Table of Contents

Saddanītippakaraṇaṃ (padamālā)

Edit
1474
Keci pana vadeyyuṃ ‘‘yāyaṃ purisasaddanayaṃ gahetvā ‘bhūto, bhūtā.
Since they are established by substitution, there is no separate masculine noun ending in -e. Therefore, the aforementioned seven types of masculine nouns should be accepted.
Một số người có thể nói rằng: ‘‘Trong bảng biến cách danh từ đã được phân loại theo từ purisa (người đàn ông) thành ‘bhūto, bhūtā. Bhūta’ v.v. cho tất cả các từ kết thúc bằng o, tại sao các dạng từ có sự thay thế āyā cho cách thứ tư số ít lại không được đề cập?’’
Bhūta’ntiādinā sabbesa mokārantapadānaṃ nāmikapadamālā vibhattā, tattha catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni kimatthaṃ na vuttānī’’ti?
Some might ask: "Regarding the declension of all nouns ending in -o, which follows the pattern of the word purisa (man) – 'bhūto, bhūtā, bhūta' and so on – why are the forms with the substitution of -āya for the dative singular not mentioned there?"
“Với từ ‘Bhūta’ và các từ tương tự, bản kê khai các biến cách danh từ của tất cả các từ tận cùng bằng âm ‘o’ đã được phân chia. Vậy tại sao các dạng từ có kèm theo sự thay thế ‘āyā’ của biến cách số ít thứ tư lại không được đề cập?”
Visesadassanatthaṃ.
For the purpose of showing a distinction.
Để chỉ ra sự khác biệt.
Tādisāni hi catutthekavacanarūpāni pāḷinaye porāṇaṭṭhakathānaye ca upaparikkhiyamāne ‘‘gatyatthakammani, nayanatthakammani, vibhattivipariṇāme, tadatthe cā’’ti saṅkhepato imesu catūsuyeva ṭhānesu, pabhedato pana sattasu ṭhānesu dissanti.
Indeed, such dative singular forms, when examined in the Pāḷi tradition and the ancient commentaries, are found briefly in only these four places: with verbs of motion, with verbs of leading, in cases of vibhatti interchange, and in cases of 'for the sake of that' (tad-atthe); and in detail, in seven places.
Thật vậy, khi xem xét kỹ các dạng từ cách thứ tư số ít như vậy trong cách diễn đạt Pāḷi và trong cách diễn đạt của các chú giải cổ, chúng chỉ xuất hiện tóm tắt ở bốn trường hợp này: ‘‘trong hành động có ý nghĩa di chuyển, trong hành động có ý nghĩa dẫn dắt, trong sự biến đổi cách, và trong ý nghĩa đó’’, nhưng chi tiết thì chúng xuất hiện ở bảy trường hợp.
Dānarocanadhāraṇa namoyogādibhede pana yattha katthaci sampadānavisaye na dissanti, iti imaṃ visesaṃ dassetuṃ na vuttānīti.
However, in cases of dative objects in general, such as those related to giving, telling, holding, and prostrating, they are not found. This distinction is what is intended to be shown by not mentioning them.
Tuy nhiên, chúng không xuất hiện ở bất kỳ trường hợp nào thuộc phạm vi cách tặng cách (sampadāna) như trong các trường hợp dâng cúng, làm vui lòng, nắm giữ, namo (cung kính), v.v. Vì vậy, để chỉ ra sự khác biệt này, chúng không được đề cập.
Nanu dānakriyāyoge ‘‘abhirūpāya kaññā deyyā’’ti catutthekavacanassa āyādesasahitarūpadassanato imasmimpi saddanītippakaraṇe ‘‘purisāya, bhūtāyā’’tiādīni vattabbāni, evaṃ sante kasmā ‘‘dānarocanadhāraṇa namoyogādibhede pana yattha katthaci sampadānavisaye na dissantī’’ti vuttanti?
But in relation to the action of giving, since the dative singular form with the substitution of -āya is seen in "may it be given to a beautiful maiden," forms like "purisāya, bhūtāya" should be stated in this Saddanītippakaraṇa. If so, why is it said, "However, in cases of dative objects in general, such as those related to giving, telling, holding, and prostrating, they are not found"?
Chẳng phải trong việc dâng cúng, khi nói ‘‘abhirūpāya kaññā deyyā’’ (nên dâng cô gái xinh đẹp), vì thấy dạng từ có sự thay thế āyā cho cách thứ tư số ít, nên trong Saddanītippakaraṇa này cũng phải nói ‘‘purisāya, bhūtāyā’’ v.v. sao? Nếu vậy, tại sao lại nói ‘‘tuy nhiên, chúng không xuất hiện ở bất kỳ trường hợp nào thuộc phạm vi cách tặng cách như trong các trường hợp dâng cúng, làm vui lòng, nắm giữ, namo (cung kính), v.v.’’?
Apāḷinayattā.
Because it is not in the Pāḷi tradition.
Vì đó không phải là cách diễn đạt Pāḷi.
‘‘Abhirūpāya kaññā deyyā’’ti ayañhi saddasatthato āgato nayo, na buddhavacanato.
For this grammatical usage, "may it be given to a beautiful maiden," comes from grammar (saddasattha), not from the Buddha's words.
Thật vậy, câu ‘‘abhirūpāya kaññā deyyā’’ này là cách diễn đạt đến từ ngữ pháp, không phải từ lời Phật dạy.
Buddhavacanañhi patvā ‘‘abhirūpassa kaññā deyyā’’ti padarūpaṃ bhavissatīti.
When it comes to the Buddha's words, the form would be "may it be given to the beautiful one."
Khi đến lời Phật dạy, dạng từ sẽ là ‘‘abhirūpassa kaññā deyyā’’ (nên dâng cô gái cho người xinh đẹp).
Nanu ca bho namoyogādīsupi catutthekavacanassa āyādeso dissatīti.
But, sirs, does the dative singular with -āya not appear even in cases of prostration and so on?
Chẳng phải, thưa ngài, ngay cả trong các trường hợp namo (cung kính), v.v., cũng thấy sự thay thế āyā cho cách thứ tư số ít sao?
Sāsanāvacarāpi hi nipuṇā paṇḍitā ‘‘namo buddhāyā’’tiādīni vatvā ratanattayaṃ vandanti.
Indeed, skilled scholars within the Dispensation worship the Triple Gem by saying "Namo Buddhāya" and similar phrases.
Thật vậy, ngay cả những bậc hiền trí, tinh thông giáo pháp cũng nói ‘‘namo buddhāyā’’ (con xin đảnh lễ Đức Phật) v.v. để đảnh lễ Tam Bảo.
Keci pana –
Some, however, say:
Một số người khác lại nói:
1475
‘‘Namo buddhāya buddhassa,
"Homage to the Buddha, to the Awakened One,
‘‘Con xin đảnh lễ Đức Phật, Đức Phật;
1476
Namo dhammāya dhammino;
Homage to the Dhamma, to the possessor of Dhamma;
Con xin đảnh lễ Pháp, Pháp của bậc có Pháp;
1477
Namo saṅghāya saṅghassa,
Homage to the Saṅgha, to the community,
Con xin đảnh lễ Tăng, Tăng đoàn;
1478
Namokārena sotthi me’’ti ca,
Through homage, may well-being be mine."
Nhờ sự đảnh lễ, nguyện an lành đến con’’ và
1479
‘‘Mukhe sarasi samphulle, nayanuppalapaṅkaje;
And: "To the Buddha, I always give,
‘‘Trên gương mặt như hồ sen nở, trên mắt như hoa sen;
1480
Pādapaṅkajapūjāya, buddhāya satataṃ dade’’ti ca,
For the worship of his lotus-like feet, his lotus-like eyes, and his blossoming lotus-like face."
Để cúng dường chân sen, con luôn dâng cho Đức Phật’’ và
1481
‘‘Naro naraṃ yācati kiñci vatthuṃ, narena dūto pahito narāyā’’ti ca gāthāracanampi kubbantīti?
“A man begs a man for some object, a messenger is sent by a man for a man”—do they also compose verses like this?
“Người này cầu xin người kia một vài vật, sứ giả được gửi bởi người này đến người kia” – họ cũng sáng tác kệ như vậy sao?
Saccaṃ, sāsanāvacarāpi nipuṇā paṇḍitā ‘‘namo buddhāyā’’tiādīnivatvā ratanattayaṃ vandanti, gāthāracanampi kubbanti, evaṃ santepi te saddasatthe kataparicayavasena saddasatthato nayaṃ gahetvā tathārūpā gāthāpi cuṇṇiyapadānipi abhisaṅkharonti, ‘‘namo buddhāyā’’tiādīni vatvā ratanattayaṃ vandanti.
It is true; even accomplished and skillful scholars in the Dispensation venerate the Triple Gem by saying "namo buddhāya" and so on, and they also compose verses. Even so, due to their familiarity with grammar, they derive principles from grammar and construct such verses and prose passages, and saying "namo buddhāya" and so on, they venerate the Triple Gem.
Đúng vậy, ngay cả các học giả tinh thông giáo pháp, sau khi nói “namo buddhāya” (kính lễ Đức Phật) và những câu tương tự, họ đảnh lễ Tam Bảo, và họ cũng sáng tác kệ. Mặc dù vậy, họ, nhờ vào sự thông thạo ngữ pháp, lấy nguyên tắc từ ngữ pháp để sáng tác những bài kệ như vậy và cả những câu văn xuôi, nói “namo buddhāya” và những câu tương tự để đảnh lễ Tam Bảo.
Ye pana saddasatthe akataparicayā antamaso bāladārakā, tepi aññesaṃ vacanaṃ sutvā kataparicayavasena ‘‘namo buddhāyā’’tiādīni vatvā ratanattayaṃ vandanti, ‘‘namo buddhassā’’ti vadantā pana appakatarā.
However, those who are unfamiliar with grammar, even down to young children, also venerate the Triple Gem by saying "namo buddhāya" and so on, having heard the words of others and become accustomed to them. But those who say "namo buddhassa" are fewer.
Còn những người không thông thạo ngữ pháp, ngay cả những đứa trẻ thơ dại, họ cũng nghe lời người khác và, nhờ vào sự quen thuộc, nói “namo buddhāya” và những câu tương tự để đảnh lễ Tam Bảo. Tuy nhiên, những người nói “namo buddhassa” thì ít hơn.
Katthaci hi padese kumārake akkharasamayaṃ uggaṇhāpentā garū akkharānamādimhi ‘‘namo buddhāyā’’ti sikkhāpenti, na pana ‘‘namo buddhassā’’ti, evaṃ santepi pāḷinaye porāṇaṭṭhakathānaye ca upaparikkhiyamāne ṭhapetvā gatyatthakammādiṭṭhānacatukkaṃ, pabhedato sattaṭṭhānaṃ vā dānarocanadhāraṇa namoyogādibhede yattha katthaci sampadānavisaye catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni na dissanti, tasmā kehici abhisaṅkhatāni ‘‘namo buddhāya, buddhāya dānaṃ dentī’’ti padāni pāḷiṃ patvā ‘‘namo buddhassa, buddhassa dānaṃ dentī’’ti aññarūpāni bhavantīti daṭṭhabbaṃ.
Indeed, in some regions, teachers, while instructing children in letters, teach them to say "namo buddhāya" at the beginning of the alphabet, not "namo buddhassa." Even so, when examined according to the Pāḷi method and the method of the ancient commentaries, apart from the four cases involving verbs of motion, etc., or alternatively, the seven categories, such as giving, pleasing, holding, and prostration, forms with the āya ending for the fourth singular case are not seen anywhere in the dative context. Therefore, it should be understood that phrases like "namo buddhāya" and "buddhāya dānaṃ denti," which are constructed by some, become "namo buddhassa" and "buddhassa dānaṃ denti" when adapted to Pāḷi.
Ở một số nơi, khi các vị thầy dạy trẻ em học chữ, họ dạy các em nói “namo buddhāya” ở phần đầu các chữ, chứ không phải “namo buddhassa”. Mặc dù vậy, khi xem xét theo quy tắc Pali và quy tắc của các chú giải cổ xưa, ngoại trừ bốn trường hợp của hành động có ý nghĩa chuyển động và các trường hợp khác, hoặc bảy trường hợp theo phân loại như dāna (cúng dường), rocana (làm hài lòng), dhāraṇa (duy trì), namo (kính lễ) và các loại khác, ở bất cứ đâu trong phạm vi của cách sở thuộc (sampadāna), các hình thức có tiếp vĩ ngữ āyā của cách thứ tư số ít không được thấy. Do đó, cần hiểu rằng các từ “namo buddhāya, buddhāya dānaṃ denti” được một số người sáng tác, khi đưa vào Pali, sẽ trở thành các hình thức khác như “namo buddhassa, buddhassa dānaṃ denti”.
Ayaṃ pana pāḷinayaaṭṭhakathānayānurūpena āyādesassa payogaracanā – ‘‘buddhāya saraṇaṃ gacchati, buddhaṃ saraṇaṃ gacchatī’’ti vā, ‘‘buddhāya nagaraṃ nenti, buddhaṃ nagaraṃ nentī’’ti vā, ‘‘buddhāya sakkato dhammo, buddhena sakkato dhammo’’ti vā, ‘‘buddhāya jīvitaṃ pariccajati, buddhassa atthāya jīvitaṃ pariccajatī’’ti vā, ‘‘buddhāya apenti aññatitthiyā, buddhasmā apenti aññatitthiyā’’ti vā, ‘‘buddhāya dhammatā, buddhassa dhammatā’’ti vā, ‘‘buddhāya pasanno, buddhe pasanno’’ti vā iti pabhedato imaṃ sattaṭhānaṃ vivajjetvā aññattha āyādeso na dissati.
However, the construction of the āya ending in accordance with the Pāḷi method and the commentary method is as follows: "buddhāya saraṇaṃ gacchati" (goes for refuge to the Buddha) or "buddhaṃ saraṇaṃ gacchati" (goes for refuge to the Buddha); "buddhāya nagaraṃ nenti" (they lead to the Buddha in the town) or "buddhaṃ nagaraṃ nenti" (they lead the Buddha to the town); "buddhāya sakkato dhammo" (the Dhamma is honored for the Buddha) or "buddhena sakkato dhammo" (the Dhamma is honored by the Buddha); "buddhāya jīvitaṃ pariccajati" (he sacrifices life for the Buddha) or "buddhassa atthāya jīvitaṃ pariccajati" (he sacrifices life for the purpose of the Buddha); "buddhāya apenti aññatitthiyā" (other sectarians depart from the Buddha) or "buddhasmā apenti aññatitthiyā" (other sectarians depart from the Buddha); "buddhāya dhammatā" (Buddha's nature) or "buddhassa dhammatā" (Buddha's nature); "buddhāya pasanno" (devoted to the Buddha) or "buddhe pasanno" (devoted in the Buddha). Apart from these seven categories, the āya ending is not seen elsewhere.
Tuy nhiên, cách dùng tiếp vĩ ngữ āyā phù hợp với quy tắc Pali và chú giải là – “buddhāya saraṇaṃ gacchati” (đi nương tựa Đức Phật) hoặc “buddhaṃ saraṇaṃ gacchati” (đi nương tựa Đức Phật), hoặc “buddhāya nagaraṃ nenti” (dẫn đến thành phố cho Đức Phật) hoặc “buddhaṃ nagaraṃ nenti” (dẫn Đức Phật đến thành phố), hoặc “buddhāya sakkato dhammo” (Dhamma được Đức Phật tôn kính) hoặc “buddhena sakkato dhammo” (Dhamma được Đức Phật tôn kính), hoặc “buddhāya jīvitaṃ pariccajati” (hiến dâng mạng sống cho Đức Phật) hoặc “buddhassa atthāya jīvitaṃ pariccajati” (hiến dâng mạng sống vì lợi ích của Đức Phật), hoặc “buddhāya apenti aññatitthiyā” (những người ngoại đạo rời bỏ Đức Phật) hoặc “buddhasmā apenti aññatitthiyā” (những người ngoại đạo rời bỏ Đức Phật), hoặc “buddhāya dhammatā” (bản chất của Đức Phật) hoặc “buddhassa dhammatā” (bản chất của Đức Phật), hoặc “buddhāya pasanno” (hoan hỷ với Đức Phật) hoặc “buddhe pasanno” (hoan hỷ với Đức Phật). Ngoại trừ bảy trường hợp này theo phân loại, tiếp vĩ ngữ āyā không được thấy ở nơi khác.
Tathā hi –
Thus —
Như vậy –
1482
Pāṭhe mahānamakkāra-saṅkhāte sādhunandane;
In the text called the Great Salutation, in sādhunandana,
Trong bài tụng được gọi là Đại Lễ Bái (mahānamakkāra), được các bậc thiện trí hoan hỷ;
1483
Sampadāne namoyoge, āyādeso na dissati.
in the dative case with namo, the āya ending is not seen.
Trong cách sở thuộc (sampadāna) với từ namo, tiếp vĩ ngữ āyā không được thấy.
1484
Ettha mahānamakkārapāṭho nāma ‘‘namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassā’’ti pāṭho.
Here, the Great Salutation text refers to the passage "namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa" (Homage to that Blessed, Accomplished, Perfectly Self-Enlightened One).
Ở đây, bài tụng đại lễ bái (mahānamakkārapāṭho) là bài tụng “namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassā” (Con xin đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác).
Atrāpi āyādeso na dissati.
Here too, the āya ending is not seen.
Ở đây, tiếp vĩ ngữ āyā cũng không được thấy.
Vammikasuttepi ‘‘namo karohi nāgassā’’ti evaṃ āyādeso na dissati.
In the Vammika Sutta too, "namo karohi nāgassa" (make homage to the nāga)—thus the āya ending is not seen.
Trong kinh Vammika cũng vậy, “namo karohi nāgassa” (Hãy kính lễ vị rồng) – tiếp vĩ ngữ āyā không được thấy như vậy.
Ambaṭṭhasuttepi ‘‘sotthi bhadante hotu rañño, sotthi janapadassa’’.
In the Ambaṭṭha Sutta too: "May there be welfare for the king, venerable sir, may there be welfare for the populace."
Trong kinh Ambaṭṭha cũng vậy, “sotthi bhadante hotu rañño, sotthi janapadassa” (Kính bạch Tôn giả, cầu mong phúc lành đến với nhà vua, cầu mong phúc lành đến với đất nước).
Evaṃ āyādeso na dissati.
Thus the āya ending is not seen.
Tiếp vĩ ngữ āyā không được thấy như vậy.
1485
‘‘Suppabuddha’’nti pāṭhassa, atthasaṃvaṇṇanāyapi;
In the text "Suppabuddha," even in the explanation of the meaning,
Trong bài tụng “Suppabuddha”, và cả trong phần giải thích ý nghĩa;
1486
Sampadāne namoyoge, āyādeso na dissati.
in the dative case with namo, the āya ending is not seen.
Trong cách sở thuộc (sampadāna) với từ namo, tiếp vĩ ngữ āyā không được thấy.
1487
Tathā hi
Thus —
Như vậy –
1488
‘‘Suppabuddhaṃ pabujjhanti, sadā gotamasāvakā;
“Well-awakened are the disciples of Gotama always;
“Các đệ tử của Đức Gotama luôn luôn thức tỉnh một cách tốt đẹp;
1489
Yesaṃ divā ca ratto ca, niccaṃ buddhagatā satī’’ti
whose mindfulness of the Buddha is constant, by day and by night.”
Những ai ngày đêm luôn luôn có niệm về Đức Phật.”
1490
Imissā pāḷiyā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘sammādiṭṭhikassa putto guḷaṃ khipamāno buddhānussatiṃ āvajjetvā ‘namo buddhassā’ti vatvā guḷaṃ khipatī’’ti āyādesavajjito saddaracanāviseso dissati.
In the commentary to this Pāḷi verse, a particular word construction without the āya ending is seen: "A son of a right-viewed person, while throwing a jaggery ball, reflects on the recollection of the Buddha and, saying ‘namo buddhassa,’ throws the jaggery ball."
Trong chú giải của bài Pali này, có một cách cấu trúc từ ngữ đặc biệt không có tiếp vĩ ngữ āyā: “Con trai của người có chánh kiến, khi ném viên bi, chú tâm đến Phật niệm và nói ‘namo buddhassa’ rồi ném viên bi.”
Sagāthāvaggavaṇṇanāyampi dhanañjānīsuttaṭṭhakathāyaṃ ‘‘tvaṃ ṭhitāpi nisinnāpi khipitvāpi kāsetvāpi ‘namo buddhassā’ti tassa muṇḍakassa samaṇakassa namakkāraṃ karosī’’ti āyādesavajjito saddaracanāviseso dissati.
Also in the commentary to the Dhanañjānī Sutta in the Sagāthāvagga commentary, a particular word construction without the āya ending is seen: "Whether you are standing or sitting, having thrown or having set down, you make homage to that shaven-headed ascetic, saying ‘namo buddhassa.’"
Trong phần chú giải của phẩm Kệ (Sagāthāvaggavaṇṇanā), trong Chú giải kinh Dhanañjānī, có một cách cấu trúc từ ngữ đặc biệt không có tiếp vĩ ngữ āyā: “Dù cô đứng, dù cô ngồi, dù cô ném, dù cô ho, cô vẫn đảnh lễ vị Sa-môn đầu trọc đó bằng cách nói ‘namo buddhassa’.”
Tathā tattha tattha ‘‘buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ deti.
Similarly, in various places, word constructions without the āya ending are seen, such as "buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ deti" (he gives a gift to the community of bhikkhus headed by the Buddha).
Tương tự, ở nhiều nơi khác, có một cách cấu trúc từ ngữ đặc biệt không có tiếp vĩ ngữ āyā như “buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa dānaṃ deti” (cúng dường Tăng đoàn với Đức Phật là tối thượng).
Tassa purisassa bhattaṃ na ruccati.
"Tassa purisassa bhattaṃ na ruccati" (food is not pleasing to that man).
“Tassa purisassa bhattaṃ na ruccati” (người đó không thích cơm).
Samaṇassa rocate saccaṃ, buddhassa chattaṃ dhāreti, buddhassa silāghate’’tiādinā āyādesavivajjito saddaracanāviseso dissati.
"Samaṇassa rocate saccaṃ" (the truth is pleasing to the recluse), "buddhassa chattaṃ dhāreti" (he holds an umbrella for the Buddha), "buddhassa silāghate" (he praises the Buddha) and so on.
“Samaṇassa rocate saccaṃ” (người Sa-môn yêu thích sự thật), “buddhassa chattaṃ dhāreti” (giữ dù cho Đức Phật), “buddhassa silāghate” (khen ngợi Đức Phật) và các câu tương tự.
Evaṃ dānarocanādīsu bahūsu sampadānavisayesu catutthekavacanassa āyādesasahitaṃ rūpaṃ na dissati.
Thus, in many dative contexts such as giving and pleasing, the form with the āya ending for the fourth singular case is not seen.
Như vậy, trong nhiều trường hợp của cách sở thuộc (sampadāna) như dāna (cúng dường), rocana (làm hài lòng) và các trường hợp khác, các hình thức có tiếp vĩ ngữ āyā của cách thứ tư số ít không được thấy.
1491
Gatyatthakammādīsu pana catūsu ṭhānesu dissati.
However, it is seen in the four instances of verbs of motion, etc.
Tuy nhiên, trong bốn trường hợp như hành động có ý nghĩa chuyển động, chúng được thấy.
Tathā hi ‘‘mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchatī’’ti cettha gatyatthakammani dissati.
Thus, "mūlāya paṭikasseyya" (he should draw back to the root), "appo saggāya gacchati" (few go to heaven)—here, it is seen in the context of verbs of motion.
Như vậy, “mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchatī” (nên kéo về gốc, ít người đi về cõi trời) – ở đây, chúng được thấy trong hành động có ý nghĩa chuyển động.
Ettha hi ‘‘mūlaṃ paṭikasseyya, appo saggaṃ gacchatī’’ti ca attho.
Here, the meaning is also "mūlaṃ paṭikasseyya" (he should draw back the root), "appo saggaṃ gacchati" (few go to heaven).
Ở đây, ý nghĩa là “mūlaṃ paṭikasseyya, appo saggaṃ gacchatī” (nên kéo về gốc, ít người đi về cõi trời).
‘‘Paṭikasseyyā’’ti cettha kasa gatiyanti dhātussa patiupasaggena visesitattā ‘‘ākaḍḍheyyā’’ti attho bhavati.
Here, in "paṭikasseyya," the root kasa meaning to move, being specified by the prefix pati, means "should drag back."
Ở đây, trong từ “paṭikasseyyā”, vì căn “kasa” (chuyển động) được bổ nghĩa bởi tiền tố pati, nên có nghĩa là “kéo lại”.
‘‘Ayaṃ puriso mama atthakāmo, yo maṃ gahetvāna dakāya netī’’ti ettha nayanatthakammani dissati.
"Ayaṃ puriso mama atthakāmo, yo maṃ gahetvāna dakāya netī" (This man desires my welfare, he takes me and leads me to the water)—here, it is seen in the context of verbs of leading.
“Ayaṃ puriso mama atthakāmo, yo maṃ gahetvāna dakāya netī” (Người này là người mong muốn lợi ích cho tôi, người đã đưa tôi đến chỗ nước) – ở đây, chúng được thấy trong hành động có ý nghĩa dẫn dắt.
Ettha hi maṃ udakaṃ neti, attano vasanakasobbhaṃ pāpetīti attho.
Here, the meaning is "he leads me to water, he brings me to his dwelling place."
Ở đây, ý nghĩa là “đưa tôi đến nước, đưa tôi đến hang ổ của mình”.
‘‘Viramathāyasmanto mama vacanāyā’’ti ettha vibhattivipariṇāme dissati.
"Viramathāyasmanto mama vacanāyā" (Venerables, desist from my word)—here, it is seen in a change of case ending.
“Viramathāyasmanto mama vacanāyā” (Thưa các Tôn giả, hãy từ bỏ lời nói của tôi) – ở đây, chúng được thấy trong sự biến đổi cách ngữ.
Mama vacanato viramathāti hi nissakkavacanavasena attho.
Indeed, the meaning is "desist from my word," in the sense of an ablative case.
Ý nghĩa là “hãy từ bỏ lời nói của tôi” theo cách ngữ của sự rời bỏ.
‘‘Mahāgaṇāya bhattā me’’ti etthāpi vibhattivipariṇāme dissati.
"Mahāgaṇāya bhattā me" (He is the supporter for my great flock)—here too, it is seen in a change of case ending.
“Mahāgaṇāya bhattā me” (người nuôi dưỡng đàn lớn của tôi) – ở đây cũng được thấy trong sự biến đổi cách ngữ.
Mama mahato haṃsagaṇassa bhattāti hi sāmivacanavasena attho.
Indeed, the meaning is "He is the supporter of my great flock of geese," in the sense of a possessive case.
Ý nghĩa là “người nuôi dưỡng đàn thiên nga lớn của tôi” theo cách ngữ của sở hữu.
Mama haṃsarājāti cettha adhippāyo.
Here, the intention is "my king of geese."
Ở đây, ý muốn nói là “vua thiên nga của tôi”.
‘‘Asakkatā casma dhanañcayāyā’’ti etthāpi vibhattivipariṇāme dissati.
"Asakkatā casma dhanañcayāyā" (And we are dishonored by Dhanañcaya)—here too, it is seen in a change of case ending.
“Asakkatā casma dhanañcayāyā” (chúng tôi đã không được vua Dhanañcaya tôn trọng) – ở đây cũng được thấy trong sự biến đổi cách ngữ.
Mayaṃ dhanañcayassa rañño asakkatā ca bhavāmāti hi kattutthe sāmivacanaṃ.
Indeed, "we are dishonored by King Dhanañcaya" is a possessive case used in the agentive sense.
Ý nghĩa là “chúng tôi không được vua Dhanañcaya tôn trọng” là cách sở hữu trong ý nghĩa chủ ngữ.
Tathā hi ‘‘dhanañcayassā’’ti vā ‘‘dhanañcayenā’’ti vā vattabbe evaṃ avatvā ‘‘dhanañcayāyā’’ti sampadānavacanaṃ dānakriyādikassa sampadānavisayassa abhāvato vibhattivipariṇāmeyeva yujjati, tasmā dhanañcayarājena mayaṃ asakkatā ca bhavāmāti attho gahetabbo.
Thus, where "dhanañcayassa" or "dhanañcayenā" should be used, the dative "dhanañcayāyā" is used instead without a context of giving or other dative actions, and therefore it is only suitable as a change of case ending. Thus, the meaning "we are dishonored by King Dhanañcaya" should be taken.
Như vậy, đáng lẽ phải nói “dhanañcayassā” hoặc “dhanañcayenā”, nhưng không nói như vậy mà nói “dhanañcayāyā” (cách sở thuộc) thì, vì không có trường hợp cách sở thuộc của hành động dâng cúng và các hành động khác, nó chỉ phù hợp với sự biến đổi cách ngữ. Do đó, cần hiểu ý nghĩa là “chúng tôi đã không được vua Dhanañcaya tôn trọng”.
Aññampi vibhattivipariṇāmaṭṭhānaṃ maggitabbaṃ.
Other instances of changes in case ending should also be sought.
Cũng cần tìm kiếm các trường hợp biến đổi cách ngữ khác.
1492
‘‘Virāgāya upasamāya nirodhāyā’’tiādīni pana anekasahassāni āyādesasahitāni saddarūpāni tadatthe pavattanti.
However, thousands of word forms with the āya ending, such as "virāgāya upasamāya nirodhāyā" (for dispassion, for appeasement, for cessation), occur in that specific sense.
Tuy nhiên, hàng ngàn hình thức từ ngữ có tiếp vĩ ngữ āyā như “virāgāya upasamāya nirodhāyā” (để ly tham, để an tịnh, để đoạn diệt) và các câu tương tự, được sử dụng với ý nghĩa đó.
Aṭṭhakathācariyāpi hi dhammavinayasaddatthaṃ vaṇṇentā ‘‘dhammānaṃ vinayāya.
Indeed, even the Aṭṭhakathā teachers, when explaining the meaning of the word dhammavinaya, used the word form with the āya ending in that specific sense: "dhammānaṃ vinayāya" (for the discipline of the dhammas).
Các vị chú giải sư cũng vậy, khi giải thích ý nghĩa của từ dhammavinaya (Pháp và Luật), đã sử dụng hình thức từ ngữ có tiếp vĩ ngữ āyā với ý nghĩa đó: “để điều phục các pháp (dhammānaṃ vinayāya).
Anavajjadhammatthañhesa vinayo, na bhavabhogādiattha’’nti tadatthavaseneva āyādesasahitaṃ saddarūpaṃ payuñjiṃsu, evaṃ catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni gatyatthakammani nayanatthakammani vibhattivipariṇāme tadatthe cāti imesu catūsuyeva ṭhānesu dissanti, na pana dānarocanādibhede yattha katthaci sampadānavisaye.
"The discipline is for blameless dhammas, not for existence, enjoyment, etc." Thus, the word forms with the āya ending for the fourth singular case are seen only in these four instances: verbs of motion, verbs of leading, changes in case ending, and for that specific purpose; never in any dative context such as giving or pleasing.
Sự điều phục này là vì mục đích của các pháp không có lỗi, không phải vì sự tồn tại hay hưởng thụ”. Như vậy, các hình thức có tiếp vĩ ngữ āyā của cách thứ tư số ít chỉ được thấy trong bốn trường hợp này: hành động có ý nghĩa chuyển động, hành động có ý nghĩa dẫn dắt, sự biến đổi cách ngữ, và ý nghĩa đó; chứ không phải trong bất kỳ trường hợp nào của cách sở thuộc như dāna (cúng dường), rocana (làm hài lòng) và các loại khác.
Tathā hi niruttipiṭake ‘‘atthāyāti sampadānavacana’’nti āyādesasahitaṃ saddarūpaṃ vuttaṃ, purisasaddādivasena pana tādisāni rūpāni na vuttāni tādisānaṃ saddarūpānaṃ yattha katthaci appavattanato.
Thus, in the Niruttipiṭaka, the word form with the āya ending "atthāyāti" is stated as a dative word. However, such forms are not stated for words like purisa, etc., because such word forms do not occur anywhere else.
Như vậy, trong Niruttipiṭaka (Tạng Giải Thích Ngữ Pháp), hình thức từ ngữ có tiếp vĩ ngữ āyā là “atthāyāti sampadānavacana” (atthāya là cách sở thuộc) đã được nói đến, nhưng các hình thức tương tự dựa trên từ purisa (người đàn ông) và các từ khác thì không được nói đến, vì các hình thức từ ngữ như vậy không được sử dụng ở bất cứ đâu.
Kaccāyanappakaraṇepi hi ‘‘āya catutthekavacanassa tū’’ti lakkhaṇassa vuttiyaṃ ‘‘atthāya hitāya sukhāya devamanussāna’’nti vuttaṃ.
Indeed, in the Kaccāyana Grammar, in the commentary on the rule ‘‘āya for the fourth case singular’’, it is said: ‘‘for the welfare, for the benefit, for the happiness of devas and humans’’.
Thật vậy, ngay cả trong Kaccāyanappakaraṇa, trong phần giải thích của quy tắc ‘‘āya (thay cho) cách thứ tư số ít’’, đã nói ‘‘vì lợi ích, vì sự an lạc, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người’’.
‘‘Purisāyā’’ti vā ‘‘samaṇāyā’’ti vā ‘‘brāhmaṇāyā’’ti vā na vuttanti.
And it is not said ‘‘purisāya’’, or ‘‘samaṇāya’’, or ‘‘brāhmaṇāya’’.
Không nói ‘‘cho người đàn ông’’, hay ‘‘cho vị Sa-môn’’, hay ‘‘cho vị Bà-la-môn’’.
1493
Ettha siyā – nanu bho tasseva vuttiyaṃ ‘‘catutthīti kimatthaṃ purisassa mukhaṃ.
Here one might say: Sir, is it not the case that in that very commentary, it is stated: ‘‘Why 'fourth case'? The mouth of a man.
Ở đây có thể có câu hỏi – Thưa ngài, chẳng phải trong chính phần giải thích đó đã nói ‘‘Tại sao lại là cách thứ tư? (Ví dụ) khuôn mặt của người đàn ông (purisassa mukhaṃ).
Ekavacanassāti kimatthaṃ purisānaṃ dadāti.
Why 'singular'? He gives to men.
Tại sao lại là số ít? (Ví dụ) Ông ấy cho những người đàn ông (purisānaṃ dadāti).
Vāti kimatthaṃ dātā hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā’’ti vuttattā ‘‘purisāya samaṇāya brāhmaṇāyā’’tiādīni padarūpāni nayato dassitāni, kevalaṃ pana mukhasaddayogato bahuvacanabhāvato vikappanato ca ‘‘purisāyā’’tiādīni na sijjhanti, mukhasaddayogādivirahite pana ṭhāne avassaṃ sijjhantīti?
Why 'vā'? He is a giver to a samaṇa or a brāhmaṇa.’’ Because of this, forms like ‘‘purisāya, samaṇāya, brāhmaṇāya’’ are shown grammatically. However, due to association with the word mukha, the plural form, and the optional usage (vikappanato), forms like ‘‘purisāya’’ do not occur. But in a place devoid of association with the word mukha and so on, they must necessarily occur, is that not so?
Tại sao lại là ‘vā’ (hoặc)? (Ví dụ) Ông ấy là người cho một vị Sa-môn hoặc một vị Bà-la-môn (samaṇassa vā brāhmaṇassa vā)’’ đã được nói, do đó các dạng từ như ‘‘purisāya, samaṇāya, brāhmaṇāya’’ được chỉ ra theo cách thức đó; nhưng chỉ vì sự kết hợp với từ mukha, vì là số nhiều, và vì sự lựa chọn (vikappa), nên các từ như ‘‘purisāya’’ không được thành lập, còn ở những nơi không có sự kết hợp với từ mukha, v.v., chúng nhất định được thành lập, phải không?
Ettha vuccate – ‘‘catutthīti kimatthaṃ purisassa mukha’’nti vadanto ‘‘sace āyādeso bhaveyya, catutthiyā eva bhavati, na chaṭṭhiyā’’ti dassento ‘‘mukha’’nti padaṃ dassesi, na ca tena ‘‘mukhasaddaṭṭhāne detītiādike sampadānavisayabhūte kriyāpade ṭhite āyādeso hotī’’ti dasseti.
Here it is said: One who states ‘‘Why 'fourth case'? The mouth of a man’’ shows the word ‘‘mukha’’ to indicate that ‘‘if the āya substitution were to occur, it would be for the fourth case only, not for the sixth’’. And by that, he does not show that ‘‘the āya substitution occurs when a verb expressing the object of giving (sampadāna), such as ‘deti’, is present in the context of the word mukha.’’
Ở đây được nói – Khi nói ‘‘Tại sao lại là cách thứ tư? khuôn mặt của người đàn ông’’, người đó đã chỉ ra từ ‘‘mukhaṃ’’ để cho thấy rằng ‘‘nếu có sự thay thế āya, thì nó chỉ xảy ra ở cách thứ tư, chứ không phải cách thứ sáu’’, và không cho thấy rằng ‘‘sự thay thế āya xảy ra khi có một động từ biểu thị đối tượng của sự ban tặng (sampadāna) như ‘detī’ v.v. ở vị trí của từ mukha’’.
‘‘Ekavacanassāti kimatthaṃ purisānaṃ dadātī’’ti vadantopi ‘‘ekavacanasseva āyādeso hoti, na bahuvacanassā’’ti dasseti.
One who states ‘‘Why 'singular'? He gives to men’’ also shows that ‘‘the āya substitution occurs for the singular only, not for the plural.’’
Ngay cả khi nói ‘‘Tại sao lại là số ít? Ông ấy cho những người đàn ông’’, người đó cũng chỉ cho thấy rằng ‘‘sự thay thế āya chỉ xảy ra ở số ít, chứ không phải ở số nhiều’’.
‘‘Dadātī’’ti idaṃ padaṃ ‘‘purisāna’’nti padassa sampadānavacanattaṃ ñāpetuṃ avoca, na ca ‘‘detītiādike sampadānavisayabhūte kriyāpade sati catutthekavacanassa āyādeso hotī’’ti imamatthaṃ viññāpeti.
The word ‘‘dadāti’’ was spoken to signify the dative case (sampadāna) of the word ‘‘purisānaṃ’’, and it does not convey the meaning that ‘‘when a verb expressing the object of giving (sampadāna), such as ‘deti’, is present, the āya substitution occurs for the fourth case singular.’’
Từ ‘‘dadāti’’ này được nói để làm rõ rằng từ ‘‘purisānaṃ’’ là cách ban tặng (sampadāna), chứ không phải để làm rõ ý nghĩa rằng ‘‘khi có một động từ biểu thị đối tượng của sự ban tặng như ‘detī’ v.v., thì sự thay thế āya xảy ra ở cách thứ tư số ít’’.
‘‘Vāti kimatthaṃ dātā hoti samaṇassa vā brāhmaṇassa vā’’ti ca vadantopi ‘‘sampadāneyeva vikappena āyādeso hotī’’ti viññāpeti, na dānādikriyaṃ paṭicca āyādesavidhānaṃ ñāpeti.
And one who states ‘‘Why 'vā'? He is a giver to a samaṇa or a brāhmaṇa’’ also signifies that ‘‘the āya substitution occurs optionally in the dative case (sampadāna) only’’, it does not indicate the prescription of the āya substitution conditioned by an action such as giving.
Và khi nói ‘‘Tại sao lại là ‘vā’? Ông ấy là người cho một vị Sa-môn hoặc một vị Bà-la-môn’’, người đó cũng làm rõ rằng ‘‘sự thay thế āya xảy ra một cách tùy chọn (vikappena) chỉ trong trường hợp ban tặng (sampadāna)’’, chứ không làm rõ quy định về sự thay thế āya liên quan đến hành động cho đi (dāna) v.v.
1494
Yadi pana dānādikriyaṃ paṭicca āyādesavidhānaṃ siyā, vuttikārakena lakkhaṇassa vuttiyaṃ mūlodāharaṇeyeva ‘‘atthāya hitāyā’’ti tadatthapayogāni viya ‘‘purisāya dīyate’’tiādi vattabbaṃ siyā, na ca vuttaṃ.
If, however, the āya substitution were prescribed conditioned by an action such as giving, then the author of the commentary should have said ‘‘purisāya dīyate’’ and so on, just as he used expressions like ‘‘for the welfare, for the benefit’’ as primary examples in the commentary on the rule; but he did not say so.
Nếu quy định về sự thay thế āya liên quan đến hành động cho đi v.v. là có, thì người tạo ra phần giải thích (vuttikāraka) đáng lẽ phải nói ‘‘purisāya dīyate’’ v.v. trong các ví dụ gốc của quy tắc, giống như đã nói ‘‘atthāya hitāya’’ (vì lợi ích, vì sự an lạc) là các cách biểu thị mục đích (tadatthapayogāni), nhưng điều đó đã không được nói.
Kasmāti ce?
Why is that?
Tại sao ư?
Buddhavacane porāṇaṭṭhakathāsu ca tādisassa payogassa abhāvā.
Because such usage is absent in the Buddha’s teaching and in the ancient commentaries.
Vì không có cách dùng như vậy trong Phật ngôn và các bản chú giải cổ xưa.
Niruttipiṭake hi pabhinnapaṭisambhido so āyasmā mahākaccāno ‘‘purisassa dīyate’’ti āyādesarahitāniyeva rūpāni dasseti, ‘‘atthāyāti sampadānavacana’’nti bhaṇantopi ca thero dānādikriyāpekkhaṃ akatvā catutthekavacanassa āyādesasahitaṃ rūpameva niddisi.
Indeed, in the Nirutti Piṭaka, that venerable Mahākaccāna, who possessed analytical knowledge (paṭisambhidā), shows only forms without the āya substitution, such as ‘‘purisassa dīyate’’. And even when the Elder says ‘‘atthāya is a dative (sampadāna) expression’’, he indicated only the form with the āya substitution for the fourth case singular, without expecting an action such as giving.
Thật vậy, trong Niruttipiṭaka, Tôn giả Mahākaccāna với các tuệ phân tích (paṭisambhidā) đã chỉ ra các dạng từ không có sự thay thế āya như ‘‘purisassa dīyate’’ (được cho người đàn ông); và khi nói ‘‘atthāyāti sampadānavacana’’ (atthāya là cách ban tặng), vị Trưởng lão đã chỉ định dạng từ có sự thay thế āya ở cách thứ tư số ít mà không cần đến hành động cho đi v.v.
Tena so payogo tadatthappayogoti viññāyati.
Therefore, that usage is understood as an expression for that purpose (tadattha).
Do đó, cách dùng đó được hiểu là cách biểu thị mục đích (tadatthappayoga).
Iti imehi kāraṇehi jānitabbaṃ ‘‘dānādikriyaṃ paṭicca āyādesavidhānaṃ na kata’’nti.
Thus, from these reasons, it should be known that ‘‘the āya substitution is not prescribed conditioned by an action such as giving’’.
Vì những lý do này, cần phải biết rằng ‘‘quy định về sự thay thế āya liên quan đến hành động cho đi v.v. đã không được tạo ra’’.
Yajjevaṃ ‘‘atthāya hitāyā’’tiādīniyeva tadatthappayogāni ‘‘āya catutthekavacanassa tū’’ti lakkhaṇassa visayā bhaveyyuṃ, nāññānīti?
If that is the case, then only expressions like ‘‘atthāya, hitāya’’ would be the domain of the rule ‘‘āya for the fourth case singular’’, and not others?
Vậy thì, có phải chỉ những cách biểu thị mục đích như ‘‘atthāya hitāya’’ v.v. mới là đối tượng của quy tắc ‘‘āya (thay cho) cách thứ tư số ít’’, chứ không phải những cái khác?
Tanna, aññānipi visayāyeva tassa.
That is not so; others are also its domain.
Không phải vậy, những cái khác cũng là đối tượng của nó.
Katamāni?
Which ones?
Những cái nào?
‘‘Mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchati, dakāya neti, viramathāyasmanto mamavacanāya, gaṇāya bhattā’’tiādīni.
‘‘Mūlāya paṭikasseyya (may one root out), appo saggāya gacchati (few go to heaven), dakāya neti (he leads to water), viramathāyasmanto mamavacanāya (venerables, desist from my word), gaṇāya bhattā (food for the assembly)’’ and so on.
Đó là ‘‘mūlāya paṭikasseyya (hãy kéo về gốc), appo saggāya gacchati (ít người đi đến cõi trời), dakāya neti (dẫn đến nước), viramathāyasmanto mamavacanāya (chư Tôn giả hãy dừng lại vì lời của tôi), gaṇāya bhattā (thức ăn cho chúng tăng)’’ v.v.
‘‘Saggassa gamanena vā’’tiādīni pana dhikārattā avisayāvāti.
However, expressions like ‘‘saggassa gamanena vā (or by going to heaven)’’ are not its domain because of the optional (vā) context.
Còn những cách dùng như ‘‘saggassa gamanena vā’’ (hoặc bằng việc đi đến cõi trời) v.v. thì không phải là đối tượng vì có quyền hạn của ‘‘vā’’ (hoặc).
1495
Nanu ca bho evaṃ sante vuttikārakena mūlodāharaṇesu ‘‘atthāya hitāya sukhāya devamanussāna’’nti vatvā ‘‘mūlāya paṭikasseyyā’’tiādīnipi vattabbāni, kimudāharaṇe pana ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’ti vattabbanti?
Sir, if that is so, then the author of the commentary, after stating ‘‘atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ’’ in the primary examples, should have also stated ‘‘mūlāya paṭikasseyya’’ and so on. But in the example (kimudāharaṇa), why is it said ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’?
Thưa ngài, nếu vậy, người tạo ra phần giải thích (vuttikāraka) đáng lẽ phải nói thêm ‘‘mūlāya paṭikasseyya’’ v.v. trong các ví dụ gốc sau khi nói ‘‘atthāya hitāya sukhāya devamanussāna’’ (vì lợi ích, vì sự an lạc, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người), tại sao trong ví dụ lại nói ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’ (tại sao lại là ‘vā’? hoặc bằng việc đi đến cõi trời)?
Saccaṃ, avacane kāraṇamatthi, taṃ suṇātha – ‘‘mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchatī’’ti ettha hi ‘‘mūlāya, saggāyā’’ti padāni suddhasampadānavacanāni na honti gatyatthakammani vattanato, tasmā mūlodāharaṇesu na vuttāni.
It is true, there is a reason for not stating them. Listen to it: In ‘‘mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchati’’, the words ‘‘mūlāya, saggāya’’ are not pure dative expressions because they refer to the object of an action of movement. Therefore, they were not stated in the primary examples.
Thật vậy, có lý do cho việc không nói, hãy lắng nghe – Ở đây, trong ‘‘mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchati’’, các từ ‘‘mūlāya, saggāya’’ không phải là cách ban tặng thuần túy vì chúng được dùng trong ý nghĩa của một hành động đi đến (gatyatthakamma), do đó chúng không được nói trong các ví dụ gốc.
Tathā ‘‘dakāya netī’’ti ettha ‘‘dakāyā’’ti padaṃ nayanatthakammani vattanato suddhasampadānavacanaṃ na hotīti na vuttaṃ.
Similarly, in ‘‘dakāya neti’’, the word ‘‘dakāya’’ is not a pure dative expression because it refers to the object of an action of leading, and thus it was not stated.
Tương tự, trong ‘‘dakāya neti’’, từ ‘‘dakāya’’ không phải là cách ban tặng thuần túy vì nó được dùng trong ý nghĩa của một hành động dẫn dắt (nayanatthakamma), nên nó không được nói.
‘‘Viramathāyasmanto mama vacanāyā’’ti ettha pana ‘‘vacanāyā’’ti padaṃ nissakkavacanatthe vattanato, ‘‘gaṇāya bhattā’’ti ettha ‘‘gaṇāyā’’ti padaṃ sāmivacanatthe vattanato, ‘‘asakkatā casma dhanañcayāyā’’ti ettha ‘‘dhanañcayāyā’’ti padaṃ kattuvasena sāmiatthe vattanato suddhasampadānavacanaṃ na hotīti na vuttaṃ.
However, in ‘‘viramathāyasmanto mama vacanāya’’, the word ‘‘vacanāya’’ is not a pure dative expression because it refers to the sense of the ablative case; in ‘‘gaṇāya bhattā’’, the word ‘‘gaṇāya’’ is not a pure dative expression because it refers to the sense of ownership; and in ‘‘asakkatā casma dhanañcayāyā’’, the word ‘‘dhanañcayāya’’ is not a pure dative expression because it refers to the sense of ownership; and thus they were not stated.
Còn trong ‘‘viramathāyasmanto mama vacanāyā’’, từ ‘‘vacanāya’’ được dùng trong ý nghĩa của cách ly cách (nissakka); trong ‘‘gaṇāya bhattā’’, từ ‘‘gaṇāya’’ được dùng trong ý nghĩa của cách sở hữu (sāmivacana); trong ‘‘asakkatā casma dhanañcayāyā’’, từ ‘‘dhanañcayāya’’ được dùng trong ý nghĩa của cách sở hữu (sāmi) ở vị trí của kamma, nên chúng không phải là cách ban tặng thuần túy, do đó không được nói.
Kimudāharaṇepi ‘‘saggassā’’ti padaṃ gamanasaddasannidhānato gatyatthakammani vattanato suddhasampadānavacanaṃ na hotīti ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’ti na vuttaṃ.
In the example (kimudāharaṇa) as well, the word ‘‘saggassa’’ is not a pure dative expression because, due to its proximity to the word gamana (going), it refers to the object of an action of movement; thus, it was not said ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’.
Trong ví dụ ‘‘saggassā’’ cũng không được nói ‘‘vāti kimatthaṃ saggassa gamanena vā’’ vì từ ‘‘saggassa’’ không phải là cách ban tặng thuần túy do nó được dùng trong ý nghĩa của một hành động đi đến (gatyatthakamma) khi đi kèm với từ gamana.
Evañhettha vuttanayena buddhavacanaṃ porāṇaṭṭhakathānayañca patvā catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni gatyatthakammādīsu catūsuyeva ṭhānesu dissanti, na pana dānarocanādibhede yattha katthaci sampadānavisayeti daṭṭhabbaṃ.
Therefore, in this way, in accordance with the method stated in the Buddha’s teaching and the ancient commentaries, forms with the āya substitution for the fourth case singular are seen only in four places: the object of an action of movement and so on. They are not to be found anywhere else in the domain of the dative case (sampadāna), such as giving or pleasing, and so on.
Như vậy, ở đây, theo cách đã nói, phù hợp với Phật ngôn và cách thức của các bản chú giải cổ xưa, các dạng từ có sự thay thế āya ở cách thứ tư số ít chỉ được thấy ở bốn trường hợp: hành động đi đến (gatyatthakamma) v.v., chứ không phải ở bất kỳ đối tượng ban tặng (sampadāna) nào khác như cho đi (dāna) hay làm hài lòng (rocana) v.v.
1496
Nanu ca bho ‘‘candanasāraṃ jeṭṭhikāya adāsi suvaṇṇamālaṃ kaniṭṭhāyā’’ti dānappayoge catutthekavacanassa āyādesasahitarūpadassanato ‘‘rājakaññāya dīyate, rājakaññāya ruccati alaṅkāro, rājakaññāya chattaṃ dhāreti, rājakaññāya namo karohi, rājakaññāya sotthi bhavatu, rājakaññāya silāghate’’tiādīhipi payogehi bhavitabbaṃ, atha kasmā ‘‘buddhavacanaṃ porāṇaṭṭhakathānayañca patvā catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni gatyatthakammādīsu catūsuyeva ṭhānesu dissanti, na pana dānarocanādibhede yattha katthaci sampadānavisaye’’ti vadathāti?
Sir, is it not the case that since we see a form with the āya substitution for the fourth case singular in the context of giving, as in ‘‘candanasāraṃ jeṭṭhikāya adāsi suvaṇṇamālaṃ kaniṭṭhāyā’’ (he gave sandalwood essence to the elder sister, a golden garland to the younger sister), there should also be usages like ‘‘rājakaññāya dīyate (it is given to the princess), rājakaññāya ruccati alaṅkāro (the ornament pleases the princess), rājakaññāya chattaṃ dhāreti (he holds an umbrella for the princess), rājakaññāya namo karohi (bow to the princess), rājakaññāya sotthi bhavatu (may there be well-being for the princess), rājakaññāya silāghate (he praises the princess)’’? Why then do you say: ‘‘in accordance with the method stated in the Buddha’s teaching and the ancient commentaries, forms with the āya substitution for the fourth case singular are seen only in four places: the object of an action of movement and so on. They are not to be found anywhere else in the domain of the dative case (sampadāna), such as giving or pleasing, and so on’’?
Thưa ngài, chẳng phải khi thấy dạng từ có sự thay thế āya ở cách thứ tư số ít trong cách dùng ban tặng như ‘‘candanasāraṃ jeṭṭhikāya adāsi suvaṇṇamālaṃ kaniṭṭhāyā’’ (cho chị gái tinh dầu đàn hương, cho em gái vòng hoa vàng), thì cũng phải có các cách dùng như ‘‘rājakaññāya dīyate (được cho công chúa), rājakaññāya ruccati alaṅkāro (trang sức làm hài lòng công chúa), rājakaññāya chattaṃ dhāreti (giữ lọng cho công chúa), rājakaññāya namo karohi (hãy đảnh lễ công chúa), rājakaññāya sotthi bhavatu (cầu mong công chúa được an lành), rājakaññāya silāghate (được khen ngợi bởi công chúa)’’ v.v., vậy tại sao ngài lại nói ‘‘phù hợp với Phật ngôn và cách thức của các bản chú giải cổ xưa, các dạng từ có sự thay thế āya ở cách thứ tư số ít chỉ được thấy ở bốn trường hợp: hành động đi đến (gatyatthakamma) v.v., chứ không phải ở bất kỳ đối tượng ban tặng (sampadāna) nào khác như cho đi (dāna) hay làm hài lòng (rocana)’’?
Uppathamavatiṇṇo bhavaṃ, na hi bhavaṃ amhākaṃ vacanatthaṃ jānāti.
You have gone astray, sir; indeed, you do not understand the meaning of our words.
Ngài đã đi lạc đề, vì ngài không hiểu ý nghĩa lời nói của chúng tôi.
Ayañhettha amhākaṃ vacanattho – sabbānipi itthiliṅgāni ekavacanavasena tatiyācatutthīpañcamīchaṭṭhīsattamīṭhānesu samasamāni honti, appāni asamāni, tasmā tāni ṭhapetvā pulliṅganapuṃsakaliṅgesu purisādi cittādisaddānaṃ akārantapakatibhāve ṭhitānaṃ catutthekavacanassa āyādesasahitāni rūpāni buddhavacanādīsu dānarocanādibhede yattha katthaci sampadānavisaye na dissanti.
Here is the meaning of our words: All feminine nouns, in the singular, are identical in the third, fourth, fifth, sixth, and seventh cases; few are not identical. Therefore, excluding those, in masculine and neuter nouns whose root ends in a, such as purisa and citta, forms with the āya substitution for the fourth case singular are not seen in the Buddha’s teaching and so on, in any context of the dative case (sampadāna), such as giving or pleasing.
Đây là ý nghĩa lời nói của chúng tôi – Tất cả các từ giống cái ở số ít đều giống nhau ở các cách thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu và thứ bảy; chỉ có một số ít là không giống nhau. Do đó, trừ những trường hợp đó ra, trong các từ giống đực và giống trung có tận cùng là ‘a’ như purisa v.v. và citta v.v., các dạng từ có sự thay thế āya ở cách thứ tư số ít không được thấy trong Phật ngôn v.v. ở bất kỳ đối tượng ban tặng nào như cho đi (dāna) hay làm hài lòng (rocana) v.v.
Teneva hi ‘‘mūlāya, saggāya, dakāya, vacanāya, gaṇāyā’’tiādīni gatyatthakammādīsu tīsu ‘‘abhiññāya, sambodhāya, nibbānāyā’’ti evamādīni pana anekasatāni tiliṅgapadāni tadattheyevāti imesu catūsu ṭhānesu dissanti.
For this very reason, forms like ‘‘mūlāya, saggāya, dakāya, vacanāya, gaṇāya’’ and so on are seen in the three contexts like the object of an action of movement, and hundreds of other words of the three genders like ‘‘abhiññāya (for direct knowledge), sambodhāya (for complete enlightenment), nibbānāya (for Nibbāna)’’ are seen only in the context of "for that purpose" (tadattha); thus, they are seen in these four places.
Chính vì thế mà các từ như ‘‘mūlāya, saggāya, dakāya, vacanāya, gaṇāya’’ v.v. được thấy ở ba trường hợp: hành động đi đến (gatyatthakamma) v.v., còn hàng trăm từ thuộc ba giống như ‘‘abhiññāya (vì thắng trí), sambodhāya (vì giác ngộ), nibbānāya (vì Niết Bàn)’’ v.v. thì chỉ được thấy ở trường hợp biểu thị mục đích (tadatthayeva) – tức là ở bốn trường hợp này.
‘‘Deti, rocati, dhāretī’’tiādīsu pana suddhasampadānavisayesu na dissanti.
But they are not seen in contexts of pure dative, such as in ‘gives’, ‘pleases’, ‘holds’, and so on.
Nhưng chúng không được thấy trong các trường hợp chỉ về sampadāna thuần túy như "cho, thích, giữ" v.v.
Bhavanti catra –
And here are the verses:
Và ở đây có những câu sau:
1497
Catutthekavacanassa, āyādesena saṃyutaṃ;
The dative singular, connected with the substitution of āyā;
Của số ít cách thứ tư, được kết hợp với sự thay thế āya;
1498
Rūpaṃ anitthiliṅgānaṃ, ṭhānesu catusuṭṭhitaṃ.
The form for non-feminine nouns is established in four places.
Hình thái của các danh từ không phải giống cái, đứng ở bốn vị trí.
1499
Gatyatthakammani ceva, nayanatthassa kammani;
In the object of verbs of motion, and in the object of verbs of leading;
Trong hành động có nghĩa đi, và trong hành động có nghĩa dẫn;
1500
Vibhattiyā vipallāse, tadatthe cāti niddise.
In the inversion of case endings, and in that meaning, it is stated.
Trong sự hoán đổi cách, và trong nghĩa đó – nên được chỉ ra.
1501
‘‘Mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchati’’;
“He might regress to the root, few go to heaven”;
"Mūlāya paṭikasseyya, appo saggāya gacchati" (Nên kéo về gốc rễ, ít người đi đến cõi trời);
1502
Evaṃ gatyatthakammasmiṃ, diṭṭhamamhehi sāsane.
Thus, in the object of verbs of motion, we have seen this in the Canon.
Như vậy trong hành động có nghĩa đi, chúng tôi đã thấy trong Giáo pháp.
1503
‘‘Dakāya neti’’ iccevaṃ, nayanatthassa kammani;
“He leads for water,” thus in the object of verbs of leading;
"Dakāya neti" (Dẫn đến nước) – như vậy trong hành động có nghĩa dẫn;
1504
‘‘Vacanāyā’’ti nissakke, viramaṇappayogato.
In “vacanāyā” (for the sake of speech), due to the application of cessation.
"Vacanāyā" (Vì lời nói) – từ sự sử dụng của sự từ bỏ.
1505
‘‘Gaṇāya’’iti sāmismiṃ, ‘‘bhattā’’ti saddayogato;
In “gaṇāya” (for the assembly), when indicating possession, due to the connection with the word “bhattā” (master);
"Gaṇāya" (Đối với nhóm) – từ sự kết hợp với danh từ "sāmismim" (có chủ sở hữu); "bhattā" (chồng);
1506
‘‘Dhanañcayāyā’’ti padaṃ, kattutthe sāmisūcakaṃ.
The word “dhanañcayāyā” (for Dhanañcaya) indicates possession in the sense of an agent.
Từ "Dhanañcayāya" (Đối với người tích lũy tài sản) – chỉ người sở hữu trong nghĩa chủ ngữ.
1507
‘‘Asakkatā’’ti saddassa, yogatoti viniddise;
Due to the connection with the word “asakkatā” (disrespected), it should be stated;
"Asakkatā" (Không được tôn kính) – nên được chỉ ra từ sự kết hợp với danh từ;
1508
Añño cāpi vipallāso, maggitabbo vibhāvinā.
Any other inversion should be sought out by one who investigates.
Và một sự hoán đổi khác cũng nên được người phân tích tìm kiếm.
1509
‘‘Abhiññāya sambodhāya, nibbānāyā’’timāni tu;
But these: “for higher knowledge, for awakening, for Nibbāna”;
"Abhiññāya, sambodhāya, nibbānāyā" (Để thắng tri, để giác ngộ, để Niết Bàn) – những từ này;
1510
Liṅgattayavaseneva, tadatthasmiṃ viniddise.
These should be stated in that meaning, according to their respective genders.
Nên được chỉ ra trong nghĩa đó tùy theo ba giống.
1511
Evaṃ pāṭhānulomena, kathito āyasambhavo;
Thus, the occurrence of āya has been explained in accordance with the text;
Như vậy, sự phát sinh của āya đã được nói theo thứ tự của văn bản;
1512
Idantu sukhumaṃ ṭhānaṃ, cintetabbaṃ punappunaṃ.
This subtle point, however, should be pondered again and again.
Nhưng đây là một điểm tinh tế, nên được suy tư lặp đi lặp lại.
1513
Okārantavaseneva, nānānayasumaṇḍitā;
The word-list of the Great Sage, adorned with various methods through the o-ending,
Chỉ tùy theo các danh từ tận cùng bằng o, được trang điểm bằng nhiều phương pháp;
1514
Padamālā mahesissa, sāsanatthaṃ pakāsitā.
Has been illuminated for the sake of the Teaching.
Chuỗi danh từ của bậc Đại Sĩ đã được công bố vì lợi ích của Giáo pháp.
1515
Imamatimadhurañce cittikatvā suṇeyyuṃ,
If virtuous ones would listen to this very sweet and artistic work,
Nếu các bậc thiện trí lắng nghe, xem xét kỹ lưỡng ngữ pháp này,
1516
Vividhanayavicittaṃ sādhavo saddanītiṃ;
This grammar, variegated with diverse methods;
Được trang trí bằng nhiều phương pháp đa dạng, rất ngọt ngào;
1517
Jinavaravacanete saddato jātakaṅkhaṃ,
Then they would indeed perfectly cut through the doubt that has arisen from faith in the words of the Supreme Buddha,
Họ sẽ chặt đứt hoàn toàn sự nghi ngờ phát sinh từ lòng tin vào lời của bậc Chiến Thắng,
1518
Kumudamiva’sinā ve suṭṭhu chindeyyumettha.
Just as with a sword, in this very place, a lotus.
Giống như một bông hoa súng bị chặt đứt bởi thanh kiếm.
1519
Iti navaṅge sāṭṭhakathe piṭakattaye byappathagatīsu viññūnaṃ
*Thus, in the Saddanīti treatise, composed for the proficiency of discerning ones in the triple Piṭaka, with commentaries,
Như vậy, trong bộ sách Saddanīti, được biên soạn nhằm mục đích giúp các bậc trí
1520
Kosallatthāya kate saddanītippakaraṇe
Regarding the various usages of words,
có kỹ năng trong các phương thức ngữ pháp của Tam Tạng với các phần giải thích và chín chi pháp,
1521
Savinicchayo okārantapulliṅgānaṃ pakatirūpassa
The section on the natural forms of masculine nouns ending in o, with decision,
phần phân loại chuỗi danh từ của các danh từ giống đực tận cùng bằng o,
1522
Nāmikapadamālāvibhāgo nāma
Is called the fifth chapter,
có hình thái gốc với sự phân tích,
1523
Pañcamo paricchedo.
The arrangement of nominal word-lists.
là chương thứ năm.
1524
Akāra ntokārantatāpakatika okārantapulliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
The masculine nouns ending in -o that are derived from -a and -o are concluded.
Akāra-nto-kārantatāpakatika-o-kārantapulliṅgaṃ niṭṭhitaṃ.
Next Page →