa là, sự xảo quyệt đối lại này đã được ngươi tính toán rất kỹ.
Paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭanti kūṭassa puggalassa tayā paṭikūṭaṃ suṭṭhu paccoḍḍitaṃ, paṭibhāgaṃ katvā oḍḍitasadisameva katanti attho.
Paccoḍḍitaṃ paṭikūṭassa kūṭaṃ means you have well-placed a counter-trick against the trickster, meaning it has been made like a counter-scheme.
Sự xảo quyệt đối lại đã được giăng bẫy cho kẻ xảo quyệt có nghĩa là, ngươi đã giăng bẫy rất khéo léo cho kẻ xảo quyệt, như thể đã đặt ra một phần đối ứng.
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikāti yadi mūsikā phālaṃ khādeyyuṃ.
Phālaṃ ce khādeyyuṃ mūsikā means if mice were to eat a ploughshare.
Nếu chuột ăn cày có nghĩa là, nếu chuột ăn cày.
Kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyunti mūsikāsu phāle khādantīsu kulalā kiṃ kāraṇā kumāraṃ no hareyyuṃ.
Kasmā kumāraṃ kulalā na hareyyuṃ means if mice eat ploughshares, for what reason would kites not carry away a child?
Tại sao diều hâu không tha trẻ con? có nghĩa là, khi chuột ăn cày, diều hâu vì lý do gì mà không tha trẻ con?
1103
Kūṭassa hi santi kūṭakūṭāti tvaṃ ‘‘ahameva mūsikāhi phāle khādāpitapuriso kūṭo’’ti maññasi, tādisassa pana kūṭassa imasmiṃ loke bahū kūṭā santi, kūṭassa kūṭāti kūṭapaṭikūṭānaṃ etaṃ nāmaṃ, kūṭassa paṭikūṭā nāma santīti vuttaṃ hoti.
Kūṭassa hi santi kūṭakūṭā means you think, "I am the trickster who had the ploughshares eaten by mice," but for such a trickster, there are many tricksters in this world. "Kūṭassa kūṭā" is a name for counter-tricks to a trick, meaning it is said that there are counter-tricks to a trick.
Thật vậy, đối với kẻ xảo quyệt, có những kẻ xảo quyệt hơn. Ngươi nghĩ rằng: "Chính ta là kẻ xảo quyệt đã khiến chuột ăn cày". Tuy nhiên, trên đời này có rất nhiều kẻ xảo quyệt như vậy. "Kūṭassa kūṭā" là tên gọi của những kẻ xảo quyệt đối lại kẻ xảo quyệt. Điều này có nghĩa là có những kẻ xảo quyệt đối lại kẻ xảo quyệt.
Bhavati cāpi nikatino nikatyāti nikatino nekatikassa vañcanakapuggalassa nikatyā aparo nikatikārako vañcanakapuriso bhavatiyeva.
Bhavati cāpi nikatino nikatyā means for a deceitful, fraudulent person, there is indeed another deceitful, fraudulent person who performs deceit.
Và cũng có kẻ lừa dối đối với kẻ lừa dối có nghĩa là, đối với kẻ lừa dối, kẻ gian trá, kẻ lừa đảo, luôn có một kẻ lừa dối khác xuất hiện.
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālanti ambho naṭṭhaputta purisa, etassa naṭṭhaphālassa phālaṃ dehi.
Dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālaṃ means, O man whose son is lost, give the ploughshare to this one whose ploughshare is lost.
Hãy trả lại cái cày cho kẻ mất cày, hỡi người mất con có nghĩa là, hỡi người đàn ông mất con, hãy trả lại cái cày cho kẻ mất cày này.
Mā te puttamahāsi phālanaṭṭhoti sace hissa phālaṃ na dassasi, puttaṃ te harissati, taṃ te esa mā haratu, phālamassa dehīti.
Mā te puttamahāsi phālanaṭṭho means if you do not give him the ploughshare, he will carry away your son. Let him not carry away your son; give him the ploughshare.
Đừng để kẻ mất cày cướp mất con của ngươi có nghĩa là, nếu ngươi không trả lại cái cày cho hắn, hắn sẽ cướp mất con của ngươi. Đừng để hắn cướp con của ngươi, hãy trả lại cái cày cho hắn.
‘‘Demi, sāmi, sace me puttaṃ detī’’ti.
"I will give it, Master, if he gives me my son."
"Bạch Đại Đức, con sẽ trả nếu ngài trả lại con của con".
‘‘Demi, sāmi, sace me phāle detī’’ti.
"I will give it, Master, if he gives me my ploughshares."
"Bạch Đại Đức, con sẽ trả nếu ngài trả lại cày của con".
Evaṃ naṭṭhaputto puttaṃ, naṭṭhaphālo ca phālaṃ paṭilabhitvā ubhopi yathākammaṃ gatā.
Thus, the man whose son was lost received his son, and the man whose ploughshare was lost received his ploughshare, and both went their ways according to their deeds.
Như vậy, người mất con đã nhận lại con, và người mất cày cũng nhận lại cày, cả hai đều ra về theo nghiệp của mình.
1104
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kūṭavāṇijo idāni kūṭavāṇijova, paṇḍitavāṇijo paṇḍitavāṇijoyeva, vinicchayāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "The deceitful merchant at that time is the deceitful merchant now, the wise merchant is the wise merchant now, and the minister of justice was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, rồi kết nối câu chuyện Jātaka – "Kẻ buôn gian xảo khi ấy chính là kẻ buôn gian xảo bây giờ, vị thương gia trí tuệ khi ấy chính là vị thương gia trí tuệ bây giờ, còn vị quan xét xử khi ấy chính là Ta".
1105
Kūṭavāṇijajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth: The Story of the Deceitful Merchant Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về Kẻ Buôn Gian Xảo, thứ tám.
1106
* 9. Garahitajātakavaṇṇanā
* 9. The Story of the Reproached Jātaka
* 9. Câu chuyện Garahita Jātaka
1107
Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ meti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ anabhiratiyā ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me (My silver, my gold) – The Teacher, while residing at Jetavana, told this in reference to a monk who was discontented with dissatisfaction.
Vàng của tôi, bạc của tôi – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu chán nản, bất mãn.
Etassa hi paccekaṃ gahitaṃ ārammaṇaṃ nāma natthi, anabhirativāsaṃ vasantaṃ pana taṃ satthu santikaṃ ānesuṃ.
For him, there was no individually grasped object; but living in dissatisfaction, he was brought to the Teacher.
Vị ấy không có đối tượng riêng để nắm giữ; khi vị ấy sống trong sự bất mãn, người ta đã đưa vị ấy đến gặp Đức Bổn Sư.
So satthārā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, bhikkhu, ukkaṇṭhitosī’’ti puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘kiṃkāraṇā’’ti vutte ‘‘kilesavasenā’’ti āha.
When asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he replied, "It is true." When asked, "For what reason?" he said, "Due to defilements."
Khi được Đức Bổn Sư hỏi: "Này Tỳ-khưu, có thật là ngươi đang chán nản không?", vị ấy trả lời: "Thật vậy", và khi được hỏi "Vì lý do gì?", vị ấy nói: "Vì phiền não".
Atha naṃ satthā ‘‘ayaṃ, bhikkhu, kileso nāma pubbe tiracchānehipi garahito, tvaṃ evarūpe sāsane pabbajito kasmā tiracchānehipi garahitakilesavasena ukkaṇṭhito’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, this defilement was formerly reproached even by animals. Why are you, having gone forth in such a teaching, discontented due to defilements that were reproached even by animals?" and then related a past event.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư nói với vị ấy: "Này Tỳ-khưu, phiền não này đã bị chê trách ngay cả trong loài súc sinh từ xa xưa. Ngươi đã xuất gia trong giáo pháp như vậy, tại sao lại chán nản vì phiền não đã bị loài súc sinh chê trách?", rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1108
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese vānarayoniyaṃ nibbatti.
In the past, while Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into the monkey species in the Himalayan region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào loài khỉ ở vùng Himavanta.
Tamenaṃ eko vanacarako gahetvā ānetvā rañño adāsi.
A certain forest-dweller caught him, brought him, and gave him to the king.
Một người thợ săn đã bắt và dâng Ngài cho nhà vua.
So ciraṃ rājagehe vasamāno vattasampanno ahosi, manussaloke vattamānaṃ kiriyaṃ yebhuyyena aññāsi.
Dwelling for a long time in the royal palace, he became endowed with good conduct and mostly understood the customs prevailing in the human world.
Ngài sống lâu trong cung vua, có phẩm hạnh tốt, và phần lớn hiểu biết về các hoạt động của thế giới loài người.
Rājā tassa vatte pasīditvā vanacarakaṃ pakkosāpetvā ‘‘imaṃ vānaraṃ gahitaṭṭhāneyeva vissajjehī’’ti āṇāpesi, so tathā akāsi.
The king, being pleased with his conduct, summoned the forest-dweller and commanded, "Release this monkey right where it was caught." He did so.
Vua hài lòng với phẩm hạnh của Ngài, cho gọi người thợ săn đến và ra lệnh: "Hãy thả con khỉ này ở chính nơi ngươi đã bắt nó". Người thợ săn đã làm như vậy.
Vānaragaṇo bodhisattassa āgatabhāvaṃ ñatvā tassa dassanatthāya mahante pāsāṇapiṭṭhe sannipatitvā bodhisattena saddhiṃ sammodanīyaṃ kathaṃ katvā ‘‘samma, kahaṃ ettakaṃ kālaṃ vutthosī’’ti āha.
The troop of monkeys, knowing of the Bodhisatta's arrival, gathered on a large rock to see him, and after exchanging friendly greetings with the Bodhisatta, they said, "Friend, where have you been dwelling for so long?"
Đàn khỉ biết Bồ-tát đã trở về, tụ tập trên một tảng đá lớn để gặp Ngài, nói chuyện thân mật với Bồ-tát và hỏi: "Này bạn, bạn đã ở đâu bấy lâu nay?".
‘‘Bārāṇasiyaṃ rājanivesane’’ti.
"In the royal palace in Bārāṇasī."
"Ở cung điện vua tại Bārāṇasī".
‘‘Atha kathaṃ muttosī’’ti?
"Then how were you released?"
"Vậy làm sao bạn được thả ra?".
‘‘Rājā maṃ keḷimakkaṭaṃ katvā mama vatte pasanno maṃ vissajjesī’’ti.
"The king made me a pet monkey, and being pleased with my conduct, he released me."
"Vua đã biến ta thành khỉ cưng, hài lòng với phẩm hạnh của ta và đã thả ta".
1109
Atha naṃ te vānarā ‘‘manussaloke vattamānakiriyaṃ nāma tumhe jānissatha, amhākampi tāva kathetha, sotukāmamhā’’ti āhaṃsu.
Then those monkeys said to him, "You must know the customs prevailing in the human world; please tell us, for we wish to hear."
Bấy giờ, những con khỉ đó nói với Ngài: "Bạn chắc chắn biết những hoạt động của thế giới loài người. Hãy kể cho chúng tôi nghe, chúng tôi rất muốn nghe".
‘‘Mā maṃ manussānaṃ kiriyaṃ pucchathā’’ti.
"Do not ask me about human customs."
"Đừng hỏi ta về những hoạt động của loài người".
‘‘Kathetha sotukāmamhā’’ti.
"Please tell us, we wish to hear."
"Hãy kể đi, chúng tôi rất muốn nghe".
Bodhisattopi ‘‘manussā nāma khattiyāpi brāhmaṇāpi ‘mayhaṃ mayha’nti vadanti, hutvā abhāvaṭṭhena aniccataṃ na jānanti, suṇātha dāni tesaṃ andhabālānaṃ kāraṇa’’nti vatvā imā gāthā avoca –
The Bodhisatta then said, "Humans, whether khattiyas or brāhmaṇas, say 'mine, mine,' and do not understand impermanence, that things come into being and then cease to be. Now listen to the reason for these blind fools," and he spoke these verses:
Bồ-tát liền nói: "Loài người, dù là Sát-đế-lợi hay Bà-la-môn, đều nói 'của tôi, của tôi'. Họ không biết tính vô thường của sự vật, rằng chúng sinh rồi diệt. Bây giờ hãy nghe câu chuyện về những kẻ ngu dốt mù quáng đó", rồi Ngài nói những câu kệ sau:
1110
137.
137.
137.
1111
‘‘Hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me, esā rattiṃ divā kathā;
"My silver, my gold"—this is their talk day and night,
“Vàng của tôi, bạc của tôi,” đó là lời nói ngày đêm;
1112
Dummedhānaṃ manussānaṃ, ariyadhammaṃ apassataṃ.
Of foolish people, not seeing the noble Dhamma.
Của những người ngu dốt, không thấy Pháp bậc Thánh.
1113
138.
138.
138.
1114
‘‘Dve dve gahapatayo gehe, eko tattha amassuko;
"Two householders in a house, one of them beardless,
“Hai gia chủ trong một nhà, một người trong số đó không có râu;
1115
Lambatthano veṇikato, atho aṅkitakaṇṇako;
With pendulous breasts, braided hair, and pierced ears,
Ngực chảy xệ, tóc bện, và tai có dấu ấn;
1116
Kīto dhanena bahunā, so taṃ vitudate jana’’nti.
Bought with much wealth, she torments that person."
Được mua bằng nhiều tiền, người đó lại hành hạ dân chúng.”
1117
Tattha hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ meti desanāsīsamattametaṃ, iminā pana padadvayena dasavidhampi ratanaṃ sabbaṃ, pubbaṇṇāparaṇṇaṃ khettavatthuṃ dvipadacatuppadañca sabbaṃ dassento ‘‘idaṃ me idaṃ me’’ti āha.
Here, hiraññaṃ me suvaṇṇaṃ me (my silver, my gold) is merely the heading of the discourse; by these two words, however, all ten kinds of jewels, all grains and crops, fields and land, and all bipeds and quadrupeds are shown, saying, "This is mine, this is mine."
Ở đây, vàng của tôi, bạc của tôi chỉ là tiêu đề của bài pháp. Với hai từ này, Ngài muốn chỉ tất cả mười loại châu báu, tất cả các loại ngũ cốc, đất đai, nhà cửa, gia súc hai chân và bốn chân, nói rằng "cái này của tôi, cái kia của tôi".
Esā rattiṃ divā kathāti esā manussānaṃ rattiñca divā ca niccakālaṃ kathā.
Esā rattiṃ divā kathā (this is their talk day and night)—this is the constant talk of humans, day and night.
Đó là lời nói ngày đêm có nghĩa là, đó là lời nói thường xuyên của loài người, ngày lẫn đêm.
Aññaṃ pana te ‘‘pañcakkhandhā aniccā’’ti vā ‘‘hutvā na bhavantī’’ti vā na jānanti, evameva paridevantā vicaranti.
But they do not know that "the five aggregates are impermanent" or "they come into being and then cease to be"; they just wander about lamenting thus.
Họ không biết rằng "năm uẩn là vô thường" hay "chúng sinh rồi diệt", mà chỉ than vãn như vậy.
Dummedhānanti appapaññānaṃ.
Dummedhānanti (of foolish people)—of those with little wisdom.
Dummedhānaṃ có nghĩa là những người ít trí tuệ.
Ariyadhammaṃ apassatanti ariyānaṃ buddhādīnaṃ dhammaṃ, ariyaṃ vā niddosaṃ navavidhaṃ lokuttaradhammaṃ apassantānaṃ esāva kathā.
Ariyadhammaṃ apassatanti (not seeing the noble Dhamma)—this is the talk of those who do not see the Dhamma of the Noble Ones, such as the Buddhas, or the noble, faultless, ninefold supramundane Dhamma.
Không thấy Pháp bậc Thánh có nghĩa là, đây là lời nói của những người không thấy Pháp của các bậc Thánh như chư Phật, hoặc không thấy chín loại Pháp siêu thế vô tội của bậc Thánh.
Aññā pana ‘‘aniccaṃ vā dukkhaṃ vā’’ti tesaṃ kathā nāma natthi.
They have no other talk like "impermanent" or "suffering."
Họ không có lời nói nào khác như "vô thường" hay "khổ đau".
1118
Gahapatayoti gehe adhipatibhūtā.
Gahapatayoti (householders)—those who are masters of the house.
Gahapatayo có nghĩa là những người chủ trong nhà.
Eko tatthāti tesu dvīsu gharasāmikesu ‘‘eko’’ti mātugāmaṃ sandhāya vadati.
Eko tatthāti (one of them)—among those two householders, "one" refers to a woman.
Eko tattha có nghĩa là, trong hai người chủ nhà đó, "một người" ám chỉ người phụ nữ.
Tattha veṇikatoti kataveṇī, nānappakārena saṇṭhāpitakesakalāpoti attho.
Here, veṇikatoti (braided hair)—means having braided hair, that is, a coiffure arranged in various ways.
Ở đây, veṇikato có nghĩa là người có bím tóc, tức là người có mái tóc được tạo kiểu đa dạng.
Atho aṅkitakaṇṇakoti atha sveva viddhakaṇṇo chiddakaṇṇoti lambakaṇṇataṃ sandhāyāha.
Atho aṅkitakaṇṇakoti (and pierced ears)—means having pierced ears, that is, perforated ears, referring to pendulous ears.
Và tai có dấu ấn có nghĩa là, và chính người đó có tai bị xỏ lỗ, tai có lỗ, ám chỉ tai bị kéo dài.
Kīto dhanena bahunāti so panesa amassuko lambatthano veṇikato aṅkitakaṇṇo mātāpitūnaṃ bahuṃ dhanaṃ datvā kīto, maṇḍetvā pasādhetvā yānaṃ āropetvā mahantena parivārena gharaṃ ānīto.
Kīto dhanena bahunāti (bought with much wealth)—this beardless one, with pendulous breasts, braided hair, and pierced ears, was bought by giving much wealth to her parents, adorned and beautified, placed in a vehicle, and brought home with a large retinue.
Được mua bằng nhiều tiền có nghĩa là, người phụ nữ không râu, ngực chảy xệ, tóc bện, tai có dấu ấn đó được mua bằng cách cha mẹ cô ấy nhận nhiều tiền, được trang điểm, trang sức, đưa lên xe và mang về nhà với đoàn tùy tùng lớn.
So taṃ vitudate jananti so gahapati āgatakālato paṭṭhāya tasmiṃ gehe dāsakammakarādibhedaṃ janaṃ ‘‘are duṭṭhadāsa duṭṭhadāsi, imaṃ na karosī’’ti mukhasattīhi vitudati, sāmiko viya hutvā mahājanaṃ vicāreti.
So taṃ vitudate jananti (she torments that person)—that householder, from the time of her arrival, torments the people in that house, such as servants and laborers, with sharp words, saying, "Hey, wicked male servant, wicked female servant, why don't you do this?" She acts like the mistress and manages the household.
Người đó lại hành hạ dân chúng có nghĩa là, từ khi người gia chủ đó đến, người đó đã hành hạ những người trong nhà, bao gồm nô lệ và người làm công, bằng những lời lẽ sắc bén như "Này nô lệ xấu xa, nô tì xấu xa, tại sao ngươi không làm cái này?", và quản lý mọi người như một người chủ.
Evaṃ tāva ‘‘manussaloke ativiya ayutta’’nti manussalokaṃ garahi.
Thus, he condemned the human world, saying, "In the human world, things are exceedingly improper."
Như vậy, Ngài đã chê trách thế giới loài người rằng "trong thế giới loài người, điều này là vô cùng bất xứng".
1119
Taṃ sutvā sabbe vānarā ‘‘mā kathetha, mā kathetha, asotabbayuttakaṃ assumhā’’ti ubhohi hatthehi kaṇṇe daḷhaṃ pidahiṃsu.
Hearing that, all the monkeys firmly covered their ears with both hands, saying, "Do not speak, do not speak; we have heard what should not be heard."
Nghe vậy, tất cả những con khỉ đều bịt chặt tai bằng cả hai tay, nói: "Đừng kể nữa, đừng kể nữa, chúng tôi đã nghe điều bất xứng này".
‘‘Imasmiṃ ṭhāne amhehi idaṃ ayuttaṃ suta’’nti taṃ ṭhānampi garahitvā aññattha agamaṃsu.
Condemning that place, saying, "We have heard something improper in this place," they went elsewhere.
Chúng chê trách cả nơi đó rằng "ở nơi này, chúng ta đã nghe điều bất xứng", rồi đi đến nơi khác.
So piṭṭhipāsāṇo garahitapiṭṭhipāsāṇoyeva kira nāma jāto.
That rock, it is said, became known as the "condemned rock."
Tảng đá lớn đó được gọi là "tảng đá bị chê trách".
1120
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne so bhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
The Teacher, having delivered this discourse, revealed the truths and connected the Jātaka. At the conclusion of the truths, that bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, tuyên bố các Chân lý, rồi kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được hoàn tất, vị Tỳ-khưu đó đã an trú vào quả vị Nhập Lưu.
‘‘Tadā vānaragaṇo buddhaparisā ahosi, vānarindo pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the troop of monkeys was the Buddha's assembly, and the king of monkeys was I myself."
"Bấy giờ, đàn khỉ là hội chúng của Đức Phật, còn vua khỉ chính là Ta".
1121
Garahitajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Chapter on the Garahita Jātaka.
Câu chuyện Garahita Jātaka, thứ chín.
1122
* 10. Dhammadhajajātakavaṇṇanā
* 10. The Chapter on the Dhammadhaja Jātaka
* 10. Câu chuyện Dhammadhaja Jātaka
1123
Sukhaṃ jīvitarūposīti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattassa vadhāya parisakkanaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, spoke this, beginning with " Sukhaṃ jīvitarūposī," concerning Devadatta's attempt to kill him.
Ngươi sống thật an lạc – câu chuyện này được Đức Bổn Sư kể tại Veluvana, liên quan đến nỗ lực của Devadatta nhằm sát hại Ngài.
Tadā hi satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi devadatto mayhaṃ vadhāya parisakkiyeva, santāsamattampi pana kātuṃ nāsakkhī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Teacher said, "Bhikkhus, it is not only now; in the past too, Devadatta tried to kill me, but he could not even cause me a moment of fear," and then he related a past event.
Bấy giờ, Đức Bổn Sư nói: "Này các Tỳ-khưu, không chỉ bây giờ, mà ngay cả trong quá khứ, Devadatta cũng đã cố gắng sát hại Ta, nhưng hắn không thể gây ra dù chỉ một chút sợ hãi", rồi kể lại câu chuyện quá khứ.
1124
Atīte bārāṇasiyaṃ yasapāṇi nāma rājā rajjaṃ kāresi, kāḷako nāmassa senāpati ahosi.
In the past, in Bārāṇasī, a king named Yasapāṇi reigned, and his general was named Kāḷaka.
Trong quá khứ, khi vua Yasapāṇi trị vì ở Bārāṇasī, vị tổng tư lệnh của vua tên là Kāḷaka.
Tadā bodhisatto tasseva purohito ahosi nāmena dhammadhajo nāma, rañño pana sīsappasādhanakappako chattapāṇi nāma.
At that time, the Bodhisatta was the king's chaplain, named Dhammadhaja, and the king's royal barber was named Chattapāṇi.
Bấy giờ, Bồ-tát là vị đạo sư của chính nhà vua, tên là Dhammadhaja, còn người cắt tóc và cầm lọng cho vua tên là Chattapāṇi.
Rājā dhammena rajjaṃ kāreti, senāpati panassa vinicchayaṃ karonto lañjaṃ khādati parapiṭṭhimaṃsiko, lañjaṃ gahetvā assāmike sāmike karoti.
The king ruled righteously, but his general, in making judgments, accepted bribes and sided with the rich, making the rightful owners non-owners.
Vua cai trị bằng Pháp, nhưng tổng tư lệnh của vua lại nhận hối lộ khi xét xử, ăn thịt lưng người khác, nhận hối lộ để biến kẻ không có chủ thành có chủ.
Athekadivasaṃ vinicchaye parājito manusso bāhā paggayha kandanto vinicchayā nikkhanto rājupaṭṭhānaṃ gacchantaṃ bodhisattaṃ disvā tassa pādesu patitvā ‘‘tumhādisesu nāma, sāmi, rañño atthañca dhammañca anusāsantesu kāḷakasenāpati lañjaṃ gahetvā assāmike sāmike karotī’’ti attano parājitabhāvaṃ bodhisattassa kathesi.
Then one day, a man who had lost a case, crying with arms raised, left the court. Seeing the Bodhisatta going to the royal presence, he fell at his feet and told him of his defeat, saying, "Master, when people like you advise the king on welfare and righteousness, General Kāḷaka takes bribes and makes the rightful owners non-owners."
Một ngày nọ, một người bị thua kiện, giơ tay khóc lóc đi ra khỏi nơi xét xử, thấy Bồ tát đang đi đến chỗ nhà vua, liền quỳ xuống chân ngài và nói: “Thưa ngài, trong khi những người như ngài đang khuyên răn nhà vua về lợi ích và Chánh pháp, thì vị tướng quân Kāḷaka lại nhận hối lộ và biến những người không có chủ thành có chủ.” Người đó kể cho Bồ tát nghe về việc mình bị thua kiện.
Bodhisatto kāruññaṃ uppādetvā ‘‘ehi bhaṇe, aḍḍaṃ te vinicchinissāmī’’ti taṃ gahetvā vinicchayaṭṭhānaṃ agamāsi.
The Bodhisatta, feeling compassion, said, "Come, my good man, I will judge your case," and taking him, went to the courthouse.
Bồ tát khởi lòng từ bi, nói: “Này bạn, hãy đến đây, ta sẽ phân xử vụ kiện cho ngươi,” rồi đưa người đó đến nơi xét xử.
Mahājano sannipati, bodhisatto taṃ aḍḍaṃ paṭivinicchinitvā sāmikaññeva sāmikaṃ akāsi.
A large crowd gathered, and the Bodhisatta re-judged that case, making the rightful owner indeed the owner.
Đám đông tụ tập, Bồ tát xét xử lại vụ án đó và trả lại chủ sở hữu cho đúng người.
1125
Mahājano sādhukāraṃ adāsi, so saddo mahā ahosi.
The crowd applauded, and the sound was great.
Đám đông vỗ tay tán thưởng, tiếng reo hò vang dội.
Rājā taṃ sutvā ‘‘kiṃ saddo nāmeso’’ti pucchi.
The king heard it and asked, "What is this sound?"
Nhà vua nghe thấy, hỏi: “Tiếng gì vậy?”
‘‘Deva, dhammadhajapaṇḍitena dubbinicchito aḍḍo suvinicchito, tatresa sādhukārasaddo’’ti.
"Your Majesty, the Dhammadhaja Pandit has correctly judged a case that Kāḷaka had wrongly judged; that is the sound of applause."
“Tâu bệ hạ, vụ kiện bị xét xử sai bởi vị tướng quân Dhammadhaja đã được xét xử đúng đắn, đó là tiếng tán thưởng.”
Rājā tuṭṭho bodhisattaṃ pakkosāpetvā ‘‘aḍḍo kira te ācariya vinicchito’’ti pucchi.
The king, pleased, summoned the Bodhisatta and asked, "I hear, teacher, that you have judged a case."
Nhà vua vui mừng, cho gọi Bồ tát đến và hỏi: “Thưa thầy, vụ kiện đã được thầy phân xử phải không?”
‘‘Āma, mahārāja, kāḷakena dubbinicchitaṃ aḍḍaṃ vinicchini’’nti vutte ‘‘ito dāni paṭṭhāya tumheva aḍḍaṃ vinicchinatha, mayhañca kaṇṇasukhaṃ bhavissati lokassa ca vuḍḍhī’’ti vatvā anicchantampi taṃ ‘‘sattānuddayāya vinicchaye nisīdathā’’ti yācitvā sampaṭicchāpesi.
When he replied, "Yes, Your Majesty, I judged a case that Kāḷaka had wrongly judged," the king said, "From now on, you yourself shall judge cases; it will be pleasing to my ears and beneficial to the world," and though the Bodhisatta was unwilling, he implored him, "Please sit in judgment out of compassion for beings," and made him accept.
Khi được trả lời: “Vâng, tâu đại vương, con đã phân xử vụ kiện mà Kāḷaka đã xét xử sai,” nhà vua nói: “Từ nay trở đi, chính thầy hãy phân xử các vụ kiện, điều đó sẽ làm tai con vui và mang lại sự thịnh vượng cho thế gian,” rồi dù Bồ tát không muốn, nhà vua vẫn khẩn cầu ngài: “Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, xin thầy hãy ngồi vào vị trí xét xử,” và ngài đã chấp nhận.
Tato paṭṭhāya bodhisatto vinicchaye nisīdati, sāmikeyeva sāmike karoti.
From then on, the Bodhisatta sat in judgment, making the rightful owners indeed the owners.
Từ đó trở đi, Bồ tát ngồi vào vị trí xét xử, và trả lại chủ sở hữu cho đúng người.
1126
Kāḷako tato paṭṭhāya lañjaṃ alabhanto lābhato parihāyitvā bodhisattassa āghātaṃ bandhitvā ‘‘mahārāja, dhammadhajapaṇḍito tava rajjaṃ patthetī’’ti bodhisattaṃ rañño antare paribhindi.
From that time, Kāḷaka, no longer receiving bribes, suffered a loss of income. He bore a grudge against the Bodhisatta and slandered him to the king, saying, "Your Majesty, Dhammadhaja Pandit covets your kingdom."
Từ đó trở đi, Kāḷaka không nhận được hối lộ, mất đi lợi lộc, nên nuôi lòng thù hận Bồ tát và nói xấu Bồ tát với nhà vua: “Tâu đại vương, học giả Dhammadhaja đang khao khát vương quốc của ngài.”
Rājā asaddahanto ‘‘mā evaṃ avacā’’ti paṭikkhipitvā puna tena ‘‘sace me na saddahatha, tassāgamanakāle vātapānena oloketha.
The king, disbelieving, rejected it, saying, "Do not speak thus." But when Kāḷaka again said, "If you do not believe me, look through the window when he arrives.
Nhà vua không tin, bác bỏ: “Đừng nói như vậy.” Nhưng khi Kāḷaka nói thêm: “Nếu ngài không tin con, hãy nhìn qua cửa sổ khi ông ấy đến.
Athānena sakalanagarassa attano hatthe katabhāvaṃ passissathā’’ti vutte rājā tassa aḍḍakārakaparisaṃ disvā ‘‘etasseva parisā’’ti saññāya bhijjitvā ‘‘kiṃ karoma senāpatī’’ti pucchi.
Then you will see how he has brought the entire city under his control," the king, seeing the Bodhisatta's retinue of petitioners, mistakenly thought, "This is his own retinue," and was swayed. He asked, "What shall we do, General?"
Bấy giờ ngài sẽ thấy ông ấy đã nắm toàn bộ thành phố trong tay mình,” nhà vua thấy hội đồng xét xử của Bồ tát, và với nhận thức “Đây là hội đồng của riêng ông ấy,” liền bị chia rẽ và hỏi: “Tướng quân, chúng ta phải làm gì?”
‘‘Deva, etaṃ māretuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Your Majesty, it is proper to kill him."
“Tâu bệ hạ, cần phải giết ông ta.”
‘‘Oḷārikadosaṃ apassantā kathaṃ māressāmā’’ti?
"How can we kill him without seeing a grave offense?"
“Làm sao chúng ta có thể giết ông ta khi không thấy lỗi lầm rõ ràng nào?”
‘‘Attheko upāyo’’ti.
"There is a way."
“Có một cách.”
‘‘Katarūpāyo’’ti.
"What kind of way?"
“Cách nào?”
‘‘Asayhamassa kammaṃ āropetvā taṃ kātuṃ asakkontaṃ taṃ tena dosena māressāmā’’ti.
"By assigning him an impossible task, and when he cannot do it, we will kill him for that offense."
“Chúng ta sẽ giao cho ông ta một công việc bất khả thi, và khi ông ta không thể làm được, chúng ta sẽ giết ông ta vì lỗi đó.”
‘‘Kiṃ pana asayhakamma’’nti?
"What is an impossible task?"
“Công việc bất khả thi đó là gì?”
‘‘Mahārāja, uyyānaṃ nāma sārabhūmiyaṃ ropitaṃ paṭijaggiyamānaṃ tīhi catūhi saṃvaccharehi phalaṃ deti.
"Your Majesty, a garden planted in fertile soil and tended carefully yields fruit in three or four years.
“Tâu đại vương, một khu vườn được trồng trên đất màu mỡ và được chăm sóc sẽ cho quả sau ba đến bốn năm.
Tumhe taṃ pakkosāpetvā ‘sve uyyānaṃ kīḷissāma, uyyānaṃ me māpehī’ti vadatha, so māpetuṃ na sakkhissati.
You should summon him and say, 'Tomorrow we will sport in the garden; make a garden for me.' He will not be able to make it.
Ngài hãy cho gọi ông ta đến và nói: ‘Ngày mai chúng ta sẽ vui chơi trong vườn, hãy tạo một khu vườn cho ta.’ Ông ta sẽ không thể tạo ra được.
Atha naṃ tasmiṃ dose māressāmā’’ti.
Then we will kill him for that offense."
Bấy giờ chúng ta sẽ giết ông ta vì lỗi đó.”
1127
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘paṇḍita, mayhaṃ purāṇauyyāne ciraṃ kīḷimha, idāni navauyyāne kīḷitukāmamha, sve kīḷissāma, uyyānaṃ no māpehi, sace māpetuṃ na sakkhissasi, jīvitaṃ te natthī’’ti.
The king addressed the Bodhisatta, saying, "Wise one, we have long played in our old garden. Now we wish to play in a new garden. We will play tomorrow, so construct a garden for us. If you cannot construct it, you will lose your life."
Nhà vua gọi Bồ tát đến và nói: “Học giả, chúng ta đã vui chơi trong khu vườn cũ của ta đã lâu, bây giờ chúng ta muốn vui chơi trong một khu vườn mới. Ngày mai chúng ta sẽ vui chơi, hãy tạo một khu vườn cho ta. Nếu ngươi không thể tạo ra được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘kāḷakena lañjaṃ alabhamānena rājā antare paribhinno bhavissatī’’ti ñatvā ‘‘sakkonto jānissāmi, mahārājā’’ti vatvā gehaṃ gantvā subhojanaṃ bhuñjitvā cintayamāno sayane nipajji, sakkassa bhavanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
The Bodhisatta, knowing that "the king will be ruined if Kāḷaka does not receive a bribe," said, "I will know if I can, great king," and went home, ate a good meal, and lay down on his bed, contemplating. The abode of Sakka showed signs of heat.
Bồ tát biết rằng: “Kāḷaka, vì không nhận được hối lộ, đã chia rẽ nhà vua với ta,” rồi nói: “Con sẽ cố gắng hết sức, tâu đại vương,” rồi về nhà, ăn uống thịnh soạn và nằm xuống giường suy tư, khiến cung điện của Sakka trở nên nóng bức.
Sakko āvajjento bodhisattassa cittaṃ ñatvā vegenāgantvā sirigabbhaṃ pavisitvā ākāse ṭhatvā ‘‘kiṃ cintesi paṇḍitā’’ti pucchi.
Sakka, reflecting, understood the Bodhisatta's thought, and quickly came, entered the royal chamber, stood in the air, and asked, "What are you contemplating, wise one?"
Sakka quán xét, biết được tâm ý của Bồ tát, liền nhanh chóng đến, vào cung điện Sirigabbha, đứng trên không trung và hỏi: “Học giả, ngươi đang suy tư điều gì?”
‘‘Kosi tva’’nti?
"Who are you?"
“Ngươi là ai?”
‘‘Sakkohamasmī’’ti.
"I am Sakka."
“Ta là Sakka.”
‘‘Rājā maṃ ‘uyyānaṃ māpehī’ti āha, taṃ cintemī’’ti.
"The king told me, 'Construct a garden,' and I am contemplating that."
“Nhà vua bảo ta ‘Hãy tạo một khu vườn,’ ta đang suy tư về điều đó.”
‘‘Paṇḍita, mā cintayi, ahaṃ te nandanavanacittalatāvanasadisaṃ uyyānaṃ māpessāmi, katarasmiṃ ṭhāne māpemī’’ti?
"Wise one, do not worry. I will construct a garden for you, similar to the Nandana grove or the Cittalatā grove. In what place shall I construct it?"
“Học giả, đừng lo lắng, ta sẽ tạo cho ngươi một khu vườn giống như Nandanavana và Cittalatāvana. Ngươi muốn ta tạo ở chỗ nào?”
‘‘Asukaṭṭhāne māpehī’’ti.
"Construct it in that place."
“Hãy tạo ở chỗ đó.”
Sakko māpetvā devapurameva gato.
Sakka constructed it and went back to the city of devas.
Sakka đã tạo xong và trở về cõi trời.
1128
Punadivase bodhisatto uyyānaṃ paccakkhato disvā gantvā rañño ārocesi – ‘‘niṭṭhitaṃ te, mahārāja, uyyānaṃ, kīḷassū’’ti.
The next day, the Bodhisatta saw the garden with his own eyes, went, and informed the king: "Your garden is finished, great king. You may play."
Ngày hôm sau, Bồ tát tận mắt thấy khu vườn, liền đến báo với nhà vua: “Tâu đại vương, khu vườn của ngài đã hoàn thành, xin ngài hãy vui chơi.”
Rājā gantvā aṭṭhārasahatthena manosilāvaṇṇena pākārena parikkhittaṃ dvāraṭṭālakasampannaṃ pupphaphalabhārabharitanānārukkhapaṭimaṇḍitaṃ uyyānaṃ disvā kāḷakaṃ pucchi – ‘‘paṇḍitena amhākaṃ vacanaṃ kataṃ, idāni kiṃ karomā’’ti.
The king went and saw the garden, surrounded by an eighteen-cubit wall the color of red arsenic, complete with gate-towers, and adorned with various trees laden with flowers and fruits. He asked Kāḷaka, "The wise one has done as we commanded. What shall we do now?"
Nhà vua đến, thấy khu vườn được bao quanh bởi bức tường màu đá son cao mười tám cubit, có cổng tháp canh, được trang trí bằng nhiều loại cây trĩu quả và hoa, liền hỏi Kāḷaka: “Học giả đã làm theo lời chúng ta, bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Mahārāja, ekarattena uyyānaṃ māpetuṃ sakkonto rajjaṃ gahetuṃ kiṃ na sakkotī’’ti?
"Great king, if he can construct a garden in one night, why can he not seize the kingdom?"
“Tâu đại vương, nếu ông ta có thể tạo một khu vườn trong một đêm, tại sao ông ta lại không thể chiếm lấy vương quốc?”
‘‘Idāni kiṃ karomā’’ti?
"What shall we do now?"
“Bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Aparampi naṃ asayhakammaṃ kāremā’’ti.
"Let us make him do another impossible task."
“Chúng ta hãy giao cho ông ta một công việc bất khả thi khác.”
‘‘Kiṃ kammaṃ nāmā’’ti?
"What kind of task?"
“Công việc gì?”
‘‘Sattaratanamayaṃ pokkharaṇiṃ māpemā’’ti.
"Let us make him construct a pond made of the seven jewels."
“Chúng ta hãy tạo một hồ sen bằng bảy loại ngọc quý.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘ācariya, uyyānaṃ tāva te māpitaṃ, etassa pana anucchavikaṃ sattaratanamayaṃ pokkharaṇiṃ māpehi.
The king said, "Very well," and addressed the Bodhisatta: "Teacher, your garden has been constructed. Now, construct a pond made of the seven jewels, suitable for it.
Nhà vua nói: “Tốt,” rồi gọi Bồ tát đến và nói: “Thưa thầy, khu vườn của thầy đã được tạo ra, bây giờ hãy tạo một hồ sen bằng bảy loại ngọc quý tương xứng với nó.
Sace māpetuṃ na sakkhissasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
If you cannot construct it, you will lose your life."
Nếu ngươi không thể tạo ra được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘sādhu, mahārāja, sakkonto māpessāmī’’ti āha.
The Bodhisatta said, "Very well, great king, I will construct it if I can."
Bồ tát nói: “Vâng, tâu đại vương, con sẽ cố gắng tạo ra.”
Athassa sakko pokkharaṇiṃ māpesi sobhaggappattaṃ satatitthaṃ sahassavaṅkaṃ pañcavaṇṇapadumasañchannaṃ nandanapokkharaṇisadisaṃ.
Then Sakka constructed a pond for him, beautiful, with a hundred bathing places, a thousand bends, covered with five-colored lotuses, similar to the Nandana pond.
Bấy giờ Sakka đã tạo cho ngài một hồ sen tuyệt đẹp, có hàng trăm bờ, hàng ngàn khúc quanh, được phủ đầy hoa sen năm màu, giống như hồ sen Nandanā.
1129
Punadivase bodhisatto tampi paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi – ‘‘māpitā, deva, pokkharaṇī’’ti.
The next day, the Bodhisatta also observed it and informed the king: "The pond has been constructed, Your Majesty."
Ngày hôm sau, Bồ tát cũng tận mắt thấy hồ sen đó, liền báo với nhà vua: “Tâu bệ hạ, hồ sen đã được tạo ra.”
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karomā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Nhà vua cũng thấy hồ sen đó, liền hỏi Kāḷaka: “Bây giờ chúng ta phải làm gì?”
‘‘Uyyānassa anucchavikaṃ gehaṃ māpetuṃ āṇāpehi, devā’’ti.
"Your Majesty, command him to construct a house suitable for the garden."
“Tâu bệ hạ, hãy ra lệnh cho ông ta tạo một ngôi nhà tương xứng với khu vườn.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘idāni, ācariya, imassa uyyānassa ceva pokkharaṇiyā ca anucchavikaṃ sabbadantamayaṃ gehaṃ māpehi, no ce māpessasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
The king addressed the Bodhisatta: "Now, teacher, construct a house made entirely of ivory, suitable for this garden and pond. If you do not construct it, you will lose your life."
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này đạo sư, bây giờ hãy xây một ngôi nhà hoàn toàn bằng ngà voi phù hợp với khu vườn và ao sen này. Nếu không xây được, ngươi sẽ mất mạng.”
Athassa sakko gehampi māpesi.
Then Sakka also constructed the house for him.
Thế rồi, Sakka đã xây cả ngôi nhà cho ông.
Bodhisatto punadivase tampi paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi.
The next day, the Bodhisatta also observed it and informed the king.
Ngày hôm sau, Bồ tát cũng đã chứng kiến điều đó và báo cho vua biết.
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karomā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Vua cũng thấy điều đó và hỏi Kāḷaka: “Bây giờ ta phải làm gì?”
‘‘Gehassa anucchavikaṃ maṇiṃ māpetuṃ āṇāpehi, mahārājā’’ti āha.
"Great king, command him to create a jewel suitable for the house," he said.
Kāḷaka nói: “Đại vương, hãy ra lệnh làm một viên ngọc phù hợp với ngôi nhà.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘paṇḍita, imassa dantamayagehassa anucchavikaṃ maṇiṃ māpehi, maṇiālokena vicarissāma.
The king addressed the Bodhisatta: "Wise one, create a jewel suitable for this ivory house. We will wander by the light of the jewel.
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này hiền giả, ngươi đã xây một ngôi nhà bằng ngà voi và một viên ngọc quý để thắp sáng nó, bây giờ hãy làm một viên ngọc phù hợp với ngôi nhà bằng ngà voi này để chúng ta có thể đi lại trong ánh sáng của viên ngọc.
Sace māpetuṃ na sakkosi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
If you cannot create it, you will lose your life."
Nếu ngươi không thể làm được, ngươi sẽ mất mạng.”
Athassa sakko maṇimpi māpesi.
Then Sakka also created the jewel for him.
Thế rồi, Sakka cũng đã làm viên ngọc cho ông.
1130
Bodhisatto punadivase taṃ paccakkhaṃ katvā rañño ārocesi.
The next day, the Bodhisatta observed it and informed the king.
Ngày hôm sau, Bồ tát đã chứng kiến điều đó và báo cho vua biết.
Rājā tampi disvā ‘‘idāni kiṃ karissāmā’’ti kāḷakaṃ pucchi.
The king also saw it and asked Kāḷaka, "What shall we do now?"
Vua cũng thấy điều đó và hỏi Kāḷaka: “Bây giờ ta sẽ làm gì?”
‘‘Mahārāja, dhammadhajabrāhmaṇassa icchiticchitadāyikā devatā atthi maññe, idāni yaṃ devatāpi māpetuṃ na sakkoti, taṃ āṇāpehi.
"Great king, I believe the brahmin Dhammadhaja has a deity who grants whatever he wishes. Now, command him to do something that even a deity cannot create.
“Đại vương, có lẽ Bà la môn Dhammadhaja có một vị thần ban cho mọi điều ông mong muốn. Bây giờ, hãy ra lệnh cho ông ấy làm điều mà ngay cả các vị thần cũng không thể làm được.
Caturaṅgasamannāgataṃ nāma manussaṃ devatāpi māpetuṃ na sakkoti, tasmā ‘caturaṅgasamannāgataṃ me uyyānapālaṃ māpehī’ti taṃ vadāhī’’ti.
A human being endowed with four qualities cannot be created even by a deity. Therefore, tell him, 'Create for me a garden keeper endowed with four qualities.'"
Một con người có đủ bốn yếu tố thì ngay cả các vị thần cũng không thể tạo ra được. Vì vậy, hãy nói với ông ấy rằng: ‘Hãy tạo cho ta một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố’.”
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘ācariya, tayā amhākaṃ uyyānaṃ, pokkharaṇī, dantamayapāsādo, tassa ālokakaraṇatthāya maṇiratanañca māpitaṃ, idāni me uyyānarakkhakaṃ caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ māpehi, no ce māpessasi, jīvitaṃ te natthī’’ti āha.
The king addressed the Bodhisatta, saying, "Teacher, you have created for us a garden, a lotus pond, an ivory palace, and a jeweled gem to illuminate it. Now, create for me a four-limbed garden guardian. If you do not create one, your life will be no more."
Vua gọi Bồ tát lại và nói: “Này đạo sư, ngươi đã tạo ra khu vườn, ao sen, cung điện bằng ngà voi, và viên ngọc quý để thắp sáng nó cho chúng ta. Bây giờ, hãy tạo cho ta một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố để bảo vệ khu vườn. Nếu không tạo được, ngươi sẽ mất mạng.”
Bodhisatto ‘‘hotu, labhamāno jānissāmī’’ti gehaṃ gantvā subhojanaṃ bhuñjitvā nipanno paccūsakāle pabujjhitvā sayanapīṭhe nisinno cintesi – ‘‘sakko devarājā yaṃ attanā sakkā māpetuṃ, taṃ māpesi, caturaṅgasamannāgataṃ pana uyyānapālaṃ na sakkā māpetuṃ, evaṃ sante paresaṃ hatthe maraṇato araññe anāthamaraṇameva varatara’’nti.
The Bodhisatta, saying, "So be it, I will know when I obtain it," went home, ate a good meal, lay down, and, awakening at dawn, sat on his couch and thought, "Sakko, the king of devas, created what he could create himself, but a four-limbed garden guardian cannot be created. If this is the case, it is better to die a helpless death in the forest than to die at the hands of others."
Bồ tát nói: “Được thôi, khi có được, tôi sẽ biết.” Ông về nhà, ăn một bữa ăn ngon rồi nằm xuống. Sáng sớm hôm sau, ông thức dậy, ngồi trên ghế ngủ và suy nghĩ: “Vua trời Sakka đã tạo ra những gì ông ấy có thể tạo ra. Nhưng một người giữ vườn có đủ bốn yếu tố thì không thể tạo ra được. Nếu vậy, chết một cách vô chủ trong rừng còn tốt hơn là chết trong tay người khác.”
So kassaci anārocetvā pāsādā otaritvā aggadvāreneva nagarā nikkhamitvā araññaṃ pavisitvā aññatarasmiṃ rukkhamūle sataṃ dhammaṃ āvajjamāno nisīdi.
Without informing anyone, he descended from the palace, exited the city through the main gate, entered the forest, and sat at the foot of a certain tree, reflecting on the Dhamma of the virtuous.
Ông không báo cho ai biết, bước xuống khỏi cung điện, ra khỏi thành phố bằng cửa chính, đi vào rừng và ngồi dưới gốc cây nào đó, suy tư về Pháp.
1131
Sakko taṃ kāraṇaṃ ñatvā vanacarako viya hutvā bodhisattaṃ upasaṅkamitvā ‘‘brāhmaṇa, tvaṃ sukhumālo, adiṭṭhapubbadukkharūpo viya imaṃ araññaṃ pavisitvā kiṃ karonto nisinnosī’’ti imamatthaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Sakko, knowing that reason, appeared like a forest dweller, approached the Bodhisatta, and asking this matter, "Brahmin, you are delicate, appearing as one who has never experienced suffering, having entered this forest, what are you doing sitting here?" spoke the first verse—
Sakka biết được sự việc đó, hóa thành một người đi rừng, đến gần Bồ tát và hỏi: “Này Bà la môn, ngươi là người an nhàn, chưa từng thấy khổ đau, tại sao lại vào khu rừng này mà ngồi đây làm gì?” Ông hỏi ý nghĩa này bằng cách nói lên bài kệ đầu tiên:
1132
136.
136.
136.
1133
‘‘Sukhaṃ jīvitarūposi, raṭṭhā vivanamāgato;
“You appear to live comfortably, having come from the country to the wilderness;
“Dáng vẻ sống an lạc, từ quốc độ vào rừng;
1134
So ekako rukkhamūle, kapaṇo viya jhāyasī’’ti.
You sit alone at the foot of a tree, meditating like a pauper.”
Một mình dưới gốc cây, như kẻ nghèo thiền định.”
1135
Tattha sukhaṃ jīvitarūposīti tvaṃ sukhena jīvitasadiso sukhedhito sukhaparihato viya.
Therein, you appear to live comfortably means you are like one whose life is comfortable, well-nourished, and well-cared for.
Ở đó, ngươi có hình dáng của đời sống an lạc nghĩa là ngươi giống như một người sống an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc, như được chăm sóc trong an lạc.
Raṭṭhāti ākiṇṇamanussaṭṭhānā.
From the country means from a place crowded with people.
Quốc độ nghĩa là từ nơi đông đúc người.
Vivanamāgatoti nirudakaṭṭhānaṃ araññaṃ paviṭṭho.
Having come to the wilderness means having entered a waterless forest.
Đã đến nơi hoang vắng nghĩa là đã đi vào khu rừng không có nước.
Rukkhamūleti rukkhasamīpe.
At the foot of a tree means near a tree.
Dưới gốc cây nghĩa là gần cây.
Kapaṇo viya jhāyasīti kapaṇo viya ekako nisinno jhāyasi pajjhāyasi, kiṃ nāmetaṃ cintesīti pucchi.
Meditating like a pauper means you sit alone, meditating, pondering like a pauper; what is it you are thinking? he asked.
Ngươi thiền như một kẻ đáng thương nghĩa là ngươi ngồi một mình như một kẻ đáng thương, ngươi thiền định, ngươi suy tư sâu sắc, ngươi đang nghĩ gì vậy? – (ông ta) hỏi.
1136
Taṃ sutvā bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the Bodhisatta spoke the second verse—
Nghe vậy, Bồ-tát nói bài kệ thứ hai –
1137
140.
140.
140.
1138
‘‘Sukhaṃ jīvitarūposmi, raṭṭhā vivanamāgato;
“I appear to live comfortably, having come from the country to the wilderness;
“Ta có hình dáng của đời sống an lạc, từ quốc độ đã đến nơi hoang vắng;
1139
So ekako rukkhamūle, kapaṇo viya jhāyāmi;
I sit alone at the foot of a tree, meditating like a pauper;
Ta một mình dưới gốc cây, thiền định như một kẻ đáng thương;
1140
Sataṃ dhammaṃ anussara’’nti.
Recalling the Dhamma of the virtuous.”
Hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân.”
1141
Tattha sataṃ dhammaṃ anussaranti, samma, saccametaṃ, ahaṃ sukhaṃ jīvitarūpo raṭṭhā ca vivanamāgato, sohaṃ ekakova imasmiṃ rukkhamūle nisīditvā kapaṇo viya jhāyāmi.
Therein, recalling the Dhamma of the virtuous means, friend, it is true, I appear to live comfortably and have come from the country to the wilderness, and I sit alone at the foot of this tree, meditating like a pauper.
Ở đó, hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân nghĩa là, này bạn, điều này là sự thật, ta có hình dáng của đời sống an lạc và đã từ quốc độ đến nơi hoang vắng, ta một mình ngồi dưới gốc cây này và thiền định như một kẻ đáng thương.
Yaṃ pana vadesi ‘‘kiṃ nāmetaṃ cintesī’’ti, taṃ te pavedemi ‘‘sataṃ dhamma’’nti.
As for what you say, "What is it you are thinking?", I will tell you: "the Dhamma of the virtuous."
Còn điều ngươi hỏi “ngươi đang nghĩ gì vậy?”, ta sẽ nói cho ngươi biết đó là “Pháp của bậc chân nhân”.
Ahañhi sataṃ dhammaṃ anussaranto idha nisinno.
Indeed, I am sitting here recalling the Dhamma of the virtuous.
Ta đang ngồi ở đây để hồi tưởng Pháp của bậc chân nhân.
Sataṃ dhammanti buddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ sataṃ sappurisānaṃ paṇḍitānaṃ dhammaṃ.
The Dhamma of the virtuous means the Dhamma of the Buddhas, Paccekabuddhas, and disciples of the Buddha, the Dhamma of the good and wise.
Pháp của bậc chân nhân nghĩa là Pháp của những bậc chân nhân, những bậc hiền trí như Phật, Độc Giác Phật, và Thanh Văn Phật.
Lābho alābho yaso ayaso nindā pasaṃsā sukhaṃ dukkhanti ayañhi aṭṭhavidho lokadhammo.
Gain and loss, fame and disrepute, blame and praise, pleasure and pain—these are the eight worldly conditions.
Lợi lộc, không lợi lộc; danh tiếng, không danh tiếng; chê bai, tán thán; an lạc, khổ đau – đây là tám pháp thế gian.
Iminā pana abbhāhatā santo na kampanti na pavedhenti, ayamettha akampanasaṅkhāto sataṃ dhammo imaṃ anussaranto nisinnomhīti dīpeti.
However, those who are assailed by these do not waver, do not tremble; this is the Dhamma of the virtuous, characterized by unshakeability, and I am sitting here recalling this, he explains.
Tuy nhiên, những bậc chân nhân bị chúng tác động nhưng không lay chuyển, không dao động. Đây là Pháp của bậc chân nhân được gọi là không lay chuyển. (Bồ-tát) bày tỏ rằng ta đang ngồi đây để hồi tưởng điều này.
1142
Atha naṃ sakko ‘‘evaṃ sante, brāhmaṇa, imasmiṃ ṭhāne kasmā nisinnosī’’ti.
Then Sakko asked him, "If that is so, Brahmin, why are you sitting in this place?"
Khi đó, Sakka hỏi ông ta: “Nếu vậy, này Bà-la-môn, vì sao ngươi lại ngồi ở nơi này?”
‘‘Rājā caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ āharāpeti, tādisaṃ na sakkomi laddhuṃ, sohaṃ ‘kiṃ me parassa hatthe maraṇena, araññaṃ pavisitvā anāthamaraṇaṃ marissāmī’ti cintetvā idhāgantvā nisinno’’ti.
"The king demands a four-limbed garden guardian, and I cannot obtain such a one. So, thinking, 'Why should I die at the hands of another? I will enter the forest and die a helpless death,' I came and sat here."
“(Vì) nhà vua sai mang đến một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, (nhưng) ta không thể tìm được người như vậy. Vì thế, ta nghĩ ‘tại sao ta phải chết dưới tay người khác, ta sẽ đi vào rừng và chết một cái chết không nơi nương tựa’, rồi ta đến đây ngồi.”
‘‘Brāhmaṇa, ahaṃ sakko devarājā, mayā te uyyānādīni māpitāni, caturaṅgasamannāgataṃ uyyānapālaṃ māpetuṃ na sakkā, tumhākaṃ rañño sīsappasādhanakappako chattapāṇi nāma, so caturaṅgasamannāgato, caturaṅgasamannāgatena uyyānapālena atthe sati etaṃ kappakaṃ uyyānapālaṃ kātuṃ vadehī’’ti.
"Brahmin, I am Sakko, the king of devas. I created your garden and other things. It is not possible to create a four-limbed garden guardian. Your king has a royal hairdresser named Chattapāṇi, who is four-limbed. If there is a need for a four-limbed garden guardian, tell him to make this hairdresser the garden guardian."
“Này Bà-la-môn, ta là Sakka, vua chư thiên. Ta đã tạo ra các khu vườn và những thứ khác cho ngươi, nhưng không thể tạo ra một người giữ vườn có đủ bốn chi phần. Vua của các ngươi có một người thợ cắt tóc tên là Chattapāṇi, người cầm dù, anh ta có đủ bốn chi phần. Nếu cần một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, hãy nói làm cho người thợ cắt tóc này làm người giữ vườn.”
Iti sakko bodhisattassa ovādaṃ datvā ‘‘mā bhāyī’’ti samassāsetvā attano devapurameva gato.
Thus, Sakko gave advice to the Bodhisatta, reassured him saying, "Do not be afraid," and returned to his own city of devas.
Như vậy, Sakka đã khuyên bảo Bồ-tát và an ủi rằng “đừng sợ hãi”, rồi trở về thiên cung của mình.
1143
Bodhisatto gehaṃ gantvā bhuttapātarāso rājadvāraṃ gantvā chattapāṇimpi tattheva disvā hatthe gahetvā ‘‘tvaṃ kira, samma chattapāṇi, caturaṅgasamannāgatosī’’ti pucchitvā ‘‘ko te mayhaṃ caturaṅgasamannāgatabhāvaṃ ācikkhī’’ti vutte ‘‘sakko, devarājā’’ti vatvā ‘‘kiṃkāraṇā ācikkhī’’ti puṭṭho ‘‘iminā nāma kāraṇenā’’ti sabbaṃ ācikkhi.
The Bodhisatta, having gone home and eaten his breakfast, went to the king's gate. Seeing Chattapāṇi there, he took him by the hand and asked, "Are you, friend Chattapāṇi, endowed with four qualities?" When asked, "Who told you that I am endowed with four qualities?", he replied, "Sakka, the king of devas." When asked, "For what reason did he tell you?", he explained everything, saying, "For this reason."
Bồ-tát về nhà, dùng bữa sáng xong thì đến cửa cung vua, thấy Chattapāṇi ở đó, liền nắm tay hỏi: “Này bạn Chattapāṇi, nghe nói bạn có đủ bốn chi phần phải không?” Khi (Chattapāṇi) hỏi: “Ai đã nói với bạn về việc tôi có đủ bốn chi phần?”, (Bồ-tát) đáp: “Sakka, vua chư thiên.” Khi (Chattapāṇi) hỏi: “Vì lý do gì mà ngài ấy nói vậy?”, (Bồ-tát) kể lại tất cả: “Vì lý do này.”
So ‘‘āma, ahaṃ caturaṅgasamannāgato’’ti āha.
He said, "Yes, I am endowed with four qualities."
Anh ta nói: “Vâng, tôi có đủ bốn chi phần.”
Atha naṃ bodhisatto hatthe gahetvāva rañño santikaṃ gantvā ‘‘ayaṃ, mahārāja, chattapāṇi, caturaṅgasamannāgato, caturaṅgasamannāgatena uyyānapālena atthe sati imaṃ uyyānapālaṃ karothā’’ti āha.
Then the Bodhisatta, taking him by the hand, went to the king and said, "This Chattapāṇi, O great king, is endowed with four qualities. If there is a need for a park-keeper endowed with four qualities, make him the park-keeper."
Khi đó, Bồ-tát nắm tay anh ta đến gặp vua và nói: “Tâu Đại vương, đây là Chattapāṇi, người có đủ bốn chi phần. Nếu cần một người giữ vườn có đủ bốn chi phần, xin hãy phong anh ta làm người giữ vườn.”
Atha naṃ rājā ‘‘tvaṃ kira caturaṅgasamannāgatosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "Are you, indeed, endowed with four qualities?"
Khi đó, nhà vua hỏi anh ta: “Nghe nói ngươi có đủ bốn chi phần phải không?”
‘‘Āma, mahārājā’’ti.
"Yes, O great king."
“Vâng, tâu Đại vương.”
‘‘Katamehi caturaṅgehi samannāgatosī’’ti?
"With which four qualities are you endowed?"
“Ngươi có đủ những chi phần nào?”
1144
‘‘Anusūyako ahaṃ deva, amajjapāyako ahaṃ;
"I am not envious, O deva; I am not a drinker of intoxicants;
“Tâu Thiên vương, tôi không ganh tị, tôi không uống rượu;
1145
Nisnehako ahaṃ deva, akkodhanaṃ adhiṭṭhito’’ti.
I am without affection, O deva; I am established in freedom from anger."
Tâu Thiên vương, tôi không có ái luyến, tôi đã quyết không nổi giận.”
1146
‘‘Mayhañhi, mahārāja, usūyā nāma natthi, majjaṃ me na pivitapubbaṃ, paresu me sneho vā kodho vā na bhūtapūbbo.
"For, O great king, I have no envy, I have never drunk intoxicants, and I have never had affection or anger towards others.
“Tâu Đại vương, tôi không hề có sự ganh tị, tôi chưa từng uống rượu, tôi chưa từng có ái luyến hay sân hận đối với người khác.
Imehi catūhi aṅgehi samannāgatomhī’’ti.
I am endowed with these four qualities."
Tôi có đủ bốn chi phần này.”
1147
Atha naṃ rājā, bho chattapāṇi, ‘‘anusūyakosmī’’ti vadasīti.
Then the king said to him, "Friend Chattapāṇi, you say, 'I am not envious.'"
Khi đó, nhà vua hỏi anh ta: “Này Chattapāṇi, ngươi nói ‘tôi không ganh tị’ phải không?”
‘‘Āma, deva, anusūyakomhī’’ti.
"Yes, O deva, I am not envious."
“Vâng, tâu Thiên vương, tôi không ganh tị.”
‘‘Kiṃ ārammaṇaṃ disvā anusūyako jātosī’’ti?
"Seeing what object did you become non-envious?"
“Ngươi đã trở thành người không ganh tị khi thấy điều gì?”
‘‘Suṇāhi devā’’ti attano anusūyakakāraṇaṃ kathento imaṃ gāthamāha –
"Listen, O deva," he said, and relating the reason for his non-envy, he spoke this verse:
“Xin lắng nghe, tâu Thiên vương,” anh ta nói bài kệ này để kể lý do mình không ganh tị –
1148
‘‘Itthiyā kāraṇā rāja, bandhāpesiṃ purohitaṃ;
"For the sake of a woman, O king, I had the purohita bound;
“Vì một người phụ nữ, tâu Đại vương, tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ;
1149
So maṃ atthe nivedesi, tasmāhaṃ anusūyako’’ti.
He informed me of the truth, therefore I am not envious."
Ông ấy đã trình bày sự thật cho tôi, vì thế tôi không ganh tị.”
1150
Tassattho – ahaṃ, deva, pubbe imasmiṃyeva bārāṇasinagare tādisova rājā hutvā itthiyā kāraṇā purohitaṃ bandhāpesiṃ.
Its meaning is: O deva, formerly, in this very city of Bārāṇasī, I was such a king and had the purohita bound for the sake of a woman.
Ý nghĩa của bài kệ là: Tâu Thiên vương, trước đây tôi cũng là một vị vua ở thành Bārāṇasī này, vì một người phụ nữ mà tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ.
1151
‘‘Abaddhā tattha bajjhanti, yattha bālā pabhāsare;
"Those unbound become bound where fools speak;
“Những người không bị trói buộc thì bị trói buộc ở nơi những kẻ ngu si nói ra;
1152
Baddhāpi tattha muccanti, yattha dhīrā pabhāsare’’ti.(jā. 1.1.120) –
Even the bound are released where the wise speak."
Những người bị trói buộc thì được giải thoát ở nơi những bậc trí tuệ nói ra.”
1153
Imasmiñhi jātake āgatanayeneva ekasmiṃ kāle ayaṃ chattapāṇi rājā hutvā catusaṭṭhiyā pādamūlikehi saddhiṃ sampadussitvā bodhisattaṃ attano manorathaṃ apūrentaṃ nāsetukāmāya deviyā paribhinno bandhāpesi.
In this Jātaka, according to the method stated, at one time this Chattapāṇi was a king and, having conspired with sixty-four courtiers, he had the Bodhisatta bound, being incited by the queen who wished to destroy him for not fulfilling her desire.
Trong câu chuyện Jātaka này, theo cách đã được kể, một lần nọ, Chattapāṇi này đã làm vua, và bị hoàng hậu xúi giục để tiêu diệt Bồ-tát, người không đáp ứng được ý muốn của bà ta, nên đã ra lệnh bắt giữ Bồ-tát cùng với sáu mươi bốn người hầu.
Tadā naṃ bandhitvā ānīto bodhisatto yathābhūtaṃ deviyā dosaṃ āropetvā sayaṃ mutto raññā bandhāpite sabbepi te pādamūlike mocetvā ‘‘etesañca deviyā ca aparādhaṃ khamatha, mahārājā’’ti ovadi.
At that time, the Bodhisatta, having been bound and brought, exposed the queen's fault as it truly was, freed himself, and released all those courtiers whom the king had bound, admonishing the king, "O great king, forgive the offense of these and the queen."
Khi đó, Bồ-tát bị bắt và dẫn đến, đã trình bày tội lỗi thực sự của hoàng hậu, tự mình được giải thoát, và khuyên vua: “Tâu Đại vương, xin hãy tha thứ tội lỗi của những người hầu này và của hoàng hậu.”
Sabbaṃ heṭṭhā vuttanayeneva vitthārato veditabbaṃ.
Everything should be understood in detail according to the method stated below.
Tất cả nên được hiểu chi tiết theo cách đã nói ở dưới.
Taṃ sandhāyāha –
Referring to that, he said:
Để ám chỉ điều đó, (anh ta) nói:
1154
‘‘Itthiyā kāraṇā rāja, bandhāpesiṃ purohitaṃ;
"For the sake of a woman, O king, I had the purohita bound;
“Vì một người phụ nữ, tâu Đại vương, tôi đã ra lệnh bắt giữ vị đạo sĩ;
1155
So maṃ atthe nivedesi, tasmāhaṃ anusūyako’’ti.
He informed me of the truth, therefore I am not envious."
Ông ấy đã trình bày sự thật cho tôi, vì thế tôi không ganh tị.”
1156
Tadā pana sohaṃ cintesiṃ – ‘‘ahaṃ soḷasa sahassaitthiyo pahāya etaṃ ekameva kilesavasena saṅgaṇhantopi santappetuṃ nāsakkhiṃ, evaṃ duppūraṇīyānaṃ itthīnaṃ kujjhanaṃ nāma nivatthavatthe kilissante ‘kasmā kilissasī’ti kujjhanasadisaṃ hoti, bhuttabhatte gūthabhāvaṃ āpajjante ‘kasmā etaṃ sabhāvaṃ āpajjasī’ti kujjhanasadisaṃ hoti.
At that time, I reflected, "I, abandoning sixteen thousand women, was unable to satisfy this one woman, even though I embraced her due to defilement. To be angry with women, who are so difficult to satisfy, is like being angry with soiled clothes, asking 'Why are you soiled?' It is like being angry with eaten food that turns into excrement, asking 'Why do you become this state?'
Khi đó, tôi đã nghĩ: “Ta đã từ bỏ mười sáu ngàn người phụ nữ, nhưng ngay cả khi ta ôm ấp người phụ nữ duy nhất này vì dục vọng, ta cũng không thể làm cho cô ta hài lòng. Việc nổi giận với những người phụ nữ khó thỏa mãn như vậy giống như nổi giận khi quần áo bị bẩn và hỏi ‘tại sao lại bẩn?’, giống như nổi giận khi thức ăn đã ăn biến thành phân và hỏi ‘tại sao lại biến thành thứ đó?’.
‘Ito dāni paṭṭhāya yāva arahattaṃ na pāpuṇāmi, tāva kilesaṃ nissāya mayi usūyā mā uppajjatū’’’ti adhiṭṭhahiṃ.
'From now on, until I attain arahantship, may envy not arise in me due to defilement!'" Thus I resolved.
‘Từ nay trở đi, cho đến khi ta đạt được A-la-hán quả, nguyện cho sự ganh tị do phiền não không phát sinh trong ta’.” Tôi đã quyết tâm như vậy.
Tato paṭṭhāya anusūyako jāto.
From that time onwards, I became non-envious.
Từ đó trở đi, tôi đã trở thành người không ganh tị.
Idaṃ sandhāya – ‘‘tasmāhaṃ anusūyako’’ti āha.
Referring to this, he said, "Therefore I am not envious."
Để ám chỉ điều này, (anh ta) nói: “Vì thế tôi không ganh tị.”
1157
Atha naṃ rājā ‘‘samma chattapāṇi, kiṃ ārammaṇaṃ disvā amajjapo jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "Friend Chattapāṇi, seeing what object did you become a non-drinker of intoxicants?"
Khi đó, nhà vua hỏi: “Này Chattapāṇi, ngươi đã trở thành người không uống rượu khi thấy điều gì?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Relating that reason, he spoke this verse:
Anh ta nói bài kệ này để kể lý do đó –
1158
‘‘Matto ahaṃ mahārāja, puttamaṃsāni khādayiṃ;
"Intoxicated, O great king, I ate my children's flesh;
“Tâu Đại vương, khi say rượu, tôi đã ăn thịt con trai mình;
1159
Tassa sokenahaṃ phuṭṭho, majjapānaṃ vivajjayi’’nti.
Afflicted by that sorrow, I avoided drinking intoxicants."
Bị nỗi đau đó dày vò, tôi đã từ bỏ việc uống rượu.”
1160
Ahaṃ, mahārāja, pubbe tādiso bārāṇasirājā hutvā majjena vinā vattituṃ nāsakkhiṃ, amaṃsakabhattampi bhuñjituṃ nāsakkhiṃ.
O great king, formerly I was such a king of Bārāṇasī and could not live without intoxicants, nor could I eat a meal without meat.
Tâu Đại vương, trước đây, tôi cũng là một vị vua ở Bārāṇasī, tôi không thể sống mà không có rượu, cũng không thể ăn bữa ăn mà không có thịt.
Nagare uposathadivasesu māghāto hoti, bhattakārako pakkhassa terasiyaññeva maṃsaṃ gahetvā ṭhapesi, taṃ dunnikkhittaṃ sunakhā khādiṃsu.
In the city, on Uposatha days, there was a slaughter ban. The cook had obtained meat on the thirteenth day of the fortnight and stored it, but dogs ate the carelessly stored meat.
Ở trong thành, vào những ngày Uposatha, việc sát sinh bị cấm. Người nấu ăn đã chuẩn bị thịt vào ngày mười ba của nửa tháng, nhưng nó bị chó ăn mất do cất giữ không cẩn thận.
Bhattakārako uposathadivase maṃsaṃ alabhitvā rañño nānaggarasabhojanaṃ pacitvā pāsādaṃ āropetvā upanāmetuṃ asakkonto deviṃ upasaṅkamitvā ‘‘devi, ajja me maṃsaṃ na laddhaṃ, amaṃsakabhojanaṃ nāma upanāmetuṃ na sakkomi, kinti karomī’’ti āha.
The cook, not having obtained meat on the Uposatha day, cooked a meal of various excellent flavors for the king. Being unable to bring it up to the palace and offer it, he approached the queen and said, "Queen, today I have not obtained meat. I cannot offer a meatless meal. What should I do?"
Vào ngày Uposatha, người nấu ăn không tìm được thịt, không thể nấu món ăn ngon và mang lên cung điện cho vua, bèn đến gặp hoàng hậu và nói: “Tâu Hoàng hậu, hôm nay tôi không tìm được thịt, tôi không thể dâng bữa ăn không có thịt lên. Tôi phải làm gì đây?”
‘‘Tāta, mayhaṃ putto raññā piyo manāpo, puttaṃ me disvā rājā tameva cumbanto parissajanto attano atthibhāvampi na jānāti, ahaṃ puttaṃ maṇḍetvā rañño ūrumhi nisīdāpeyyaṃ, rañño puttena saddhiṃ kīḷanakāle tvaṃ bhattaṃ upaneyyāsī’’ti.
"My dear, my son is dear and pleasing to the king. Seeing my son, the king, kissing and embracing him, does not even know his own existence. I will adorn my son and have him sit on the king's lap. While the king is playing with his son, you should offer the meal."
“(Người nấu ăn) này, con trai của tôi được vua yêu quý. Khi thấy con trai tôi, vua sẽ hôn và ôm ấp nó mà quên mất cả sự hiện diện của mình. Tôi sẽ trang điểm cho con trai và đặt nó ngồi trên đùi vua. Trong lúc vua đang chơi đùa với con trai, ngươi hãy dâng bữa ăn lên.”
Sā evaṃ vatvā attano puttaṃ alaṅkatābharaṇaṃ maṇḍetvā rañño ūrumhi nisīdāpesi.
Having said this, she adorned her son with ornaments and had him sit on the king's lap.
Nói vậy xong, bà trang điểm cho con trai với đầy đủ trang sức và đặt nó ngồi trên đùi vua.
Rañño puttena saddhiṃ kīḷanakāle bhattakārako bhattaṃ upanāmesi.
While the king was playing with his son, the cook offered the meal.
Trong lúc vua đang chơi đùa với con trai, người nấu ăn đã dâng bữa ăn lên.
Rājā surāmadamatto pātiyaṃ maṃsaṃ adisvā ‘‘maṃsaṃ kaha’’nti pucchitvā ‘‘ajja, deva, uposathadivasaṃ māghātatāya maṃsaṃ na laddha’’nti vutte ‘‘mayhaṃ maṃsaṃ nāma dullabha’’nti vatvā ūrumhi nisinnassa piyaputtassa gīvaṃ vaṭṭetvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā bhattakārakassa purato khipitvā ‘‘vegena sampādetvā āharā’’ti āha.
The king, intoxicated by liquor, did not see meat in the dish and asked, "Where is the meat?" When told, "Today, Your Majesty, is an Uposatha day, and due to the prohibition of killing, no meat was obtained," he said, "Meat is indeed rare for me," and twisting the neck of his beloved son, who was sitting on his lap, he put an end to his life, threw the body before the cook, and said, "Prepare it quickly and bring it!"
Vua say rượu, không thấy thịt trong đĩa, liền hỏi: “Thịt đâu?” Khi được nói: “Tâu Thiên vương, hôm nay là ngày Uposatha, việc sát sinh bị cấm nên không có thịt,” vua nói: “Thịt đối với ta là thứ hiếm có,” rồi bẻ cổ đứa con trai yêu quý đang ngồi trên đùi, giết chết nó, ném trước mặt người nấu ăn và nói: “Nhanh chóng chuẩn bị và mang đến đây.”
Bhattakārako tathā akāsi, rājā puttamaṃsena bhattaṃ bhuñji.
The cook did so, and the king ate his meal with his son's flesh.
Người nấu ăn đã làm như vậy, và vua đã ăn bữa ăn với thịt con trai mình.
Rañño bhayena ekopi kandituṃ vā rodituṃ vā kathetuṃ vā samattho nāma nāhosi.
Out of fear of the king, no one was able to cry, weep, or speak.
Vì sợ vua, không một ai dám khóc, than vãn hay nói gì.
1161
Rājā bhuñjitvā sayanapiṭṭhe niddaṃ upagantvā paccūsakāle pabujjhitvā vigatamado ‘‘puttaṃ me ānethā’’ti āha.
Having eaten, the king went to sleep on the bed and awoke in the early morning, his intoxication gone. He said, "Bring my son!"
Vua ăn xong, ngủ trên giường. Sáng sớm hôm sau, thức dậy khi đã hết say, vua nói: “Hãy mang con trai ta đến đây.”
Tasmiṃ kāle devī kandamānā pādamūle pati.
At that time, the queen, weeping, fell at his feet.
Khi đó, hoàng hậu khóc lóc và quỳ xuống dưới chân (vua).
‘‘Kiṃ, bhadde’’ti ca vutte, ‘‘deva, hiyyo te puttaṃ māretvā puttamaṃsena bhattaṃ bhutta’’nti āha.
When asked, "What is it, good lady?" she said, "Your Majesty, yesterday you killed your son and ate your meal with his flesh."
Khi được hỏi: “Có chuyện gì vậy, hiền thê?”, bà nói: “Tâu Thiên vương, hôm qua ngài đã giết con trai mình và ăn bữa ăn với thịt con trai.”
Rājā puttasokena roditvā kanditvā ‘‘idaṃ me dukkhaṃ surāpānaṃ nissāya uppanna’’nti surāpāne dosaṃ disvā ‘‘ito paṭṭhāya yāva arahattaṃ na pāpuṇāmi, tāva evarūpaṃ vināsakārakaṃ suraṃ nāma na pivissāmī’’ti paṃsuṃ gahetvā mukhaṃ puñchitvā adhiṭṭhāsi.
The king wept and cried from sorrow for his son. Seeing the fault in drinking liquor, thinking, "This suffering has arisen because of drinking liquor," he resolved, "From now on, until I attain Arahantship, I will not drink such destructive liquor," and taking dust, he wiped his mouth and made a firm determination.
Vua khóc lóc than khóc vì nỗi đau mất con, thấy lỗi lầm của việc uống rượu là nguyên nhân gây ra nỗi khổ này, liền thề nguyện: “Từ nay trở đi, cho đến khi ta đạt được A-la-hán, ta sẽ không bao giờ uống thứ rượu gây hại như vậy nữa.” Ông lấy đất lau miệng và phát nguyện.
Tato paṭṭhāya majjaṃ nāma na piviṃ.
From that time onwards, he never drank intoxicants.
Từ đó trở đi, ông không bao giờ uống rượu nữa.
Imamatthaṃ sandhāya – ‘‘matto ahaṃ, mahārājā’’ti imaṃ gāthamāha.
Referring to this matter, he spoke this verse: "I was intoxicated, great king."
Nhắm vào ý nghĩa này, ông đã nói bài kệ: “Tôi đã say, Đại vương.”
1162
Atha naṃ rājā ‘‘kiṃ pana, samma chattapāṇi, ārammaṇaṃ disvā nisneho jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "But, good umbrella-bearer, seeing what object have you become devoid of affection?"
Rồi vua hỏi ông: “Này bạn Chattapāṇi, tại sao ngươi lại trở nên vô ái khi thấy cảnh đó?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Explaining that reason, he spoke this verse:
Ông giải thích sự việc bằng cách nói lên bài kệ này:
1163
‘‘Kitavāso nāmahaṃ rāja, putto paccekabodhi me;
"I was a trickster, O king; my son was a Paccekabuddha.
“Tôi là vua Kitavāsa, con tôi là vị Độc Giác Phật;
1164
Pattaṃ bhinditvā cavito, nisneho tassa kāraṇā’’ti.
He passed away after I broke his bowl; for that reason, I am without affection."
Đập bát rồi chết, vì lý do đó tôi trở nên vô ái.”
1165
Mahārāja, pubbe ahaṃ bārāṇasiyaṃyeva kitavāso nāma rājā.
"Great king, formerly I was a king named Kitavāsa in Bārāṇasī.
Đại vương, trước đây tôi là vua tên Kitavāsa ở Bārāṇasī.
Tassa me putto vijāyi.
A son was born to me.
Con trai của tôi đã được sinh ra.
Lakkhaṇapāṭhakā taṃ disvā ‘‘mahārāja, ayaṃ kumāro pānīyaṃ alabhitvā marissatī’’ti āhaṃsu.
The prognosticators, seeing him, said, 'Great king, this prince will die if he does not get water.'
Các nhà tướng số nhìn thấy nó và nói: “Đại vương, hoàng tử này sẽ chết vì không được uống nước.”
‘‘Duṭṭhakumāro’’tissa nāmaṃ ahosi.
His name was Duṭṭhakumāra (Wicked Prince).
Tên của nó là Duṭṭhakumāra (Hoàng tử Ác độc).
So viññutaṃ patto oparajjaṃ kāresi, rājā kumāraṃ purato vā pacchato vā katvā vicari, pānīyaṃ alabhitvā maraṇabhayena cassa catūsu dvāresu antonagaresu ca tattha tattha pokkharaṇiyo kāresi, catukkādīsu maṇḍape kāretvā pānīyacāṭiyo ṭhapāpesi.
When he reached maturity, he served as viceroy. The king traveled with the prince in front or behind him. Fearing his death without water, he had ponds dug here and there at the four gates and within the city, and had pavilions built at crossroads and other places, where water jars were placed.
Khi trưởng thành, nó làm phó vương. Vua đi lại trước hoặc sau hoàng tử, và vì sợ hoàng tử chết vì không có nước, vua đã cho xây ao sen ở bốn cổng thành và khắp nơi trong nội thành, dựng lều ở các ngã tư và đặt các chum nước.
So ekadivase alaṅkatapaṭiyatto pātova uyyānaṃ gacchanto antarāmagge paccekabuddhaṃ passi.
One day, adorned and ready, he was going to the park early in the morning when he saw a Paccekabuddha on the way.
Một ngày nọ, hoàng tử trang điểm lộng lẫy, sáng sớm đi dạo vườn, trên đường đi đã gặp một vị Độc Giác Phật.
Mahājanopi paccekabuddhaṃ disvā tameva vandati pasaṃsati, añjaliñcassa paggaṇhāti.
The great multitude, seeing the Paccekabuddha, paid homage to him and praised him, raising their clasped hands to him.
Đại chúng cũng thấy vị Độc Giác Phật liền đảnh lễ và tán thán Ngài, chắp tay cung kính.
1166
Kumāro cintesi – ‘‘mādisena saddhiṃ gacchantā imaṃ muṇḍakaṃ vandanti pasaṃsanti, añjaliñcassa paggaṇhantī’’ti.
The prince thought, "People going with someone like me pay homage to this shaven-headed one, praise him, and raise their clasped hands to him!"
Hoàng tử nghĩ: “Đi cùng với người như ta mà họ lại đảnh lễ và tán thán, chắp tay cung kính cái gã đầu trọc này sao?”
So kupito hatthikkhandhato oruyha paccekabuddhaṃ upasaṅkamitvā ‘‘laddhaṃ te, samaṇa, bhatta’’nti vatvā ‘‘āma, kumārā’’ti vutte tassa hatthato pattaṃ gahetvā bhūmiyaṃ pātetvā saddhiṃ bhattena madditvā pādappahārena cuṇṇavicuṇṇaṃ akāsi.
Angered, he dismounted from the elephant's back, approached the Paccekabuddha, and said, "Have you received your meal, ascetic?" When told, "Yes, prince," he took the bowl from his hand, dropped it on the ground, crushed it along with the meal, and smashed it to pieces with a kick.
Tức giận, nó xuống khỏi lưng voi, đến gần vị Độc Giác Phật và nói: “Này sa môn, ông đã nhận được bữa ăn chưa?” Khi được trả lời: “Rồi, này hoàng tử,” nó liền giật lấy bát từ tay Ngài, ném xuống đất, giẫm nát cùng với thức ăn, dùng chân đá nát vụn.
Paccekabuddho ‘‘naṭṭho vatāyaṃ satto’’ti tassa mukhaṃ olokesi.
The Paccekabuddha looked at his face, thinking, "Indeed, this being is ruined."
Vị Độc Giác Phật nhìn vào mặt nó và nghĩ: “Chúng sinh này thật đáng thương.”
Kumāro ‘‘ahaṃ, samaṇa, kitavāsarañño putto, nāmena duṭṭhakumāro nāma, tvaṃ me kuddho akkhīni ummīletvā olokento kiṃ karissasī’’ti āha.
The prince said, "I, ascetic, am the son of King Kitavāsa, named Duṭṭhakumāra. What will you do to me, looking at me with your eyes wide open in anger?"
Hoàng tử nói: “Này sa môn, ta là con trai của vua Kitavāsa, tên là Duṭṭhakumāra. Ngươi tức giận nhìn chằm chằm vào ta thì có thể làm gì được?”
1167
Paccekabuddho chinnabhatto hutvā vehāsaṃ abbhuggantvā uttarahimavante nandanamūlapabbhārameva gato.
The Paccekabuddha, having been deprived of his meal, rose into the air and went to the Nandanamūla cave in the Uttarahimavanta.
Vị Độc Giác Phật, sau khi bị mất bữa ăn, liền bay lên không trung và đi đến hang động dưới chân núi Nandanamūla ở dãy Himalaya phía bắc.
Kumārassāpi taṅkhaṇaññeva pāpakammaṃ paripacci.
At that very moment, the evil kamma of the prince also ripened.
Ngay lập tức, nghiệp ác của hoàng tử đã chín muồi.
So ‘‘ḍayhāmi ḍayhāmī’’ti samuggatasarīraḍāho tattheva pati.
He, with his body burning, crying "I burn, I burn!", fell right there.
Nó ngã xuống ngay tại đó, toàn thân bốc cháy, kêu “Cháy quá! Cháy quá!”
Tattha tattheva yattakaṃ pānīyaṃ, tattakaṃ pānīyaṃ sabbaṃ chijji, mātikā sussiṃsu, tattheva jīvitakkhayaṃ patvā avīcimhi nibbatti.
All the water that was there, everywhere, dried up; the watercourses became parched; he met his end of life right there and was reborn in Avīci.
Tất cả nước ở khắp mọi nơi đều cạn kiệt, các kênh mương khô cạn. Ngay tại đó, nó mất mạng và tái sinh vào địa ngục Avīci.
Rājā taṃ pavattiṃ sutvā puttasokena abhibhūto cintesi – ‘‘ayaṃ me soko piyavatthuto uppajji, sace me sneho nābhavissa, soko na uppajjissa, ito dāni me paṭṭhāya saviññāṇake vā aviññāṇake vā kismiñci vatthusmiṃ sneho nāma mā uppajjatū’’ti adhiṭṭhāsi, tato paṭṭhāya sneho nāma natthi.
The king, hearing that news, overwhelmed by grief for his son, thought: "This sorrow of mine arose from a beloved object. If I had no affection, sorrow would not have arisen. From now on, let no affection arise in me for any object, whether conscious or unconscious." He resolved thus, and from then on, he had no affection.
Vua nghe tin đó, bị nỗi đau mất con giày vò, liền nghĩ: “Nỗi đau này của ta phát sinh từ vật yêu quý. Nếu ta không có ái luyến, thì nỗi đau sẽ không phát sinh. Từ nay trở đi, nguyện cho ta không còn ái luyến đối với bất kỳ vật hữu tình hay vô tình nào.” Ông đã phát nguyện như vậy, và từ đó trở đi, ông không còn ái luyến nữa.
Taṃ sandhāya ‘‘kitavāso nāmāha’’nti gāthamāha.
Referring to that, he spoke the verse "I am named Kitavāsa."
Nhắm vào điều đó, ông đã nói bài kệ “Tôi tên là Kitavāsa.”
1168
Tattha putto paccekabodhi me.
There, my son, a Paccekabodhi
Trong đó, putto paccekabodhi me. Pattaṃ bhinditvā cavito có nghĩa là: con trai tôi là vị Độc Giác Phật, đã đập bát rồi chết.
Pattaṃ bhinditvā cavitoti mama putto paccekabodhipattaṃ bhinditvā cavitoti attho.
having broken the bowl, passed away means "my son, having broken the Paccekabodhi's bowl, passed away."
Con đã từ bỏ sự chứng đắc Bồ-đề Độc Giác, ý nói: con trai của ta, đã từ bỏ sự chứng đắc Bồ-đề Độc Giác.
Nisneho tassa kāraṇāti tadā uppannasnehavatthussa kāraṇā ahaṃ nisneho jātoti attho.
Without affection because of that means "because of that object of affection that arose then, I became without affection."
Nisneho tassa kāraṇā có nghĩa là: vì lý do của vật ái luyến phát sinh lúc đó, tôi đã trở nên vô ái.
1169
Atha naṃ rājā ‘‘kiṃ pana, samma, ārammaṇaṃ disvā nikkodho jātosī’’ti pucchi.
Then the king asked him, "What kind of object, friend, did you see to become free from anger?"
Rồi vua hỏi ông: “Này bạn, tại sao ngươi lại trở nên vô sân khi thấy cảnh đó?”
So taṃ kāraṇaṃ ācikkhanto imaṃ gāthamāha –
Explaining that reason, he spoke this verse:
Ông giải thích sự việc bằng cách nói lên bài kệ này:
1170
‘‘Arako hutvā mettacittaṃ, satta vassāni bhāvayiṃ;
"Having become Araka, I cultivated a mind of loving-kindness for seven years;
“Là một ẩn sĩ, tôi đã tu tập tâm từ bảy năm;
1171
Satta kappe brahmaloke, tasmā akkodhano aha’’nti.
For seven aeons, I resided in the Brahma-world; therefore, I am without anger."
Trong bảy đại kiếp ở cõi Phạm thiên, vì vậy tôi không còn sân hận.”
1172
Tassattho – ahaṃ, mahārāja, arako nāma tāpaso hutvā satta vassāni mettacittaṃ bhāvetvā satta saṃvaṭṭavivaṭṭakappe brahmaloke vasiṃ, tasmā ahaṃ dīgharattaṃ mettābhāvanāya āciṇṇapariciṇṇattā akkodhano jātoti.
Its meaning is: "O great king, having become a recluse named Araka, I cultivated a mind of loving-kindness for seven years, and for seven aeons of cosmic dissolution and evolution, I resided in the Brahma-world. Therefore, having long practiced and familiarized myself with the development of loving-kindness, I have become free from anger."
Ý nghĩa của câu đó là: Đại vương, tôi đã là một ẩn sĩ tên Araka, tu tập tâm từ bảy năm, rồi sống ở cõi Phạm thiên trong bảy đại kiếp (saṃvaṭṭavivaṭṭakappe). Vì vậy, do đã thực hành và làm quen với sự tu tập tâm từ trong một thời gian dài, tôi đã trở nên vô sân.
1173
Evaṃ chattapāṇinā attano catūsu aṅgesu kathitesu rājā parisāya iṅgitasaññaṃ adāsi.
When the umbrella-bearer had thus spoken of his four qualities, the king gave a signal to the assembly.
Khi Chattapāṇi đã kể về bốn yếu tố của mình như vậy, vua đã ra hiệu cho hội chúng.
Taṅkhaṇaññeva amaccā ca brāhmaṇagahapatikādayo ca uṭṭhahitvā ‘‘are lañjakhādaka duṭṭhacora, tvaṃ lañjaṃ alabhitvā paṇḍitaṃ upavaditvā māretukāmo jāto’’ti kāḷakaṃ senāpatiṃ hatthapādesu gahetvā rājanivesanā otāretvā gahitagahiteheva pāsāṇamuggarehi sīsaṃ bhinditvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā pādesu gahetvā kaḍḍhantā saṅkāraṭṭhāne chaḍḍesuṃ.
At that very moment, the ministers, brahmins, householders, and others rose up and, seizing the general Kāḷaka by his hands and feet, crying, "You bribetaker, wicked thief! Failing to get a bribe, you sought to slander and kill a wise man!", they dragged him out of the royal palace, smashed his head with stones and clubs they had picked up, put an end to his life, and, dragging him by his feet, threw him onto the refuse heap.
Ngay lập tức, các vị quan và các gia chủ Bà la môn đứng dậy, nắm tay chân của tướng quân Kāḷaka và nói: “Này tên ăn hối lộ, tên trộm độc ác, ngươi đã không nhận được hối lộ nên muốn phỉ báng và giết chết vị hiền giả!” Họ lôi ông ta xuống khỏi cung điện, dùng đá và chùy mà họ cầm được đập vỡ đầu ông ta cho đến chết, rồi nắm chân kéo lê và vứt vào bãi rác.
Tato paṭṭhāya rājā dhammena rajjaṃ kārento yathākammaṃ gato.
From then on, the king ruled the kingdom righteously and passed away according to his kamma.
Từ đó trở đi, vua trị vì đất nước theo Pháp và đã đi theo nghiệp của mình.
1174
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kāḷakasenāpati devadatto ahosi, chattapāṇikappako sāriputto, sakko anuruddho, dhammadhajo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher brought forth this discourse on Dhamma and identified the Jātaka: "At that time, the general Kāḷaka was Devadatta; the umbrella-bearer Kappaka was Sāriputta; Sakka was Anuruddha; and Dhammadhaja was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp xong, Ngài kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, Kāḷakasenāpati là Devadatta, người cầm lọng Kappaka là Sāriputta, Sakka là Anuruddha, còn Dhammadhaja chính là Ta vậy.”
1175
Dhammadhajajātakavaṇṇanā dasamā.
The tenth, the Dhammadhaja Jātaka, is concluded.
Giải thích Jātaka Dhammadhaja thứ mười.
1176
Bīraṇathambhavaggo sattamo.
The seventh, the Bīraṇathambha Vagga, is concluded.
Chương Bīraṇathambha thứ bảy.
1177
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Bản tóm tắt của chương đó –
1178
Somadattañca ucchiṭṭhaṃ, kuru puṇṇanadīpi ca;
Somadatta and Ucchiṭṭha, Kuru and Puṇṇanadī;
Somadatta và Ucchiṭṭha, Kuru và Puṇṇanadī;
1179
Kacchapamacchaseggu ca, kūṭavāṇijagarahi;
Kacchapa, Maccha, Seggu, Kūṭavāṇija, Garahi;
Kacchapa, Maccha, Seggu và Kūṭavāṇija, Garahi;
1180
Dhammadhajanti te dasa.
And Dhammadhaja—these are the ten.
Và Dhammadhaja, đó là mười Jātaka.
1181

8. Kāsāvavaggo

8. Kāsāva Vagga

8. Chương Kāsāva

1182
* 1. Kāsāvajātakavaṇṇanā
* 1. Kāsāva Jātaka
* 1. Giải thích Jātaka Kāsāva
1183
Anikkasāvo kāsāvanti idaṃ satthā jetavane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
One who is not free from defilements, yet wears the saffron robe—the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning Devadatta.
Anikkasāvo kāsāva” (Không thanh tịnh mà mặc y vàng) – Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Devadatta.
Vatthu pana rājagahe samuṭṭhitaṃ.
However, the story originated in Rājagaha.
Tuy nhiên, câu chuyện gốc phát sinh tại Rājagaha.
Ekasmiṃ samaye dhammasenāpati pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ veḷuvane viharati.
At one time, the Dhamma-general resided in Veḷuvana with five hundred bhikkhus.
Một thời, Pháp Tướng (Dhammasenāpati) trú tại Veluvana cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu.
Devadattopi attano anurūpāya dussīlaparisāya parivuto gayāsīse viharati.
Devadatta also resided at Gayāsīsa, surrounded by his own company of unvirtuous followers.
Devadatta cũng trú tại Gayāsīsa, được bao quanh bởi hội chúng ác giới phù hợp với mình.
Tasmiṃ samaye rājagahavāsino chandakaṃ saṅgharitvā dānaṃ sajjayiṃsu.
At that time, the residents of Rājagaha collected subscriptions and prepared a great offering.
Vào thời điểm đó, cư dân Rājagaha đã góp tiền và chuẩn bị một buổi bố thí.
Atheko vohāratthāya āgatavāṇijo imaṃ sāṭakaṃ vissajjetvā ‘‘mampi pattikaṃ karothā’’ti mahagghaṃ gandhakāsāvaṃ adāsi.
Then a merchant who had come for trade gave a valuable perfumed saffron robe, saying, "Make me also a contributor."
Sau đó, một thương gia đến để kinh doanh đã bán tấm vải của mình và tặng một tấm y Kāsāva đắt tiền có mùi thơm, nói: “Hãy cho tôi một phần.”
Nāgarā mahādānaṃ pavattayiṃsu, sabbaṃ chandakena saṅkaḍḍhitaṃ kahāpaṇeheva niṭṭhāsi.
The townsfolk arranged a great offering; everything was completed with the collected kahāpaṇas.
Dân chúng thành phố đã tổ chức một buổi bố thí lớn, tất cả đều được hoàn tất bằng tiền xu đã góp.
So sāṭako atireko ahosi.
That robe was left over.
Tấm y đó còn dư.
Mahājano sannipatitvā ‘‘ayaṃ gandhakāsāvasāṭako atireko.
The great multitude gathered and said, "This perfumed saffron robe is left over.
Đại chúng tụ họp và bàn bạc: “Tấm y Kāsāva thơm này còn dư.
Kassa naṃ dema, kiṃ sāriputtattherassa, udāhu devadattassā’’ti mantayiṃsu.
“To whom shall we give it? To Venerable Sāriputta, or to Devadatta?” they deliberated.
Chúng ta nên tặng nó cho ai? Trưởng lão Sāriputta hay Devadatta?”
1184
Tattheke ‘‘sāriputtattherassā’’ti āhaṃsu.
Some among them said, “To Venerable Sāriputta.”
Một số người nói: “Cho Trưởng lão Sāriputta.”
Apare ‘‘sāriputtatthero katipāhaṃ vasitvā yathāruci pakkamissati, devadattatthero pana nibaddhaṃ amhākaṃ nagarameva upanissāya viharati, maṅgalāmaṅgalesu ayameva amhākaṃ avassayo, devadattassa dassāmā’’ti āhaṃsu.
Others said, “Venerable Sāriputta will stay for a few days and then depart as he wishes. But Venerable Devadatta constantly resides near our city. He is our refuge in auspicious and inauspicious matters. We shall give it to Devadatta.”
Những người khác nói: “Trưởng lão Sāriputta sẽ ở lại vài ngày rồi sẽ đi theo ý muốn của mình, còn Trưởng lão Devadatta thì luôn trú gần thành phố của chúng ta; trong những dịp tốt lành hay không tốt lành, ngài ấy là chỗ nương tựa của chúng ta. Chúng ta sẽ tặng nó cho Devadatta.”
Sambahulikaṃ karontesupi ‘‘devadattassa dassāmā’’ti vattāro bahutarā ahesuṃ, atha naṃ devadattassa adaṃsu.
Even when making a majority decision, those who said “We shall give it to Devadatta” were more numerous, so they gave it to Devadatta.
Ngay cả khi có nhiều ý kiến khác nhau, những người nói “Chúng ta sẽ tặng nó cho Devadatta” vẫn đông hơn, và thế là họ đã tặng nó cho Devadatta.
Devadatto tassa dasā chindāpetvā ovaṭṭikaṃ sibbāpetvā rajāpetvā suvaṇṇapaṭṭavaṇṇaṃ katvā pārupi.
Devadatta had its fringes cut off, had it sewn into an inner robe, had it dyed, made it the color of a golden plate, and wore it.
Devadatta đã cắt bỏ các tua của tấm y, may thành áo choàng, nhuộm màu vàng óng như tấm vàng và mặc vào.
Tasmiṃ kāle tiṃsamattā bhikkhū rājagahā nikkhamitvā sāvatthiṃ gantvā satthāraṃ vanditvā katapaṭisanthārā taṃ pavattiṃ ārocetvā ‘‘evaṃ, bhante, attano ananucchavikaṃ arahaddhajaṃ pārupī’’ti ārocesuṃ.
At that time, about thirty bhikkhus departed from Rājagaha, went to Sāvatthī, paid homage to the Teacher, and after exchanging greetings, reported the incident, saying, “Thus, Venerable Sir, he wore the banner of arahantship unbefittingly.”
Vào thời điểm đó, khoảng ba mươi vị Tỳ-khưu từ Rājagaha đi đến Sāvatthī, đảnh lễ Đức Bổn Sư, sau khi được tiếp đón, họ đã kể lại câu chuyện đó và thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, ngài ấy đã mặc pháp y (arahaddhaja) không phù hợp với mình như vậy.”
Satthā ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva attano ananurūpaṃ arahaddhajaṃ paridahati, pubbepi paridahiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher said, “Bhikkhus, Devadatta did not wear the banner of arahantship unbefittingly only now; he wore it in the past as well,” and he recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Devadatta mới mặc pháp y không phù hợp với mình, mà trước đây ngài ấy cũng đã từng mặc như vậy.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1185
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese hatthikule nibbattitvā vayappatto asītisahassamattavāraṇaparivāro yūthapati hutvā araññāyatane vasati.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into an elephant herd in the Himalayan region. Having come of age, he became a herd leader with a retinue of eighty thousand elephants and lived in a forest sanctuary.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào dòng dõi voi ở vùng Himavanta. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài trở thành thủ lĩnh của một đàn voi khoảng tám vạn con và trú trong khu rừng.
Atheko duggatamanusso bārāṇasiyaṃ viharanto dantakāravīthiyaṃ dantakāre dantavalayādīni karonte disvā ‘‘hatthidante labhitvā gaṇhissathā’’ti pucchi.
Then a poor man living in Bārāṇasī, seeing ivory carvers making ivory bracelets and the like in the ivory carvers’ street, asked, “Would you take elephant tusks if I obtained them?”
Sau đó, một người đàn ông nghèo khổ trú tại Bārāṇasī, khi thấy những người thợ ngà voi đang làm vòng tay và các vật dụng khác trên phố thợ ngà, đã hỏi: “Các ông có mua ngà voi không?”
Te ‘‘āma gaṇhissāmā’’ti āhaṃsu.
They said, “Yes, we will take them.”
Họ nói: “Vâng, chúng tôi sẽ mua.”
So āvudhaṃ ādāya kāsāvavatthavasano paccekabuddhavesaṃ gaṇhitvā paṭisīsakaṃ paṭimuñcitvā hatthivīthiyaṃ ṭhatvā āvudhena hatthiṃ māretvā dante ādāya bārāṇasiyaṃ vikkiṇanto jīvikaṃ kappesi.
So he took a weapon, dressed in a saffron robe, adopted the guise of a Paccekabuddha, put on a head covering, stood in the elephant path, killed an elephant with his weapon, took its tusks, and earned his living by selling them in Bārāṇasī.
Người đó cầm vũ khí, mặc y vàng, khoác lên mình hình tướng của một vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha), đội mũ trên đầu, đứng trên lối đi của voi, giết voi bằng vũ khí, lấy ngà voi và bán ở Bārāṇasī để kiếm sống.
So aparabhāge bodhisattassa parivārahatthīnaṃ sabbapacchimaṃ hatthiṃ māretuṃ ārabhi.
Later, he began to kill the very last elephant among the Bodhisatta’s retinue of elephants.
Về sau, hắn bắt đầu giết con voi cuối cùng trong số những con voi tùy tùng của Bồ-tát.
Hatthino devasikaṃ hatthīsu parihāyantesu ‘‘kena nu kho kāraṇena hatthino parihāyantī’’ti bodhisattassa ārocesuṃ.
When the elephants decreased daily, they reported to the Bodhisatta, “By what cause are the elephants decreasing?”
Khi số voi giảm dần mỗi ngày, những con voi đã trình báo với Bồ-tát rằng: “Vì lý do gì mà số voi lại giảm đi?”
1186
Bodhisatto pariggaṇhanto ‘‘paccekabuddhavesaṃ gahetvā hatthivīthipariyante eko puriso tiṭṭhati, kacci nu kho so māreti, pariggaṇhissāmi na’’nti ekadivasaṃ hatthī purato katvā sayaṃ pacchato ahosi.
The Bodhisatta, upon investigating, thought, “There is a man standing at the edge of the elephant path, disguised as a Paccekabuddha. Could he be the killer? I will investigate him.” So one day, he placed the elephants in front and positioned himself at the rear.
Bồ-tát xem xét và nghĩ: “Một người đàn ông đang đứng ở cuối con đường voi đi, mang hình dáng của một vị Độc Giác Phật. Không biết có phải hắn ta đã giết voi không? Ta sẽ điều tra.” Một ngày nọ, Ngài để đàn voi đi trước, còn mình thì đi sau.
So bodhisattaṃ disvā āvudhaṃ ādāya pakkhandi.
Seeing the Bodhisatta, the man took his weapon and rushed forward.
Hắn ta thấy Bồ-tát liền cầm vũ khí xông tới.
Bodhisatto nivattitvā ṭhito ‘‘bhūmiyaṃ pothetvā māressāmi na’’nti soṇḍaṃ pasāretvā tena paridahitāni kāsāvāni disvā ‘‘imaṃ arahaddhajaṃ mayā garuṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti soṇḍaṃ paṭisaṃharitvā ‘‘ambho purisa, nanu esa arahaddhajo ananucchaviko tuyhaṃ, kasmā etaṃ paridahasī’’ti imā gāthā avoca –
The Bodhisatta turned and stood, thinking, “I will strike him down and kill him on the ground.” He extended his trunk, but seeing the saffron robes worn by the man, he thought, “I must respect this banner of arahantship.” He withdrew his trunk and said, “Hey man, is this banner of arahantship not unbefitting for you? Why do you wear it?” and he spoke these verses:
Bồ-tát quay lại đứng đó, nghĩ: “Ta sẽ quật hắn xuống đất mà giết.” Ngài duỗi vòi ra, nhưng khi thấy tấm y cà-sa mà hắn đang mặc, Ngài nghĩ: “Ta phải tôn kính lá cờ của bậc A-la-hán này,” rồi Ngài thu vòi lại và nói những câu kệ này: “Này người kia, lá cờ của bậc A-la-hán này không phù hợp với ngươi, tại sao ngươi lại mặc nó?”
1187
141.
141.
141.
1188
‘‘Anikkasāvo kāsāvaṃ, yo vatthaṃ paridahissati;
“Whoever wears the saffron robe,
Ai chưa gột sạch cấu uế, lại mặc y cà-sa;
1189
Apeto damasaccena, na so kāsāvamarahati.
While not free from defilements, devoid of self-restraint and truth,
Người thiếu sự tự chế và chân thật, không xứng đáng với y cà-sa.
1190
142.
Is not worthy of the saffron robe.
142.
1191
‘‘Yo ca vantakasāvassa, sīlesu susamāhito;
142.
Còn ai đã nhổ sạch cấu uế, an trú vững chắc trong giới luật;
1192
Upeto damasaccena, sa ve kāsāvamarahatī’’ti.
But whoever has relinquished defilements, is well-established in virtues,
Người có sự tự chế và chân thật, người ấy thật sự xứng đáng với y cà-sa.
1193
Tattha anikkasāvoti kasāvo vuccati rāgo doso moho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho māno atimāno mado pamādo, sabbe akusalā dhammā sabbe duccaritā sabbaṃ bhavagāmikammaṃ diyaḍḍhakilesasahassaṃ, eso kasāvo nāma.
Endowed with self-restraint and truth, he indeed is worthy of the saffron robe.”
Trong đó, anikkasāvo có nghĩa là cấu uế (kasāva) được gọi là tham, sân, si, mạn, lừa dối, xảo trá, ganh tỵ, keo kiệt, ngoan cố, tranh chấp, kiêu mạn, ngạo mạn, say đắm, phóng dật, tất cả các pháp bất thiện, tất cả các ác hạnh, tất cả các nghiệp dẫn đến tái sinh, một ngàn rưỡi phiền não – đó được gọi là cấu uế.
So yassa puggalassa appahīno santānato anissaṭṭho anikkhanto, so anikkasāvo nāma.
Therein, anikkasāvo means: defilement (kasāva) refers to lust, hatred, delusion, hypocrisy, malice, envy, avarice, deceit, fraud, obstinacy, arrogance, conceit, pride, intoxication, heedlessness, all unwholesome states, all evil conduct, all kamma leading to rebirth—the eighteen hundred defilements. This is called kasāva.
Người nào mà cấu uế đó chưa được đoạn trừ, chưa được loại bỏ, chưa được nhổ sạch khỏi dòng tâm thức, người ấy được gọi là anikkasāvo.
Kāsāvanti kasāyarasapītaṃ arahaddhajabhūtaṃ.
A person in whose continuum these defilements are not abandoned, not expelled, not gone forth, is called anikkasāva.
Kāsāvanti là y được nhuộm màu cà-sa, là lá cờ của bậc A-la-hán.
Yo vatthaṃ paridahissatīti yo evarūpo hutvā evarūpaṃ vatthaṃ paridahissati nivāseti ceva pārupati ca.
Kāsāvaṃ means: dyed with the color of defilement, being the banner of arahantship.
Yo vatthaṃ paridahissatīti là người như vậy, mặc loại y như vậy, tức là mặc và khoác y.
Apeto damasaccenāti indriyadamasaṅkhātena damena ca nibbānasaṅkhātena ca paramatthasaccena apeto parivajjito.
Yo vatthaṃ paridahissati means: whoever, being such a person, wears such a robe, both as an undergarment and an outer robe.
Apeto damasaccenāti là người thiếu sự tự chế (dama) được gọi là sự tự chế các căn, và chân thật (sacca) được gọi là Nibbāna, chân lý tối thượng.
Nissakkatthe vā karaṇavacanaṃ, etasmā damasaccā apetoti attho.
Apeto damasaccenā means: devoid of, abandoned by, self-restraint, which is restraint of the senses, and by truth, which is the ultimate truth of Nibbāna.
Hoặc, từ ngữ này là cách dùng chỉ sự tách rời, nghĩa là tách rời khỏi sự tự chế và chân thật này.
‘‘Sacca’’nti cettha vacīsaccaṃ catusaccampi vaṭṭatiyeva.
Here, "truth" refers to truthful speech, and the Four Noble Truths are also applicable.
Trong đây, “sacca” (chân thật) cũng có thể là lời nói chân thật hoặc Tứ Thánh Đế.
Na so kāsāvamarahatīti so puggalo anikkasāvattā arahaddhajaṃ kāsāvaṃ na arahati ananucchaviko etassa.
He is not worthy of the saffron robe means that person, being without defilements (kasāva), is not worthy of the saffron robe, the banner of the Arahants; he is not suitable for it.
Na so kāsāvamarahatīti là người đó, vì chưa gột sạch cấu uế, không xứng đáng với y cà-sa, lá cờ của bậc A-la-hán này.
1194
Yo ca vantakasāvassāti yo pana puggalo yathāvuttasseva kasāvassa vantattā vantakasāvo assa.
But one who has vomited defilements means that person, having vomited the defilements as described, is one who has vomited defilements.
Yo ca vantakasāvassāti là người nào đã nhổ sạch cấu uế như đã nói, người ấy là vantakasāva (đã nhổ sạch cấu uế).
Sīlesu susamāhitoti maggasīlesu ceva phalasīlesu ca sammā āhito, ānetvā ṭhapito viya tesu patiṭṭhito.
Well-established in virtues means properly established in both the virtues of the path and the virtues of the fruit, as if brought and placed therein, firmly rooted in them.
Sīlesu susamāhitoti là người đã an trú vững chắc trong giới luật của đạo lộ (magga-sīla) và giới luật của quả (phala-sīla), như thể đã được đặt vào và đứng vững trong đó.
Tehi sīlehi samaṅgībhūtassetaṃ adhivacanaṃ.
This is an appellation for one endowed with these virtues.
Đây là cách gọi người có đầy đủ những giới luật ấy.
Upetoti samannāgato.
Endowed means possessed of.
Upetoti là người có đầy đủ.
Damasaccenāti vuttappakārena damena ca saccena ca.
With self-restraint and truth means with self-restraint and truth of the kind described.
Damasaccenāti là người có sự tự chế và chân thật như đã nói.
Sa ve kāsāvamarahatīti so evarūpo puggalo imaṃ arahaddhajaṃ kāsāvaṃ arahati.
He truly is worthy of the saffron robe means such a person is worthy of this saffron robe, the banner of the Arahants.
Sa ve kāsāvamarahatīti là người như vậy xứng đáng với y cà-sa, lá cờ của bậc A-la-hán này.
1195
Evaṃ bodhisatto tassa purisassa imaṃ kāraṇaṃ kathetvā ‘‘ito paṭṭhāya mā idha āgami, āgacchasi ce, jīvitaṃ te natthī’’’ti tajjetvā palāpesi.
Thus, the Bodhisatta, after explaining this matter to that man, threatened him, saying, "From now on, do not come here; if you come, your life is forfeit," and drove him away.
Như vậy, Bồ-tát đã nói rõ sự việc này cho người đàn ông đó, và đe dọa đuổi hắn đi: “Từ nay trở đi, đừng đến đây nữa; nếu ngươi đến, ngươi sẽ không còn mạng sống.”
1196
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā hatthimārakapuriso devadatto ahosi, yūthapati pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the elephant-killer was Devadatta, and the leader of the herd was I myself."
Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Lúc đó, người thợ săn voi chính là Devadatta, còn thủ lĩnh đàn voi chính là Ta vậy.”
1197
Kāsāvajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The First Commentary on the Kāsāva Jātaka.
Chú giải Jātaka Cà-sa, thứ nhất, đã hoàn tất.
1198
* 2. Cūḷanandiyajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Cūḷanandiya Jātaka
* 2. Chú giải Jātaka Cūḷanandiya
1199
Idaṃ tadācariyavacoti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
This word of the Teacher refers to what the Teacher said while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta.
Idaṃ tadācariyavaco (Đây là lời của vị đạo sư ấy) – Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp này khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến Devadatta.
Ekadivasañhi bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, devadatto nāma kakkhaḷo pharuso sāhasiko sammāsambuddhe abhimāre payojesi, silaṃ pavijjhi, nāḷāgiriṃ payojesi, khantimettānuddayamattampissa tathāgate natthī’’ti.
For one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, Devadatta is indeed harsh, rough, and violent; he attempted to kill the Perfectly Self-Enlightened One, he hurled a rock, he instigated Nāḷāgiri, and he has not even a trace of patience, loving-kindness, or compassion towards the Tathāgata."
Một ngày nọ, các Tỳ-kheo đã khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Thưa các bạn, Devadatta thật là thô bạo, hung ác, táo tợn, đã cố gắng giết Đức Chánh Đẳng Giác, đã ném đá, đã sai voi Nālāgiri tấn công. Hắn không hề có chút khoan dung, từ bi nào đối với Đức Như Lai.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi devadatto kakkhaḷo pharuso nikkāruṇikoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic are you gathered now, bhikkhus?" When told, "On this topic," he said, "Bhikkhus, it is not only now; in the past too, Devadatta was indeed harsh, rough, and merciless," and then he related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, bây giờ các con đang tụ họp nói chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Thưa Ngài, chúng con nói chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ, mà ngay cả trong quá khứ, Devadatta cũng đã là người thô bạo, hung ác, vô tình như vậy,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1200
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese mahānandiyo nāma vānaro ahosi, kaniṭṭhabhātiko panassa cūḷanandiyo nāma.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was a monkey named Mahānandiya in the Himalayan region, and his younger brother was named Cūḷanandiya.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát là một con vượn tên là Mahānandiya ở vùng Himavanta, còn em trai của Ngài tên là Cūḷanandiya.
Te ubhopi asītisahassavānaraparivārā himavantapadese andhamātaraṃ paṭijaggantā vāsaṃ kappesuṃ.
Both of them, surrounded by eighty thousand monkeys, lived in the Himalayan region, caring for their blind mother.
Cả hai anh em, cùng với tám mươi ngàn con vượn khác, đã sống ở vùng Himavanta để chăm sóc mẹ già mù lòa.
Te mātaraṃ sayanagumbe ṭhapetvā araññaṃ pavisitvā madhurāni phalāphalāni mātuyā pesenti.
They would place their mother in a sleeping thicket, enter the forest, and send sweet fruits and edibles to their mother.
Chúng để mẹ ở trong hang ngủ, rồi vào rừng tìm những loại trái cây ngọt ngào gửi về cho mẹ.
Āharaṇakavānarā tassā na denti, sā khudāpīḷitā aṭṭhicammāvasesā kisā ahosi.
However, the monkeys who brought the food did not give it to her, so she became emaciated, reduced to skin and bones, tormented by hunger.
Nhưng những con vượn mang thức ăn không đưa cho bà, nên bà bị đói, gầy gò chỉ còn xương bọc da.
Atha naṃ bodhisatto āha – ‘‘mayaṃ, amma, tumhākaṃ madhuraphalāphalāni pesema, tumhe kasmā milāyathā’’ti.
Then the Bodhisatta said to her, "Mother, we send you sweet fruits and edibles; why are you wasting away?"
Bồ-tát liền hỏi bà: “Mẹ ơi, chúng con gửi về cho mẹ những trái cây ngọt ngào, tại sao mẹ lại héo hon như vậy?”
‘‘Tāta, nāhaṃ labhāmī’’ti.
"My son, I do not receive them."
Bà đáp: “Con ơi, mẹ không nhận được gì cả.”
Bodhisatto cintesi – ‘‘mayi yūthaṃ pariharante mātā me nassissati, yūthaṃ pahāya mātaraṃyeva paṭijaggissāmī’’ti.
The Bodhisatta thought, "While I am leading the troop, my mother will perish. I will abandon the troop and care for my mother alone."
Bồ-tát nghĩ: “Nếu ta tiếp tục chăm sóc đàn, mẹ ta sẽ chết mất. Ta sẽ từ bỏ đàn để chăm sóc riêng cho mẹ.”
So cūḷanandiyaṃ pakkositvā ‘‘tāta, tvaṃ yūthaṃ parihara, ahaṃ mātaraṃ paṭijaggissāmī’’ti āha.
So he called Cūḷanandiya and said, "My son, you lead the troop; I will care for Mother."
Ngài gọi Cūḷanandiya đến và nói: “Này em, em hãy chăm sóc đàn, còn ta sẽ chăm sóc mẹ.”
Sopi naṃ ‘‘bhātika, mayhaṃ yūthapariharaṇena kammaṃ natthi, ahampi mātarameva paṭijaggissāmī’’ti āha.
He too said to him, "Brother, I have no business leading the troop; I too will care for Mother."
Cūḷanandiya cũng nói với Ngài: “Anh ơi, em không cần phải chăm sóc đàn, em cũng sẽ chăm sóc mẹ.”
Iti te ubhopi ekacchandā hutvā yūthaṃ pahāya mātaraṃ gahetvā himavantā oruyha paccante nigrodharukkhe vāsaṃ kappetvā mātaraṃ paṭijaggiṃsu.
Thus, both of them, being of one mind, abandoned the troop, took their mother, descended from the Himalayas, and settled in a banyan tree on the border, caring for their mother.
Thế là cả hai anh em, đồng lòng, từ bỏ đàn, đưa mẹ xuống khỏi Himavanta, trú ngụ dưới gốc cây đa ở vùng biên giới và chăm sóc mẹ.
1201
Atheko bārāṇasivāsī brāhmaṇamāṇavo takkasilāyaṃ disāpāmokkhassa ācariyassa santike sabbasippāni uggaṇhitvā ‘‘gamissāmī’’ti ācariyaṃ āpucchi.
Then a young Brahmin from Bārāṇasī, having learned all the arts from a world-renowned teacher in Takkasilā, asked the teacher for permission to leave, saying, "I shall go."
Lúc đó, một thanh niên Bà-la-môn sống ở Bārāṇasī, sau khi học tất cả các nghề từ vị đạo sư nổi tiếng ở Takkasilā, đã xin phép đạo sư để trở về.
Ācariyo aṅgavijjānubhāvena tassa kakkhaḷapharusasāhasikabhāvaṃ ñatvā ‘‘tāta, tvaṃ kakkhaḷo pharuso sāhasiko, evarūpānaṃ na sabbakālaṃ ekasadisameva ijjhati, mahāvināsaṃ mahādukkhaṃ pāpuṇissasi, mā tvaṃ kakkhaḷo hohi, pacchānutāpanakāraṇaṃ kammaṃ mā karī’’ti ovaditvā uyyojesi.
The teacher, knowing his harsh, rough, and violent nature through his knowledge of physiognomy, advised him, "My son, you are harsh, rough, and violent. Such people do not always succeed in the same way; you will encounter great destruction and great suffering. Do not be harsh; do not commit deeds that will cause you remorse later," and then sent him off.
Vị đạo sư, nhờ khả năng xem tướng, biết được tính cách thô bạo, hung ác, táo tợn của hắn, liền khuyên nhủ và tiễn đưa: “Này con, con là người thô bạo, hung ác, táo tợn. Những người như vậy không phải lúc nào cũng thành công như nhau, con sẽ gặp phải sự hủy diệt lớn, khổ đau lớn. Con đừng thô bạo, đừng làm những việc gây hối tiếc về sau.”
So ācariyaṃ vanditvā bārāṇasiṃ gantvā gharāvāsaṃ gahetvā aññehi sippehi jīvikaṃ kappetuṃ asakkonto ‘‘dhanukoṭiṃ nissāya jīvissāmi, luddakammaṃ katvā jīvikaṃ kappessāmī’’ti bārāṇasito nikkhamitvā paccantagāmake vasanto dhanukalāpasannaddho araññaṃ pavisitvā nānāmige māretvā maṃsavikkayena jīvikaṃ kappesi.
Having paid homage to his teacher, he went to Bārāṇasī, took up household life, and being unable to earn a living by other crafts, he thought, "I will live by means of a bow, I will earn a living by hunting." So, he left Bārāṇasī, lived in a border village, and, armed with a bow and quiver, entered the forest, killed various animals, and earned his living by selling meat.
Hắn ta đảnh lễ đạo sư, trở về Bārāṇasī, lập gia đình, nhưng không thể kiếm sống bằng các nghề khác, liền nghĩ: “Ta sẽ sống dựa vào cung tên, kiếm sống bằng nghề thợ săn.” Hắn rời Bārāṇasī, sống ở một ngôi làng biên giới, mang cung tên và túi tên vào rừng, giết các loại thú để kiếm sống bằng cách bán thịt.
So ekadivasaṃ araññe kiñci alabhitvā āgacchanto aṅgaṇapariyante ṭhitaṃ nigrodharukkhaṃ disvā ‘‘api nāmettha kiñci bhaveyyā’’ti nigrodharukkhābhimukho pāyāsi.
One day, finding nothing in the forest, he was returning when he saw a banyan tree standing at the edge of an open space. Thinking, "Perhaps there might be something there," he proceeded towards the banyan tree.
Một ngày nọ, hắn không tìm được gì trong rừng, trên đường về, thấy một cây đa đứng ở rìa sân, liền nghĩ: “Có lẽ có gì đó ở đây,” rồi hắn đi về phía cây đa.
1202
Tasmiṃ khaṇe ubhopi te bhātaro mātaraṃ phalāni khādāpetvā purato katvā viṭapabbhantare nisinnā taṃ āgacchantaṃ disvā ‘‘kiṃ no mātaraṃ karissatī’’ti sākhantare nilīyiṃsu.
At that moment, both brothers, having fed their mother fruits and placed her in front, were sitting in a hollow of a branch. Seeing him approach, they hid among the branches, thinking, "What will he do to our mother?"
Ngay lúc đó, cả hai anh em vượn, sau khi cho mẹ ăn trái cây, để mẹ ở phía trước, còn mình thì ngồi ẩn trong các cành cây. Thấy hắn ta đang đến, chúng nghĩ: “Hắn sẽ làm gì mẹ ta?”
Sopi kho sāhasikapuriso rukkhamūlaṃ āgantvā taṃ tesaṃ mātaraṃ jarādubbalaṃ andhaṃ disvā cintesi – ‘‘kiṃ me tucchahatthagamanena imaṃ makkaṭiṃ vijjhitvā gahetvā gamissāmī’’ti.
That audacious man came to the foot of the tree and, seeing their mother, who was frail with old age and blind, he thought, "Why should I go empty-handed? I will shoot this monkey and take her."
Người đàn ông táo tợn đó đến gốc cây, thấy mẹ của chúng già yếu, mù lòa, liền nghĩ: “Đi về tay không làm gì, ta sẽ bắn con vượn cái này rồi mang về.”
So tassā vijjhanatthāya dhanuṃ gaṇhi.
He took up his bow to shoot her.
Hắn cầm cung lên để bắn bà.
Taṃ disvā bodhisatto ‘‘tāta cūḷanandiya, eso me puriso mātaraṃ vijjhitukāmo, ahamassā jīvitadānaṃ dassāmi, tvaṃ mamaccayena mātaraṃ paṭijaggeyyāsī’’ti vatvā sākhantarā nikkhamitvā ‘‘bho purisa, mā me mātaraṃ vijjhi, esā andhā jarādubbalā, ahamassā jīvitadānaṃ demi, tvaṃ etaṃ amāretvā maṃ mārehī’’ti tassa paṭiññaṃ gahetvā sarassa āsannaṭṭhāne nisīdi.
Seeing this, the Bodhisatta said, "Dear Cūḷanandiya, this man intends to shoot my mother. I will give her the gift of life. You should care for mother in my absence." Having said this, he came out from among the branches and said, "Sir, do not shoot my mother. She is blind and frail with old age. I will give her the gift of life. Do not kill her; kill me instead." Having received his promise, he sat down near the arrow.
Thấy vậy, Bồ-tát nói: “Này Cūḷanandiya, người đàn ông này muốn bắn mẹ ta. Ta sẽ hiến mạng sống cho bà. Em hãy chăm sóc mẹ sau khi ta chết.” Nói rồi, Ngài từ trong cành cây bước ra: “Này người kia, đừng bắn mẹ ta. Bà ấy mù lòa, già yếu. Ta hiến mạng sống cho bà. Ngươi đừng giết bà ấy, hãy giết ta đi.” Sau khi nhận được lời hứa của hắn, Ngài ngồi xuống gần tầm bắn của mũi tên.
So nikkaruṇo bodhisattaṃ vijjhitvā pātetvā mātarampissa vijjhituṃ puna dhanuṃ sannayhi.
That merciless man shot the Bodhisatta, made him fall, and then again strung his bow to shoot his mother.
Hắn ta, không chút lòng từ bi, bắn Bồ-tát, khiến Ngài ngã xuống. Sau đó, hắn lại giương cung lên để bắn cả mẹ của Ngài.
Taṃ disvā cūḷanandiyo ‘‘ayaṃ me mātaraṃ vijjhitukāmo, ekadivasampi kho me mātā jīvamānā laddhajīvitāyeva nāma hoti, jīvitadānamassā dassāmī’’ti sākhantarā nikkhamitvā ‘‘bho purisa, mā me mātaraṃ vijjhi, ahamassā jīvitadānaṃ dammi, tvaṃ maṃ vijjhitvā amhe dve bhātike gahetvā amhākaṃ mātu jīvitadānaṃ dehī’’ti tassa paṭiññaṃ gahetvā sarassa āsannaṭṭhāne nisīdi.
Seeing this, Cūḷanandiya thought, "This man intends to shoot my mother. Even if my mother lives for one day, it will be as if she has gained life. I will give her the gift of life." Having said this, he came out from among the branches and said, "Sir, do not shoot my mother. I will give her the gift of life. You shoot me and take us two brothers, and give our mother the gift of life." Having received his promise, he sat down near the arrow.
Thấy vậy, Cūḷanandiya nghĩ: “Kẻ này muốn bắn mẹ ta. Dù mẹ ta chỉ sống thêm một ngày, đó cũng là một sự sống được ban cho. Ta sẽ hiến dâng mạng sống cho mẹ.” Nó liền từ trong cành cây bước ra và nói: “Này người kia, đừng bắn mẹ ta. Ta sẽ hiến dâng mạng sống cho mẹ. Ngươi hãy bắn ta, rồi bắt hai anh em chúng ta, hãy ban sự sống cho mẹ chúng ta.” Sau khi nhận được lời hứa của người đó, nó ngồi xuống gần hồ.
So tampi vijjhitvā pātetvā ‘‘ayaṃ makkaṭī ghare dārakānaṃ bhavissatī’’ti mātarampi tesaṃ vijjhitvā pātetvā tayopi kājenādāya gehābhimukho pāyāsi.
He shot him too, made him fall, and then, thinking, "This monkey will be for the children at home," he also shot their mother, made her fall, and took all three on his carrying pole, heading towards his home.
Kẻ đó bắn nó ngã xuống, rồi nghĩ: “Con khỉ cái này sẽ là thức ăn cho lũ trẻ ở nhà,” hắn cũng bắn mẹ của chúng ngã xuống, rồi vác cả ba con trên cây sào và đi về nhà.
1203
Athassa pāpapurisassa gehe asani patitvā bhariyañca dve dārake ca geheneva saddhiṃ jhāpesi, piṭṭhivaṃsathūṇamattaṃ avasissi.
Then, a thunderbolt struck the house of that wicked man, burning his wife and two children along with the house, leaving only the main pillar of the ridgepole.
Khi đó, một tia sét đánh vào nhà của kẻ ác độc đó, thiêu cháy vợ và hai đứa con của hắn cùng với ngôi nhà, chỉ còn lại một cây cột chính.
Athassa naṃ gāmadvāreyeva eko puriso disvā taṃ pavattiṃ ārocesi.
Then, a man saw him right at the village gate and reported that incident to him.
Khi đó, một người đàn ông nhìn thấy hắn ngay cổng làng và báo tin về sự việc đó.
So puttadārasokena abhibhūto tasmiṃyeva ṭhāne maṃsakājañja dhanuñca chaḍḍetvā vatthaṃ pahāya naggo bāhā paggayha paridevamāno gantvā gharaṃ pāvisi.
Overwhelmed by grief for his children and wife, he threw away the meat-carrying pole and the bow right there, abandoned his clothes, and, naked, with arms raised, lamenting, he went and entered his house.
Hắn bị nỗi đau mất con và vợ áp đảo, liền vứt bỏ gánh thịt và cây cung ngay tại chỗ đó, cởi bỏ y phục, trần truồng giơ tay lên than khóc, rồi đi vào nhà.
Athassa sā thūṇā bhijjitvā sīse patitvā sīsaṃ bhindi, pathavī vivaraṃ adāsi, avīcito jālā uṭṭhahi.
Then, that pillar broke and fell on his head, splitting his head. The earth gave way, and flames arose from Avīci hell.
Khi đó, cây cột đó đổ sập xuống đầu hắn, làm vỡ đầu hắn. Đất nứt ra, ngọn lửa từ địa ngục Avīci bốc lên.
So pathaviyā giliyamāno ācariyassa ovādaṃ saritvā ‘‘imaṃ vata kāraṇaṃ disvā pārāsariyabrāhmaṇo mayhaṃ ovādamadāsī’’ti paridevamāno imaṃ gāthādvayamāha –
As he was being swallowed by the earth, he remembered his teacher's advice and, lamenting, "Indeed, seeing this very reason, the brahmin Pārāsariya gave me his advice," he uttered these two verses:
Trong khi bị đất nuốt chửng, hắn nhớ lời khuyên của vị đạo sư và than khóc: “Vị Bà-la-môn Pārāsariya đã khuyên ta khi thấy sự việc này!” rồi nói hai bài kệ sau:
1204
143.
143.
143.
1205
‘‘Idaṃ tadācariyavaco, pārāsariyo yadabravi;
“This was the teacher’s word, what Pārāsariya said:
“Đây là lời của vị đạo sư Pārāsariya đã nói:
1206
Māsu tvaṃ akari pāpaṃ, yaṃ tvaṃ pacchā kataṃ tape.
‘Never do evil, which you would later regret having done.’
‘Ngươi chớ làm điều ác, điều mà sau này ngươi sẽ hối hận vì đã làm.’
1207
144.
144.
144.
1208
‘‘Yāni karoti puriso, tāni attani passati;
“What a person does, that he sees in himself;
Những gì một người làm, người ấy sẽ thấy lại trên chính mình;
1209
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakārī ca pāpakaṃ;
One who does good, good; one who does evil, evil;
Người làm điều thiện sẽ gặt hái điều thiện, người làm điều ác sẽ gặt hái điều ác;
1210
Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phala’’nti.
As is the seed one sows, so is the fruit one reaps.”
Gieo hạt giống nào, gặt quả ấy.”
1211
Tassattho – yaṃ pārāsariyo brāhmaṇo abravi – ‘‘māsu tvaṃ pāpaṃ akarī, yaṃ kataṃ pacchā tvaññeva tapeyyā’’ti, idaṃ taṃ ācariyassa vacanaṃ.
The meaning of this is: This is the teacher's word, what the brahmin Pārāsariya said: "Never do evil, which you yourself would later regret having done."
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Lời mà Bà-la-môn Pārāsariya đã nói – “Ngươi chớ làm điều ác, điều mà sau này chính ngươi sẽ hối hận vì đã làm,” – đó là lời của vị đạo sư.
Yāni kāyavacīmanodvārehi kammāni puriso karoti, tesaṃ vipākaṃ paṭilabhanto tāniyeva attani passati.
Whatever actions a person performs through the doors of body, speech, and mind, he experiences their results and sees them in himself.
Những hành động mà một người thực hiện qua ba cửa thân, khẩu, ý, người đó sẽ thấy lại chúng trên chính mình khi trải nghiệm quả báo của chúng.
Kalyāṇakammakārī kalyāṇaṃ phalamanubhoti, pāpakārī ca pāpakameva hīnaṃ lāmakaṃ aniṭṭhaphalaṃ anubhoti.
One who performs wholesome deeds experiences wholesome results, and one who performs unwholesome deeds experiences only unwholesome, inferior, base, and undesirable results.
Người làm hành động thiện sẽ trải nghiệm quả lành, người làm điều ác sẽ trải nghiệm quả ác, quả thấp kém, bất như ý.
Lokasmimpi hi yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ, bījānurūpaṃ bījānucchavikameva phalaṃ harati gaṇhāti anubhavatīti.
For in this world, whatever kind of seed one sows, such a fruit one reaps; one reaps, obtains, and experiences a fruit that is exactly in accordance with and suitable to the seed.
Thật vậy, ngay cả trong thế gian, gieo hạt giống nào, gặt quả ấy; người ta gặt hái, nhận lấy, trải nghiệm quả đúng với hạt giống, tương xứng với hạt giống.
Iti so paridevanto pathaviṃ pavisitvā avīcimahāniraye nibbatti.
Thus, lamenting, he entered the earth and was reborn in the great Avīci hell.
Như vậy, hắn than khóc, rồi bị đất nuốt chửng và tái sinh vào đại địa ngục Avīci.
1212
Satthā ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva, pubbepi kakkhaḷo pharuso nikkāruṇikoyevā’’ti vatvā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā luddakapuriso devadatto ahosi, disāpāmokkho ācariyo sāriputto, cūḷanandiyo ānando, mātā mahāpajāpatigotamī, mahānandiyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, saying, "Monks, Devadatta was not harsh, cruel, and merciless only now; he was so even in the past," brought forth this discourse on Dhamma and identified the Jātaka: "At that time, the hunter was Devadatta; the renowned teacher was Sāriputta; Cūḷanandiya was Ānanda; the mother was Mahāpajāpatī Gotamī; and Mahānandiya was I myself."
Đức Phật nói: “Này các Tỳ-khưu, Devadatta không chỉ bây giờ mới tàn nhẫn, thô lỗ, vô cảm, mà ngay cả trong quá khứ cũng vậy,” rồi kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi đó, người thợ săn là Devadatta, vị đạo sư nổi tiếng khắp phương là Sāriputta, Cūḷanandiya là Ānanda, mẹ là Mahāpajāpatī Gotamī, còn Mahānandiya chính là Như Lai.”
1213
Cūḷanandiyajātakavaṇṇanā dutiyā.
The Second Commentary on the Cūḷanandiya Jātaka.
Câu chuyện Cūḷanandiya Jātaka thứ hai chấm dứt.
1214
* 3. Puṭabhattajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Puṭabhatta Jātaka
* 3. Câu chuyện Puṭabhatta Jātaka
1215
Name namantassa bhaje bhajantanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuṭumbikaṃ ārabbha kathesi.
" One should bow to him who bows, one should associate with him who associates" – this the Teacher told while dwelling in Jetavana, concerning a certain householder.
Hãy cúi mình trước người cúi mình, hãy phụng sự người phụng sự” – câu này được Đức Phật kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một gia chủ.
Sāvatthinagaravāsī kireko kuṭumbiko ekena janapadakuṭumbikena saddhiṃ vohāraṃ akāsi.
It is said that a householder living in Sāvatthī had a business transaction with a householder from the countryside.
Nghe nói, một gia chủ sống ở thành Sāvatthī đã giao dịch với một gia chủ ở vùng nông thôn.
So attano bhariyaṃ ādāya tassa dhāraṇakassa santikaṃ agamāsi.
Taking his wife, he went to the debtor.
Ông ta cùng vợ đến chỗ người mắc nợ đó.
Dhāraṇako ‘‘dātuṃ na sakkomī’’ti na kiñci adāsi, itaro kujjhitvā bhattaṃ abhuñjitvāva nikkhami.
The debtor gave nothing, saying, "I cannot give it." The other, angered, left without eating his meal.
Người mắc nợ nói: “Tôi không thể trả được,” và không đưa gì cả. Người kia tức giận, không ăn cơm mà bỏ đi.
Atha naṃ antarāmagge chātajjhattaṃ disvā maggapaṭipannā purisā ‘‘bhariyāyapi datvā bhuñjāhī’’ti bhattapuṭaṃ adaṃsu.
Then, seeing him hungry on the way, travelers gave him a packet of food, saying, "Eat it after giving some to your wife as well."
Khi đó, những người đi đường thấy ông ta đói lả giữa đường, đã đưa cho ông ta một gói cơm và nói: “Hãy ăn đi, và cũng cho vợ ông nữa.”
So taṃ gahetvā tassā adātukāmo hutvā ‘‘bhadde, idaṃ corānaṃ tiṭṭhanaṭṭhānaṃ, tvaṃ purato yāhī’’ti uyyojetvā sabbaṃ bhattaṃ bhuñjitvā tucchapuṭaṃ dassetvā ‘‘bhadde, abhattakaṃ tucchapuṭameva adaṃsū’’ti āha.
Taking it, he, not wanting to give it to her, sent her ahead, saying, "My dear, this is a place where robbers stay; you go first." He then ate all the food himself, showed her the empty packet, and said, "My dear, they gave us an empty packet with no food."
Ông ta cầm lấy gói cơm nhưng không muốn cho vợ, liền bảo: “Này em, đây là nơi bọn cướp thường ẩn náu, em hãy đi trước đi.” Rồi ông ta ăn hết cơm, đưa gói rỗng cho vợ và nói: “Này em, họ chỉ cho gói rỗng không có cơm.”
Sā tena ekakeneva bhuttabhāvaṃ ñatvā domanassappattā ahosi.
She, knowing that he had eaten it all by himself, became distressed.
Cô ấy biết ông ta đã ăn một mình nên rất đau khổ.
Te ubhopi jetavanapiṭṭhivihārena gacchantā ‘‘pānīyaṃ pivissāmā’’ti jetavanaṃ pavisiṃsu.
Both of them, going past the Jetavana monastery, entered Jetavana, saying, "We will drink water."
Cả hai vợ chồng đi ngang qua phía sau Jetavana, rồi vào Jetavana để “uống nước.”
1216
Satthāpi tesaññeva āgamanaṃ olokento maggaṃ gahetvā ṭhitaluddako viya gandhakuṭichāyāya nisīdi, te satthāraṃ disvā upasaṅkamitvā vanditvā nisīdiṃsu.
The Teacher, also watching for their arrival, sat in the shade of the Perfumed Chamber like a hunter positioned on a path. Seeing the Teacher, they approached, paid homage, and sat down.
Đức Phật cũng đang chờ đợi họ đến, ngài ngồi dưới bóng cây hương thất như một người thợ săn đứng chờ trên đường. Họ thấy Đức Phật, liền đến gần, đảnh lễ và ngồi xuống.
Satthā tehi saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘kiṃ, upāsike, ayaṃ te bhattā hitakāmo sasneho’’ti pucchi.
The Teacher exchanged pleasantries with them and asked, "Lay follower, is this husband of yours benevolent and affectionate?"
Đức Phật chào hỏi họ và hỏi: “Này nữ cư sĩ, chồng cô có yêu thương cô, có lòng tốt với cô không?”
‘‘Bhante, ahaṃ etassa sasnehā, ayaṃ pana mayhaṃ nisneho, tiṭṭhantu aññepi divasā, ajjevesa antarāmagge puṭabhattaṃ labhitvā mayhaṃ adatvā attanāva bhuñjī’’ti.
"Venerable Sir, I am affectionate towards him, but he is without affection towards me. Let alone other days, just today on the way, he received a packet of food and ate it himself without giving any to me."
“Bạch Đức Thế Tôn, con yêu thương ông ấy, nhưng ông ấy không yêu thương con. Hãy bỏ qua những ngày khác, ngay hôm nay trên đường đi, ông ấy nhận được một gói cơm nhưng không cho con ăn mà tự mình ăn hết.”
‘‘Upāsike, niccakālampi tvaṃ etassa hitakāmā sasnehā, ayaṃ pana nisnehova.
"Lay follower, you are always benevolent and affectionate towards him, but he is indeed without affection.
“Này nữ cư sĩ, con luôn yêu thương và có lòng tốt với ông ấy, nhưng ông ấy thì vô cảm.
Yadā pana paṇḍite nissāya tava guṇe jānāti, tadā te sabbissariyaṃ niyyādetī’’ti vatvā tāya yācito atītaṃ āhari.
But when he knows your virtues through the wise, then he will entrust all authority to you." Having said this, and being requested by her, he related a past event.
Nhưng khi ông ấy nhờ người trí mà biết được phẩm chất của con, khi đó ông ấy sẽ trao toàn bộ quyền hành cho con.” Nói vậy, khi được cô ấy thỉnh cầu, ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1217
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto amaccakule nibbattitvā vayappatto tassa atthadhammānusāsako ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a minister's family and, having reached maturity, became his advisor on matters of welfare and Dhamma.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào dòng dõi quan đại thần và khi trưởng thành, ngài trở thành vị cố vấn về lợi ích và Chánh pháp cho nhà vua.
Atha rājā ‘‘padubbheyyāpi me aya’’nti attano puttaṃ āsaṅkanto nīhari.
Then the king, suspecting his own son, thinking, "He might betray me," banished him.
Khi đó, nhà vua nghi ngờ con trai mình có thể làm phản, nên đã đuổi con đi.
So attano bhariyaṃ gahetvā nagarā nikkhamma ekasmiṃ kāsikagāmake vāsaṃ kappesi.
Taking his wife, he left the city and settled in a certain Kāsika village.
Hoàng tử cùng vợ rời khỏi thành và sống trong một ngôi làng ở Kāsika.
So aparabhāge pitu kālakatabhāvaṃ sutvā ‘‘kulasantakaṃ rajjaṃ gaṇhissāmī’’ti bārāṇasiṃ paccāgacchanto antarāmagge ‘‘bhariyāyapi datvā bhuñjāhī’’ti bhattapuṭaṃ labhitvā tassā adatvā sayameva taṃ bhuñji.
Later, hearing of his father's death, he returned to Bārāṇasī, thinking, "I will take the royal inheritance." On the way, he received a packet of food, saying, "Eat it after giving some to your wife as well," but he ate it himself without giving any to her.
Sau đó, khi nghe tin cha mình đã qua đời, hoàng tử nghĩ: “Ta sẽ giành lại vương quốc của gia tộc,” rồi trở về Bārāṇasī. Trên đường đi, hoàng tử nhận được một gói cơm và được bảo: “Hãy ăn đi, và cũng cho vợ ông nữa,” nhưng hoàng tử không cho vợ ăn mà tự mình ăn hết.
Sā ‘‘kakkhaḷo vatāyaṃ puriso’’ti domanassappattā ahosi.
She became distressed, thinking, "How harsh this man is!"
Hoàng hậu nghĩ: “Người đàn ông này thật tàn nhẫn,” và rất đau khổ.
So bārāṇasiyaṃ rajjaṃ gahetvā taṃ aggamahesiṭṭhāne ṭhapetvā ‘‘ettakameva etissā ala’’nti na aññaṃ sakkāraṃ vā sammānaṃ vā karoti, ‘‘kathaṃ yāpesī’’tipi naṃ na pucchati.
Having taken the kingship in Bārāṇasī, he appointed her as his chief consort but did not show her any other respect or honor, thinking, "This much is enough for her," nor did he ask her, "How are you faring?"
Hoàng tử giành được vương quốc ở Bārāṇasī, phong cô ấy làm hoàng hậu chính, nhưng nghĩ: “Chừng đó là đủ cho cô ta rồi,” và không ban thêm bất kỳ sự tôn kính hay trọng vọng nào khác, cũng không hỏi han: “Cô sống thế nào?”
1218
Bodhisatto cintesi – ‘‘ayaṃ devī rañño bahūpakārā sasnehā, rājā panetaṃ kismiñci na maññati, sakkārasammānamassā kāressāmī’’ti taṃ upasaṅkamitvā upacāraṃ katvā ekamantaṃ ṭhatvā ‘‘kiṃ, tātā’’ti vutte ‘‘kathaṃ samuṭṭhāpetuṃ mayaṃ, devi, tumhe upaṭṭhahāma, kiṃ nāma mahallakānaṃ pitūnaṃ vatthakhaṇḍaṃ vā bhattapiṇḍaṃ vā dātuṃ na vaṭṭatī’’ti āha.
The Bodhisatta thought, "This queen has been of great help to the king and is affectionate, but the king does not think much of her in any way. I will arrange for her to receive honor and respect." He approached her, paid his respects, and stood to one side. When asked, "What is it, my dear?" he said, "Devi, how are we to serve you so that you may prosper? Is it not proper to give a piece of cloth or a lump of food to our elders, our parents?"
Bồ-tát suy nghĩ: “Vị hoàng hậu này đã giúp đỡ nhà vua rất nhiều và rất yêu thương, nhưng nhà vua không coi trọng bà ấy. Ta sẽ làm cho bà ấy được tôn kính và trọng vọng.” Ngài liền đến gần hoàng hậu, chào hỏi và đứng sang một bên. Khi được hỏi: “Này con, có chuyện gì vậy?” Ngài nói: “Thưa hoàng hậu, chúng con phải làm gì để phụng dưỡng mẹ? Chẳng lẽ không được phép dâng cho cha mẹ già một mảnh vải hay một nắm cơm sao?”
‘‘Tāta, ahaṃ attanāva kiñci na labhāmi, tumhākaṃ kiṃ dassāmi, nanu labhanakāle adāsiṃ, idāni pana me rājā na kiñci deti.
“Son, I myself receive nothing, what can I give to you? Did I not give when I had something to give? But now the king gives me nothing.
“Này con, mẹ còn không nhận được gì cho chính mình, thì làm sao mẹ có thể cho các con? Chẳng phải khi có được, mẹ đã cho sao? Nhưng bây giờ nhà vua không cho mẹ gì cả.
Tiṭṭhatu aññaṃ dānaṃ, rajjaṃ gaṇhituṃ āgacchanto antarāmagge bhattapuṭaṃ labhitvā bhattamattampi me adatvā attanāva bhuñjī’’ti.
Let alone other gifts, when he came to take the kingdom, having obtained a packet of food on the way, he ate it himself without giving me even a morsel of food.”
Hãy bỏ qua những món quà khác, ngay cả khi đang trên đường về để giành lại vương quốc, ông ấy nhận được một gói cơm nhưng không cho mẹ một chút cơm nào mà tự mình ăn hết.”
‘‘Kiṃ pana, amma, rañño santike evaṃ kathetuṃ sakkhissathā’’ti?
“But, Mother, will you be able to speak thus in the presence of the king?”
“Vậy thưa mẹ, mẹ có thể nói điều này trước mặt nhà vua không?”
‘‘Sakkhissāmi, tātā’’ti.
“I will be able to, my son.”
“Con có thể, này con.”
‘‘Tena hi ajjeva mama rañño santike ṭhitakāle mayi pucchante evaṃ kathetha ajjeva vo guṇaṃ jānāpessāmī’’ti evaṃ vatvā bodhisatto purimataraṃ gantvā rañño santike aṭṭhāsi.
“Then, today, while I am present before the king, when I ask, speak thus, and today I will make known your virtue.” Having said this, the Bodhisatta went ahead and stood before the king.
“Vậy thì, ngay hôm nay, khi con hỏi trước mặt nhà vua, mẹ hãy nói như vậy. Ngay hôm nay con sẽ làm cho nhà vua biết phẩm chất của mẹ.” Nói vậy, Bồ-tát đi trước và đứng trước mặt nhà vua.
Sāpi gantvā rañño samīpe aṭṭhāsi.
She also went and stood near the king.
Hoàng hậu cũng đi đến và đứng gần nhà vua.
1219
Atha naṃ bodhisatto ‘‘amma, tumhe ativiya kakkhaḷā, kiṃ nāma pitūnaṃ vatthakhaṇḍaṃ vā bhattapiṇḍamattaṃ vā dātuṃ na vaṭṭatī’’ti āha.
Then the Bodhisatta said to her, “Mother, you are too harsh; is it not proper to give a piece of cloth or even a morsel of food to your parents?”
Khi đó, Bồ-tát nói với hoàng hậu: “Thưa mẹ, mẹ thật quá tàn nhẫn, chẳng lẽ không được phép dâng cho cha mẹ một mảnh vải hay một nắm cơm sao?”
‘‘Tāta, ahameva rañño santikā kiñci na labhāmi, tumhākaṃ kiṃ dassāmī’’ti?
“Son, I myself receive nothing from the king, what can I give to you?”
“Này con, mẹ còn không nhận được gì từ nhà vua, thì làm sao mẹ có thể cho các con?”
‘‘Nanu aggamahesiṭṭhānaṃ te laddha’’nti?
“Did you not obtain the position of chief queen?”
“Chẳng phải mẹ đã được phong làm hoàng hậu chính sao?”
‘‘Tāta, kismiñci sammāne asati aggamahesiṭṭhānaṃ kiṃ karissati, idāni me tumhākaṃ rājā kiṃ dassati, so antarāmagge bhattapuṭaṃ labhitvā tato kiñci adatvā sayameva bhuñjī’’ti.
“Son, what good is the position of chief queen if there is no respect? What will your king give me now? He obtained a packet of food on the way and ate it himself without giving me anything from it.”
“Này con, nếu không có sự tôn trọng nào, thì làm hoàng hậu chính có ích gì? Bây giờ nhà vua của các con có cho mẹ gì đâu? Ông ấy nhận được một gói cơm trên đường đi nhưng không cho mẹ một chút nào mà tự mình ăn hết.”
Bodhisatto ‘‘evaṃ kira, mahārājā’’ti pucchi.
The Bodhisatta asked, “Is that so, Your Majesty?”
Bồ-tát hỏi: “Thưa Đại vương, có phải vậy không?”
Rājā adhivāsesi.
The king assented.
Nhà vua thừa nhận.
Bodhisatto tassa adhivāsanaṃ viditvā ‘‘tena hi, amma, rañño appiyakālato paṭṭhāya kiṃ tumhākaṃ idha vāsena.
Knowing his assent, the Bodhisatta said, “Then, Mother, from the time the king dislikes you, what is the point of your living here?
Bồ-tát biết nhà vua thừa nhận, liền nói: “Vậy thì, thưa mẹ, từ khi nhà vua không còn yêu thương, mẹ còn ở đây làm gì nữa?”
Lokasmiñhi appiyasampayogo ca dukkho, tumhākaṃ idha vāse sati rañño appiyasampayogova dukkhaṃ bhavissati, ime sattā nāma bhajante bhajanti, abhajanabhāvaṃ ñatvā aññattha gantabbaṃ, mahanto lokasannivāso’’ti vatvā imā gāthā avoca –
Indeed, in the world, association with the disliked is suffering. If you live here, the king will suffer from association with the disliked. These beings associate with those who associate with them. Knowing that one is not associated with, one should go elsewhere, for the world is vast,” and having said this, he uttered these verses:
Trong thế gian, sự hội ngộ với điều không ưa là khổ. Nếu các vị ở đây, sự hội ngộ với điều không ưa của nhà vua sẽ là khổ. Những chúng sinh này, khi được phụng sự thì phụng sự; khi biết rằng không còn được phụng sự nữa, thì nên đi nơi khác, vì thế giới này rất rộng lớn.” Nói vậy rồi, vị ấy đã nói những bài kệ này –
1220
145.
145.
145.
1221
‘‘Name namantassa bhaje bhajantaṃ, kiccānukubbassa kareyya kiccaṃ;
“Bow to one who bows, associate with one who associates, do a service for one who does a service;
“Hãy cúi chào người cúi chào, hãy phụng sự người phụng sự, hãy làm việc cho người giúp đỡ công việc;
1222
Nānatthakāmassa kareyya atthaṃ, asambhajantampi na sambhajeyya.
Do good for one who desires good, do not associate with one who does not associate.
Hãy làm lợi ích cho người muốn lợi ích, đừng phụng sự người không phụng sự.
1223
146.
146.
146.
1224
‘‘Caje cajantaṃ vanathaṃ na kayirā, apetacittena na sambhajeyya;
Abandon one who abandons, do not form a thicket of craving; do not associate with one whose mind has departed;
Hãy từ bỏ người từ bỏ, đừng tạo sự ràng buộc (vanatha); đừng phụng sự người có tâm đã lìa bỏ;
1225
Dijo dumaṃ khīṇaphalanti ñatvā, aññaṃ samekkheyya mahā hi loko’’ti.
As a bird, knowing a tree to be barren of fruit, seeks another, for the world is vast.”
Như chim biết cây đã hết trái, liền tìm cây khác, vì thế giới này rộng lớn.”
1226
Tattha name namantassa bhaje bhajantanti yo attano namati, tasseva paṭinameyya.
Therein, ‘Bow to one who bows, associate with one who associates’ means one should return a bow to one who bows to oneself. One should associate with one who associates.
Trong đó, Name namantassa bhaje bhajantaṃ có nghĩa là: Ai cúi chào mình, hãy cúi chào lại người ấy.
Yo ca bhajati, tameva bhajeyya.
And one who associates, one should associate with him.
Và ai phụng sự, hãy phụng sự người ấy.
Kiccānukubbassa kareyya kiccanti attano uppannakiccaṃ anukubbantasseva tassapi uppannakiccaṃ paṭikareyya.
‘Do a service for one who does a service’ means one should return a service to one who performs a service that has arisen for oneself.
Kiccānukubbassa kareyya kiccaṃ có nghĩa là: Ai giúp đỡ công việc phát sinh của mình, hãy làm lại công việc phát sinh của người ấy.
Caje cajantaṃ vanathaṃ na kayirāti attānaṃ jahantaṃ jaheyyeva, tasmiṃ taṇhāsaṅkhātaṃ vanathaṃ na kareyya.
‘Abandon one who abandons, do not form a thicket of craving’ means one should abandon one who abandons oneself, and not form a thicket of craving, which is attachment, for that person.
Caje cajantaṃ vanathaṃ na kayirā có nghĩa là: Hãy từ bỏ người từ bỏ mình, đừng tạo sự ràng buộc (vanatha) tức là ái dục đối với người ấy.
Apetacittenāti vigatacittena vipallatthacittena.
‘Whose mind has departed’ means with a departed mind, with a distorted mind.
Apetacittena có nghĩa là: với tâm đã lìa bỏ, với tâm đã thay đổi.
Na sambhajeyyāti tathārūpena saddhiṃ na samāgaccheyya.
‘Do not associate’ means one should not come together with such a person.
Na sambhajeyyā có nghĩa là: đừng giao du với người như vậy.
Dijo dumanti yathā sakuṇo pubbe phalitampi rukkhaṃ phale khīṇe ‘‘khīṇaphalo aya’’nti ñatvā taṃ chaḍḍetvā aññaṃ samekkhati pariyesati, evaṃ aññaṃ samekkheyya.
‘As a bird, a tree’ means just as a bird, having known a tree, even one that bore fruit before, to be ‘barren of fruit’ when its fruits are exhausted, abandons it and seeks another, so should one seek another.
Dijo dumaṃ có nghĩa là: Như con chim, khi biết cây đã từng có trái nay đã hết trái, liền bỏ nó đi tìm cây khác, cũng vậy, hãy tìm kiếm nơi khác.
Mahā hi esa loko, atha tumhe sasnehaṃ ekaṃ purisaṃ labhissathāti.
For this world is vast, and you will find a loving person.
Vì thế giới này rộng lớn, vậy các vị sẽ tìm được một người có lòng yêu thương.
1227
Taṃ sutvā bārāṇasirājā deviyā sabbissariyaṃ adāsi.
Hearing that, the king of Bārāṇasī granted the queen full authority.
Nghe vậy, vua Bārāṇasī đã trao toàn bộ quyền hành cho hoàng hậu.
Tato paṭṭhāya samaggā sammodamānā vasiṃsu.
From then on, they lived in harmony and joy.
Từ đó trở đi, họ sống hòa thuận và vui vẻ.
1228
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne dve jayampatikā sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse and revealed the Truths, concluded the Jātaka. At the end of the Truths, the two spouses were established in the fruit of stream-entry.
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này, công bố các chân lý, và kết nối bổn sanh (Jātaka), sau khi các chân lý được công bố, hai vợ chồng đã an trú vào quả vị Dự Lưu.
‘‘Tadā jayampatikā ime dve jayampatikā ahesuṃ, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the spouses were these two spouses; the wise minister was I myself.”
“Khi ấy, hai vợ chồng này chính là hai vợ chồng hiện tại, còn vị đại thần hiền trí chính là Ta.”
1229
Puṭabhattajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third, the Story of the Puṭabhatta Jātaka.
Chuyện Puṭabhattajātakavaṇṇanā thứ ba.
1230
* 4. Kumbhilajātakavaṇṇanā
* 4. Story of the Kumbhīla Jātaka
* 4. Chuyện Kumbhilajātakavaṇṇanā
1231
Yassete caturo dhammāti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
“He in whom these four qualities” – this the Teacher related while dwelling in Veḷuvana, concerning Devadatta.
Yassete caturo dhammā (Bốn pháp này nơi ai) – Đức Bổn Sư đã kể chuyện này khi ngự tại Veluvana, liên quan đến Devadatta.
1232
147.
147.
147.
1233
‘‘Yassete caturo dhammā, vānarinda yathā tava;
“He in whom these four qualities, O chief of monkeys, as in you,
“Này vua khỉ, bốn pháp này nơi ai,
1234
Saccaṃ dhammo dhiti cāgo, diṭṭhaṃ so ativattati.
Truth, Dhamma, fortitude, and generosity—he overcomes what is seen.
Sự thật, Dhamma, kiên trì, từ bỏ, người ấy vượt qua điều đã thấy.
1235
148.
148.
148.
1236
‘‘Yassa cete na vijjanti, guṇā paramabhaddakā;
“And he in whom these qualities, most excellent, are not found,
Và nơi ai không có những đức tính tối thượng này,
1237
Saccaṃ dhammo dhiti cāgo, diṭṭhaṃ so nātivattatī’’ti.
Truth, Dhamma, fortitude, and generosity—he does not overcome what is seen.”
Sự thật, Dhamma, kiên trì, từ bỏ, người ấy không vượt qua điều đã thấy.”
1238
Tattha guṇā paramabhaddakāti yassa ete paramabhaddakā cattāro rāsaṭṭhena piṇḍaṭṭhena guṇā na vijjanti, so paccāmittaṃ atikkamituṃ na sakkotīti.
Therein, qualities of the highest excellence means that if one does not possess these four qualities of the highest excellence, in the sense of accumulation and collection, one cannot overcome one's enemies.
Trong đó, guṇā paramabhaddakā có nghĩa là: Nơi ai không có bốn đức tính tối thượng này, tức là các đức tính được tập hợp và tích lũy, người ấy không thể vượt qua kẻ thù.
Sesamettha sabbaṃ heṭṭhā kumbhilajātake vuttanayameva saddhiṃ samodhānenāti.
All the rest here is in the same manner as stated below in the Kumbhīlajātaka, including the connection.
Phần còn lại ở đây đều giống như đã được kể trong chuyện Kumbhilajātaka trước đó, cùng với sự kết nối bổn sanh.
1239
Kumbhilajātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth Commentary on the Kumbhīlajātaka.
Chuyện Kumbhilajātakavaṇṇanā thứ tư.
1240
* 5. Khantivaṇṇajātakavaṇṇanā
* 5. Commentary on the Khantivaṇṇajātaka
* 5. Chuyện Khantivaṇṇajātakavaṇṇanā
1241
Atthi me puriso, devāti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
There is a man of mine, O devas—this the Teacher spoke while dwelling in Jetavana, concerning the King of Kosala.
Atthi me puriso, devā (Tâu Đại vương, thần có một người) – Đức Bổn Sư đã kể chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Tassa kireko bahūpakāro amacco antepure padussi.
It is said that one of his ministers, who was very helpful, committed an offense in the royal harem.
Có một vị đại thần đã từng giúp đỡ nhà vua rất nhiều, nhưng lại phạm tội trong hậu cung.
Rājā ‘‘upakārako me’’ti ñatvāpi adhivāsetvā satthu ārocesi.
The king, knowing him to be "my benefactor," endured it and reported it to the Teacher.
Nhà vua, dù biết “người ấy là ân nhân của ta”, vẫn chịu đựng và trình bày sự việc lên Đức Bổn Sư.
Satthā ‘‘porāṇakarājānopi, mahārāja, evaṃ adhivāsesuṃyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Even former kings, great king, endured such things," and being requested by him, related a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Tâu Đại vương, các vị vua thời xưa cũng đã chịu đựng như vậy,” và theo lời thỉnh cầu của nhà vua, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1242
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente eko amacco tassa antepure padussi, amaccassāpi sevako tassa gehe padussi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, a minister of his committed an offense in the royal harem, and the minister's own servant committed an offense in his house.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, có một vị đại thần phạm tội trong hậu cung của nhà vua, và một người hầu của vị đại thần ấy cũng phạm tội trong nhà của vị đại thần.
So tassa aparādhaṃ adhivāsetuṃ asakkonto taṃ ādāya rañño santikaṃ gantvā ‘‘deva, eko me upaṭṭhāko sabbakiccakārako, so mayhaṃ gehe padussi, tassa kiṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Unable to endure his offense, the minister took him and went to the king, asking, "Deva, I have a servant who performs all my duties, but he committed an offense in my house. What should be done to him?"—thus he spoke the first verse:
Vì không thể chịu đựng được lỗi lầm của người hầu, vị đại thần đã dẫn người ấy đến gặp nhà vua và hỏi: “Tâu Đại vương, thần có một người hầu luôn làm mọi việc cho thần, nhưng người ấy đã phạm tội trong nhà thần, nên làm gì với người ấy ạ?” Vừa hỏi, vị ấy vừa nói bài kệ đầu tiên –
1243
149.
149.
149.
1244
‘‘Atthi me puriso deva, sabbakiccesu byāvaṭo;
"There is a man of mine, O deva, diligent in all duties;
“Tâu Đại vương, thần có một người,
1245
Tassa cekoparādhatthi, tattha tvaṃ kinti maññasī’’ti.
If he commits one offense, what do you think about it?"
Luôn bận rộn mọi công việc. Nếu người ấy có một lỗi lầm, Đại vương nghĩ sao về việc đó?”
1246
Tattha tassa cekoparādhatthīti tassa ca purisassa eko aparādho atthi.
Therein, if he commits one offense means if that man commits one offense.
Trong đó, tassa cekoparādhatthī có nghĩa là: người hầu ấy có một lỗi lầm.
Tattha tvaṃ kinti maññasīti tattha tassa purisassa aparādhe tvaṃ ‘‘kiṃ kātabba’’nti maññasi, yathā te cittaṃ uppajjati, tadanurūpamassa daṇḍaṃ paṇehīti dīpeti.
What do you think about it? means, regarding that man's offense, "What should be done?"—whatever thought arises in your mind, impose a penalty on him accordingly, so it indicates.
Tattha tvaṃ kinti maññasī có nghĩa là: về lỗi lầm của người hầu ấy, Đại vương nghĩ “nên làm gì?”; tùy theo ý nghĩ của Đại vương, hãy ra hình phạt tương ứng cho người ấy.
1247
Taṃ sutvā rājā dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the king spoke the second verse:
Nghe vậy, nhà vua nói bài kệ thứ hai –
1248
150.
150.
150.
1249
‘‘Amhākampatthi puriso, ediso idha vijjati;
"We also have such a man found here;
“Chúng ta cũng có một người như vậy hiện hữu ở đây;
1250
Dullabho aṅgasampanno, khantirasmāka ruccatī’’ti.
One endowed with all qualities is rare; patience is pleasing to us."
Người đầy đủ các đức tính thì hiếm có, nên chúng ta ưa thích sự nhẫn nại.”
1251
Tassattho – amhākampi rājūnaṃ sataṃ ediso bahūpakāro agāre dussanakapuriso atthi, so ca kho idha vijjati, idānipi idheva saṃvijjati, mayaṃ rājānopi samānā tassa bahūpakārataṃ sandhāya adhivāsema, tuyhaṃ pana araññopi sato adhivāsanabhāro jāto.
Its meaning is: Even we kings have such a very helpful man who commits an offense in the house, and he is found right here, existing even now. We, being kings, endure it out of consideration for his great helpfulness. But for you, even though you are in the forest, the burden of endurance has arisen.
Ý nghĩa là: Ngay cả chúng ta, những vị vua, cũng có một người như vậy, một người giúp đỡ nhiều nhưng lại phạm lỗi trong nhà, và người ấy vẫn hiện hữu ở đây, ngay bây giờ. Chúng ta, dù là vua, cũng chịu đựng lỗi lầm của người ấy vì sự giúp đỡ to lớn của người ấy. Còn đối với ngươi, dù ở trong rừng, cũng đã đến lúc phải chịu đựng. Một người đầy đủ mọi phẩm chất thì hiếm có, vì lý do đó, trong những trường hợp như vậy, chúng ta ưa thích sự nhẫn nại.
Aṅgasampanno hi sabbehi guṇakoṭṭhāsehi samannāgato puriso nāma dullabho, tena kāraṇena asmākaṃ evarūpesu ṭhānesu adhivāsanakhantiyeva ruccatīti.
Indeed, a man endowed with all qualities, possessing all excellent virtues, is rare. For that reason, in such situations, patience in enduring is pleasing to us.
Người có đầy đủ mọi phẩm chất thì hiếm có, vì lý do đó, trong những trường hợp như vậy, chúng ta ưa thích sự nhẫn nại.
1252
Amacco attānaṃ sandhāya rañño vuttabhāvaṃ ñatvā tato paṭṭhāya antepure padussituṃ na visahi, sopissa sevako rañño ārocitabhāvaṃ ñatvā tato paṭṭhāya taṃ kammaṃ kātuṃ na visahi.
The minister, realizing that the king's words referred to himself, dared not commit offenses in the royal harem from that time on. And his servant, knowing that the matter had been reported to the king, dared not commit that act from that time on.
Vị đại thần, biết rằng nhà vua nói về mình, từ đó trở đi không dám phạm tội trong hậu cung nữa. Người hầu của vị ấy, biết rằng sự việc đã được trình lên nhà vua, từ đó trở đi cũng không dám làm việc đó nữa.
1253
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā ahameva bārāṇasirājā ahosi’’nti.
The Teacher, having delivered this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, I myself was the King of Bārāṇasī."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp này và kết nối bổn sanh – “Khi ấy, chính Ta là vua Bārāṇasī.”
Sopi amacco rañño satthu kathitabhāvaṃ ñatvā tato paṭṭhāya taṃ kammaṃ kātuṃ nāsakkhīti.
And that minister, knowing that the king had spoken to the Teacher, was unable to commit that act from that time on.
Vị đại thần ấy, biết rằng nhà vua đã kể chuyện cho Đức Bổn Sư, từ đó trở đi cũng không dám làm việc đó nữa.
1254
Khantivaṇṇajātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth Commentary on the Khantivaṇṇajātaka.
Chuyện Khantivaṇṇajātakavaṇṇanā thứ năm.
1255
* 6. Kosiyajātakavaṇṇanā
* 6. Commentary on the Kosiyajātaka
* 6. Chuyện Kosiyajātakavaṇṇanā
1256
Kāle nikkhamanā sādhūti idaṃ satthā jetavane viharanto kosalarājānaṃ ārabbha kathesi.
Departure at the right time is good—this the Teacher spoke while dwelling in Jetavana, concerning the King of Kosala.
Kāle nikkhamanā sādhū (Rời đi đúng lúc là tốt) – Đức Bổn Sư đã kể chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến vua Kosala.
Kosalarājā paccantavūpasamanatthāya akāle nikkhami.
The King of Kosala departed at an improper time to pacify the border regions.
Vua Kosala đã xuất quân không đúng lúc để dẹp yên biên giới.
Vatthu heṭṭhā vuttanayameva.
The story is the same as stated below.
Sự việc này đã được kể theo cách tương tự ở phần trước.
1257
Satthā pana atītaṃ āharitvā āha – ‘‘mahārāja, atīte bārāṇasirājā akāle nikkhamitvā uyyāne khandhāvāraṃ nivesayi.
However, the Teacher, relating a past event, said: "Great king, in the past, the King of Bārāṇasī departed at an improper time and set up camp in a park.
Đức Bổn Sư đã kể lại câu chuyện quá khứ rằng: “Tâu Đại vương, trong quá khứ, vua Bārāṇasī đã xuất quân không đúng lúc và đóng trại trong vườn.
Tasmiṃ kāle eko ulūkasakuṇo veḷugumbaṃ pavisitvā nilīyi.
At that time, an owl entered a bamboo thicket and hid.
Lúc đó, một con cú (ulūkasakuṇo) đã chui vào bụi tre và ẩn nấp.
Kākasenā āgantvā ‘nikkhantameva taṃ gaṇhissāmā’’’ti parivāresi.
A flock of crows came and surrounded it, saying, 'We will seize it when it comes out!'
Đàn quạ đến bao vây, nói: ‘Chúng ta sẽ bắt nó khi nó ra ngoài!’”
So sūriyatthaṅgamanaṃ anoloketvā akāleyeva nikkhamitvā palāyituṃ ārabhi.
Without waiting for the sunset, it departed at an improper time and began to flee.
Con cú không đợi mặt trời lặn, đã xuất hiện không đúng lúc và bắt đầu bỏ chạy.
Atha naṃ kākā parivāretvā tuṇḍehi koṭṭentā paripātesuṃ.
Then the crows surrounded it and struck it with their beaks, causing it to fall.
Thế là đàn quạ bao vây nó và mổ nó cho đến chết.
Rājā bodhisattaṃ āmantetvā ‘‘kiṃ nu kho, paṇḍita, ime kākā kosiyaṃ paripātentī’’ti pucchi.
The king addressed the Bodhisatta, asking, 'Why, O wise one, are these crows making the owl fall?'
Nhà vua gọi Bồ tát đến và hỏi: “Này hiền sĩ, tại sao những con quạ này lại đánh chết con cú?”
Bodhisatto ‘‘akāle, mahārāja, attano vasanaṭṭhānā nikkhamantā evarūpaṃ dukkhaṃ paṭilabhantiyeva, tasmā akāle attano vasanaṭṭhānā nikkhamituṃ na vaṭṭatī’’ti imamatthaṃ pakāsento imaṃ gāthādvayamāha –
The Bodhisatta, explaining this matter, said, 'Great king, those who depart from their dwelling place at an improper time indeed experience such suffering; therefore, one should not depart from one's dwelling place at an improper time'—thus he spoke these two verses:
Bồ tát nói: “Tâu Đại vương, những kẻ rời khỏi nơi ở của mình không đúng lúc thì phải chịu khổ như vậy. Vì vậy, không nên rời khỏi nơi ở của mình không đúng lúc,” và để làm rõ ý nghĩa này, Ngài đã nói hai bài kệ sau –
1258
151.
151.
151.
1259
‘‘Kāle nikkhamanā sādhu, nākāle sādhu nikkhamo;
“Going forth at the right time is good; going forth at the wrong time is not good;
“Rời đi đúng lúc là tốt, rời đi không đúng lúc là không tốt;
1260
Akālena hi nikkhamma, ekakampi bahujjano;
For having gone forth at the wrong time, even a multitude of people, being alone,
Vì khi rời đi không đúng lúc, một người duy nhất cũng bị nhiều người;
1261
Na kiñci atthaṃ joteti, dhaṅkasenāva kosiyaṃ.
accomplishes nothing, just like a flock of crows against an owl.
Không đạt được bất cứ lợi ích gì, như con cú bị đàn quạ.”
1262
152.
152.
152.
1263
‘‘Dhīro ca vidhividhānaññū, paresaṃ vivarānugū;
But a wise one, knowing the proper method and the weaknesses of others,
“Người trí, thông hiểu phương pháp, dò xét kẽ hở của kẻ khác;
1264
Sabbāmitte vasīkatvā, kosiyova sukhī siyā’’ti.
having brought all enemies under control, would be happy like an owl.”
Chế ngự mọi kẻ thù, sẽ được hạnh phúc như con cú.”
1265
Tattha kāle nikkhamanā sādhūti, mahārāja, nikkhamanā nāma nikkhamanaṃ vā parakkamanaṃ vā yuttapayuttakāle sādhu.
Therein, kāle nikkhamanā sādhu means, great king, going forth or venturing forth is good at the appropriate time.
Trong đó, kāle nikkhamanā sādhū có nghĩa là: Tâu Đại vương, sự rời đi, tức là sự xuất hành hay sự hành động, là tốt khi đúng lúc và phù hợp.
Nākāle sādhu nikkhamoti akāle pana attano vasanaṭṭhānato aññattha gantuṃ nikkhamo nāma nikkhamanaṃ vā parakkamanaṃ vā na sādhu.
Nākāle sādhu nikkhamo means, but going forth or venturing forth from one's dwelling place to another at the wrong time is not good.
Nākāle sādhu nikkhamo có nghĩa là: Còn sự rời đi, tức là sự xuất hành hay sự hành động, để đến nơi khác từ chỗ ở của mình không đúng lúc thì không tốt.
‘‘Akālena hī’’tiādīsu catūsu padesu paṭhamena saddhiṃ tatiyaṃ, dutiyena catutthaṃ yojetvā evaṃ attho veditabbo.
In “akālena hī” and so forth, in these four phrases, the first should be combined with the third, and the second with the fourth, and the meaning should be understood thus:
Trong bốn phần “Akālena hī” và tiếp theo, cần kết hợp phần thứ nhất với phần thứ ba, phần thứ hai với phần thứ tư để hiểu ý nghĩa như sau:
Attano vasanaṭṭhānato hi koci puriso akālena nikkhamitvā vā parakkamitvā vā na kiñci atthaṃ joteti, attano appamattakampi vuḍḍhiṃ uppādetuṃ na sakkoti, atha kho ekakampi bahujjano bahupi so paccatthikajano etaṃ akāle nikkhamantaṃ vā parakkamantaṃ vā ekakaṃ parivāretvā mahāvināsaṃ pāpeti.
Indeed, if a person goes forth or ventures forth from his dwelling place at the wrong time, na kiñci atthaṃ joteti, he cannot bring about even a small increase for himself; rather, ekakampi bahujjano, a multitude of enemies, surrounding him alone, who has gone forth or ventured forth at the wrong time, brings him to great ruin.
Quả thật, một người nào đó rời khỏi hoặc hành động từ nơi ở của mình không đúng lúc thì na kiñci atthaṃ joteti, không thể tạo ra dù chỉ một chút tăng trưởng cho bản thân, mà ekakampi bahujjano nhiều kẻ thù sẽ bao vây người ấy, dù chỉ một mình, khi người ấy rời đi hoặc hành động không đúng lúc, và gây ra sự hủy diệt lớn.
Tatrāyaṃ upamā – dhaṅkasenāva kosiyaṃ, yathā ayaṃ dhaṅkasenā imaṃ akāle nikkhamantañca parakkamantañca kosiyaṃ tuṇḍehi vitudanti mahāvināsaṃ pāpenti, tathā tasmā tiracchānagate ādiṃ katvā kenaci akāle attano vasanaṭṭhānato na nikkhamitabbaṃ na parakkamitabbanti.
Here is the simile: dhaṅkasenāva kosiyaṃ, just as this flock of crows pecks with their beaks and brings great ruin to this owl that goes forth and ventures forth at the wrong time, so too, starting with animals, no one should go forth or venture forth from their dwelling place at the wrong time.
Đây là một ví dụ – như bầy quạ đối với cú, giống như bầy quạ này, chúng mổ bằng mỏ con cú này, kẻ xuất hiện và hành động sai thời điểm, khiến nó chịu sự hủy diệt lớn. Tương tự, bắt đầu từ loài súc sinh, không ai nên xuất hiện hay hành động sai thời điểm từ nơi cư ngụ của mình.
1266
Dutiyagāthāya dhīroti paṇḍito.
In the second verse, dhīro means a wise one.
Trong bài kệ thứ hai, dhīro (người trí) nghĩa là paṇḍito (người hiền trí).
Vidhīti porāṇakapaṇḍitehi ṭhapitapaveṇī.
Vidhī means the tradition established by ancient wise ones.
Vidhī (phép tắc) nghĩa là truyền thống do các bậc hiền trí thời xưa thiết lập.
Vidhānanti koṭṭhāso vā saṃvidahanaṃ vā.
Vidhānaṃ means a part or a disposition.
Vidhāna (sắp đặt) nghĩa là một phần hoặc sự sắp xếp.
Vivarānugūti vivaraṃ anugacchanto jānanto.
Vivarānugū means one who follows and knows the weaknesses.
Vivarānugū (người biết điểm yếu) nghĩa là người theo dõi và biết được điểm yếu.
Sabbāmitteti sabbe amitte.
Sabbāmitte means all enemies.
Sabbāmitte (tất cả kẻ thù) nghĩa là tất cả kẻ thù.
Vasīkatvāti attano vase katvā.
Vasīkatvā means having brought under one's control.
Vasīkatvā (chế ngự) nghĩa là làm cho nằm dưới quyền kiểm soát của mình.
Kosiyovāti imamhā bālakosiyā añño paṇḍitakosiyo viya.
Kosiyovā means like another wise owl, distinct from this young owl.
Kosiyovā (như con cú) nghĩa là như một con cú khôn ngoan khác, không phải con cú dại này.
Idaṃ vuttaṃ hoti – yo ca kho paṇḍito ‘‘imasmiṃ kāle nikkhamitabbaṃ parakkamitabbaṃ, imasmiṃ na nikkhamitabbaṃ na parakkamitabba’’nti porāṇakapaṇḍitehi ṭhapitassa paveṇisaṅkhātassa vidhino koṭṭhāsasaṅkhātaṃ vidhānaṃ vā tassa vā vidhino vidhānaṃ saṃvidahanaṃ anuṭṭhānaṃ jānāti, so vidhividhānaññū paresaṃ attano paccāmittānaṃ vivaraṃ ñatvā yathā nāma paṇḍito kosiyo rattisaṅkhāte attano kāle nikkhamitvā ca parakkamitvā ca tattha tattha sayitānaññeva kākānaṃ sīsāni chindamāno te sabbe amitte vasīkatvā sukhī siyā, evaṃ dhīropi kāle nikkhamitvā parakkamitvā attano paccāmitte vasīkatvā sukhī niddukkho bhaveyyāti.
This is what is meant: He who is wise knows the disposition, which is a part of the tradition established by ancient wise ones, or the arrangement and practice of that method, regarding “at this time one should go forth and venture forth, at this time one should not go forth and venture forth.” Such a wise one, knowing the weaknesses of his enemies, just as a wise owl, going forth and venturing forth at its own time, which is night, cutting off the heads of crows sleeping here and there, brings all those enemies under control and becomes happy, so too, a wise one, going forth and venturing forth at the right time, brings his enemies under control and becomes happy and free from suffering.
Điều này có nghĩa là: Bất cứ ai là người hiền trí, biết được sự sắp đặt (vidhāna) hay sự thực hành (saṃvidahana) của phép tắc (vidhi) do các bậc hiền trí thời xưa thiết lập, rằng “nên xuất hiện và hành động vào lúc này, không nên xuất hiện và hành động vào lúc kia,” người ấy là người hiểu rõ phép tắc và sự sắp đặt. Người ấy, sau khi biết được điểm yếu của kẻ thù, như một con cú khôn ngoan xuất hiện và hành động vào thời điểm của mình, tức là ban đêm, và chặt đầu những con quạ đang ngủ ở đó đây, chế ngự tất cả kẻ thù đó và sống an lạc. Tương tự, người trí cũng nên xuất hiện và hành động đúng thời điểm, chế ngự kẻ thù của mình và sống an lạc, không đau khổ.
Rājā bodhisattassa vacanaṃ sutvā nivatti.
The king, having heard the Bodhisatta's words, turned back.
Vua nghe lời Bồ Tát thì quay trở lại.
1267
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā ānando ahosi, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the king was Ānanda, and the wise minister was myself.”
Đức Phật, sau khi thuyết pháp xong, đã kết nối câu chuyện Jātaka này – “Khi ấy, vị vua là Ānanda, còn vị đại thần hiền trí chính là Ta.”
1268
Kosiyajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The sixth commentary on the Kosiyajātaka is finished.
Câu chuyện Jātaka về con cú, thứ sáu.
1269
* 7. Gūthapāṇajātakavaṇṇanā
* 7. Commentary on the Gūthapāṇajātaka
* 7. Câu chuyện Jātaka về loài côn trùng ăn phân
1270
Sūro sūrena saṅgammāti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Sūro sūrena saṅgammā (A hero, having met a hero)—This the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain bhikkhu.
Kẻ dũng mãnh gặp kẻ dũng mãnh – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-kheo nọ.
Tasmiṃ kira kāle jetavanato tigāvutaḍḍhayojanamatte eko nigamagāmo, tattha bahūni salākabhattapakkhiyabhattāni atthi.
At that time, there was a market village about three and a half yojanas from Jetavana, where there were many meals by ticket and meals for the fortnight.
Vào thời điểm đó, có một ngôi làng cách Jetavana khoảng ba gāvuta rưỡi dojana, nơi có nhiều bữa ăn theo phiếu (salākabhatta) và bữa ăn theo kỳ (pakkhiyabhatta).
Tatreko pañhapucchako koṇḍo vasati.
There lived a questioner named Koṇḍa.
Ở đó có một người đàn ông tên Koṇḍa, chuyên hỏi những câu đố.
So salākabhattapakkhiyabhattānaṃ atthāya āgate dahare ca sāmaṇere ca ‘‘ke khādanti, ke pivanti, ke bhuñjantī’’ti pañhaṃ pucchitvā kathetuṃ asakkonte lajjāpesi.
He would ask young bhikkhus and sāmaṇeras who came for the ticket meals and fortnightly meals, “Who eats? Who drinks? Who consumes?” and would shame those who could not answer.
Ông ta thường hỏi các Tỳ-kheo trẻ và Sa-di đến để nhận bữa ăn theo phiếu và bữa ăn theo kỳ những câu hỏi như “Ai ăn? Ai uống? Ai thọ thực?” và làm cho họ xấu hổ khi họ không thể trả lời.
Te tassa bhayena salākabhattapakkhiyabhattatthāya taṃ gāmaṃ na gacchanti.
Out of fear of him, they would not go to that village for the ticket meals and fortnightly meals.
Vì sợ ông ta, không ai dám đến làng đó để nhận bữa ăn theo phiếu và bữa ăn theo kỳ.
Athekadivasaṃ eko bhikkhu salākaggaṃ gantvā ‘‘bhante, asukagāme salākabhattaṃ vā pakkhiyabhattaṃ vā atthī’’ti pucchitvā ‘‘atthāvuso, tattha paneko koṇḍo pañhaṃ pucchati, taṃ kathetuṃ asakkonte akkosati paribhāsati, tassa bhayena koci gantuṃ na sakkotī’’ti vutte ‘‘bhante, tattha bhattāni mayhaṃ pāpetha, ahaṃ taṃ dametvā nibbisevanaṃ katvā tato paṭṭhāya tumhe disvā palāyanakaṃ karissāmī’’ti āha.
Then one day, a certain bhikkhu went to the hall for distribution of tickets and asked, "Venerable sirs, is there ticket-food or fortnightly-food in such-and-such a village?" When told, "Yes, friend, but there is a certain Koṇḍa there who asks questions, and if one cannot answer him, he abuses and reviles them. No one can go there for fear of him," the bhikkhu said, "Venerable sirs, send the alms-food there for me. I will tame him, make him harmless, and from then on, he will flee upon seeing you."
Một ngày nọ, một Tỳ-kheo đến nơi phát phiếu và hỏi: “Bạch chư Tôn giả, có bữa ăn theo phiếu hay bữa ăn theo kỳ ở làng nọ không?” Khi được trả lời: “Thưa Đại đức, có, nhưng có một người đàn ông tên Koṇḍa ở đó chuyên hỏi câu đố, và ông ta mắng nhiếc, chửi bới những ai không thể trả lời. Vì sợ ông ta, không ai dám đi,” vị Tỳ-kheo đó nói: “Bạch chư Tôn giả, xin hãy đưa bữa ăn đến cho con ở đó. Con sẽ chế ngự ông ta, làm cho ông ta không còn quấy rầy nữa, và từ đó trở đi, ông ta sẽ chạy trốn mỗi khi thấy chư Tôn giả.”
Bhikkhū ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tassa tattha bhattāni pāpesuṃ.
The bhikkhus assented, saying, "Very well," and sent the alms-food there for him.
Chư Tỳ-kheo đồng ý và đưa bữa ăn đến cho vị Tỳ-kheo đó ở làng ấy.
1271
So tattha gantvā gāmadvāre cīvaraṃ pārupi.
He went there and donned his robes at the village gate.
Vị Tỳ-kheo đến đó và khoác y ở cổng làng.
Taṃ disvā koṇḍo caṇḍameṇḍako viya vegena upagantvā ‘‘pañhaṃ me, samaṇa, kathehī’’ti āha.
Seeing him, Koṇḍa approached swiftly like a fierce ram and said, "Answer my question, ascetic!"
Thấy vậy, Koṇḍa chạy đến nhanh như một con cừu đực hung dữ và nói: “Này Sa-môn, hãy trả lời câu đố của ta!”
‘‘Upāsaka, gāme caritvā yāguṃ ādāya āsanasālaṃ tāva me āgantuṃ dehī’’ti.
"Lay follower, let me first go through the village, get some gruel, and come to the assembly hall."
Vị Tỳ-kheo đáp: “Này cư sĩ, xin hãy cho tôi vào làng, lấy cháo và đến sảnh ngồi trước đã.”
So yāguṃ ādāya āsanasālaṃ āgatepi tasmiṃ tatheva āha.
Even when he had brought the gruel and arrived at the assembly hall, the other spoke to him in the same way.
Khi vị Tỳ-kheo đã lấy cháo và đến sảnh ngồi, Koṇḍa vẫn nói như vậy.
Sopi naṃ bhikkhu ‘‘yāguṃ tāva me pātuṃ dehi, āsanasālaṃ tāva sammajjituṃ dehi, salākabhattaṃ tāva me āharituṃ dehī’’ti vatvā salākabhattaṃ āharitvā tameva pattaṃ gāhāpetvā ‘‘ehi, pañhaṃ te kathessāmī’’ti bahigāmaṃ netvā cīvaraṃ saṃharitvā aṃse ṭhapetvā tassa hatthato pattaṃ gahetvā aṭṭhāsi.
The bhikkhu said to him, "First let me drink the gruel, then let me sweep the assembly hall, then let me bring the ticket-food." After saying this and having the ticket-food brought, he made the man hold his bowl and said, "Come, I will answer your question," leading him outside the village. He then folded his robe, placed it on his shoulder, took the bowl from the man's hand, and stood there.
Vị Tỳ-kheo nói với ông ta: “Xin hãy cho tôi uống cháo trước, xin hãy cho tôi quét dọn sảnh ngồi trước, xin hãy cho tôi mang bữa ăn theo phiếu đến trước.” Sau khi nói vậy, vị Tỳ-kheo mang bữa ăn theo phiếu đến, bảo Koṇḍa cầm bát đó, và nói: “Này, tôi sẽ trả lời câu đố của ông.” Rồi dẫn ông ta ra ngoài làng, thu xếp y và đặt lên vai, cầm bát từ tay ông ta và đứng đó.
Tatrāpi naṃ so ‘‘samaṇa, pañhaṃ me kathehī’’ti āha.
There too, the man said to him, "Ascetic, answer my question!"
Ở đó, Koṇḍa lại nói: “Này Sa-môn, hãy trả lời câu đố của ta!”
Atha naṃ ‘‘kathemi te pañha’’nti ekappahāreneva pātetvā aṭṭhīni saṃcuṇṇento viya pothetvā gūthaṃ mukhe pakkhipitvā ‘‘ito dāni paṭṭhāya imaṃ gāmaṃ āgataṃ kañci bhikkhuṃ pañhaṃ pucchitakāle jānissāmī’’ti santajjetvā pakkāmi.
Then the bhikkhu, saying, "I will answer your question," knocked him down with a single blow, thrashed him as if crushing his bones, put excrement in his mouth, and threatened him, "From now on, I will know if you ask any bhikkhu who comes to this village a question!" and departed.
Thế rồi, vị Tỳ-kheo nói: “Tôi sẽ trả lời câu đố của ông!” và đánh ông ta một đòn duy nhất khiến ông ta ngã xuống, đấm đá như muốn nghiền nát xương cốt, nhét phân vào miệng ông ta và đe dọa: “Từ nay trở đi, ta sẽ biết nếu ngươi dám hỏi bất kỳ Tỳ-kheo nào đến làng này!” Rồi vị Tỳ-kheo bỏ đi.
So tato paṭṭhāya bhikkhū disvāva palāyati.
From then on, he would flee whenever he saw bhikkhus.
Từ đó trở đi, ông ta cứ thấy các Tỳ-kheo là chạy trốn.
Aparabhāge tassa bhikkhuno sā kiriyā bhikkhusaṅghe pākaṭā jātā.
Later, this bhikkhu's action became known in the community of bhikkhus.
Sau đó, hành động của vị Tỳ-kheo đó đã được biết đến trong Tăng đoàn.
Athekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asukabhikkhu kira koṇḍassa mukhe gūthaṃ pakkhipitvā gato’’ti.
Then one day, in the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion: "Friends, it seems that such-and-such a bhikkhu put excrement in Koṇḍa's mouth and left."
Thế rồi, một ngày nọ, trong Pháp đường, các Tỳ-kheo bắt đầu bàn tán: “Thưa chư Đại đức, nghe nói vị Tỳ-kheo nọ đã nhét phân vào miệng Koṇḍa rồi bỏ đi.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, so bhikkhu idāneva taṃ mīḷhena āsādeti, pubbepi āsādesiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what is the topic of discussion you are sitting together for now?" When told, "This is it, venerable sir," he said, "Bhikkhus, that bhikkhu did not only now offend him with excrement; he offended him in the past as well," and recounted a past event.
Đức Phật đến và hỏi: “Này chư Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi lại bàn luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn luận về chuyện này,” Đức Phật nói: “Này chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo đó không phải chỉ bây giờ mới làm nhục ông ta bằng phân, mà ngay cả trước đây cũng đã làm nhục ông ta rồi.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1272
Atīte aṅgamagadhavāsino aññamaññassa raṭṭhaṃ gacchantā ekadivasaṃ dvinnaṃ raṭṭhānaṃ sīmantare ekaṃ saraṃ nissāya vasitvā suraṃ pivitvā macchamaṃsaṃ khāditvā pātova yānāni yojetvā pakkamiṃsu.
In the past, people from Aṅga and Magadha, traveling to each other's countries, stayed one day near a lake on the border between the two countries. They drank liquor, ate fish and meat, yoked their carts early in the morning, and departed.
Thuở xưa, những người dân xứ Aṅga và Magadha, khi đi từ quốc gia này sang quốc gia khác, một ngày nọ đã trú lại bên một hồ nước ở biên giới hai quốc gia, uống rượu và ăn thịt cá, rồi sáng sớm hôm sau buộc xe và lên đường.
Tesaṃ gatakāle eko gūthakhādako pāṇako gūthagandhena āgantvā tesaṃ pītaṭṭhāne chaḍḍitaṃ suraṃ disvā pipāsāya pivitvā matto hutvā gūthapuñjaṃ abhiruhi, allagūthaṃ tasmiṃ āruḷhe thokaṃ onami.
When they had gone, a dung-eating creature, attracted by the smell of dung, came and, seeing the liquor discarded where they had drunk, drank it out of thirst. Becoming intoxicated, it climbed a pile of dung, and when it climbed, the wet dung sank a little.
Sau khi họ đi, một loài côn trùng ăn phân, bị hấp dẫn bởi mùi phân, đến nơi họ đã uống rượu và thấy rượu bị đổ. Vì khát, nó uống rượu và say, rồi trèo lên một đống phân. Đống phân ướt lún xuống một chút khi nó trèo lên.
So ‘‘pathavī maṃ dhāretuṃ na sakkotī’’ti viravi.
It cried out, "The earth cannot bear me!"
Nó kêu lên: “Mặt đất không thể giữ ta!”
Tasmiññeva khaṇe eko mattavaravāraṇo taṃ padesaṃ patvā gūthagandhaṃ ghāyitvā jigucchanto paṭikkami.
At that very moment, a rutting elephant arrived at that spot, smelled the dung, and recoiled in disgust.
Ngay lúc đó, một con voi đực say rượu đến khu vực đó, ngửi thấy mùi phân và kinh tởm lùi lại.
So taṃ disvā ‘‘esa mama bhayena palāyatī’’ti saññī hutvā ‘‘iminā me saddhiṃ saṅgāmaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti taṃ avhayanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Seeing it, the creature thought, "This one is fleeing out of fear of me," and, thinking, "It is proper to fight with this one," it challenged the elephant, speaking the first stanza:
Thấy con voi, loài côn trùng đó nghĩ: “Nó đang chạy trốn vì sợ ta!” và cho rằng “Ta nên chiến đấu với nó!” Nó gọi con voi và nói bài kệ đầu tiên –
1273
153.
153.
153.
1274
‘‘Sūro sūrena saṅgamma, vikkantena pahārinā;
"A hero meeting a hero, valiant and striking;
“Kẻ dũng mãnh gặp kẻ dũng mãnh, với kẻ hùng dũng biết ra đòn;
1275
Ehi nāga nivattassu, kiṃ nu bhīto palāyasi;
Come, O elephant, turn back! Why do you flee in fear?
Này voi, hãy quay lại, sao ngươi lại sợ hãi mà bỏ chạy?
1276
Passantu aṅgamagadhā, mama tuyhañca vikkama’’nti.
Let Aṅga and Magadha behold my valor and yours."
Hãy để dân Aṅga và Magadha chứng kiến sự dũng mãnh của ta và ngươi!”
1277
Tassattho – tvaṃ sūro mayā sūrena saddhiṃ samāgantvā vīriyavikkamena vikkantena pahāradānasamatthatāya pahārinā kiṃkāraṇā asaṅgāmetvāva gacchasi, nanu nāma ekasampahāropi dātabbo siyā, tasmā ehi nāga nivattassu, ettakeneva maraṇabhayatajjito hutvā kiṃ nu bhīto palāyasi, ime imaṃ sīmaṃ antaraṃ katvā vasantā passantu, aṅgamagadhā mama tuyhañca vikkamaṃ ubhinnampi amhākaṃ parakkamaṃ passantūti.
Its meaning is: "You are a hero. Meeting me, a hero, valiant in energy and capable of striking, why do you go without fighting? Should not at least one blow be given? Therefore, come, O elephant, turn back! Why do you flee in fear, terrified by the fear of death? Let these people dwelling on this border behold the valor of both of us, my valor and yours."
Ý nghĩa của câu này là: Ngươi là kẻ dũng mãnh, tại sao lại bỏ đi mà không chiến đấu với ta, kẻ dũng mãnh, kẻ hùng dũng có khả năng ra đòn? Chẳng lẽ không nên ra một đòn sao? Vậy thì, này voi, hãy quay lại! Sao ngươi lại sợ hãi cái chết mà bỏ chạy? Hãy để những người dân Aṅga và Magadha đang sống ở biên giới này chứng kiến sự dũng mãnh của cả hai chúng ta!
1278
So hatthī kaṇṇaṃ datvā tassa vacanaṃ sutvā nivattitvā tassa santikaṃ gantvā taṃ apasādento dutiyaṃ gāthamāha –
That elephant, giving ear, having heard his words, turned back, went to him, disparaging him, spoke the second verse –
Con voi lắng tai nghe lời nó nói, rồi quay lại, đến gần nó và nói bài kệ thứ hai để làm nhục nó –
1279
154.
154.
154.
1280
‘‘Na taṃ pādā vadhissāmi, na dantehi na soṇḍiyā;
“I will not kill you with my feet, nor with my tusks, nor with my trunk;
“Ta sẽ không giết ngươi bằng chân, không bằng ngà, không bằng vòi;
1281
Mīḷhena taṃ vadhissāmi, pūti haññatu pūtinā’’ti.
I will kill you with excrement; let the foul be slain by the foul.”
Ta sẽ giết ngươi bằng phân, hãy để cái thối bị giết bởi cái thối!”
1282
Tassattho – na taṃ pādādīhi vadhissāmi, tuyhaṃ pana anucchavikena mīḷhena taṃ vadhissāmīti.
Its meaning is: I will not kill you with feet and so on, but I will kill you with excrement, which is suitable for you.
Ý nghĩa của câu này là: Ta sẽ không giết ngươi bằng chân hay các thứ khác, nhưng ta sẽ giết ngươi bằng phân, thứ phù hợp với ngươi.
1283
Evañca pana vatvā ‘‘pūtigūthapāṇako pūtināva haññatū’’ti tassa matthake mahantaṃ laṇḍaṃ pātetvā udakaṃ vissajjetvā tattheva taṃ jīvitakkhayaṃ pāpetvā koñcanādaṃ nadanto araññameva pāvisi.
Having said this, “Let the foul dung-worm be slain by the foul,” he dropped a large lump of dung on his head, released water, and there and then brought him to the end of his life, and trumpeting a heron’s cry, entered the forest.
Nói vậy xong, con voi thả một cục phân lớn lên đầu loài côn trùng đó, xả nước tiểu xuống, và ngay tại đó, kết liễu mạng sống của nó, rồi rống lên tiếng kêu của voi và đi vào rừng.
1284
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā gūthapāṇako koṇḍo ahosi, vāraṇo so bhikkhu, taṃ kāraṇaṃ paccakkhato disvā tasmiṃ vanasaṇḍe nivutthadevatā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka – “At that time, the dung-worm was Koṇḍa, the elephant was that bhikkhu, and the deity dwelling in that forest grove, having seen that cause directly, was I myself.”
Đức Phật, sau khi thuyết pháp xong, đã kết nối câu chuyện Jātaka này – “Khi ấy, loài côn trùng ăn phân là Koṇḍa, con voi là vị Tỳ-kheo đó, còn vị thiên nhân trú trong khu rừng đó, người đã tận mắt chứng kiến sự việc, chính là Ta.”
1285
Gūthapāṇajātakavaṇṇanā sattamā.
The seventh, the Gūthapāṇa Jātaka, is concluded.
Câu chuyện Jātaka về loài côn trùng ăn phân, thứ bảy.
1286
* 8. Kāmanītajātakavaṇṇanā
* 8. The Kāmanīta Jātaka
* 8. Câu chuyện Jātaka về Kāmanīta
1287
Tayo girinti idaṃ satthā jetavane viharanto kāmanītabrāhmaṇaṃ nāma ārabbha kathesi.
Tayo giri (Three mountains) – The Teacher, while residing at Jetavana, spoke this in reference to a brāhmaṇa named Kāmanīta.
Ba ngọn núi – Câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một Bà-la-môn tên Kāmanīta.
Vatthu paccuppannañca atītañca dvādasakanipāte kāmajātake (jā. 1.12.37 ādayo) āvibhavissati.
The present and past story will become clear in the Kāma Jātaka (Jā. 1.12.37 onwards) in the Dvādasaka Nipāta.
Câu chuyện hiện tại và quá khứ sẽ được trình bày trong Kāmajātaka (Jā. 1.12.37 trở đi) thuộc tập Dvādasakanipāta.
Tesu pana dvīsu rājaputtesu jeṭṭhako āgantvā bārāṇasiyaṃ rājā ahosi, kaniṭṭho uparājā.
Among those two princes, the elder came and became king in Bārāṇasī, and the younger became viceroy.
Trong số hai vị hoàng tử đó, người anh cả đã đến và trở thành vua ở Bārāṇasī, còn người em là phó vương.
Tesu rājā vatthukāmakilesakāmesu atitto dhanalolo ahosi.
Among them, the king was insatiable with regard to sensual pleasures of objects and defilements, and greedy for wealth.
Trong số đó, vị vua là người tham lam tiền bạc, không bao giờ thỏa mãn với các dục lạc vật chất và dục lạc phiền não.
Tadā bodhisatto sakko devarājā hutvā jambudīpaṃ olokento tassa rañño dvīsupi kāmesu atittabhāvaṃ ñatvā ‘‘imaṃ rājānaṃ niggaṇhitvā lajjāpessāmī’’ti brāhmaṇamāṇavavaṇṇena āgantvā rājānaṃ passi, raññā ca ‘‘kenatthena āgatosi māṇavā’’ti vutte ‘‘ahaṃ, mahārāja, tīṇi nagarāni passāmi khemāni subhikkhāni pahūtahatthiassarathapattīni hiraññasuvaṇṇālaṅkārabharitāni, sakkā ca pana tāni appakeneva balena gaṇhituṃ, ahaṃ te tāni gahetvā dātuṃ āgato’’ti āha.
At that time, the Bodhisatta, having become Sakka, the king of devas, looked over Jambudīpa and, knowing the king’s insatiability in both types of sensual pleasures, thought, “I will restrain this king and make him feel shame.” He came in the guise of a brāhmaṇa youth and saw the king. When the king asked, “For what purpose have you come, youth?” he replied, “Mahārāja, I see three cities that are safe, prosperous, filled with many elephants, horses, chariots, and infantry, and laden with gold, silver, and ornaments. They can be captured with little force, and I have come to capture them and give them to you.”
Lúc bấy giờ, Bồ-tát, là Sakka, vua các cõi trời, nhìn khắp Jambudīpa (Diêm-phù-đề) và biết rằng vị vua ấy không bao giờ thỏa mãn với cả hai loại dục lạc. Ngài nghĩ: “Ta sẽ chế ngự vị vua này và khiến hắn phải hổ thẹn,” rồi Ngài đến dưới hình dạng một thanh niên Bà-la-môn và gặp vua. Khi vua hỏi: “Này thanh niên, ngươi đến vì mục đích gì?”, Ngài đáp: “Thưa Đại vương, tôi thấy ba thành phố an toàn, thịnh vượng, có nhiều voi, ngựa, xe, binh sĩ, đầy ắp vàng bạc châu báu, và có thể chiếm được chúng chỉ với một lực lượng nhỏ. Tôi đến để chiếm lấy và dâng chúng cho ngài.”
‘‘Kadā gacchāma, māṇavā’’ti vutte ‘‘sve mahārājā’’ti.
When asked, “When shall we go, youth?” he said, “Tomorrow, Mahārāja.”
Khi được hỏi: “Khi nào chúng ta sẽ đi, này thanh niên?”, Ngài đáp: “Thưa Đại vương, ngày mai.”
‘‘Tena hi gaccha, pātova āgaccheyyāsī’’ti.
“Then go, you should come early in the morning.”
Vua nói: “Vậy thì hãy đi, và sáng sớm hãy đến.”
‘‘Sādhu, mahārāja, vegena balaṃ sajjehī’’ti vatvā sakko sakaṭṭhānameva gato.
“Very well, Mahārāja, quickly prepare the army,” said Sakka, and he returned to his own abode.
Sakka đáp: “Thưa Đại vương, tốt lắm, hãy nhanh chóng chuẩn bị quân đội,” rồi Ngài trở về chỗ của mình.
1288
Rājā punadivase bheriṃ carāpetvā balasajjaṃ kāretvā amacce pakkosāpetvā hiyyo eko brāhmaṇamāṇavo ‘‘uttarapañcāle indapatte kekaketi imesu tīsu nagaresu rajjaṃ gahetvā dassāmī’’ti āha, taṃ māṇavaṃ ādāya tīsu nagaresu rajjaṃ gaṇhissāma, vegena naṃ pakkosathāti.
The next day, the king had a drum beaten, ordered the army to be prepared, summoned his ministers, and said, “Yesterday, a brāhmaṇa youth said, ‘I will take the kingdom in these three cities—Uttarapañcāla, Indapatta, and Kekaka—and give it to you.’ We shall take the kingdom in these three cities with that youth. Quickly summon him.”
Ngày hôm sau, vua cho đánh trống hiệu, chuẩn bị quân đội, và triệu tập các quan đại thần. Vua nói: “Hôm qua, một thanh niên Bà-la-môn đã nói rằng sẽ chiếm lấy vương quốc ở ba thành phố này là Uttarapañcāla, Indapatta, và Kekaka rồi dâng cho ta. Hãy đưa thanh niên ấy đến để chúng ta chiếm lấy vương quốc ở ba thành phố đó. Hãy triệu tập hắn ngay lập tức.”
‘‘Katthassa, deva, nivāso dāpito’’ti?
“Where, Your Majesty, was his residence provided?”
“Thưa Đại vương, đã cấp chỗ ở cho hắn ở đâu?”
‘‘Na me tassa nivāsagehaṃ dāpita’’nti.
“No residence was provided for him.”
“Ta đã không cấp nhà ở cho hắn.”
‘‘Nivāsaparibbayo pana dinno’’ti?
“Was his travel allowance given?”
“Vậy đã cấp chi phí ăn ở chưa?”
‘‘Sopi na dinno’’ti.
“That too was not given.”
“Cũng chưa cấp.”
Atha ‘‘kahaṃ naṃ passissāmā’’ti?
Then, “Where shall we see him?”
Vậy thì “chúng ta sẽ gặp hắn ở đâu?”
‘‘Nagaravīthīsu olokethā’’ti.
“Look for him in the city streets.”
“Hãy tìm khắp các đường phố trong thành.”
Te olokentā adisvā ‘‘na passāma, mahārājā’’ti āhaṃsu.
They looked but did not see him, and said, “We do not see him, Mahārāja.”
Họ tìm kiếm nhưng không thấy, bèn tâu: “Thưa Đại vương, chúng thần không thấy.”
Rañño māṇavaṃ apassantassa ‘‘evaṃ mahantā nāma issariyā parihīnomhī’’ti mahāsoko udapādi, hadayavatthu uṇhaṃ ahosi, vatthulohitaṃ kuppi, lohitapakkhandikā udapādi, vejjā tikicchituṃ nāsakkhiṃsu.
Great sorrow arose in the king when he did not see the youth, thinking, “I have been deprived of such great power.” His heart became hot, his blood became agitated, and he developed dysentery. The physicians could not cure him.
Khi vua không thấy thanh niên ấy, một nỗi sầu muộn lớn khởi lên: “Ta đã mất đi một quyền lực vĩ đại như vậy!” Tim vua nóng ran, máu trong tim nổi loạn, bệnh kiết lỵ ra máu xuất hiện, các thầy thuốc không thể chữa trị.
1289
Tato tīhacatūhaccayena sakko āvajjamāno tassa taṃ ābādhaṃ ñatvā ‘‘tikicchissāmi na’’nti brāhmaṇavaṇṇena āgantvā dvāre ṭhatvā ‘‘vejjabrāhmaṇo tumhākaṃ tikicchanatthāya āgato’’ti ārocāpesi.
Then, after three or four days, Sakka, reflecting, knew of his illness and thought, “I will cure him.” He came in the guise of a brāhmaṇa and stood at the gate, announcing, “A brāhmaṇa physician has come to treat you.”
Sau ba hoặc bốn ngày, Sakka quán xét và biết được bệnh tình của vua. Ngài nghĩ: “Ta sẽ chữa trị cho hắn,” rồi Ngài đến dưới hình dạng một Bà-la-môn và đứng ở cổng, báo rằng: “Một thầy thuốc Bà-la-môn đã đến để chữa bệnh cho ngài.”
Rājā taṃ sutvā ‘‘mahantamahantā rājavejjā maṃ tikicchituṃ nāsakkhiṃsu, paribbayamassa dāpetvā uyyojethā’’ti āha.
The king, hearing this, said, “Even great royal physicians could not cure me. Give him his travel allowance and send him away.”
Vua nghe vậy, nói: “Những ngự y vĩ đại nhất cũng không chữa được cho ta. Hãy cấp chi phí cho hắn và tiễn hắn đi.”
Sakko taṃ sutvā ‘‘mayhaṃ neva nivāsaparibbayena attho, vejjalābhampi na gaṇhissāmi, tikicchissāmi naṃ, puna rājā maṃ passatū’’ti āha.
Sakka, hearing this, said, “I have no need for residence or travel allowance, nor will I accept a physician’s fee. I will cure him. Let the king see me again.”
Sakka nghe vậy, nói: “Tôi không cần chỗ ở hay chi phí, tôi cũng sẽ không nhận thù lao thầy thuốc. Tôi sẽ chữa bệnh cho ngài, xin vua hãy gặp tôi một lần nữa.”
Rājā taṃ sutvā ‘‘tena hi āgacchatū’’ti āha.
The king, hearing this, said, “Then let him come in.”
Vua nghe vậy, nói: “Vậy thì hãy vào.”
Sakko pavisitvā jayāpetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi, rājā ‘‘tvaṃ maṃ tikicchasī’’ti āha.
Sakka entered, paid his respects, and stood to one side. The king asked, “Will you cure me?”
Sakka bước vào, chào mừng vua và đứng sang một bên. Vua hỏi: “Ngươi sẽ chữa bệnh cho ta ư?”
‘‘Āma, devā’’ti.
“Yes, Your Majesty.”
“Vâng, thưa Đại vương.”
‘‘Tena hi tikicchassū’’ti.
“Then cure me.”
“Vậy thì hãy chữa trị đi.”
‘‘Sādhu, mahārāja, byādhino me lakkhaṇaṃ kathetha, kena kāraṇena uppanno, kiṃ khāditaṃ vā pītaṃ vā nissāya, udāhu diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā’’ti?
“Good, great king, tell me the characteristics of my illness, by what cause it arose, relying on what was eaten or drunk, or on what was seen or heard?”
“Tốt lắm, thưa Đại vương, xin hãy kể cho tôi nghe triệu chứng bệnh của ngài, bệnh phát sinh do nguyên nhân nào, do ăn uống gì, hay do thấy gì, nghe gì?”
‘‘Tāta, mayhaṃ byādhi sutaṃ nissāya uppanno’’ti.
“My son, my illness arose relying on what was heard.”
“Này con, bệnh của ta phát sinh do điều ta đã nghe.”
‘‘Kiṃ te suta’’nti.
“What did you hear?”
“Ngài đã nghe gì?”
‘‘Tāta eko māṇavo āgantvā mayhaṃ ‘tīsu nagaresu rajjaṃ gaṇhitvā dassāmī’ti āha, ahaṃ tassa nivāsaṭṭhānaṃ vā nivāsaparibbayaṃ vā na dāpesiṃ, so mayhaṃ kujjhitvā aññassa rañño santikaṃ gato bhavissati.
“My son, a certain young man came and told me, ‘I will take the kingdom in three cities and give it to you.’ I did not provide him with a dwelling place or living expenses, so he, being angry with me, must have gone to another king.
“Này con, một thanh niên đến nói với ta rằng ‘ta sẽ chiếm lấy vương quốc ở ba thành phố rồi dâng cho ngài.’ Ta đã không cấp chỗ ở hay chi phí ăn ở cho hắn, có lẽ hắn đã giận ta mà đi đến chỗ vị vua khác rồi.
Atha me ‘evaṃ mahantā nāma issariyā parihīnomhī’ti cintentassa ayaṃ byādhi uppanno.
Then, as I was thinking, ‘I am deprived of such great power,’ this illness arose in me.
Rồi khi ta nghĩ ‘ta đã mất đi một quyền lực vĩ đại như vậy,’ bệnh này đã phát sinh.
Sace sakkosi tvaṃ me kāmacittaṃ nissāya uppannaṃ byādhiṃ tikicchituṃ, tikicchāhī’’ti etamatthaṃ pakāsento paṭhamaṃ gāthamāha –
If you are able to cure my illness that arose relying on a mind of craving, then cure it.” Declaring this matter, he spoke the first verse –
Nếu ngươi có thể chữa được bệnh của ta, bệnh phát sinh do tâm dục này, thì hãy chữa đi,” nói rõ điều này, vua đã đọc bài kệ đầu tiên –
1290
155.
155.
155.
1291
‘‘Tayo giriṃ antaraṃ kāmayāmi, pañcālā kuruyo kekake ca;
“I desire the three mountains between, Pañcālā, Kuruyo, and Kekaka;
“Tôi ham muốn ba ngọn núi, Pañcāla, Kuru, và Kekaka;
1292
Tatuttariṃ brāhmaṇa kāmayāmi, tikiccha maṃ brāhmaṇa kāmanīta’’nti.
Beyond that, brahmin, I desire; cure me, brahmin, who is led by craving.”
Hơn thế nữa, này Bà-la-môn, tôi ham muốn, hãy chữa cho tôi, này Bà-la-môn, người bị dục vọng dẫn dắt.”
1293
Tattha tayo girinti tayo girī, ayameva vā pāṭho.
Here, tayo giriṃ means three mountains, or this is the reading itself.
Ở đây, tayo giri có nghĩa là ba ngọn núi, hoặc đây cũng là cách đọc.
Yathā ‘‘sudassanassa girino, dvārañhetaṃ pakāsatī’’ti ettha sudassanaṃ devanagaraṃ yujjhitvā duggaṇhatāya duccalanatāya ‘‘sudassanagirī’’ti vuttaṃ, evamidhāpi tīṇi nagarāni ‘‘tayo giri’’nti adhippetāni.
Just as in “This is the gate of Sudassana mountain, it shines forth,” where Sudassana, the city of devas, is called “Sudassana mountain” because it is difficult to conquer in battle and difficult to move, so here too, three cities are intended as “three mountains.”
Giống như trong câu “sudassanassa girino, dvārañhetaṃ pakāsatī” (Cổng thành Sudassana hiển lộ), thành phố chư thiên Sudassana được gọi là “Sudassanagiri” vì khó chiến đấu và khó lay chuyển, thì ở đây ba thành phố cũng được gọi là “tayo giri.”
Tasmā ayamettha attho – tīṇi ca nagarāni tesañca antaraṃ tividhampi raṭṭhaṃ kāmayāmi.
Therefore, the meaning here is: I desire three cities and the region between them, a threefold kingdom.
Do đó, ý nghĩa ở đây là – tôi ham muốn ba thành phố và cả ba vùng đất nằm giữa chúng.
‘‘Pañcālā kuruyo kekake cā’’ti imāni tesaṃ raṭṭhānaṃ nāmāni.
“Pañcālā kuruyo kekake cā” are the names of those regions.
Pañcālā kuruyo kekake cā” là tên của những vùng đất đó.
Tesu pañcālāti uttarapañcālā, tattha kapilaṃ nāma nagaraṃ.
Among these, Pañcālā means Uttarapañcālā, where the city named Kapila is located.
Trong số đó, Pañcālā là Uttarapañcāla, nơi có thành phố tên là Kapila.
Kuruyoti kururaṭṭhaṃ, tattha indapattaṃ nāma nagaraṃ.
Kuruyo means the Kuru kingdom, where the city named Indapatta is located.
Kuruyo là vương quốc Kuru, nơi có thành phố tên là Indapatta.
Kekake cāti paccatte upayogavacanaṃ, tena kekakaraṭṭhaṃ dasseti.
Kekake cā is an instrumental case used in the sense of location, indicating the Kekaka kingdom.
Kekake cā là một từ chỉ định số nhiều, chỉ vương quốc Kekaka.
Tattha kekakarājadhānīyeva nagaraṃ.
There, the capital city itself is Kekaka.
Ở đó, chỉ có kinh đô Kekaka là một thành phố.
Tatuttarinti taṃ ahaṃ ito paṭiladdhā bārāṇasirajjā tatuttariṃ tividhaṃ rajjaṃ kāmayāmi.
Tatuttariṃ means, having obtained this kingdom of Bārāṇasī, I desire a threefold kingdom beyond that.
Tatuttari có nghĩa là, sau khi giành được vương quốc Bārāṇasī, tôi ham muốn ba vương quốc đó hơn thế nữa.
Tikiccha maṃ, brāhmaṇa, kāmanītanti imehi vatthukāmehi ca kilesakāmehi ca nītaṃ hataṃ pahataṃ sace sakkosi, tikiccha maṃ brāhmaṇāti.
Tikiccha maṃ, brāhmaṇa, kāmanīta means, if you can, cure me, brahmin, who is led, struck, and afflicted by these sensual pleasures and defilement-cravings.
Tikiccha maṃ, brāhmaṇa, kāmanīta có nghĩa là: nếu ngươi có thể chữa trị cho ta, này Bà-la-môn, người bị dục vọng về vật chất và dục vọng phiền não này dẫn dắt, đánh bại, và tàn phá.
1294
Atha naṃ sakko ‘‘mahārāja, tvaṃ mūlosadhādīhi atekiccho.
Then Sakka told him, “Great king, you are incurable by root medicines and the like.
Sau đó, Sakka nói với vua: “Thưa Đại vương, ngài không thể được chữa trị bằng thuốc men gốc rễ, v.v.
Ñāṇosadheneva tikicchitabbo’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
You must be cured only by the medicine of wisdom,” and spoke the second verse –
Ngài chỉ có thể được chữa trị bằng thuốc trí tuệ,” rồi Ngài đọc bài kệ thứ hai –
1295
156.
156.
156.
1296
‘‘Kaṇhāhidaṭṭhassa karonti heke, amanussapaviṭṭhassa karonti paṇḍitā;
“Some cure one bitten by a black snake, the wise cure one possessed by non-humans;
“Một số người chữa trị cho người bị rắn đen cắn, các bậc hiền trí chữa trị cho người bị phi nhân nhập;
1297
Na kāmanītassa karoti koci, okkantasukkassa hi kā tikicchā’’ti.
No one cures one led by craving, for what cure is there for one whose wholesome roots are overwhelmed?”
Không ai chữa trị cho người bị dục vọng dẫn dắt, thật vậy, làm sao có thể chữa trị cho người đã vượt qua giới hạn?”
1298
Tattha kaṇhāhidaṭṭhassa karonti heketi ekacce hi tikicchakā ghoravisena kāḷasappena daṭṭhassa mantehi ceva osadhehi ca tikicchaṃ karonti.
Here, kaṇhāhidaṭṭhassa karonti heke means some healers indeed perform cures with mantras and medicines for one bitten by a black snake with potent venom.
Ở đây, kaṇhāhidaṭṭhassa karonti heke có nghĩa là: một số thầy thuốc chữa trị cho người bị rắn đen cắn bằng thần chú và thuốc men.
Amanussapaviṭṭhassa karonti paṇḍitāti apare paṇḍitā bhūtavejjā bhūtayakkhādīhi amanussehi paviṭṭhassa abhibhūtassa gahitassa balikammaparittakaraṇaosadhaparibhāvitādīhi tikicchaṃ karonti.
Amanussapaviṭṭhassa karonti paṇḍitā means other wise exorcists perform cures with bali offerings, protective chants, and medicated substances for one possessed, overcome, or seized by non-humans such as bhūtas and yakkhas.
Amanussapaviṭṭhassa karonti paṇḍitā có nghĩa là: những bậc hiền trí khác, các thầy pháp sư, chữa trị cho người bị các phi nhân như ma quỷ, dạ xoa, v.v., nhập vào, bằng cách cúng dường, tụng kinh bảo hộ, hoặc dùng thuốc đã được chú nguyện, v.v.
Na kāmanītassa karoti kocīti kāmehi pana nītassa kāmavasikassa puggalassa aññatra paṇḍitehi añño koci tikicchaṃ na karoti, karontopi kātuṃ samattho nāma natthi.
Na kāmanītassa karoti kocī means for a person led by cravings, one who is under the sway of cravings, no one else apart from the wise performs a cure, and even if they try, there is no one capable of doing so.
Na kāmanītassa karoti kocī có nghĩa là: không ai khác ngoài các bậc hiền trí có thể chữa trị cho người bị dục vọng dẫn dắt, bị dục vọng chế ngự; ngay cả khi họ cố gắng, cũng không ai có khả năng làm được.
Kiṃkāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Okkantasukkassa hi kā tikicchāti, okkantasukkassa avakkantassa kusaladhammamariyādaṃ atikkantassa akusaladhamme patiṭṭhitassa puggalassa mantosadhādīhi kā nāma tikicchā, na sakkā osadhehi tikicchitunti.
Okkantasukkassa hi kā tikicchā means, for a person whose wholesome roots are overwhelmed, who has transgressed the boundary of wholesome states, who is established in unwholesome states, what kind of cure is there with mantras and medicines? It is not possible to cure with medicines.
Okkantasukkassa hi kā tikicchā có nghĩa là: làm sao có thể chữa trị bằng thần chú hay thuốc men cho người đã vượt qua giới hạn, tức là người đã vượt qua giới hạn của các thiện pháp và đã an trú trong các bất thiện pháp? Không thể chữa trị bằng thuốc men.
1299
Itissa mahāsatto imaṃ kāraṇaṃ dassetvā uttari evamāha – ‘‘mahārāja, sace tvaṃ tāni tīṇi rajjāni lacchasi, api nu kho imesu catūsu nagaresu rajjaṃ karonto ekappahāreneva cattāri sāṭakayugāni paridaheyyāsi, catūsu vā suvaṇṇapātīsu bhuñjeyyāsi, catūsu vā sayanesu sayeyyāsi, mahārāja, taṇhāvasikena nāma bhavituṃ na vaṭṭati, taṇhā hi nāmesā vipattimūlā.
Thus, the Great Being, having shown this reason, further said: “Great king, if you were to obtain those three kingdoms, would you then, ruling in these four cities, wear four pairs of robes at once, or eat from four golden bowls, or sleep on four beds? Great king, one should not be under the sway of craving, for craving is indeed the root of misfortune.
Như vậy, Đại Bồ-tát đã chỉ ra nguyên nhân này và nói thêm: “Thưa Đại vương, nếu ngài giành được ba vương quốc đó, liệu ngài có thể mặc bốn bộ y phục cùng lúc, ăn trong bốn bát vàng, hoặc ngủ trên bốn chiếc giường khi cai trị bốn thành phố này không? Thưa Đại vương, không nên bị tham ái chế ngự, vì tham ái là cội nguồn của sự suy đồi.
Sā vaḍḍhamānā yo taṃ vaḍḍheti, taṃ puggalaṃ aṭṭhasu mahānirayesu soḷasasu ussadanirayesu nānappakārabhedesu ca avasesesu apāyesu khipatī’’ti.
Growing, it casts that person who fosters it into the eight great hells, the sixteen subsidiary hells, and the remaining various kinds of lower realms.
Khi nó tăng trưởng, nó sẽ đẩy người nuôi dưỡng nó vào tám đại địa ngục, mười sáu tiểu địa ngục, và các cõi khổ khác với nhiều hình thức khác nhau.”
Evaṃ rājānaṃ nirayādibhayena tajjetvā mahāsatto dhammaṃ desesi.
Thus, having terrified the king with the fear of hell and so on, the Great Being taught the Dhamma.
Bằng cách này, Đại Bồ-tát đã cảnh báo vua về nỗi sợ hãi địa ngục, v.v., và thuyết pháp.
Rājāpissa dhammaṃ sutvā vigatasoko hutvā tāvadeva nibyādhitaṃ pāpuṇi.
The king, having heard his Dhamma, became free from sorrow and immediately attained freedom from disease.
Vua nghe pháp, nỗi sầu muộn tan biến, và ngay lập tức khỏi bệnh.
Sakkopissa ovādaṃ datvā sīlesu patiṭṭhāpetvā devalokameva gato.
Sakka, having given him advice and established him in the precepts, went back to the deva-world.
Sakka cũng ban lời khuyên cho vua, khiến vua an trú trong giới luật, rồi trở về cõi trời.
Sopi tato paṭṭhāya dānādīni puññāni katvā yathākammaṃ gato.
He too, from that time onwards, having performed meritorious deeds such as giving, departed according to his kamma.
Từ đó trở đi, vua cũng thực hành các công đức như bố thí, v.v., rồi ra đi theo nghiệp của mình.
1300
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājā kāmanītabrāhmaṇo ahosi, sakko pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse and proclaimed the Noble Truths, identified the Jātaka: “At that time, the king was the Kāmanīta brahmin; but Sakka was I myself.”
Đức Phật đã kể lại bài pháp này, thuyết giảng các Chân lý, và kết nối tích truyện Jātaka: “Vị vua lúc đó chính là Bà-la-môn Kāmanīta, còn Sakka thì chính là Ta.”
1301
Kāmanītajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth, the Kāmanīta Jātaka, is concluded.
Chương giải thích về Kāmanītajātaka thứ tám đã hoàn tất.
1302
* 9. Palāyitajātakavaṇṇanā
* 9. The Palāyita Jātaka
* 9. Chương giải thích về Palāyitajātaka
1303
Gajaggameghehīti idaṃ satthā jetavane viharanto palāyitaparibbājakaṃ ārabbha kathesi.
Gajaggamehehīti: This the Teacher related while dwelling in Jetavana, concerning the wandering ascetic Palāyita.
Gajaggamehehī – Đức Phật đã kể câu chuyện này tại Jetavana, liên quan đến một du sĩ tên Palāyita.
So kira vādatthāya sakalajambudīpaṃ vicaritvā kañci paṭivādiṃ alabhitvā anupubbena sāvatthiṃ gantvā ‘‘atthi nu kho koci mayā saddhiṃ vādaṃ kātuṃ samattho’’ti manusse pucchi.
It is said that he, having wandered throughout the entire Jambudīpa for debate and found no opponent, gradually went to Sāvatthī and asked people, “Is there anyone capable of debating with me?”
Nghe nói, du sĩ ấy đã đi khắp Jambudīpa để tìm người tranh luận nhưng không tìm được đối thủ nào. Dần dần, ông đến Sāvatthī và hỏi mọi người: “Có ai có khả năng tranh luận với tôi không?”
Manussā ‘‘tādisānaṃ sahassenapi saddhiṃ vādaṃ kātuṃ samattho sabbaññū dvipadānaṃ aggo mahāgotamo dhammissaro parappavādamaddano, sakalepi jambudīpe uppanno parappavādo taṃ bhagavantaṃ atikkamituṃ samattho nāma natthi.
The people said, “The Omniscient One, the foremost of bipeds, the Great Gotama, the Lord of Dhamma, the crusher of others’ doctrines, is capable of debating with a thousand such as you; no doctrine arisen in the entire Jambudīpa is capable of surpassing that Blessed One.
Mọi người đáp: “Đức Mahāgotama, bậc Toàn Giác, đứng đầu trong loài người, bậc Pháp chủ, người nghiền nát các luận thuyết khác, có khả năng tranh luận với hàng ngàn người như vậy. Không có luận thuyết nào xuất hiện trên khắp Jambudīpa có thể vượt qua Đức Thế Tôn đó.”
Velantaṃ patvā samuddaūmiyo viya hi sabbavādā tassa pādamūlaṃ patvā cuṇṇavicuṇṇā hontī’’ti buddhaguṇe kathesuṃ.
Indeed, all doctrines, like ocean waves reaching the shore, are utterly crushed upon reaching his feet,” and thus they recounted the Buddha’s virtues.
"Như những làn sóng biển vỗ vào bờ, tất cả các luận thuyết đều bị nghiền nát tan tành khi đến dưới chân Ngài." Họ nói về các đức tính của Đức Phật như vậy.
Paribbājako ‘‘kahaṃ pana so etarahī’’ti pucchitvā ‘‘jetavane’’ti sutvā ‘‘idānissa vādaṃ āropessāmī’’ti mahājanaparivuto jetavanaṃ gacchanto jetena rājakumārena navakoṭidhanaṃ vissajjetvā kāritaṃ jetavanadvārakoṭṭhakaṃ disvā ‘‘ayaṃ samaṇassa gotamassa vasanapāsādo’’ti pucchitvā ‘‘dvārakoṭṭhako aya’’nti sutvā ‘‘dvārakoṭṭhako tāva evarūpo, vasanagehaṃ kīdisaṃ bhavissatī’’ti vatvā ‘‘gandhakuṭi nāma appameyyā’’ti vutte ‘‘evarūpena samaṇena saddhiṃ ko vādaṃ karissatī’’ti tatova palāyi.
The ascetic asked, “Where is he now?” and hearing “In Jetavana,” he said, “Now I will engage him in debate,” and surrounded by a great crowd, as he went to Jetavana, he saw the gatehouse of Jetavana, which Prince Jeta had built by spending nine crores of wealth, and asked, “Is this the dwelling palace of the ascetic Gotama?” Hearing “This is the gatehouse,” he said, “If the gatehouse is like this, what will the dwelling house be like?” When told, “The Perfumed Chamber (Gandhakuṭi) is immeasurable,” he said, “Who will debate with an ascetic like this?” and fled from that very spot.
Du sĩ hỏi: "Vậy bây giờ Ngài ở đâu?" Nghe nói: "Ở Jetavana." (Nghĩ) "Bây giờ ta sẽ tranh luận với Ngài." Được đông đảo quần chúng vây quanh, đang đi đến Jetavana, thấy cổng thành Jetavana do hoàng tử Jeta xây dựng sau khi chi chín mươi triệu đồng tiền, ông hỏi: "Đây có phải là cung điện nơi Sa-môn Gotama ở không?" Nghe nói: "Đây là cổng thành." Ông nói: "Cổng thành mà đã như thế này, thì nơi ở sẽ như thế nào?" Khi được nói: "Hương thất (Gandhakuṭi) thì vô song." Ông liền bỏ chạy từ đó, (nghĩ): "Ai sẽ tranh luận với một Sa-môn như vậy?"
Manussā unnādino hutvā jetavanaṃ pavisitvā satthārā ‘‘kiṃ akāle āgatatthā’’ti vuttā taṃ pavattiṃ kathayiṃsu.
The people, making a great clamor, entered Jetavana and, when asked by the Teacher, “Why have you come at an unseasonable time?” they recounted the incident.
Mọi người reo hò, đi vào Jetavana, khi bị Đức Bổn Sư hỏi: "Tại sao các cư sĩ lại đến không đúng lúc?" Họ đã kể lại sự việc đó.
Satthā ‘‘na kho upāsakā idāneva, pubbepesa mama vasanaṭṭhānassa dvārakoṭṭhakaṃ disvā palāyatevā’’ti vatvā tehi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, “It is not only now, lay followers; in the past too, he fled upon seeing the gatehouse of my dwelling place,” and being requested by them, he related a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Này các cư sĩ, không phải chỉ bây giờ đâu, mà cả trong quá khứ, ông ta cũng đã bỏ chạy khi thấy cổng thành nơi ta ở." Rồi khi được họ thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1304
Atīte gandhāraraṭṭhe takkasilāyaṃ bodhisatto rajjaṃ kāresi, bārāṇasiyaṃ brahmadatto.
In the past, the Bodhisatta ruled in Takkasilā in the Gandhāra kingdom, and Brahmadatta in Bārāṇasī.
Trong quá khứ, Bồ-tát trị vì ở Takkasilā, xứ Gandhāra. Brahmadatta thì trị vì ở Bārāṇasī.
So ‘‘takkasilaṃ gaṇhissāmī’’ti mahantena balakāyena gantvā nagarato avidūre ṭhatvā ‘‘iminā niyāmena hatthī pesetha, iminā asse, iminā rathe, iminā pattī, evaṃ dhāvitvā āvudhehi paharatha, evaṃ ghanavassavalāhakā viya saravassaṃ vassathā’’ti tenaṃ vicārento imaṃ gāthādvayamāha –
He, desiring to seize Takkasilā, went with a large army and, halting not far from the city, gave instructions: “Send the elephants in this manner, the horses in this manner, the chariots in this manner, the infantry in this manner; charge thus and strike with weapons, shower arrows like dense rain clouds,” and thus deliberating, he spoke these two verses:
Ông ta nói: "Ta sẽ chiếm Takkasilā." Rồi đi với một đạo quân lớn, dừng lại không xa thành phố, và chỉ huy quân lính như sau: "Hãy phái voi theo cách này, ngựa theo cách này, xe theo cách này, bộ binh theo cách này. Hãy tấn công bằng vũ khí như thế này, hãy bắn mưa tên như những đám mây mưa dày đặc." Nói vậy, ông đã đọc hai câu kệ này:
1305
157.
157.
157.
1306
‘‘Gajaggameghehi hayaggamālibhi, rathūmijātehi sarābhivassebhi;
By elephant-chief-clouds, by horse-chief-garlands, by chariot-wave-creators, by arrow-showers;
"Với những đám mây voi đầu đàn, với những đoàn ngựa đầu đàn,
1307
Tharuggahāvaṭṭadaḷhappahāribhi, parivāritā takkasilā samantato.
By strong-striking, whirlwind-like attackers, Takkasilā was surrounded on all sides.
Với những làn sóng xe cộ nổi lên, với những trận mưa tên;
1308
158.
158.
158.
1309
‘‘Abhidhāvatha cūpadhāvatha ca, vividhā vināditā vadantibhi;
Charge and rush forth, with diverse sounds proclaiming;
Với những người lính bộ binh cầm khiên, tấn công mạnh mẽ quay cuồng,
1310
Vattatajja tumulo ghoso yathā, vijjulatā jaladharassa gajjato’’ti.
Today a tumultuous roar arises, like the thunder of a lightning-bearing cloud.
Takkasilā bị bao vây khắp mọi phía. Hãy tấn công và vây hãm, với những tiếng reo hò vang dội khác nhau; hôm nay một tiếng động lớn nổi lên, như tiếng sấm của đám mây giông có chớp loé."
1311
Tattha gajaggameghehīti aggagajameghehi, koñcanādaṃ gajjantehi mattavaravāraṇavalāhakehīti attho.
Here, gajaggamehehīti means by elephant-chief-clouds, that is, by excellent elephant-clouds that roar with a heron’s cry.
Trong đó, gajaggameghehī có nghĩa là với những đám mây voi đầu đàn, tức là với những con voi chúa hùng mạnh gầm thét tiếng koñca.
Hayaggamālibhīti aggahayamālīhi, varasindhavavalāhakakulehi assānīkehīti attho.
Hayaggamālibhīti means by horse-chief-garlands, that is, by armies of horses, excellent Sindhu-horse-clouds.
Hayaggamālibhī có nghĩa là với những đoàn ngựa đầu đàn, tức là với những đội quân ngựa Sindhu cao quý như những đám mây.
Rathūmijātehīti sañjātaūmivegehi sāgarasalilehi viya sañjātarathūmīhi, rathānīkehīti attho.
Rathūmijātehīti means by chariot-wave-creators, that is, by armies of chariots that create chariot-waves, like ocean waters creating wave-surges.
Rathūmijātehī có nghĩa là với những làn sóng xe cộ nổi lên như những làn sóng biển cuồn cuộn, tức là với những đội quân xe.
Sarābhivassebhīti tehiyeva rathānīkehi ghanavassamegho viya saravassaṃ vassantehi.
Sarābhivassebhīti means by those very armies of chariots, showering arrows like dense rain clouds.
Sarābhivassebhī có nghĩa là với những đội quân xe đó bắn mưa tên như những đám mây mưa dày đặc.
Tharuggahāvaṭṭadaḷhappahāribhīti tharuggahehi āvaṭṭadaḷhappahārīhi, ito cito ca āvattitvā parivattitvā daḷhaṃ paharantehi gahitakhaggaratanatharudaṇḍehi pattiyodhehi cāti attho.
By those who strike hard with whirling clubs means by those who strike hard with whirling clubs, by those foot soldiers who, whirling and turning here and there, strike hard with swords, jewels, clubs, and staffs in hand, this is the meaning.
Tharuggahāvaṭṭadaḷhappahāribhī có nghĩa là với những người lính bộ binh cầm khiên và gậy kiếm quý giá, tấn công mạnh mẽ quay cuồng từ đây sang đó.
Parivāritā takkasilā samantatoti yathā ayaṃ takkasilā parivāritā hoti, sīghaṃ tathā karothāti attho.
Taxila is surrounded on all sides means quickly do so, that this Taxila may be surrounded, this is the meaning.
Parivāritā takkasilā samantato có nghĩa là hãy nhanh chóng làm cho Takkasilā bị bao vây khắp mọi phía như thế này.
1312
Abhidhāvatha cūpadhāvatha cāti vegena dhāvatha ceva upadhāvatha ca.
Run forth and run near means run swiftly and run near.
Abhidhāvatha cūpadhāvatha cā có nghĩa là hãy chạy nhanh và vây hãm.
Vividhā vināditā vadantibhīti varavāraṇehi saddhiṃ vividhā vinaditā bhavatha, selitagajjitavāditehi nānāviravā hothāti attho.
Various sounds are made, proclaiming means make various sounds with excellent elephants, make various cries with trumpet blasts, roars, and musical instruments, this is the meaning.
Vividhā vināditā vadantibhī có nghĩa là hãy cùng với những con voi chúa gầm thét những tiếng khác nhau, hãy tạo ra những âm thanh đa dạng với tiếng gầm, tiếng sấm và nhạc cụ.
Vattatajja tumulo ghosoti vattatu ajja tumulo mahanto asanisaddasadiso ghoso.
Let a mighty roar arise today means let a mighty roar, like the sound of a thunderbolt, arise today.
Vattatajja tumulo ghoso có nghĩa là hôm nay hãy để một tiếng động lớn, dữ dội như tiếng sấm sét nổi lên.
Yathā vijjulatā jaladharassa gajjatoti yathā gajjantassa jaladharassa mukhato niggatā vijjulatā caranti, evaṃ vicarantā nagaraṃ parivāretvā rajjaṃ gaṇhathāti vadati.
Like lightning from a thundering cloud means just as lightning streaks forth from a thundering cloud, so too, moving about, surround the city and seize the kingdom, he says.
Yathā vijjulatā jaladharassa gajjato có nghĩa là hãy vây hãm thành phố và chiếm lấy vương quốc, di chuyển như những tia chớp phát ra từ miệng đám mây đang gầm thét.
1313
Iti so rājā gajjitvā senaṃ vicāretvā nagaradvārasamīpaṃ gantvā dvārakoṭṭhakaṃ disvā ‘‘idaṃ rañño vasanageha’’nti pucchitvā ‘‘ayaṃ nagaradvārakoṭṭhako’’ti vutte ‘‘nagaradvārakoṭṭhako tāva evarūpo, rañño nivesanaṃ kīdisaṃ bhavissatī’’ti vatvā ‘‘vejayantapāsādasadisa’’nti sutvā ‘‘evaṃ yasasampannena raññā saddhiṃ yujjhituṃ na sakkhissāmā’’ti dvārakoṭṭhakaṃ disvāva nivattitvā palāyitvā bārāṇasimeva agamāsi.
Thus, that king, having roared, deployed his army, went near the city gate, and seeing the gatehouse, asked, "Is this the king's residence?" When told, "This is the city gatehouse," he said, "If the city gatehouse is like this, what will the king's palace be like?" And hearing that it was "like the Vejayanta palace," he said, "We will not be able to fight with such a glorious king," and merely seeing the gatehouse, he turned back, fled, and returned to Bārāṇasī.
Vua đó gầm thét như vậy, chỉ huy quân đội, đi đến gần cổng thành, thấy cổng thành, hỏi: "Đây có phải là nơi ở của vua không?" Khi được nói: "Đây là cổng thành của thành phố." Ông nói: "Cổng thành mà đã như thế này, thì cung điện của vua sẽ như thế nào?" Nghe nói: "Giống như cung điện Vejayanta." Ông nói: "Chúng ta sẽ không thể chiến đấu với một vị vua vinh quang như vậy." Rồi chỉ thấy cổng thành, ông quay lại, bỏ chạy và trở về Bārāṇasī.
1314
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bārāṇasirājā palāyitaparibbājako ahosi, takkasilarājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka – "At that time, the King of Bārāṇasī was the fleeing ascetic, and I myself was the King of Taxila."
Đức Bổn Sư đã kể bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: "Vua Bārāṇasī lúc đó chính là vị du sĩ đã bỏ chạy, còn vua Takkasilā chính là ta."
1315
Palāyitajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth Chapter on the Palāyita Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về sự bỏ chạy thứ chín đã kết thúc.
1316
* 10. Dutiyapalāyitajātakavaṇṇanā
* 10. The Second Chapter on the Palāyita Jātaka
* 10. Câu chuyện Jātaka về sự bỏ chạy thứ hai
1317
Dhajamaparimitanti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ palāyitaparibbājakameva ārabbha kathesi.
An immeasurable banner – the Teacher, while residing at Jetavana, related this concerning the same fleeing ascetic.
Dhajamaparimitaṃ (ngọn cờ vô biên) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài đang trú ngụ ở Jetavana, liên quan đến chính vị du sĩ đã bỏ chạy đó.
Imasmiṃ pana vatthusmiṃ so paribbājako jetavanaṃ pāvisi.
In this story, however, that ascetic entered Jetavana.
Trong câu chuyện này, vị du sĩ đó đã đi vào Jetavana.
Tasmiṃ khaṇe satthā mahājanaparivuto alaṅkatadhammāsane nisinno manosilātale sīhanādaṃ nadanto sīhapotako viya dhammaṃ deseti.
At that moment, the Teacher, surrounded by a great multitude, seated on an adorned Dhamma seat, like a lion cub roaring a lion's roar on a red arsenic slab, was teaching the Dhamma.
Vào lúc đó, Đức Bổn Sư đang ngồi trên pháp tòa được trang hoàng, được đông đảo quần chúng vây quanh, thuyết pháp như một sư tử con gầm thét trên một tảng đá màu đỏ son.
Paribbājako dasabalassa brahmasarīrapaṭibhāgaṃ rūpaṃ puṇṇacandasassirikaṃ mukhaṃ suvaṇṇapaṭṭasadisaṃ nalāṭañca disvā ‘‘ko evarūpaṃ purisuttamaṃ jinituṃ sakkhissatī’’ti nivattitvā parisantaraṃ pavisitvā palāyi.
The ascetic, seeing the Buddha's body, resembling Brahmā, his face radiant like the full moon, and his forehead like a golden plate, thought, "Who can conquer such a supreme being?" and turning back, entered the assembly and fled.
Vị du sĩ thấy hình dáng của Đức Thập Lực giống như thân Phạm thiên, khuôn mặt rạng rỡ như trăng tròn và vầng trán như tấm vàng, (nghĩ): "Ai có thể đánh bại một bậc tối thượng nhân như vậy?" Rồi ông quay lại, đi vào giữa hội chúng và bỏ chạy.
Mahājano taṃ anubandhitvā nivattitvā satthussa taṃ pavattiṃ ārocesi.
The great multitude pursued him, then returned and reported the incident to the Teacher.
Đông đảo quần chúng đuổi theo ông ta, rồi quay lại và báo cáo sự việc đó cho Đức Bổn Sư.
Satthā ‘‘na so paribbājako idāneva, pubbepi mama suvaṇṇavaṇṇaṃ mukhaṃ disvā palātoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher said, "That ascetic did not flee only now; he fled even in the past upon seeing my golden-hued face," and then related a past event.
Đức Bổn Sư nói: "Vị du sĩ đó không phải chỉ bây giờ, mà cả trong quá khứ, ông ta cũng đã bỏ chạy khi thấy khuôn mặt màu vàng của ta." Rồi Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1318
Atīte bodhisatto bārāṇasiyaṃ rajjaṃ kāresi, takkasilāyaṃ eko gandhārarājā.
In the past, the Bodhisatta ruled in Bārāṇasī, and there was a Gandhāra king in Taxila.
Trong quá khứ, Bồ-tát trị vì ở Bārāṇasī, còn ở Takkasilā có một vị vua Gandhāra.
So ‘‘bārāṇasiṃ gahessāmī’’ti caturaṅginiyā senāya āgantvā nagaraṃ parivāretvā nagaradvāre ṭhito attano balavāhanaṃ oloketvā ‘‘ko ettakaṃ balavāhanaṃ jinituṃ sakkhissatī’’ti attano senaṃ saṃvaṇṇetvā paṭhamaṃ gāthamāha –
He came with a fourfold army, intending to "take Bārāṇasī," surrounded the city, and standing at the city gate, he surveyed his forces and, praising his own army, saying, "Who can conquer such a large army?" he spoke the first verse:
Ông ta nói: "Ta sẽ chiếm Bārāṇasī." Rồi đến với đạo quân bốn binh chủng, bao vây thành phố, đứng ở cổng thành, nhìn đạo quân và phương tiện chiến đấu của mình, (nghĩ): "Ai có thể đánh bại đạo quân và phương tiện chiến đấu lớn như vậy?" Ông ta ca ngợi quân đội của mình và đọc câu kệ đầu tiên:
1319
159.
159.
159.
1320
‘‘Dhajamaparimitaṃ anantapāraṃ, duppasahaṃ dhaṅkehi sāgaraṃva;
“My banner is immeasurable, boundless, unconquerable like the ocean to crows;
"Lá cờ vô biên, không giới hạn, khó vượt qua như đại dương đối với quạ;
1321
Girimiva anilena duppasayho, duppasaho ahamajja tādisenā’’ti.
I am unconquerable today, like a mountain to the wind, unconquerable.”
Khó lay chuyển như núi đối với gió, hôm nay ta với đạo quân như vậy là khó vượt qua."
1322
Tattha dhajamaparimitanti idaṃ tāva me rathesu morachade ṭhapetvā ussāpitadhajameva aparimitaṃ bahuṃ anekasatasaṅkhyaṃ.
There, an immeasurable banner means that the banners raised on my chariots, adorned with peacock feathers, are indeed immeasurable, numerous, numbering many hundreds.
Trong đó, dhajamaparimitaṃ có nghĩa là những lá cờ được dựng lên trên xe của ta, đặt trên đuôi công, là vô biên, rất nhiều, hàng trăm ngàn.
Anantapāranti balavāhanampi me ‘‘ettakā hatthī ettakā assā ettakā rathā ettakā pattī’’ti gaṇanaparicchedarahitaṃ anantapāraṃ.
Boundless means my army is also boundless, without a calculable limit of "so many elephants, so many horses, so many chariots, so many foot soldiers."
Anantapāraṃ có nghĩa là đạo quân và phương tiện chiến đấu của ta cũng vô biên, không giới hạn bởi số lượng "bao nhiêu voi, bao nhiêu ngựa, bao nhiêu xe, bao nhiêu bộ binh".
Duppasahanti na sakkā paṭisattūhi sahituṃ abhibhavituṃ.
Unconquerable means it cannot be endured or overcome by enemy forces.
Duppasahaṃ có nghĩa là không thể chịu đựng được, không thể bị kẻ thù đánh bại.
Yathā kiṃ?
Like what?
Giống như cái gì?
Dhaṅkehi sāgaraṃva, yathā sāgaro bahūhi kākehi vegavikkhambhanavasena vā atikkamanavasena vā duppasaho, evaṃ duppasahaṃ.
Like the ocean to crows, just as the ocean is unconquerable by many crows, whether in terms of resisting their force or crossing it, so too is it unconquerable.
Dhaṅkehi sāgaraṃva, có nghĩa là khó vượt qua như đại dương đối với nhiều con quạ, về mặt ngăn chặn sức mạnh hoặc vượt qua.
Girimiva anilena duppasayhoti apica me ayaṃ balakāyo yathā pabbato vātena akampanīyato duppasaho, tathā aññena balakāyena duppasaho.
“Like a mountain, unshakeable by the wind” means: And also, this army of mine is difficult to overcome by another army, just as a mountain is difficult to overcome, being unshakeable by the wind.
Girimiva anilena duppasayho có nghĩa là đạo quân của ta khó vượt qua như một ngọn núi không thể lay chuyển bởi gió, tức là khó vượt qua bởi bất kỳ đạo quân nào khác.
Duppasaho ahamajja tādisenāti svāhaṃ iminā balena samannāgato ajja tādisena duppasahoti aṭṭālake ṭhitaṃ bodhisattaṃ sandhāya vadati.
“Today I am difficult to overcome by such a one” – this refers to the Bodhisatta standing in the watchtower, saying, “I, endowed with this strength, am today difficult to overcome by such a one.”
Duppasaho ahamajja tādisenā có nghĩa là ta, với đạo quân như vậy, hôm nay là khó vượt qua. Ông ta nói điều này ám chỉ Bồ-tát đang đứng trên tháp canh.
1323
Athassa so puṇṇacandasassirikaṃ attano mukhaṃ dassetvā ‘‘bāla, mā vippalapasi, idāni te balavāhanaṃ mattavāraṇo viya naḷavanaṃ viddhaṃsessāmī’’ti santajjetvā dutiyaṃ gāthamāha –
Then, showing his face, radiant like the full moon, he threatened him, saying, “Fool, do not babble! Now I shall destroy your army and vehicles like a rogue elephant destroying a reed thicket,” and spoke the second verse:
Rồi Bồ-tát hiện ra khuôn mặt rạng rỡ như trăng tròn của mình và nói: "Này kẻ ngu si, đừng nói bậy bạ. Bây giờ ta sẽ phá tan đạo quân của ngươi như một con voi chúa phá tan một rừng sậy." Ngài đe dọa và đọc câu kệ thứ hai:
1324
160.
160.
160.
1325
‘‘Mā bāliyaṃ vilapi na hissa tādisaṃ, viḍayhase na hi labhase nisedhakaṃ;
“Do not babble foolishly; there is no such one for you. You are scorched; you will not find a suppressor.
"Đừng nói bậy bạ một cách ngu ngốc, ngươi sẽ không có được điều đó. Ngươi sẽ không tìm thấy ai ngăn cản được.
1326
Āsajjasi gajamiva ekacārinaṃ, yo taṃ padā naḷamiva pothayissatī’’ti.
You approach a lone elephant, who will crush you with his foot like a reed.”
Ngươi đang tấn công như một con voi đơn độc, người sẽ nghiền nát ngươi như sậy bằng chân."
1327
Tattha mā bāliyaṃ vilapīti mā attano bālabhāvaṃ vippalapasi.
There, mā bāliyaṃ vilapī means, “Do not babble your foolishness.”
Trong đó, mā bāliyaṃ vilapī có nghĩa là đừng nói bậy bạ một cách ngu ngốc.
Na hissa tādisanti na hi assa tādiso, ayameva vā pāṭho.
Na hissa tādisaṃ: “There is no such one for him,” or this is the reading.
Na hissa tādisaṃ có nghĩa là không có được điều đó, hoặc đây là một cách đọc khác.
Tādiso ‘‘anantapāraṃ me balavāhana’’nti evarūpaṃ takkento rajjañca gahetuṃ samattho nāma na hi assa, na hotīti attho.
The meaning is: “There is no such one, nor should there be, who, thinking ‘My army and vehicles are boundless,’ is capable of seizing the kingdom.”
Có nghĩa là không có ai có thể nghĩ rằng "đạo quân của ta vô biên" và có khả năng chiếm đoạt vương quốc.
Viḍayhaseti tvaṃ bāla, kevalaṃ rāgadosamohamānapariḷāhena viḍayhasiyeva.
Viḍayhase means, “You, fool, are merely scorched by the torment of greed, hatred, delusion, and conceit.”
Viḍayhase có nghĩa là ngươi, kẻ ngu si, chỉ bị thiêu đốt bởi tham, sân, si, kiêu mạn.
Na hi labhase nisedhakanti mādisaṃ pana pasayha abhibhavitvā nisedhakaṃ na tāva labhasi, ajja taṃ āgatamaggeneva palāpessāmi.
Na hi labhase nisedhakaṃ means, “But you will not find a suppressor like me who can forcibly overcome you. Today I shall make you flee by the very path you came.”
Na hi labhase nisedhakaṃ có nghĩa là ngươi sẽ không tìm thấy ai có thể đánh bại và ngăn cản ta. Hôm nay ta sẽ khiến ngươi bỏ chạy theo con đường ngươi đã đến.
Āsajjasīti upagacchasi.
Āsajjasī means, “You approach.”
Āsajjasī có nghĩa là ngươi đang đến gần.
Gajamiva ekacārinanti ekacārinaṃ mattavaravāraṇaṃ viya.
Gajamiva ekacārinaṃ means, “like a lone rogue elephant.”
Gajamiva ekacārinaṃ có nghĩa là như một con voi chúa đơn độc.
Yo taṃ padā naḷamiva pothayissatīti yo taṃ yathā nāma mattavaravāraṇo pādā naḷaṃ potheti saṃcuṇṇeti, evaṃ pothayissati, taṃ tvaṃ āsajjasīti attānaṃ sandhāyāha.
Yo taṃ padā naḷamiva pothayissatīti means, “who will crush you with his foot like a reed, just as a rogue elephant crushes a reed with its foot.” He says this referring to himself, “You approach him.”
Yo taṃ padā naḷamiva pothayissatīti (Kẻ sẽ nghiền nát ngươi bằng chân như cây sậy) – kẻ nào sẽ nghiền nát ngươi như voi chúa say rượu nghiền nát cây sậy bằng chân, ngươi đang va chạm với kẻ đó – lời này nói về chính mình.
1328
Evaṃ tajjentassa panassa kathaṃ sutvā gandhārarājā ullokento kañcanapaṭṭasadisaṃ mahānalāṭaṃ disvā attano gahaṇabhīto nivattitvā palāyanto sakanagarameva agamāsi.
Hearing his threatening words, the King of Gandhāra looked up, and seeing his broad forehead like a golden plate, he became afraid of being captured, turned back, fled, and returned to his own city.
Khi vua Gandhāra nghe lời đe dọa như vậy, ngước nhìn thấy vầng trán rộng lớn như tấm vàng, sợ hãi bị bắt giữ, liền quay đầu bỏ chạy về thành phố của mình.
1329
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā gandhārarājā palāyitaparibbājako ahosi, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the King of Gandhāra was the fleeing wanderer, and the King of Bārāṇasī was I myself.”
Bậc Đạo Sư đã thuyết pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Vua Gandhāra lúc đó chính là vị du sĩ bỏ chạy, còn vua Bārāṇasī chính là Ta.”
1330
Dutiyapalāyitajātakavaṇṇanā dasamā.
The description of the Second Palāyita Jātaka is the tenth.
Câu chuyện Jātaka về sự bỏ chạy thứ hai, thứ mười, đã kết thúc.
1331
Kāsāvavaggo aṭṭhamo.
The Kāsāva Vagga is the eighth.
Phẩm Kāsāva, thứ tám.
1332
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Đây là tóm tắt của phẩm đó:
1333
Kāsāvaṃ cūḷanandiyaṃ, puṭabhattañca kumbhilaṃ;
Kāsāva, Cūḷanandiya, Puṭabhatta, and Kumbhīla;
Kāsāva, Cūḷanandiya, Puṭabhatta và Kumbhīla;
1334
Khantivaṇṇaṃ kosiyañca, gūthapāṇaṃ kāmanītaṃ;
Khantivaṇṇa, Kosiya, Gūthapāṇa, Kāmanīta;
Khantivaṇṇa, Kosīya, Gūthapāṇa, Kāmanīta;
1335
Palāyitadvayampi ca.
And the two Palāyita Jātakas.
Và hai câu chuyện Palāyita.
1336

9. Upāhanavaggo

9. Upāhana Vagga

9. Phẩm Upāhana

1337
* 1. Upāhanajātakavaṇṇanā
* 1. Description of the Upāhana Jātaka
* 1. Câu chuyện Jātaka Upāhana
1338
Yathāpi kītāti idaṃ satthā jetavane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Yathāpi kītā – The Teacher, while residing at Jetavana, told this story concerning Devadatta.
Yathāpi kītā (Như đôi giày đã mua) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến Devadatta.
Dhammasabhāyañhi bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, devadatto ācariyaṃ paccakkhāya tathāgatassa paṭipakkho paṭisattu hutvā mahāvināsaṃ pāpuṇī’’ti.
Indeed, in the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion: “Friends, Devadatta renounced his teacher and became an opponent and enemy of the Tathāgata, thereby incurring great destruction.”
Quả thật, trong Pháp đường, các Tỳ khưu đã khởi lên câu chuyện: “Này các Hiền giả, Devadatta đã từ bỏ vị thầy và trở thành đối nghịch, kẻ thù của Đức Như Lai, rồi phải chịu sự hủy diệt lớn lao.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva ācariyaṃ paccakkhāya mama paṭipakkho hutvā mahāvināsaṃ patto, pubbepi pattoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, “Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?” When told, “It is this,” He said, “Bhikkhus, Devadatta did not only now renounce his teacher and become my opponent, incurring great destruction; he incurred it in the past as well,” and He recounted a past event.
Bậc Đạo Sư đến hỏi: “Này các Tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn về câu chuyện gì?” Khi được thưa: “Chúng con đang bàn về câu chuyện này,” Ngài nói: “Này các Tỳ khưu, Devadatta không phải chỉ bây giờ mới từ bỏ vị thầy, trở thành đối nghịch của Ta và chịu sự hủy diệt lớn lao, mà trong quá khứ cũng đã từng chịu như vậy rồi,” rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1339
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto hatthācariyakule nibbattitvā vayappatto hatthisippe nipphattiṃ pāpuṇi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a family of elephant trainers and, having reached maturity, attained proficiency in the art of elephant training.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong gia đình một huấn luyện viên voi và khi đến tuổi trưởng thành, Ngài đã đạt đến sự thành thạo trong nghệ thuật huấn luyện voi.
Atheko kāsigāmako māṇavako āgantvā tassa santike sippaṃ uggaṇhi.
Then a young man from a Kāsī village came and learned the art from him.
Lúc đó, một thanh niên từ làng Kāsī đến và học nghệ thuật đó từ Ngài.
Bodhisattā nāma sippaṃ vācentā ācariyamuṭṭhiṃ na karonti, attano jānananiyāmena niravasesaṃ sikkhāpenti.
Bodhisattas, when teaching an art, do not keep a teacher’s closed fist; they teach everything without remainder according to their knowledge.
Các vị Bồ Tát khi dạy nghề không giữ lại bí quyết nào, mà dạy tất cả những gì mình biết một cách trọn vẹn.
Tasmā so māṇavo bodhisattassa jānanasippaṃ niravasesamuggaṇhitvā bodhisattaṃ āha – ‘‘ācariya, ahaṃ rājānaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti.
Therefore, that young man, having learned all of the Bodhisatta’s knowledge of the art without remainder, said to the Bodhisatta, “Teacher, I wish to serve the king.”
Vì vậy, người thanh niên đó đã học được tất cả nghệ thuật mà Bồ Tát biết, rồi nói với Bồ Tát: “Thưa thầy, con muốn hầu hạ nhà vua.”
Bodhisatto ‘‘sādhu, tātā’’ti gantvā rañño ārocesi – ‘‘mahārāja, mama antevāsiko tumhe upaṭṭhātuṃ icchatī’’ti.
The Bodhisatta, saying, “Very well, my son,” went and informed the king, “Great King, my pupil wishes to serve you.”
Bồ Tát nói: “Tốt lắm, con trai,” rồi đến báo với nhà vua: “Tâu Đại Vương, học trò của con muốn hầu hạ Đại Vương.”
‘‘Sādhu, upaṭṭhātū’’ti.
“Very well, let him serve.”
“Tốt lắm, cứ để nó hầu hạ.”
‘‘Tena hissa paribbayaṃ jānāthā’’ti?
“Then, should you know his expenses?”
“Vậy thì xin Đại Vương biết mức lương của nó.”
‘‘Tumhākaṃ antevāsiko tumhehi samakaṃ na lacchati, tumhesu sataṃ labhantesu paṇṇāsaṃ lacchati, dve labhantesu ekaṃ lacchatī’’ti.
"Your apprentice will not receive the same as you. If you receive a hundred, he will receive fifty; if you receive two, he will receive one."
“Học trò của ngài sẽ không nhận được bằng ngài. Khi ngài nhận một trăm, nó sẽ nhận năm mươi; khi ngài nhận hai, nó sẽ nhận một.”
So gehaṃ gantvā taṃ pavattiṃ antevāsikassa ārocesi.
He went home and reported that matter to his apprentice.
Ngài về nhà và báo tin đó cho người học trò.
Antevāsiko ‘‘ahaṃ, ācariya, tumhehi samaṃ sippaṃ jānāmi.
The apprentice said, "Teacher, I know the craft as well as you do.
Người học trò nói: “Thưa thầy, con biết nghề bằng thầy.
Sace samakaññeva paribbayaṃ labhissāmi, upaṭṭhahissāmi.
If I receive the same remuneration, I will serve.
Nếu con nhận được lương bằng thầy, con sẽ hầu hạ.
No ce, na upaṭṭhahissāmī’’ti āha.
If not, I will not serve."
Nếu không, con sẽ không hầu hạ.”
Bodhisatto taṃ pavattiṃ rañño ārocesi.
The Bodhisatta reported that matter to the king.
Bồ Tát báo tin đó cho nhà vua.
Rājā ‘‘sace so tumhehi samappakāro, tumhehi samakaññeva sippaṃ dassetuṃ sakkonto samakaṃ labhissatī’’ti āha.
The king said, "If he is of the same kind as you, being able to demonstrate the craft equally with you, he will receive the same."
Nhà vua nói: “Nếu nó có khả năng bằng ngài, có thể biểu diễn nghề bằng ngài, thì nó sẽ nhận được bằng ngài.”
Bodhisatto taṃ pavattiṃ tassa ārocetvā tena ‘‘sādhu dassessāmī’’ti vutte rañño ārocesi.
The Bodhisatta reported that matter to him, and when he said, "Good, I will demonstrate it," he reported it to the king.
Bồ Tát báo tin đó cho người học trò, khi người học trò nói: “Vâng, con sẽ biểu diễn,” thì Ngài báo với nhà vua.
Rājā ‘‘tena hi sve sippaṃ dassethā’’ti.
The king said, "Then, demonstrate the craft tomorrow."
Nhà vua nói: “Vậy thì ngày mai hãy biểu diễn nghề.”
‘‘Sādhu, dassessāma, nagare bheriṃ carāpethā’’ti.
"Good, we will demonstrate it. Have a drum beaten in the city."
“Vâng, chúng con sẽ biểu diễn, xin hãy cho đánh trống trong thành.”
Rājā ‘‘sve kira ācariyo ca antevāsiko ca ubho hatthisippaṃ dassessanti, rājaṅgaṇe sannipatitvā daṭṭhukāmā passantū’’ti bheriṃ carāpesi.
The king had a drum beaten, proclaiming, "Tomorrow, the teacher and the apprentice will both demonstrate elephant craft. Those who wish to see it should assemble in the royal courtyard."
Nhà vua cho đánh trống báo: “Nghe nói ngày mai cả thầy và trò sẽ biểu diễn nghệ thuật huấn luyện voi, những ai muốn xem hãy tập trung tại quảng trường hoàng gia để xem.”
1340
Ācariyo ‘‘na me antevāsiko upāyakosallaṃ jānātī’’ti ekaṃ hatthiṃ gahetvā ekaratteneva vilomaṃ sikkhāpesi.
The teacher, thinking, "My apprentice does not know expedient skill," took an elephant and taught it reverse commands in a single night.
Vị thầy (Bồ Tát) nghĩ: “Học trò của ta không biết sự khéo léo trong phương tiện,” liền bắt một con voi và chỉ trong một đêm đã huấn luyện nó làm ngược lại.
So taṃ ‘‘gacchā’’ti vutte osakkituṃ, ‘‘osakkā’’ti vutte gantuṃ, ‘‘tiṭṭhā’’ti vutte nipajjituṃ, ‘‘nipajjā’’ti vutte ṭhātuṃ, ‘‘gaṇhā’’ti vutte ṭhapetuṃ, ‘‘ṭhapehī’’ti vutte gaṇhituṃ sikkhāpetvā punadivase taṃ hatthiṃ abhiruhitvā rājaṅgaṇaṃ agamāsi.
He trained it to retreat when told "go," to advance when told "retreat," to lie down when told "stand," to stand when told "lie down," to place when told "take," and to take when told "place." The next day, he mounted that elephant and went to the royal courtyard.
Ngài huấn luyện nó để khi nói “Đi!” thì nó lùi lại, khi nói “Lùi!” thì nó đi tới, khi nói “Đứng!” thì nó nằm xuống, khi nói “Nằm!” thì nó đứng lên, khi nói “Cầm!” thì nó đặt xuống, khi nói “Đặt xuống!” thì nó cầm lên; rồi vào ngày hôm sau, Ngài cưỡi con voi đó đến quảng trường hoàng gia.
Antevāsikopi ekaṃ manāpaṃ hatthiṃ abhiruhi.
The apprentice also mounted a pleasing elephant.
Người học trò cũng cưỡi một con voi đẹp.
Mahājano sannipati.
The great multitude assembled.
Đông đảo quần chúng tập trung.
Ubhopi samakaṃ sippaṃ dassesuṃ.
Both demonstrated their craft equally.
Cả hai cùng biểu diễn nghệ thuật.
Puna bodhisatto attano hatthiṃ vilomaṃ kāresi, so ‘‘gacchā’’ti vutte osakki, ‘‘osakkā’’ti vutte purato dhāvi, ‘‘tiṭṭhā’’ti vutte nipajji, ‘‘nipajjā’’ti vutte aṭṭhāsi, ‘‘gaṇhā’’ti vutte nikkhipi, ‘‘nikkhipā’’ti vutte gaṇhi.
Then the Bodhisatta made his elephant perform reverse commands: when told "go," it retreated; when told "retreat," it ran forward; when told "stand," it lay down; when told "lie down," it stood up; when told "take," it put down; when told "put down," it took.
Sau đó, Bồ Tát ra hiệu cho con voi của mình làm ngược lại; khi nói “Đi!” thì nó lùi lại, khi nói “Lùi!” thì nó chạy tới, khi nói “Đứng!” thì nó nằm xuống, khi nói “Nằm!” thì nó đứng lên, khi nói “Cầm!” thì nó đặt xuống, khi nói “Đặt xuống!” thì nó cầm lên.
Mahājano ‘‘are duṭṭhaantevāsika, tvaṃ ācariyena saddhiṃ sārambhaṃ karosi, attano pamāṇaṃ na jānāsi, ‘ācariyena samakaṃ jānāmī’ti evaṃsaññī hosī’’ti leḍḍudaṇḍādīhi paharitvā tattheva jīvitakkhayaṃ pāpesi.
The great multitude, saying, "Oh, you wicked apprentice, you contend with your teacher, you do not know your own measure, you think 'I know as much as the teacher'," struck him with clods and sticks and other things, and caused him to lose his life right there.
Đông đảo quần chúng nói: “Này, đồ học trò bất lương, ngươi dám cạnh tranh với thầy, không biết thân phận mình, lại còn nghĩ rằng ‘ta biết bằng thầy’!” rồi dùng gạch đá, gậy gộc đánh đập, khiến hắn chết ngay tại chỗ.
1341
Bodhisatto hatthimhā oruyha rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘mahārāja, sippaṃ nāma attano sukhatthāya gaṇhanti, ekaccassa pana gahitasippaṃ dukkaṭaupāhanā viya vināsameva āvahatī’’ti vatvā idaṃ gāthādvayamāha –
The Bodhisatta dismounted from the elephant, approached the king, and said, "Great King, a craft is learned for one's own happiness, but for some, a craft that has been learned brings only destruction, like ill-fitting sandals," and spoke these two verses:
Bồ Tát xuống voi, đến gần nhà vua và nói: “Tâu Đại Vương, người ta học nghề để cầu hạnh phúc, nhưng đối với một số người, nghề đã học lại mang đến sự hủy diệt như một đôi giày tồi tệ,” rồi Ngài nói hai câu kệ này:
1342
161.
161.
161.
1343
‘‘Yathāpi kītā purisassupāhanā, sukhassa atthāya dukhaṃ udabbahe;
"Just as sandals bought for a man's comfort might cause him pain,
“Như đôi giày đã mua vì hạnh phúc của người,
1344
Ghammābhitattā talasā papīḷitā, tasseva pāde purisassa khādare.
being heated by the sun and pressed by the soles, they would bite that very man's feet.
Bị nóng bức và bị chân giày vò nát, nó lại ăn mòn chính bàn chân của người đó.
1345
162.
162.
162.
1346
‘‘Evameva yo dukkulīno anariyo, tammāka vijjañca sutañca ādiya;
Even so, one of ignoble birth, ignoble, who takes up such knowledge and learning,
Cũng vậy, kẻ hạ tiện, không cao thượng, đã học được kiến thức và sự hiểu biết từ thầy,
1347
Tameva so tattha sutena khādati, anariyo vuccati pānadūpamo’’ti.
with that very learning, he devours himself there; he is called ignoble, like excrement."
Chính nó lại tự hủy hoại mình bằng sự hiểu biết đó; kẻ không cao thượng đó được ví như đôi giày tệ hại.”
1348
Tattha udabbaheti udabbaheyya.
There, udabbahe means 'might bring forth'.
Trong đó, udabbahe có nghĩa là udabbaheyya (sẽ mang đến).
Ghammābhitattā talasā papīḷitāti ghammena abhitattā pādatalena ca pīḷitā.
Ghammābhitattā talasā papīḷitā means 'heated by the sun and pressed by the soles of the feet'.
Ghammābhitattā talasā papīḷitā có nghĩa là bị nóng bức bởi nắng và bị giày vò bởi lòng bàn chân.
Tassevāti yena tā sukhatthāya kiṇitvā pādesu paṭimukkā dukkaṭūpāhanā, tasseva.
Tassevā means 'of that very person', by whom those ill-fitting sandals were bought for comfort and worn on the feet.
Tassevā có nghĩa là của chính người đó, người đã mua đôi giày tồi tệ đó vì hạnh phúc và mang vào chân.
Khādareti vaṇaṃ karontā pāde khādanti.
Khādare means 'they bite', causing wounds to the feet.
Khādare có nghĩa là ăn mòn bàn chân, gây ra vết thương.
1349
Dukkulīnoti dujjātiko akulaputto.
Dukkulīno means 'of ignoble birth', a son of an ignoble family.
Dukkulīno có nghĩa là người xuất thân hèn kém, con của gia đình thấp kém.
Anariyoti hirottappavajjito asappuriso.
Anariyo means 'ignoble', one devoid of shame and moral dread, a bad person.
Anariyo có nghĩa là người bất thiện, không có hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
Tammāka vijjañca sutañca ādiyāti ettha taṃ taṃ manatīti ‘‘tammo’’ti vattabbe tammāko, taṃ taṃ sippaṃ āsevati parivattetīti attho, ācariyassetaṃ nāmaṃ.
Tammāka vijjañca sutañca ādiyā – here, 'tamma' means 'one who delights in this or that', so 'tammāka' is used instead of 'tamma'; it means 'one who practices and cultivates this or that craft'; this is a name for the teacher.
Tammāka vijjañca sutañca ādiyā – ở đây, vì nó yêu thích cái đó, nên gọi là “tammo,” nhưng ở đây dùng “tammāko” có nghĩa là người thực hành, luân chuyển nghệ thuật đó. Đây là tên của vị thầy.
Tasmā tammākā, gāthābandhasukhatthaṃ panassa rassabhāvo kato.
Therefore, 'tammākā'; its short vowel form was made for the sake of metrical convenience.
Vì vậy, tammākā, nhưng để thuận tiện cho vần điệu kệ, nó được rút ngắn.
Vijjanti aṭṭhārasasu vijjāṭṭhānesu yaṃkiñci.
Vijja means 'any one of the eighteen branches of knowledge'.
Vijja có nghĩa là bất kỳ điều gì trong mười tám lĩnh vực kiến thức.
Sutanti yaṃkiñci sutapariyatti.
Suta means 'any learning by hearing'.
Suta có nghĩa là bất kỳ sự học hỏi nào.
Ādiyātiādiyitvā.
Ādiyā means 'having taken up'.
Ādiyā có nghĩa là đã học được.
Tameva so tattha sutena khādatīti tamevāti attānameva.
Tameva so tattha sutena khādatītameva means 'himself'.
Tameva so tattha sutena khādatītameva có nghĩa là chính mình.
Soti yo dukkulīno anariyo ācariyamhā vijjañca sutañca ādiyati, so.
So means 'he', who is of ignoble birth, ignoble, and takes up knowledge and learning from the teacher.
So có nghĩa là kẻ hạ tiện, không cao thượng, đã học được kiến thức và sự hiểu biết từ thầy, kẻ đó.
Tattha sutena khādatīti tassa santike sutena so attānameva khādatīti attho.
Tattha sutena khādatī means 'he devours himself there with that learning in the presence of that person'.
Tattha sutena khādatī có nghĩa là hắn tự hủy hoại chính mình bằng sự hiểu biết đó.
Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘teneva so tattha sutena khādatī’’tipi pāṭho.
In the Commentary, however, there is also the reading: "He eats there with that knowledge."
Trong bản Chú giải, cũng có đoạn văn ‘‘teneva so tattha sutena khādatī’’.
Tassāpi so tena tattha sutena attānameva khādatīti ayameva attho.
Even for that, the meaning is precisely this: "He eats himself there with that knowledge."
Ý nghĩa của nó cũng là hắn tự hủy hoại chính mình bằng sự hiểu biết đó.
Anariyo vuccati pānadūpamoti iti anariyo dupāhanūpamo dukkaṭūpāhanūpamo vuccati.
"An ignoble one is called like a pānadu" means an ignoble one is called like a worn-out sandal, like a badly made sandal.
Anariyo vuccati pānadūpamo có nghĩa là kẻ không cao thượng đó được gọi là giống như đôi giày tệ hại, giống như đôi giày hỏng.
Yathā hi dukkaṭūpāhanā purisaṃ khādanti, evamesa sutena khādanto attanāva attānaṃ khādati.
Just as badly made sandals wear out a person, so too, this one, eating with knowledge, eats himself by himself.
Thật vậy, như đôi giày tệ hại ăn mòn người, thì kẻ này cũng tự hủy hoại mình bằng sự hiểu biết.
Atha vā pānāya dutoti pānadu, upāhanūpatāpitassa upāhanāya khāditapādassetaṃ nāmaṃ.
Or, "pānadu" means "worn out for walking," this is the name for one whose feet are eaten by sandals, worn out by sandals.
Hoặc pānadū là kẻ làm hại cho chân (pāna), đây là tên của người có chân bị giày làm tổn thương.
Tasmā yo so attānaṃ sutena khādati, so tena sutena khāditattā ‘‘anariyo’’ti vuccati pānadūpamo, upāhanūpatāpitapādasadisoti vuccatīti ayamettha attho.
Therefore, he who eats himself with knowledge, because he is eaten by that knowledge, is called "ignoble," like a pānadu, meaning like one whose feet are worn out by sandals. This is the meaning here.
Vì vậy, kẻ tự hủy hoại mình bằng sự hiểu biết đó được gọi là “anariyo” (không cao thượng) và được ví như “pānadū” (kẻ có chân bị giày làm tổn thương), tức là giống như người có chân bị giày làm tổn thương – đó là ý nghĩa ở đây.
Rājā tuṭṭho bodhisattassa mahantaṃ yasaṃ adāsi.
The king, pleased, bestowed great fame upon the Bodhisatta.
Nhà vua hoan hỷ ban cho Bồ Tát vinh dự lớn lao.
1350
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā antevāsiko devadatto ahosi, ācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the pupil was Devadatta, but the teacher was I myself."
Bậc Đạo Sư đã thuyết pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Người học trò lúc đó chính là Devadatta, còn vị thầy chính là Ta.”
1351
Upāhanajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The First Commentary on the Upāhana Jātaka.
Câu chuyện Jātaka Upāhana, thứ nhất, đã kết thúc.
1352
* 2. Vīṇāthūṇajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Vīṇāthūṇa Jātaka
* 2. Câu chuyện Jātaka Vīṇāthūṇa
1353
Ekacintitoyamatthoti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ kumārikaṃ ārabbha kathesi.
"This matter was conceived by one person" – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning a certain young woman.
Ekacintitoyamattho (Ý nghĩa này đã được suy nghĩ một mình) – Bậc Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một cô gái trẻ.
Sā kirekā sāvatthiyaṃ seṭṭhidhītā attano gehe usabharājassa sakkāraṃ kayiramānaṃ disvā dhātiṃ pucchi – ‘‘amma, ko nāmesa evaṃ sakkāraṃ labhatī’’ti.
It is said that a certain daughter of a rich merchant in Sāvatthī, seeing a bull king being honored in her house, asked her nurse, "Mother, who is this who receives such honor?"
Người ta kể rằng, có một con gái của một vị trưởng giả ở Sāvatthī, thấy một con bò chúa được tôn kính trong nhà mình, liền hỏi người vú nuôi: “Mẹ ơi, ai là người được tôn kính như vậy?”
‘‘Usabharājā nāma, ammā’’ti.
"It is called the bull king, dear."
“Đó là bò chúa, con ạ.”
Puna sā ekadivasaṃ pāsāde ṭhatvā antaravīthiṃ olokentī ekaṃ khujjaṃ disvā cintesi – ‘‘gunnaṃ antare jeṭṭhakassa piṭṭhiyaṃ kakudhaṃ hoti, manussajeṭṭhakassapi tena bhavitabbaṃ, ayaṃ manussesu purisūsabho bhavissati, etassa mayā pādaparicārikāya bhavituṃ vaṭṭatī’’ti.
Then one day, standing on the palace and looking down the street, she saw a hunchback and thought, "Among cattle, the leader has a hump on its back; it must be so for the leader of men too. This one must be a bull among men, a chief among men. It is proper for me to be a servant at his feet."
Rồi một ngày nọ, nàng đứng trên lầu, nhìn ra đường phố, thấy một người gù, nàng suy nghĩ: “Trong số loài bò, con đầu đàn có bướu trên lưng. Người đứng đầu loài người cũng phải có cái đó. Người này chắc chắn là bậc trượng phu ưu việt trong loài người. Ta nên làm người hầu chân cho người này.”
Sā dāsiṃ pesetvā ‘‘seṭṭhidhītā tayā saddhiṃ gantukāmā, asukaṭṭhānaṃ kira gantvā tiṭṭhā’’ti tassa ārocetvā sārabhaṇḍakaṃ ādāya aññātakavesena pāsādā otaritvā tena saddhiṃ palāyi.
She sent a maidservant to inform him, "The merchant's daughter wishes to go with you; please go and wait at such-and-such a place." Then, taking her valuables, she descended from the palace in disguise and fled with him.
Nàng sai một người hầu gái báo cho người gù biết rằng: “Con gái của trưởng giả muốn đi cùng ông, hãy đến chỗ kia mà đứng.” Rồi nàng mang theo đồ trang sức quý giá, xuống lầu với bộ dạng không ai nhận ra, rồi bỏ trốn cùng người gù đó.
Aparabhāge taṃ kammaṃ nagare ca bhikkhusaṅghe ca pākaṭaṃ jātaṃ.
Later, that deed became known in the city and among the Sangha of bhikkhus.
Sau đó, việc làm đó đã trở nên công khai trong thành phố và trong Tăng đoàn.
Dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asukā kira seṭṭhidhītā khujjena saddhiṃ palātā’’ti.
In the Dhamma hall, the bhikkhus raised the topic, "Friends, it seems that such-and-such a merchant's daughter has fled with a hunchback."
Trong Pháp đường, các Tỳ-khưu đã khởi xướng câu chuyện: “Này các hiền giả, nghe nói con gái của trưởng giả kia đã bỏ trốn cùng một người gù.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte satthā ‘‘na, bhikkhave, idānevesā khujjaṃ kāmeti, pubbepi kāmesiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic are you gathered now, bhikkhus?" When told, "On this topic," the Teacher said, "Bhikkhus, it is not only now that she desires a hunchback; she desired one in the past as well," and then he related a past event.
Đức Bổn Sư đến hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi nói chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này đây, bạch Đức Thế Tôn,” Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải bây giờ nàng mới yêu người gù đó, mà từ kiếp trước nàng cũng đã yêu rồi,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
1354
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto ekasmiṃ nigamagāme seṭṭhikule nibbattitvā vayappatto gharāvāsaṃ vasanto puttadhītāhi vaḍḍhamāno attano puttassa bārāṇasīseṭṭhissa dhītaraṃ vāretvā divasaṃ ṭhapesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a merchant family in a certain village, and having come of age, he lived a householder's life, prospering with sons and daughters. He arranged for his son to marry the daughter of the chief merchant of Bārāṇasī and set the date.
Thuở xưa, khi Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh vào gia đình một trưởng giả ở một làng lớn, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài sống đời gia đình, có con trai và con gái. Ngài đã hỏi cưới con gái của trưởng giả Bārāṇasī cho con trai mình và đã định ngày cưới.
Seṭṭhidhītā attano gehe usabhassa sakkārasammānaṃ disvā ‘‘ko nāmeso’’ti dhātiṃ pucchitvā ‘‘usabho’’ti sutvā antaravīthiyā gacchantaṃ ekaṃ khujjaṃ disvā ‘‘ayaṃ purisūsabho bhavissatī’’ti sārabhaṇḍakaṃ gahetvā tena saddhiṃ palāyi.
The merchant's daughter, seeing the honors paid to a bull in her house, asked her nurse, "Who is this?" and having heard "A bull," she saw a hunchback walking down the street and thought, "This must be a bull among men." So, taking her valuables, she fled with him.
Con gái của trưởng giả, khi thấy sự tôn kính dành cho con bò đực trong nhà, đã hỏi người vú nuôi: “Con gì vậy?” Nghe nói là “bò đực,” nàng thấy một người gù đang đi trên đường phố, nghĩ: “Người này chắc chắn là bậc trượng phu ưu việt,” rồi nàng cầm đồ trang sức bỏ trốn cùng người gù đó.
Bodhisattopi kho ‘‘seṭṭhidhītaraṃ gehaṃ ānessāmī’’ti mahantena parivārena bārāṇasiṃ gacchanto tameva maggaṃ paṭipajji.
The Bodhisatta, too, thinking, "I will bring the merchant's daughter home," set out for Bārāṇasī with a large retinue, traveling the same road.
Bồ-tát cũng đi đến Bārāṇasī với đoàn tùy tùng lớn để “đem con gái trưởng giả về nhà,” và Ngài đã đi cùng con đường đó.
Te ubhopi sabbarattiṃ maggaṃ agamaṃsu.
Both of them traveled the whole night.
Cả hai người họ đã đi suốt đêm.
Atha khujjassa sabbarattiṃ sītāsihatassa aruṇodaye sarīre vāto kuppi, mahantā vedanā vattanti.
Then, for the hunchback, who had been afflicted by the cold all night, at dawn, his bodily winds became disturbed, and great pains arose.
Rồi, người gù, vì bị lạnh suốt đêm, khi bình minh, khí huyết trong người nổi loạn, những cơn đau dữ dội hành hạ.
So maggā okkamma vedanāppatto hutvā vīṇādaṇḍako viya saṃkuṭito nipajji, seṭṭhidhītāpissa pādamūle nisīdi.
He left the road, afflicted by pain, and lay down curled up like the neck of a lute. The merchant's daughter also sat at his feet.
Ông ta rời đường, vì đau đớn nên nằm co quắp như cây đàn vīṇā bị đứt dây, còn con gái trưởng giả thì ngồi ở chân ông ta.
Bodhisatto seṭṭhidhītaraṃ khujjassa pādamūle nisinnaṃ disvā sañjānitvā upasaṅkamitvā seṭṭhidhītāya saddhiṃ sallapanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, seeing the merchant's daughter sitting at the hunchback's feet, recognized her and approached her, speaking with her, and uttered the first verse:
Bồ-tát thấy con gái trưởng giả ngồi ở chân người gù, nhận ra nàng, bèn đến gần, nói chuyện với con gái trưởng giả và đọc bài kệ thứ nhất:
1355
163.
163.
163.
1356
‘‘Ekacintitoyamattho, bālo apariṇāyako;
"This matter was conceived by one person, a fool, without foresight;
“Việc này chỉ do một mình con nghĩ,
1357
Na hi khujjena vāmena, bhoti saṅgantumarahasī’’ti.
Indeed, you should not associate with a hunchback, a cripple."
Này cô nương, con không nên đi cùng người gù lùn tịt này.”
1358
Tattha ekacintitoyamatthoti amma, yaṃ tvaṃ atthaṃ cintetvā iminā khujjena saddhiṃ palātā, ayaṃ tayā ekikāya eva cintito bhavissati.
Therein, " This matter was thought of by you alone" means, "Mother, the matter that you thought of and ran away with this hunchback, this must have been thought of by you alone."
Ở đây, ekacintitoyamattho (việc này chỉ do một mình con nghĩ) có nghĩa là: Này con, việc mà con đã nghĩ rồi bỏ trốn cùng người gù này, việc này chắc chắn chỉ do một mình con nghĩ thôi.
Bālo apariṇāyakoti ayaṃ khujjo bālo, duppaññabhāvena mahallakopi bālova, aññasmiṃ gahetvā gacchante asati gantuṃ asamatthatāya apariṇāyako.
" A fool, not a leader" means, "This hunchback is a fool. Even though he is old, due to his lack of wisdom, he is indeed a fool. He is not a leader because he is incapable of going unless someone else takes him."
Bālo apariṇāyako (ngu si, không có người dẫn dắt) có nghĩa là: Người gù này ngu si, dù lớn tuổi nhưng vẫn ngu si vì thiếu trí tuệ, và không có người dẫn dắt vì không có khả năng tự mình đi khi không có ai đưa đi.
Na hi khujjena vāmena, bhoti saṅgantumarahasīti iminā hi khujjena vāmanattā vāmena bhoti tvaṃ mahākule jātā abhirūpā dassanīyā saṅgantuṃ saha gantuṃ nārahasīti.
" Indeed, with a hunchback, a dwarf, lady, you should not associate" means, "Lady, you, born in a great family, beautiful and lovely to behold, should not associate or go together with this hunchback, who is a dwarf due to his dwarfishness."
Na hi khujjena vāmena, bhoti saṅgantumarahasī (Này cô nương, con không nên đi cùng người gù lùn tịt này) có nghĩa là: Này cô nương, con sinh ra trong gia đình cao quý, xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng, không nên đi cùng, không nên đi chung với người gù lùn tịt này.
1359
Athassa taṃ vacanaṃ sutvā seṭṭhidhītā dutiyaṃ gāthamāha –
Then, having heard his words, the merchant's daughter spoke the second verse:
Nghe lời đó, con gái trưởng giả đọc bài kệ thứ hai:
1360
164.
164.
164.
1361
‘‘Purisūsabhaṃ maññamānā, ahaṃ khujjamakāmayiṃ;
‘‘Thinking him a bull among men, I desired the hunchback;
“Vì nghĩ là bậc trượng phu ưu việt,
1362
Soyaṃ saṃkuṭito seti, chinnatanti yathā thuṇā’’ti.
But he lies there, shriveled, like a lute-peg with a broken string.’’
Con đã yêu người gù này. Giờ đây, ông ta nằm co quắp như cây đàn bị đứt dây.”
1363
Tassattho – ahaṃ, ayya, ekaṃ usabhaṃ disvā ‘‘gunnaṃ jeṭṭhakassa piṭṭhiyaṃ kakudhaṃ hoti, imassapi taṃ atthi, imināpi purisūsabhena bhavitabba’’nti evamahaṃ khujjaṃ purisūsabhaṃ maññamānā akāmayiṃ.
Its meaning is: "Venerable sir, seeing a bull, I thought, 'A bull, the chief of cattle, has a hump on its back; he also has that. He must also be a bull among men.' Thus, thinking the hunchback to be a bull among men, I desired him."
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Này ngài, con thấy một con bò đực, nghĩ rằng: “Con đầu đàn trong loài bò có bướu trên lưng, người này cũng có cái đó, người này chắc chắn là bậc trượng phu ưu việt,” như vậy, con đã yêu người gù này vì nghĩ ông ta là bậc trượng phu ưu việt.
Soyaṃ yathā nāma chinnatanti sadoṇiko vīṇādaṇḍako, evaṃ saṃkuṭito setīti.
"But he lies there, shriveled, like a lute-peg with a broken string," meaning a lute-peg with its soundbox, just like that, he lies shriveled.
Giờ đây, ông ta nằm co quắp như cây đàn vīṇā bị đứt dây và bị bỏ rơi.
1364
Bodhisatto tassā aññātakavesena nikkhantabhāvameva ñatvā taṃ nhāpetvā alaṅkaritvā rathaṃ āropetvā gehameva agamāsi.
The Bodhisatta, knowing that she had left in disguise, had her bathed and adorned, placed her in a chariot, and returned home.
Bồ-tát biết rằng nàng đã bỏ trốn trong bộ dạng không ai nhận ra, bèn tắm rửa, trang điểm cho nàng, rồi đặt nàng lên xe và trở về nhà.
1365
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā ayameva seṭṭhidhītā ahosi, bārāṇasīseṭṭhi pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, identified the Jātaka: "At that time, this merchant's daughter was she herself, and the merchant of Bārāṇasī was I myself."
Đức Bổn Sư đã kể Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Con gái trưởng giả đó chính là nàng này, còn trưởng giả Bārāṇasī chính là Ta.”
1366
Vīṇāthūṇajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Vīṇāthūṇa Jātaka.
Câu chuyện Jātaka về cây đàn Vīṇāthūṇa, thứ hai, chấm dứt.
1367
* 3. Vikaṇṇakajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Vikaṇṇaka Jātaka
* 3. Câu chuyện Jātaka về Vikaṇṇaka
1368
Kāmaṃ yahiṃ icchasi tena gacchāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ ukkaṇṭhitabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
" Go wherever you wish" – the Teacher spoke this while residing at Jetavana, concerning a bhikkhu who had become discontented.
Kāmaṃ yahiṃ icchasi tena gacchā (Muốn đi đâu thì cứ đi) – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu chán nản.
So hi dhammasabhaṃ ānīto ‘‘saccaṃ kira, tvaṃ bhikkhu, ukkaṇṭhito’’ti satthārā puṭṭho ‘‘sacca’’nti vatvā ‘‘kasmā ukkaṇṭhitosī’’ti vutte ‘‘kāmaguṇakāraṇā’’ti āha.
When he was brought to the Dhamma hall and asked by the Teacher, "Is it true, bhikkhu, that you are discontented?" he replied, "It is true." When asked, "Why are you discontented?" he said, "Because of sensual pleasures."
Khi Tỳ-khưu đó được đưa đến Pháp đường, Đức Bổn Sư hỏi: “Này Tỳ-khưu, có thật là ông chán nản không?” Khi Tỳ-khưu đó trả lời: “Thật vậy, bạch Đức Thế Tôn,” và được hỏi: “Tại sao ông lại chán nản?” Tỳ-khưu đó nói: “Vì các dục lạc.”
Atha naṃ satthā ‘‘kāmaguṇā nāmete bhikkhu vikaṇṇakasallasadisā, sakiṃ hadaye patiṭṭhaṃ labhamānā vikaṇṇakaṃ viya viddhaṃ suṃsumāraṃ maraṇameva pāpentī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Then the Teacher said to him, "Bhikkhu, these sensual pleasures are like the vikaṇṇaka barb; once they find a footing in the heart, they lead the pierced crocodile to death, just like a vikaṇṇaka," and he related a past event.
Rồi Đức Bổn Sư nói với Tỳ-khưu đó: “Này Tỳ-khưu, các dục lạc này giống như mũi tên Vikaṇṇaka, một khi đã ghim vào tim, chúng sẽ giết chết người như cá sấu bị mũi tên Vikaṇṇaka đâm vào,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
1369
Atīte bodhisatto bārāṇasiyaṃ dhammena rajjaṃ kārento ekadivasaṃ uyyānaṃ gantvā pokkharaṇītīraṃ sampāpuṇi.
In the past, the Bodhisatta, ruling the kingdom in Bārāṇasī righteously, one day went to the pleasure garden and reached the bank of a lotus pond.
Thuở xưa, Bồ-tát trị vì công bằng tại Bārāṇasī. Một ngày nọ, Ngài đi đến khu vườn và đến bờ hồ sen.
Naccagītāsu kusalā naccagītāni payojesuṃ, pokkharaṇiyaṃ macchakacchapā gītasaddalolatāya sannipatitvā raññāva saddhiṃ gacchanti.
Those skilled in dancing and singing performed dances and songs. Fish and tortoises in the pond, attracted by the sound of the singing, gathered and followed the king.
Những người giỏi ca múa đã biểu diễn. Cá và rùa trong hồ sen, vì mê tiếng hát, đã tụ tập lại và đi theo nhà vua.
Rājā tālakkhandhappamāṇaṃ macchaghaṭaṃ disvā ‘‘kiṃ nu kho ime macchā mayā saddhiṃyeva carantī’’ti amacce pucchi.
The king, seeing a school of fish as large as palm trunks, asked his ministers, "Why do these fish follow me?"
Nhà vua thấy một đàn cá lớn như thân cây thốt nốt, bèn hỏi các quan đại thần: “Có phải những con cá này đi theo ta không?”
Amaccā ‘‘ete, deva, upaṭṭhahantī’’ti āhaṃsu.
The ministers replied, "Deva, they serve you."
Các quan đại thần thưa: “Bạch Đại vương, chúng đang hầu hạ Ngài.”
Rājā ‘‘ete kira maṃ upaṭṭhahantī’’ti tussitvā tesaṃ niccabhattaṃ paṭṭhapesi.
The king, pleased that "these indeed serve me," established a regular meal for them.
Nhà vua vui mừng nói: “Chúng đang hầu hạ ta,” rồi Ngài ban bố thức ăn thường xuyên cho chúng.
Devasikaṃ taṇḍulambaṇaṃ pācesi.
Every day, rice gruel was cooked.
Hằng ngày, Ngài nấu cháo gạo.
Macchā bhattavelāya ekacce āgacchanti, ekacce nāgacchanti, bhattaṃ nassati.
Some fish came at mealtime, some did not, and the food was wasted.
Vào giờ ăn, một số cá đến, một số không đến, thức ăn bị hư hỏng.
Rañño tamatthaṃ ārocesuṃ.
They reported the matter to the king.
Họ đã báo cáo sự việc đó cho nhà vua.
Rājā ‘‘ito paṭṭhāya sattavelāya bheriṃ paharitvā bherisaññāya macchesu sannipatitesu bhattaṃ dethā’’ti āha.
The king said, "From now on, at mealtime, beat the drum and give food to the fish when they gather at the drum signal."
Nhà vua nói: “Từ nay trở đi, vào giờ ăn, hãy đánh trống, và khi cá tụ tập lại theo tiếng trống, hãy cho chúng ăn.”
Tato paṭṭhāya bhattakammiko bheriṃ paharāpetvā sannipatitānaṃ macchānaṃ bhattaṃ deti.
From then on, the meal attendant had the drum beaten and gave food to the gathered fish.
Từ đó trở đi, người phụ trách thức ăn cho đánh trống, rồi cho cá đã tụ tập lại ăn.
Tepi bherisaññāya sannipatitvā bhuñjanti.
They too gathered at the drum signal and ate.
Chúng cũng tụ tập lại theo tiếng trống và ăn.
1370
Tesu evaṃ sannipatitvā bhuñjantesu eko suṃsumāro āgantvā macche khādi.
While they were thus gathered and eating, a crocodile came and ate the fish.
Khi chúng đang tụ tập ăn như vậy, một con cá sấu đến ăn cá.
Bhattakammiko rañño ārocesi.
The meal attendant reported it to the king.
Người phụ trách thức ăn đã báo cáo cho nhà vua.
Rājā taṃ sutvā ‘‘suṃsumāraṃ macchānaṃ khādanakāle vikaṇṇakena vijjhitvā gaṇhā’’ti āha.
The king, hearing that, said, "When the crocodile comes to eat the fish, pierce it with a vikaṇṇaka and catch it."
Nhà vua nghe vậy nói: “Khi cá sấu đang ăn cá, hãy dùng mũi tên Vikaṇṇaka đâm nó và bắt nó.”
So ‘‘sādhū’’ti gantvā nāvāya ṭhatvā macche khādituṃ āgataṃ suṃsumāraṃ vikaṇṇakena pahari, taṃ tassa antopiṭṭhiṃ pāvisi.
He said, "Very well," and went, stood in a boat, and struck the crocodile that came to eat the fish with a vikaṇṇaka; it entered its back.
Người đó nói: “Vâng,” rồi đi, đứng trên thuyền, đâm con cá sấu đến ăn cá bằng mũi tên Vikaṇṇaka, mũi tên đó xuyên vào lưng nó.
So vedanāppatto hutvā taṃ gahetvāva palāyi.
Suffering pain, it fled, taking it along.
Con cá sấu đau đớn, bỏ chạy mang theo mũi tên đó.
Bhattakammiko tassa viddhabhāvaṃ ñatvā taṃ ālapanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The meal attendant, knowing it had been pierced, addressed it and spoke the first verse:
Người phụ trách thức ăn biết nó đã bị đâm, bèn gọi nó và đọc bài kệ thứ nhất:
1371
165.
165.
165.
1372
‘‘Kāmaṃ yahiṃ icchasi tena gaccha, viddhosi mammamhi vikaṇṇakena;
‘‘Go wherever you wish; you are pierced in your vital spot by the vikaṇṇaka;
“Muốn đi đâu thì cứ đi, ngươi đã bị mũi tên Vikaṇṇaka đâm vào chỗ hiểm;
1373
Hatosi bhattena suvāditena, lolo ca macche anubandhamāno’’ti.
"You are struck down by the well-played food, greedy, pursuing fish."
Ngươi đã bị tiêu diệt bởi thức ăn ngon, vì tham lam đuổi theo cá.”
1374
Tattha kāmanti ekaṃsena.
Therein, kāmaṃ means definitely.
Ở đây, kāmaṃ (muốn) có nghĩa là chắc chắn.
Yahiṃ icchasi tena gacchāti yasmiṃ icchasi, tasmiṃ gaccha.
Yahiṃ icchasi tena gacchā means, "Go wherever you wish."
Yahiṃ icchasi tena gacchā (Muốn đi đâu thì cứ đi) có nghĩa là: Ngươi muốn đi đâu thì cứ đi đó.
Mammamhīti mammaṭṭhāne.
Mammamhī means in a vital spot.
Mammamhī (chỗ hiểm) có nghĩa là: Ở chỗ hiểm.
Vikaṇṇakenāti vikaṇṇakasallena.
Vikaṇṇakenā means with a barbed dart.
Vikaṇṇakenā (bằng mũi tên Vikaṇṇaka) có nghĩa là: Bằng mũi tên Vikaṇṇaka.
Hatosi bhattena suvāditena, lolo ca macche anubandhamānoti tvaṃ bherivāditasaññāya bhatte dīyamāne lolo hutvā khādanatthāya macche anubandhamāno tena savāditena bhattena hato, gataṭṭhānepi te jīvitaṃ natthīti attho.
Hatosi bhattena suvāditena, lolo ca macche anubandhamāno means, "You, becoming greedy for the food given, mistaking it for the sound of a drum, pursuing the fish to eat, are struck down by that well-played food. Even in the place you go, there is no life for you." This is the meaning.
Hatosi bhattena suvāditena, lolo ca macche anubandhamāno (Ngươi đã bị tiêu diệt bởi thức ăn ngon, vì tham lam đuổi theo cá) có nghĩa là: Ngươi đã bị tiêu diệt bởi thức ăn ngon đó, vì tham lam đuổi theo cá để ăn khi thức ăn được cho theo tiếng trống; ngay cả ở nơi ngươi đến, ngươi cũng không còn sống được nữa.
So attano vasanaṭṭhānaṃ gantvā jīvitakkhayaṃ patto.
He went to his dwelling place and met the end of his life.
Nó đã đến nơi ở của mình và chết.
1375
Satthā imaṃ kāraṇaṃ dassetvā abhisambuddho hutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having shown this matter, being fully enlightened, spoke the second verse:
Đức Bổn Sư đã trình bày sự việc này, rồi sau khi đạt giác ngộ viên mãn, Ngài đọc bài kệ thứ hai:
1376
166.
166.
166.
1377
‘‘Evampi lokāmisaṃ opatanto, vihaññatī cittavasānuvattī;
"Even so, one who pursues worldly bait, following the sway of the mind, is afflicted;
“Cũng vậy, người chạy theo dục vọng thế gian, bị chi phối bởi tâm ý, sẽ bị hủy hoại;
1378
So haññatī ñātisakhāna majjhe, macchānugo soriva suṃsumāro’’ti.
He is struck down in the midst of relatives and friends, like the porpoise pursuing fish."
Người đó sẽ bị tiêu diệt giữa bà con, bạn bè, như cá sấu đuổi theo cá.”
1379
Tattha lokāmisanti pañca kāmaguṇā.
Therein, lokāmisaṃ refers to the five strands of sensual pleasure.
Ở đây, lokāmisaṃ (dục vọng thế gian) là năm dục lạc.
Te hi loko iṭṭhato kantato manāpato gaṇhāti, tasmā ‘‘lokāmisa’’nti vuccati.
Indeed, the world takes these as desirable, lovely, and agreeable; therefore, they are called "worldly bait."
Chúng được gọi là “dục vọng thế gian” vì thế gian xem chúng là đáng ưa, đáng yêu, đáng thích.
Opatantoti taṃ lokāmisaṃ anupatanto kilesavasena cittavasānuvattī puggalo vihaññati kilamati, so haññatīti so evarūpo puggalo ñātīnañca sakhānañca majjhe so vikaṇṇakena viddho macchānugo suṃsumāro viya pañca kāmaguṇe manāpāti gahetvā haññati kilamati mahāvināsaṃ pāpuṇātiyevāti.
Opatanto means, a person following the sway of the mind, pursuing that worldly bait due to defilements, is afflicted and tormented. So haññatī means, such a person, in the midst of relatives and friends, is struck down and tormented, like that porpoise pierced by a barbed dart, pursuing fish, by grasping the five agreeable strands of sensual pleasure. He certainly meets with great destruction.
Opatanto (chạy theo) có nghĩa là: Người bị chi phối bởi tâm ý, chạy theo dục vọng thế gian đó vì phiền não, sẽ bị hủy hoại, sẽ bị khổ sở. So haññatī (Người đó sẽ bị tiêu diệt) có nghĩa là: Người như vậy sẽ bị tiêu diệt, bị khổ sở, bị đại họa giữa bà con và bạn bè, như cá sấu đuổi theo cá bị mũi tên Vikaṇṇaka đâm vào, vì đã nắm giữ năm dục lạc đáng ưa.
1380
Evaṃ satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne ukkaṇṭhitabhikkhu sotāpattiphale patiṭṭhahi.
Thus, the Teacher, having brought this Dhamma discourse, proclaimed the Truths, and connected the Jātaka. At the conclusion of the Truths, the discontented bhikkhu was established in the fruit of stream-entry.
Như vậy, Đức Bổn Sư đã thuyết giảng bài pháp này, công bố các Chân lý, rồi kết hợp câu chuyện Jātaka. Khi các Chân lý được kết thúc, vị tỳ khưu chán nản đã an trú vào quả vị Dự Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā suṃsumāro devadatto, macchā buddhaparisā, bārāṇasirājā pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the porpoise was Devadatta; the fish were the Buddha's assembly; and the King of Bārāṇasī was I myself."
“Khi ấy, con cá sấu là Devadatta, các con cá là hội chúng của Đức Phật, còn vua xứ Bārāṇasī chính là Ta vậy.”
1381
Vikaṇṇakajātakavaṇṇanā tatiyā.
The Third Description of the Vikaṇṇaka Jātaka.
Giải thích Jātaka Vikaṇṇaka, thứ ba.
1382
* 4. Asitābhūjātakavaṇṇanā
* 4. Description of the Asitābhu Jātaka
* 4. Giải thích Jātaka Asitābhū
1383
Tvameva dānimakarāti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ kumārikaṃ ārabbha kathesi.
Tvameva dānimakarā – the Teacher spoke this, residing at Jetavana, concerning a certain maiden.
“Này ngươi, chính ngươi đã làm điều này” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại Jetavana, liên quan đến một cô gái trẻ.
Sāvatthiyaṃ kirekasmiṃ dvinnaṃ aggasāvakānaṃ upaṭṭhākakule ekā kumārikā abhirūpā sobhaggappattā, sā vayappattā samānajātikaṃ kulaṃ agamāsi.
It is said that in Sāvatthī, in the household of the two chief disciples' patrons, there was a maiden, beautiful and endowed with grace. When she reached maturity, she married into a family of equal status.
Người ta kể rằng, tại Sāvatthī, trong gia đình của một trong hai vị Thượng Thủ Đại Đệ Tử, có một cô gái trẻ xinh đẹp và duyên dáng. Khi đến tuổi, cô kết hôn với một gia đình môn đăng hộ đối.
Sāmiko taṃ kismiñci amaññamāno aññattha cittavasena carati.
Her husband, not valuing her in any way, pursued his desires elsewhere.
Người chồng không coi trọng cô, và có tình ý với người khác.
Sā tassa taṃ attani anādarataṃ agaṇetvā dve aggasāvake nimantetvā dānaṃ datvā dhammaṃ suṇantī sotāpattiphale patiṭṭhahi.
Disregarding his indifference towards her, she invited the two chief disciples, offered alms, listened to the Dhamma, and was established in the fruit of stream-entry.
Cô không để ý đến sự thờ ơ của chồng, đã thỉnh hai vị Thượng Thủ Đại Đệ Tử đến cúng dường, lắng nghe Pháp và an trú vào quả vị Dự Lưu (Sotāpatti).
Sā tato paṭṭhāya maggaphalasukhena vītināmayamānā ‘‘sāmikopi maṃ na icchati, gharāvāsena me kammaṃ natthi, pabbajissāmī’’ti cintetvā mātāpitūnaṃ ācikkhitvā pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇi.
From that time on, she spent her days in the bliss of the path and its fruits, thinking, "My husband does not desire me; I have no purpose in household life; I will go forth." Having informed her parents, she went forth and attained Arahantship.
Từ đó trở đi, cô sống trong niềm an lạc của đạo quả, và suy nghĩ: “Chồng ta không muốn ta, ta không có việc gì trong đời sống gia đình này, ta sẽ xuất gia.” Sau khi nói với cha mẹ, cô đã xuất gia và đạt đến quả vị A-la-hán.
Tassā sā kiriyā bhikkhūsu pākaṭā jātā.
Her deed became well-known among the bhikkhus.
Hành động của cô đã trở nên nổi tiếng trong giới chư tỳ khưu.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asukakulassa dhītā atthagavesikā sāmikassa anicchabhāvaṃ ñatvā aggasāvakānaṃ dhammaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhāya puna mātāpitaro āpucchitvā pabbajitvā arahattaṃ pattā, evaṃ atthagavesikā, āvuso sā kumārikā’’ti.
Then, one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, the daughter of such-and-such a family, seeking her welfare, knowing her husband's disinterest, listened to the Dhamma from the chief disciples, was established in the fruit of stream-entry, then, having asked her parents, went forth and attained Arahantship. Such a seeker of welfare was that maiden, friends!"
Một ngày nọ, các tỳ khưu đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong Pháp đường: “Thưa các bạn, con gái của gia đình nọ là người tìm kiếm lợi ích (attha-gavesikā). Sau khi biết được sự không mong muốn của chồng, cô đã nghe Pháp từ các vị Thượng Thủ Đại Đệ Tử và an trú vào quả vị Dự Lưu (Sotāpatti). Sau đó, cô xin phép cha mẹ xuất gia và đạt đến quả vị A-la-hán. Thưa các bạn, cô gái ấy thật sự là người tìm kiếm lợi ích!”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idānevesā kuladhītā atthagavesikā, pubbepi atthagavesikāyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "With what discussion, bhikkhus, are you now seated?" When told, "With this one," he said, "Bhikkhus, it is not only now that this daughter of a good family is a seeker of welfare; she was a seeker of welfare in the past too," and he recounted a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các tỳ khưu, hiện giờ các ông đang bàn luận về chuyện gì?” Khi được trả lời: “Về chuyện này, bạch Đức Thế Tôn,” ngài nói: “Này các tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ cô gái gia đình này mới là người tìm kiếm lợi ích, mà từ trước cô ấy cũng đã là người tìm kiếm lợi ích rồi.” Rồi ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1384
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto isipabbajjaṃ pabbajitvā abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā himavantapadese vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta had gone forth as a sage, developed supernormal powers and attainments, and resided in the Himālaya region.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã xuất gia tu sĩ, chứng đắc các thần thông và thiền định, rồi an trú tại vùng Himalaya.
Tadā bārāṇasirājā attano puttassa brahmadattakumārassa parivārasampattiṃ disvā uppannāsaṅko puttaṃ raṭṭhā pabbājesi.
At that time, the King of Bārāṇasī, seeing the retinue and prosperity of his son, Prince Brahmadatta, became suspicious and banished his son from the kingdom.
Khi ấy, vua Bārāṇasī, thấy sự thịnh vượng của tùy tùng của con trai mình là hoàng tử Brahmadatta, đã sinh lòng nghi ngờ và trục xuất con trai khỏi vương quốc.
So asitābhuṃ nāma attano deviṃ ādāya himavantaṃ pavisitvā macchamaṃsaphalāphalāni khādanto paṇṇasālāya nivāsaṃ kappesi.
He, taking his queen named Asitābhu, entered the Himālaya, subsisted on fish, meat, fruits, and roots, and made his dwelling in a leaf-hut.
Hoàng tử cùng với hoàng hậu Asitābhū đi vào Himalaya, ăn cá thịt và các loại trái cây, rồi dựng một túp lều lá để sống.
So ekaṃ kinnariṃ disvā paṭibaddhacitto ‘‘imaṃ pajāpatiṃ karissāmī’’ti asitābhuṃ agaṇetvā tassā anupadaṃ agamāsi.
He saw a Kinnarī and became infatuated, thinking, "I will make her my wife." Disregarding Asitābhu, he followed in her footsteps.
Một lần, hoàng tử thấy một nàng Kinnarī, liền say mê và muốn “lấy nàng làm vợ.” Hoàng tử không để ý đến Asitābhū mà đi theo nàng Kinnarī.
Sā taṃ kinnariṃ anubandhamānaṃ disvā ‘‘ayaṃ maṃ agaṇetvā kinnariṃ anubandhati, kiṃ me iminā’’ti virattacittā hutvā bodhisattaṃ upasaṅkamitvā vanditvā attano kasiṇaparikammaṃ kathāpetvā kasiṇaṃ olokentī abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā bodhisattaṃ vanditvā āgantvā attano paṇṇasālāya dvāre aṭṭhāsi.
She, seeing him pursuing the kinnarī, thought, "He pursues the kinnarī, disregarding me; what is he to me?" Her mind became dispassionate. She approached the Bodhisatta, paid homage, had him explain her kasiṇa practice, and contemplating the kasiṇa, she generated the supernormal powers (abhiññā) and attainments (samāpattiyo). Paying homage to the Bodhisatta, she returned and stood at the door of her leaf-hut.
Khi Asitābhū thấy hoàng tử đi theo nàng Kinnarī, cô nghĩ: “Người này không coi trọng ta mà lại theo nàng Kinnarī, ta cần gì người này?” Cô cảm thấy chán ghét, liền đến gặp Bồ Tát, đảnh lễ, và nhờ Bồ Tát chỉ dạy về thiền chỉ (kasiṇa). Sau khi quán tưởng kasiṇa, cô chứng đắc các thần thông và thiền định. Cô đảnh lễ Bồ Tát, rồi trở về và đứng trước cửa túp lều lá của mình.
Brahmadattopi kinnariṃ anubandhanto vicaritvā tassā gatamaggampi adisvā chinnāso hutvā paṇṇasālābhimukhova āgato.
Brahmadatta, too, having wandered in pursuit of the kinnarī and not even seeing the path she had taken, became disheartened and came directly towards the leaf-hut.
Hoàng tử Brahmadatta, sau khi đi theo nàng Kinnarī mà không tìm thấy dấu vết của nàng, đã thất vọng và trở về túp lều lá.
Asitābhū taṃ āgacchantaṃ disvā vehāsaṃ abbhuggantvā maṇivaṇṇe gaganatale ṭhitā ‘‘ayyaputta, taṃ nissāya mayā idaṃ jhānasukhaṃ laddha’’nti vatvā imaṃ gāthamāha –
Asitābhū, seeing him approaching, rose into the air and, standing in the jewel-colored sky, said, "My dear, it is by relying on you that I have attained this joy of jhāna," and then spoke this verse:
Asitābhū thấy hoàng tử đến, liền bay lên không trung, đứng trên bầu trời sáng như ngọc báu, nói: “Thưa hoàng tử, nhờ có ngài mà thiền lạc này đã được tôi chứng đắc,” rồi đọc bài kệ này:
1385
167.
167.
167.
1386
‘‘Tvameva dānimakara, yaṃ kāmo byagamā tayi;
"It is you, indeed, who have now done this, as desire has departed from you;
“Chính ngươi đã làm điều này, sự say mê của ta đối với ngươi đã biến mất;
1387
Soyaṃ appaṭisandhiko, kharachinnaṃva renuka’’nti.
That (desire) is now without re-connection, like an elephant's tusk cut by a saw."
Nó không thể nối lại được, như ngà voi bị cưa đứt.”
1388
Tattha tvameva dānimakarāti, ayyaputta, maṃ pahāya kinnariṃ anubandhanto tvaññeva idāni idaṃ akara.
Therein, tvameva dānimakarā means: "My dear, abandoning me and pursuing the kinnarī, it is you yourself who have now done this."
Trong đó, tvameva dānimakarā có nghĩa là: Thưa hoàng tử, ngươi đã bỏ ta mà đi theo nàng Kinnarī, chính ngươi đã làm điều này.
Yaṃ kāmo byagamā tayīti yaṃ mama tayi kāmo vigato vikkhambhanappahānena pahīno, yassa pahīnattā ahaṃ imaṃ visesaṃ pattāti dīpeti.
Yaṃ kāmo byagamā tayī means: "That desire which has departed from me concerning you, that has been abandoned by the suppression-abandonment (vikkhambhanappahāna), and due to its abandonment, I have attained this distinction"—this is what is revealed.
Yaṃ kāmo byagamā tayī có nghĩa là: Sự say mê của ta đối với ngươi đã biến mất, đã bị đoạn trừ bằng cách trấn áp (vikkhambhanappahānena), nhờ sự đoạn trừ đó mà ta đã đạt được sự đặc biệt này, tức là sự chứng đắc này.
Soyaṃ appaṭisandhikoti so pana kāmo idāni appaṭisandhiko jāto, na sakkā paṭisandhituṃ.
Soyaṃ appaṭisandhiko means: "That desire is now without re-connection; it cannot be re-connected."
Soyaṃ appaṭisandhiko có nghĩa là: Sự say mê đó bây giờ đã không thể nối lại được, không thể kết nối lại được.
Kharachinnaṃva renukanti kharo vuccati kakaco, renukaṃ vuccati hatthidanto.
Kharachinnaṃva renuka means: "Khara is called a saw; renuka is called an elephant's tusk."
Kharachinnaṃva renukaṃ có nghĩa là: Khara là cưa, renukaṃ là ngà voi.
Yathā kakacena chinno hatthidanto appaṭisandhiko hoti, na puna purimanayena allīyati, evaṃ puna mayhaṃ tayā saddhiṃ cittassa ghaṭanaṃ nāma natthīti vatvā tassa passantasseva uppatitvā aññattha agamāsi.
Just as an elephant's tusk cut by a saw is without re-connection and does not adhere again in the former manner, so too, there is no re-joining of my mind with you"—having said this, she flew up and went elsewhere, even as he watched.
Như ngà voi bị cưa đứt thì không thể nối lại được, không thể gắn liền lại như trước, cũng vậy, tâm ta không thể gắn kết với ngươi nữa. Nói xong, cô bay đi nơi khác ngay trước mắt hoàng tử.
1389
So tassā gatakāle paridevamāno dutiyaṃ gāthamāha –
When she had gone, he lamented and spoke the second verse:
Khi cô đã đi, hoàng tử than thở và đọc bài kệ thứ hai:
1390
168.
168.
168.
1391
‘‘Atricchaṃ atilobhena, atilobhamadena ca;
"One of excessive craving, by excessive greed and by the intoxication of excessive greed;
“Tham muốn quá độ, với lòng tham lam quá mức, và sự kiêu ngạo của lòng tham lam;
1392
Evaṃ hāyati atthamhā, ahaṃva asitābhuyā’’ti.
Thus does one lose one's welfare, just as I have lost Asitābhū."
Như vậy, người ta mất đi lợi ích, như ta đã mất Asitābhū.”
1393
Tattha atricchaṃ atilobhenāti atricchā vuccati atra atra icchāsaṅkhātā apariyantataṇhā, atilobho vuccati atikkamitvā pavattalobho.
Therein, atricchaṃ atilobhenā means: "Atricchā is called endless craving, which is craving for this and that; atilobha is called greed that has gone beyond bounds."
Trong đó, atricchaṃ atilobhenā có nghĩa là: Atricchā là sự tham muốn không giới hạn, tức là khát ái vô cùng; atilobha là lòng tham lam vượt quá giới hạn.
Atilobhamadena cāti purisamadaṃ uppādanato atilobhamado nāma jāyati.
Atilobhamadena cā means: "The intoxication of excessive greed arises from generating pride in oneself."
Atilobhamadena cā có nghĩa là: Sự kiêu ngạo do lòng tham lam quá mức sinh ra, vì nó tạo ra sự kiêu ngạo của người.
Idaṃ vuttaṃ hoti – atricchāvasena atricchamāno puggalo atilobhena ca atilobhamadena ca yathā ahaṃ asitābhuyā rājadhītāya parihīno, evaṃ atthā hāyatīti.
This is what is meant: "A person with excessive craving, being excessively desirous, by excessive greed and by the intoxication of excessive greed, loses welfare, just as I have been deprived of the princess Asitābhū."
Điều này có nghĩa là: Một người tham muốn quá mức do sự tham muốn không giới hạn, và do lòng tham lam quá mức cùng với sự kiêu ngạo của lòng tham lam, sẽ mất đi lợi ích, như ta đã mất Asitābhū, con gái của vua.
1394
Iti so imāya gāthāya paridevitvā araññe ekakova vasitvā pitu accayena gantvā rajjaṃ gaṇhi.
Thus, having lamented with this verse, he lived alone in the forest and, upon his father's demise, went and took the kingship.
Như vậy, hoàng tử đã than thở bằng bài kệ này, sống một mình trong rừng, rồi sau khi cha băng hà, chàng trở về và lên ngôi vua.
1395
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā rājaputto ca rājadhītā ca ime dve janā ahesuṃ, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the prince and the princess were these two individuals; the ascetic, however, was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết giảng bài pháp này và kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, hoàng tử và công chúa là hai người này, còn vị ẩn sĩ chính là Ta vậy.”
1396
Asitābhūjātakavaṇṇanā catutthā.
The Fourth, the Commentary on the Asitābhū Jātaka.
Giải thích Jātaka Asitābhū, thứ tư.
1397
* 5. Vacchanakhajātakavaṇṇanā
* 5. Commentary on the Vacchanakha Jātaka
* 5. Giải thích Jātaka Vacchanakha
1398
Sukhā gharā vacchanakhāti idaṃ satthā jetavane viharanto rojamallaṃ ārabbha kathesi.
Sukhā gharā vacchanakhā—This the Teacher spoke while residing at Jetavana, concerning Roja Malla.
“Này Vacchanakha, đời sống gia đình thật an lạc” – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngự tại Jetavana, liên quan đến Rojamalla.
So kirāyasmato ānandassa gihisahāyo.
He was, it is said, a lay friend of Venerable Ānanda.
Người ta kể rằng, ông là bạn thân của Trưởng lão Ānanda khi còn tại gia.
So ekadivasaṃ āgamanatthāya therassa sāsanaṃ pāhesi, thero satthāraṃ āpucchitvā agamāsi.
One day, he sent a message to the Elder for him to come; the Elder, having asked the Teacher, went.
Một ngày nọ, ông gửi lời thỉnh Trưởng lão đến thăm. Trưởng lão xin phép Đức Bổn Sư rồi đi.
So theraṃ nānaggarasabhojanaṃ bhojetvā ekamantaṃ nisinno therena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā theraṃ gihibhogehi pañcahi kāmaguṇehi nimantento ‘‘bhante ānanda, mama gehe pahūtaṃ saviññāṇakaaviññāṇakaratanaṃ, idaṃ majjhe bhinditvā tuyhaṃ dammi, ehi ubho agāraṃ ajjhāvasāmā’’ti.
He fed the Elder various delicious foods, and sitting to one side, he exchanged pleasantries with the Elder and invited him to lay life with the five strands of sensual pleasure, saying, "Venerable Ānanda, I have abundant animate and inanimate treasures in my house; I will divide this in half and give it to you. Come, let us both dwell in a household life."
Ông cúng dường Trưởng lão những món ăn ngon với nhiều hương vị, rồi ngồi sang một bên, trò chuyện thân mật với Trưởng lão và mời Trưởng lão sống đời gia đình với năm dục lạc: “Bạch Trưởng lão Ānanda, trong nhà con có rất nhiều tài sản quý giá, cả hữu tri lẫn vô tri. Con sẽ chia đôi và dâng cho ngài. Xin ngài hãy đến, chúng ta cùng sống đời gia đình.”
Thero tassa kāmaguṇesu ādīnavaṃ kathetvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ gantvā ‘‘diṭṭho te, ānanda, rojo’’ti satthārā pucchito ‘‘āma, bhante’’ti vatvā ‘‘kimassa kathesī’’ti vutte ‘‘bhante, maṃ rojo gharāvāsena nimantesi, athassāhaṃ gharāvāse ceva kāmaguṇesu ca ādīnavaṃ kathesi’’nti.
The Elder, having explained the drawbacks of sensual pleasures to him, rose from his seat and went to the monastery. When asked by the Teacher, "Have you seen Roja, Ānanda?" he replied, "Yes, Venerable Sir." When asked, "What did you say to him?" he said, "Venerable Sir, Roja invited me to household life, so I explained to him the drawbacks of household life and sensual pleasures."
Trưởng lão đã nói về những tai hại của dục lạc trong đời sống gia đình, rồi đứng dậy rời chỗ ngồi, trở về tu viện. Khi Đức Bổn Sư hỏi: “Này Ānanda, con có gặp Roja không?” Trưởng lão đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, có ạ.” Khi được hỏi: “Con đã nói gì với ông ấy?” Trưởng lão nói: “Bạch Đức Thế Tôn, Roja đã mời con sống đời gia đình. Con đã nói với ông ấy về những tai hại của đời sống gia đình và dục lạc.”
Satthā ‘‘na kho, ānanda, rojo mallo idāneva pabbajite gharāvāsena nimantesi, pubbepi nimantesiyevā’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Ānanda, Roja Malla did not invite renunciants to household life only now; he invited them in the past as well," and being requested by him, the Teacher related a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này Ānanda, không phải chỉ bây giờ Roja Malla mới mời những người xuất gia sống đời gia đình, mà từ trước ông ấy cũng đã từng mời như vậy.” Nói xong, theo lời thỉnh cầu của Trưởng lão, ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1399
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto aññatarasmiṃ nigamagāme brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto isipabbajjaṃ pabbajitvā himavantapadese ciraṃ vasitvā loṇambilasevanatthāya bārāṇasiṃ patvā rājuyyāne vasitvā punadivase bārāṇasiṃ pāvisi.
In the past, while Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in a certain market town. Having come of age, he embraced the ascetic life of a sage. After dwelling for a long time in the Himalayan region, he came to Bārāṇasī for salt and sour provisions. He stayed in the royal park and entered Bārāṇasī the next day.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở một ngôi làng nhỏ. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài xuất gia tu sĩ và sống lâu năm tại vùng Himalaya. Để tìm kiếm muối và vị chua, ngài đến Bārāṇasī, ngụ tại vườn thượng uyển của vua, rồi hôm sau đi vào Bārāṇasī.
Athassa bārāṇasiseṭṭhi ācāravihāre pasīditvā gehaṃ netvā bhojetvā uyyāne vasanatthāya paṭiññaṃ gahetvā taṃ paṭijagganto uyyāne vasāpesi.
Then, the chief merchant of Bārāṇasī, being pleased with his conduct and demeanor, took him to his house, fed him, and having obtained a promise from him to stay in the park, he looked after him, letting him reside there.
Khi ấy, trưởng giả Bārāṇasī, hoan hỷ với oai nghi và lối sống của Bồ Tát, đã đưa ngài về nhà cúng dường thức ăn, rồi xin ngài hứa sẽ ở lại vườn thượng uyển và chăm sóc ngài.
Te aññamaññaṃ uppannasinehā ahesuṃ.
They developed mutual affection for each other.
Họ đã có tình cảm thân thiết với nhau.
1400
Athekadivasaṃ bārāṇasiseṭṭhi bodhisatte pemavissāsavasena evaṃ cintesi – ‘‘pabbajjā nāma dukkhā, mama sahāyaṃ vacchanakhaparibbājakaṃ uppabbājetvā sabbaṃ vibhavaṃ majjhe bhinditvā tassa datvā dvepi samaggavāsaṃ vasissāmā’’ti.
Then one day, the Bārāṇasī merchant, out of affection and trust for the Bodhisatta, thought thus: "Renunciation is indeed difficult. I will make my friend, the ascetic Vacchanakha, disrobe, divide all my wealth and give it to him, and we both will live together harmoniously."
Một ngày nọ, trưởng giả Bārāṇasī, vì tình cảm thân thiết với Bồ Tát, đã suy nghĩ: “Đời sống xuất gia thật khổ sở. Ta sẽ thuyết phục bạn ta là du sĩ Vacchanakha hoàn tục, chia đôi tất cả tài sản và dâng cho ông ấy, rồi cả hai chúng ta sẽ cùng sống hòa thuận.”
So ekadivasaṃ bhattakiccapariyosāne tena saddhiṃ madhurapaṭisanthāraṃ katvā ‘‘bhante vacchanakha, pabbajjā nāma dukkhā, sukho gharāvāso, ehi ubho samaggā kāme paribhuñjantā vasāmā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
One day, at the end of the meal, he had a pleasant conversation with him and said, "Venerable Vacchanakha, renunciation is suffering, household life is pleasant. Come, let us both live together enjoying sensual pleasures," and then spoke the first verse:
Một ngày nọ, sau khi dùng bữa xong, ông trò chuyện thân mật với Bồ Tát và nói: “Bạch Trưởng lão Vacchanakha, đời sống xuất gia thật khổ sở, đời sống gia đình thật an lạc. Xin ngài hãy đến, chúng ta cùng sống hòa thuận, hưởng thụ dục lạc.” Rồi ông đọc bài kệ đầu tiên:
1401
169.
169.
169.
1402
‘‘Sukhā gharā vacchanakha, sahiraññā sabhojanā;
"Pleasant are homes, Vacchanakha, with gold and food;
“Này Vacchanakha, đời sống gia đình thật an lạc, có vàng bạc và thức ăn;
1403
Yattha bhutvā pivitvā ca, sayeyyātha anussuko’’ti.
Where, having eaten and drunk, you may lie down without worry."
Ở đó, sau khi ăn uống, người ta có thể nằm ngủ mà không lo âu.”
1404
Tattha sahiraññāti sattaratanasampannā.
Therein, sahiraññā means endowed with the seven treasures.
Trong đó, sahiraññā có nghĩa là: Giàu có bảy loại báu vật.
Sabhojanāti bahukhādanīyabhojanīyā.
Sabhojanā means with much food, both hard and soft.
Sabhojanā có nghĩa là: Có nhiều thức ăn và đồ uống.
Yattha bhutvā pivitvā cāti yesu sahiraññabhojanesu gharesu nānaggarasāni bhojanāni paribhuñjitvā nānāpānāni ca pivitvā.
Yattha bhutvā pivitvā cā means in those homes with gold and food, having partaken of various delicious meals and drunk various beverages.
Yattha bhutvā pivitvā cāti: ở những ngôi nhà có nhiều loại thức ăn và đồ uống ngon, nơi ngươi đã ăn và uống.
Sayeyyātha anussukoti yesu alaṅkatasirisayanapiṭṭhe anussuko hutvā sayeyyāsi, te gharā nāma ativiya sukhāti.
Sayeyyātha anussuko means where you may lie down on an adorned, splendid couch without worry; such homes are exceedingly pleasant.
Sayeyyātha anussukoti: nơi ngươi đã nằm nghỉ không lo âu trên chiếc giường hoặc ghế trang trí lộng lẫy, những ngôi nhà đó là vô cùng hạnh phúc.
1405
Athassa taṃ sutvā bodhisatto ‘‘mahāseṭṭhi, tvaṃ aññāṇatāya kāmagiddho hutvā gharāvāsassa guṇaṃ, pabbajjāya ca aguṇaṃ kathesi, gharāvāsassa te aguṇaṃ kathessāmi, suṇāhi dānī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Then, having heard that, the Bodhisatta said, "Great merchant, you, being ignorant and greedy for sensual pleasures, speak of the advantages of household life and the disadvantages of renunciation. I will tell you the disadvantages of household life; listen now," and then spoke the second verse:
Sau khi nghe điều đó, Bồ-tát nói với ông ta: “Đại trưởng giả, ngươi vì vô minh mà tham đắm dục lạc, ca ngợi lợi ích của đời sống gia đình và chê bai sự xuất gia. Bây giờ ta sẽ nói cho ngươi nghe những bất lợi của đời sống gia đình, hãy lắng nghe!” Rồi Ngài nói kệ thứ hai –
1406
170.
170.
170.
1407
‘‘Gharā nānīhamānassa, gharā nābhaṇato musā;
"No homes for one who does not strive, no homes for one who speaks no lies;
“Không có nhà cho người không nỗ lực, không có nhà cho người không nói dối;
1408
Gharā nādinnadaṇḍassa, paresaṃ anikubbato;
No homes for one who does not inflict punishment, who does not harm others;
Không có nhà cho người không trừng phạt, không làm hại người khác;
1409
Evaṃ chiddaṃ durabhisambhavaṃ, ko gharaṃ paṭipajjatī’’ti.
Such a flawed and difficult-to-maintain home, who would undertake it?"
Đời sống gia đình đầy khiếm khuyết khó vượt qua như vậy, ai sẽ chấp nhận nó?”
1410
Tattha gharā nānīhamānassāti niccakālaṃ kasigorakkhādikaraṇena anīhamānassa avāyamantassa gharā nāma natthi, gharāvāso na patiṭṭhātīti attho.
Therein, gharā nānīhamānassā means there are no homes for one who does not constantly strive or exert effort in farming, cattle-rearing, and so forth; that is, household life does not become established.
Trong đó, gharā nānīhamānassāti: không có nhà cho người không nỗ lực liên tục trong việc cày cấy, chăn nuôi gia súc, v.v., tức là đời sống gia đình không thể tồn tại.
Gharā nābhaṇato musāti khettavatthuhiraññasuvaṇṇādīnaṃ atthāya amusābhaṇatopi gharā nāma natthi.
Gharā nābhaṇato musā means there are no homes for one who does not speak lies for the sake of fields, lands, gold, silver, and so forth.
Gharā nābhaṇato musāti: không có nhà cho người không nói dối vì lợi ích của đất đai, nhà cửa, vàng bạc, v.v.
Gharā nādinnadaṇḍassa, paresaṃ anikubbatoti nādinnadaṇḍassāti aggahitadaṇḍassa, nikkhittadaṇḍassa paresaṃ anikubbato gharā nāma natthi.
Gharā nādinnadaṇḍassa, paresaṃ anikubbato means nādinnadaṇḍassā means for one who does not inflict punishment, who has laid down the rod, who does not harm others, there are no homes.
Gharā nādinnadaṇḍassa, paresaṃ anikubbatoti: nādinnadaṇḍassāti: không có nhà cho người không cầm gậy, cho người buông bỏ gậy, không làm hại người khác.
Yo pana ādinnadaṇḍo hutvā paresaṃ dāsakammakarādīnaṃ tasmiṃ tasmiṃ aparādhe aparādhānurūpaṃ vadhabandhanachedanatāḷanādivasena karoti, tasseva gharāvāso saṇṭhahatīti attho.
But for one who, having taken up the rod, acts towards others—such as servants and laborers—by way of killing, binding, cutting, or beating, according to their respective offenses, for him alone household life is established; this is the meaning.
Nghĩa là, chỉ người nào cầm gậy và trừng phạt nô lệ, người làm công, v.v., theo mức độ sai phạm của họ bằng cách đánh đập, trói buộc, chặt chém, v.v., thì đời sống gia đình của người đó mới ổn định.
Evaṃ chiddaṃ durabhisambhavaṃ, ko gharaṃ paṭipajjatīti taṃ dāni evaṃ etesaṃ īhanādīnaṃ akaraṇe sati tāya tāya parihāniyā chiddaṃ karaṇepi sati niccameva kātabbato durabhisambhavaṃ durārādhanīyaṃ, niccaṃ karontassapi vā durabhisambhavameva duppūraṃ gharāvāsaṃ ‘‘ahaṃ nipparitasso hutvā ajjhāvasissāmī’’ti ko paṭipajjatīti.
Evaṃ chiddaṃ durabhisambhavaṃ, ko gharaṃ paṭipajjatī means such a household life, which is flawed by various losses when these strivings are not undertaken, and which is difficult to maintain because it must always be done, or difficult to satisfy even for one who constantly performs it—who would undertake such a household life, thinking, "I will dwell in it without anxiety?"
Evaṃ chiddaṃ durabhisambhavaṃ, ko gharaṃ paṭipajjatīti: vậy thì, khi không thực hiện những nỗ lực đó, và khi có những khiếm khuyết do sự thiếu sót đó, ai sẽ chấp nhận đời sống gia đình khó khăn, khó làm hài lòng, luôn phải thực hiện, hoặc khó hoàn thành, một đời sống gia đình “ta sẽ sống không lo âu”?
1411
Evaṃ mahāsatto gharāvāsassa dosaṃ kathetvā uyyānameva agamāsi.
Thus, the Great Being, having explained the fault of household life, returned to the park.
Như vậy, Đại Bồ-tát đã nói lên những lỗi lầm của đời sống gia đình rồi đi vào vườn.
1412
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bārāṇasiseṭṭhi rojo mallo ahosi, vacchanakhaparibbājako pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the chief merchant of Bārāṇasī was Rojo the Malla; and the ascetic Vacchanakha was I myself."
Đức Bổn Sư đã thuyết pháp xong, Ngài kết hợp câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, trưởng giả của Bārāṇasī là Roja Malla, còn du sĩ Vacchanakha chính là Ta vậy.”
1413
Vacchanakhajātakavaṇṇanā pañcamā.
The fifth, the commentary on the Vacchanakha Jātaka, is concluded.
Giải thích Jātaka Vacchanakha thứ năm.
1414
* 6. Bakajātakavaṇṇanā
* 6. Commentary on the Baka Jātaka
* 6. Giải thích Jātaka Baka
1415
Bhaddako vatayaṃ pakkhīti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuhakabhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Bhaddako vatayaṃ pakkhī (This bird is indeed good) – The Teacher, while dwelling at Jetavana, spoke this in reference to a certain deceitful bhikkhu.
Bhaddako vatayaṃ pakkhī” (Thật là một con chim tốt lành này) – Đức Bổn Sư đã thuyết bài pháp này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị Tỳ-khưu lừa đảo.
Tañhi satthā ānetvā dassitaṃ disvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa kuhakoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
For the Teacher, having had him brought and shown, said, "Bhikkhus, it is not only now; he was deceitful in the past too," and then related a past event.
Khi Đức Bổn Sư được dẫn đến và thấy vị Tỳ-khưu đó, Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ mà trước đây người này cũng là kẻ lừa đảo.” Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1416
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto himavantapadese ekasmiṃ sare maccho hutvā mahāparivāro vasi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta, having become a fish in a certain lake in the Himālaya region, lived with a large retinue.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ-tát tái sinh làm một con cá trong một hồ nước ở vùng Himavanta và sống với một đoàn tùy tùng lớn.
Atheko bako ‘‘macche khādissāmī’’ti sarassa āsannaṭṭhāne sīsaṃ pātetvā pakkhe pasāretvā mandamando macche olokento aṭṭhāsi tesaṃ pamādaṃ āgamayamāno.
Then a certain crane, thinking, "I will eat fish," stood near the lake, lowering its head, spreading its wings, and slowly looking at the fish, waiting for their heedlessness.
Sau đó, một con cò, với ý định “ta sẽ ăn cá,” đã cúi đầu xuống gần hồ, xò cánh ra và đứng yên lặng, chậm rãi quan sát lũ cá, chờ đợi sự lơ là của chúng.
Tasmiṃ khaṇe bodhisatto macchagaṇaparivuto gocaraṃ gaṇhanto taṃ ṭhānaṃ pāpuṇi.
At that moment, the Bodhisatta, surrounded by a multitude of fish, arrived at that place while seeking food.
Vào lúc đó, Bồ-tát, được bao quanh bởi đàn cá, đang kiếm ăn và đến chỗ đó.
Macchagaṇo taṃ bakaṃ passitvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The multitude of fish, seeing that crane, spoke the first verse:
Đàn cá nhìn thấy con cò đó và nói lên kệ đầu tiên –
1417
171.
171.
171.
1418
‘‘Bhaddako vatayaṃ pakkhī, dijo kumudasannibho;
"Indeed, this bird is good, a bird like a white lotus;
“Thật là một con chim tốt lành này, một loài chim trắng như hoa súng;
1419
Vūpasantehi pakkhehi, mandamandova jhāyatī’’ti.
With wings composed, it meditates very slowly."
Với đôi cánh đã hạ xuống, nó thiền định một cách chậm rãi.”
1420
Tattha mandamandova jhāyatīti abalabalo viya hutvā kiñci ajānanto viya ekakova jhāyatīti.
Here, mandamandova jhāyatī means, "It meditates alone as if it were weak and knew nothing."
Trong đó, mandamandova jhāyatīti: nó thiền định một mình như thể yếu ớt và không biết gì cả.
1421
Atha naṃ bodhisatto oloketvā dutiyaṃ gāthamāha –
Then the Bodhisatta, looking at it, spoke the second verse:
Sau đó, Bồ-tát nhìn nó và nói lên kệ thứ hai –
1422
172.
172.
172.
1423
‘‘Nāssa sīlaṃ vijānātha, anaññāya pasaṃsatha;
"You do not know its character; you praise it without knowing;
“Các ngươi không biết đạo đức của nó, mà lại ca ngợi nó một cách vô cớ;
1424
Amhe dijo na pāleti, tena pakkhī na phandatī’’ti.
This bird does not protect us; that is why it does not stir."
Con chim này không bảo vệ chúng ta, vì vậy nó không động đậy.”
1425
Tattha anaññāyāti ajānitvā.
Here, anaññāyā means "without knowing."
Trong đó, anaññāyāti: không biết.
Amhe dijo na pāletīti esa dijo amhe na rakkhati na gopāyati, ‘‘kataraṃ nu kho etesu kabaḷaṃ karissāmī’’ti upadhāreti.
Amhe dijo na pāletī means "this bird does not guard or protect us; it considers 'which morsel among these shall I make my food?'"
Amhe dijo na pāletīti: con chim này không bảo vệ, không che chở chúng ta, mà nó đang suy tính “ta sẽ biến con nào trong số này thành miếng mồi.”
Tena pakkhī na phandatīti tenāyaṃ sakuṇo na phandati na calatīti.
Tena pakkhī na phandatī means "therefore this bird does not stir, does not move."
Tena pakkhī na phandatīti: vì vậy con chim này không động đậy, không di chuyển.
Evaṃ vutte macchagaṇo udakaṃ khobhetvā bakaṃ palāpesi.
When this was said, the multitude of fish agitated the water and chased the crane away.
Khi được nói như vậy, đàn cá đã khuấy động nước và đuổi con cò đi.
1426
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bako kuhako bhikkhu ahosi, maccharājā pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the crane was the deceitful bhikkhu; the king of fish was I myself."
Đức Bổn Sư đã mang bài pháp thoại này đến, và kết nối tích truyện: “Khi ấy, vị tỳ khưu lừa dối là con cò, còn vua cá chính là Ta vậy.”
1427
Bakajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Chapter on the Bakajātakavaṇṇanā.
Giải thích tích truyện Cò, thứ sáu.
1428
* 7. Sāketajātakavaṇṇanā
* 7. Sāketajātakavaṇṇanā
* 7. Giải thích tích truyện Sāketa
1429
Ko nu kho bhagavā hetūti idaṃ satthā sāketaṃ upanissāya viharanto sāketaṃ brāhmaṇaṃ ārabbha kathesi.
Ko nu kho bhagavā hetū – This the Teacher spoke concerning a brahmin from Sāketa, while residing near Sāketa.
Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào – Đức Bổn Sư đã kể câu chuyện này khi ngài ngụ gần Sāketa, liên quan đến một Bà-la-môn ở Sāketa.
Vatthu panettha atītampi paccuppannampi heṭṭhā ekakanipāte (jā. aṭṭha. 1.1.sāketajātakavaṇṇanā) kathitameva.
The story, both past and present, has already been recounted below in the Ekakanipāta (Jā. Aṭṭha. 1.1. Sāketajātakavaṇṇanā).
Câu chuyện về sự việc này, cả quá khứ lẫn hiện tại, đã được kể ở phần đầu trong tập Một (jā. aṭṭha. 1.1.sāketajātakavaṇṇanā).
Tathāgatassa pana vihāraṃ gatakāle bhikkhū ‘‘sineho nāmesa, bhante, kathaṃ patiṭṭhātī’’ti pucchantā paṭhamaṃ gāthamāhaṃsu –
However, when the Tathāgata went to the monastery, the bhikkhus, asking "Venerable Sir, how does affection become established?" spoke the first verse:
Khi Đức Như Lai đến trú xứ, các tỳ khưu hỏi: “Bạch Thế Tôn, tình cảm (sineha) này được thiết lập như thế nào?” rồi họ đã nói bài kệ đầu tiên:
1430
173.
173.
173.
1431
‘‘Ko nu kho bhagavā hetu, ekacce idha puggale;
"Venerable Sir, what indeed is the reason, in certain individuals here,
“Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào, đối với một số người ở đời này,
1432
Atīva hadayaṃ nibbāti, cittañcāpi pasīdatī’’ti.
That the heart is exceedingly cooled, and the mind becomes serene?"
Tâm hồn trở nên vô cùng thanh tịnh, và tâm cũng trở nên hoan hỷ?”
1433
Tassattho – ko nu kho hetu, yena idhekacce puggale diṭṭhamatteyeva hadayaṃ ativiya nibbāti, suvāsitassa sītassa udakassa ghaṭasahassena parisittaṃ viya sītalaṃ hoti, ekacce na nibbāti.
Its meaning is: What indeed is the reason by which, upon seeing certain individuals here, the heart is exceedingly cooled, becoming cool as if sprinkled with a thousand pots of well-perfumed, cool water, while in others it is not cooled?
Ý nghĩa của câu đó là: Nguyên nhân nào khiến cho khi nhìn thấy một số người ở đời này, tâm hồn trở nên vô cùng thanh tịnh, trở nên mát mẻ như được tưới hàng ngàn gáo nước mát có hương thơm, còn đối với một số người thì không thanh tịnh. Khi nhìn thấy một số người, tâm trở nên hoan hỷ, mềm mại, gắn bó bằng tình yêu thương, còn đối với một số người thì không gắn bó.
Ekacce diṭṭhamatteyeva cittaṃ pasīdati, mudu hoti, pemavasena allīyati, ekacce na allīyatīti.
Upon seeing certain individuals, the mind becomes serene, soft, and adheres through affection, while in others it does not adhere.
Khi nhìn thấy một số người, tâm trở nên hoan hỷ, mềm mại, gắn bó bằng tình yêu thương, còn đối với một số người thì không gắn bó.
1434
Atha nesaṃ satthā pemakāraṇaṃ dassento dutiyaṃ gāthamāha –
Then the Teacher, showing them the cause of affection, spoke the second verse:
Sau đó, Đức Bổn Sư đã nói bài kệ thứ hai để chỉ ra nguyên nhân của tình yêu thương:
1435
174.
174.
174.
1436
‘‘Pubbeva sannivāsena, paccuppannahitena vā;
"Either by previous association, or by present benefit;
“Do sự chung sống từ kiếp trước, hoặc do lợi ích hiện tại;
1437
Evaṃ taṃ jāyate pemaṃ, uppalaṃva yathodake’’ti.
Thus that affection arises, just as a lotus in water."
Tình yêu thương ấy phát sinh như vậy, như hoa sen trong nước.”
1438
Tassattho – bhikkhave, pemaṃ nāmetaṃ dvīhi kāraṇehi jāyati, purimabhave mātā vā pitā vā putto vā dhītā vā bhātā vā bhaginī vā pati vā bhariyā vā sahāyo vā mitto vā hutvā yo yena saddhiṃ ekaṭṭhāne vutthapubbo, tassa iminā pubbeva sannivāsena bhavantarepi anubandhanto so sineho na vijahati.
Its meaning is: Bhikkhus, this affection arises from two causes: in a previous existence, having been a mother or father, son or daughter, brother or sister, husband or wife, friend or companion, whoever has previously lived in the same place with someone, that affection, following through existences, does not abandon them by that previous association.
Ý nghĩa của câu đó là: Này các tỳ khưu, tình yêu thương này phát sinh do hai nguyên nhân. Trong kiếp trước, nếu ai đó đã từng sống chung một nơi với người khác, làm mẹ, cha, con trai, con gái, anh em, chị em, chồng, vợ, bạn bè, hoặc người thân, thì tình cảm ấy sẽ tiếp nối trong các kiếp sau, không bao giờ mất đi do sự chung sống từ kiếp trước.
Imasmiṃ attabhāve katena paccuppannahitena vā evaṃ taṃ jāyate pemaṃ, imehi dvīhi kāraṇehi pemaṃ nāma jāyati.
Or by present benefit done in this present existence, thus that affection arises; affection arises from these two causes.
Hoặc do lợi ích hiện tại được tạo ra trong kiếp này, tình yêu thương ấy phát sinh như vậy, tình yêu thương phát sinh do hai nguyên nhân này.
Yathā kiṃ?
Like what?
Như thế nào?
Uppalaṃva yathodaketi.
Just as a lotus in water.
Như hoa sen trong nước.
Vā-kārassa rassattaṃ kataṃ.
The vowel has been shortened.
Chữ ‘vā’ đã được rút ngắn.
Samuccayatthe cesa vutto, tasmā uppalañca sesaṃ jalajapupphañca yathā udake jāyamānaṃ dve kāraṇāni nissāya jāyati udakañceva kalalañca, tathā etehi dvīhi kāraṇehi pemaṃ jāyatīti evamettha attho daṭṭhabbo.
And it is stated in the sense of conjunction, therefore, just as a lotus and other aquatic flowers arise in water, depending on two causes—water and mud—so too affection arises from these two causes. This is how the meaning should be understood here.
Và nó được nói theo nghĩa tập hợp, vì vậy, như hoa sen và các loài hoa thủy sinh khác phát sinh trong nước nhờ hai nguyên nhân là nước và bùn, thì tình yêu thương cũng phát sinh nhờ hai nguyên nhân này. Ý nghĩa ở đây phải được hiểu như vậy.
1439
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā brāhmaṇo ca brāhmaṇī ca ime dve janā ahesuṃ, putto pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the brahmin and the brahmin woman were these two people; the son, however, was I myself."
Đức Bổn Sư đã mang bài pháp thoại này đến, và kết nối tích truyện: “Khi ấy, Bà-la-môn và Bà-la-môn-ni là hai người đó, còn đứa con trai chính là Ta vậy.”
1440
Sāketajātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh Chapter on the Sāketajātakavaṇṇanā.
Giải thích tích truyện Sāketa, thứ bảy.
1441
* 8. Ekapadajātakavaṇṇanā
* 8. Ekapadajātakavaṇṇanā
* 8. Chú giải về truyện Jātaka Một Lời Dạy (Ekapadajātakavaṇṇanā)
1442
Iṅgha ekapadaṃ, tātāti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuṭumbikaṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Jetavana, spoke this, "Come, dear son, a single word," concerning a householder.
“Này cha, xin hãy nói một lời” – Câu chuyện này, Đức Bổn Sư đã kể khi ngài đang trú tại Jetavana, liên quan đến một gia chủ.
Sāvatthivāsī kiresa kuṭumbiko, athassa ekadivasaṃ aṅke nisinno putto atthassa dvāraṃ nāma pañhaṃ pucchi.
This householder, it is said, was a resident of Sāvatthī. Then, one day, his son, sitting on his lap, asked a question called "the door to welfare."
Nghe nói, gia chủ ấy sống ở Sāvatthī. Một ngày nọ, con trai ông đang ngồi trong lòng ông đã hỏi một câu hỏi tên là “cánh cửa của lợi ích”.
So ‘‘buddhavisayo esa pañho, na taṃ añño kathetuṃ sakkhissatī’’ti puttaṃ gahetvā jetavanaṃ gantvā satthāraṃ vanditvā ‘‘bhante, ayaṃ me dārako ūrumhi nisinno atthassa dvāraṃ nāma pañhaṃ pucchi, ahaṃ taṃ ajānanto idhāgato, kathetha, bhante, imaṃ pañha’’nti.
He, thinking, "This question belongs to the Buddha's domain; no one else will be able to explain it," took his son, went to Jetavana, and having paid homage to the Teacher, said, "Venerable Sir, this child of mine, sitting on my lap, asked a question called 'the door to welfare.' Not knowing it, I have come here. Please explain this question, Venerable Sir."
Ông nghĩ: “Câu hỏi này thuộc về phạm vi của Đức Phật, không ai khác có thể giải đáp được,” liền dẫn con trai đến Jetavana, đảnh lễ Đức Bổn Sư và thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, đứa bé này ngồi trong lòng con đã hỏi con một câu hỏi tên là ‘cánh cửa của lợi ích’. Con không biết nên đã đến đây. Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy giải đáp câu hỏi này.”
Satthā ‘‘na kho, upāsaka, ayaṃ dārako idāneva atthagavesako, pubbepi atthagavesakova hutvā imaṃ pañhaṃ paṇḍite pucchi, porāṇakapaṇḍitāpissa kathesuṃ, bhavasaṅkhepagatattā pana na sallakkhesī’’ti vatvā tena yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Indeed, Upāsaka, this child is not only now a seeker of welfare; in the past, too, he was a seeker of welfare and asked this question of the wise. The ancient wise ones also explained it to him, but he does not recall it because of the brevity of existence," and being requested by him, recounted a past event.
Đức Bổn Sư nói: “Này cận sự nam, đứa bé này không chỉ bây giờ mới tìm kiếm lợi ích, mà trước đây cũng đã từng tìm kiếm lợi ích và hỏi câu hỏi này với các bậc hiền trí. Các bậc hiền trí thời xưa cũng đã giải đáp cho nó, nhưng vì sự rút gọn của kiếp sống nên nó không ghi nhớ.” Sau khi nói vậy, được ông thỉnh cầu, Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ.
1443
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto seṭṭhikule nibbattitvā vayappatto pitu accayena seṭṭhiṭṭhānaṃ labhi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a merchant's family and, having come of age, attained the position of merchant upon his father's passing.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh vào một gia đình trưởng giả, khi đến tuổi trưởng thành, Ngài đã kế thừa chức vị trưởng giả sau khi cha Ngài qua đời.
Athassa putto daharo kumāro ūrumhi nisīditvā ‘‘tāta, mayhaṃ ekapadaṃ anekatthanissitaṃ ekaṃ kāraṇaṃ kathethā’’ti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Then his young son, sitting on his lap, asked, "Father, tell me one thing, a single word that encompasses many meanings," thus speaking the first verse –
Sau đó, con trai Ngài, một cậu bé còn nhỏ, đã ngồi trong lòng Ngài và hỏi: “Cha ơi, xin cha hãy kể cho con nghe một điều, một lời dạy (ekapadaṃ) có nhiều ý nghĩa (anekatthanissitaṃ),” và nói lên bài kệ đầu tiên –
1444
175.
175.
175.
1445
‘‘Iṅgha ekapadaṃ tāta, anekatthapadassitaṃ;
"Come, dear son, tell me a single word, encompassing many meanings;
“Này cha, xin hãy nói một lời dạy,
1446
Kiñci saṅgāhikaṃ brūsi, yenatthe sādhayemase’’ti.
Something that is comprehensive, by which we may achieve our aims."
Một điều gì đó mang tính tập hợp, nhờ đó chúng ta có thể đạt được lợi ích.”
1447
Tattha iṅghāti yācanatthe codanatthe vā nipāto.
Therein, iṅgha is a particle used in the sense of requesting or urging.
Trong đó, iṅgha là một từ bất biến được dùng với nghĩa thỉnh cầu hoặc thúc giục.
Ekapadanti ekaṃ kāraṇapadaṃ, ekaṃ kāraṇūpasañhitaṃ vā byañjanapadaṃ.
Ekapadaṃ means one causal word, or one word endowed with a cause.
Ekapada có nghĩa là một từ ngữ chỉ nguyên nhân, hoặc một từ ngữ biểu thị nguyên nhân.
Anekatthapadassitanti anekāni atthapadāni kāraṇapadāni nissitaṃ.
Anekatthapadassitaṃ means supported by many meaningful words, or causal words.
Anekatthapadassita có nghĩa là nương tựa vào nhiều từ ngữ ý nghĩa, những từ ngữ chỉ nguyên nhân.
Kiñci saṅgāhikaṃ brūsīti kiñci ekapadaṃ bahūnaṃ padānaṃ saṅgāhikaṃ brūhi, ayameva vā pāṭho.
Kiñci saṅgāhikaṃ brūsīti means "tell me some single word that comprehends many words," or this is the reading.
Kiñci saṅgāhikaṃ brūsī có nghĩa là hãy nói một từ ngữ nào đó bao hàm nhiều từ ngữ; đây cũng là một cách đọc.
Yenatthe sādhayemaseti yena ekena padena anekatthanissitena mayaṃ attano vuḍḍhiṃ sādheyyāma, taṃ me kathehīti pucchi.
Yenatthe sādhayemaseti means "by which single word, encompassing many meanings, we may achieve our own prosperity," he asked, "tell me that."
Yenatthe sādhayemase có nghĩa là: “Bằng một từ ngữ duy nhất nương tựa vào nhiều ý nghĩa ấy, chúng con có thể thành tựu sự tăng trưởng của mình; xin Ngài hãy kể cho con nghe điều đó,” người con hỏi.
1448
Athassa pitā kathento dutiyaṃ gāthamāha –
Then his father, explaining, spoke the second verse –
Rồi người cha kể lại cho con nghe, nói lên bài kệ thứ hai –
1449
176.
176.
176.
1450
‘‘Dakkheyyekapadaṃ tāta, anekatthapadassitaṃ;
"Diligence is that single word, dear son, encompassing many meanings;
“Này con, một từ ngữ khéo léo, nương tựa vào nhiều ý nghĩa,
1451
Tañca sīlena saññuttaṃ, khantiyā upapāditaṃ;
It is endowed with virtue, sustained by patience;
Và điều đó được kết hợp với giới, được thiết lập bằng nhẫn nại,
1452
Alaṃ mitte sukhāpetuṃ, amittānaṃ dukhāya cā’’ti.
It is sufficient to bring happiness to friends, and suffering to enemies."
Đủ để làm cho bạn bè hạnh phúc, và làm cho kẻ thù đau khổ.”
1453
Tattha dakkheyyekapadanti dakkheyyaṃ ekapadaṃ.
Therein, dakkheyyekapadaṃ means "diligence is the single word."
Trong đó, dakkheyyekapada có nghĩa là một từ ngữ khéo léo.
Dakkheyyaṃ nāma lābhuppādakassa chekassa kusalassa ñāṇasampayuttaṃ vīriyaṃ.
Diligence (dakkheyyaṃ) is energy accompanied by knowledge, skillful, and capable of producing gain.
Khéo léo (dakkheyya) là sự tinh tấn được kết hợp với trí tuệ, khéo léo và thiện xảo, tạo ra lợi lộc.
Anekatthapadassitanti evaṃ vuttappakāraṃ vīriyaṃ anekehi atthapadehi nissitaṃ.
Anekatthapadassitaṃ means that the energy described in this manner is supported by many meaningful words.
Anekatthapadassita có nghĩa là sự tinh tấn được nói đến như vậy, nương tựa vào nhiều từ ngữ ý nghĩa.
Katarehīti?
By which ones?
Những từ ngữ nào?
Sīlādīhi.
By virtue and so on.
Giới (sīla) v.v…
Teneva ‘‘tañca sīlena saññutta’’ntiādimāha.
Therefore, it is said, "tañca sīlena saññutta" and so on.
Vì lẽ đó, Ngài nói “tañca sīlena saññutta” v.v…
Tassattho – tañca panetaṃ vīriyaṃ ācārasīlasampayuttaṃ adhivāsanakhantiyā upetaṃ mitte sukhāpetuṃ amittānañca dukkhāya alaṃ samatthaṃ.
Its meaning is: And this energy, endowed with good conduct and virtue, accompanied by patience and endurance, is sufficient and capable of bringing happiness to friends and suffering to enemies.
Ý nghĩa của câu đó là: Sự tinh tấn ấy được kết hợp với giới hạnh, được trang bị bằng sự nhẫn nại, đủ sức làm cho bạn bè hạnh phúc và làm cho kẻ thù đau khổ.
Ko hi nāma lābhuppādakañāṇasampayuttakusalavīriyasamannāgato ācārakhantisampanno mitte sukhāpetuṃ, amitte vā dukkhāpetuṃ na sakkotīti.
For who, endowed with skillful energy accompanied by knowledge that produces gain, and possessed of good conduct and patience, would not be able to bring happiness to friends or suffering to enemies?
Ai mà có sự tinh tấn thiện xảo được kết hợp với trí tuệ tạo ra lợi lộc, và có giới hạnh cùng nhẫn nại, lại không thể làm cho bạn bè hạnh phúc, hoặc làm cho kẻ thù đau khổ?
1454
Evaṃ bodhisatto puttassa pañhaṃ kathesi.
Thus, the Bodhisatta answered his son's question.
Bồ Tát đã giải thích vấn đề của con trai như vậy.
Sopi pitu kathitanayeneva attano atthaṃ sādhetvā yathākammaṃ gato.
And he, too, having achieved his aim in the manner taught by his father, passed away according to his kamma.
Người con cũng đã thành tựu mục đích của mình theo cách cha đã dạy, và ra đi tùy theo nghiệp của mình.
1455
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi, saccapariyosāne pitāputtā sotāpattiphale patiṭṭhitā.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, having revealed the Truths, identified the Jātaka. At the conclusion of the Truths, both father and son were established in the fruit of Stream-entry.
Đức Thế Tôn đã kể lại bài pháp thoại này, tuyên bố các chân lý, và kết nối câu chuyện Jātaka. Khi các chân lý được tuyên bố xong, cha và con đều an trú vào quả vị Nhập Lưu (Sotāpatti).
‘‘Tadā putto ayameva putto ahosi, bārāṇasiseṭṭhi pana ahameva ahosi’’nti.
"At that time, the son was this very son, and the merchant of Bārāṇasī was I myself."
“Khi ấy, người con chính là người con hiện tại; còn trưởng giả ở Bārāṇasī chính là Ta.”
1456
Ekapadajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The eighth, the Ekapada Jātaka, is concluded.
Chuyện Ekapada Jātaka, thứ tám.
1457
* 9. Haritamaṇḍūkajātakavaṇṇanā
9. The Haritamaṇḍūka Jātaka
9. Chuyện Haritamaṇḍūka Jātaka
1458
Āsīvisampi maṃ santanti idaṃ satthā veḷuvane viharanto ajātasattuṃ ārabbha kathesi.
The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, spoke this, "Even though I am a venomous snake," concerning Ajātasattu.
Āsīvisampi maṃ santanti (Dù ta là rắn độc) – Câu này Đức Thế Tôn đã kể khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến Ajātasattu.
Kosalarājassa hi pitā mahākosalo bimbisārarañño dhītaraṃ dadamāno dhītu nhānamūlaṃ kāsigāmakaṃ nāma adāsi.
King Mahākosala, the father of King Kosala, when giving his daughter in marriage to King Bimbisāra, gave her a village called Kāsīgāmaka as her bathing allowance.
Vua Kosala, tức Đại Kosala, khi gả con gái cho vua Bimbisāra, đã ban cho con gái một ngôi làng tên là Kāsigāmaka làm tiền tắm gội.
Sā ajātasattunā pitughātakakamme kate rañño sinehena nacirasseva kālamakāsi.
She, due to her love for the king, passed away soon after Ajātasattu committed the patricide.
Sau khi Ajātasattu phạm tội giết cha, vì tình thương vua cha, bà đã qua đời không lâu sau đó.
Ajātasattu mātari kālakatāyapi taṃ gāmaṃ bhuñjateva.
Even after his mother's death, Ajātasattu continued to enjoy that village.
Dù mẹ đã qua đời, Ajātasattu vẫn tiếp tục hưởng ngôi làng đó.
Kosalarājā ‘‘pitughātakassa corassa mama kulasantakaṃ gāmaṃ na dassāmī’’ti tena saddhiṃ yujjhati.
King Kosala, saying, "I will not give this village belonging to my family to a patricidal thief," fought with him.
Vua Kosala nói: “Ta sẽ không trao ngôi làng thuộc dòng dõi ta cho tên cướp giết cha này,” rồi giao chiến với y.
Kadāci mātulassa jayo hoti, kadāci bhāgineyyassa.
Sometimes the uncle is victorious, sometimes the nephew.
Đôi khi chú thắng, đôi khi cháu thắng.
Yadā pana ajātasattu jināti, tadā somanassappatto rathe dhajaṃ ussāpetvā mahantena yasena nagaraṃ pavisati.
But when Ajātasattu conquers, he, filled with joy, raises a banner on his chariot and enters the city with great glory.
Khi Ajātasattu thắng, y vui mừng, cắm cờ trên xe và tiến vào thành với vinh quang lớn.
Yadā pana parājayati, tadā domanassappatto kañci ajānāpetvāva pavisati.
But when he is defeated, he, filled with sorrow, enters without letting anyone know.
Khi y thua, y buồn bã, tiến vào thành mà không cho ai biết.
Athekadivasaṃ dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, ajātasattu mātulaṃ jinitvā tussati, parājito domanassappatto hotī’’ti.
Then one day, in the Dhamma hall, the bhikkhus raised a discussion: 'Friends, Ajātasattu rejoices when he defeats his uncle, and is filled with sorrow when defeated.'
Rồi một ngày nọ, các Tỳ Khưu khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Thưa các bạn, Ajātasattu vui mừng khi thắng chú mình, và buồn bã khi thua.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepesa jinitvā tussati, parājito domanassappatto hotī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and, asking, 'Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?' and being told, 'This is it, venerable sir,' said, 'Not only now, bhikkhus, but in the past too, he rejoiced when victorious and was filled with sorrow when defeated,' and then recounted a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: “Này các Tỳ Khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này, bạch Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ Khưu, không phải chỉ bây giờ mà cả trong quá khứ, y cũng vui mừng khi thắng và buồn bã khi thua,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
1459
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto nīlamaṇḍūkayoniyaṃ nibbatti.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn as a blue frog.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh làm một con ếch xanh (nīlamaṇḍūka).
Tadā manussā nadīkandarādīsu tattha tattha macche gahaṇatthāya kumīnāni oḍḍesuṃ.
At that time, people set up fish traps in river gorges and other places to catch fish.
Khi ấy, người ta đặt bẫy cá (kumīna) ở các khe suối, sông ngòi để bắt cá.
Ekasmiṃ kumīne bahū macchā pavisiṃsu.
Many fish entered one trap.
Nhiều con cá đã chui vào một cái bẫy.
Atheko udakāsīviso macche khādanto taṃ kumīnaṃ pāvisi, bahū macchā ekato hutvā taṃ khādantā ekalohitaṃ akaṃsu.
Then a venomous water snake entered that trap, eating the fish; many fish gathered together and, eating it, made it bleed profusely.
Rồi một con rắn độc nước (udakāsīvisa) đang ăn cá, cũng chui vào cái bẫy đó. Nhiều con cá hợp sức lại ăn thịt nó, khiến nó chảy máu khắp mình.
So paṭisaraṇaṃ apassanto maraṇabhayatajjito kumīnamukhena nikkhamitvā vedanāppatto udakapariyante nipajji.
Finding no refuge and terrified by the fear of death, it exited through the mouth of the trap and, in pain, lay down on the edge of the water.
Không tìm được nơi nương tựa, bị nỗi sợ chết đe dọa, nó thoát ra khỏi miệng bẫy và nằm vật vã bên bờ nước.
Nīlamaṇḍūkopi tasmiṃ khaṇe uppatitvā kumīnasūlamatthake nipanno hoti.
At that moment, the blue frog also jumped up and sat on the spike of the fish trap.
Con ếch xanh cũng vừa nhảy lên, đậu trên đỉnh cây cọc của cái bẫy.
Āsīviso vinicchayaṭṭhānaṃ alabhanto tattha nipannaṃ taṃ disvā ‘‘samma nīlamaṇḍūka, imesaṃ macchānaṃ kiriyā ruccati tuyha’’nti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The venomous snake, unable to find a clear decision, saw it sitting there and, asking, 'Friend blue frog, do you approve of the actions of these fish?' spoke the first stanza:
Con rắn độc không tìm được chỗ trú ẩn, thấy con ếch nằm đó, hỏi: “Này bạn ếch xanh, bạn có thích hành động của những con cá này không?” Rồi nó nói lên bài kệ đầu tiên –
1460
177.
177.
177.
1461
‘‘Āsīvisampi maṃ santaṃ, paviṭṭhaṃ kumināmukhaṃ;
"Do you, son of the green frog, approve that these fish are eating me,
“Dù ta là rắn độc, đã chui vào miệng bẫy,
1462
Ruccate haritāmātā, yaṃ maṃ khādanti macchakā’’ti.
even though I am a venomous snake, having entered the mouth of the fish trap?"
Này ếch xanh, ngươi có thích việc cá ăn thịt ta không?”
1463
Tattha āsīvisampi maṃ santanti maṃ āgatavisaṃ samānaṃ.
Here, āsīvisampi maṃ santaṃ means "even though I am a venomous snake."
Trong đó, āsīvisampi maṃ santa có nghĩa là dù ta là rắn độc.
Ruccate haritāmātā, yaṃ maṃ khādanti macchakāti etaṃ tava ruccati haritamaṇḍūkaputtāti vadati.
Ruccate haritāmātā, yaṃ maṃ khādanti macchakā means "this is pleasing to you, son of the green frog."
Ruccate haritāmātā, yaṃ maṃ khādanti macchakā có nghĩa là: “Này con ếch xanh, ngươi có thích việc cá ăn thịt ta không?”
1464
Atha naṃ haritamaṇḍūko ‘‘āma, samma, ruccatī’’ti.
Then the green frog said to it, "Yes, friend, I do approve."
Rồi con ếch xanh nói với nó: “Vâng, thưa bạn, tôi thích.”
‘‘Kiṃkāraṇā’’ti?
"For what reason?"
“Vì lý do gì?”
‘‘Sace tvampi tava padesaṃ āgate macche khādasi, macchāpi attano padesaṃ āgataṃ taṃ khādanti, attano visaye padese gocarabhūmiyaṃ abalavā nāma natthī’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
"If you also eat the fish that come into your territory, then the fish also eat you who have come into their territory; there is no one weak in their own domain, territory, or feeding ground," and having said this, spoke the second stanza:
“Nếu bạn ăn cá đến vùng của bạn, thì cá cũng ăn thịt bạn khi bạn đến vùng của chúng. Trong lãnh địa của mình, trên vùng đất kiếm ăn của mình, không có ai là yếu cả,” nói vậy, nó đọc bài kệ thứ hai –
1465
178.
178.
178.
1466
‘‘Vilumpateva puriso, yāvassa upakappati;
"A man plunders as long as it benefits him;
“Người ta cướp bóc chừng nào còn có lợi cho mình;
1467
Yadā caññe vilumpanti, so vilutto vilumpatī’’ti.
but when others plunder, he, plundered, is plundered."
Khi người khác cướp bóc, kẻ bị cướp sẽ cướp bóc lại.”
1468
Tattha vilumpateva puriso, yāvassa upakappatīti yāva assa purisassa issariyaṃ upakappati ijjhati pavattati, tāva so aññaṃ vilumpatiyeva.
Here, vilumpateva puriso, yāvassa upakappati means "as long as that man's authority is effective, successful, and prevails, so long he plunders others."
Trong đó, vilumpateva puriso, yāvassa upakappatī có nghĩa là: Chừng nào quyền lực của người đó còn có lợi, còn thành công, còn tồn tại, thì người đó vẫn cướp bóc người khác.
‘‘Yāva so upakappatī’’tipi pāṭho, yattakaṃ kālaṃ so puriso sakkoti vilumpitunti attho.
There is also the reading yāva so upakappatī; the meaning is "as long as that man is able to plunder."
“Yāva so upakappatī” cũng là một cách đọc, có nghĩa là chừng nào người đó còn có thể cướp bóc.
Yadā caññe vilumpantīti yadā ca aññe issarā hutvā vilumpanti.
Yadā caññe vilumpantī means "and when others become powerful and plunder."
Yadā caññe vilumpantī có nghĩa là: Khi những người khác trở thành kẻ có quyền lực và cướp bóc.
So vilutto vilumpatīti atha so vilumpako aññehi vilumpati.
So vilutto vilumpatī means "then that plunderer is plundered by others."
So vilutto vilumpatī có nghĩa là: Khi đó, kẻ cướp bóc lại bị người khác cướp bóc.
‘‘Vilumpate’’tipi pāṭho, ayamevattho.
There is also the reading vilumpate; the meaning is the same.
“Vilumpate” cũng là một cách đọc, ý nghĩa tương tự.
‘‘Vilumpana’’ntipi paṭhanti, tassattho na sameti.
Some read vilumpanaṃ, but that meaning does not fit.
Một số người đọc “vilumpana”, nhưng ý nghĩa không phù hợp.
Evaṃ ‘‘vilumpako puna vilumpaṃ pāpuṇātī’’ti bodhisattena aḍḍe vinicchite udakāsīvisassa dubbalabhāvaṃ ñatvā ‘‘paccāmittaṃ gaṇhissāmā’’ti macchagaṇā kumīnamukhā nikkhamitvā tattheva naṃ jīvitakkhayaṃ pāpetvā pakkamuṃ.
Thus, when the Bodhisatta had decided the matter, saying, "The plunderer will again experience being plundered," the schools of fish, knowing the water snake's weakness and thinking, "We will seize our enemy," came out of the mouth of the trap, put an end to its life right there, and departed.
Như vậy, khi Bồ Tát đã phân xử rằng “kẻ cướp bóc sẽ lại bị cướp bóc,” bầy cá biết được sự yếu đuối của con rắn độc nước, nghĩ: “Chúng ta sẽ bắt kẻ thù,” rồi chúng thoát ra khỏi miệng bẫy, giết chết nó ngay tại đó và bỏ đi.
1469
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā udakāsīviso ajātasattu ahosi, nīlamaṇḍūko pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the venomous water snake was Ajātasattu; the blue frog was I myself."
Đức Thế Tôn đã kể lại bài pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka – “Khi ấy, con rắn độc nước chính là Ajātasattu; còn con ếch xanh chính là Ta.”
1470
Haritamaṇḍūkajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Haritamaṇḍūka Jātaka, is concluded.
Chuyện Haritamaṇḍūka Jātaka, thứ chín.
1471
* 10. Mahāpiṅgalajātakavaṇṇanā
* 10. The Mahāpiṅgala Jātaka
10. Chuyện Mahāpiṅgala Jātaka
1472
Sabbo janoti idaṃ satthā jetavane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Sabbo jano – The Teacher told this story while residing at Jetavana, concerning Devadatta.
Sabbo jano (Tất cả mọi người) – Câu này Đức Thế Tôn đã kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Devadatta.
Devadatte satthari āghātaṃ bandhitvā navamāsaccayena jetavanadvārakoṭṭhake pathaviyaṃ nimugge jetavanavāsino ca sakalaraṭṭhavāsino ca ‘‘buddhapaṭikaṇṭako devadatto pathaviyā gilito, nihatapaccāmitto dāni sammāsambuddho jāto’’ti tuṭṭhahaṭṭhā ahesuṃ.
When Devadatta, having harbored resentment against the Teacher, sank into the earth at the gatehouse of Jetavana nine months later, the residents of Jetavana and all the inhabitants of the country rejoiced and were delighted, saying, "Devadatta, the Buddha's adversary, has been swallowed by the earth; now the Perfectly Enlightened One has become one whose enemies are vanquished."
Khi Devadatta nuôi lòng thù hận Đức Thế Tôn, và chín tháng sau bị đất nuốt chửng tại cổng Jetavana, những người dân ở Jetavana và toàn thể quốc gia đều vui mừng hớn hở, nói: “Devadatta, kẻ thù của Đức Phật, đã bị đất nuốt chửng. Giờ đây, Đức Chánh Đẳng Giác đã đánh bại kẻ thù.”
Tesaṃ kathaṃ sutvā paramparaghosena sakalajambudīpavāsino yakkhabhūtadevagaṇā ca tuṭṭhahaṭṭhā eva ahesuṃ.
Hearing their words, the yakkhā, bhūtā, and devas residing throughout the entire Jambudīpa became delighted and joyful due to the continuous report.
Nghe câu chuyện của họ, tiếng đồn lan truyền khắp Jambudīpa, và các loài dạ xoa, chư thiên cũng đều vui mừng hớn hở.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, devadatte pathaviyaṃ nimugge ‘buddhapaṭikaṇṭako devadatto pathaviyā gilito’ti mahājano attamano jāto’’ti.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall, saying, "Friends, when Devadatta was swallowed by the earth, the great multitude rejoiced, saying, 'Devadatta, the Buddha's adversary, has been swallowed by the earth!'"
Rồi một ngày nọ, các Tỳ Khưu khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Thưa các bạn, khi Devadatta bị đất nuốt chửng, đại chúng đã vui mừng, nói: ‘Devadatta, kẻ thù của Đức Phật, đã bị đất nuốt chửng’.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva devadatte mate mahājano tussati ceva hasati ca, pubbepi tussi ceva hasi cā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what discussion are you engaged in now?" When they replied, "This one, venerable sir," he said, "Bhikkhus, it is not only now that the great multitude is pleased and laughs at Devadatta's death; in the past too, they were pleased and laughed," and he related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: “Này các Tỳ Khưu, hiện giờ các ông đang ngồi bàn chuyện gì vậy?” Khi được thưa: “Chuyện này, bạch Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ Khưu, không phải chỉ bây giờ mà cả trong quá khứ, khi Devadatta chết, đại chúng cũng đã vui mừng và cười,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
1473
Atīte bārāṇasiyaṃ mahāpiṅgalo nāma rājā adhammena visamena rajjaṃ kāresi, chandādivasena pāpakammāni karonto daṇḍabalijaṅghakahāpaṇādiggahaṇena ucchuyante ucchuṃ viya mahājanaṃ pīḷesi kakkhaḷo pharuso sāhasiko, paresu anuddayāmattampi nāmassa natthi, gehe itthīnampi puttadhītānampi amaccabrāhmaṇagahapatikādīnampi appiyo amanāpo, akkhimhi patitarajaṃ viya, bhattapiṇḍe sakkharā viya, paṇhiṃ vijjhitvā paviṭṭhakaṇṭako viya ca ahosi.
In the past, in Bārāṇasī, a king named Mahāpiṅgala ruled the kingdom unrighteously and unjustly. Committing evil deeds out of desire and other defilements, he oppressed the great multitude by collecting taxes, levies, and kahāpaṇas, like a sugarcane press oppressing sugarcane. He was harsh, rough, and violent; he had not even a trace of compassion for others. He was disliked and displeasing to the women, sons, and daughters in his own household, as well as to ministers, brahmins, householders, and others. He was like dust fallen into the eye, like a stone in a lump of rice, and like a thorn that had pierced and entered the heel.
Trong quá khứ, ở Bārāṇasī, có một vị vua tên Mahāpiṅgala trị vì một cách bất công và sai trái. Y phạm các hành động bất thiện do thiên vị, v.v., áp bức dân chúng bằng cách thu thuế, cướp bóc, và nhận hối lộ, giống như một cỗ máy ép mía ép mía vậy. Y thô bạo, tàn nhẫn, hung hăng, không có chút lòng từ bi nào đối với người khác. Y bị ghét bỏ và không được yêu mến bởi cả vợ con trong nhà, các vị quan, Bà La Môn, gia chủ, v.v., giống như bụi rơi vào mắt, như sạn trong cơm, như gai đâm vào gót chân.
Tadā bodhisatto mahāpiṅgalassa putto hutvā nibbatti.
At that time, the Bodhisatta was reborn as Mahāpiṅgala's son.
Khi ấy, Bồ Tát đã tái sinh làm con trai của Mahāpiṅgala.
Mahāpiṅgalo dīgharattaṃ rajjaṃ kāretvā kālamakāsi.
Mahāpiṅgala ruled for a long time and then passed away.
Mahāpiṅgala trị vì lâu năm rồi qua đời.
Tasmiṃ kālakate sakalabārāṇasivāsino haṭṭhatuṭṭhā mahāhasitaṃ hasitvā dārūnaṃ sakaṭasahassena mahāpiṅgalaṃ jhāpetvā anekehi ghaṭasahassehi āḷāhanaṃ nibbāpetvā bodhisattaṃ rajje abhisiñcitvā ‘‘dhammiko no rājā laddho’’ti haṭṭhatuṭṭhā nagare ussavabheriṃ carāpetvā samussitadhajapaṭākaṃ nagaraṃ alaṅkaritvā dvāre dvāre maṇḍapaṃ kāretvā vippakiṇṇalājakusumamaṇḍitatalesu alaṅkatamaṇḍapesu nisīditvā khādiṃsu ceva piviṃsu ca.
When he passed away, all the residents of Bārāṇasī, delighted and joyful, laughed a great laugh. They cremated Mahāpiṅgala with a thousand cartloads of wood, extinguished the pyre with many thousands of pots of water, and then anointed the Bodhisatta as king. Delighted and joyful, saying, "We have found a righteous king," they had the festival drum beaten throughout the city, adorned the city with raised flags and banners, constructed pavilions at every gate, and sat in the adorned pavilions with their grounds strewn with parched rice and flowers, eating and drinking.
Khi ông ta qua đời, toàn thể cư dân Bārāṇasī, vui mừng hớn hở, cười phá lên, dùng hàng ngàn xe củi thiêu đốt Mahāpiṅgala, dùng hàng ngàn bình nước dập tắt giàn thiêu, rồi làm lễ quán đảnh cho Bồ Tát lên ngôi vua. Họ vui mừng hớn hở, loan báo trống hội trong thành, trang hoàng thành phố với cờ phướn giương cao, dựng các lều bạt ở mỗi cổng, ngồi trong các lều bạt được trang trí với nền rải hoa gạo và hoa, rồi ăn uống linh đình.
1474
Bodhisattopi alaṅkate mahātale samussitasetacchattassa pallaṅkavarassa majjhe mahāyasaṃ anubhavanto nisīdi.
The Bodhisatta also sat amidst the adorned great platform and the excellent royal couch, enjoying great glory, with a white parasol raised above him.
Bồ Tát cũng ngồi giữa ngai vàng cao quý, dưới chiếc lọng trắng giương cao, trên nền đất lớn được trang hoàng lộng lẫy, hưởng thụ vinh quang tột bậc.
Amaccā ca brāhmaṇagahapatiraṭṭhikadovārikādayo ca rājānaṃ parivāretvā aṭṭhaṃsu.
Ministers, brahmins, householders, provincial officers, doorkeepers, and others stood surrounding the king.
Các đại thần, Bà-la-môn, gia chủ, quan chức địa phương, thị vệ và những người khác vây quanh nhà vua.
Atheko dovāriko nātidūre ṭhatvā assasanto passasanto parodi.
Then a doorkeeper, standing not too far away, sighed and wept.
Bấy giờ, một người thị vệ đứng không xa lắm, thở dài thườn thượt, khóc lóc.
Bodhisatto taṃ disvā ‘‘samma dovārika, mama pitari kālakate sabbe tuṭṭhapahaṭṭhā ussavaṃ kīḷantā vicaranti, tvaṃ pana rodamāno ṭhito, kiṃ nu kho mama pitā taveva piyo ahosi manāpo’’ti pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
Seeing him, the Bodhisatta asked, "Good doorkeeper, when my father passed away, everyone is delighted and joyful, celebrating a festival, but you stand weeping. Was my father dear and pleasing only to you?" Asking this, he spoke the first verse:
Bồ Tát thấy vậy, hỏi rằng: “Này thị vệ, khi cha ta qua đời, tất cả mọi người đều vui mừng hớn hở, đi lại ăn mừng lễ hội, còn ngươi thì đứng khóc. Chẳng lẽ cha ta chỉ là người thân yêu và dễ chịu đối với riêng ngươi thôi sao?” – rồi nói lên bài kệ đầu tiên:
1475
179.
179.
179.
1476
‘‘Sabbo jano hiṃsito piṅgalena, tasmiṃ mate paccayā vedayanti;
"All people were harmed by Piṅgala; when he died, they experience joy.
“Tất cả mọi người đều bị Piṅgala làm hại, khi ông ta chết, họ đều cảm thấy vui mừng.
1477
Piyo nu te āsi akaṇhanetto, kasmā nu tvaṃ rodasi dvārapālā’’ti.
Was the one with the yellowish eyes dear to you, doorkeeper? Why do you weep?"
Chẳng lẽ kẻ mắt vàng ấy là người thân yêu của ngươi? Vì sao ngươi lại khóc, hỡi người gác cổng?”
1478
Tattha hiṃsitoti nānappakārehi daṇḍabaliādīhi pīḷito.
Therein, hiṃsito means oppressed by various kinds of punishments and taxes.
Trong đó, hiṃsito có nghĩa là bị áp bức bằng nhiều cách như hình phạt, thuế khóa, v.v.
Piṅgalenāti piṅgalakkhena.
Piṅgalenāti means by the one with yellowish eyes.
Piṅgalenā có nghĩa là bởi kẻ mắt vàng.
Tassa kira dvepi akkhīni nibbiddhapiṅgalāni biḷārakkhivaṇṇāni ahesuṃ, tenevassa ‘‘piṅgalo’’ti nāmaṃ akaṃsu.
It is said that both of his eyes were yellowish and piercing, like cat's eyes, and for that reason, they named him "Piṅgala."
Nghe nói, cả hai mắt của ông ta đều có màu vàng đục như mắt mèo, vì thế họ gọi ông ta là “Piṅgala”.
Paccayā vedayantīti pītiyo pavedayanti.
Paccayā vedayantīti means they express joy.
Paccayā vedayantī có nghĩa là biểu lộ niềm vui.
Akaṇhanettoti piṅgalanetto.
Akaṇhanettoti means with yellowish eyes.
Akaṇhanetto có nghĩa là kẻ mắt vàng.
Kasmā nu tvanti kena nu kāraṇena tvaṃ rodasi.
Kasmā nu tvanti means for what reason do you weep?
Kasmā nu tvaṃ có nghĩa là vì lý do gì mà ngươi khóc.
Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘kasmā tuva’’nti pāṭho.
In the Commentary, however, the reading is "kasmā tuvaṃ."
Trong Chú Giải thì có câu “kasmā tuvaṃ”.
1479
So tassa vacanaṃ sutvā ‘‘nāhaṃ, mahārāja, ‘mahāpiṅgalo mato’ti sokena rodāmi, sīsassa me sukhaṃ jātaṃ.
Hearing his words, he said, "No, great king, I do not weep out of sorrow that Mahāpiṅgala has died. Relief has come to my head.
Nghe lời ấy, người thị vệ nói: “Đại vương, tôi không khóc vì đau buồn rằng ‘Đại Piṅgala đã chết’, mà vì đầu tôi đã được an lành.
Piṅgalarājā hi pāsādā otaranto ca ārohanto ca kammāramuṭṭhikāya paharanto viya mayhaṃ sīse aṭṭhaṭṭha khaṭake deti, so paralokaṃ gantvāpi mama sīse dadamāno viya nirayapālānampi yamassapi sīle khaṭake dassati, atha naṃ te ‘ativiya ayaṃ amhe bādhatī’ti puna idheva ānetvā vissajjeyyuṃ, atha me so punapi sīse khaṭake dadeyyāti bhayenāhaṃ rodāmī’’ti imamatthaṃ pakāsento dutiyaṃ gāthamāha –
For King Piṅgala, when descending and ascending the palace, would strike my head eight times with his fist, as if with a blacksmith's hammer. Even after going to the other world, he would strike the heads of the guardians of hell and even Yama, as if striking my head. Then they would say, 'This one troubles us excessively,' and bring him back here and release him. Then he would again strike my head with his fists. It is out of this fear that I weep," proclaiming this meaning, he spoke the second verse:
Vua Piṅgala, mỗi khi lên xuống cung điện, thường dùng nắm tay như thợ rèn mà đấm vào đầu tôi tám cái. Nếu ông ta đi đến thế giới bên kia mà vẫn tiếp tục đấm vào đầu tôi như vậy, thì ngay cả những người canh ngục địa ngục và Diêm Vương cũng sẽ bị ông ta đấm vào đầu. Rồi họ sẽ nói ‘kẻ này quá quấy rầy chúng ta’ và đưa ông ta trở lại đây. Khi đó, ông ta lại sẽ đấm vào đầu tôi. Tôi khóc vì sợ hãi điều đó.” – nói lên ý này, ông ta đọc bài kệ thứ hai:
1480
180.
180.
180.
1481
‘‘Na me piyo āsi akaṇhanetto, bhāyāmi paccāgamanāya tassa;
"The one with the yellowish eyes was not dear to me; I fear his return."
“Kẻ mắt vàng ấy không phải là người thân yêu của tôi, tôi sợ ông ta sẽ quay trở lại.
1482
Ito gato hiṃseyya maccurājaṃ, so hiṃsito āneyya puna idhā’’ti.
Having gone from here, he would harm the King of Death, and harmed, he would bring him back here.”
Nếu ông ta đi đến đó, ông ta sẽ làm hại Diêm Vương, rồi bị làm hại, ông ta sẽ lại bị đưa trở về đây.”
1483
Atha naṃ bodhisatto ‘‘so rājā dārūnaṃ vāhasahassena daḍḍho udakaghaṭasatehi sitto, sāpissa āḷāhanabhūmi samantato khatā, pakatiyāpi ca paralokaṃ gatā nāma aññattha gativasā puna teneva sarīrena nāgacchanti, mā tvaṃ bhāyī’’ti taṃ samassāsento imaṃ gāthamāha –
Then the Bodhisatta, reassuring him, said this verse: “That king was burnt with a thousand cartloads of wood, sprinkled with hundreds of pots of water, and his cremation ground was dug up all around. Moreover, those who have gone to the other world do not return with the same body, except by the power of their destination. Do not be afraid!”
Bấy giờ, Bồ Tát an ủi ông ta rằng: “Vị vua ấy đã bị thiêu đốt bằng hàng ngàn xe củi, bị dội nước bằng hàng trăm bình nước, và nơi giàn thiêu của ông ta đã bị đào bới khắp nơi. Hơn nữa, những người đã đi đến thế giới bên kia thì không thể trở lại với cùng thân thể ấy, trừ khi do nghiệp lực. Ngươi đừng sợ hãi.” – rồi nói lên bài kệ này:
1484
181.
181.
181.
1485
‘‘Daḍḍho vāhasahassehi, sitto ghaṭasatehi so;
“He was burnt with thousands of cartloads, sprinkled with hundreds of pots;
“Ông ta đã bị thiêu đốt bằng hàng ngàn xe củi, bị dội nước bằng hàng trăm bình nước;
1486
Parikkhatā ca sā bhūmi, mā bhāyi nāgamissatī’’ti.
And that ground was dug up all around. Do not fear, he will not return.”
Và nơi ấy đã bị đào bới khắp nơi, đừng sợ hãi, ông ta sẽ không trở lại đâu.”
1487
Tato paṭṭhāya dovāriko assāsaṃ paṭilabhi.
From then on, the doorkeeper regained his composure.
Từ đó trở đi, người thị vệ được an ủi.
Bodhisatto dhammena rajjaṃ kāretvā dānādīni puññāni katvā yathākammaṃ gato.
The Bodhisatta, having ruled the kingdom righteously and performed meritorious deeds such as giving, departed according to his karma.
Bồ Tát trị vì vương quốc theo Chánh pháp, thực hành các công đức như bố thí, rồi tùy theo nghiệp mà tái sinh.
1488
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā mahāpiṅgalo devadatto ahosi, putto pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: “At that time, Mahāpiṅgala was Devadatta, but the son was I myself.”
Bậc Đạo Sư đã thuyết pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Khi ấy, Mahāpiṅgala là Devadatta, còn vị hoàng tử chính là Ta.”
1489
Mahāpiṅgalajātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth, the Story of Mahāpiṅgala Jātaka.
Câu chuyện Mahāpiṅgala Jātaka, thứ mười, đã hoàn tất.
1490
Upāhanavaggo navamo.
The Ninth, the Upāhana Vagga.
Chương Upāhana, thứ chín.
1491
Tassuddānaṃ –
Its Summary –
Tóm tắt chương ấy:
1492
Upāhanaṃ vīṇāthūṇaṃ, vikaṇṇakaṃ asitābhu;
Upāhana, Vīṇāthūṇa, Vikaṇṇaka, Asitābhu;
Upāhana, Vīṇāthūṇa, Vikaṇṇaka, Asitābhu;
1493
Vacchanakhaṃ bakañceva, sāketañca ekapadaṃ;
Vacchanakha, Baka, Sāketa, and Ekapada;
Vacchanakha và Baka, Sāketa và Ekapada;
1494
Haritamātu piṅgalaṃ.
Haritamāta, Piṅgala.
Haritamātu, Piṅgala.
1495

10. Siṅgālavaggo

10. Siṅgāla Vagga

10. Chương Siṅgāla

1496
* 1. Sabbadāṭhajātakavaṇṇanā
* 1. The Story of Sabbadāṭha Jātaka
* 1. Câu chuyện Sabbadāṭha Jātaka
1497
Siṅgālo mānatthaddhoti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Siṅgālo mānatthaddho” – the Teacher related this while dwelling at Veḷuvana, concerning Devadatta.
Siṅgālo mānatthaddho – câu chuyện này được Bậc Đạo Sư kể khi Ngài trú tại Veluvana, liên quan đến Devadatta.
Devadatto ajātasattuṃ pasādetvā uppāditaṃ lābhasakkāraṃ ciraṭṭhitikaṃ kātuṃ nāsakkhi, nāḷāgiripayojane pāṭihāriyassa diṭṭhakālato paṭṭhāya tassa so lābhasakkāro antaradhāyi.
Devadatta, having gained Ajātasattu’s favor, was unable to make the acquired gains and honors long-lasting; after the incident with Nāḷāgiri and the display of the miracle, his gains and honors disappeared.
Devadatta đã không thể duy trì lâu dài lợi lộc và sự tôn kính mà y đã tạo ra sau khi làm hài lòng Ajātasattu. Lợi lộc và sự tôn kính ấy đã biến mất kể từ khi Devadatta biểu diễn thần thông trong vụ Nāḷāgiri.
Athekadivasaṃ bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, devadatto lābhasakkāraṃ uppādetvā ciraṭṭhitikaṃ kātuṃ nāsakkhī’’ti.
Then one day, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: “Friends, Devadatta, having gained gains and honors, was unable to make them long-lasting.”
Rồi một ngày nọ, các Tỳ-khưu khởi lên cuộc đàm luận trong pháp đường: “Thưa chư Tôn giả, Devadatta đã không thể duy trì lâu dài lợi lộc và sự tôn kính mà y đã tạo ra.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva attano uppannaṃ lābhasakkāraṃ antaradhāpeti, pubbepi antaradhāpesiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, “Bhikkhus, what is the topic of your discussion now?” When told, “This is it,” he said, “Bhikkhus, Devadatta does not lose his acquired gains and honors only now; he lost them in the past as well,” and then he related a past event.
Bậc Đạo Sư đến hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?” Khi được trả lời “Về chuyện này, bạch Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, Devadatta không phải chỉ bây giờ mới làm biến mất lợi lộc và sự tôn kính của mình, mà trong quá khứ y cũng đã làm biến mất như vậy rồi.” – rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1498
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa purohito ahosi tiṇṇaṃ vedānaṃ aṭṭhārasannañca sippānaṃ pāraṃ gato.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his chief priest, having mastered the three Vedas and the eighteen crafts.
Trong quá khứ, khi Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát là vị đạo sĩ của vua, tinh thông ba bộ Veda và mười tám môn nghệ thuật.
So pathavījayamantaṃ nāma jānāti.
He knew a mantra called Pathavījaya mantra.
Ngài biết một thần chú tên là Pathavījaya.
Pathavījayamantoti āvaṭṭanamanto vuccati.
The Pathavījaya mantra is called the mantra of attraction.
Pathavījaya-manta được gọi là thần chú triệu hồi.
Athekadivasaṃ bodhisatto ‘‘taṃ mantaṃ sajjhāyissāmī’’ti ekasmiṃ aṅgaṇaṭṭhāne piṭṭhipāsāṇe nisīditvā sajjhāyamakāsi.
Then one day, the Bodhisatta, intending to recite that mantra, sat on a stone slab in a courtyard and recited it.
Rồi một ngày nọ, Bồ Tát ngồi trên một tảng đá phẳng ở một khoảng sân để tụng thần chú ấy.
Taṃ kira mantaṃ aññavihitaṃ dhitivirahitaṃ sāvetuṃ na sakkā, tasmā naṃ so tathārūpe ṭhāne sajjhāyati.
It is said that this mantra could not be taught to one whose mind was distracted or who lacked diligence, so he recited it in such a place.
Thần chú ấy không thể được tụng bởi người lơ đễnh hoặc thiếu kiên trì, vì vậy Ngài tụng nó ở một nơi thích hợp như vậy.
Athassa sajjhāyanakāle eko siṅgālo ekasmiṃ bile nipanno taṃ mantaṃ sutvāva paguṇamakāsi.
As he was reciting, a jackal lying in a hole heard the mantra and immediately mastered it.
Trong khi Ngài tụng, một con chó rừng nằm trong hang đã nghe và học thuộc thần chú ấy.
So kira anantarātīte attabhāve paguṇapathavījayamanto eko brāhmaṇo ahosi.
It is said that in his immediately preceding existence, he had been a brahmin who had mastered the Pathavījaya mantra.
Con chó rừng ấy, trong kiếp sống ngay trước đó, là một Bà-la-môn đã học thuộc thần chú Pathavījaya.
Bodhisatto sajjhāyaṃ katvā uṭṭhāya ‘‘paguṇo vata me ayaṃ manto’’ti āha.
The Bodhisatta, having recited, stood up and said, “Indeed, this mantra is well-mastered by me.”
Bồ Tát tụng xong, đứng dậy và nói: “Thần chú này ta đã học thuộc rồi.”
Siṅgālo bilā nikkhamitvā ‘‘ambho brāhmaṇa, ayaṃ manto tayāpi mameva paguṇataro’’ti vatvā palāyi.
The jackal came out of the hole and said, “Hey brahmin, this mantra is even better mastered by me than by you,” and then fled.
Con chó rừng chui ra khỏi hang và nói: “Này Bà-la-môn, thần chú này đối với ta còn thuộc hơn cả đối với ngươi!” – rồi bỏ chạy.
Bodhisatto ‘‘ayaṃ siṅgālo mahantaṃ akusalaṃ karissatī’’ti ‘‘gaṇhatha gaṇhathā’’ti thokaṃ anubandhi.
The Bodhisatta, thinking, “This jackal will commit a great unwholesome act,” pursued him for a short distance, shouting, “Catch him! Catch him!”
Bồ Tát nghĩ: “Con chó rừng này sẽ gây ra một điều bất thiện lớn lao,” – và đuổi theo một đoạn, la lên: “Bắt lấy! Bắt lấy!”
Siṅgālo palāyitvā araññaṃ pāvisi.
The jackal fled and entered the forest.
Con chó rừng chạy trốn và vào rừng.
1499
So gantvā ekaṃ siṅgāliṃ thokaṃ sarīre ḍaṃsi, ‘‘kiṃ, sāmī’’ti ca vutte ‘‘mayhaṃ jānāsi na jānāsī’’ti āha.
He went and bit a female jackal slightly on the body, and when she asked, “What, my lord?” he said, “Do you know me or not?”
Nó đi đến một con chó rừng cái và cắn nhẹ vào người nó. Khi con chó cái hỏi: “Có chuyện gì vậy, chủ nhân?”, nó đáp: “Ngươi có biết ta không?”
Sā ‘‘āma, jānāmī’’ti sampaṭicchi.
She assented, saying, “Yes, I know.”
Con chó cái đáp: “Vâng, tôi biết.”
So pathavījayamantaṃ parivattetvā anekāni siṅgālasatāni āṇāpetvā sabbepi hatthiassasīhabyagghasūkaramigādayo catuppade attano santike akāsi.
He recited the Pathavījaya mantra and commanded hundreds of jackals, and he brought all four-footed animals such as elephants, horses, lions, tigers, boars, and deer to his presence.
Nó tụng thần chú Pathavījaya và triệu tập hàng trăm con chó rừng, rồi biến tất cả các loài bốn chân như voi, ngựa, sư tử, hổ, heo rừng, nai, v.v., thành thuộc hạ của mình.
Katvā ca pana sabbadāṭho nāma rājā hutvā ekaṃ siṅgāliṃ aggamahesiṃ akāsi.
Having done so, he became a king named Sabbadāṭha and made one female jackal his chief queen.
Sau đó, nó trở thành vua tên là Sabbadāṭha và phong một con chó rừng cái làm hoàng hậu.
Dvinnaṃ hatthīnaṃ piṭṭhe sīho tiṭṭhati, sīhapiṭṭhe sabbadāṭho siṅgālo rājā siṅgāliyā aggamahesiyā saddhiṃ nisīdati, mahanto yaso ahosi.
A lion stood on the backs of two elephants, and on the lion’s back sat King Sabbadāṭha the jackal with his chief queen, enjoying great glory.
Một con sư tử đứng trên lưng hai con voi, và trên lưng sư tử, vua Sabbadāṭha cùng với hoàng hậu ngồi. Vinh quang của nó thật to lớn.
So yasamahantena pamajjitvā mānaṃ uppādetvā ‘‘bārāṇasirajjaṃ gaṇhissāmī’’ti sabbacatuppadaparivuto bārāṇasiyā avidūraṭṭhānaṃ sampāpuṇi, parisā dvādasayojanā ahosi.
He, being great in fame, became negligent and, developing conceit, thought, "I will seize the kingdom of Bārāṇasī." Surrounded by all the quadrupeds, he reached a place not far from Bārāṇasī. His retinue was twelve yojanas.
Vì quá kiêu hãnh với vinh quang ấy, nó sinh lòng kiêu mạn và nói: “Ta sẽ chiếm lấy vương quốc Bārāṇasī!” – rồi cùng với tất cả các loài bốn chân thuộc hạ, nó đến một nơi không xa Bārāṇasī. Đoàn tùy tùng của nó dài mười hai dojana.
So avidūre ṭhitoyeva ‘‘rajjaṃ vā detu, yuddhaṃ vā’’ti rañño sāsanaṃ pesesi.
Standing not far off, he sent a message to the king, "Either give up the kingdom or fight."
Đứng không xa lắm, nó gửi sứ giả đến vua, nói: “Hoặc là dâng vương quốc, hoặc là chiến tranh!”
Bārāṇasivāsino bhītatasitā nagaradvārāni pidahitvā aṭṭhaṃsu.
The inhabitants of Bārāṇasī, terrified and frightened, closed the city gates and stood still.
Cư dân Bārāṇasī sợ hãi, đóng chặt các cổng thành và đứng chờ.
1500
Bodhisatto rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘mā bhāyi, mahārāja, sabbadāṭhasiṅgālena saddhiṃ yuddhaṃ mama bhāro, ṭhapetvā maṃ añño tena saddhiṃ yujjhituṃ samattho nāma natthī’’ti rājānañca nāgare ca samassāsetvā ‘‘kinti katvā nu kho sabbadāṭho rajjaṃ gahessati, pucchissāmi tāva na’’nti dvāraṭṭālakaṃ abhiruhitvā ‘‘samma sabbadāṭha, kinti katvā imaṃ rajjaṃ gaṇhissasī’’ti pucchi.
The Bodhisatta approached the king and, reassuring both the king and the citizens, saying, "Do not be afraid, great king, the battle with the jackal Sabbadāṭha is my responsibility; there is no one else apart from me who is capable of fighting him," then climbed onto the city gate tower and asked, "Friend Sabbadāṭha, how will you seize this kingdom?"
Bồ Tát đến gặp vua và nói: “Đại vương, đừng sợ hãi. Cuộc chiến với chó rừng Sabbadāṭha là trách nhiệm của tôi. Không ai khác ngoài tôi có thể chiến đấu với nó.” – Ngài an ủi vua và dân chúng, rồi nói: “Sabbadāṭha sẽ chiếm vương quốc bằng cách nào? Ta sẽ hỏi nó trước đã.” – Ngài trèo lên tháp canh và hỏi: “Này Sabbadāṭha, ngươi sẽ chiếm vương quốc này bằng cách nào?”
‘‘Sīhanādaṃ nadāpetvā mahājanaṃ saddena santāsetvā gaṇhissāmī’’ti.
"By having a lion's roar uttered and terrifying the populace with the sound, I will seize it."
“Ta sẽ gầm lên tiếng sư tử để dọa sợ đại chúng và chiếm lấy!”
Bodhisatto ‘‘attheta’’nti ñatvā aṭṭālakā oruyha ‘‘sakaladvādasayojanikabārāṇasinagaravāsino kaṇṇacchiddāni māsapiṭṭhena lañjantū’’ti bheriṃ carāpesi.
The Bodhisatta, knowing "this is it," descended from the tower and had a drum beaten throughout the city, proclaiming, "Let all the inhabitants of the twelve-yojana city of Bārāṇasī plug their ear holes with bean paste."
Bồ Tát biết được điều đó, liền xuống khỏi tháp canh và cho loan báo trống: “Tất cả cư dân thành Bārāṇasī rộng mười hai dojana hãy nhét lỗ tai bằng bột đậu!”
Mahājano bheriyā āṇaṃ sutvā antamaso biḷāle upādāya sabbacatuppadānañceva attano ca kaṇṇacchiddāni yathā parassa saddaṃ sotuṃ na sakkā, evaṃ māsapiṭṭhena lañji.
The populace, hearing the drum's command, plugged their own ear holes and those of all quadrupeds, down to the cats, with bean paste, so that no one could hear the sound.
Đại chúng nghe lệnh trống, liền nhét lỗ tai của tất cả các loài bốn chân, kể cả mèo, và của chính họ bằng bột đậu, sao cho không thể nghe thấy tiếng động của người khác.
1501
Atha bodhisatto puna aṭṭālakaṃ abhiruhitvā ‘‘sabbadāṭhā’’ti āha.
Then the Bodhisatta again climbed onto the tower and said, "Sabbadāṭha!"
Rồi Bồ Tát lại trèo lên tháp canh và gọi: “Sabbadāṭha!”
‘‘Kiṃ, brāhmaṇā’’ti?
"What is it, brahmin?"
“Gì vậy, Bà-la-môn?”
‘‘Imaṃ rajjaṃ kinti katvā gaṇhissasī’’ti?
"How will you seize this kingdom?"
“Ngươi sẽ chiếm vương quốc này bằng cách nào?”
‘‘Sīhanādaṃ nadāpetvā manusse tāsetvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā gaṇhissāmī’’ti.
"By having a lion's roar uttered, terrifying the people, and causing them to lose their lives, I will seize it."
‘‘Ta sẽ khiến chúng gầm tiếng sư tử, dọa dẫm loài người, khiến chúng mất mạng rồi bắt chúng!’’
‘‘Sīhanādaṃ nadāpetuṃ na sakkhissasi.
"You will not be able to make a lion's roar.
‘‘Ngươi sẽ không thể khiến chúng gầm tiếng sư tử được đâu.
Jātisampannā hi surattahatthapādā kesarasīharājāno tādisassa jarasiṅgālassa āṇaṃ na karissantī’’ti.
For noble-born lion kings with well-colored paws will not obey such a decrepit jackal's command."
Vì những chúa sư tử có đầy đủ dòng dõi, chân tay đỏ thắm, bờm đẹp sẽ không tuân lệnh một con chó rừng già như ngươi đâu.’’
Siṅgālo mānatthaddho hutvā ‘‘aññe tāva sīhā tiṭṭhantu, yassāhaṃ piṭṭhe nisinno, taññeva nadāpessāmī’’ti āha.
The jackal, stiff with conceit, said, "Let other lions be, I will make the very one I am sitting on roar."
Con chó rừng, vì kiêu ngạo, nói: ‘‘Những con sư tử khác cứ đứng đó, con sư tử mà ta đang ngồi trên lưng, ta sẽ khiến nó gầm lên!’’
‘‘Tena hi nadāpehi, yadi sakkosī’’ti.
"Then make it roar, if you can!"
‘‘Vậy thì hãy khiến nó gầm lên đi, nếu ngươi có thể.’’
So yasmiṃ sīhe nisinno, tassa ‘‘nadāhī’’ti pādena saññaṃ adāsi.
So he gave a sign with his foot to the lion he was sitting on, saying, "Roar!"
Nó ra hiệu bằng chân cho con sư tử mà nó đang ngồi trên lưng, nói: ‘‘Gầm lên đi!’’
Sīho hatthikumbhe mukhaṃ uppīḷetvā tikkhattuṃ appaṭivattiyaṃ sīhanādaṃ nadi.
The lion pressed its mouth against the elephant's forehead and roared a lion's roar three times, an irreversible roar.
Con sư tử ấn mặt vào trán voi và gầm lên tiếng sư tử ba lần không thể đảo ngược.
Hatthī santāsappattā hutvā siṅgālaṃ pādamūle pātetvā pādenassa sīsaṃ akkamitvā cuṇṇavicuṇṇaṃ akaṃsu, sabbadāṭho tattheva jīvitakkhayaṃ patto.
The elephants, struck with terror, threw the jackal at their feet, trampled its head with their feet, and crushed it to pieces. Sabbadāṭha met his end right there.
Những con voi kinh hoàng, quật con chó rừng xuống dưới chân, rồi dùng chân giẫm nát đầu nó thành từng mảnh vụn, con vật có tất cả răng nanh đó đã mất mạng ngay tại chỗ.
Tepi hatthī sīhanādaṃ sutvā maraṇabhayatajjitā aññamaññaṃ ovijjhitvā tattheva jīvitakkhayaṃ pāpuṇiṃsu, ṭhapetvā sīhe sesāpi migasūkarādayo sasabiḷārapariyosānā sabbe catuppādā tattheva jīvitakkhayaṃ pāpuṇiṃsu.
Those elephants, too, hearing the lion's roar, were terrified by the fear of death, and colliding with each other, they also met their end right there. All other quadrupeds, apart from the lions, from deer and boars down to hares and cats, all met their end right there.
Và những con voi đó, nghe tiếng sư tử gầm, vì sợ chết mà kinh hoàng, đâm vào nhau và cũng mất mạng ngay tại chỗ; trừ sư tử ra, tất cả các loài vật khác như hươu, lợn rừng, cho đến thỏ và mèo, tất cả các loài bốn chân đều mất mạng ngay tại chỗ.
Sīhā palāyitvā araññaṃ pavisiṃsu, dvādasayojaniko maṃsarāsi ahosi.
The lions fled and entered the forest. There was a heap of flesh twelve yojanas wide.
Những con sư tử chạy trốn vào rừng, và một đống thịt cao mười hai dojana đã xuất hiện.
Bodhisatto aṭṭālakā otaritvā nagaradvārāni vivarāpetvā ‘‘sabbe attano kaṇṇesu māsapiṭṭhaṃ apanetvā maṃsatthikā maṃsaṃ āharantū’’ti nagare bheriṃ carāpesi.
The Bodhisatta descended from the tower, had the city gates opened, and had a drum beaten in the city, proclaiming, "Let everyone remove the bean paste from their ears and, if they want meat, take meat!"
Bồ Tát xuống khỏi tháp canh, cho mở cửa thành, và ra lệnh đánh trống trong thành: ‘‘Tất cả hãy gỡ miếng bột đậu ra khỏi tai và mang thịt về nếu muốn thịt.’’
Manussā allamaṃsaṃ khāditvā sesaṃ sukkhāpetvā vallūramakaṃsu.
People ate fresh meat and dried the rest to make jerky.
Người dân ăn thịt tươi và phơi khô phần còn lại để làm thịt khô.
Tasmiṃ kira kāle vallūrakaraṇaṃ udapādīti vadanti.
It is said that at that time, the practice of making jerky arose.
Người ta nói rằng vào thời điểm đó, việc làm thịt khô đã bắt đầu.
1502
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā imā abhisambuddhagāthā vatvā jātakaṃ samodhānesi –
The Teacher, having brought this Dhamma discourse, recited these verses of perfect enlightenment and connected the Jātaka:
Đức Thế Tôn sau khi thuyết bài pháp này, đã nói những bài kệ đã giác ngộ này và kết nối câu chuyện Jātaka –
1503
182.
182.
182.
1504
‘‘Siṅgālo mānatthaddho ca, parivārena atthiko;
"The jackal, stiff with conceit, and desirous of a retinue,
‘‘Chó rừng kiêu ngạo, tham lam tùy tùng,
1505
Pāpuṇi mahatiṃ bhūmiṃ, rājāsi sabbadāṭhinaṃ.
Attained a great position; he was king of all the fanged ones.
Đã đạt đến địa vị cao cả, làm vua của tất cả loài có răng nanh.
1506
183.
183.
183.
1507
‘‘Evameva manussesu, yo hoti parivāravā;
"Even so among humans,
Cũng vậy trong loài người, ai có tùy tùng,
1508
So hi tattha mahā hoti, siṅgālo viya dāṭhina’’nti.
One who has a retinue becomes great there, like the jackal among the fanged ones."
Người đó thật sự vĩ đại ở đó, như chó rừng giữa loài có răng nanh.’’
1509
Tattha mānatthaddhoti parivāraṃ nissāya uppannena mānena thaddho.
Therein, mānatthaddho means stiff with conceit that arose due to the retinue.
Trong đó, mānatthaddho có nghĩa là kiêu ngạo vì có tùy tùng.
Parivārena atthikoti uttarimpi parivārena atthiko hutvā.
Parivārena atthiko means being desirous of even more retinue.
Parivārena atthiko có nghĩa là mong muốn có thêm tùy tùng.
Mahatiṃ bhūminti mahantaṃ sampattiṃ.
Mahatiṃ bhūmiṃ means great prosperity.
Mahatiṃ bhūmiṃ có nghĩa là sự giàu có vĩ đại.
Rājāsi sabbadāṭhinanti sabbesaṃ dāṭhīnaṃ rājā āsi.
Rājāsi sabbadāṭhinaṃ means he was king of all the fanged ones.
Rājāsi sabbadāṭhinaṃ có nghĩa là đã là vua của tất cả loài có răng nanh.
So hi tattha mahā hotīti so parivārasampanno puriso tesu parivāresu mahā nāma hoti.
So hi tattha mahā hotīti means that person endowed with a retinue is called great among those retinues.
So hi tattha mahā hotī có nghĩa là người có đầy đủ tùy tùng đó được gọi là vĩ đại trong số các tùy tùng đó.
Siṅgālo viya dāṭhinanti yathā siṅgālo dāṭhīnaṃ mahā ahosi, evaṃ mahā hoti, atha so siṅgālo viya pamādaṃ āpajjitvā taṃ parivāraṃ nissāya vināsaṃ pāpuṇātīti.
Like a jackal with fangs means that just as a jackal became great with fangs, so he becomes great, and then, like that jackal, having fallen into heedlessness, he meets with destruction due to that retinue.
Siṅgālo viya dāṭhina có nghĩa là như chó rừng đã vĩ đại giữa loài có răng nanh, cũng vậy người đó trở nên vĩ đại, rồi người đó như chó rừng, vì lơ là mà dựa vào tùy tùng đó để gặp sự hủy diệt.
1510
‘‘Tadā siṅgālo devadatto ahosi, rājā sāriputto, purohito pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the jackal was Devadatta, the king was Sāriputta, and the chaplain was I myself.”
‘‘Vào thời đó, chó rừng là Devadatta, vua là Sāriputta, còn vị đạo sĩ chính là ta vậy.’’
1511
Sabbadāṭhajātakavaṇṇanā paṭhamā.
The first commentary on the Sabbadāṭha Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka về loài có răng nanh thứ nhất đã kết thúc.
1512
* 2. Sunakhajātakavaṇṇanā
* 2. Commentary on the Sunakha Jātaka
* 2. Câu chuyện Jātaka về con chó
1513
Bālo vatāyaṃ sunakhoti idaṃ satthā jetavane viharanto ambaṇakoṭṭhake āsanasālāya bhattabhuñjanasunakhaṃ ārabbha kathesi.
This dog is foolish – The Teacher, while dwelling at Jetavana, told this story concerning a dog that ate meals in the eating hall of the water-carriers.
Bālo vatāyaṃ sunakho (Thật là một con chó ngu ngốc này) – câu chuyện này được Đức Thế Tôn kể khi ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một con chó ăn cơm trong sảnh ăn ở Ambaṇakoṭṭhaka.
Taṃ kira jātakālato paṭṭhāya pānīyahārakā gahetvā tattha posesuṃ.
It is said that from the time of its birth, the water-carriers took it and raised it there.
Người ta nói rằng con chó đó đã được những người mang nước nuôi dưỡng ở đó từ thời Jātaka.
So aparabhāge tattha bhattaṃ bhuñjanto thūlasarīro ahosi.
Later, it became fat from eating meals there.
Sau này, nó ăn cơm ở đó nên thân thể trở nên mập mạp.
Athekadivasaṃ eko gāmavāsī puriso taṃ ṭhānaṃ patto sunakhaṃ disvā pānīyahārakānaṃ uttarisāṭakañca kahāpaṇañca datvā gaddūlena bandhitvā taṃ ādāya pakkāmi.
Then, one day, a villager came to that place, saw the dog, gave an outer garment and a kahāpaṇa to the water-carriers, tied the dog with a leash, and left with it.
Rồi một ngày nọ, một người đàn ông từ một ngôi làng đến nơi đó, thấy con chó, đã đưa cho những người mang nước một chiếc áo choàng và một đồng tiền kahāpaṇa, rồi buộc nó bằng một sợi dây da và mang đi.
So gahetvā nīyamāno na vassi, dinnaṃ dinnaṃ khādanto pacchato pacchato agamāsi.
As it was being led away, it did not bark, but ate whatever was given to it and followed behind.
Khi bị dẫn đi, nó không sủa, cứ ăn những gì được cho và đi theo sau.
Atha so puriso ‘‘ayaṃ idāni maṃ piyāyatī’’ti gaddūlaṃ mocesi, so vissaṭṭhamatto ekavegena āsanasālameva gato.
Then that man, thinking, “Now it loves me,” untied the leash, and as soon as it was released, it went straight back to the eating hall at full speed.
Rồi người đàn ông đó nghĩ: ‘‘Bây giờ nó đã yêu quý ta rồi’’, nên cởi dây da, và ngay khi được thả, nó chạy một mạch về lại sảnh ăn.
Bhikkhū taṃ disvā tena gatakāraṇaṃ jānitvā sāyanhasamaye dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, āsanasālāya sunakho bandhanamokkhakusalo vissaṭṭhamattova puna āgato’’ti.
The bhikkhus, seeing it and knowing the reason for its return, raised a discussion in the Dhamma hall in the evening: “Friends, the dog from the eating hall, skilled in escaping bonds, returned as soon as it was released.”
Các Tỳ-kheo thấy vậy, biết được nguyên nhân nó quay lại, vào buổi chiều đã khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: ‘‘Thưa các hiền giả, con chó ở sảnh ăn rất khéo léo trong việc cởi trói, vừa được thả là nó lại quay về.’’
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, so sunakho idāneva bandhanamokkhakusalo, pubbepi kusaloyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and, asking, “What topic are you discussing now, bhikkhus?” and being told, “This one,” said, “Bhikkhus, that dog is not skilled in escaping bonds only now; it was skilled in the past too,” and then related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: ‘‘Này các Tỳ-kheo, bây giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì vậy?’’ Khi được thưa: ‘‘Chuyện này ạ’’, ngài nói: ‘‘Này các Tỳ-kheo, con chó đó không phải chỉ bây giờ mới khéo léo trong việc cởi trói, mà trước đây nó cũng đã khéo léo rồi’’, rồi ngài kể lại chuyện quá khứ.
1514
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe ekasmiṃ mahābhogakule nibbattitvā vayappatto gharāvāsaṃ aggahesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a wealthy family in the Kasi kingdom and, having reached maturity, took up the household life.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh trong một gia đình giàu có ở xứ Kāsī, và khi trưởng thành, ngài đã lập gia đình.
Tadā bārāṇasiyaṃ ekassa manussassa sunakho ahosi, so piṇḍibhattaṃ labhanto thūlasarīro jāto.
At that time, there was a dog belonging to a certain man in Bārāṇasī, and it became fat from receiving alms-food.
Vào thời đó, có một con chó thuộc sở hữu của một người đàn ông ở Bārāṇasī, nó được cho ăn cơm nên thân thể trở nên mập mạp.
Atheko gāmavāsī bārāṇasiṃ āgato taṃ sunakhaṃ disvā tassa manussassa uttarisāṭakañca kahāpaṇañca datvā sunakhaṃ gahetvā cammayottena bandhitvā yottakoṭiyaṃ gahetvā gacchanto aṭavimukhe ekaṃ sālaṃ pavisitvā sunakhaṃ bandhitvā phalake nipajjitvā niddaṃ okkami.
Then a villager came to Bārāṇasī, saw that dog, gave an outer garment and a kahāpaṇa to its owner, took the dog, tied it with a leather leash, and holding the end of the leash, entered a sala at the edge of the forest, tied the dog, lay down on a plank, and fell asleep.
Rồi một người đàn ông từ một ngôi làng đến Bārāṇasī, thấy con chó đó, đã đưa cho chủ nó một chiếc áo choàng và một đồng tiền kahāpaṇa, rồi bắt con chó, buộc nó bằng một sợi dây da, cầm đầu dây đi, và khi đến cửa rừng, anh ta vào một cái chòi, buộc con chó lại, nằm xuống trên một tấm ván và ngủ thiếp đi.
Tasmiṃ kāle bodhisatto kenacideva karaṇīyena aṭaviṃ paṭipanno taṃ sunakhaṃ yottena bandhitvā ṭhapitaṃ disvā paṭhamaṃ gāthamāha –
At that time, the Bodhisatta, having entered the forest for some reason, saw the dog tied with a leash and spoke the first verse:
Vào lúc đó, Bồ Tát, vì một lý do nào đó mà đi vào rừng, thấy con chó bị buộc bằng dây da, đã nói bài kệ thứ nhất –
1515
184.
184.
184.
1516
‘‘Bālo vatāyaṃ sunakho, yo varattaṃ na khādati;
“Foolish indeed is this dog, who does not chew through the leash;
‘‘Thật là một con chó ngu ngốc, không cắn dây da;
1517
Bandhanā ca pamuñceyya, asito ca gharaṃ vaje’’ti.
He could free himself from bondage, and well-fed, go home.”
Nó có thể tự cởi trói, và no đủ về nhà.’’
1518
Tattha pamuñceyyāti pamoceyya, ayameva vā pāṭho.
Here, pamuñceyya means ‘should release’ or this is the reading.
Trong đó, pamuñceyyā có nghĩa là pamoceyya, hoặc đây cũng là cách đọc.
Asito ca gharaṃ vajeti asito suhito hutvā attano vasanaṭṭhānaṃ gaccheyya.
Asito ca gharaṃ vaje means, having become well-fed and satisfied, he should go to his dwelling place.
Asito ca gharaṃ vaje có nghĩa là no đủ rồi về nơi ở của mình.
1519
Taṃ sutvā sunakho dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the dog spoke the second verse:
Nghe vậy, con chó nói bài kệ thứ hai –
1520
185.
185.
185.
1521
‘‘Aṭṭhitaṃ me manasmiṃ me, atho me hadaye kataṃ;
“It is fixed in my mind, and it is done in my heart;
‘‘Điều đó đã được quyết định trong tâm tôi, và đã được ghi khắc trong trái tim tôi;
1522
Kālañca paṭikaṅkhāmi, yāva passupatū jano’’ti.
I await the time, until the people fall asleep.”
Tôi đang chờ đợi thời cơ, cho đến khi mọi người ngủ say.’’
1523
Tattha aṭṭhitaṃ me manasmiṃ meti yaṃ tumhe kathetha, taṃ mayā adhiṭṭhitameva, manasmiṃyeva me etaṃ.
Here, aṭṭhitaṃ me manasmiṃ me means, what you say is already resolved by me, it is in my mind.
Trong đó, aṭṭhitaṃ me manasmiṃ me có nghĩa là điều các ông nói, tôi đã quyết định rồi, điều đó đã ở trong tâm tôi.
Atho me hadaye katanti atha ca pana me tumhākaṃ vacanaṃ hadaye katameva.
Atho me hadaye kataṃ means, and moreover, your words are indeed done in my heart.
Atho me hadaye kata có nghĩa là lời của các ông đã được ghi khắc trong trái tim tôi.
Kālañca paṭikaṅkhāmīti kālaṃ paṭimānemi.
Kālañca paṭikaṅkhāmi means, I await the time.
Kālañca paṭikaṅkhāmī có nghĩa là tôi đang chờ đợi thời cơ.
Yāva passupatū janoti yāvāyaṃ mahājano pasupatu niddaṃ okkamatu, tāvāhaṃ kālaṃ paṭimānemi.
Yāva passupatū jano means, I await the time until these people fall asleep.
Yāva passupatū jano có nghĩa là cho đến khi đám đông này ngủ thiếp đi, tôi sẽ chờ đợi thời cơ.
Itarathā hi ‘‘ayaṃ sunakho palāyatī’’ti ravo uppajjeyya, tasmā rattibhāge sabbesaṃ suttakāle cammayottaṃ khāditvā palāyissāmīti.
Otherwise, a cry of “This dog is running away!” might arise; therefore, I will chew through the leather leash and run away during the night when everyone is asleep.
Nếu không, sẽ có tiếng ồn: ‘‘Con chó này đang trốn thoát!’’, vì vậy tôi sẽ cắn dây da vào ban đêm khi mọi người đang ngủ và trốn thoát.
So evaṃ vatvā mahājane niddaṃ okkante yottaṃ khāditvā suhito hutvā palāyitvā attano sāmikānaṃ gharameva gato.
Having said this, when the people fell asleep, he chewed through the leash, became satisfied, ran away, and went straight to the house of his owners.
Nói như vậy, khi đám đông ngủ thiếp đi, nó cắn dây da, no đủ rồi trốn thoát về nhà chủ của mình.
1524
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā sunakhova etarahi sunakho, paṇḍitapuriso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: “At that time, the dog was the present dog, and the wise man was I myself.”
Đức Thế Tôn sau khi thuyết bài pháp này, đã kết nối câu chuyện Jātaka – ‘‘Vào thời đó, con chó là con chó hiện tại, còn người đàn ông trí tuệ chính là ta vậy.’’
1525
Sunakhajātakavaṇṇanā dutiyā.
The second commentary on the Sunakha Jātaka is concluded.
Câu chuyện Jātaka về con chó thứ hai đã kết thúc.
1526
* 3. Guttilajātakavaṇṇanā
* 3. Commentary on the Guttila Jātaka
* 3. Câu chuyện Jātaka về Guttila
1527
Sattatantiṃ sumadhuranti idaṃ satthā veḷuvane viharanto devadattaṃ ārabbha kathesi.
Sattatantiṃ sumadhuranti – The Teacher, while dwelling in Veḷuvana, related this story concerning Devadatta.
Sattatantiṃ sumadhura (Bảy dây đàn ngọt ngào) – câu chuyện này được Đức Thế Tôn kể khi ngài trú tại Veḷuvana, liên quan đến Devadatta.
Tasmiñhi kāle bhikkhū devadattaṃ āhaṃsu – ‘‘āvuso devadatta, sammāsambuddho tuyhaṃ ācariyo, tvaṃ sammāsambuddhaṃ nissāya tīṇi piṭakāni uggaṇhi, cattāri jhānāni uppādesi, ācariyassa nāma paṭisattunā bhavituṃ na yutta’’nti.
At that time, the bhikkhus said to Devadatta, "Friend Devadatta, the Perfectly Self-Enlightened One is your teacher. Relying on the Perfectly Self-Enlightened One, you learned the three Piṭakas and developed the four jhānas. It is not proper for you to become an enemy to your teacher."
Vào thời đó, các Tỳ-kheo nói với Devadatta: ‘‘Này hiền giả Devadatta, Đức Sammāsambuddha là thầy của ông, ông đã học ba Tipiṭaka và chứng đắc bốn thiền định nhờ Đức Sammāsambuddha. Không nên trở thành kẻ thù của thầy.’’
Devadatto ‘‘kiṃ pana me, āvuso, samaṇo gotamo ācariyo, nanu mayā attano baleneva tīṇi piṭakāni uggahitāni, cattāri jhānāni uppāditānī’’ti ācariyaṃ paccakkhāsi.
Devadatta disavowed his teacher, saying, "What, friend, is the recluse Gotama my teacher? Were not the three Piṭakas learned by me and the four jhānas developed by me through my own strength?"
Devadatta chối bỏ thầy mình, nói: ‘‘Này các hiền giả, Sa-môn Gotama có phải là thầy của tôi đâu? Chẳng phải tôi đã tự mình học ba Tipiṭaka và chứng đắc bốn thiền định bằng sức lực của chính mình sao?’’
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ ‘‘āvuso, devadatto ācariyaṃ paccakkhāya sammāsambuddhassa paṭisattu hutvā mahāvināsaṃ patto’’ti.
The bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, Devadatta, having disavowed his teacher and become an enemy of the Perfectly Self-Enlightened One, has met with great destruction."
Các Tỳ-kheo khởi xướng một cuộc đàm luận trong pháp đường: ‘‘Thưa các hiền giả, Devadatta đã chối bỏ thầy mình và trở thành kẻ thù của Đức Sammāsambuddha, nên đã gặp phải sự hủy diệt lớn.’’
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, devadatto idāneva ācariyaṃ paccakkhāya mama paṭisattu hutvā vināsaṃ pāpuṇāti, pubbepi pattoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "On what topic, bhikkhus, are you now gathered?" When told, "On this topic," he said, "Bhikkhus, it is not only now that Devadatta disavows his teacher and, becoming my enemy, meets with destruction; he met with it in the past too," and then he related a past event.
Đức Thế Tôn đến, hỏi: ‘‘Này các Tỳ-kheo, bây giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì vậy?’’ Khi được thưa: ‘‘Chuyện này ạ’’, ngài nói: ‘‘Này các Tỳ-kheo, Devadatta không phải chỉ bây giờ mới chối bỏ thầy mình và trở thành kẻ thù của ta mà gặp sự hủy diệt, mà trước đây cũng đã gặp rồi’’, rồi ngài kể lại chuyện quá khứ.
1528
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto gandhabbakule nibbatti, ‘‘guttilakumāro’’tissa nāmaṃ akaṃsu.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a family of gandhabbas, and they named him Guttila Kumāra.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát đã tái sinh trong một gia đình nhạc sĩ, và họ đặt tên ngài là ‘‘Guttilakumāra’’.
So vayappatto gandhabbasippe nipphattiṃ patvā guttilagandhabbo nāma sakalajambudīpe aggagandhabbo ahosi.
Having reached maturity, he attained mastery in the gandhabba art and became known as Guttila Gandhabba, the foremost gandhabba in the entire Jambudīpa.
Khi trưởng thành, ngài đã thành thạo nghệ thuật âm nhạc và trở thành nhạc sĩ Guttila, nhạc sĩ hàng đầu trên toàn Jambudīpa.
So dārābharaṇaṃ akatvā andhe mātāpitaro posesi.
He did not take a wife and supported his blind parents.
Ngài không lập gia đình mà nuôi dưỡng cha mẹ mù lòa của mình.
Tadā bārāṇasivāsino vāṇijā vaṇijjāya ujjeninagaraṃ gantvā ussave ghuṭṭhe chandakaṃ saṃharitvā bahuṃ mālāgandhavilepanañca khajjabhojjādīni ca ādāya kīḷanaṭṭhāne sannipatitvā ‘‘vetanaṃ datvā ekaṃ gandhabbaṃ ānethā’’ti āhaṃsu.
At that time, merchants from Bārāṇasī went to Ujjenī city for trade. When a festival was announced, they collected contributions, and taking many garlands, perfumes, unguents, and various foods, they gathered at the place of entertainment and said, "Hire a gandhabba for a fee and bring him here."
Khi đó, các thương nhân cư trú tại Bārāṇasī đi đến thành Ujjenī để buôn bán, sau khi lễ hội được công bố, họ đã góp tiền lại, mang theo nhiều vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các loại thức ăn, đồ uống, rồi tập trung tại nơi vui chơi và nói: “Hãy trả tiền và mời một nhạc sư đến.”
Tena ca samayena ujjeniyaṃ mūsilo nāma jeṭṭhagandhabbo hoti, te taṃ pakkosāpetvā attano gandhabbaṃ kāresuṃ.
At that time, there was a chief gandhabba named Mūsila in Ujjenī. They summoned him and made him perform as their gandhabba.
Vào lúc đó, tại Ujjenī có một nhạc sư bậc thầy tên là Mūsila, họ đã cho mời ông ấy đến và để ông ấy biểu diễn nhạc cho mình.
1529
Mūsilo vīṇaṃ vādanto vīṇaṃ uttamamucchanāya mucchitvā vādesi.
Mūsila played the lute, tuning it to the highest pitch and playing.
Mūsila chơi đàn vīṇā, ông ta lên dây đàn ở cao độ tối ưu và chơi.
Tesaṃ guttilagandhabbassa gandhabbe jātaparicayānaṃ tassa gandhabbaṃ kilañjakaṇḍūvanaṃ viya hutvā upaṭṭhāsi, ekopi pahaṭṭhākāraṃ na dassesi.
To those accustomed to the gandhabba performance of Guttila Gandhabba, Mūsila's performance seemed like scratching an itch with a straw; not one of them showed any sign of delight.
Đối với những người đã quen thuộc với âm nhạc của nhạc sư Guttila, âm nhạc của ông ta giống như việc gãi ngứa trên chiếu cũ, và không một ai thể hiện vẻ vui mừng.
Mūsilo tesu tuṭṭhākāraṃ adassentesu ‘‘atikharaṃ katvā vādemi maññe’’ti majjhimamucchanāya mucchitvā majjhimasarena vādesi, te tatthapi majjhattāva ahesuṃ.
When they showed no delight, Mūsila thought, "Perhaps I am playing too harshly," and tuned the lute to a middle pitch, playing with a middle tone. Even then, they remained indifferent.
Khi Mūsila thấy họ không biểu lộ sự hài lòng, ông ta nghĩ: “Chắc là mình chơi quá mạnh,” rồi lên dây đàn ở cao độ trung bình và chơi bằng giọng trung bình, nhưng họ vẫn giữ thái độ thờ ơ.
Atha so ‘‘ime na kiñci jānanti maññe’’ti sayampi ajānanako viya hutvā tantiyo sithile vādesi, te tatthapi na kiñci āhaṃsu.
Then he thought, "Perhaps these people know nothing," and as if he himself knew nothing, he played the strings loosely. Even then, they said nothing.
Sau đó, ông ta nghĩ: “Chắc những người này không biết gì cả,” rồi giả vờ như mình cũng không biết gì, ông ta chơi đàn với dây chùng, nhưng họ cũng không nói gì.
Atha ne mūsilo ‘‘ambho vāṇijā, kiṃ nu kho mayi vīṇaṃ vādente tumhe na tussathā’’ti.
Then Mūsila asked them, "Sirs, merchants, why are you not pleased when I play the lute?"
Rồi Mūsila hỏi họ: “Này các thương nhân, sao khi tôi chơi đàn vīṇā mà các ông không hài lòng vậy?”
‘‘Kiṃ pana tvaṃ vīṇaṃ vādesi, mayañhi ‘ayaṃ vīṇaṃ mucchetī’ti saññaṃ akarimhā’’ti.
"What, are you playing the lute? We thought it was merely being tuned."
“Ông chơi đàn vīṇā cái gì chứ? Chúng tôi chỉ nghĩ rằng ‘người này đang lên dây đàn vīṇā’ thôi.”
‘‘Kiṃ pana tumhe mayā uttaritaraṃ ācariyaṃ jānātha, udāhu attano ajānanabhāvena na tussathā’’ti.
"Do you know a teacher superior to me, or are you displeased due to your own ignorance?"
“Vậy các ông có biết vị thầy nào giỏi hơn tôi không, hay là các ông không hài lòng vì sự thiếu hiểu biết của chính mình?”
Vāṇijā ‘‘bārāṇasiyaṃ guttilagandhabbassa vīṇāsaddaṃ sutapubbānaṃ tava vīṇāsaddo itthīnaṃ dārake tosāpanasaddo viya hotī’’ti āhaṃsu.
The merchants said, "To those who have previously heard the sound of Guttila Gandhabba's lute in Bārāṇasī, your lute sound is like the sound used to pacify children for women."
Các thương nhân nói: “Đối với những người đã từng nghe tiếng đàn vīṇā của nhạc sư Guttila ở Bārāṇasī, tiếng đàn vīṇā của ông giống như tiếng dỗ dành trẻ con của phụ nữ vậy.”
‘‘Tena hi, handa, tumhehi dinnaparibbayaṃ paṭiggaṇhatha, na mayhaṃ etenattho, apica kho pana bārāṇasiṃ gacchantā maṃ gaṇhitvā gaccheyyāthā’’ti.
"In that case, please accept the payment you have given; I have no need of it. But when you go to Bārāṇasī, please take me with you."
“Nếu vậy, xin hãy nhận lại số tiền thù lao mà các ông đã trả, tôi không cần nó. Hơn nữa, khi các ông đi đến Bārāṇasī, xin hãy đưa tôi theo.”
Te ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā gamanakāle taṃ ādāya bārāṇasiṃ gantvā tassa ‘‘etaṃ guttilassa vasanaṭṭhāna’’nti ācikkhitvā sakasakanivesanaṃ agamiṃsu.
They agreed, saying, "Very well," and at the time of departure, they took him with them to Bārāṇasī. They pointed out to him, "This is Guttila's dwelling," and then went to their respective homes.
Họ đồng ý: “Vâng,” và khi đến lúc đi, họ đưa ông ta theo đến Bārāṇasī, chỉ cho ông ta nơi ở của Guttila rồi trở về nhà của mình.
1530
Mūsilo bodhisattassa gehaṃ pavisitvā laggetvā ṭhapitaṃ bodhisattassa jātivīṇaṃ disvā gahetvā vādesi, atha bodhisattassa mātāpitaro andhabhāvena taṃ apassantā ‘‘mūsikā maññe vīṇaṃ khādantī’’ti saññāya ‘‘susū’’ti āhaṃsu.
Mūsila entered the Bodhisatta's house, and seeing the Bodhisatta's ancestral lute hanging there, he took it and played. Then the Bodhisatta's parents, unable to see him due to their blindness, thought, "Perhaps mice are gnawing the lute," and said, "Shoo! Shoo!"
Mūsila bước vào nhà của Bồ Tát, thấy cây đàn vīṇā của Bồ Tát được treo trên tường, liền lấy xuống và chơi. Bấy giờ, cha mẹ Bồ Tát vì bị mù nên không thấy ông ta, cứ nghĩ là chuột đang gặm đàn vīṇā nên nói: “Su su!”
Tasmiṃ kāle mūsilo vīṇaṃ ṭhapetvā bodhisattassa mātāpitaro vanditvā ‘‘kuto āgatosī’’ti vutte ‘‘ācariyassa santike sippaṃ uggaṇhituṃ ujjenito āgatomhī’’ti āha.
At that time, Mūsila put down the lute, paid homage to the Bodhisatta's parents, and when asked, "Where have you come from?" he replied, "I have come from Ujjenī to learn the art from the teacher."
Lúc đó, Mūsila đặt cây đàn vīṇā xuống, đảnh lễ cha mẹ Bồ Tát. Khi được hỏi: “Con từ đâu đến?”, ông ta đáp: “Con từ Ujjenī đến để học nghề từ sư phụ.”
So ‘‘sādhū’’ti vutte ‘‘kahaṃ ācariyo’’ti pucchitvā ‘‘vippavuttho, tāta, ajja āgamissatī’’ti sutvā tattheva nisīditvā bodhisattaṃ āgataṃ disvā tena katapaṭisanthāro attano āgatakāraṇaṃ ārocesi.
When it was said, "Good," he asked, "Where is the teacher?" and hearing, "He is away, my dear, but will return today," he sat right there. Seeing the Bodhisatta arrive, he was welcomed by him and then explained the reason for his coming.
Khi được nói: “Tốt lắm,” ông ta hỏi: “Sư phụ ở đâu?” Khi nghe: “Cha ơi, hôm nay sư phụ vắng nhà, sẽ về,” ông ta liền ngồi đó, thấy Bồ Tát trở về, được Bồ Tát chào hỏi rồi kể lại lý do mình đến.
Bodhisatto aṅgavijjāpāṭhako, so tassa asappurisabhāvaṃ ñatvā ‘‘gaccha tāta, natthi tava sippa’’nti paṭikkhipi.
The Bodhisatta was a reciter of aṅgavijjā. Knowing his ignoble nature, he refused him, saying, "Go, my dear, there is no skill for you here."
Bồ Tát là một nhà tiên tri về tướng số, biết được bản chất bất thiện của ông ta nên từ chối: “Con ơi, con không có nghề đâu.”
So bodhisattassa mātāpitūnaṃ pāde gahetvā upakāraṃ karonto te ārādhetvā ‘‘sippaṃ me dāpethā’’ti yāci.
So he took hold of the Bodhisatta's parents' feet, rendered services, pleased them, and pleaded, "Please have the skill taught to me."
Ông ta nắm lấy chân cha mẹ Bồ Tát, phục vụ họ và thuyết phục họ: “Xin hãy cho con học nghề.”
Bodhisatto mātāpitūhi punappunaṃ vuccamāno te atikkamituṃ asakkonto sippaṃ adāsi.
The Bodhisatta, being repeatedly urged by his parents, and unable to disregard them, imparted the skill.
Bồ Tát, bị cha mẹ thúc giục hết lần này đến lần khác, không thể từ chối nên đã dạy nghề cho ông ta.
So bodhisatteneva saddhiṃ rājanivesanaṃ gacchati.
So he went to the royal palace together with the Bodhisatta.
Ông ta cùng với Bồ Tát đi đến cung điện của nhà vua.
Rājā taṃ disvā ‘‘ko esa, ācariyā’’ti pucchi.
The king, seeing him, asked, "Who is this, teacher?"
Nhà vua thấy ông ta liền hỏi: “Thưa sư phụ, người này là ai?”
‘‘Mayhaṃ antevāsiko, mahārājā’’ti.
"He is my pupil, Your Majesty."
“Thưa Đại vương, đây là đệ tử của tôi.”
So anukkamena rañño vissāsiko ahosi.
He gradually became trusted by the king.
Ông ta dần dần trở thành người thân cận của nhà vua.
Bodhisatto ācariyamuṭṭhiṃ akatvā attano jānananiyāmena sabbaṃ sippaṃ sikkhāpetvā ‘‘niṭṭhitaṃ te, tāta, sippa’’nti āha.
The Bodhisatta, without keeping any secret from his pupil, taught him all the skill according to his own knowledge and said, "Your skill is complete, my dear."
Bồ Tát không giữ lại bất kỳ bí quyết nào của thầy, đã dạy tất cả các kỹ năng theo cách hiểu của mình và nói: “Con ơi, nghề của con đã hoàn tất.”
1531
So cintesi – ‘‘mayhaṃ sippaṃ paguṇaṃ, idañca bārāṇasinagaraṃ sakalajambudīpe agganagaraṃ, ācariyopi mahallako, idheva mayā vasituṃ vaṭṭatī’’ti.
He thought, "My skill is perfected, and this city of Bārāṇasī is the foremost city in the entire Jambudīpa. The teacher is also old, so it is proper for me to reside here."
Ông ta suy nghĩ: “Nghề của mình đã thành thạo, thành phố Bārāṇasī này là thành phố hàng đầu trên toàn Jambudīpa, sư phụ cũng đã già rồi, mình nên ở lại đây.”
So ācariyaṃ āha – ‘‘ācariya ahaṃ rājānaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti.
He said to the teacher, "Teacher, I will attend upon the king."
Ông ta nói với sư phụ: “Thưa sư phụ, con sẽ phục vụ nhà vua.”
Ācariyo ‘‘sādhu, tāta, rañño ārocessāmī’’ti gantvā ‘‘amhākaṃ antevāsiko devaṃ upaṭṭhātuṃ icchati, deyyadhammamassa jānāthā’’ti rañño ārocetvā raññā ‘‘tumhākaṃ deyyadhammato upaḍḍhaṃ labhissatī’’ti vutte taṃ pavattiṃ mūsilassa ārocesi.
The teacher said, "Good, my dear, I will inform the king." He went and informed the king, "Our pupil wishes to attend upon Your Majesty; please determine his fee." When the king said, "He shall receive half of your fee," he conveyed this news to Mūsila.
Sư phụ nói: “Tốt lắm, con ơi, ta sẽ báo với nhà vua.” Rồi đi đến báo với nhà vua: “Đệ tử của chúng tôi muốn phục vụ Bệ hạ, xin Bệ hạ hãy định mức thù lao cho nó.” Khi nhà vua nói: “Nó sẽ nhận được một nửa thù lao của các vị,” thì sư phụ đã báo lại tin đó cho Mūsila.
Mūsilo ‘‘ahaṃ tumhehi samakaññeva labhanto upaṭṭhahissāmi, na alabhanto’’ti āha.
Mūsila said, "I will attend only if I receive the same amount as you, not if I don't."
Mūsila nói: “Con sẽ phục vụ nếu con nhận được thù lao ngang bằng với các vị, nếu không thì không.”
‘‘Kiṃkāraṇā’’ti?
"For what reason?"
“Vì lý do gì?”
‘‘Nanu ahaṃ tumhākaṃ jānanasippaṃ sabbaṃ jānāmī’’ti?
"Do I not know all the skill you know?"
“Chẳng phải con biết tất cả các kỹ năng mà các vị biết sao?”
‘‘Āma, jānāsī’’ti.
"Yes, you do."
“Đúng vậy, con biết.”
‘‘Evaṃ sante kasmā mayhaṃ upaḍḍhaṃ detī’’ti?
"If that is so, why does he give me half?"
“Nếu vậy, tại sao lại cho con một nửa?”
Bodhisatto rañño ārocesi.
The Bodhisatta informed the king.
Bồ Tát đã báo lại với nhà vua.
Rājā ‘‘yadi evaṃ tumhehi samakaṃ sippaṃ dassetuṃ sakkonto samakaṃ labhissatī’’ti āha.
The king said, "If so, he will receive the same amount if he can demonstrate skill equal to yours."
Nhà vua nói: “Nếu vậy, nếu nó có thể biểu diễn kỹ năng ngang bằng với các vị, nó sẽ nhận được thù lao ngang bằng.”
Bodhisatto rañño vacanaṃ tassa ārocetvā tena ‘‘sādhu dassessāmī’’ti vutte rañño taṃ pavattiṃ ārocetvā ‘‘sādhu dassetu, kataradivasaṃ sākacchā hotū’’ti vutte ‘‘ito sattame divase hotu, mahārājā’’ti āha.
The Bodhisatta conveyed the king's words to him. When he said, "Good, I will demonstrate it," the Bodhisatta conveyed this news to the king. When the king said, "Good, let him demonstrate it; on what day should the discussion be?" the Bodhisatta said, "Let it be on the seventh day from now, Your Majesty."
Bồ Tát báo lại lời của nhà vua cho ông ta. Khi ông ta nói: “Tốt lắm, con sẽ biểu diễn,” Bồ Tát đã báo lại tin đó cho nhà vua. Khi nhà vua nói: “Tốt lắm, hãy biểu diễn đi, cuộc thi nên diễn ra vào ngày nào?” Bồ Tát đáp: “Thưa Đại vương, hãy để nó diễn ra vào ngày thứ bảy kể từ bây giờ.”
1532
Rājā mūsilaṃ pakkosāpetvā ‘‘saccaṃ kira tvaṃ ācariyena saddhiṃ sākacchaṃ karissasī’’ti pucchitvā ‘‘saccaṃ, devā’’ti vutte ‘‘ācariyena saddhiṃ viggaho nāma na vaṭṭati, mā karī’’ti vāriyamānopi ‘‘alaṃ, mahārāja, hotuyeva me ācariyena saddhiṃ sattame divase sākacchā, katarassa jānibhāvaṃ jānissāmā’’ti āha.
The king had Mūsila summoned and asked, "Is it true that you will have a discussion with the teacher?" When Mūsila replied, "Yes, Your Majesty," the king tried to dissuade him, saying, "A dispute with a teacher is not proper; do not do it." But Mūsila said, "Enough, Your Majesty, let the discussion with my teacher take place on the seventh day. We shall know whose knowledge is superior."
Nhà vua cho gọi Mūsila đến và hỏi: “Có thật là con sẽ thi thố với sư phụ không?” Khi được đáp: “Thật vậy, thưa Bệ hạ,” dù bị ngăn cản: “Không nên tranh cãi với sư phụ, đừng làm vậy,” ông ta vẫn nói: “Đủ rồi, thưa Đại vương, hãy để cuộc thi với sư phụ của con diễn ra vào ngày thứ bảy, chúng ta sẽ biết ai giỏi hơn.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā ‘‘ito kira sattame divase ācariyaguttilo ca antevāsikamūsilo ca rājadvāre aññamaññaṃ sākacchaṃ katvā sippaṃ dassessanti, nāgarā sannipatitvā sippaṃ passantū’’ti bheriṃ carāpesi.
The king consented, saying, "Good," and then had the drum beaten to announce, "On the seventh day from now, the teacher Guttila and his pupil Mūsila will demonstrate their skills by discussing with each other at the royal palace. Let the citizens gather and witness the skill."
Nhà vua đồng ý: “Tốt lắm,” rồi cho đánh trống thông báo: “Kể từ bây giờ, vào ngày thứ bảy, sư phụ Guttila và đệ tử Mūsila sẽ thi thố kỹ năng với nhau tại cổng hoàng cung. Dân chúng hãy tập trung lại để xem màn biểu diễn.”
1533
Bodhisatto cintesi – ‘‘ayaṃ mūsilo daharo taruṇo, ahaṃ mahallako parihīnathāmo, mahallakassa kiriyā nāma na sampajjati.
The Bodhisatta thought, "This Mūsila is young and energetic, while I am old and my strength has declined. The actions of an old man do not succeed.
Bồ Tát suy nghĩ: “Mūsila này còn trẻ và sung sức, còn ta đã già yếu, sức lực suy giảm. Việc làm của người già thì không thành công. Nếu đệ tử có thua thì cũng không có gì đặc biệt, nhưng nếu đệ tử thắng, thì thà vào rừng mà chết còn hơn chịu sự hổ thẹn.”
Antevāsike nāma parājitepi viseso natthi, antevāsikassa pana jaye sati pattabbalajjato araññaṃ pavisitvā maraṇaṃ varatara’’nti.
There is no special consequence if a pupil is defeated, but if a pupil wins, it is better to enter the forest and die out of unbearable shame."
Đối với các đệ tử, dù có bị đánh bại cũng không có gì đặc biệt; nhưng nếu đệ tử chiến thắng, thì vì sự hổ thẹn phải chịu, thà vào rừng mà chết còn hơn.”
So araññaṃ pavisitvā maraṇabhayena nivattati, lajjābhayena gacchati.
So he entered the forest, but returned due to fear of death, and went again due to fear of shame.
Ông ta đi vào rừng vì sợ chết, rồi lại đi tiếp vì sợ hổ thẹn.
Evamassa gamanāgamanaṃ karontasseva cha divasā atikkantā, tiṇāni matāni, jaṅghamaggo nibbatti.
As he thus went back and forth, six days passed, the grass died, and a footpath appeared.
Cứ như vậy, sáu ngày trôi qua trong lúc ông ta đi đi lại lại, cỏ cây đã chết, một con đường mòn đã hình thành.
Tasmiṃ khaṇe sakkassa bhavanaṃ uṇhākāraṃ dassesi.
At that moment, Sakka's abode showed signs of heat.
Vào lúc đó, cung điện của Sakka (Đế Thích) biểu hiện sự nóng bức.
Sakko āvajjamāno taṃ kāraṇaṃ ñatvā ‘‘guttilagandhabbo antevāsikassa bhayena araññe mahādukkhaṃ anubhoti, etassa mayā avassayena bhavituṃ vaṭṭatī’’ti vegena gantvā bodhisattassa purato ṭhatvā ‘‘ācariya, kasmā araññaṃ paviṭṭhosī’’ti pucchitvā ‘‘kosi tva’’nti vutte ‘‘sakkohamasmī’’ti āha.
Sakka, reflecting, understood the reason, thinking, "The musician Guttila is experiencing great suffering in the forest due to fear of his pupil. I must certainly go to him." He went quickly and stood before the Bodhisatta, asking, "Teacher, why have you entered the forest?" When asked, "Who are you?" he replied, "I am Sakka."
Sakka quán xét và biết được nguyên nhân, liền nghĩ: “Nhạc sư Guttila đang chịu khổ lớn trong rừng vì sợ đệ tử, ta nhất định phải giúp ông ấy.” Rồi ông ta nhanh chóng đi đến, đứng trước mặt Bồ Tát và hỏi: “Thưa sư phụ, tại sao ngài lại vào rừng?” Khi được hỏi: “Ngươi là ai?”, ông ta đáp: “Tôi là Sakka.”
Atha naṃ bodhisatto ‘‘ahaṃ kho, devarāja, antevāsikato parājayabhayena araññaṃ paviṭṭho’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Then the Bodhisatta said to him, "Indeed, O King of Devas, I have entered the forest out of fear of defeat from my pupil," and he spoke the first verse:
Bồ Tát liền nói với ông ta: “Thưa Thiên vương, tôi vào rừng vì sợ bị đệ tử đánh bại,” rồi đọc bài kệ đầu tiên:
1534
186.
186.
186.
1535
‘‘Sattatantiṃ sumadhuraṃ, rāmaṇeyyaṃ avācayiṃ;
“I played the seven-stringed lute, exceedingly sweet and delightful;
“Tôi đã chơi đàn bảy dây, rất ngọt ngào, đáng yêu;
1536
So maṃ raṅgamhi avheti, saraṇaṃ me hoti kosiyā’’ti.
He calls me to the stage; be my refuge, O Kosiyā.”
Hắn gọi tôi đến sàn đấu, Kosiyā ơi, xin hãy là nơi nương tựa của tôi.”
1537
Tassattho – ahaṃ, devarāja, mūsilaṃ nāma antevāsikaṃ sattatantiṃ sumadhuraṃ rāmaṇeyyaṃ vīṇaṃ attano jānananiyāmena sikkhāpesiṃ, so maṃ idāni raṅgamaṇḍale pakkosati, tassa me tvaṃ, kosiyagotta, saraṇaṃ hohīti.
Its meaning is: “O King of Devas, I taught my pupil named Mūsila the seven-stringed, exceedingly sweet and delightful lute according to my own method of knowledge. Now he challenges me in the performance arena. Therefore, O Kosiyagotta, be my refuge.”
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Thưa Thiên vương, tôi đã dạy cho đệ tử tên Mūsila cách chơi đàn vīṇā bảy dây ngọt ngào, đáng yêu theo cách hiểu của tôi. Bây giờ hắn gọi tôi đến sàn đấu. Kosiyagotta ơi, xin ngài hãy là nơi nương tựa cho tôi.
1538
Sakko tassa vacanaṃ sutvā ‘‘mā bhāyi, ahaṃ te tāṇañca leṇañcā’’ti vatvā dutiyaṃ gāthamāha –
Sakko, hearing his words, said, “Do not fear, I am your protection and shelter,” and he spoke the second verse:
Sakka nghe lời ông ta, nói: “Đừng sợ, ta sẽ là nơi che chở và nương tựa cho ngài,” rồi đọc bài kệ thứ hai:
1539
187.
187.
187.
1540
‘‘Ahaṃ taṃ saraṇaṃ samma, ahamācariyapūjako;
“I am your refuge, friend, I am one who honors teachers;
“Này hiền giả, ta sẽ là nơi nương tựa của ngài, ta là người tôn kính sư phụ;
1541
Na taṃ jayissati sisso, sissamācariya jessasī’’ti.
The pupil will not defeat you, O teacher, you will defeat the pupil.”
Đệ tử sẽ không thắng ngài, sư phụ sẽ thắng đệ tử.”
1542
Tattha ahaṃ taṃ saraṇanti ahaṃ saraṇaṃ avassayo patiṭṭhā hutvā taṃ tāyissāmi.
Therein, I am your refuge means: I, being a refuge, a support, a foundation, will protect you.
Trong đó, taṃ saraṇanti có nghĩa là ta sẽ là nơi nương tựa, là chỗ dựa, là nền tảng để bảo vệ ngài.
Sammāti piyavacanametaṃ.
Sammā is a term of endearment.
Sammāti là lời nói thân ái.
Sissamācariya, jessasīti, ācariya, tvaṃ vīṇaṃ vādayamāno sissaṃ jinissasi.
O teacher, you will defeat the pupil means: O teacher, you will defeat the pupil by playing the lute.
Sissamācariya, jessasīti, thưa sư phụ, ngài sẽ thắng đệ tử khi chơi đàn vīṇā.
Apica tvaṃ vīṇaṃ vādento ekaṃ tantiṃ chinditvā cha vādeyyāsi, vīṇāya te pakatisaddo bhavissati.
Moreover, when you play the lute, you should cut one string and play with six; the natural sound of your lute will remain.
Hơn nữa, khi ngài chơi đàn vīṇā, hãy cắt một dây và chơi với sáu dây, tiếng đàn vīṇā của ngài vẫn sẽ bình thường.
Mūsilopi tantiṃ chindissati, athassa vīṇāya saddo na bhavissati.
Mūsila too will cut a string, but then no sound will come from his lute.
Mūsila cũng sẽ cắt dây, nhưng tiếng đàn vīṇā của hắn sẽ không còn.
Tasmiṃ khaṇe so parājayaṃ pāpuṇissati.
At that moment, he will suffer defeat.
Vào lúc đó, hắn sẽ bị đánh bại.
Athassa parājayabhāvaṃ ñatvā dutiyampi tatiyampi catutthampi pañcamampi sattamampi tantiṃ chinditvā suddhadaṇḍakameva vādeyyāsi, chinnatantikoṭīhi saro nikkhamitvā sakalaṃ dvādasayojanikaṃ bārāṇasinagaraṃ chādetvā ṭhassatīti.
Then, knowing his defeat, you should cut the second, third, fourth, fifth, and seventh strings, and play with just the bare stick; the sound will emerge from the ends of the cut strings and cover the entire city of Bārāṇasī, twelve yojanas in extent, and remain there.
Sau khi biết được sự thất bại của hắn, ngươi hãy cắt dây đàn thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ bảy, và chỉ chơi bằng cây đàn không dây; âm thanh từ những đầu dây bị cắt sẽ thoát ra và bao trùm toàn bộ thành phố Bārāṇasī rộng mười hai dojana.
1543
Evaṃ vatvā sakko bodhisattassa tisso pāsakaghaṭikā datvā evamāha – ‘‘vīṇāsaddeneva pana sakalanagare chādite ito ekaṃ pāsakaghaṭikaṃ ākāse khipeyyāsi, atha te purato otaritvā tīṇi accharāsatāni naccissanti.
Having said this, Sakko gave the Bodhisatta three dice and spoke thus: “When the entire city is covered by the sound of the lute, throw one die into the air from here, and then three hundred nymphs will descend before you and dance.
Nói xong, Sakka trao cho Bồ Tát ba viên xúc xắc và nói như sau: "Khi toàn thành phố đã bị âm thanh tiếng đàn vĩ cầm bao trùm, ngươi hãy ném một viên xúc xắc này lên không trung, rồi ba trăm tiên nữ sẽ hạ xuống và múa trước mặt ngươi.
Tāsaṃ naccanakāle ca dutiyaṃ khipeyyāsi, athāparānipi tīṇi satāni otaritvā tava vīṇādhure naccissanti.
While they are dancing, throw the second, and then another three hundred will descend and dance on the head of your lute.
Trong lúc họ đang múa, ngươi hãy ném viên thứ hai, rồi ba trăm vị khác sẽ hạ xuống và múa ở đầu đàn của ngươi.
Tato tatiyaṃ khipeyyāsi, athāparāni tīṇi satāni otaritvā raṅgamaṇḍale naccissanti.
Then throw the third, and another three hundred will descend and dance in the performance arena.
Sau đó, ngươi hãy ném viên thứ ba, rồi ba trăm vị khác sẽ hạ xuống và múa trên sân khấu.
Ahampi te santikaṃ āgamissāmi, gaccha mā bhāyī’’ti bodhisattaṃ assāsesi.
I too will come to you; go, do not fear,” thus Sakko reassured the Bodhisatta.
Ta cũng sẽ đến với ngươi, hãy đi đi, đừng sợ hãi!" Sakka đã an ủi Bồ Tát như vậy.
Bodhisatto pubbaṇhasamaye gehaṃ agamāsi.
The Bodhisatta returned home in the morning.
Bồ Tát trở về nhà vào buổi sáng.
Nāgarā rājadvārasamīpe maṇḍapaṃ katvā rañño āsanaṃ paññapesuṃ.
The citizens erected a pavilion near the royal gate and arranged a seat for the king.
Dân chúng đã dựng một sảnh đường gần cổng hoàng gia và sắp đặt chỗ ngồi cho nhà vua.
Rājā pāsādā otaritvā alaṅkatamaṇḍape pallaṅkamajjhe nisīdi, dvādasasahassā alaṅkatitthiyo amaccabrāhmaṇagahapatikādayo ca rājānaṃ parivārayiṃsu, sabbe nāgarā sannipatiṃsu, rājaṅgaṇe cakkāticakke mañcātimañce bandhiṃsu.
The king descended from the palace and sat in the middle of the couch in the adorned pavilion; twelve thousand adorned women, ministers, brahmins, householders, and others surrounded the king; all the citizens gathered; and they set up circular and stacked platforms in the royal courtyard.
Nhà vua từ cung điện đi xuống, ngồi giữa ngai vàng trong sảnh đường được trang hoàng; mười hai ngàn phụ nữ trang sức lộng lẫy, các vị quan đại thần, Bà-la-môn, gia chủ, v.v., vây quanh nhà vua; tất cả dân chúng đều tụ tập; họ đã dựng những giàn giáo cao ngất ngưỡng trong sân hoàng gia.
1544
Bodhisattopi nhātānulitto nānaggarasabhojanaṃ bhuñjitvā vīṇaṃ gāhāpetvā attano paññattāsane nisīdi.
The Bodhisatta, having bathed and anointed himself, eaten various delicious foods, had his lute brought, and sat on his prepared seat.
Bồ Tát cũng tắm rửa, thoa dầu thơm, dùng bữa với nhiều món ăn ngon, rồi cầm cây đàn vĩ cầm và ngồi vào chỗ đã được sắp đặt cho mình.
Sakko adissamānakāyena āgantvā ākāse aṭṭhāsi, bodhisattoyeva naṃ passati.
Sakko arrived with an invisible body and stood in the air; only the Bodhisatta saw him.
Sakka đến với thân hình vô hình và đứng trên không trung; chỉ có Bồ Tát thấy Ngài.
Mūsilopi āgantvā attano āsane nisīdi.
Mūsila also arrived and sat on his seat.
Mūsila cũng đến và ngồi vào chỗ của mình.
Mahājano parivāresi, āditova dvepi samasamaṃ vādayiṃsu.
The great multitude surrounded them; at first, both played equally well.
Đại chúng vây quanh, ngay từ đầu cả hai đều chơi đàn ngang tài ngang sức.
Mahājano dvinnampi vāditena tuṭṭho ukkuṭṭhisahassāni pavattesi.
The great multitude, pleased with the playing of both, uttered thousands of shouts of joy.
Đại chúng vui mừng với tiếng đàn của cả hai và reo hò hàng ngàn tiếng.
Sakko ākāse ṭhatvā bodhisattaññeva sāvento ‘‘ekaṃ tantiṃ chindā’’ti āha.
Sakko, standing in the air, indicated only to the Bodhisatta, saying, “Cut one string.”
Sakka đứng trên không trung, chỉ hướng dẫn Bồ Tát, nói: "Hãy cắt một dây đàn."
Bodhisatto tantiṃ chindi, sā chinnāpi chinnakoṭiyā saraṃ muñcateva, devagandhabbaṃ viya vattati.
The Bodhisatta cut a string; even though cut, it still emitted sound from its broken end, like a divine gandhabba.
Bồ Tát cắt dây đàn, nhưng dù bị cắt, nó vẫn phát ra âm thanh từ đầu dây bị cắt, vang lên như tiếng nhạc của thiên thần.
Mūsilopi tantiṃ chindi, tato saddo na nikkhami.
Mūsila also cut a string, but no sound came forth.
Mūsila cũng cắt dây đàn, nhưng không có âm thanh nào phát ra.
Ācariyo dutiyampi chindi …pe… sattamampi chindi.
The teacher cut the second… and so on… he cut the seventh.
Vị thầy cắt dây thứ hai... cho đến dây thứ bảy.
Suddhadaṇḍakaṃ vādentassa saddo nagaraṃ chādetvā aṭṭhāsi.
As he played the bare stick, the sound covered the city and remained there.
Khi chơi bằng cây đàn không dây, âm thanh bao trùm cả thành phố.
Celukkhepasahassāni ceva ukkuṭṭhisahassāni ca pavattayiṃsu.
Thousands of cloth-waves and thousands of shouts of joy arose.
Hàng ngàn tiếng reo hò và hàng ngàn tiếng tung hô quần áo đã vang lên.
Bodhisatto ekaṃ pāsakaṃ ākāse khipi, tīṇi accharāsatāni otaritvā nacciṃsu.
The Bodhisatta threw one die into the air, and three hundred nymphs descended and danced.
Bồ Tát ném một viên xúc xắc lên không trung, ba trăm tiên nữ hạ xuống và múa.
Evaṃ dutiye ca tatiye ca khitte tīṇi tīṇi accharāsatāni otaritvā vuttanayeneva nacciṃsu.
Similarly, when the second and third were thrown, three hundred nymphs each descended and danced in the manner described.
Tương tự, khi ném viên thứ hai và thứ ba, ba trăm tiên nữ mỗi lần hạ xuống và múa theo cách đã nói.
1545
Tasmiṃ khaṇe rājā mahājanassa iṅgitasaññaṃ adāsi, mahājano uṭṭhāya ‘‘tvaṃ ācariyena saddhiṃ virujjhitvā ‘samakāraṃ karomī’ti vāyamasi, attano pamāṇaṃ na jānāsī’’ti mūsilaṃ tajjetvā gahitagahiteheva pāsāṇadaṇḍādīhi saṃcuṇṇetvā jīvitakkhayaṃ pāpetvā pāde gahetvā saṅkāraṭṭhāne chaḍḍesi.
At that moment, the king gave a signal to the great multitude. The great multitude rose up, rebuked Mūsila, saying, ‘You contend with the teacher, attempting to make yourself equal, not knowing your own measure!’ They crushed him with whatever stones, sticks, and other things they could seize, brought him to the end of his life, took him by the feet, and threw him on the rubbish heap.
Vào khoảnh khắc đó, nhà vua ra hiệu cho đại chúng, đại chúng đứng dậy và mạt sát Mūsila: "Ngươi dám chống đối thầy và cố gắng 'làm ngang hàng', ngươi không biết lượng sức mình!" Họ dùng đá, gậy, v.v., những gì có trong tay, đập nát hắn, giết chết hắn, rồi nắm chân hắn quăng vào bãi rác.
Rājā tuṭṭhacitto ghanavassaṃ vassāpento viya bodhisattassa bahuṃ dhanaṃ adāsi, tathā nāgarā.
The king, with a joyful mind, gave much wealth to the Bodhisatta as if causing a heavy rain to fall, and so did the citizens.
Nhà vua với tâm hoan hỷ, như thể ban mưa lớn, đã ban nhiều của cải cho Bồ Tát, và dân chúng cũng vậy.
Sakko bodhisattena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘ahaṃ te, paṇḍita, sahassayuttaṃ ājaññarathaṃ gāhāpetvā pacchā mātaliṃ pesessāmi, tvaṃ sahassayuttaṃ vejayantarathavaraṃ abhiruyha devalokaṃ āgaccheyyāsī’’ti vatvā pakkāmi.
Sakka, having exchanged greetings with the Bodhisatta, said, ‘O wise one, I will have a thousand-yoked noble chariot brought for you, and afterwards I will send Mātali. You should ascend the excellent thousand-yoked Vejayanta chariot and come to the deva-world,’ and then he departed.
Sakka chào hỏi Bồ Tát và nói: "Này hiền giả, ta sẽ cho ngươi một cỗ xe ngựa quý giá ngàn con, sau đó sẽ sai Mātali đến. Ngươi hãy lên cỗ xe Vejayanta tối thượng ngàn con và đến cõi trời." Nói xong, Ngài rời đi.
1546
Atha naṃ gantvā paṇḍukambalasilāyaṃ nisinnaṃ ‘‘kahaṃ gatāttha, mahārājā’’ti devadhītaro pucchiṃsu.
Then, having gone, the devadhītā asked him, as he sat on the Paṇḍukambala stone, ‘Where have you been, great king?’
Sau đó, các thiên nữ đến hỏi Ngài đang ngồi trên tảng đá Paṇḍukambala: "Đại vương, Ngài đã đi đâu vậy?"
Sakko tāsaṃ taṃ kāraṇaṃ vitthārena kathetvā bodhisattassa sīlañca guṇañca vaṇṇesi.
Sakka explained that matter to them in detail and praised the Bodhisatta’s virtue and qualities.
Sakka kể chi tiết sự việc đó cho họ và ca ngợi giới đức và phẩm hạnh của Bồ Tát.
Devadhītaro ‘‘mahārāja, mayampi ācariyaṃ daṭṭhukāmā, idha naṃ ānehī’’ti āhaṃsu.
The devadhītā said, ‘Great king, we also wish to see the teacher; bring him here.’
Các thiên nữ nói: "Đại vương, chúng con cũng muốn gặp vị thầy, xin Ngài đưa Ngài ấy đến đây."
Sakko mātaliṃ āmantetvā ‘‘tāta, devaccharā guttilagandhabbaṃ daṭṭhukāmā, gaccha naṃ vejayantarathe nisīdāpetvā ānehī’’ti.
Sakka summoned Mātali and said, ‘My dear, the devaccharā wish to see Guttila the musician; go, seat him in the Vejayanta chariot, and bring him here.’
Sakka gọi Mātali và nói: "Này con, các thiên nữ muốn nghe tiếng đàn của Guttila Gandhabba, hãy đi và đưa Ngài ấy đến trên cỗ xe Vejayanta."
So ‘‘sādhū’’ti gantvā bodhisattaṃ ānesi.
He said, ‘Very well,’ and went and brought the Bodhisatta.
Ông ta nói "Vâng" rồi đi và đưa Bồ Tát đến.
Sakko bodhisattena saddhiṃ sammoditvā ‘‘devakaññā kira te, ācariya, gandhabbaṃ sotukāmā’’ti āha.
Sakka exchanged pleasantries with the Bodhisatta and said, ‘Teacher, the deva maidens wish to hear your music.’
Sakka vui vẻ trò chuyện với Bồ Tát và nói: "Này thầy, các thiên nữ muốn nghe tiếng đàn của thầy."
‘‘Mayaṃ mahārāja, gandhabbā nāma sippaṃ nissāya jīvāma, mūlaṃ labhantā vādeyyāmā’’ti.
‘Great king, we musicians live by our art; we will play if we receive payment.’
"Đại vương, chúng con là những người Gandhabba sống nhờ nghề nghiệp, chúng con sẽ chơi khi nhận được thù lao."
‘‘Vādehi, ahaṃ te mūlaṃ dassāmī’’ti.
‘Play, I will give you payment.’
"Hãy chơi đi, ta sẽ trả công cho ngươi."
‘‘Na mayhaṃ aññena mūlenattho, imā pana devadhītaro attano attano kalyāṇakammaṃ kathentu, evāhaṃ vādessāmī’’ti.
‘I have no need for other payment; let these devadhītā each recount their own wholesome deeds, then I will play.’
"Tôi không cần thù lao nào khác, nhưng những thiên nữ này hãy kể về những việc thiện của riêng mình, rồi tôi sẽ chơi."
Atha naṃ devadhītaro āhaṃsu – ‘‘amhehi kataṃ kalyāṇakammaṃ pacchā tumhākaṃ kathessāma, gandhabbaṃ karohi ācariyā’’ti.
Then the devadhītā said to him, ‘We will tell you our wholesome deeds later, Teacher, please play your music.’
Sau đó, các thiên nữ nói với Ngài: "Chúng con sẽ kể về những việc thiện đã làm sau, xin thầy hãy chơi đàn trước đi."
Bodhisatto sattāhaṃ devatānaṃ gandhabbaṃ akāsi, taṃ dibbagandhabbaṃ abhibhavitvā pavatti.
For seven days, the Bodhisatta played music for the devas, and that divine music surpassed all other divine music.
Bồ Tát đã chơi đàn cho các vị trời trong bảy ngày; tiếng đàn thần thánh đó đã vượt trội hơn tất cả.
Sattame divase ādito paṭṭhāya devadhītānaṃ kalyāṇakammaṃ pucchi.
On the seventh day, he began to ask the devadhītā about their wholesome deeds.
Vào ngày thứ bảy, Ngài bắt đầu hỏi về những việc thiện của các thiên nữ.
Ekaṃ kassapasammāsambuddhakāle ekassa bhikkhuno uttamavatthaṃ datvā sakkassa paricārikā hutvā nibbattaṃ accharāsahassaparivāraṃ uttamavatthadevakaññaṃ ‘‘tvaṃ purimabhave kiṃ kammaṃ katvā nibbattā’’ti pucchi.
He asked one excellent deva maiden, who was a retinue of Sakka, surrounded by a thousand nymphs, and had been reborn after giving an excellent robe to a bhikkhu during the time of Kassapa Sammāsambuddha, ‘What deed did you perform in a previous existence to be reborn thus?’
Ngài hỏi một thiên nữ có ngàn tiên nữ vây quanh, người đã được sinh ra làm thị nữ của Sakka sau khi cúng dường một bộ y phục tối thượng cho một Tỳ-khưu vào thời Đức Phật Kassapa Sammāsambuddha: "Kiếp trước ngươi đã làm nghiệp gì mà được sinh ra như vậy?"
Tassa pucchanākāro ca vissajjanā ca vimānavatthumhi āgatameva.
The manner of his questioning and her answering are found in the Vimānavatthu itself.
Cách Ngài hỏi và cách trả lời đều có trong Vimānavatthu.
Vuttañhi tattha –
For it is said there:
Ở đó đã nói:
1547
‘‘Abhikkantena vaṇṇena, yā tvaṃ tiṭṭhasi devate;
“O deva, with an exceedingly beautiful complexion, you stand here;
"Với vẻ đẹp rực rỡ, hỡi thiên nữ,
1548
Obhāsentī disā sabbā, osadhī viya tārakā.
Illuminating all directions, like a star of medicinal herbs.
Nàng đứng đó, chiếu sáng khắp mọi phương, như vì sao Dược Thảo.
1549
‘‘Kena tetādiso vaṇṇo, kena te idha mijjhati;
“By what means is your complexion such, by what means do you prosper here;
"Do đâu nàng có vẻ đẹp như vậy? Do đâu nàng được thành tựu ở đây?
1550
Uppajjanti ca te bhogā, ye keci manaso piyā.
And all possessions, whatever are dear to your heart, arise for you.
Và mọi tài sản mà nàng mong muốn đều xuất hiện ư?
1551
‘‘Pucchāmi taṃ devi mahānubhāve, manussabhūtā kimakāsi puññaṃ;
“I ask you, O powerful goddess, what merit did you perform when you were a human being;
"Hỡi thiên nữ có thần lực lớn, tôi hỏi nàng, khi làm người, nàng đã làm phước gì?
1552
Kenāsi evaṃ jalitānubhāvā, vaṇṇo ca te sabbadisā pabhāsatī’’ti.
By what means are you thus radiant with splendor, and your complexion illuminates all directions?”
Do đâu nàng có thần lực rực rỡ như vậy, và vẻ đẹp của nàng chiếu sáng khắp mọi phương?"
1553
‘‘Vatthuttamadāyikā nārī, pavarā hoti naresu nārīsu;
“A woman who gives excellent robes is supreme among women and goddesses;
"Người phụ nữ cúng dường y phục tối thượng, là người phụ nữ cao quý nhất trong số người và phụ nữ;
1554
Evaṃ piyarūpadāyikā manāpaṃ, dibbaṃ sā labhate upecca ṭhānaṃ.
Thus, one who gives a pleasing form attains a delightful, divine state.
Người cúng dường hình tướng đáng yêu như vậy, sẽ đạt được cảnh giới trời đáng ưa.
1555
‘‘Tassā me passa vimānaṃ, accharā kāmavaṇṇinīhamasmi;
“Behold my mansion, I am a nymph of charming form;
"Hãy nhìn cung điện của tôi, tôi là một tiên nữ có hình tướng khả ái;
1556
Accharāsahassassāhaṃ, pavarā passa puññānaṃ vipākaṃ.
I am supreme among a thousand nymphs; behold the result of my merits.
Tôi là người cao quý nhất trong số ngàn tiên nữ, hãy xem quả báo của phước báu.
1557
‘‘Tena metādiso vaṇṇo, tena me idha mijjhati;
“By that means is my complexion such, by that means do I prosper here;
"Do đó tôi có vẻ đẹp như vậy, do đó tôi được thành tựu ở đây;
1558
Uppajjanti ca me bhogā, ye keci manaso piyā.
And all possessions, whatever are dear to my heart, arise for me.
Và mọi tài sản mà tôi mong muốn đều xuất hiện.
1559
‘‘Tenamhi evaṃ jalitānubhāvā;
“By that means am I thus radiant with splendor;
"Do đó tôi có thần lực rực rỡ như vậy;
1560
Vaṇṇo ca me sabbadisā pabhāsatī’’ti.(vi. va. 329-331, 333-336);
And my complexion illuminates all directions.”
Và vẻ đẹp của tôi chiếu sáng khắp mọi phương."
1561
Aparā piṇḍāya caramānassa bhikkhuno pūjanatthāya pupphāni adāsi, aparā ‘‘cetiye gandhapañcaṅgulikaṃ dethā’’ti gandhe adāsi, aparā madhurāni phalāphalāni adāsi, aparā ucchurasaṃ adāsi, aparā kassapadasabalassa cetiye gandhapañcaṅgulikaṃ adāsi, aparā maggapaṭipannānaṃ bhikkhūnaṃ bhikkhunīnañca kulagehe vāsaṃ upagatānaṃ santike dhammaṃ assosi, aparā nāvāya upakaṭṭhāya velāya bhuttassa bhikkhuno udake ṭhatvā udakaṃ adāsi, aparā agāramajjhe vasamānā akkodhanā hutvā sassusasuravattaṃ akāsi, aparā attano laddhakoṭṭhāsatopi saṃvibhāgaṃ katvāva paribhuñji, sīlavatī ca ahosi, aparā paragehe dāsī hutvā nikkodhanā nimmānā attano laddhakoṭṭhāsato saṃvibhāgaṃ katvā devarañño paricārikā hutvā nibbattā (vi. va. aṭṭha. 328-336).
Another offered flowers to a monk walking for alms, for the purpose of veneration. Another offered perfumes, saying, "Place a five-fingered perfume offering at the cetiya." Another offered sweet fruits and vegetables. Another offered sugarcane juice. Another offered a five-fingered perfume offering at the cetiya of Kassapa Dasabala. Another listened to the Dhamma in the presence of bhikkhus and bhikkhunīs who had arrived at a family home, having entered the path. Another, standing in the water at the bank near a boat, offered water to a bhikkhu who had eaten. Another, dwelling in the midst of a household, became free from anger and performed the duties towards her mother-in-law and father-in-law. Another partook only after sharing from her own allotted portion and was virtuous. Another, having been a female slave in another's house, became free from anger and conceit, and after sharing from her own allotted portion, was reborn as a female attendant of the king of devas.
Một vị khác đã cúng dường hoa để tôn kính một Tỳ-khưu đang đi khất thực; một vị khác đã cúng dường hương và nói: "Hãy cúng dường ngũ chỉ hương lên bảo tháp"; một vị khác đã cúng dường trái cây ngọt; một vị khác đã cúng dường nước mía; một vị khác đã cúng dường ngũ chỉ hương lên bảo tháp của Đức Phật Kassapa Dasabala; một vị khác đã nghe Pháp từ các Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni đang hành đạo khi họ trú tại nhà gia chủ; một vị khác đã đứng trong nước và cúng dường nước cho một Tỳ-khưu đã dùng bữa trên thuyền gần bờ; một vị khác đã sống trong gia đình, không giận dữ, và đã làm bổn phận của con dâu và con rể; một vị khác đã chia sẻ phần của mình trước khi dùng, và là người giữ giới; một vị khác đã làm người hầu gái trong nhà người khác, không giận dữ, không kiêu mạn, đã chia sẻ phần của mình và được sinh ra làm thị nữ của vua trời.
Evaṃ sabbāpi guttilavimānavatthusmiṃ āgatā chattiṃsa devadhītā yaṃ yaṃ kammaṃ katvā tattha nibbattā, sabbaṃ bodhisatto pucchi.
Thus, the Bodhisatta asked all thirty-six devadhītās who appeared in the Guttilavimāna story what deeds they had performed to be reborn there.
Như vậy, Bồ Tát đã hỏi tất cả ba mươi sáu thiên nữ đã được đề cập trong Guttila-vimāna-vatthu về những nghiệp mà họ đã làm để được sinh ra ở đó.
Tāpissa attano katakammaṃ gāthāhiyeva kathesuṃ.
And they told him their performed deeds through verses.
Và họ đã kể cho Ngài nghe về những nghiệp mình đã làm bằng những bài kệ.
Taṃ sutvā bodhisatto ‘‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me, svāhaṃ idhāgantvā appamattakenapi kammena paṭiladdhadibbasampattiyo assosiṃ.
Having heard that, the Bodhisatta said, "Indeed, I have gained much! Indeed, it is well-obtained for me that, having come here, I have heard of divine attainments obtained through even small deeds.
Nghe vậy, Bồ Tát nói: "Thật là lợi lộc cho ta! Thật là may mắn cho ta! Ta đến đây và đã nghe về những tài sản thần thánh đạt được chỉ bằng những nghiệp nhỏ nhặt.
Ito dāni paṭṭhāya manussalokaṃ gantvā dānādīni kusalakammāneva karissāmī’’ti vatvā imaṃ udānaṃ udānesi –
From now on, I will go to the human world and perform only wholesome deeds such as giving," and he uttered this solemn utterance (udāna):
Từ nay trở đi, ta sẽ trở về cõi người và chỉ làm những việc thiện như bố thí, v.v." Nói xong, Ngài đã thốt lên lời cảm hứng này:
1562
‘‘Svāgataṃ vata me ajja, suppabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ;
"Welcome indeed is this day for me, well-dawned, well-arisen;
"Hôm nay thật là một sự đón chào, một buổi sáng tốt lành, một sự thức dậy tốt đẹp;
1563
Yaṃ addasāmi devatāyo, accharākāmavaṇṇiyo.
Since I have seen devatās, celestial nymphs with charming forms.
Vì ta đã thấy các vị thiên nữ, những tiên nữ có hình tướng khả ái.
1564
‘‘Imāsāhaṃ dhammaṃ sutvā, kāhāmi kusalaṃ bahuṃ;
"Having heard the Dhamma from them, I shall perform much wholesome action;
"Nghe Pháp từ họ, ta sẽ làm nhiều việc thiện;
1565
Dānena samacariyāya, saṃyamena damena ca;
Through giving, through balanced conduct, through restraint, and through taming;
Bằng bố thí, bằng đời sống bình đẳng, bằng sự tự chế, và bằng sự điều phục;
1566
Svāhaṃ tattha gamissāmi, yattha gantvā na socare’’ti.(vi. va. 617-618);
I shall go to that place, where having gone, one does not grieve."
Ta sẽ đi đến nơi mà khi đến đó, người ta không còn buồn rầu nữa."
1567
Atha naṃ sattāhaccayena devarājā mātalisaṅgāhakaṃ āṇāpetvā rathe nisīdāpetvā bārāṇasimeva pesesi.
Then, after seven days, the king of devas commanded Mātali the charioteer to seat him in a chariot and sent him back to Bārāṇasī.
Sau bảy ngày, vua trời đã ra lệnh cho người điều khiển xe Mātali, đặt Ngài lên xe và đưa về Bārāṇasī.
So bārāṇasiṃ gantvā devaloke attanā diṭṭhakāraṇaṃ manussānaṃ ācikkhi.
Having gone to Bārāṇasī, he recounted to the people what he had seen in the deva realm.
Người ấy đến Bārāṇasī, kể cho loài người nghe điều mình đã thấy trong cõi trời.
Tato paṭṭhāya manussā saussāhā puññāni kātuṃ maññiṃsu.
From then on, people became enthusiastic to perform meritorious deeds.
Từ đó trở đi, loài người đã nghĩ đến việc hăng hái làm các điều phước thiện.
1568
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā mūsilo devadatto ahosi, sakko anuruddho, rājā ānando, guttilagandhabbo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, Mūsila was Devadatta, Sakka was Anuruddha, the king was Ānanda, and Guttila the musician was I myself."
Đức Đạo Sư đem bài pháp thoại này lại, kết hợp bổn sanh – ‘‘Khi ấy, Mūsila là Devadatta, Sakka là Anuruddha, vua là Ānanda, còn Guttila gandhabba chính là Ta vậy’’.
1569
Guttilajātakavaṇṇanā tatiyā.
The third, the Guttila Jātaka, is concluded.
Chuyện Guttila Jātaka, thứ ba.
1570
* 4. Vigaticchajātakavaṇṇanā
* 4. The Vigaticcha Jātaka
* 4. Chuyện Vigaticcha Jātaka
1571
Yaṃ passati na taṃ icchatīti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ palāyikaṃ paribbājakaṃ ārabbha kathesi.
"What one sees, one does not desire"—the Teacher related this while dwelling at Jetavana, concerning a wandering ascetic who ran away.
Yaṃ passati na taṃ icchatīti (Cái gì thấy thì không muốn cái ấy), Đức Đạo Sư đã nói điều này khi ngự tại Jetavana, liên quan đến một du sĩ bỏ chạy.
So kira sakalajambudīpe paṭivādaṃ alabhitvā sāvatthiṃ āgantvā ‘‘ko mayā saddhiṃ vādaṃ kātuṃ samattho’’ti pucchitvā ‘‘sammāsambuddho’’ti sutvā mahājanaparivuto jetavanaṃ gantvā bhagavantaṃ catuparisamajjhe dhammaṃ desentaṃ pañhaṃ pucchi.
It is said that he, having found no one to debate with in the entire Jambudīpa, came to Sāvatthī and asked, "Who is capable of debating with me?" Having heard "the Sammāsambuddha," he went to Jetavana, surrounded by a large crowd, and asked the Bhagavā a question as he was teaching the Dhamma in the midst of the four assemblies.
Nghe nói, người ấy đã đi khắp toàn cõi Jambudīpa mà không tìm được đối thủ tranh luận, sau đó đến Sāvatthī và hỏi: ‘‘Ai có khả năng tranh luận với ta?’’ Nghe nói ‘‘Đức Chánh Đẳng Giác’’, người ấy được đại chúng vây quanh, đến Jetavana và hỏi Đức Thế Tôn đang thuyết pháp giữa bốn hội chúng.
Athassa satthā taṃ vissajjetvā ‘‘ekaṃ nāma ki’’nti pañhaṃ pucchi, so taṃ kathetuṃ asakkonto uṭṭhāya palāyi.
Then, the Teacher, having answered him, asked the question, "What is one thing?" Unable to answer, he got up and ran away.
Bấy giờ, Đức Đạo Sư giải đáp cho người ấy, rồi hỏi một câu hỏi: ‘‘Một điều là gì?’’ Người ấy không thể trả lời, bèn đứng dậy bỏ chạy.
Nisinnaparisā ‘‘ekapadeneva vo, bhante, paribbājako niggahito’’ti āhaṃsu.
The assembled crowd said, "Bhante, the wandering ascetic was refuted by you with just one word!"
Hội chúng đang ngồi thưa: ‘‘Bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn đã đánh bại du sĩ chỉ bằng một từ!’’
Satthā ‘‘nāhaṃ, upāsakā, idānevetaṃ ekapadeneva niggaṇhāmi, pubbepi niggaṇhiṃyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher said, "Upāsakas, I do not refute him with just one word only now; I refuted him in the past as well," and he related a past event.
Đức Đạo Sư nói: ‘‘Này các cư sĩ, không phải chỉ bây giờ Ta mới đánh bại người ấy bằng một từ, mà trước đây Ta cũng đã đánh bại rồi’’, rồi kể chuyện quá khứ.
1572
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto kāme pahāya isipabbajjaṃ pabbajitvā dīgharattaṃ himavante vasi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī country. Having come of age, he abandoned sensual pleasures and took up the ascetic life, dwelling in the Himavanta for a long time.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn ở xứ Kāsī, khi trưởng thành đã từ bỏ dục lạc, xuất gia làm đạo sĩ và sống lâu dài ở Himavanta.
So pabbatā oruyha ekaṃ nigamagāmaṃ nissāya gaṅgānivattane paṇṇasālāyaṃ vāsaṃ kappesi.
Descending from the mountain, he settled in a leaf-hut at the bend of the Gaṅgā, near a market town.
Người ấy xuống núi, trú tại một làng thị trấn nhỏ, và dựng lá lều ở khúc quanh sông Gaṅgā.
Atheko paribbājako sakalajambudīpe paṭivādaṃ alabhitvā taṃ nigamaṃ patvā ‘‘atthi nu kho koci mayā saddhiṃ vādaṃ kātuṃ samattho’’ti pucchitvā ‘‘atthī’’ti bodhisattassa ānubhāvaṃ sutvā mahājanaparivuto tassa vasanaṭṭhānaṃ gantvā paṭisanthāraṃ katvā nisīdi.
Then, a wandering ascetic, having found no one to debate with in the entire Jambudīpa, reached that town and asked, "Is there anyone capable of debating with me?" Having heard "there is" and the Bodhisatta's power, he went to his dwelling place, surrounded by a large crowd, exchanged greetings, and sat down.
Bấy giờ, một du sĩ đã đi khắp toàn cõi Jambudīpa mà không tìm được đối thủ tranh luận, đến thị trấn ấy và hỏi: ‘‘Có ai có khả năng tranh luận với ta không?’’ Nghe nói ‘‘Có’’, và nghe về uy lực của Bồ Tát, người ấy được đại chúng vây quanh, đến nơi Bồ Tát ở, chào hỏi rồi ngồi xuống.
Atha naṃ bodhisatto ‘‘vaṇṇagandhaparibhāvitaṃ gaṅgāpānīyaṃ pivissatī’’ti pucchi.
Then the Bodhisatta asked him, "Will you drink the water of the Gaṅgā imbued with color and scent?"
Bấy giờ, Bồ Tát hỏi người ấy: ‘‘Ông có muốn uống nước sông Gaṅgā có màu sắc và hương vị không?’’
Paribbājako vādena ottharanto ‘‘kā gaṅgā, vālukā gaṅgā, udakaṃ gaṅgā, orimatīraṃ gaṅgā, pārimatīraṃ gaṅgā’’ti āha.
The wanderer, overwhelming with argument, said, "What is the Gaṅgā? Is the sand the Gaṅgā? Is the water the Gaṅgā? Is the near bank the Gaṅgā? Is the far bank the Gaṅgā?"
Du sĩ, với ý định tranh luận, nói: ‘‘Cái gì là Gaṅgā? Cát là Gaṅgā, nước là Gaṅgā, bờ bên này là Gaṅgā, bờ bên kia là Gaṅgā.’’
Bodhisatto ‘‘tvaṃ pana, paribbājaka, ṭhapetvā udakaṃ vālukaṃ orimatīraṃ pārimatīrañca kahaṃ gaṅgaṃ labhissasī’’ti āha.
The Bodhisatta said, "But you, wanderer, where will you find the Gaṅgā apart from the water, the sand, the near bank, and the far bank?"
Bồ Tát nói: ‘‘Này du sĩ, nếu bỏ nước, cát, bờ bên này và bờ bên kia ra, thì ông sẽ tìm Gaṅgā ở đâu?’’
Paribbājako appaṭibhāno hutvā uṭṭhāya palāyi.
The wanderer, being at a loss, got up and fled.
Du sĩ không còn lời nào để nói, bèn đứng dậy bỏ chạy.
Tasmiṃ palāte bodhisatto nisinnaparisāya dhammaṃ desento imā gāthā avoca –
When he had fled, the Bodhisatta, teaching the Dhamma to the assembled audience, spoke these verses:
Khi người ấy bỏ chạy, Bồ Tát thuyết pháp cho hội chúng đang ngồi, nói những bài kệ này:
1573
188.
188.
188.
1574
‘‘Yaṃ passati na taṃ icchati, yañca na passati taṃ kiricchati;
"What he sees, he does not desire; what he does not see, that he truly desires.
‘‘Cái gì thấy thì không muốn cái ấy, cái gì không thấy thì lại muốn cái ấy;
1575
Maññāmi ciraṃ carissati, na hi taṃ lacchati yaṃ sa icchati.
I think he will wander for a long time, for he will not obtain what he desires.
Ta nghĩ người ấy sẽ đi lâu dài, quả thật người ấy sẽ không đạt được điều mình muốn.
1576
189.
189.
189.
1577
‘‘Yaṃ labhati na tena tussati, yañca pattheti laddhaṃ hīḷeti;
What he obtains, he is not content with; what he yearns for, once obtained, he despises.
‘‘Cái gì đạt được thì không thỏa mãn, cái gì mong muốn khi đã đạt được thì lại khinh chê;
1578
Icchā hi anantagocarā, vigaticchāna namo karomase’’ti.
Indeed, desire has endless range; we pay homage to those free from desire."
Thật vậy, dục vọng có đối tượng vô biên, chúng ta xin đảnh lễ những bậc đã diệt trừ dục vọng’’.
1579
Tattha yaṃ passatīti yaṃ udakādiṃ passati, taṃ gaṅgāti na icchati.
Therein, what he sees means what he sees, such as water, that he does not desire as the Gaṅgā.
Trong đó, yaṃ passatīti (cái gì thấy) nghĩa là cái gì thấy như nước, thì không muốn cái ấy là Gaṅgā.
Yañca na passatīti yañca udakādivinimuttaṃ gaṅgaṃ na passati, taṃ kiricchati.
What he does not see means what Gaṅgā, distinct from water and so forth, he does not see, that he truly desires.
Yañca na passatīti (cái gì không thấy) nghĩa là cái gì không thấy Gaṅgā tách rời khỏi nước, v.v., thì lại muốn cái ấy.
Maññāmi ciraṃ carissatīti ahaṃ evaṃ maññāmi – ayaṃ paribbājako evarūpaṃ gaṅgaṃ pariyesanto ciraṃ carissati.
I think he will wander for a long time means, I think thus: this wanderer, seeking such a Gaṅgā, will wander for a long time.
Maññāmi ciraṃ carissatīti (Ta nghĩ người ấy sẽ đi lâu dài) nghĩa là Ta nghĩ rằng du sĩ này sẽ đi lâu dài để tìm kiếm một Gaṅgā như vậy.
Yathā vā udakādivinimuttaṃ gaṅgaṃ, evaṃ rūpādivinimuttaṃ attānampi pariyesanto saṃsāre ciraṃ carissati.
Just as a Gaṅgā distinct from water and so forth, so too, seeking a self distinct from rūpa and so forth, he will wander for a long time in saṃsāra.
Cũng như tìm kiếm Gaṅgā tách rời khỏi nước, v.v., người ấy cũng sẽ đi lâu dài trong luân hồi để tìm kiếm tự ngã tách rời khỏi sắc, v.v.
Na hi taṃ lacchatīti ciraṃ carantopi yaṃ taṃ evarūpaṃ gaṅgaṃ vā attānaṃ vā icchati, taṃ na lacchati.
He will not obtain that means, even though he wanders for a long time, he will not obtain that Gaṅgā or self of such a nature that he desires.
Na hi taṃ lacchatīti (quả thật người ấy sẽ không đạt được điều mình muốn) nghĩa là dù đi lâu dài, người ấy cũng sẽ không đạt được Gaṅgā hoặc tự ngã như vậy mà người ấy muốn.
Yaṃ labhatīti yaṃ udakaṃ vā rūpādiṃ vā labhati, tena na tussati.
What he obtains means what water or rūpa and so forth he obtains, he is not content with that.
Yaṃ labhatīti (cái gì đạt được) nghĩa là cái gì đạt được như nước hoặc sắc, v.v., thì không thỏa mãn với cái ấy.
Yañca pattheti laddhaṃ hīḷetīti evaṃ laddhena atussanto yaṃ yaṃ sampattiṃ pattheti, taṃ taṃ labhitvā ‘‘kiṃ etāyā’’ti hīḷeti avamaññati.
What he yearns for, once obtained, he despises means, being discontent with what is obtained in this way, whatever prosperity he yearns for, having obtained it, he despises and disregards it, thinking, "What is this for?"
Yañca pattheti laddhaṃ hīḷetīti (cái gì mong muốn khi đã đạt được thì lại khinh chê) nghĩa là không thỏa mãn với những gì đã đạt được như vậy, người ấy mong muốn bất cứ sự thành tựu nào, khi đạt được nó thì lại khinh chê, coi thường: ‘‘Cái này để làm gì?’’
Icchā hi anantagocarāti laddhaṃ hīḷetvā aññamaññaṃ ārammaṇaṃ icchanato ayaṃ icchā nāma taṇhā anantagocarā.
Indeed, desire has endless range means, because one despises what is obtained and desires another object, this desire, which is taṇhā, has an endless range.
Icchā hi anantagocarāti (Thật vậy, dục vọng có đối tượng vô biên) nghĩa là do khinh chê những gì đã đạt được và mong muốn những đối tượng khác, nên dục vọng, tức là Taṇhā, có đối tượng vô biên.
Vigaticchāna namo karomaseti tasmā ye vigaticchā buddhādayo, tesaṃ mayaṃ namakkāraṃ karomāti.
We pay homage to those free from desire means, therefore, we pay homage to those Buddhas and others who are free from desire.
Vigaticchāna namo karomaseti (chúng ta xin đảnh lễ những bậc đã diệt trừ dục vọng) nghĩa là vì vậy, chúng ta xin đảnh lễ các bậc đã diệt trừ dục vọng như chư Phật, v.v.
1580
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā paribbājako etarahi paribbājako ahosi, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the wanderer was the wanderer of today; but the ascetic was I myself."
Đức Đạo Sư đem bài pháp thoại này lại, kết hợp bổn sanh – ‘‘Khi ấy, du sĩ là du sĩ hiện tại này, còn vị ẩn sĩ chính là Ta vậy’’.
1581
Vigaticchajātakavaṇṇanā catutthā.
The fourth, the Vigaticcha Jātaka, is concluded.
Chuyện Vigaticcha Jātaka, thứ tư.
1582
* 5. Mūlapariyāyajātakavaṇṇanā
* 5. Mūlapariyāya Jātaka
* 5. Chuyện Mūlapariyāya Jātaka
1583
Kālo ghasati bhūtānīti idaṃ satthā ukkaṭṭhaṃ nissāya subhagavane viharanto mūlapariyāyasuttantaṃ ārabbha kathesi.
" Time devours beings" – this the Teacher related while dwelling in Subhaga Grove near Ukkaṭṭhā, concerning the Mūlapariyāya Suttanta.
Kālo ghasati bhūtānīti (Thời gian nuốt chửng các loài hữu tình), Đức Đạo Sư đã nói điều này khi ngự tại Subhagavana gần Ukkaṭṭha, liên quan đến kinh Mūlapariyāya.
Tadā kira pañcasatā brāhmaṇā tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū sāsane pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggaṇhitvā mānamadamattā hutvā ‘‘sammāsambuddhopi tīṇeva piṭakāni jānāti, mayampi tāni jānāma, evaṃ sante kiṃ tassa amhehi nānākaraṇa’’nti buddhupaṭṭhānaṃ na gacchanti, paṭipakkhā hutvā caranti.
At that time, it is said, five hundred brahmins, masters of the three Vedas, having gone forth into the Dispensation and learned the three Piṭakas, became intoxicated with pride and conceit, thinking, "Even the Perfectly Self-Enlightened One knows only the three Piṭakas; we too know them. If that is so, what difference is there between him and us?" They did not go to attend upon the Buddha, but behaved as opponents.
Nghe nói, bấy giờ có năm trăm vị Bà La Môn thông suốt ba bộ Veda, đã xuất gia trong giáo pháp, học thuộc ba Tipiṭaka, rồi trở nên kiêu mạn và tự mãn, nghĩ rằng: ‘‘Đức Chánh Đẳng Giác cũng chỉ biết ba Tipiṭaka, chúng ta cũng biết chúng, vậy thì Ngài có gì khác biệt với chúng ta?’’ Họ không đến hầu Phật, mà hành xử như những người đối nghịch.
1584
Athekadivasaṃ satthā tesu āgantvā attano santike nisinnesu aṭṭhahi bhūmīhi paṭimaṇḍetvā mūlapariyāyasuttantaṃ kathesi, te na kiñci sallakkhesuṃ.
Then one day, the Teacher came to them, and when they were seated near him, he preached the Mūlapariyāya Suttanta, adorned with eight grounds, but they understood nothing.
Bấy giờ, một hôm, Đức Đạo Sư đến khi họ đang ngồi gần Ngài, và thuyết kinh Mūlapariyāya được trang hoàng bằng tám cảnh giới, nhưng họ không nhận ra điều gì.
Atha nesaṃ etadahosi – ‘‘mayaṃ amhehi sadisā paṇḍitā natthī’ti mānaṃ karoma, idāni pana na kiñci jānāma, buddhehi sadiso paṇḍito nāma natthi, aho buddhaguṇā nāmā’’ti.
Then it occurred to them, "We are proud, thinking, 'There are no scholars like us,' but now we know nothing. There is no scholar like the Buddhas. Oh, what are the qualities of the Buddhas!"
Bấy giờ, họ nghĩ: ‘‘Chúng ta đã kiêu mạn cho rằng không có học giả nào sánh bằng chúng ta, nhưng bây giờ chúng ta không biết gì cả. Quả thật không có học giả nào sánh bằng chư Phật. Ôi, thật là công đức của chư Phật!’’
Te tato paṭṭhāya nihatamānā hutvā uddhaṭadāṭhā viya sappā nibbisevanā jātā.
From that time onwards, they became humble, like snakes with fangs removed, harmless.
Từ đó trở đi, họ đã từ bỏ kiêu mạn, trở nên vô hại như rắn đã nhổ nọc độc.
Satthā ukkaṭṭhāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā vesāliṃ gantvā gotamakacetiye gotamakasuttantaṃ nāma kathesi, dasasahassilokadhātu kampi, taṃ sutvā te bhikkhū arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
The Teacher, having stayed in Ukkaṭṭhā as long as he wished, went to Vesālī and preached the Gotamaka Suttanta at the Gotamaka Shrine; the ten-thousand-world-system trembled, and having heard it, those bhikkhus attained Arahantship.
Đức Đạo Sư đã ngự tại Ukkaṭṭha tùy ý, rồi đến Vesālī, thuyết kinh Gotamaka tại Gotamakacetiya. Mười ngàn thế giới đã rung chuyển, và các Tỳ khưu ấy nghe xong đã đạt được A-la-hán quả.
Mūlapariyāyasuttantapariyosāne pana satthari ukkaṭṭhāyaṃ viharanteyeva bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, aho buddhānaṃ ānubhāvo, te nāma brāhmaṇapabbajitā tathā mānamadamattā bhagavatā mūlapariyāyadesanāya nihatamānā katā’’ti.
However, at the conclusion of the Mūlapariyāya Suttanta, while the Teacher was still dwelling in Ukkaṭṭhā, the bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, oh, what is the power of the Buddhas! They indeed humbled those brahmin renunciants, who were so intoxicated with pride and conceit, through the Mūlapariyāya discourse."
Tuy nhiên, khi kết thúc kinh Mūlapariyāya, lúc Đức Đạo Sư vẫn còn ngự tại Ukkaṭṭha, các Tỳ khưu đã khởi xướng cuộc đàm luận trong pháp đường: ‘‘Này chư hiền, thật là uy lực của chư Phật! Ngài đã khiến các Bà La Môn xuất gia kia, vốn kiêu mạn và tự mãn như vậy, phải từ bỏ kiêu mạn bằng bài thuyết pháp Mūlapariyāya’’.
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepāhaṃ ime evaṃ mānapaggahitasire vicarante nihatamāne akāsiṃyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher, having come, asked, "Monks, what kind of talk are you engaged in now?" When they replied, "Of this kind, Venerable Sir," he said, "Monks, not only now, but in the past too, I subdued the pride of those who walked with such conceited heads," and then he related a past event.
Đức Đạo Sư đến, hỏi: ‘‘Này chư Tỳ khưu, hiện giờ các ông đang ngồi đàm luận về chuyện gì?’’ Khi được thưa: ‘‘Về chuyện này, bạch Đức Thế Tôn’’, Ngài nói: ‘‘Này chư Tỳ khưu, không phải chỉ bây giờ mà Ta mới làm cho những người này đang đi lại với cái đầu kiêu mạn như vậy phải từ bỏ kiêu mạn, mà trước đây Ta cũng đã làm như vậy rồi’’, rồi kể chuyện quá khứ.
1585
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū disāpāmokkho ācariyo hutvā pañca māṇavakasatāni mante vācesi.
In the past, while Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was reborn into a brahmin family. Having come of age, he became a distinguished teacher, master of the three Vedas, and taught mantras to five hundred brahmin students.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ Tát sinh ra trong một gia đình Bà La Môn, khi trưởng thành đã trở thành vị đạo sư danh tiếng thông suốt ba bộ Veda, và dạy năm trăm học trò các bài chú.
Te pañcasatāpi niṭṭhitasippā sippe anuyogaṃ datvā ‘‘yattakaṃ mayaṃ jānāma, ācariyopi tattakameva, viseso natthī’’ti mānatthaddhā hutvā ācariyassa santikaṃ na gacchanti, vattapaṭivattaṃ na karonti.
All five hundred of them, having completed their training and applied themselves to their craft, became stiff with pride, thinking, "Whatever we know, the teacher also knows that much; there is no difference." They did not go to the teacher nor perform their duties.
Cả năm trăm học trò ấy, sau khi hoàn tất việc học và thực hành các kỹ năng, đã trở nên kiêu mạn và cứng đầu, nghĩ rằng: ‘‘Những gì chúng ta biết, đạo sư cũng chỉ biết bấy nhiêu, không có gì đặc biệt hơn’’, nên không đến gần đạo sư, cũng không phục vụ Ngài.
Te ekadivasaṃ ācariye badarirukkhamūle nisinne taṃ vambhetukāmā badarirukkhaṃ nakhena ākoṭetvā ‘‘nissārovāyaṃ rukkho’’ti āhaṃsu.
One day, when the teacher was seated at the foot of a jujube tree, wishing to belittle him, they tapped the jujube tree with their nails and said, "This tree is worthless."
Một hôm, khi đạo sư đang ngồi dưới gốc cây táo ta, họ muốn khinh thường Ngài, bèn dùng móng tay cào vào cây táo ta và nói: ‘‘Cây này vô dụng!’’
Bodhisatto attano vambhanabhāvaṃ ñatvā antevāsike ‘‘ekaṃ vo pañhaṃ pucchissāmī’’ti āha.
The Bodhisatta, realizing that he was being belittled, said to his disciples, "I will ask you a question."
Bồ Tát nhận ra ý khinh thường mình, bèn nói với các học trò: ‘‘Ta sẽ hỏi các con một câu hỏi.’’
Te haṭṭhatuṭṭhā ‘‘vadetha, kathessāmā’’ti.
They, delighted and pleased, said, "Speak, we will answer."
Họ vui vẻ nói: ‘‘Xin hãy nói, chúng con sẽ trả lời.’’
Ācariyo pañhaṃ pucchanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The teacher, asking the question, first uttered the verse:
Đạo sư, khi hỏi câu hỏi, trước tiên nói bài kệ:
1586
190.
190.
190.
1587
‘‘Kālo ghasati bhūtāni, sabbāneva sahattanā;
"Time devours all beings, even itself;
‘‘Thời gian nuốt chửng các loài hữu tình, tất cả đều cùng với tự ngã;
1588
Yo ca kālaghaso bhūto, sa bhūtapacaniṃ pacī’’ti.
And the being who devours Time, he cooks the cooker of beings."
Vị hữu tình nuốt chửng thời gian ấy, vị ấy nấu chín cái nồi nấu các loài hữu tình’’.
1589
Tattha kāloti purebhattakālopi pacchābhattakālopīti evamādi.
Here, Time (kālo) means, for example, the time before meals and the time after meals.
Trong đó, kāloti (thời gian) nghĩa là thời gian trước bữa ăn, thời gian sau bữa ăn, v.v.
Bhūtānīti sattādhivacanametaṃ, na kālo bhūtānaṃ cammamaṃsādīni luñcitvā khādati, apica kho nesaṃ āyuvaṇṇabalāni khepento yobbaññaṃ maddanto ārogyaṃ vināsento ghasati khādatīti vuccati.
Beings (bhūtāni) is a term for sentient beings. Time does not literally pluck and eat their skin and flesh, but it is said to devour them by diminishing their life, beauty, and strength, crushing their youth, and destroying their health.
Bhūtānīti (các loài hữu tình) là từ chỉ các chúng sanh. Thời gian không phải là ăn thịt da của các chúng sanh bằng cách bóc lột, mà là làm hao mòn tuổi thọ, sắc đẹp, sức lực của họ, nghiền nát tuổi trẻ, hủy hoại sức khỏe, nên được gọi là nuốt chửng, ăn.
Evaṃ ghasanto ca na kiñci vajjeti, sabbāneva ghasati.
Thus devouring, it spares nothing; it devours all.
Khi nuốt chửng như vậy, nó không bỏ sót bất cứ điều gì, nuốt chửng tất cả.
Na kevalañca bhūtāneva, apica kho sahattanā attānampi ghasati, purebhattakālo pacchābhattakālaṃ na pāpuṇāti.
And not only beings, but even itself (sahattanā) it devours; the time before meals does not reach the time after meals.
Không chỉ các loài hữu tình, mà còn sahattanā (cùng với tự ngã), nó cũng nuốt chửng chính mình. Thời gian trước bữa ăn không đạt đến thời gian sau bữa ăn.
Esa nayo pacchābhattakālādīsu.
The same applies to the time after meals and so on.
Tương tự đối với thời gian sau bữa ăn, v.v.
Yo ca kālaghaso bhūtoti khīṇāsavassetaṃ adhivacanaṃ.
The being who devours Time (yo ca kālaghaso bhūto) is an epithet for an arahant (one whose taints are destroyed).
Yo ca kālaghaso bhūtoti (Vị hữu tình nuốt chửng thời gian ấy) là từ chỉ vị A-la-hán.
So hi ariyamaggena āyatiṃ paṭisandhikālaṃ khepetvā khāditvā ṭhitattā ‘‘kālaghaso bhūto’’ti vuccati.
For he, by the Noble Path, having eliminated and devoured the time of future rebirth, is called "the being who devours Time."
Bởi vì, người ấy, do Thánh đạo (ariyamagga) đã tiêu diệt và nuốt hết thời kỳ tái sanh (paṭisandhikāla) trong tương lai, nên được gọi là ‘‘kẻ đã nuốt thời gian’’ (kālaghaso bhūto).
Sa bhūtapacaniṃ pacīti so yāyaṃ taṇhā apāyesu bhūte pacati, taṃ ñāṇagginā paci dahi bhasmamakāsi, tena ‘‘bhūtapacaniṃ pacī’’ti vuccati.
He cooks the cooker of beings (sa bhūtapacaniṃ pacī) means that he cooked, burned, and reduced to ashes with the fire of wisdom that craving which cooks beings in the lower realms; therefore, he is called "he cooks the cooker of beings."
Sa bhūtapacaniṃ pacī (Người ấy đã nấu chín những gì đã sanh) có nghĩa là: người ấy đã dùng lửa trí tuệ (ñāṇagginā) nấu chín, đốt cháy, biến thành tro bụi cái ái (taṇhā) đã nấu chín các chúng sanh (bhūta) trong các cảnh khổ (apāya), do đó được gọi là ‘‘đã nấu chín những gì đã sanh’’.
‘‘Pajani’’ntipi pāṭho, janikaṃ nibbattakinti attho.
"Pajani" is also a reading, meaning "the producer" or "the creator."
Cũng có bài đọc là ‘‘Pajaniṃ’’ (kẻ tạo ra), nghĩa là kẻ tạo ra, kẻ làm phát sanh.
1590
Imaṃ pañhaṃ sutvā māṇavesu ekopi jānituṃ samattho nāma nāhosi.
Having heard this question, not a single one of the students was able to understand it.
Sau khi nghe câu hỏi này, không một học trò nào có thể hiểu được.
Atha ne bodhisatto ‘‘mā kho tumhe ‘ayaṃ pañho tīsu vedesu atthī’ti saññaṃ akattha, tumhe ‘yamahaṃ jānāmi, taṃ sabbaṃ jānāmā’ti maññamānā maṃ badarirukkhasadisaṃ karotha, mama tumhehi aññātassa bahuno jānanabhāvaṃ na jānātha, gacchatha sattame divase kālaṃ dammi, ettakena kālena imaṃ pañhaṃ cintethā’’ti.
Then the Bodhisatta said to them, "Do not think, 'This question is found in the three Vedas.' You, thinking 'Whatever I know, we all know,' make me like a jujube tree. You do not know that I know much that is unknown to you. Go, I will give you seven days; ponder this question within this time."
Sau đó, Bồ Tát bảo họ: ‘‘Các con đừng nghĩ rằng ‘câu hỏi này có trong ba bộ Veda’. Các con nghĩ rằng ‘những gì ta biết, các con cũng biết tất cả’, và đối xử với ta như cây táo gai. Các con không biết rằng ta biết nhiều điều mà các con không biết. Hãy đi đi, ta sẽ cho các con thời gian bảy ngày. Trong thời gian này, hãy suy nghĩ về câu hỏi này.’’
Te bodhisattaṃ vanditvā attano attano vasanaṭṭhānaṃ gantvā sattāhaṃ cintetvāpi pañhassa neva antaṃ, na koṭiṃ passiṃsu.
They bowed to the Bodhisatta, went to their respective dwelling places, and after pondering for seven days, they could find neither the beginning nor the end of the question.
Họ đảnh lễ Bồ Tát, trở về chỗ ở của mình, và dù đã suy nghĩ suốt bảy ngày, họ vẫn không tìm thấy đầu mối hay kết cục của câu hỏi.
Te sattamadivase ācariyassa santikaṃ gantvā vanditvā nisīditvā ‘‘kiṃ, bhadramukhā, jānittha pañha’’nti vutte ‘‘na jānāmā’’ti vadiṃsu.
On the seventh day, they went to the teacher, bowed, and sat down. When asked, "Well, good sirs, have you understood the question?" they replied, "We do not understand."
Đến ngày thứ bảy, họ đến chỗ vị đạo sư, đảnh lễ và ngồi xuống. Khi được hỏi: ‘‘Này các con, các con đã hiểu câu hỏi chưa?’’, họ trả lời: ‘‘Chúng con chưa hiểu.’’
Atha bodhisatto te garahamāno dutiyaṃ gāthamāha –
Then the Bodhisatta, reproaching them, uttered the second verse:
Bồ Tát liền quở trách họ và nói bài kệ thứ hai:
1591
191.
191.
191.
1592
‘‘Bahūni narasīsāni, lomasāni brahāni ca;
"Many are the heads of men, hairy and large;
‘‘Nhiều đầu người, đầy lông, to lớn;
1593
Gīvāsu paṭimukkāni, kocidevettha kaṇṇavā’’ti.
They are set upon necks, but few indeed here have ears."
Đeo trên cổ, nhưng ít ai có tai.’’
1594
Tassattho – bahūni narānaṃ sīsāni dissanti, sabbāni ca tāni lomasāni, sabbāni mahantāni gīvāsuyeva ṭhapitāni, na tālaphalaṃ viya hatthena gahitāni, natthi tesaṃ imehi dhammehi nānākaraṇaṃ.
Its meaning is: Many heads of men are seen, all of them hairy, all of them large, all placed on necks, not held in the hand like a palm fruit. There is no difference among them in these characteristics.
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Nhiều đầu người được thấy, tất cả đều có lông, tất cả đều to lớn và được đặt trên cổ, không phải được cầm bằng tay như quả thốt nốt. Không có sự khác biệt nào của chúng về những đặc điểm này.
Ettha pana kocideva kaṇṇavāti attānaṃ sandhāyāha.
But here, "few indeed have ears" refers to himself.
Tuy nhiên, ở đây, câu ‘‘ít ai có tai’’ (kocideva kaṇṇavā) là để chỉ chính mình.
Kaṇṇavāti paññavā, kaṇṇachiddaṃ pana na kassaci natthi.
Kaṇṇavā means "wise," for no one lacks an ear-hole.
Kaṇṇavā có nghĩa là có trí tuệ (paññavā), vì không ai không có lỗ tai.
Iti te māṇavake ‘‘kaṇṇachiddamattameva tumhākaṃ bālānaṃ atthi, na paññā’’ti garahitvā pañhaṃ vissajjesi.
Thus, reproaching those students, "You foolish ones have only ear-holes, not wisdom," he then explained the question.
Như vậy, sau khi quở trách các học trò đó rằng ‘‘các con ngu ngốc chỉ có lỗ tai chứ không có trí tuệ’’, Ngài đã giải đáp câu hỏi.
Te sutvā – ‘‘aho ācariyā nāma mahantā’’ti khamāpetvā nihatamānā bodhisattaṃ upaṭṭhahiṃsu.
Hearing him, they thought, "Oh, teachers are indeed great!" and, having asked for forgiveness, they attended upon the Bodhisatta with their pride subdued.
Nghe xong, họ nói: ‘‘Ôi, bậc đạo sư thật vĩ đại!’’ rồi xin lỗi và với lòng khiêm hạ, họ đã phụng sự Bồ Tát.
1595
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā pañcasatā māṇavakā ime bhikkhū ahesuṃ, ācariyo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the five hundred students were these monks, and the teacher was I myself."
Đức Phật đã kể lại bài Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: ‘‘Khi ấy, năm trăm học trò chính là những vị Tỳ-khưu này, còn vị đạo sư chính là Ta.’’
1596
Mūlapariyāyajātakavaṇṇanā pañcamā.
The Fifth Story of the Mūlapariyāya Jātaka.
Mūlapariyāyajātakavaṇṇanā, thứ năm, đã hoàn tất.
1597
* 6. Bālovādajātakavaṇṇanā
* 6. The Story of the Bālovāda Jātaka
* 6. Bālovādajātakavaṇṇanā
1598
Hantvā chetvā vadhitvā cāti idaṃ satthā vesāliṃ upanissāya kūṭāgārasālāyaṃ viharanto sīhasenāpatiṃ ārabbha kathesi.
"Having struck, having cut, and having killed" – the Teacher, while dwelling in the Kūṭāgārasālā near Vesālī, told this in reference to General Sīha.
Hantvā chetvā vadhitvā cā (Giết, chặt, đánh đập) – câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Kūṭāgārasālā gần Vesālī, liên quan đến Đại tướng Sīha.
So hi bhagavantaṃ saraṇaṃ gantvā nimantetvā punadivase samaṃsakabhattaṃ adāsi.
Indeed, he had gone for refuge to the Blessed One, invited him, and on the following day offered him a meal with meat.
Vị ấy đã quy y Đức Thế Tôn, thỉnh Ngài và vào ngày hôm sau đã cúng dường bữa ăn có thịt.
Nigaṇṭhā taṃ sutvā kupitā anattamanā tathāgataṃ viheṭhetukāmā ‘‘samaṇo gotamo jānaṃ uddissakataṃ maṃsaṃ bhuñjatī’’ti akkosiṃsu.
The Nigaṇṭhas, hearing this, were angry and displeased, and wishing to harass the Tathāgata, they reviled him, saying, "The ascetic Gotama knowingly eats meat specifically prepared for him!"
Các Ni-kiền-tử (Nigaṇṭha) nghe vậy, tức giận và không vui, muốn quấy nhiễu Đức Như Lai, nên đã la mắng: ‘‘Sa-môn Gotama ăn thịt được giết mổ dành riêng cho mình mà biết rõ!’’
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, nigaṇṭho nāṭaputto ‘samaṇo gotamo jānaṃ uddissakataṃ maṃsaṃ bhuñjatī’ti saddhiṃ parisāya akkosanto āhiṇḍatī’’ti.
The monks raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, the Nigaṇṭha Nāṭaputta is going around reviling the ascetic Gotama in front of assemblies, saying, 'The ascetic Gotama knowingly eats meat specifically prepared for him!'"
Các Tỳ-khưu đã khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: ‘‘Này chư Hiền, Ni-kiền-tử Nāṭaputta đang đi khắp nơi la mắng với hội chúng rằng ‘Sa-môn Gotama ăn thịt được giết mổ dành riêng cho mình mà biết rõ!’’’
Taṃ sutvā satthā ‘‘na, bhikkhave, nigaṇṭho nāṭaputto idāneva maṃ uddissakatamaṃsakhādanena garahati, pubbepi garahiyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Hearing this, the Teacher said, "Monks, the Nigaṇṭha Nāṭaputta does not only now censure me for eating meat specifically prepared for me; he censured me in the past as well," and he related a past event.
Nghe vậy, Đức Phật nói: ‘‘Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Ni-kiền-tử Nāṭaputta mới chỉ trích Ta về việc ăn thịt được giết mổ dành riêng, mà trước đây cũng đã từng chỉ trích rồi.’’ Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1599
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto isipabbajjaṃ pabbajitvā loṇambilasevanatthāya himavantato bārāṇasiṃ gantvā punadivase nagaraṃ bhikkhāya pāvisi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family. When he came of age, he undertook the ascetic's renunciation. For the purpose of consuming salt and sour foods, he went from the Himavanta to Bārāṇasī, and on the following day, he entered the city for alms.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát sanh vào một gia đình Bà-la-môn. Khi đến tuổi trưởng thành, Ngài xuất gia làm ẩn sĩ. Để tìm muối và vị chua, Ngài rời Hy Mã Lạp Sơn đến Bārāṇasī và vào thành khất thực vào ngày hôm sau.
Atheko kuṭumbiko ‘‘tāpasaṃ viheṭhessāmī’’ti gharaṃ pavesetvā paññattāsane nisīdāpetvā macchamaṃsena parivisitvā bhattakiccāvasāne ekamantaṃ nisīditvā ‘‘imaṃ maṃsaṃ tumheyeva uddissa pāṇe māretvā kataṃ, idaṃ akusalaṃ mā amhākameva, tumhākampi hotū’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
Then a certain householder, thinking "I will harass this ascetic," invited him into his house, seated him on a prepared seat, served him with fish and meat, and at the end of the meal, sat to one side and said, "This meat was prepared by killing creatures specifically for you. May this unwholesome deed not be ours alone, but yours as well," and he spoke the first verse:
Khi ấy, một gia chủ muốn quấy nhiễu vị đạo sĩ, mời Ngài vào nhà, sắp đặt chỗ ngồi và cúng dường bữa ăn có thịt cá. Sau bữa ăn, ông ta ngồi sang một bên và nói: ‘‘Thịt này được giết mổ dành riêng cho Ngài. Xin cho nghiệp bất thiện này đừng chỉ thuộc về chúng tôi, mà cũng thuộc về Ngài nữa.’’ Rồi ông ta nói bài kệ đầu tiên:
1600
192.
192.
192.
1601
‘‘Hantvā chetvā vadhitvā ca, deti dānaṃ asaññato;
"Having struck, having cut, and having killed, the unrestrained gives a gift;
‘‘Sau khi đánh, chặt, giết,
1602
Edisaṃ bhattaṃ bhuñjamāno, sa pāpena upalippatī’’ti.
Eating such a meal, he is defiled by evil."
Kẻ thiếu tự chế ban bố vật thí; người thọ dụng bữa ăn như vậy, sẽ bị ô nhiễm bởi tội lỗi.’’
1603
Tattha hantvāti paharitvā.
Therein, hantvā means having struck.
Ở đây, hantvā nghĩa là đánh đập.
Chetvāti kilametvā.
Chetvā means having tormented.
Chetvā nghĩa là làm kiệt sức.
Vadhitvāti māretvā.
Vadhitvā means having killed.
Vadhitvā nghĩa là giết chết.
Deti dānaṃ asaññatoti asaññato dussīlo evaṃ katvā dānaṃ deti.
Deti dānaṃ asaññato means the unrestrained, the immoral person, having done so, gives a gift.
Deti dānaṃ asaññato nghĩa là kẻ thiếu tự chế (asaññato), kẻ ác đức, sau khi làm như vậy thì bố thí.
Edisaṃ bhattaṃ bhuñjamāno, sa pāpena upalippatīti edisaṃ uddissakatabhattaṃ bhuñjamāno so samaṇopi pāpena upalippati saṃyujjatiyevāti.
Edisaṃ bhattaṃ bhuñjamāno, sa pāpena upalippatī means an ascetic who eats such a meal specifically prepared for him is defiled by evil, is indeed entangled.
Edisaṃ bhattaṃ bhuñjamāno, sa pāpena upalippatī nghĩa là: vị Sa-môn thọ dụng bữa ăn được giết mổ dành riêng như vậy cũng bị ô nhiễm bởi tội lỗi, bị ràng buộc bởi tội lỗi.
1604
Taṃ sutvā bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the Bodhisatta spoke the second verse:
Nghe vậy, Bồ Tát nói bài kệ thứ hai:
1605
193.
193.
193.
1606
‘‘Puttadārampi ce hantvā, deti dānaṃ asaññato;
"Even if, having killed his children and wife, the unrestrained gives a gift;
‘‘Dù giết vợ con,
1607
Bhuñjamānopi sappañño, na pāpena upalippatī’’ti.
Even if the wise one eats, he is not defiled by evil."
Kẻ thiếu tự chế vẫn bố thí; người có trí tuệ thọ dụng, không bị ô nhiễm bởi tội lỗi.’’
1608
Tattha bhuñjamānopi sappaññoti tiṭṭhatu aññaṃ maṃsaṃ, puttadāraṃ vadhitvāpi dussīlena dinnaṃ sappañño khantimettādiguṇasampanno taṃ bhuñjamānopi pāpena na upalippatīti.
Therein, bhuñjamānopi sappañño means, let alone other meat, even if the immoral person gives a gift after killing his children and wife, the wise one, endowed with qualities like patience and loving-kindness, is not defiled by evil even if he eats it.
Ở đây, bhuñjamānopi sappañño nghĩa là: hãy gác qua các loại thịt khác, dù là thịt vợ con bị kẻ ác đức giết rồi bố thí, người có trí tuệ (sappañño) đầy đủ các đức tính như nhẫn nại, từ bi, khi thọ dụng cũng không bị ô nhiễm bởi tội lỗi.
Evamassa bodhisatto dhammaṃ kathetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Thus, the Bodhisatta preached the Dhamma to him, rose from his seat, and departed.
Sau khi thuyết Pháp cho ông ta như vậy, Bồ Tát đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi.
1609
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā kuṭumbiko nigaṇṭho nāṭaputto ahosi, tāpaso pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this discourse on the Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the householder was the Nigaṇṭha Nāṭaputta, and the ascetic was I myself."
Đức Phật đã kể lại bài Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: ‘‘Khi ấy, vị gia chủ chính là Ni-kiền-tử Nāṭaputta, còn vị đạo sĩ chính là Ta.’’
1610
Bālovādajātakavaṇṇanā chaṭṭhā.
The Sixth Story of the Bālovāda Jātaka.
Bālovādajātakavaṇṇanā, thứ sáu, đã hoàn tất.
1611
* 7. Pādañjalijātakavaṇṇanā
* 7. The Story of the Pādañjali Jātaka
* 7. Pādañjalijātakavaṇṇanā
1612
Addhā pādañjalī sabbeti idaṃ satthā jetavane viharanto lāḷudāyītheraṃ ārabbha kathesi.
"Indeed, all with folded hands" – the Teacher, while dwelling in Jetavana, told this in reference to Thera Lāḷudāyī.
Addhā pādañjalī sabbe (Chắc chắn Pādañjalī hơn tất cả) – câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến Trưởng lão Lāḷudāyī.
Ekasmiñhi divase dve aggasāvakā pañhaṃ vinicchinanti, bhikkhū pañhaṃ suṇantā there pasaṃsanti.
For on one occasion, the two chief disciples were settling a question, and the monks, listening to the question, praised the Theras.
Một ngày nọ, hai vị Đại Đệ tử đang phân xử một vấn đề, các Tỳ-khưu lắng nghe và ca ngợi các vị Trưởng lão.
Lāḷudāyīthero pana parisantare nisinno ‘‘ete amhehi samaṃ kiṃ jānantī’’ti oṭṭhaṃ bhañji.
But Thera Lāḷudāyī, sitting in the midst of the assembly, twisted his mouth, thinking, "What do they know as much as we do?"
Trưởng lão Lāḷudāyī, ngồi giữa hội chúng, bĩu môi nói: ‘‘Những người này biết gì bằng chúng ta?’’
Taṃ disvā therā uṭṭhāya pakkamiṃsu, parisā bhijji.
Seeing this, the Theras rose and departed, and the assembly broke up.
Thấy vậy, các Trưởng lão đứng dậy bỏ đi, hội chúng tan rã.
Dhammasabhāyaṃ bhikkhū kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso lāḷudāyī, dve aggasāvake garahitvā oṭṭhaṃ bhañjī’’ti.
The monks raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, Lāḷudāyī reviled the two chief disciples and twisted his mouth!"
Trong Pháp đường, các Tỳ-khưu khởi lên câu chuyện: ‘‘Này chư Hiền, Lāḷudāyī đã bĩu môi chỉ trích hai vị Đại Đệ tử!’’
Taṃ sutvā satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi lāḷudāyī ṭhapetvā oṭṭhabhañjanaṃ tato uttari aññaṃ na jānātī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
Hearing this, the Teacher said, "Monks, it is not only now; in the past too, Lāḷudāyī knew nothing more than twisting his mouth," and he related a past event.
Nghe vậy, Đức Phật nói: ‘‘Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ Lāḷudāyī mới bĩu môi, mà trước đây cũng chẳng biết gì hơn ngoài việc bĩu môi.’’ Rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1613
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto tassa atthadhammānusāsako amacco ahosi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was his minister, advising him on welfare and Dhamma.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bārāṇasī, Bồ Tát là vị quan cố vấn về nghĩa lý và chánh pháp cho nhà vua.
Rañño pādañjalī nāma putto lālo dandhaparisakkano ahosi.
The king's son, named Pādañjalī, was foolish and slow-witted.
Con trai của nhà vua tên là Pādañjalī, là một người chậm chạp và lề mề.
Aparabhāge rājā kālamakāsi.
Afterwards, the king passed away.
Sau đó, nhà vua băng hà.
Amaccā rañño matakiccāni katvā ‘‘taṃ rajje abhisiñcissāmā’’ti mantayamānā rājaputtaṃ pādañjaliṃ āhaṃsu.
The ministers, having performed the king's funeral rites, deliberated, "We shall anoint him to the kingship," and spoke to the prince Pādañjalī.
Các vị quan lo tang lễ cho nhà vua xong, bàn bạc rằng ‘‘Chúng ta sẽ tấn phong vị ấy lên ngôi vua’’, rồi họ nói với hoàng tử Pādañjalī.
Bodhisatto pana ‘‘ayaṃ kumāro lālo dandhaparisakkano, pariggahetvā naṃ abhisiñcissāmā’’ti āha.
But the Bodhisatta said, "This prince is foolish and slow-witted; we should anoint him after careful consideration."
Bồ Tát nói: ‘‘Vị hoàng tử này chậm chạp và lề mề. Chúng ta nên kiểm tra rồi mới tấn phong Ngài.’’
Amaccā vinicchayaṃ sajjetvā kumāraṃ samīpe nisīdāpetvā aḍḍaṃ vinicchinantā na sammā vinicchiniṃsu.
The ministers arranged a court hearing, seated the prince nearby, and, judging a case, did not judge it correctly.
Các vị quan chuẩn bị một vụ kiện, mời hoàng tử ngồi gần và phân xử một nửa vụ kiện nhưng không phân xử đúng đắn.
Te assāmikaṃ sāmikaṃ katvā kumāraṃ pucchiṃsu – ‘‘kīdisaṃ, kumāra, suṭṭhu aḍḍaṃ vinicchinimhā’’ti.
They made the ownerless into an owner and asked the prince, "How well have we judged the case, prince?"
Họ biến người không có chủ thành người có chủ, rồi hỏi hoàng tử: ‘‘Thưa Hoàng tử, chúng tôi đã phân xử vụ kiện này đúng đắn như thế nào?’’
So oṭṭhaṃ bhañji.
He twisted his lip.
Vị ấy chỉ bĩu môi.
Bodhisatto ‘‘paṇḍito vata maññe kumāro, asammāvinicchitabhāvo tena ñāto bhavissatī’’ti maññamāno paṭhamaṃ gāthamāha –
Thinking, "The prince is indeed wise, I suppose; he must have known that it was incorrectly judged," the Bodhisatta uttered the first verse:
Bồ Tát nghĩ: ‘‘Chắc hẳn hoàng tử là người thông thái, Ngài đã biết việc phân xử không đúng đắn’’, rồi Ngài nói bài kệ đầu tiên:
1614
194.
194.
194.
1615
‘‘Addhā pādañjalī sabbe, paññāya atirocati;
"Surely Pādañjalī surpasses all in wisdom;
‘‘Chắc chắn Pādañjalī hơn tất cả,
1616
Tathā hi oṭṭhaṃ bhañjati, uttariṃ nūna passatī’’ti.
For he twists his lip, he surely sees something further."
Về trí tuệ; quả thật Ngài bĩu môi, chắc hẳn Ngài thấy điều gì hơn thế.’’
1617
Tassattho – ekaṃsena pādañjalikumāro sabbe amhe paññāya atirocati.
Its meaning is: Indeed, Prince Pādañjalī surpasses all of us in wisdom.
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Chắc chắn hoàng tử Pādañjalī hơn tất cả chúng ta về trí tuệ.
Tathā hi oṭṭhaṃ bhañjati, nūna uttariṃ aññaṃ kāraṇaṃ passatīti.
For he twists his lip, he surely sees some other reason.
Quả thật Ngài bĩu môi, chắc hẳn Ngài thấy điều gì khác.
1618
Te aparasmimpi divase vinicchayaṃ sajjetvā aññaṃ aḍḍaṃ suṭṭhu vinicchinitvā ‘‘kīdisaṃ, deva, suṭṭhu vinicchinita’’nti pucchiṃsu.
On another day, they again arranged a court hearing, judged another case correctly, and asked, "How well have we judged it, sire?"
Vào một ngày khác, họ lại chuẩn bị một vụ kiện, phân xử một nửa vụ kiện khác một cách đúng đắn, rồi hỏi: ‘‘Thưa Đại vương, chúng tôi đã phân xử đúng đắn như thế nào?’’
So punapi oṭṭhameva bhañji.
He again merely twisted his lip.
Vị ấy lại bĩu môi lần nữa.
Athassa andhabālabhāvaṃ ñatvā bodhisatto dutiyaṃ gāthamāha –
Then, realizing his utter foolishness, the Bodhisatta uttered the second verse:
Khi biết được sự ngu dốt của Ngài, Bồ Tát nói bài kệ thứ hai:
1619
195.
195.
195.
1620
‘‘Nāyaṃ dhammaṃ adhammaṃ vā, atthānatthañca bujjhati;
"He does not understand Dhamma or non-Dhamma, nor what is beneficial or unbeneficial;
‘‘Người này không hiểu chánh pháp hay phi pháp,
1621
Aññatra oṭṭhanibbhogā, nāyaṃ jānāti kiñcana’’nti.
Beyond twisting his lip, he knows nothing at all."
Cũng không hiểu lợi hay bất lợi; ngoài việc bĩu môi, người này không biết gì cả.’’
1622
Amaccā pādañjalikumārassa lālabhāvaṃ ñatvā bodhisattaṃ rajje abhisiñciṃsu.
The ministers, realizing Prince Pādañjalī's foolishness, anointed the Bodhisatta to the kingship.
Các vị quan biết được sự chậm chạp của hoàng tử Pādañjalī, liền tấn phong Bồ Tát lên ngôi vua.
1623
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā pādañjalī lāḷudāyī ahosi, paṇḍitāmacco pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, Pādañjalī was Lāḷudāyī; but the wise minister was I myself."
Đức Phật đã kể lại bài Pháp thoại này và kết nối câu chuyện Jātaka: ‘‘Khi ấy, Pādañjalī chính là Lāḷudāyī, còn vị quan thông thái chính là Ta.’’
1624
Pādañjalijātakavaṇṇanā sattamā.
The Seventh, the Commentary on the Pādañjalī Jātaka.
Pādañjalijātakavaṇṇanā, thứ bảy, đã hoàn tất.
1625
* 8. Kiṃsukopamajātakavaṇṇanā
* 8. Commentary on the Kiṃsukopama Jātaka
* 8. Kiṃsukopamajātakavaṇṇanā
1626
Sabbehi kiṃsuko diṭṭhoti idaṃ satthā jetavane viharanto kiṃsukopamasuttantaṃ ārabbha kathesi.
"The kiṃsuka was seen by all" – The Teacher, while dwelling at Jetavana, related this in connection with the Kiṃsukopama Suttanta.
Sabbehi kiṃsuko diṭṭho (Cây kiṃsuka được tất cả nhìn thấy) – câu chuyện này được Đức Phật kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến kinh Kiṃsukopama.
Cattāro hi bhikkhū tathāgataṃ upasaṅkamitvā kammaṭṭhānaṃ yāciṃsu, satthā tesaṃ kammaṭṭhānaṃ kathesi.
Four bhikkhus approached the Tathāgata and asked for a meditation subject; the Teacher taught them a meditation subject.
Bốn vị Tỳ-khưu đã đến gần Đức Như Lai và xin pháp hành (kammaṭṭhāna), Đức Đạo Sư đã thuyết pháp hành cho các vị ấy.
Te kammaṭṭhānaṃ gahetvā attano rattiṭṭhānadivāṭṭhānāni agamiṃsu.
They took the meditation subject and went to their night-quarters and day-quarters.
Các vị ấy đã nhận pháp hành và đi đến chỗ ở ban đêm và chỗ ở ban ngày của mình.
Tesu eko cha phassāyatanāni pariggaṇhitvā arahattaṃ pāpuṇi, eko pañcakkhandhe, eko cattāro mahābhūte, eko aṭṭhārasa dhātuyo.
Among them, one attained Arahantship by comprehending the six sense bases, one by comprehending the five aggregates, one by comprehending the four great elements, and one by comprehending the eighteen elements.
Trong số đó, một vị đã quán xét sáu xứ xúc (phassāyatana) và đạt đến A-la-hán quả, một vị quán xét năm uẩn (pañcakkhandha), một vị quán xét bốn đại (mahābhūta), và một vị quán xét mười tám giới (dhātu).
Te attano attano adhigatavisesaṃ satthu ārocesuṃ.
They reported their respective attainments to the Teacher.
Các vị ấy đã trình bày những điều chứng đắc đặc biệt của riêng mình lên Đức Đạo Sư.
Athekassa bhikkhuno parivitakko udapādi – ‘‘imesaṃ kammaṭṭhānāni nānā, nibbānaṃ ekaṃ, kathaṃ sabbehi arahattaṃ patta’’nti.
Then a thought arose in one bhikkhu: "Their meditation subjects are diverse, but Nibbāna is one; how did all of them attain Arahantship?"
Rồi một vị Tỳ-khưu đã khởi lên suy nghĩ: “Pháp hành của các vị này khác nhau, Niết-bàn là một, làm sao tất cả đều đạt đến A-la-hán quả được?”
So satthāraṃ pucchi.
He asked the Teacher.
Vị ấy đã hỏi Đức Đạo Sư.
Satthā ‘‘kiṃ te, bhikkhu, kiṃsukadiṭṭhabhātikehi nānatta’’nti vatvā ‘‘idaṃ no, bhante, kāraṇaṃ kathethā’’ti bhikkhūhi yācito atītaṃ āhari.
The Teacher, saying, "Bhikkhu, how is this different from those who saw the kiṃsuka?" and being requested by the bhikkhus, "Venerable Sir, please relate this matter to us," brought forth a past event.
Đức Đạo Sư đã nói: “Này Tỳ-khưu, có gì khác biệt giữa những người anh em đã thấy cây kiṃsuka?” và khi các Tỳ-khưu thỉnh cầu: “Bạch Đức Thế Tôn, xin hãy kể cho chúng con nghe sự việc này,” Ngài đã kể lại chuyện quá khứ.
1627
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente tassa cattāro puttā ahesuṃ.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, he had four sons.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, vua có bốn người con trai.
Te ekadivasaṃ sārathiṃ pakkosetvā ‘‘mayaṃ, samma, kiṃsukaṃ daṭṭhukāmā, kiṃsukarukkhaṃ no dassehī’’ti āhaṃsu.
One day, they summoned the charioteer and said, "Friend, we wish to see a kiṃsuka tree; show us a kiṃsuka tree."
Một ngày nọ, các vị ấy đã gọi người đánh xe và nói: “Này bạn, chúng tôi muốn thấy cây kiṃsuka, xin hãy chỉ cho chúng tôi cây kiṃsuka.”
Sārathi ‘‘sādhu, dassessāmī’’ti vatvā catunnampi ekato adassetvā jeṭṭharājaputtaṃ tāva rathe nisīdāpetvā araññaṃ netvā ‘‘ayaṃ kiṃsuko’’ti khāṇukakāle kiṃsukaṃ dassesi.
The charioteer, saying, "Very well, I shall show you," did not show it to all of them together, but first seated the eldest prince in the chariot, took him to the forest, and showed him the kiṃsuka tree when it was bare like a stump, saying, "This is a kiṃsuka."
Người đánh xe đã nói: “Vâng, tôi sẽ chỉ cho,” và không chỉ cho cả bốn người cùng lúc, mà đã đặt hoàng tử cả lên xe và đưa vào rừng, rồi chỉ cho thấy cây kiṃsuka khi nó chỉ còn là một thân cây khô.
Aparassa bahalapalāsakāle, aparassa pupphitakāle, aparassa phalitakāle.
To another, he showed it when it had abundant leaves; to another, when it was in bloom; to another, when it was bearing fruit.
Một người khác thì thấy khi nó có nhiều lá, một người khác khi nó nở hoa, và một người khác khi nó kết trái.
Aparabhāge cattāropi bhātaro ekato nisinnā ‘‘kiṃsuko nāma kīdiso’’ti kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ.
Afterwards, the four brothers sat together and raised the question, "What is a kiṃsuka like?"
Sau đó, cả bốn người anh em cùng ngồi lại và bắt đầu câu chuyện: “Cây kiṃsuka trông như thế nào?”
Tato eko ‘‘seyyāthāpi jhāmathūṇo’’ti āha.
Then one said, "It is like a burnt stump."
Rồi một người nói: “Nó giống như một cây cọc cháy.”
Dutiyo ‘‘seyyathāpi nigrodharukkho’’ti, tatiyo ‘‘seyyathāpi maṃsapesī’’ti, catuttho ‘‘seyyathāpi sirīso’’ti.
The second said, "It is like a banyan tree"; the third, "It is like a piece of meat"; the fourth, "It is like a sirīsa tree."
Người thứ hai nói: “Nó giống như cây banyan,” người thứ ba nói: “Nó giống như một miếng thịt,” người thứ tư nói: “Nó giống như cây sirīsa.”
Te aññamaññassa kathāya aparituṭṭhā pitu santikaṃ gantvā ‘‘deva, kiṃsuko nāma kīdiso’’ti pucchitvā ‘‘tumhehi kiṃ kathita’’nti vutte attanā kathitanīhāraṃ rañño kathesuṃ.
Dissatisfied with each other's accounts, they went to their father and asked, "Your Majesty, what kind of tree is a kiṃsuka?" When asked, "What did you say?", they recounted to the king what they had said.
Các vị ấy không hài lòng với lời kể của nhau, đã đến gặp phụ vương và hỏi: “Tâu bệ hạ, cây kiṃsuka trông như thế nào?” Khi vua hỏi: “Các con đã nói gì?” Các vị ấy đã trình bày lời kể của mình cho vua.
Rājā ‘‘catūhipi tumhehi kiṃsuko diṭṭho, kevalaṃ vo kiṃsukassa dassento sārathi ‘imasmiṃ kāle kiṃsuko kīdiso, imasmiṃ kīdiso’ti vibhajitvā na pucchito, tena vo kaṅkhā uppannā’’ti vatvā paṭhamaṃ gāthamāha –
The king said, "All four of you have seen the kiṃsuka. However, when the charioteer showed you the kiṃsuka, you did not ask him, 'What is the kiṃsuka like at this time? What is it like at that time?' Therefore, doubt arose in you," and he spoke the first verse:
Vua nói: “Cả bốn con đều đã thấy cây kiṃsuka, chỉ là khi người đánh xe chỉ cho các con cây kiṃsuka, các con đã không hỏi rõ ‘cây kiṃsuka trông như thế nào vào thời điểm này, trông như thế nào vào thời điểm kia,’ vì thế các con mới nghi ngờ,” rồi vua đọc bài kệ đầu tiên –
1628
196.
196.
196.
1629
‘‘Sabbehi kiṃsuko diṭṭho, kiṃ nvettha vicikicchatha;
"All have seen the kiṃsuka; why do you doubt this?
“Tất cả đều đã thấy kiṃsuka, sao lại nghi ngờ ở đây?
1630
Na hi sabbesu ṭhānesu, sārathī paripucchito’’ti.
For the charioteer was not questioned at all times."
Vì người đánh xe không được hỏi rõ ở tất cả các thời điểm.”
1631
Tattha na hi sabbesu ṭhānesu, sārathī paripucchitoti sabbehi vo kiṃsuko diṭṭho, kiṃ nu tumhe ettha vicikicchatha, sabbesu ṭhānesu kiṃsukoveso, tumhehi pana na hi sabbesu ṭhānesu sārathi paripucchito, tena vo kaṅkhā uppannāti.
Here, "for the charioteer was not questioned at all times" means, "All of you have seen the kiṃsuka; why do you doubt this? The kiṃsuka takes various forms at all times, but you did not question the charioteer at all times, and that is why doubt arose in you."
Ở đây, ý nghĩa của câu na hi sabbesu ṭhānesu, sārathī paripucchito là: Tất cả các con đều đã thấy cây kiṃsuka, sao các con lại nghi ngờ ở đây? Cây kiṃsuka có nhiều hình dạng ở tất cả các thời điểm, nhưng các con đã không hỏi người đánh xe ở tất cả các thời điểm, vì thế các con mới nghi ngờ.
1632
Satthā imaṃ kāraṇaṃ dassetvā ‘‘yathā, bhikkhu, te cattāro bhātikā vibhāgaṃ katvā apucchitattā kiṃsuke kaṅkhaṃ uppādesuṃ, evaṃ tvampi imasmiṃ dhamme kaṅkhaṃ uppādesī’’ti vatvā abhisambuddho hutvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Teacher, having shown this matter, said, "Just as, bhikkhus, those four brothers, by not questioning and making distinctions, gave rise to doubt about the kiṃsuka, so too do you give rise to doubt in this Dhamma," and having attained full enlightenment, he spoke the second verse:
Đức Đạo Sư đã trình bày sự việc này và nói: “Này Tỳ-khưu, giống như bốn người anh em đó đã nghi ngờ về cây kiṃsuka vì không hỏi rõ từng giai đoạn, con cũng đang nghi ngờ về giáo pháp này,” rồi Ngài, bậc Chánh Đẳng Giác, đã đọc bài kệ thứ hai –
1633
197.
197.
197.
1634
‘‘Evaṃ sabbehi ñāṇehi, yesaṃ dhammā ajānitā;
"Thus, those whose dhammas are not known by all knowledges,
“Những ai chưa biết các pháp bằng tất cả trí tuệ,
1635
Te ve dhammesu kaṅkhanti, kiṃsukasmiṃva bhātaro’’ti.
They indeed doubt the dhammas, just like the brothers about the kiṃsuka."
Họ nghi ngờ về các pháp, giống như những người anh em về cây kiṃsuka.”
1636
Tassattho – yathā te bhātaro sabbesu ṭhānesu kiṃsukassa adiṭṭhattā kaṅkhiṃsu, evaṃ sabbehi vipassanāñāṇehi yesaṃ sabbe chaphassāyatanakhandhabhūtadhātubhedā dhammā ajānitā, sotāpattimaggassa anadhigatattā appaṭividdhā, te ve tesu phassāyatanādidhammesu kaṅkhanti yathā ekasmiṃyeva kiṃsukasmiṃ cattāro bhātaroti.
Its meaning is: Just as those brothers doubted the kiṃsuka because they had not seen it in all its forms, so too, those whose dhammas—the six sense-bases, aggregates, elements, and their distinctions—are not known by all vipassanā-knowledges, not attained or penetrated through the path of stream-entry, they indeed doubt those dhammas such as the sense-bases, just like the four brothers doubted the single kiṃsuka.
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Giống như những người anh em đó đã nghi ngờ vì chưa thấy cây kiṃsuka ở tất cả các giai đoạn, thì những ai chưa biết tất cả các pháp, tức là sáu xứ xúc, các uẩn, các đại, các giới, bằng tất cả các tuệ quán (vipassanāñāṇa), chưa chứng đắc và chưa thấu hiểu đạo Tu-đà-hoàn (sotāpattimagga), họ sẽ nghi ngờ về các pháp như xứ xúc và các pháp khác, giống như bốn người anh em về cùng một cây kiṃsuka.
1637
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā bārāṇasirājā ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought forth this Dhamma discourse, connected the Jātaka: "At that time, the King of Bārāṇasī was I myself."
Đức Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Vua Bārāṇasī khi đó chính là Ta.”
1638
Kiṃsukopamajātakavaṇṇanā aṭṭhamā.
The Eighth Chapter, the Kiṃsukopama Jātaka.
Chuyện Kiṃsukopama Jātaka, thứ tám.
1639
* 9. Sālakajātakavaṇṇanā
* 9. Sālakajātakavaṇṇanā
* 9. Chuyện Sālaka Jātaka
1640
Ekaputtako bhavissasīti idaṃ satthā jetavane viharanto aññataraṃ mahātheraṃ ārabbha kathesi.
"You will be an only son"—this the Teacher spoke while dwelling at Jetavana, concerning a certain Mahāthera.
Con sẽ là con trai duy nhất – Đức Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một vị Trưởng lão.
So kirekaṃ kumārakaṃ pabbājetvā pīḷento tattha viharati.
It is said that he, having ordained a young boy, tormented him while dwelling there.
Nghe nói, vị ấy đã cho một chú tiểu xuất gia và hành hạ chú ở đó.
Sāmaṇero pīḷaṃ sahituṃ asakkonto uppabbaji.
The sāmaṇera, unable to endure the torment, disrobed.
Chú tiểu không thể chịu đựng được sự hành hạ nên đã hoàn tục.
Thero gantvā taṃ upalāpeti ‘‘kumāra, tava cīvaraṃ taveva bhavissati pattopi, mama santakaṃ pattacīvarampi taveva bhavissati, ehi pabbajāhī’’ti.
The thera went and consoled him, "Boy, your robe will be yours, and your bowl too; my bowl and robe will also be yours. Come, ordain!"
Vị Trưởng lão đã đến và an ủi chú: “Này chú tiểu, y phục của con sẽ là của con, bát cũng là của con, cả bát và y phục của ta cũng sẽ là của con, hãy đến và xuất gia đi.”
So ‘‘nāhaṃ pabbajissāmī’’ti vatvāpi punappunaṃ vuccamāno pabbaji.
Though he said, "I will not ordain," he ordained after being repeatedly urged.
Chú tiểu đã nói: “Con sẽ không xuất gia,” nhưng vì bị thuyết phục nhiều lần, chú đã xuất gia.
Atha naṃ pabbajitadivasato paṭṭhāya puna thero viheṭhesi.
Then, from the day he ordained, the thera tormented him again.
Rồi từ ngày chú xuất gia, vị Trưởng lão lại tiếp tục hành hạ chú.
So pīḷaṃ asahanto puna uppabbajitvā anekavāraṃ yācantepi tasmiṃ ‘‘tvaṃ neva maṃ sahasi, na vinā vattituṃ sakkosi, gaccha na pabbajissāmī’’ti na pabbaji.
Unable to bear the torment, he disrobed again, and though the thera repeatedly begged him, he did not ordain, saying, "You neither tolerate me nor can you do without me. Go, I will not ordain."
Chú không chịu nổi sự hành hạ, lại hoàn tục, và dù vị ấy thỉnh cầu nhiều lần, chú vẫn không xuất gia, nói: “Thầy không thể chịu đựng con, cũng không thể sống thiếu con, con đi đây, con sẽ không xuất gia nữa.”
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, suhadayo vata so dārako mahātherassa āsayaṃ ñatvā na pabbajī’’ti.
The bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall, "Friends, that boy was indeed sharp-witted to understand the Mahāthera's intention and not ordain."
Các Tỳ-khưu đã khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Này chư hiền, chú tiểu đó thật là người có thiện tâm, đã biết ý của vị Trưởng lão nên không xuất gia.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, idānevesa suhadayo, pubbepi suhadayova, ekavāraṃ etassa dosaṃ disvā na puna upagacchī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "Bhikkhus, what discussion are you engaged in now?" When told, "This, venerable sir," he said, "Bhikkhus, he is not sharp-witted only now; he was sharp-witted in the past too. Having seen his fault once, he did not approach him again," and he related a past event.
Đức Đạo Sư đến và hỏi: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các con đang tụ họp nói chuyện gì?” Khi được trả lời: “Chuyện này, bạch Đức Thế Tôn,” Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, không phải chỉ bây giờ chú ấy mới có thiện tâm, mà trước đây chú ấy cũng có thiện tâm, một lần đã thấy lỗi của người đó thì không bao giờ quay lại nữa,” rồi Ngài kể lại chuyện quá khứ.
1641
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kuṭumbikakule nibbattitvā vayappatto dhaññavikkayena jīvikaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a householder's family and, having come of age, earned his living by selling grain.
Trong quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bārāṇasī, Bồ-tát đã tái sinh vào một gia đình gia chủ và khi trưởng thành, Ngài sống bằng nghề buôn bán ngũ cốc.
Aññataropi ahituṇḍiko ekaṃ makkaṭaṃ sikkhāpetvā osadhaṃ gāhāpetvā tena sappaṃ kīḷāpento jīvikaṃ kappesi.
Another snake-charmer, having trained a monkey to fetch medicine, earned his living by making it play with snakes.
Một người bắt rắn khác đã huấn luyện một con khỉ, cho nó uống thuốc, và sống bằng cách cho nó chơi với rắn.
So bārāṇasiyaṃ ussave ghuṭṭhe ussavaṃ kīḷitukāmo ‘‘imaṃ mā pamajjī’’ti taṃ makkaṭaṃ tassa dhaññavāṇijassa hatthe ṭhapetvā ussavaṃ kīḷitvā sattame divase tassa santikaṃ gantvā ‘‘kahaṃ makkaṭo’’ti pucchi.
When a festival was announced in Bārāṇasī, wishing to enjoy the festival, he placed the monkey in the hands of that grain merchant, saying, "Do not neglect this one." After enjoying the festival, on the seventh day, he went to the merchant and asked, "Where is the monkey?"
Khi lễ hội được công bố ở Bārāṇasī, người đó muốn tham gia lễ hội, đã giao con khỉ cho người buôn ngũ cốc đó và nói: “Đừng lơ là nó,” rồi sau khi vui chơi lễ hội, vào ngày thứ bảy, người đó đến gặp và hỏi: “Con khỉ đâu?”
Makkaṭo sāmikassa saddaṃ sutvāva dhaññāpaṇato vegena nikkhami.
As soon as the monkey heard its master's voice, it quickly emerged from the grain shop.
Con khỉ vừa nghe tiếng chủ đã nhanh chóng chạy ra khỏi cửa hàng ngũ cốc.
Atha naṃ so veḷupesikāya piṭṭhiyaṃ pothetvā ādāya uyyānaṃ gantvā ekamante bandhitvā niddaṃ okkami.
Then, having beaten him on the back with a bamboo stick, he took him to the park, tied him in a secluded spot, and fell asleep.
Rồi người đó đã dùng một cây gậy tre đánh vào lưng nó, mang nó đến công viên, buộc nó vào một bên và ngủ thiếp đi.
Makkaṭo tassa niddāyanabhāvaṃ ñatvā attano bandhanaṃ mocetvā palāyitvā ambarukkhaṃ āruyha ambapakkaṃ khāditvā aṭṭhiṃ ahituṇḍikassa sarīre pātesi.
The monkey, knowing he was asleep, untied his bonds, fled, climbed a mango tree, ate a mango, and dropped the stone onto the snake charmer's body.
Con khỉ biết người đó đang ngủ, đã tự cởi trói và bỏ trốn, leo lên cây xoài, ăn quả xoài rồi ném hột vào người người bắt rắn.
So pabujjhitvā ullokento taṃ disvā ‘‘madhuravacanena naṃ vañcetvā rukkhā otāretvā gaṇhissāmī’’ti taṃ upalāpento paṭhamaṃ gāthamāha –
He, waking up and looking, saw him and thought, "I will deceive him with sweet words, make him descend from the tree, and catch him," and coaxing him, he spoke the first verse:
Người đó tỉnh dậy, nhìn lên thấy nó, đã nói: “Ta sẽ lừa nó bằng lời lẽ ngọt ngào để nó xuống cây rồi bắt lấy,” và an ủi nó bằng bài kệ đầu tiên –
1642
198.
198.
198.
1643
‘‘Ekaputtako bhavissasi, tvañca no hessasi issaro kule;
"You shall be my only son, and you shall be the master of our household;
“Con sẽ là con trai duy nhất, và sẽ là chủ gia đình của ta;
1644
Oroha dumasmā sālaka, ehi dāni gharakaṃ vajemase’’ti.
Descend from the tree, Sālaka, come now, let us go home."
Sālaka, hãy xuống khỏi cây, hãy về nhà của chúng ta ngay bây giờ.”
1645
Tassattho – tvaṃ mayhaṃ ekaputtako bhavissasi, kule ca me bhogānaṃ issaro, etamhā rukkhā otara, ehi amhākaṃ gharaṃ gamissāma.
Its meaning is: "You shall be my only son, and the master of wealth in my family; descend from this tree, come, we will go to our home."
Ý nghĩa của bài kệ đó là: Con sẽ là con trai duy nhất của ta, và là chủ của cải trong gia đình ta, hãy xuống khỏi cây này, hãy về nhà của chúng ta.
Sālakāti nāmena ālapanto āha.
He spoke, addressing him by the name Sālaka.
Sālaka là cách gọi tên.
1646
Taṃ sutvā makkaṭo dutiyaṃ gāthamāha –
Hearing that, the monkey spoke the second verse:
Nghe vậy, con khỉ đã đọc bài kệ thứ hai –
1647
199.
199.
199.
1648
‘‘Nanu maṃ suhadayoti maññasi, yañca maṃ hanasi veḷuyaṭṭhiyā;
"Do you not consider me a true friend, when you strike me with a bamboo stick?
“Chẳng phải ông nghĩ tôi là người có thiện tâm sao, mà ông lại đánh tôi bằng gậy tre?
1649
Pakkambavane ramāmase, gaccha tvaṃ gharakaṃ yathāsukha’’nti.
We delight in the forest of the mango trees; you go home at your ease."
Chúng ta hãy vui chơi trong rừng cây này, ông hãy về nhà tùy thích.”
1650
Tattha nanu maṃ suhadayoti maññasīti nanu tvaṃ maṃ ‘‘suhadayo’’ti maññasi, ‘‘suhadayo aya’’nti maññasīti attho.
Here, nanu maṃ suhadayoti maññasīti means, "Do you not consider me a true friend?" or "Do you think, 'This one is a true friend'?"
Ở đây, ý nghĩa của nanu maṃ suhadayoti maññasi là: Chẳng phải ông nghĩ tôi là người có thiện tâm sao, tức là ông nghĩ ‘người này có thiện tâm’.
Yañca maṃ hanasi veḷuyaṭṭhiyāti yaṃ maṃ evaṃ atimaññasi, yañca veḷupesikāya hanasi, tenāhaṃ nāgacchāmīti dīpeti.
Yañca maṃ hanasi veḷuyaṭṭhiyāti implies, "Because you despise me in this way, and because you strike me with a bamboo stick, I will not come."
Yañca maṃ hanasi veḷuyaṭṭhiyā là: Vì ông khinh thường tôi như vậy, và vì ông đánh tôi bằng gậy tre, nên tôi không đến, đó là ý muốn nói.
Atha naṃ ‘‘mayaṃ imasmiṃ pakkambavane ramāmase, gaccha tvaṃ gharakaṃ yathāsukha’’nti vatvā uppatitvā vanaṃ pāvisi.
Then, saying, "We delight in this forest of the mango trees; you go home at your ease," he jumped up and entered the forest.
Rồi nó nói: “Chúng ta hãy vui chơi trong rừng cây này, ông hãy về nhà tùy thích,” rồi nhảy lên và đi vào rừng.
Ahituṇḍikopi anattamano attano gehaṃ agamāsi.
The snake charmer, being displeased, also went to his own house.
Người bắt rắn cũng không vui vẻ gì, đã trở về nhà mình.
1651
Satthā imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā jātakaṃ samodhānesi – ‘‘tadā makkaṭo sāmaṇero ahosi, ahituṇḍiko mahāthero, dhaññavāṇijo pana ahameva ahosi’’nti.
The Teacher, having brought this discourse on Dhamma, connected the Jātaka: "At that time, the monkey was the novice; the snake charmer was the Mahāthera; but the grain merchant was I myself."
Đức Đạo Sư đã kể lại bài pháp này và kết nối câu chuyện Jātaka: “Con khỉ khi đó chính là chú tiểu, người bắt rắn là vị Trưởng lão, và người buôn ngũ cốc chính là Ta.”
1652
Sālakajātakavaṇṇanā navamā.
The Ninth, the Sālaka Jātaka.
Chuyện Sālaka Jātaka, thứ chín.
1653
* 10. Kapijātakavaṇṇanā
* 10. The Kapī Jātaka
* 10. Chuyện Kapi Jātaka
1654
Ayaṃ isī upasamasaṃyame ratoti idaṃ satthā jetavane viharanto ekaṃ kuhakaṃ bhikkhuṃ ārabbha kathesi.
Ayaṃ isī upasamasaṃyame rato (This ascetic delights in tranquility and restraint)—this the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning a certain deceitful bhikkhu.
Vị ẩn sĩ này chuyên tâm vào sự tĩnh lặng và tự chế – Đức Đạo Sư đã kể câu chuyện này khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến một Tỳ-khưu lừa dối.
Tassa hi kuhakabhāvo bhikkhūsu pākaṭo jāto.
Indeed, his deceitful nature had become evident to the bhikkhus.
Sự lừa dối của vị ấy đã trở nên rõ ràng đối với các Tỳ-khưu.
Bhikkhū dhammasabhāyaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesuṃ – ‘‘āvuso, asuko bhikkhu niyyānike buddhasāsane pabbajitvā kuhakavattaṃ pūretī’’ti.
The bhikkhus raised a discussion in the Dhamma hall: "Friends, that bhikkhu, having gone forth in the Buddha's dispensation which leads to liberation, practices deceitful conduct."
Các Tỳ-khưu đã khởi lên câu chuyện trong Pháp đường: “Này chư hiền, Tỳ-khưu kia đã xuất gia trong giáo pháp dẫn đến sự giải thoát, nhưng lại thực hành lối sống lừa dối.”
Satthā āgantvā ‘‘kāya nuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā’’ti pucchitvā ‘‘imāya nāmā’’ti vutte ‘‘na, bhikkhave, esa bhikkhu idāneva, pubbepi kuhakoyeva, aggimattassa kāraṇā makkaṭo hutvā kohaññamakāsī’’ti vatvā atītaṃ āhari.
The Teacher came and asked, "What, bhikkhus, is the topic of your present discussion?" When told, "This is it," he said, "Bhikkhus, this bhikkhu is not only deceitful now, but he was deceitful in the past too, and for the sake of a mere fire, he became a monkey and acted deceptively," and he related a past event.
Đức Bổn Sư đến, hỏi: “Này các Tỳ-kheo, hiện giờ các ông đang ngồi bàn luận chuyện gì vậy?” Khi được trả lời: “Thưa Tôn Sư, là chuyện này ạ,” Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này không chỉ bây giờ mới là kẻ lừa đảo, mà ngay cả trong quá khứ cũng là kẻ lừa đảo. Vì một chút lửa mà nó đã trở thành con khỉ và thực hiện hành vi lừa đảo,” rồi Ngài kể chuyện quá khứ.
1655
Atīte bārāṇasiyaṃ brahmadatte rajjaṃ kārente bodhisatto kāsiraṭṭhe brāhmaṇakule nibbattitvā vayappatto puttassa ādhāvitvā paridhāvitvā vicaraṇakāle brāhmaṇiyā matāya puttaṃ aṅkenādāya himavantaṃ pavisitvā isipabbajjaṃ pabbajitvā tampi puttaṃ tāpasakumārakaṃ katvā paṇṇasālāya vāsaṃ kappesi.
In the past, when Brahmadatta was reigning in Bārāṇasī, the Bodhisatta was born into a brahmin family in the Kāsī kingdom. When he reached maturity, and while his son was running about, his brahmin wife died. He took his son on his lap, entered the Himavanta, undertook the ascetic's life, made his son also an ascetic boy, and resided in a leaf-hut.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở xứ Kasi. Khi trưởng thành, lúc người vợ Bà-la-môn qua đời trong khi con trai của Ngài còn nhỏ, Ngài bế con vào Hy-mã-lạp sơn, xuất gia làm ẩn sĩ, rồi biến đứa con thành một đạo sĩ trẻ, và sống trong một túp lều lá.
Vassārattasamaye acchinnadhāre deve vassante eko makkaṭo sītapīḷito dante khādanto kampanto vicarati.
During the rainy season, as the sky rained incessantly, a monkey, afflicted by cold, chattered his teeth and shivered as he wandered about.
Vào mùa mưa, khi trời đổ mưa không ngớt, một con khỉ bị lạnh run rẩy, nghiến răng đi lại.
Bodhisatto mahante dārukkhandhe āharitvā aggiṃ katvā mañcake nipajji, puttakopissa pāde parimajjamāno nisīdi.
The Bodhisatta brought large logs of wood, made a fire, and lay on his couch, while his son sat massaging his feet.
Bồ-tát mang những khúc gỗ lớn về, đốt lửa và nằm trên giường, còn con trai Ngài ngồi xoa bóp chân cho Ngài.
So makkaṭo ekassa matatāpasassa santakāni vakkalāni nivāsetvā ca pārupitvā ca ajinacammaṃ aṃse katvā kājakamaṇḍaluṃ ādāya isivesenāgantvā paṇṇasāladvāre aggissa kāraṇā kuhakakammaṃ katvā aṭṭhāsi.
That monkey, wearing and covering himself with the bark garments of a dead ascetic, placing a deer-skin over his shoulder, and taking a water-pot, came in the guise of an ascetic and stood at the door of the leaf-hut, acting deceptively for the sake of the fire.
Con khỉ đó, mặc y vỏ cây của một đạo sĩ đã chết, khoác da nai lên vai, cầm bình nước và gậy, giả dạng đạo sĩ đến trước cửa túp lều lá, làm trò lừa đảo để xin lửa và đứng đó.
Tāpasakumārako taṃ disvā ‘‘tāta, tāpaso eko sītapīḷito kampamāno tiṭṭhati, idha naṃ pakkosatha, visibbessatī’’ti pitaraṃ āyācanto paṭhamaṃ gāthamāha –
The ascetic boy, seeing him, pleaded with his father, "Father, an ascetic, afflicted by cold, stands shivering; invite him in here, he will be relieved," and he spoke the first verse:
Đạo sĩ trẻ thấy vậy, nói với cha mình: “Thưa cha, có một đạo sĩ đang run rẩy vì lạnh, hãy mời ông ấy vào đây, ông ấy sẽ được sưởi ấm,” rồi thỉnh cầu cha bằng câu kệ đầu tiên:
1656
200.
200.
200.
1657
‘‘Ayaṃ isī upasamasaṃyame rato, sa tiṭṭhati sisirabhayena aṭṭito;
"This ascetic, delighting in tranquility and restraint, stands afflicted by the fear of cold;
“Vị ẩn sĩ này chuyên tâm vào sự an tịnh và tự chế,
1658
Handa ayaṃ pavisatumaṃ agārakaṃ, vinetu sītaṃ darathañca kevala’’nti.
Let him enter this dwelling, let him dispel the cold and all distress."
Ông ấy đang đứng run rẩy vì sợ lạnh. Xin hãy để ông ấy vào nhà này, để xua tan cái lạnh và mọi sự khó chịu.”
1659
Tattha upasamasaṃyame ratoti rāgādikilesaupasame ca sīlasaṃyame ca rato.
Here, upasamasaṃyame ratoti means delighting in the calming of defilements such as lust, and in the restraint of morality.
Trong đó, upasamasaṃyame rato có nghĩa là chuyên tâm vào sự an tịnh các phiền não như tham ái và sự tự chế giới luật.
Sa tiṭṭhatīti so tiṭṭhati.
Sa tiṭṭhatī means 'he stands'.
Sa tiṭṭhatī có nghĩa là ông ấy đứng.
Sisirabhayenāti vātavuṭṭhijanitassa sisirassa bhayena.
Sisirabhayenā means 'by the fear of cold,' i.e., by the fear of cold generated by wind and rain.
Sisirabhayenā có nghĩa là vì sợ cái lạnh do gió và mưa gây ra.
Aṭṭitoti pīḷito.
Aṭṭito means 'afflicted' or 'oppressed'.
Aṭṭito có nghĩa là bị áp bức, bị hành hạ.
Pavisatumanti pavisatu imaṃ.
Pavisatumaṃ means 'let him enter this'.
Pavisatumaṃ có nghĩa là hãy vào đây.
Kevalanti sakalaṃ anavasesaṃ.
Kevalaṃ means 'entire,' 'whole,' 'without remainder'.
Kevala có nghĩa là toàn bộ, không sót lại.
1660
Bodhisatto puttassa vacanaṃ sutvā uṭṭhāya olokento makkaṭabhāvaṃ ñatvā dutiyaṃ gāthamāha –
The Bodhisatta, hearing his son's words, rose and, looking, understood it was a monkey, and then spoke the second verse:
Bồ-tát nghe lời con trai, đứng dậy nhìn, biết đó là con khỉ, rồi nói câu kệ thứ hai:
1661
201.
201.
201.
1662
‘‘Nāyaṃ isī upasamasaṃyame rato, kapī ayaṃ dumavarasākhagocaro;
“This is no ascetic devoted to peace and self-restraint; this is a monkey, roaming among the branches of excellent trees;
“Đây không phải là ẩn sĩ chuyên tâm vào an tịnh và tự chế, đây là một con khỉ sống trên cành cây cao;
1663
So dūsako rosako cāpi jammo, sace vajemampi dūseyyagāra’’nti.
He is a defiler, irritable, and base; if he were to enter, he would defile even my hermitage.”
Nó là kẻ phá hoại, hay nổi giận và độc ác. Nếu nó vào nhà, nó sẽ làm ô uế cả nhà.”
1664
Tattha dumavarasākhagocaroti dumavarānaṃ sākhagocaro.
Therein, dumavarasākhagocaro means 'roaming among the branches of excellent trees'.
Trong đó, dumavarasākhagocaro có nghĩa là sống trên cành cây cao quý.
So dūsako rosako cāpi jammoti so evaṃ gatagataṭṭhānassa dūsanato dūsako, ghaṭṭanatāya rosako, lāmakabhāvena jammo.
So dūsako rosako cāpi jammo means 'he is a defiler because he defiles every place he goes, irritable because of his mischief, and base due to his wretched nature'.
So dūsako rosako cāpi jammo có nghĩa là nó là kẻ phá hoại vì làm ô uế nơi nó đến, là kẻ hay nổi giận vì hay gây gổ, và là kẻ độc ác vì bản chất thấp kém.
Sace vajeti yadi imaṃ paṇṇasālaṃ vaje paviseyya, sabbaṃ uccārapassāvakaraṇena ca aggidānena ca dūseyyāti.
Sace vaje means 'if he were to enter this leaf-hut, he would defile everything by urinating and defecating and by setting it on fire'.
Sace vaje có nghĩa là nếu nó vào túp lều lá này, nó sẽ làm ô uế mọi thứ bằng cách đại tiện, tiểu tiện và đốt lửa.
1665
Evañca pana vatvā bodhisatto ummukaṃ gahetvā taṃ santāsetvā palāpesi.
Having said this, the Bodhisatta took a firebrand, frightened the monkey, and made it flee.
Nói như vậy, Bồ-tát cầm một khúc củi cháy dọa nó, khiến nó bỏ chạy.
So uppatitvā vanaṃ pakkhanto tathā pakkhantova ahosi, na puna taṃ ṭhānaṃ agamāsi.
It leaped and entered the forest, and having entered, it remained there and never returned to that place.
Nó nhảy vào rừng và biến mất, không bao giờ quay lại nơi đó nữa.
Bodhisatto abhiññā ca samāpattiyo ca nibbattetvā tāpasakumārassa kasiṇaparikammaṃ ācikkhi, sopi abhiññā ca samāpattiyo ca uppādesi.
The Bodhisatta developed the supernormal powers (abhiññā) and attainments (samāpatti) and taught the meditation exercises (kasiṇaparikamma) to the ascetic youth, who also developed the supernormal powers and attainments.
Bồ-tát phát triển các thần thông và các tầng thiền định, và chỉ dạy pháp quán Tứ Đại cho đạo sĩ trẻ. Đạo sĩ trẻ cũng phát triển các thần thông và các tầng thiền định.
Te ubhopi aparihīnajjhānā brahmalokaparāyaṇā ahesuṃ.
Both of them, not having lost their jhāna, had the Brahma-world as their destination.
Cả hai vị đều không bị thoái thất thiền định và tái sinh vào cõi Phạm thiên.
1666
Satthā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, porāṇato paṭṭhāyapesa kuhakoyevā’’ti imaṃ dhammadesanaṃ āharitvā saccāni pakāsetvā jātakaṃ samodhānesi.
The Teacher, having brought this discourse on Dhamma, saying, “Bhikkhus, it is not only now, but also from ancient times that he was a deceiver,” and having expounded the Truths, he identified the Jātaka.
Đức Bổn Sư nói: “Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ, mà từ xa xưa, kẻ này đã là kẻ lừa đảo,” rồi Ngài thuyết pháp này, công bố các Chân lý và kết hợp câu chuyện Jātaka.
Saccapariyosāne keci sotāpannā, keci sakadāgāmino, keci anāgāmino keci arahanto ahesuṃ.
At the conclusion of the Truths, some attained stream-entry (sotāpanna), some became once-returners (sakadāgāmi), some non-returners (anāgāmi), and some attained arahantship (arahanta).
Khi các Chân lý được công bố, một số thành bậc Dự Lưu, một số thành bậc Nhất Lai, một số thành bậc Bất Hoàn, một số thành bậc A-la-hán.
‘‘Tadā makkaṭo kuhakabhikkhu ahosi, putto rāhulo, pitā pana ahameva ahosi’’nti.
“At that time, the monkey was the deceptive bhikkhu; the son was Rāhula; and the father was myself.”
“Khi ấy, con khỉ là Tỳ-kheo lừa đảo này; người con là Rahula; còn người cha chính là Ta vậy.”
1667
Kapijātakavaṇṇanā dasamā.
The Tenth Chapter on the Kapijātaka.
Chuyện Jātaka về Con Khỉ, thứ mười.
1668
Siṅgālavaggo dasamo.
The Tenth Chapter, the Siṅgāla Vagga.
Phẩm Chó Rừng, thứ mười.
1669
Tassuddānaṃ –
Its summary:
Tổng kết các câu chuyện trong phẩm này –
1670
Sabbadāṭhī ca sunakho, guttilo vigaticchā ca;
Sabbadāṭhī, Sunakha, Guttila, and Vigaticchā;
Sabbadāṭhī và Sunakho, Guttilo và Vigaticchā;
1671
Mūlapariyāyaṃ bālovādaṃ, pādañjali kiṃ sukopamaṃ;
Mūlapariyāya, Bālovāda, Pādañjali, Kiṃ Sukopama;
Mūlapariyāyaṃ, Bālovādaṃ, Pādañjali, Kiṃ Sukopamaṃ;
1672
Sālakaṃ kapi te dasa.
Sālaka and Kapi—these ten.
Sālakaṃ và Kapi – đó là mười câu chuyện.
1673
Atha vagguddānaṃ –
Now, the summary of the sections:
Tổng kết các phẩm –
1674
Daḷhavaggo ca santhavo, kalyāṇadhammāsadiso;
Daḷhavagga and Santhava, Kalyāṇadhammāsadisa;
Daḷhavaggo và Santhavo, Kalyāṇadhammāsadiso;
1675
Rūhako daḷhavaggo ca, bīraṇathambhakāsāvo;
Rūhaka and Daḷhavagga, Bīraṇathambhakāsāva;
Rūhako và Daḷhavaggo, Bīraṇathambhakāsāvo;
1676
Upāhano siṅgālo ca, dasavaggā duke siyuṃ.
Upāhano and Siṅgāla—these ten sections are in the Dukanipāta.
Upāhano và Siṅgālo – đó là mười phẩm trong Dukanipāta.
1677
Dukanipātavaṇṇanā niṭṭhitā.
The Commentary on the Dukanipāta is concluded.
Phần giải thích Dukanipāta đã hoàn tất.
Next Page →