38. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi.
38. “There are, bhikkhus, some ascetics and brahmins who are partial eternalists and partial non-eternalists, who proclaim some things to be eternal and some things to be non-eternal, regarding the self and the world, on four grounds.
38. “Này chư Tỳ-khưu, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố về tự ngã và thế giới là thường hằng một phần và vô thường một phần, dựa trên bốn điểm.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi?
And venerable ascetics and brahmins, based on what, starting from what, do these partial eternalists and partial non-eternalists proclaim some things to be eternal and some things to be non-eternal, regarding the self and the world, on four grounds?
Và này chư Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn đó, dựa vào điều gì, lấy điều gì làm căn cứ mà tuyên bố về tự ngã và thế giới là thường hằng một phần và vô thường một phần, dựa trên bốn điểm?
39. ‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo, yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko saṃvaṭṭati.
39. “There comes a time, bhikkhus, when, sooner or later, after a long period, this world contracts.
39. “Này chư Tỳ-khưu, có một thời điểm nào đó, sau một thời gian rất dài, thế giới này hoại diệt.
Saṃvaṭṭamāne loke yebhuyyena sattā ābhassarasaṃvattanikā honti.
When the world is contracting, beings are for the most part born in the Ābhassara Brahma-world.
Khi thế giới hoại diệt, hầu hết chúng sinh đều tái sinh vào cõi Ábhassara (Quang Âm Thiên).
Te tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.
There they are mind-made, feeding on rapture, self-luminous, moving through the air, glorious, and they remain there for a very long time.
Ở đó, họ là những chúng sinh do ý tạo, sống bằng hỷ, tự mình phát sáng, di chuyển trong không trung, an trú trong sự tốt đẹp, và tồn tại trong một thời gian dài.
40. ‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo, yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko vivaṭṭati.
40. “There comes a time, bhikkhus, when, sooner or later, after a long period, this world expands.
40. “Này chư Tỳ-khưu, có một thời điểm nào đó, sau một thời gian rất dài, thế giới này thành lập trở lại.
Vivaṭṭamāne loke suññaṃ brahmavimānaṃ pātubhavati.
When the world is expanding, an empty Brahma-mansion appears.
Khi thế giới thành lập trở lại, một cung điện Phạm thiên trống rỗng xuất hiện.
Atha kho aññataro satto āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṃ brahmavimānaṃ upapajjati.
Then a certain being, either due to the exhaustion of his lifespan or the exhaustion of his merit, falls from the Ābhassara Brahma-world and reappears in the empty Brahma-mansion.
Sau đó, một chúng sinh nào đó, do hết tuổi thọ hoặc hết phước báu từ cõi Ábhassara, chết đi và tái sinh vào cung điện Phạm thiên trống rỗng đó.
So tattha hoti manomayo pītibhakkho sayaṃpabho antalikkhacaro subhaṭṭhāyī, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhati.
There he is mind-made, feeding on rapture, self-luminous, moving through the air, glorious, and he remains there for a very long time.
Ở đó, vị ấy là chúng sinh do ý tạo, sống bằng hỷ, tự mình phát sáng, di chuyển trong không trung, an trú trong sự tốt đẹp, và tồn tại trong một thời gian dài.
41. ‘‘Tassa tattha ekakassa dīgharattaṃ nivusitattā anabhirati paritassanā upapajjati – ‘aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyu’nti.
41. “Because he has dwelt there alone for a long time, discontent and distress arise in him: ‘Oh, if only other beings would come to this state!’
41. “Vì sống một mình trong một thời gian dài ở đó, vị ấy cảm thấy không vui, cảm thấy bồn chồn, và sinh ra ý nghĩ: ‘Ước gì có những chúng sinh khác đến đây với ta!’
Atha aññepi sattā āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā brahmavimānaṃ upapajjanti tassa sattassa sahabyataṃ.
Then other beings, either due to the exhaustion of their lifespan or the exhaustion of their merit, fall from the Ābhassara Brahma-world and reappear in the Brahma-mansion, joining that being.
Sau đó, những chúng sinh khác, do hết tuổi thọ hoặc hết phước báu từ cõi Ábhassara, chết đi và tái sinh vào cung điện Phạm thiên, làm bạn với chúng sinh đó.
Tepi tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.
They too are mind-made, feeding on rapture, self-luminous, moving through the air, glorious, and they remain there for a very long time.
Họ cũng là những chúng sinh do ý tạo, sống bằng hỷ, tự mình phát sáng, di chuyển trong không trung, an trú trong sự tốt đẹp, và tồn tại trong một thời gian dài.
42. ‘‘Tatra, bhikkhave, yo so satto paṭhamaṃ upapanno tassa evaṃ hoti – ‘ahamasmi brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā* vasī pitā bhūtabhabyānaṃ.
42. “Among these, bhikkhus, the being who first reappeared thinks: ‘I am Brahmā, the Great Brahmā, the Conqueror, the Unconquered, the All-Seeing, the Wielder of power, the Lord, the Maker, the Creator, the Chief, the Ordainer, the Master, the Father of all that has been and will be.
42. “Trong số đó, này chư Tỳ-khưu, chúng sinh đầu tiên tái sinh có suy nghĩ như sau: ‘Ta là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, bậc chinh phục, không bị chinh phục, bậc nhìn thấy tất cả, bậc quyền năng, Chúa tể, Đấng tạo hóa, Đấng sáng tạo, Đấng tối thượng, Đấng sắp đặt, bậc chủ tể, là cha của tất cả chúng sinh đã và sẽ sinh ra’.
Mayā ime sattā nimmitā.
These beings have been created by me.
‘Những chúng sinh này do ta tạo ra’.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao vậy?
Mamañhi pubbe etadahosi – ‘‘aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyu’’nti.
For truly, this thought occurred to me previously: "Oh, if only other beings would also come to this state!"
Quả thật, trước đây ta đã có ý nghĩ này – “Ôi, ước gì những chúng sanh khác cũng đến được trạng thái này!”
Iti mama ca manopaṇidhi, ime ca sattā itthattaṃ āgatā’ti.
Thus, this mental aspiration of mine, and these beings have come to this state.
Thế nên, đây là tâm nguyện của ta, và những chúng sanh này đã đến được trạng thái này.
‘‘Yepi te sattā pacchā upapannā, tesampi evaṃ hoti – ‘ayaṃ kho bhavaṃ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṃ.
"Those beings who were born later, for them too this thought occurs: 'This Venerable Brahma is the Great Brahma, the conqueror, the unconquered, the all-seeing, the controller, the lord, the maker, the creator, the best, the ordainer, the master, the father of all that has been and will be.
Và những chúng sanh nào sinh sau, họ cũng có ý nghĩ như vầy: ‘Thật vậy, vị Phạm thiên tôn kính này là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, Đấng Toàn Thắng, Bất Bại, Đấng Toàn Tri, Đấng Quyền Năng, Đấng Chúa Tể, Đấng Tạo Tác, Đấng Hóa Sinh, Đấng Tối Thượng, Đấng Sáng Tạo, Đấng Chỉ Huy, Cha của tất cả chúng sanh đã và sẽ có.
Iminā mayaṃ bhotā brahmunā nimmitā.
We were created by this Venerable Brahma.
Chúng ta đã được vị Phạm thiên tôn kính này tạo ra.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Imañhi mayaṃ addasāma idha paṭhamaṃ upapannaṃ, mayaṃ panamha pacchā upapannā’ti.
Because we saw him born here first, but we were born later.'
Vì chúng ta đã thấy vị ấy sinh ra trước ở đây, còn chúng ta thì sinh ra sau’.
44. ‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati, yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.
44. "It is possible, bhikkhus, that a certain being, having passed away from that realm, comes to this human state.
44. Này các Tỳ-khưu, có trường hợp một chúng sanh nào đó sau khi mạng chung từ cõi ấy, tái sinh vào cõi này.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
Having come to this human state, he goes forth from the household life into homelessness.
Khi đã đến cõi này, vị ấy rời bỏ gia đình để sống không gia đình (xuất gia).
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati.
Having gone forth from the household life into homelessness, by following ardour, by following exertion, by following application, by following diligence, by following right attention, he attains such a concentration of mind that, with his mind thus concentrated, he recollects that previous existence, but he does not recollect beyond that.
Sau khi đã xuất gia, vị ấy sống tinh tấn, nỗ lực, chuyên cần, không phóng dật, tác ý chân chánh, và đạt được một loại định tâm như vậy, nhờ định tâm ấy, vị ấy nhớ lại một kiếp sống quá khứ đó, nhưng không nhớ xa hơn.
‘‘So evamāha – ‘yo kho so bhavaṃ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṃ, yena mayaṃ bhotā brahmunā nimmitā, so nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassati.
"He says this: 'That Venerable Brahma, the Great Brahma, the conqueror, the unconquered, the all-seeing, the controller, the lord, the maker, the creator, the best, the ordainer, the master, the father of all that has been and will be, by whom we were created, he is permanent, stable, eternal, not subject to change, and will remain just so for eternity.
Vị ấy nói như vầy: ‘Vị Phạm thiên tôn kính đó là Phạm thiên, Đại Phạm thiên, Đấng Toàn Thắng, Bất Bại, Đấng Toàn Tri, Đấng Quyền Năng, Đấng Chúa Tể, Đấng Tạo Tác, Đấng Hóa Sinh, Đấng Tối Thượng, Đấng Sáng Tạo, Đấng Chỉ Huy, Cha của tất cả chúng sanh đã và sẽ có, Đấng mà chúng ta đã được tạo ra bởi vị Phạm thiên tôn kính đó, vị ấy là thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, không biến đổi, sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.
Ye pana mayaṃ ahumhā tena bhotā brahmunā nimmitā, te mayaṃ aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā’ti.
But we, who were created by that Venerable Brahma, are impermanent, unstable, short-lived, subject to passing away, and have come to this human state.'
Còn chúng ta, những người đã được vị Phạm thiên tôn kính đó tạo ra, chúng ta là vô thường, không kiên cố, tuổi thọ ngắn ngủi, có tính chất hoại diệt, đã đến cõi này’.
Idaṃ kho, bhikkhave, paṭhamaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti.
This, bhikkhus, is the first ground on account of which, by relying on which, some ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal.
Này các Tỳ-khưu, đây là trường hợp thứ nhất, dựa vào đó, một số Sa-môn và Bà-la-môn tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường.
45. ‘‘Dutiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti?
45. "And on what ground, by relying on what, do these good ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal, for a second reason?
45. Này các Sa-môn và Bà-la-môn tôn kính, dựa vào đâu, dựa vào điều gì mà các vị tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường?
Santi, bhikkhave, khiḍḍāpadosikā nāma devā, te ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā* viharanti.
There are, bhikkhus, devas called Khiḍḍāpadosikā, Playfully-Corrupted Devas; they dwell excessively indulging in play, amusement, and enjoyment.
Này các Tỳ-khưu, có những vị trời tên là Khiḍḍāpadosikā (Phóng dật quá độ), họ sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí.
Tesaṃ ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati sammussati* .
While they dwell excessively indulging in play, amusement, and enjoyment, their mindfulness becomes confused.
Khi họ sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí, chánh niệm của họ bị lãng quên.
Satiyā sammosā te devā tamhā kāyā cavanti.
Through the confusion of mindfulness, those devas pass away from that realm.
Do chánh niệm bị lãng quên, những vị trời ấy mạng chung từ cõi ấy.
46. ‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.
46. "It is possible, bhikkhus, that a certain being, having passed away from that realm, comes to this human state.
46. Này các Tỳ-khưu, có trường hợp một chúng sanh nào đó sau khi mạng chung từ cõi ấy, tái sinh vào cõi này.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
Having come to this human state, he goes forth from the household life into homelessness.
Khi đã đến cõi này, vị ấy rời bỏ gia đình để sống không gia đình (xuất gia).
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati.
Having gone forth from the household life into homelessness, by following ardour, by following exertion, by following application, by following diligence, by following right attention, he attains such a concentration of mind that, with his mind thus concentrated, he recollects that previous existence, but he does not recollect beyond that.
Sau khi đã xuất gia, vị ấy sống tinh tấn, nỗ lực, chuyên cần, không phóng dật, tác ý chân chánh, và đạt được một loại định tâm như vậy, nhờ định tâm ấy, vị ấy nhớ lại một kiếp sống quá khứ đó, nhưng không nhớ xa hơn.
‘‘So evamāha – ‘ye kho te bhonto devā na khiḍḍāpadosikā, te na ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharanti.
"He says this: 'Those Venerable devas who are not Khiḍḍāpadosikā, they do not dwell excessively indulging in play, amusement, and enjoyment.
Vị ấy nói như vầy: ‘Những vị trời tôn kính đó không phải là Khiḍḍāpadosikā (Phóng dật quá độ), họ không sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí.
Tesaṃ na ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati na sammussati.
For them, while they do not dwell excessively indulging in play, amusement, and enjoyment, their mindfulness does not become confused.
Khi họ không sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí, chánh niệm của họ không bị lãng quên.
Satiyā asammosā te devā tamhā kāyā na cavanti; niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassanti.
Through the non-confusion of mindfulness, those devas do not pass away from that realm; they are permanent, stable, eternal, not subject to change, and will remain just so for eternity.
Do chánh niệm không bị lãng quên, những vị trời ấy không mạng chung từ cõi ấy; họ là thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, không biến đổi, sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.
Ye pana mayaṃ ahumhā khiḍḍāpadosikā, te mayaṃ ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharimhā.
But we, who were Khiḍḍāpadosikā, we dwelt excessively indulging in play, amusement, and enjoyment.
Còn chúng ta, những người đã là Khiḍḍāpadosikā (Phóng dật quá độ), chúng ta đã sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí.
Tesaṃ no ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati sammussati.
For us, while we dwelt excessively indulging in play, amusement, and enjoyment, our mindfulness became confused.
Khi chúng ta sống quá đà trong sự vui chơi và giải trí, chánh niệm của chúng ta bị lãng quên.
Satiyā sammosā evaṃ mayaṃ tamhā kāyā cutā aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā’ti.
Through the confusion of mindfulness, having passed away from that realm, we are impermanent, unstable, short-lived, subject to passing away, and have come to this human state.'
Do chánh niệm bị lãng quên, chúng ta đã mạng chung từ cõi ấy, là vô thường, không kiên cố, tuổi thọ ngắn ngủi, có tính chất hoại diệt, đã đến cõi này’.
Idaṃ, bhikkhave, dutiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti.
This, bhikkhus, is the second ground on account of which, by relying on which, some ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal.
Này các Tỳ-khưu, đây là trường hợp thứ hai, dựa vào đó, một số Sa-môn và Bà-la-môn tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường.
47. ‘‘Tatiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti?
47. "And on what ground, by relying on what, do these good ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal, for a third reason?
47. Này các Sa-môn và Bà-la-môn tôn kính, dựa vào đâu, dựa vào điều gì mà các vị tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường?
Santi, bhikkhave, manopadosikā nāma devā, te ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyanti.
There are, bhikkhus, devas called Manopadosikā, Mind-Corrupted Devas; they gaze at each other excessively.
Này các Tỳ-khưu, có những vị trời tên là Manopadosikā (Tâm ô nhiễm), họ quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm.
Te ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsenti.
As they gaze at each other excessively, they corrupt their minds towards each other.
Khi họ quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm, họ làm ô nhiễm tâm của nhau.
Te aññamaññaṃ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā.
With their minds corrupted towards each other, their bodies become weary and their minds become weary.
Khi tâm của họ bị ô nhiễm lẫn nhau, thân thể họ mệt mỏi, tâm trí họ mệt mỏi.
Te devā tamhā kāyā cavanti.
Those devas pass away from that realm.
Những vị trời ấy mạng chung từ cõi ấy.
48. ‘‘Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.
48. "It is possible, bhikkhus, that a certain being, having passed away from that realm, comes to this human state.
48. Này các Tỳ-khưu, có trường hợp một chúng sanh nào đó sau khi mạng chung từ cõi ấy, tái sinh vào cõi này.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
Having come to this human state, he goes forth from the household life into homelessness.
Khi đã đến cõi này, vị ấy rời bỏ gia đình để sống không gia đình (xuất gia).
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati.
Having gone forth from the household life into homelessness, by following ardour, by following exertion, by following application, by following diligence, by following right attention, he attains such a concentration of mind that, with his mind thus concentrated, he recollects that previous existence, but he does not recollect beyond that.
Sau khi đã xuất gia, vị ấy sống tinh tấn, nỗ lực, chuyên cần, không phóng dật, tác ý chân chánh, và đạt được một loại định tâm như vậy, nhờ định tâm ấy, vị ấy nhớ lại một kiếp sống quá khứ đó, nhưng không nhớ xa hơn.
‘‘So evamāha – ‘ye kho te bhonto devā na manopadosikā, te nātivelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyanti.
"He says this: 'Those Venerable devas who are not Manopadosikā, they do not gaze at each other excessively.
Vị ấy nói như vầy: ‘Những vị trời tôn kính đó không phải là Manopadosikā (Tâm ô nhiễm), họ không quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm.
Te nātivelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni nappadūsenti.
As they do not gaze at each other excessively, they do not corrupt their minds towards each other.
Khi họ không quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm, họ không làm ô nhiễm tâm của nhau.
Te aññamaññaṃ appaduṭṭhacittā akilantakāyā akilantacittā.
With their minds uncorrupted towards each other, their bodies are not weary and their minds are not weary.
Khi tâm của họ không bị ô nhiễm lẫn nhau, thân thể họ không mệt mỏi, tâm trí họ không mệt mỏi.
Te devā tamhā kāyā na cavanti, niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassanti.
Those devas do not pass away from that realm; they are permanent, stable, eternal, not subject to change, and will remain just so for eternity.
Những vị trời ấy không mạng chung từ cõi ấy, họ là thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, không biến đổi, sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.
Ye pana mayaṃ ahumhā manopadosikā, te mayaṃ ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyimhā.
But we, who were Manopadosikā, we gazed at each other excessively.
Còn chúng ta, những người đã là Manopadosikā (Tâm ô nhiễm), chúng ta đã quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm.
Te mayaṃ ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsimhā, te mayaṃ aññamaññaṃ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā.
As we gazed at each other excessively, we corrupted our minds towards each other; with our minds corrupted towards each other, our bodies became weary and our minds became weary.
Khi chúng ta quá đà trong việc nhìn nhau chằm chằm, chúng ta đã làm ô nhiễm tâm của nhau, khi tâm của chúng ta bị ô nhiễm lẫn nhau, thân thể chúng ta mệt mỏi, tâm trí chúng ta mệt mỏi.
Evaṃ mayaṃ tamhā kāyā cutā aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā’ti.
Having thus passed away from that realm, we are impermanent, unstable, short-lived, subject to passing away, and have come to this human state.'
Thế nên, chúng ta đã mạng chung từ cõi ấy, là vô thường, không kiên cố, tuổi thọ ngắn ngủi, có tính chất hoại diệt, đã đến cõi này’.
Idaṃ, bhikkhave, tatiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti.
This, bhikkhus, is the third ground on account of which, by relying on which, some ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal.
Này các Tỳ-khưu, đây là trường hợp thứ ba, dựa vào đó, một số Sa-môn và Bà-la-môn tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường.
49. ‘‘Catutthe ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti?
49. "And on what ground, by relying on what, do these good ascetics and brahmins proclaim some things as eternal and some things as not eternal, and proclaim the self and the world as partly eternal and partly not eternal, for a fourth reason?
49. Này các Sa-môn và Bà-la-môn tôn kính, dựa vào đâu, dựa vào điều gì mà các vị tuyên bố một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố tự ngã và thế giới một phần thường hằng, một phần vô thường?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā takkī hoti vīmaṃsī.
Here, bhikkhus, a certain ascetic or brahmin is a reasoner, an investigator.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một số Sa-môn hoặc Bà-la-môn là người suy luận, người khảo sát.
So takkapariyāhataṃ vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ evamāha – ‘yaṃ kho idaṃ vuccati cakkhuṃ itipi sotaṃ itipi ghānaṃ itipi jivhā itipi kāyo itipi, ayaṃ attā anicco addhuvo asassato vipariṇāmadhammo.
Struck by reasoning, followed by investigation, well-arisen by his own immediate understanding, he says thus: ‘Whatever is called eye, or ear, or nose, or tongue, or body—this self is impermanent, unstable, non-eternal, and subject to change.
Vị ấy, bị lý luận thúc đẩy, bị suy xét theo dõi, tự mình phát minh ra như sau: ‘Cái được gọi là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân này, cái tự ngã (attā) này là vô thường (anicca), không bền vững (addhuva), không thường còn (asassata), có tính chất biến đổi (vipariṇāmadhamma).
Yañca kho idaṃ vuccati cittanti vā manoti vā viññāṇanti vā ayaṃ attā nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassatī’ti.
But whatever is called mind, or intellect, or consciousness—this self is permanent, stable, eternal, not subject to change; it will remain just so for eternity.’
Còn cái được gọi là tâm (citta) hay ý (mano) hay thức (viññāṇa) này, cái tự ngã này là thường còn (nicca), bền vững (dhuva), vĩnh cửu (sassata), không có tính chất biến đổi (avipariṇāmadhamma), sẽ tồn tại như vậy mãi mãi’.
Idaṃ, bhikkhave, catutthaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti.
This, bhikkhus, is the fourth basis, by relying on which, by seizing upon which, some recluses and brahmins declare the self and the world to be partly eternal and partly non-eternal.
Này các Tỳ-khưu, đây là lập trường thứ tư mà một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào, vin vào để tuyên bố về tự ngã và thế giới là một phần thường còn, một phần không thường còn.
50. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi.
50. “It is by these four bases, bhikkhus, that those recluses and brahmins, who declare the self and the world to be partly eternal and partly non-eternal, make their declarations.
50. “Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy, những người tuyên bố tự ngã và thế giới là một phần thường còn, một phần không thường còn, đã tuyên bố như vậy dựa trên bốn căn cứ này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti, sabbe te imeheva catūhi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena; natthi ito bahiddhā.
For whatsoever recluses or brahmins declare the self and the world to be partly eternal and partly non-eternal, all of them do so by these four bases, or by one or another of them; there is nothing apart from these.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào tuyên bố tự ngã và thế giới là một phần thường còn, một phần không thường còn, tất cả đều dựa trên bốn căn cứ này, hoặc một trong số đó; không có căn cứ nào khác ngoài những điều này.
51. ‘‘Tayidaṃ, bhikkhave, tathāgato pajānāti – ‘ime diṭṭhiṭṭhānā evaṃgahitā evaṃparāmaṭṭhā evaṃgatikā bhavanti evaṃabhisamparāyā’ti.
51. “This, bhikkhus, the Tathāgata understands: ‘These standpoints, thus grasped, thus adhered to, will lead to such a destiny, to such a future.’
51. “Này các Tỳ-khưu, Như Lai biết rõ điều này: ‘Những quan điểm này, khi được chấp giữ như vậy, khi được bám víu như vậy, sẽ dẫn đến những cảnh giới như vậy, sẽ có những hậu quả như vậy trong đời sau’.
Tañca tathāgato pajānāti, tato ca uttaritaraṃ pajānāti, tañca pajānanaṃ na parāmasati, aparāmasato cassa paccattaññeva nibbuti viditā.
This the Tathāgata understands, and he understands what is higher than this, and that understanding he does not grasp. With his non-grasping, he knows the liberation within himself.
Như Lai biết rõ điều đó, và biết rõ hơn thế nữa, nhưng Như Lai không bám víu vào sự hiểu biết đó, và đối với người không bám víu, sự giải thoát (nibbuti) được biết rõ đối với chính mình.
Vedanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādāvimutto, bhikkhave, tathāgato.
Having understood as they really are the arising, the passing away, the gratification, the danger, and the escape from feelings, the Tathāgata, bhikkhus, is liberated without clinging.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai là người đã giải thoát (vimutta) không chấp thủ (anupādā), sau khi đã biết rõ đúng như thật về sự khởi lên, sự diệt đi, vị ngọt (assāda), sự nguy hiểm (ādīnava) và sự xuất ly (nissaraṇa) của các cảm thọ (vedanā).
52. ‘‘Ime kho te, bhikkhave, dhammā gambhīrā duddasā duranubodhā santā paṇītā atakkāvacarā nipuṇā paṇḍitavedanīyā, ye tathāgato sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
52. “These, bhikkhus, are the teachings that are profound, hard to see, hard to comprehend, peaceful, sublime, beyond the sphere of logical thought, subtle, to be experienced by the wise, which the Tathāgata, having realized and directly known by himself, expounds, by means of which those who speak rightly in praise of the Tathāgata would speak.
52. “Này các Tỳ-khưu, đây là những pháp thâm sâu, khó thấy, khó thấu hiểu, tịch tĩnh, vi diệu, vượt ngoài phạm vi lý luận, tinh tế, chỉ người trí mới cảm nhận được, mà Như Lai đã tự mình chứng ngộ (abhiññā sacchikatvā) và tuyên bố, nhờ đó những ai nói đúng về Như Lai có thể nói rằng Ngài là bậc chân thật.
53. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti catūhi vatthūhi.
53. “There are, bhikkhus, some recluses and brahmins who are Annihilationists, who declare the annihilation of the world in four ways.
53. “Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn, Bà-la-môn là những người chủ trương hữu biên và vô biên (antānantika), tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên, dựa trên bốn căn cứ.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti catūhi vatthūhi?
And by relying on what, bhikkhus, by seizing upon what, do those worthy recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite in four ways?
Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy dựa vào điều gì, vin vào điều gì để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên, dựa trên bốn căn cứ?
54. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte antasaññī lokasmiṃ viharati.
54. “Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attains such a state of mental concentration that with his mind thus concentrated, he dwells perceiving the world as finite.
54. “Ở đây, này các Tỳ-khưu, một số Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm (cetosamādhi) như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, vị ấy an trú với tưởng về sự hữu biên (antasaññī) trong thế giới.
‘‘So evamāha – ‘antavā ayaṃ loko parivaṭumo.
He says thus: ‘This world is finite and bounded.
Vị ấy nói như sau: ‘Thế giới này là hữu biên, có giới hạn.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao lại như vậy?
Ahañhi ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusāmi, yathāsamāhite citte antasaññī lokasmiṃ viharāmi.
For I, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attain such a state of mental concentration that with my mind thus concentrated, I dwell perceiving the world as finite.
Vì tôi, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, tôi an trú với tưởng về sự hữu biên trong thế giới.
Imināmahaṃ etaṃ jānāmi – yathā antavā ayaṃ loko parivaṭumo’ti.
By this I know that this world is finite and bounded.’
Nhờ điều này mà tôi biết rằng thế giới này là hữu biên, có giới hạn’.
Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti.
This, bhikkhus, is the first basis, by relying on which, by seizing upon which, some recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite.
Này các Tỳ-khưu, đây là lập trường thứ nhất mà một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào, vin vào để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên.
55. ‘‘Dutiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti?
55. “And by relying on what, bhikkhus, by seizing upon what, do those worthy recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite in a second way?
55. “Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy dựa vào điều gì, vin vào điều gì để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên trong trường hợp thứ hai?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte anantasaññī lokasmiṃ viharati.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attains such a state of mental concentration that with his mind thus concentrated, he dwells perceiving the world as infinite.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một số Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, vị ấy an trú với tưởng về sự vô biên (anantasaññī) trong thế giới.
‘‘So evamāha – ‘ananto ayaṃ loko apariyanto.
He says thus: ‘This world is infinite, unbounded.
Vị ấy nói như sau: ‘Thế giới này là vô biên, không có giới hạn.
Ye te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘antavā ayaṃ loko parivaṭumo’’ti, tesaṃ musā.
Those recluses and brahmins who say: “This world is finite and bounded,” their statement is false.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này là hữu biên, có giới hạn”, lời nói của họ là sai lầm.
Ananto ayaṃ loko apariyanto.
This world is infinite, unbounded.
Thế giới này là vô biên, không có giới hạn.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao lại như vậy?
Ahañhi ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusāmi, yathāsamāhite citte anantasaññī lokasmiṃ viharāmi.
For I, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attain such a state of mental concentration that with my mind thus concentrated, I dwell perceiving the world as infinite.
Vì tôi, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, tôi an trú với tưởng về sự vô biên trong thế giới.
Imināmahaṃ etaṃ jānāmi – yathā ananto ayaṃ loko apariyanto’ti.
By this I know that this world is infinite, unbounded.’
Nhờ điều này mà tôi biết rằng thế giới này là vô biên, không có giới hạn’.
Idaṃ, bhikkhave, dutiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti.
This, bhikkhus, is the second basis, by relying on which, by seizing upon which, some recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite.
Này các Tỳ-khưu, đây là lập trường thứ hai mà một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào, vin vào để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên.
56. ‘‘Tatiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti?
56. “And by relying on what, bhikkhus, by seizing upon what, do those worthy recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite in a third way?
56. “Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy dựa vào điều gì, vin vào điều gì để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên trong trường hợp thứ ba?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte uddhamadho antasaññī lokasmiṃ viharati, tiriyaṃ anantasaññī.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attains such a state of mental concentration that with his mind thus concentrated, he dwells perceiving the world as finite upwards and downwards, and as infinite across.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một số Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, vị ấy an trú với tưởng về sự hữu biên ở phía trên và phía dưới, còn ở phương ngang là tưởng về sự vô biên trong thế giới.
‘‘So evamāha – ‘antavā ca ayaṃ loko ananto ca.
He says thus: ‘This world is both finite and infinite.
Vị ấy nói như sau: ‘Thế giới này vừa hữu biên vừa vô biên.
Ye te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘antavā ayaṃ loko parivaṭumo’’ti, tesaṃ musā.
Those recluses and brahmins who say: “This world is finite and bounded,” their statement is false.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này là hữu biên, có giới hạn”, lời nói của họ là sai lầm.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘ananto ayaṃ loko apariyanto’’ti, tesampi musā.
And those recluses and brahmins who say: “This world is infinite, unbounded,” their statement is also false.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này là vô biên, không có giới hạn”, lời nói của họ cũng sai lầm.
Antavā ca ayaṃ loko ananto ca.
This world is both finite and infinite.
Thế giới này vừa hữu biên vừa vô biên.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao lại như vậy?
Ahañhi ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusāmi, yathāsamāhite citte uddhamadho antasaññī lokasmiṃ viharāmi, tiriyaṃ anantasaññī.
For I, through ardour, through striving, through application, through diligence, through right attention, attain such a state of mental concentration that with my mind thus concentrated, I dwell perceiving the world as finite upwards and downwards, and as infinite across.
Vì tôi, nhờ sự tinh tấn, nhờ sự nỗ lực, nhờ sự chuyên cần, nhờ sự không phóng dật, nhờ sự tác ý chân chính, đã đạt được một định tâm như vậy, mà khi tâm đã định tĩnh như vậy, tôi an trú với tưởng về sự hữu biên ở phía trên và phía dưới, còn ở phương ngang là tưởng về sự vô biên trong thế giới.
Imināmahaṃ etaṃ jānāmi – yathā antavā ca ayaṃ loko ananto cā’ti.
By this I know that this world is both finite and infinite.’
Nhờ điều này mà tôi biết rằng thế giới này vừa hữu biên vừa vô biên’.
Idaṃ, bhikkhave, tatiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti.
This, bhikkhus, is the third basis, by relying on which, by seizing upon which, some recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite.
Này các Tỳ-khưu, đây là lập trường thứ ba mà một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào, vin vào để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên.
57. ‘‘Catutthe ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti?
57. “And by relying on what, bhikkhus, by seizing upon what, do those worthy recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite in a fourth way?
57. “Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy dựa vào điều gì, vin vào điều gì để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên trong trường hợp thứ tư?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā takkī hoti vīmaṃsī.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin is a reasoner, an investigator.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một số Sa-môn hay Bà-la-môn là người có óc suy luận (takkī), có óc suy xét (vīmaṃsī).
So takkapariyāhataṃ vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ evamāha – ‘nevāyaṃ loko antavā, na panānanto.
Struck by reasoning, followed by investigation, well-arisen by his own immediate understanding, he says thus: ‘This world is neither finite nor infinite.
Vị ấy, bị lý luận thúc đẩy, bị suy xét theo dõi, tự mình phát minh ra như sau: ‘Thế giới này không hữu biên, cũng không vô biên.
Ye te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘antavā ayaṃ loko parivaṭumo’’ti, tesaṃ musā.
Those recluses and brahmins who say: “This world is finite and bounded,” their statement is false.
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này là hữu biên, có giới hạn”, lời nói của họ là sai lầm.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘ananto ayaṃ loko apariyanto’’ti, tesampi musā.
And those recluses and brahmins who say: “This world is infinite, unbounded,” their statement is also false.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này là vô biên, không có giới hạn”, lời nói của họ cũng sai lầm.
Yepi te samaṇabrāhmaṇā evamāhaṃsu – ‘‘antavā ca ayaṃ loko ananto cā’’ti, tesampi musā.
And those recluses and brahmins who say: “This world is both finite and infinite,” their statement is also false.
Và những Sa-môn, Bà-la-môn nào đã nói rằng: “Thế giới này vừa hữu biên vừa vô biên”, lời nói của họ cũng sai lầm.
Nevāyaṃ loko antavā, na panānanto’ti.
This world is neither finite nor infinite.’
Thế giới này không hữu biên, cũng không vô biên’.
Idaṃ, bhikkhave, catutthaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti.
This, bhikkhus, is the fourth basis, by relying on which, by seizing upon which, some recluses and brahmins declare the world to be finite or infinite.
Này các Tỳ-khưu, đây là lập trường thứ tư mà một số Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào, vin vào để tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên.
58. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti catūhi vatthūhi.
58. “It is by these four bases, bhikkhus, that those recluses and brahmins, who declare the world to be finite or infinite, make their declarations.
58. “Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn ấy, những người chủ trương hữu biên và vô biên, đã tuyên bố thế giới là hữu biên và vô biên dựa trên bốn căn cứ này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā antānantikā antānantaṃ lokassa paññapenti, sabbe te imeheva catūhi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena; natthi ito bahiddhā.
Whatever recluses or brahmins, bhikkhus, declare the world to be finite or infinite, all of them do so through these four grounds, or one of them; there is nothing outside of these.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, những người chủ trương thế giới hữu biên hay vô biên, tất cả họ đều trình bày về thế giới hữu biên hay vô biên bằng chính bốn căn bản này, hoặc bằng một trong số đó; không có cái nào khác ngoài những điều này.
59. ‘‘Tayidaṃ, bhikkhave, tathāgato pajānāti – ‘ime diṭṭhiṭṭhānā evaṃgahitā evaṃparāmaṭṭhā evaṃgatikā bhavanti evaṃabhisamparāyā’ti.
59. “The Tathāgata, bhikkhus, understands this: ‘These standpoints, thus grasped, thus clung to, lead to such a destination, and have such a future state.’
59. ‘‘Này các Tỳ-khưu, Như Lai biết rõ điều này: ‘Những tà kiến này, khi được chấp thủ như vậy, khi được bám víu như vậy, sẽ dẫn đến những cảnh giới như vậy, và những tái sinh như vậy.’
Tañca tathāgato pajānāti, tato ca uttaritaraṃ pajānāti, tañca pajānanaṃ na parāmasati, aparāmasato cassa paccattaññeva nibbuti viditā.
That too the Tathāgata knows, and he knows what is higher than that, and he does not grasp that knowing, and for him, ungrasping, Nibbāna is known personally.
Như Lai biết rõ điều ấy, và Ngài còn biết rõ hơn thế nữa; và Ngài không bám víu vào sự hiểu biết đó. Khi không bám víu, sự giải thoát của Ngài được biết đến một cách cá nhân.
Vedanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādāvimutto, bhikkhave, tathāgato.
Having known as it really is the origin of feelings, their passing away, their gratification, their danger, and the escape from them, the Tathāgata, bhikkhus, is liberated without clinging.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai, sau khi đã biết rõ sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các cảm thọ một cách đúng như thật, thì Ngài là bậc vô chấp giải thoát.
60. ‘‘Ime kho te, bhikkhave, dhammā gambhīrā duddasā duranubodhā santā paṇītā atakkāvacarā nipuṇā paṇḍitavedanīyā, ye tathāgato sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
60. ‘‘These, bhikkhus, are those profound doctrines, difficult to see, difficult to comprehend, peaceful, sublime, beyond the sphere of logical thought, subtle, to be experienced by the wise, which the Tathāgata, having directly known and realized for himself, declares, and by which those who speak rightly might truly describe the Tathāgata.
60. ‘‘Này các Tỳ-khưu, đây chính là những pháp sâu xa, khó thấy, khó thấu hiểu, tịch tịnh, vi diệu, vượt ngoài phạm vi suy luận, tinh tế, chỉ những bậc trí mới có thể cảm nhận, mà Như Lai đã tự mình chứng ngộ và tuyên thuyết, nhờ đó những người nói đúng sự thật có thể ca ngợi Như Lai một cách chân chính.
61. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā, tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ catūhi vatthūhi.
61. ‘‘There are, bhikkhus, some recluses and brahmins who are eel-wrigglers; when questioned on this or that matter, they resort to verbal equivocation, to eel-wriggling, on four grounds.
61. ‘‘Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người chủ trương Amarāvikkhepa (lối nói nước đôi như cá ngừ), khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa, với bốn căn bản.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ catūhi vatthūhi?
And on what grounds, bhikkhus, do those worthy recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling, on four grounds?
Này các Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, khởi lên điều gì mà họ lại là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa, với bốn căn bản?
62. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ‘idaṃ kusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, ‘idaṃ akusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti.
62. ‘‘Here, bhikkhus, some recluse or brahmin does not know as it really is, ‘This is wholesome’; he does not know as it really is, ‘This is unwholesome’.
62. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó không biết đúng như thật rằng ‘đây là thiện’, không biết đúng như thật rằng ‘đây là bất thiện’.
Tassa evaṃ hoti – ‘ahaṃ kho ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi, ‘‘idaṃ akusala’’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi.
He thinks thus: ‘Indeed, I do not know as it really is, “This is wholesome,” and I do not know as it really is, “This is unwholesome.”
Người ấy nghĩ rằng: ‘Ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’.
Ahañce kho pana ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto, ‘‘idaṃ akusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto, ‘idaṃ kusala’nti vā byākareyyaṃ, ‘idaṃ akusala’nti vā byākareyyaṃ, taṃ mamassa musā.
If, indeed, not knowing as it really is, “This is wholesome,” and not knowing as it really is, “This is unwholesome,” I were to declare, “This is wholesome,” or I were to declare, “This is unwholesome,”
Nếu ta, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’, mà lại tuyên bố ‘‘đây là thiện’’ hay tuyên bố ‘‘đây là bất thiện’’, thì điều đó đối với ta sẽ là nói dối.
Yaṃ mamassa musā, so mamassa vighāto.
that would be false speech for me.
Điều nào đối với ta là nói dối, điều đó sẽ là sự phiền não cho ta.
Yo mamassa vighāto so mamassa antarāyo’ti.
Whatever would be false speech for me, that would be an affliction for me.
Sự phiền não nào đối với ta, điều đó sẽ là chướng ngại cho ta’.
Iti so musāvādabhayā musāvādaparijegucchā nevidaṃ kusalanti byākaroti, na panidaṃ akusalanti byākaroti, tattha tattha pañhaṃ puṭṭho samāno vācāvikkhepaṃ āpajjati amarāvikkhepaṃ – ‘evantipi me no; tathātipi me no; aññathātipi me no; notipi me no; no notipi me no’ti.
Whatever would be an affliction for me, that would be an obstacle for me.’ So, out of fear of false speech, out of detestation of false speech, he neither declares, ‘This is wholesome,’ nor declares, ‘This is unwholesome’; when questioned on this or that matter, he resorts to verbal equivocation, to eel-wriggling: ‘It is not thus for me; it is not so for me; it is not otherwise for me; it is not not for me; it is not not-not for me.’
Vì thế, do sợ nói dối, do ghê tởm nói dối, người ấy không tuyên bố ‘đây là thiện’, cũng không tuyên bố ‘đây là bất thiện’; khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, người ấy rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa: ‘Đối với tôi không phải như vậy; cũng không phải như thế; cũng không phải khác; cũng không phải không phải; cũng không phải không không phải’.
Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ.
This, bhikkhus, is the first ground, on which some recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling.
Này các Tỳ-khưu, đây là căn bản thứ nhất, dựa vào điều này, khởi lên điều này mà một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa.
63. ‘‘Dutiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ?
63. ‘‘And on what grounds, bhikkhus, do those worthy recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling?
63. ‘‘Này các Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, khởi lên điều gì mà họ lại là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ‘idaṃ kusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, ‘idaṃ akusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin does not know as it really is, ‘This is wholesome’; he does not know as it really is, ‘This is unwholesome’.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó không biết đúng như thật rằng ‘đây là thiện’, không biết đúng như thật rằng ‘đây là bất thiện’.
Tassa evaṃ hoti – ‘ahaṃ kho ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi, ‘‘idaṃ akusala’’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi.
He thinks thus: ‘Indeed, I do not know as it really is, “This is wholesome,” and I do not know as it really is, “This is unwholesome.”
Người ấy nghĩ rằng: ‘Ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’.
Ahañce kho pana ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto, ‘‘idaṃ akusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto, ‘‘idaṃ kusala’’nti vā byākareyyaṃ, ‘‘idaṃ akusala’nti vā byākareyyaṃ, tattha me assa chando vā rāgo vā doso vā paṭigho vā.
If, indeed, not knowing as it really is, “This is wholesome,” and not knowing as it really is, “This is unwholesome,” I were to declare, “This is wholesome,” or I were to declare, “This is unwholesome,” then there would be desire for me, or lust, or aversion, or ill-will.
Nếu ta, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’, mà lại tuyên bố ‘‘đây là thiện’’ hay tuyên bố ‘‘đây là bất thiện’’, thì trong đó đối với ta sẽ có dục, hay tham, hay sân, hay chướng ngại.
Yattha* me assa chando vā rāgo vā doso vā paṭigho vā, taṃ mamassa upādānaṃ.
Wherever there would be desire for me, or lust, or aversion, or ill-will, that would be clinging for me.
Nơi nào đối với ta có dục, hay tham, hay sân, hay chướng ngại, điều đó đối với ta sẽ là sự chấp thủ.
Yaṃ mamassa upādānaṃ, so mamassa vighāto.
Whatever would be clinging for me, that would be an affliction for me.
Điều nào đối với ta là sự chấp thủ, điều đó sẽ là sự phiền não cho ta.
Yo mamassa vighāto, so mamassa antarāyo’ti.
Whatever would be an affliction for me, that would be an obstacle for me.’
Sự phiền não nào đối với ta, điều đó sẽ là chướng ngại cho ta’.
Iti so upādānabhayā upādānaparijegucchā nevidaṃ kusalanti byākaroti, na panidaṃ akusalanti byākaroti, tattha tattha pañhaṃ puṭṭho samāno vācāvikkhepaṃ āpajjati amarāvikkhepaṃ – ‘evantipi me no; tathātipi me no; aññathātipi me no; notipi me no; no notipi me no’ti.
So, out of fear of clinging, out of detestation of clinging, he neither declares, ‘This is wholesome,’ nor declares, ‘This is unwholesome’; when questioned on this or that matter, he resorts to verbal equivocation, to eel-wriggling: ‘It is not thus for me; it is not so for me; it is not otherwise for me; it is not not for me; it is not not-not for me.’
Vì thế, do sợ chấp thủ, do ghê tởm chấp thủ, người ấy không tuyên bố ‘đây là thiện’, cũng không tuyên bố ‘đây là bất thiện’; khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, người ấy rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa: ‘Đối với tôi không phải như vậy; cũng không phải như thế; cũng không phải khác; cũng không phải không phải; cũng không phải không không phải’.
Idaṃ, bhikkhave, dutiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ.
This, bhikkhus, is the second ground, on which some recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling.
Này các Tỳ-khưu, đây là căn bản thứ hai, dựa vào điều này, khởi lên điều này mà một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa.
64. ‘‘Tatiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ?
64. ‘‘And on what grounds, bhikkhus, do those worthy recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling?
64. ‘‘Này các Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, khởi lên điều gì mà họ lại là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ‘idaṃ kusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti, ‘idaṃ akusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāti.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin does not know as it really is, ‘This is wholesome’; he does not know as it really is, ‘This is unwholesome’.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó không biết đúng như thật rằng ‘đây là thiện’, không biết đúng như thật rằng ‘đây là bất thiện’.
Tassa evaṃ hoti – ‘ahaṃ kho ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi, ‘‘idaṃ akusala’nti yathābhūtaṃ nappajānāmi.
He thinks thus: ‘Indeed, I do not know as it really is, “This is wholesome,” and I do not know as it really is, “This is unwholesome.”
Người ấy nghĩ rằng: ‘Ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, ta không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’.
Ahañce kho pana ‘‘idaṃ kusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto ‘‘idaṃ akusala’’nti yathābhūtaṃ appajānanto ‘‘idaṃ kusala’’nti vā byākareyyaṃ, ‘‘idaṃ akusala’’nti vā byākareyyaṃ.
If, indeed, not knowing as it really is, “This is wholesome,” and not knowing as it really is, “This is unwholesome,” I were to declare, “This is wholesome,” or I were to declare, “This is unwholesome,”
Nếu ta, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là thiện’’, khi không biết đúng như thật rằng ‘‘đây là bất thiện’’, mà lại tuyên bố ‘‘đây là thiện’’ hay tuyên bố ‘‘đây là bất thiện’’.
Santi hi kho samaṇabrāhmaṇā paṇḍitā nipuṇā kataparappavādā vālavedhirūpā, te bhindantā* maññe caranti paññāgatena diṭṭhigatāni, te maṃ tattha samanuyuñjeyyuṃ samanugāheyyuṃ samanubhāseyyuṃ.
there are indeed recluses and brahmins who are wise, skillful, experienced in disputation with others, like archers who can pierce a hair, who go about, as it were, shattering the views of others with their wisdom. They might question me on that matter, challenge me, debate me.
Thật vậy, có những Sa-môn và Bà-la-môn thông thái, tinh tế, đã từng tranh luận với người khác, giống như những xạ thủ bắn trúng lông đuôi, họ đi khắp nơi như thể đang phá vỡ các tà kiến bằng trí tuệ. Họ sẽ thẩm vấn ta, chất vấn ta, và tranh luận với ta về điều đó.
Ye maṃ tattha samanuyuñjeyyuṃ samanugāheyyuṃ samanubhāseyyuṃ, tesāhaṃ na sampāyeyyaṃ.
If they were to question me on that matter, challenge me, debate me, I would not be able to contend with them.
Những người sẽ thẩm vấn ta, chất vấn ta, và tranh luận với ta về điều đó, ta sẽ không thể đối đáp được với họ.
Yesāhaṃ na sampāyeyyaṃ, so mamassa vighāto.
If I would not be able to contend with them, that would be an affliction for me.
Những người ta không thể đối đáp được, điều đó sẽ là sự phiền não cho ta.
Yo mamassa vighāto, so mamassa antarāyo’ti.
Whatever would be an affliction for me, that would be an obstacle for me.’
Sự phiền não nào đối với ta, điều đó sẽ là chướng ngại cho ta’.
Iti so anuyogabhayā anuyogaparijegucchā nevidaṃ kusalanti byākaroti, na panidaṃ akusalanti byākaroti, tattha tattha pañhaṃ puṭṭho samāno vācāvikkhepaṃ āpajjati amarāvikkhepaṃ – ‘evantipi me no; tathātipi me no; aññathātipi me no; notipi me no; no notipi me no’ti.
So, out of fear of questioning, out of detestation of questioning, he neither declares, ‘This is wholesome,’ nor declares, ‘This is unwholesome’; when questioned on this or that matter, he resorts to verbal equivocation, to eel-wriggling: ‘It is not thus for me; it is not so for me; it is not otherwise for me; it is not not for me; it is not not-not for me.’
Vì thế, do sợ bị chất vấn, do ghê tởm bị chất vấn, người ấy không tuyên bố ‘đây là thiện’, cũng không tuyên bố ‘đây là bất thiện’; khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, người ấy rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa: ‘Đối với tôi không phải như vậy; cũng không phải như thế; cũng không phải khác; cũng không phải không phải; cũng không phải không không phải’.
Idaṃ, bhikkhave, tatiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ.
This, bhikkhus, is the third ground, on which some recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling.
Này các Tỳ-khưu, đây là căn bản thứ ba, dựa vào điều này, khởi lên điều này mà một số Sa-môn và Bà-la-môn là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa.
65. ‘‘Catutthe ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ?
65. ‘‘And on what grounds, bhikkhus, do those worthy recluses and brahmins, when questioned on this or that matter, resort to verbal equivocation, to eel-wriggling?
65. ‘‘Này các Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, khởi lên điều gì mà họ lại là những người chủ trương Amarāvikkhepa, khi được hỏi về các vấn đề khác nhau, họ lại rơi vào lối nói nước đôi, lối nói Amarāvikkhepa?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā mando hoti momūho.
Here, bhikkhus, some recluse or brahmin is dull and foolish.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó là người ngu đần, rất mê muội.
So mandattā momūhattā tattha tattha pañhaṃ puṭṭho samāno vācāvikkhepaṃ āpajjati amarāvikkhepaṃ – ‘atthi paro loko’ti iti ce maṃ pucchasi, ‘atthi paro loko’ti iti ce me assa, ‘atthi paro loko’ti iti te naṃ byākareyyaṃ, ‘evantipi me no, tathātipi me no, aññathātipi me no, notipi me no, no notipi me no’ti.
Being dull and extremely confused, when that ascetic or brahmin is questioned on various matters, he resorts to verbal equivocation and evasive answers. ‘If you ask me whether there is a next world, and if it were my view that there is a next world, I would declare to you that there is a next world. However, I do not hold such a view, nor do I hold that it is otherwise, nor do I hold that it is neither; I do not hold that it is not, nor do I hold that it is not not.’
Do sự đần độn và quá mê muội, khi bị hỏi những câu hỏi khác nhau, vị ấy rơi vào sự quanh co trong lời nói, sự quanh co như lươn – ‘Có thế giới khác không?’ – nếu ngươi hỏi ta như vậy, nếu ta có quan điểm ‘có thế giới khác’, thì ta sẽ trả lời ngươi rằng ‘có thế giới khác’. ‘Đối với ta, không phải như vậy, cũng không phải như thế, cũng không phải khác, cũng không phải không, cũng không phải không-không’.
‘Natthi paro loko…pe… ‘atthi ca natthi ca paro loko…pe… ‘nevatthi na natthi paro loko…pe… ‘atthi sattā opapātikā …pe… ‘natthi sattā opapātikā…pe… ‘atthi ca natthi ca sattā opapātikā…pe… ‘nevatthi na natthi sattā opapātikā…pe… ‘atthi sukatadukkaṭānaṃ* kammānaṃ phalaṃ vipāko…pe… ‘natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko…pe… ‘atthi ca natthi ca sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko…pe… ‘nevatthi na natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko…pe… ‘hoti tathāgato paraṃ maraṇā…pe… ‘na hoti tathāgato paraṃ maraṇā…pe… ‘hoti ca na ca hoti* tathāgato paraṃ maraṇā…pe… ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇāti iti ce maṃ pucchasi, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti ce me assa, ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’ti iti te naṃ byākareyyaṃ, ‘evantipi me no, tathātipi me no, aññathātipi me no, notipi me no, no notipi me no’ti.
‘There is no next world… (repeating the formula for various propositions)… ‘There is and there is not a next world… ‘There is neither nor is there not a next world… ‘There are spontaneously arisen beings… ‘There are no spontaneously arisen beings… ‘There are and there are not spontaneously arisen beings… ‘There are neither nor are there not spontaneously arisen beings… ‘There is a result and ripening of good and bad deeds… ‘There is no result and ripening of good and bad deeds… ‘There is and there is not a result and ripening of good and bad deeds… ‘There is neither nor is there not a result and ripening of good and bad deeds… ‘A Tathāgata exists after death… ‘A Tathāgata does not exist after death… ‘A Tathāgata both exists and does not exist after death… ‘A Tathāgata neither exists nor does not exist after death.’ If you ask me whether a Tathāgata neither exists nor does not exist after death, and if it were my view that a Tathāgata neither exists nor does not exist after death, I would declare to you that a Tathāgata neither exists nor does not exist after death. However, I do not hold such a view, nor do I hold that it is otherwise, nor do I hold that it is neither; I do not hold that it is not, nor do I hold that it is not not.’
‘Không có thế giới khác… (lặp lại như trên)… ‘Có và không có thế giới khác… (lặp lại như trên)… ‘Không phải có cũng không phải không có thế giới khác… (lặp lại như trên)… ‘Có chúng sanh hóa sanh… (lặp lại như trên)… ‘Không có chúng sanh hóa sanh… (lặp lại như trên)… ‘Có và không có chúng sanh hóa sanh… (lặp lại như trên)… ‘Không phải có cũng không phải không có chúng sanh hóa sanh… (lặp lại như trên)… ‘Có quả dị thục của các nghiệp thiện và ác… (lặp lại như trên)… ‘Không có quả dị thục của các nghiệp thiện và ác… (lặp lại như trên)… ‘Có và không có quả dị thục của các nghiệp thiện và ác… (lặp lại như trên)… ‘Không phải có cũng không phải không có quả dị thục của các nghiệp thiện và ác… (lặp lại như trên)… ‘Như Lai tồn tại sau khi chết… (lặp lại như trên)… ‘Như Lai không tồn tại sau khi chết… (lặp lại như trên)… ‘Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết… (lặp lại như trên)… ‘Như Lai không phải tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết’ – nếu ngươi hỏi ta như vậy, nếu ta có quan điểm ‘Như Lai không phải tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết’, thì ta sẽ trả lời ngươi rằng ‘Như Lai không phải tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết’. ‘Đối với ta, không phải như vậy, cũng không phải như thế, cũng không phải khác, cũng không phải không, cũng không phải không-không’.
Idaṃ, bhikkhave, catutthaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ.
Monks, this is the fourth ground, based on which, concerning which, some ascetics and brahmins, being evasive, when questioned on various matters, resort to verbal equivocation and evasive answers.
Này các Tỳ-khưu, đây là điểm thứ tư, dựa vào điểm này, xoay quanh điểm này, một số Sa-môn và Bà-la-môn, khi bị hỏi những câu hỏi khác nhau, rơi vào sự quanh co trong lời nói, sự quanh co như lươn.
66. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ catūhi vatthūhi.
66. ‘‘Monks, these ascetics and brahmins, being evasive, when questioned on various matters, resort to verbal equivocation and evasive answers concerning these four grounds.
66. “Này các Tỳ-khưu, những Sa-môn và Bà-la-môn quanh co như lươn ấy, khi bị hỏi những câu hỏi khác nhau, rơi vào sự quanh co trong lời nói, sự quanh co như lươn, là do bốn trường hợp này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ, sabbe te imeheva catūhi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena, natthi ito bahiddhā…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever ascetics or brahmins, monks, being evasive, when questioned on various matters, resort to verbal equivocation and evasive answers, all of them do so concerning these four grounds, or one of them. There is nothing outside of these... by which they could rightly and truly describe the Tathāgata.
Bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỳ-khưu, quanh co như lươn, khi bị hỏi những câu hỏi khác nhau, rơi vào sự quanh co trong lời nói, sự quanh co như lươn, thì tất cả đều do bốn trường hợp này, hoặc một trong số đó; không có trường hợp nào khác ngoài những điều này… mà có thể nói đúng đắn lời tán thán chân thật về Như Lai.
67. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti dvīhi vatthūhi.
67. ‘‘Monks, there are some ascetics and brahmins who are Fortuitous Originationists, who postulate the self and the world as fortuitously arisen, based on two grounds.
67. “Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết vô nhân sanh, họ tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh, do hai trường hợp.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti dvīhi vatthūhi?
Based on what, concerning what, do these venerable ascetics and brahmins, as Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen, based on two grounds?
Và những Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, xoay quanh điều gì mà họ theo thuyết vô nhân sanh, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh, do hai trường hợp?
68. ‘‘Santi, bhikkhave, asaññasattā nāma devā.
68. ‘‘Monks, there are deities called unconscious beings (asaññasatta).
68. “Này các Tỳ-khưu, có những vị trời tên là Vô Tưởng Hữu Tình (Asaññasatta).
Saññuppādā ca pana te devā tamhā kāyā cavanti.
When perception arises, those deities pass away from that realm.
Khi tưởng khởi lên, những vị trời ấy từ thân đó mà diệt.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, bhikkhave, vijjati, yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.
It is possible, monks, that one of those beings, having passed away from that realm, comes to this state of existence.
Này các Tỳ-khưu, có trường hợp một chúng sanh nào đó từ thân ấy diệt và đi đến trạng thái này (làm người).
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.
Having come to this state of existence, he goes forth from the household life into homelessness.
Khi đã đến trạng thái này, vị ấy từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte saññuppādaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati.
Having gone forth from the household life into homelessness, by means of ardour, by means of exertion, by means of application, by means of diligence, by means of right mindfulness, he touches such a concentration of mind that, with his mind thus concentrated, he recollects the arising of perception, but recollects nothing further than that.
Sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy theo sự tinh cần, theo sự tinh tấn, theo sự chuyên tâm, theo sự không phóng dật, theo sự tác ý chân chánh, đạt được một loại định tâm như vậy, nhờ tâm định đó, vị ấy hồi tưởng sự khởi lên của tưởng (trong cõi Vô Tưởng Hữu Tình), nhưng không thể hồi tưởng xa hơn nữa.
So evamāha – ‘adhiccasamuppanno attā ca loko ca.
He says thus: ‘The self and the world are fortuitously arisen.
Vị ấy nói như sau: ‘Tự ngã và thế giới là vô nhân sanh.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao vậy?
Ahañhi pubbe nāhosiṃ, somhi etarahi ahutvā santatāya pariṇato’ti.
Because I did not exist before, but now, having not existed, I have come to be.’
Vì trước đây ta không tồn tại, nay ta tồn tại sau khi đã không tồn tại, và đã biến chuyển thành sự hiện hữu’.
Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti.
Monks, this is the first ground, based on which, concerning which, some ascetics and brahmins, being Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen.
Này các Tỳ-khưu, đây là trường hợp thứ nhất, dựa vào đó, xoay quanh đó, một số Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết vô nhân sanh, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh.
69. ‘‘Dutiye ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti?
69. ‘‘And secondly, based on what, concerning what, do these venerable ascetics and brahmins, as Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen?
69. “Và này các Sa-môn và Bà-la-môn đáng kính, dựa vào điều gì, xoay quanh điều gì mà họ theo thuyết vô nhân sanh, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh?
Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā takkī hoti vīmaṃsī.
Here, monks, some ascetic or brahmin is a logician and an investigator.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó là người suy luận, người quán sát.
So takkapariyāhataṃ vīmaṃsānucaritaṃ sayaṃpaṭibhānaṃ evamāha – ‘adhiccasamuppanno attā ca loko cā’ti.
He declares thus, struck by reasoning, followed by investigation, with his own spontaneous insight: ‘The self and the world are fortuitously arisen.’
Vị ấy, bị thúc đẩy bởi suy luận, được theo dõi bởi sự quán sát, tự mình nói ra điều này: ‘Tự ngã và thế giới là vô nhân sanh’.
Idaṃ, bhikkhave, dutiyaṃ ṭhānaṃ, yaṃ āgamma yaṃ ārabbha eke samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti.
Monks, this is the second ground, based on which, concerning which, some ascetics and brahmins, being Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen.
Này các Tỳ-khưu, đây là trường hợp thứ hai, dựa vào đó, xoay quanh đó, một số Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết vô nhân sanh, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh.
70. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti dvīhi vatthūhi.
70. ‘‘Monks, these ascetics and brahmins, being Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen, based on these two grounds.
70. “Này các Tỳ-khưu, những Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết vô nhân sanh ấy, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh, là do hai trường hợp này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā adhiccasamuppannikā adhiccasamuppannaṃ attānañca lokañca paññapenti, sabbe te imeheva dvīhi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena, natthi ito bahiddhā…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever ascetics or brahmins, monks, being Fortuitous Originationists, postulate the self and the world as fortuitously arisen, all of them do so concerning these two grounds, or one of them. There is nothing outside of these... by which they could rightly and truly describe the Tathāgata.
Bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỳ-khưu, theo thuyết vô nhân sanh, tuyên bố tự ngã và thế giới là vô nhân sanh, thì tất cả đều do hai trường hợp này, hoặc một trong số đó; không có trường hợp nào khác ngoài những điều này… mà có thể nói đúng đắn lời tán thán chân thật về Như Lai.
71. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā pubbantakappikā pubbantānudiṭṭhino pubbantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti aṭṭhārasahi vatthūhi.
71. ‘‘Monks, these ascetics and brahmins, who are speculators on the past, who hold views about the past, declare various doctrines, based on the past, concerning eighteen grounds.
71. “Này các Tỳ-khưu, những Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết chấp thủ quá khứ, những người quán sát quá khứ, dựa vào quá khứ, tuyên bố đủ loại quan điểm khác nhau, với mười tám trường hợp.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā pubbantakappikā pubbantānudiṭṭhino pubbantamārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti, sabbe te imeheva aṭṭhārasahi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena, natthi ito bahiddhā.
Whatever ascetics or brahmins, monks, who are speculators on the past, who hold views about the past, declare various doctrines, based on the past, all of them do so concerning these eighteen grounds, or one of them. There is nothing outside of these.
Bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, này các Tỳ-khưu, theo thuyết chấp thủ quá khứ, những người quán sát quá khứ, dựa vào quá khứ, tuyên bố đủ loại quan điểm khác nhau, thì tất cả đều do mười tám trường hợp này, hoặc một trong số đó; không có trường hợp nào khác ngoài những điều này.
72. ‘‘Tayidaṃ, bhikkhave, tathāgato pajānāti – ‘ime diṭṭhiṭṭhānā evaṃgahitā evaṃparāmaṭṭhā evaṃgatikā bhavanti evaṃabhisamparāyā’ti.
72. ‘‘This, monks, the Tathāgata understands: ‘These speculative views, thus held, thus grasped, lead to such a destination, and such a future state.’
72. “Này các Tỳ-khưu, Như Lai biết rõ điều này: ‘Những quan điểm này, khi được chấp giữ như vậy, khi được nắm giữ như vậy, sẽ dẫn đến những cảnh giới như vậy, sẽ có những số phận tương lai như vậy’.
Tañca tathāgato pajānāti, tato ca uttaritaraṃ pajānāti, tañca pajānanaṃ na parāmasati, aparāmasato cassa paccattaññeva nibbuti viditā.
The Tathāgata understands that, and He understands what is far superior to that, and that understanding He does not grasp. And for Him, being ungrasped, the utter cooling (Nibbāna) is known to Himself.
Như Lai biết rõ điều đó, và còn biết rõ hơn thế nữa; nhưng Ngài không chấp thủ vào sự hiểu biết đó, và do không chấp thủ, sự giải thoát của Ngài tự thân được biết rõ.
Vedanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādāvimutto, bhikkhave, tathāgato.
Having understood as they truly are the arising and passing away of feelings, their gratification, their danger, and the escape from them, the Tathāgata, monks, is liberated without clinging.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai đã biết rõ như thật sự khởi lên, sự diệt đi, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự thoát ly của các cảm thọ, nên Ngài được giải thoát mà không chấp thủ.
73. ‘‘Ime kho te, bhikkhave, dhammā gambhīrā duddasā duranubodhā santā paṇītā atakkāvacarā nipuṇā paṇḍitavedanīyā, ye tathāgato sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
73. ‘‘Monks, these are the profound, hard to see, hard to comprehend, peaceful, refined, beyond the sphere of logical thought, subtle, to be experienced by the wise, doctrines which the Tathāgata, having directly known and realized for Himself, declares; by which those who speak rightly and truly of the Tathāgata would speak in praise of Him.
73. “Này các Tỳ-khưu, đây là những pháp sâu xa, khó thấy, khó thấu hiểu, tịch tịnh, vi diệu, không thể suy luận, tinh tế, chỉ người trí mới cảm nhận được, những pháp mà Như Lai tự mình chứng ngộ và tuyên thuyết, nhờ đó mà có thể nói đúng đắn lời tán thán chân thật về Như Lai.
74. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā aparantakappikā aparantānudiṭṭhino, aparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti catucattārīsāya* vatthūhi.
74. ‘‘Monks, there are some ascetics and brahmins who are speculators on the future, who hold views about the future, who declare various doctrines, based on the future, concerning forty-four grounds.
74. “Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn và Bà-la-môn theo thuyết chấp thủ vị lai, những người quán sát vị lai, dựa vào vị lai, tuyên bố đủ loại quan điểm khác nhau, với bốn mươi bốn trường hợp.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha aparantakappikā aparantānudiṭṭhino aparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti catucattārīsāya vatthūhi?
On what basis, venerable sirs, and by recourse to what, do those recluses and brahmins who are determinists concerning the future, who hold views about the future, proclaim their various doctrines of personal assertion concerning the future, by means of these forty-four grounds?
Và những sa-môn, bà-la-môn tôn kính ấy, do dựa vào điều gì, do lấy điều gì làm căn bản mà họ là những người suy đoán về tương lai, những người có tà kiến về tương lai, và do lấy tương lai làm căn bản, họ tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau với bốn mươi bốn luận điểm?
75. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā saññīvādā uddhamāghātanaṃ saññiṃ attānaṃ paññapenti soḷasahi vatthūhi.
75. “Monks, there are some recluses and brahmins who, being assertors of a conscious attā in the afterlife, proclaim an attā as conscious in the afterlife by sixteen grounds.
75. "Này các Tỳ-khưu, có một số sa-môn, bà-la-môn là những người chủ trương có tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã có tưởng về đời sau với mười sáu luận điểm.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha uddhamāghātanikā saññīvādā uddhamāghātanaṃ saññiṃ attānaṃ paññapenti soḷasahi vatthūhi?
On what basis, venerable sirs, and by recourse to what, do those recluses and brahmins, being assertors of a conscious attā in the afterlife, proclaim an attā as conscious in the afterlife by sixteen grounds?
Và những sa-môn, bà-la-môn tôn kính ấy, do dựa vào điều gì, do lấy điều gì làm căn bản mà họ là những người chủ trương có tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã có tưởng về đời sau với mười sáu luận điểm?
76. ‘‘‘Rūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā saññī’ti naṃ paññapenti.
76. They proclaim it thus: ‘The attā is material, free from illness after death, and conscious.’
76. "Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã có sắc, không bệnh, có tưởng sau khi chết.’
‘Arūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā saññī’ti naṃ paññapenti.
They proclaim it thus: ‘The attā is immaterial, free from illness after death, and conscious.’
Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã không sắc, không bệnh, có tưởng sau khi chết.’
‘Rūpī ca arūpī ca attā hoti…pe… nevarūpī nārūpī attā hoti… antavā attā hoti… anantavā attā hoti… antavā ca anantavā ca attā hoti… nevantavā nānantavā attā hoti… ekattasaññī attā hoti… nānattasaññī attā hoti… parittasaññī attā hoti… appamāṇasaññī attā hoti… ekantasukhī attā hoti… ekantadukkhī attā hoti.
‘The attā is both material and immaterial… The attā is neither material nor immaterial… The attā is finite… The attā is infinite… The attā is both finite and infinite… The attā is neither finite nor infinite… The attā is conscious as one… The attā is conscious as many… The attā is of limited consciousness… The attā is of immeasurable consciousness… The attā is exclusively happy… The attā is exclusively suffering.
Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã có sắc và không sắc… này… tự ngã không sắc cũng không không sắc… tự ngã có giới hạn… tự ngã vô hạn… tự ngã có giới hạn và vô hạn… tự ngã không có giới hạn cũng không vô hạn… tự ngã có tưởng nhất nguyên… tự ngã có tưởng đa nguyên… tự ngã có tưởng hữu hạn… tự ngã có tưởng vô lượng… tự ngã hoàn toàn hạnh phúc… tự ngã hoàn toàn đau khổ.
Sukhadukkhī attā hoti.
The attā is both happy and suffering.
Tự ngã hạnh phúc và đau khổ.
Adukkhamasukhī attā hoti arogo paraṃ maraṇā saññī’ti naṃ paññapenti.
The attā is neither suffering nor happy, free from illness after death, and conscious’—thus they proclaim it.
Họ tuyên bố rằng: Tự ngã không khổ cũng không lạc, không bệnh, có tưởng sau khi chết.’
77. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā saññīvādā uddhamāghātanaṃ saññiṃ attānaṃ paññapenti soḷasahi vatthūhi.
77. “Monks, it is by these sixteen grounds that those recluses and brahmins, being assertors of a conscious attā in the afterlife, proclaim an attā as conscious in the afterlife.
77. "Này các Tỳ-khưu, những sa-môn, bà-la-môn ấy là những người chủ trương có tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã có tưởng về đời sau với mười sáu luận điểm này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā uddhamāghātanikā saññīvādā uddhamāghātanaṃ saññiṃ attānaṃ paññapenti, sabbe te imeheva soḷasahi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena, natthi ito bahiddhā…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever recluses or brahmins, monks, being assertors of a conscious attā in the afterlife, proclaim an attā as conscious in the afterlife, all of them do so by these sixteen grounds, or by one or another of them. There is no other way apart from these… whereby they might rightly and truly describe the Tathāgata.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ sa-môn hay bà-la-môn nào là những người chủ trương có tưởng về đời sau, tuyên bố tự ngã có tưởng về đời sau, tất cả họ đều tuyên bố với mười sáu luận điểm này, hoặc một trong số đó, không có cái nào khác ngoài những điều này… mà họ có thể nói đúng sự thật về Như Lai.
78. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā asaññīvādā uddhamāghātanaṃ asaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi.
78. “Monks, there are some recluses and brahmins who, being assertors of an unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as unconscious in the afterlife by eight grounds.
78. "Này các Tỳ-khưu, có một số sa-môn, bà-la-môn là những người chủ trương không tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng về đời sau với tám luận điểm.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha uddhamāghātanikā asaññīvādā uddhamāghātanaṃ asaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi?
On what basis, venerable sirs, and by recourse to what, do those recluses and brahmins, being assertors of an unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as unconscious in the afterlife by eight grounds?
Và những sa-môn, bà-la-môn tôn kính ấy, do dựa vào điều gì, do lấy điều gì làm căn bản mà họ là những người chủ trương không tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng về đời sau với tám luận điểm?
79. ‘‘‘Rūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā asaññī’ti naṃ paññapenti.
79. They proclaim it thus: ‘The attā is material, free from illness after death, and unconscious.’
79. "Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã có sắc, không bệnh, không tưởng sau khi chết.’
‘Arūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā asaññī’ti naṃ paññapenti.
‘The attā is immaterial, free from illness after death, and unconscious.’
Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã không sắc, không bệnh, không tưởng sau khi chết.’
‘Rūpī ca arūpī ca attā hoti…pe… nevarūpī nārūpī attā hoti… antavā attā hoti… anantavā attā hoti… antavā ca anantavā ca attā hoti… nevantavā nānantavā attā hoti arogo paraṃ maraṇā asaññī’ti naṃ paññapenti.
‘The attā is both material and immaterial… The attā is neither material nor immaterial… The attā is finite… The attā is infinite… The attā is both finite and infinite… The attā is neither finite nor infinite, free from illness after death, and unconscious’—thus they proclaim it.
Họ tuyên bố rằng: ‘Tự ngã có sắc và không sắc… này… tự ngã không sắc cũng không không sắc… tự ngã có giới hạn… tự ngã vô hạn… tự ngã có giới hạn và vô hạn… tự ngã không có giới hạn cũng không vô hạn, không bệnh, không tưởng sau khi chết.’
80. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā asaññīvādā uddhamāghātanaṃ asaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi.
80. “Monks, it is by these eight grounds that those recluses and brahmins, being assertors of an unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as unconscious in the afterlife.
80. "Này các Tỳ-khưu, những sa-môn, bà-la-môn ấy là những người chủ trương không tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng về đời sau với tám luận điểm này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā uddhamāghātanikā asaññīvādā uddhamāghātanaṃ asaññiṃ attānaṃ paññapenti, sabbe te imeheva aṭṭhahi vatthūhi, etesaṃ vā aññatarena, natthi ito bahiddhā…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever recluses or brahmins, monks, being assertors of an unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as unconscious in the afterlife, all of them do so by these eight grounds, or by one or another of them. There is no other way apart from these… whereby they might rightly and truly describe the Tathāgata.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ sa-môn hay bà-la-môn nào là những người chủ trương không tưởng về đời sau, tuyên bố tự ngã không tưởng về đời sau, tất cả họ đều tuyên bố với tám luận điểm này, hoặc một trong số đó, không có cái nào khác ngoài những điều này… mà họ có thể nói đúng sự thật về Như Lai.
81. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā nevasaññīnāsaññīvādā, uddhamāghātanaṃ nevasaññīnāsaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi.
81. “Monks, there are some recluses and brahmins who, being assertors of a neither-conscious-nor-unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as neither conscious nor unconscious in the afterlife by eight grounds.
81. "Này các Tỳ-khưu, có một số sa-môn, bà-la-môn là những người chủ trương không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau với tám luận điểm.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha uddhamāghātanikā nevasaññīnāsaññīvādā uddhamāghātanaṃ nevasaññīnāsaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi?
On what basis, venerable sirs, and by recourse to what, do those recluses and brahmins, being assertors of a neither-conscious-nor-unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as neither conscious nor unconscious in the afterlife by eight grounds?
Và những sa-môn, bà-la-môn tôn kính ấy, do dựa vào điều gì, do lấy điều gì làm căn bản mà họ là những người chủ trương không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau với tám luận điểm?
83. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā nevasaññīnāsaññīvādā uddhamāghātanaṃ nevasaññīnāsaññiṃ attānaṃ paññapenti aṭṭhahi vatthūhi.
83. “Monks, it is by these eight grounds that those recluses and brahmins, being assertors of a neither-conscious-nor-unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as neither conscious nor unconscious in the afterlife.
83. "Này các Tỳ-khưu, những sa-môn, bà-la-môn ấy là những người chủ trương không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau, họ tuyên bố tự ngã không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau với tám luận điểm này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā uddhamāghātanikā nevasaññīnāsaññīvādā uddhamāghātanaṃ nevasaññīnāsaññiṃ attānaṃ paññapenti, sabbe te imeheva aṭṭhahi vatthūhi…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever recluses or brahmins, monks, being assertors of a neither-conscious-nor-unconscious attā in the afterlife, proclaim an attā as neither conscious nor unconscious in the afterlife, all of them do so by these eight grounds… whereby they might rightly and truly describe the Tathāgata.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ sa-môn hay bà-la-môn nào là những người chủ trương không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau, tuyên bố tự ngã không tưởng cũng không phi tưởng về đời sau, tất cả họ đều tuyên bố với tám luận điểm này… mà họ có thể nói đúng sự thật về Như Lai.
84. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti sattahi vatthūhi.
84. “Monks, there are some recluses and brahmins who are annihilationists, proclaiming the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being by seven grounds.
84. "Này các Tỳ-khưu, có một số sa-môn, bà-la-môn là những người chủ trương đoạn diệt, họ tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy diệt, sự tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu với bảy luận điểm.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha ucchedavādā sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti sattahi vatthūhi?
On what basis, venerable sirs, and by recourse to what, do those recluses and brahmins who are annihilationists proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being by seven grounds?
Và những sa-môn, bà-la-môn tôn kính ấy, do dựa vào điều gì, do lấy điều gì làm căn bản mà họ là những người chủ trương đoạn diệt, họ tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy diệt, sự tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu với bảy luận điểm?
85. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā evaṃvādī hoti evaṃdiṭṭhi* – ‘yato kho, bho, ayaṃ attā rūpī cātumahābhūtiko mātāpettikasambhavo kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
85. “Here, monks, a certain recluse or brahmin holds this view, makes this assertion: ‘Because, friends, this attā is material, made of the four great elements, born of mother and father, at the breaking up of the body it is cut off, it is destroyed, it ceases to exist after death; by this much, friends, this attā is thoroughly cut off.’
85. "Ở đây, này các Tỳ-khưu, có một số sa-môn hay bà-la-môn có quan điểm và chủ trương như sau: ‘Thưa quý vị, vì tự ngã này có sắc, do bốn đại tạo thành, do cha mẹ sinh ra, nên khi thân hoại, nó bị đoạn diệt, bị hủy hoại, không còn tồn tại sau khi chết. Thưa quý vị, như vậy là tự ngã này đã bị đoạn diệt hoàn toàn.’
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus, some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy diệt, sự tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
86. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
86. “Another says to him: ‘Friend, that attā which you speak of, it does exist; I do not say it does not. Yet, friend, that attā is not thoroughly cut off by this much.
86. "Một người khác nói với người đó rằng: ‘Thưa bạn, tự ngã mà bạn nói là có, tôi không nói là không có; nhưng thưa bạn, tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn như vậy.
Atthi kho, bho, añño attā dibbo rūpī kāmāvacaro kabaḷīkārāhārabhakkho.
Friend, there is another attā, divine, material, of the sense-sphere, feeding on solid food.
Thưa bạn, có một tự ngã khác, là tự ngã chư thiên, có sắc, thuộc cõi Dục giới, ăn thức ăn thô.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy tự ngã đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy tự ngã đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
When that attā, friend, at the breaking up of the body, is cut off, is destroyed, ceases to exist after death, by this much, friend, that attā is thoroughly cut off’.
Thưa bạn, khi tự ngã đó bị đoạn diệt, bị hủy hoại, không còn tồn tại sau khi thân hoại, thì như vậy, tự ngã này đã bị đoạn diệt hoàn toàn.’
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus, some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy diệt, sự tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
87. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
87. “Another says to him: ‘Friend, that attā which you speak of, it does exist; I do not say it does not. Yet, friend, that attā is not thoroughly cut off by this much.
87. "Một người khác nói với người đó rằng: ‘Thưa bạn, tự ngã mà bạn nói là có, tôi không nói là không có; nhưng thưa bạn, tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn như vậy.
Atthi kho, bho, añño attā dibbo rūpī manomayo sabbaṅgapaccaṅgī ahīnindriyo.
Friend, there is another attā, divine, material, mind-made, complete in all its limbs and parts, with unimpaired faculties.
Thưa bạn, có một tự ngã khác, là tự ngã chư thiên, có sắc, do ý tạo thành, đầy đủ mọi chi phần, không suy giảm các căn.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy tự ngã đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy tự ngã đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
When that attā, friend, at the breaking up of the body, is cut off, is destroyed, ceases to exist after death, by this much, friend, that attā is thoroughly cut off’.
Thưa bạn, khi tự ngã đó bị đoạn diệt, bị hủy hoại, không còn tồn tại sau khi thân hoại, thì như vậy, tự ngã này đã bị đoạn diệt hoàn toàn.’
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus, some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy diệt, sự tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
88. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
88. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet completely eradicated by this much.
88. “Một người khác nói như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, cái tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn chỉ với chừng đó đâu.
Atthi kho, bho, añño attā sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā ‘‘ananto ākāso’’ti ākāsānañcāyatanūpago.
Friend, there is another self who, by entirely transcending perceptions of form, by the fading away of perceptions of impingement, and by not attending to perceptions of diversity, abides in the base of infinite space, thinking: ‘‘Space is infinite.’’
Này bạn, lại có một tự ngã khác, vượt qua mọi sắc tưởng (rūpasaññā), diệt mọi tưởng đối ngại (paṭighasaññā), không tác ý đến các tưởng sai biệt (nānattasaññā), đạt đến cảnh giới Không Vô Biên Xứ (ākāsānañcāyatana) với ý niệm ‘không gian là vô biên’.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy điều đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy điều đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
Friend, when that self is cut off and perishes with the breaking up of the body, and does not exist after death, by this much, friend, this self is completely eradicated,’ so some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Này bạn, khi tự ngã ấy bị đoạn diệt, bị hủy hoại do thân hoại mạng chung, không còn tồn tại sau khi chết, thì này bạn, tự ngã này mới bị đoạn diệt hoàn toàn’.
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
89. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
89. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet completely eradicated by this much.
89. “Một người khác nói như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, cái tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn chỉ với chừng đó đâu.
Atthi kho, bho, añño attā sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma ‘‘anantaṃ viññāṇa’’nti viññāṇañcāyatanūpago.
Friend, there is another self who, by entirely transcending the base of infinite space, abides in the base of infinite consciousness, thinking: ‘‘Consciousness is infinite.’’
Này bạn, lại có một tự ngã khác, vượt qua hoàn toàn cảnh giới Không Vô Biên Xứ (ākāsānañcāyatana), đạt đến cảnh giới Thức Vô Biên Xứ (viññāṇañcāyatana) với ý niệm ‘thức là vô biên’.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy điều đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy điều đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
Friend, when that self is cut off and perishes with the breaking up of the body, and does not exist after death, by this much, friend, this self is completely eradicated,’ so some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Này bạn, khi tự ngã ấy bị đoạn diệt, bị hủy hoại do thân hoại mạng chung, không còn tồn tại sau khi chết, thì này bạn, tự ngã này mới bị đoạn diệt hoàn toàn’.
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
90. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, so attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
90. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet completely eradicated by this much.
90. “Một người khác nói như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, cái tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn chỉ với chừng đó đâu.
Atthi kho, bho, añño attā sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma ‘‘natthi kiñcī’’ti ākiñcaññāyatanūpago.
Friend, there is another self who, by entirely transcending the base of infinite consciousness, abides in the base of nothingness, thinking: ‘‘There is nothing.’’
Này bạn, lại có một tự ngã khác, vượt qua hoàn toàn cảnh giới Thức Vô Biên Xứ (viññāṇañcāyatana), đạt đến cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (ākiñcaññāyatana) với ý niệm ‘không có gì cả’.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy điều đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy điều đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’’ti.
Friend, when that self is cut off and perishes with the breaking up of the body, and does not exist after death, by this much, friend, this self is completely eradicated,’ so some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Này bạn, khi tự ngã ấy bị đoạn diệt, bị hủy hoại do thân hoại mạng chung, không còn tồn tại sau khi chết, thì này bạn, tự ngã này mới bị đoạn diệt hoàn toàn’.
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
91. ‘Tamañño evamāha – ‘‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā sammā samucchinno hoti.
91. Another says to him: ‘‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet completely eradicated by this much.
91. “Một người khác nói như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, cái tự ngã này chưa bị đoạn diệt hoàn toàn chỉ với chừng đó đâu.
Atthi kho, bho, añño attā sabbaso ākiñcaññāyatanaṃ samatikkamma ‘‘santametaṃ paṇītameta’’nti nevasaññānāsaññāyatanūpago.
Friend, there is another self who, by entirely transcending the base of nothingness, abides in the base of neither perception nor non-perception, thinking: ‘‘This is peaceful, this is sublime.’’
Này bạn, lại có một tự ngã khác, vượt qua hoàn toàn cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ (ākiñcaññāyatana), đạt đến cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (nevasaññānāsaññāyatana) với ý niệm ‘đây là tịch tịnh, đây là vi diệu’.
Taṃ tvaṃ na jānāsi na passasi.
You do not know or see that.
Bạn không biết, không thấy điều đó.
Tamahaṃ jānāmi passāmi.
I know and see that.
Tôi biết, tôi thấy điều đó.
So kho, bho, attā yato kāyassa bhedā ucchijjati vinassati, na hoti paraṃ maraṇā, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā sammā samucchinno hotī’ti.
Friend, when that self is cut off and perishes with the breaking up of the body, and does not exist after death, by this much, friend, this self is completely eradicated,’ so some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Này bạn, khi tự ngã ấy bị đoạn diệt, bị hủy hoại do thân hoại mạng chung, không còn tồn tại sau khi chết, thì này bạn, tự ngã này mới bị đoạn diệt hoàn toàn’.
Ittheke sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu.
92. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti sattahi vatthūhi.
92. Monks, these recluses and brahmins, upholders of annihilation, proclaim the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being by these seven grounds.
92. Này các Tỳ-khưu, các Sa-môn, Bà-la-môn theo thuyết đoạn diệt này tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu bằng bảy cơ sở này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ucchedavādā sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti, sabbe te imeheva sattahi vatthūhi…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
Whatever recluses or brahmins, monks, are upholders of annihilation, proclaiming the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being, all of them do so by these seven grounds…pe… by which they would rightly speak in praise of the Tathāgata in accordance with reality.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào tuyên bố sự đoạn diệt, hủy hoại, tiêu vong của một chúng sinh hiện hữu, tất cả họ đều tuyên bố bằng bảy cơ sở này… hoặc một trong số đó… mà không có cơ sở nào khác ngoài những điều này… mà các vị ấy có thể nói đúng sự thật về Như Lai.
93. ‘‘Santi, bhikkhave, eke samaṇabrāhmaṇā diṭṭhadhammanibbānavādā sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti pañcahi vatthūhi.
93. Monks, there are some recluses and brahmins who are upholders of Nibbāna in this very life, proclaiming the supreme Nibbāna in this very life for an existing being by five grounds.
93. Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn, Bà-la-môn theo thuyết Niết-bàn hiện tại (diṭṭhadhammanibbāna), tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu bằng năm cơ sở.
Te ca bhonto samaṇabrāhmaṇā kimāgamma kimārabbha diṭṭhadhammanibbānavādā sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti pañcahi vatthūhi?
And on what grounds, with what as a basis, do those worthy recluses and brahmins proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being by five grounds?
Và này các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, dựa vào điều gì, khởi lên điều gì mà tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu bằng năm cơ sở?
94. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā evaṃvādī hoti evaṃdiṭṭhi – ‘‘yato kho, bho, ayaṃ attā pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’ti.
94. Here, monks, a certain recluse or brahmin holds such a view, such a doctrine: ‘‘Friend, when this self is endowed and fully furnished with the five strands of sensual pleasure, it disports itself; by this much, friend, this self has attained the supreme Nibbāna in this very life,’’ so some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
94. Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Sa-môn hay Bà-la-môn nào đó có chủ trương và quan điểm như sau: ‘Này bạn, khi tự ngã này được trang bị và đầy đủ với năm dục lạc, và hưởng thụ chúng, thì này bạn, tự ngã này đã đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng rồi’.
Ittheke sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu.
95. ‘‘Tamañño evamāha –‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hoti.
95. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet by this much attained the supreme Nibbāna in this very life.
95. “Một người khác nói với vị ấy như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, tự ngã này chưa đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng chỉ với chừng đó đâu.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Kāmā hi, bho, aniccā dukkhā vipariṇāmadhammā, tesaṃ vipariṇāmaññathābhāvā uppajjanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
For, friend, sensual pleasures are impermanent, unsatisfactory, and subject to change; by their change and alteration arise sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair.
Này bạn, vì các dục lạc là vô thường, khổ, có tính chất biến hoại, và do sự biến hoại, thay đổi của chúng mà sầu, bi, khổ, ưu, não khởi lên.
Yato kho, bho, ayaṃ attā vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’ti.
Friend, when this self, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, enters upon and abides in the first jhāna, which is accompanied by directed thought and sustained thought, with rapture and pleasure born of seclusion, by this much, friend, this self has attained the supreme Nibbāna in this very life,’ so some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Này bạn, khi tự ngã này ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái có tầm, có tứ, do ly dục sinh hỷ lạc, thì này bạn, tự ngã này đã đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng rồi’.
Ittheke sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu.
96. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hoti.
96. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet by this much attained the supreme Nibbāna in this very life.
96. “Một người khác nói với vị ấy như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, tự ngã này chưa đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng chỉ với chừng đó đâu.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Yadeva tattha vitakkitaṃ vicāritaṃ, etenetaṃ oḷārikaṃ akkhāyati.
Whatever directed thought and sustained thought is there, this is called coarse.
Vì tầm và tứ ở đó được gọi là thô.
Yato kho, bho, ayaṃ attā vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’ti.
Friend, when this self, with the stilling of directed thought and sustained thought, attains internal assurance and unification of mind, without directed thought and sustained thought, with rapture and pleasure born of concentration, enters upon and abides in the second jhāna, by this much, friend, this self has attained the supreme Nibbāna in this very life,’ so some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Này bạn, khi tự ngã này diệt tầm, tứ, nội tĩnh, nhất tâm, chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái vô tầm, vô tứ, do định sinh hỷ lạc, thì này bạn, tự ngã này đã đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng rồi’.
Ittheke sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu.
97. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hoti.
97. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet by this much attained the supreme Nibbāna in this very life.
97. “Một người khác nói với vị ấy như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, tự ngã này chưa đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng chỉ với chừng đó đâu.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Yadeva tattha pītigataṃ cetaso uppilāvitattaṃ, etenetaṃ oḷārikaṃ akkhāyati.
Whatever elatedness and mental uplift born of rapture is there, this is called coarse.
Vì hỷ và sự xao động của tâm ở đó được gọi là thô.
Yato kho, bho, ayaṃ attā pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharati, sato ca sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti ‘‘upekkhako satimā sukhavihārī’’ti, tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’ti.
Friend, when this self, with the fading away of rapture, abides in equanimity, is mindful and clearly comprehending, and experiences pleasure with the body, enters upon and abides in the third jhāna, of which the Noble Ones declare: ‘‘He is equanimous, mindful, one who dwells in pleasure,’’ by this much, friend, this self has attained the supreme Nibbāna in this very life,’ so some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Này bạn, khi tự ngã này ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, và cảm nhận lạc thọ trong thân, điều mà các bậc Thánh gọi là ‘người trú xả, chánh niệm, an lạc’, chứng và trú Tam thiền, thì này bạn, tự ngã này đã đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng rồi’.
Ittheke sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti.
Thus some proclaim the supreme Nibbāna in this very life for an existing being.
Như vậy, một số người tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng cho một chúng sinh hiện hữu.
98. ‘‘Tamañño evamāha – ‘atthi kho, bho, eso attā, yaṃ tvaṃ vadesi, neso natthīti vadāmi; no ca kho, bho, ayaṃ attā ettāvatā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hoti.
98. Another says to him: ‘Friend, that self you speak of certainly exists; I do not say it does not exist. But, friend, that self is not yet by this much attained the supreme Nibbāna in this very life.
98. “Một người khác nói với vị ấy như sau: ‘Này bạn, cái tự ngã mà bạn nói đó là có, tôi không nói là không có. Nhưng này bạn, tự ngã này chưa đạt đến Niết-bàn hiện tại tối thượng chỉ với chừng đó đâu.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Yadeva tattha sukhamiti cetaso ābhogo, etenetaṃ oḷārikaṃ akkhāyati.
Whatever mental advertence to pleasure is there, this is called coarse.
Vì sự chú ý của tâm vào lạc thọ ở đó được gọi là thô.
Yato kho, bho, ayaṃ attā sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati, ettāvatā kho, bho, ayaṃ attā paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ patto hotī’ti.
“O friend, when this self, by the abandoning of pleasure and the abandoning of pain, and with the previous disappearance of joy and sorrow, enters upon and abides in the fourth jhāna, which is neither painful nor pleasant, with the purity of equanimity and mindfulness—to this extent, O friend, this self has attained the supreme nibbāna visible in this very life.”
Này các bạn, khi tự ngã này, do sự đoạn trừ lạc và sự đoạn trừ khổ, do sự diệt vong của hỷ và ưu từ trước, chứng đạt và an trú trong thiền thứ tư, không khổ không lạc, với sự thanh tịnh của niệm do xả, thì chừng đó, này các bạn, tự ngã này đã đạt đến Nibbāna tối thượng ngay trong hiện tại.
Ittheke sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti.
In this way, some proclaim the supreme nibbāna visible in this very life for a being who exists.
Bằng cách này, một số người tuyên bố Nibbāna tối thượng ngay trong hiện tại cho một hữu tình hiện hữu.
99. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā diṭṭhadhammanibbānavādā sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti pañcahi vatthūhi.
“Monks, these recluses and brahmins, proclaimers of nibbāna visible in this very life, thus proclaim the supreme nibbāna visible in this very life for an existing being, by means of five tenets.
99. Này các Tỳ-khưu, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Nibbāna ngay trong hiện tại này tuyên bố Nibbāna tối thượng ngay trong hiện tại cho một hữu tình hiện hữu bằng năm luận điểm này.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā diṭṭhadhammanibbānavādā sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti, sabbe te imeheva pañcahi vatthūhi…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
For any recluses or brahmins, monks, who proclaim the supreme nibbāna visible in this very life for an existing being, all of them do so by these very five tenets… (and so forth)… by which they would rightly and truly praise the Tathāgata.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào chủ trương Nibbāna ngay trong hiện tại, tuyên bố Nibbāna tối thượng ngay trong hiện tại cho một hữu tình hiện hữu, tất cả họ đều bằng năm luận điểm này…pe… mà các vị ấy nói lên lời tán thán chân thực về Như Lai.
100. ‘‘Imehi kho te, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇā aparantakappikā aparantānudiṭṭhino aparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti catucattārīsāya vatthūhi.
“Monks, these recluses and brahmins, speculating about the future, holding views about the future, express various kinds of dogmatic assertions concerning the future, by forty-four tenets.
100. Này các Tỳ-khưu, những Sa-môn, Bà-la-môn này, là những người suy đoán về tương lai, có quan kiến về tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm tùy thuộc vào tương lai bằng bốn mươi bốn luận điểm.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā aparantakappikā aparantānudiṭṭhino aparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti, sabbe te imeheva catucattārīsāya vatthūhi…pe… yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
For any recluses or brahmins, monks, who speculate about the future, hold views about the future, and express various kinds of dogmatic assertions concerning the future, all of them do so by these very forty-four tenets… (and so forth)… by which they would rightly and truly praise the Tathāgata.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào là những người suy đoán về tương lai, có quan kiến về tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm tùy thuộc vào tương lai, tất cả họ đều bằng bốn mươi bốn luận điểm này…pe… mà các vị ấy nói lên lời tán thán chân thực về Như Lai.
103. ‘‘Tayidaṃ, bhikkhave, tathāgato pajānāti – ‘ime diṭṭhiṭṭhānā evaṃgahitā evaṃparāmaṭṭhā evaṃgatikā bhavanti evaṃabhisamparāyā’ti.
“The Tathāgata, monks, understands this: ‘These standpoints are thus grasped, thus clung to, and lead to such a destination, such a future state.’
103. Này các Tỳ-khưu, Như Lai biết rõ điều này: ‘Những tà kiến này, khi được nắm giữ như vậy, khi được chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến những cảnh giới như vậy, sẽ có những tái sinh như vậy’.
Tañca tathāgato pajānāti, tato ca uttaritaraṃ pajānāti, tañca pajānanaṃ na parāmasati, aparāmasato cassa paccattaññeva nibbuti viditā.
The Tathāgata understands that, and understands what is higher than that, and does not cling to that understanding. And for him, unattached, nibbāna is known personally.
Như Lai biết rõ điều đó, và biết rõ hơn thế nữa, nhưng không chấp thủ sự hiểu biết đó; và đối với vị không chấp thủ, sự tịch tịnh đã được biết rõ trong tự thân.
Vedanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādāvimutto, bhikkhave, tathāgato.
Having known as they really are the origin of feelings, their disappearance, their gratification, their danger, and the escape from them, the Tathāgata, monks, is liberated without clinging.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai, sau khi đã biết rõ về sự tập khởi, sự diệt tận, sự vị ngọt, sự nguy hiểm và sự giải thoát khỏi các cảm thọ như chân thật, đã được giải thoát không còn chấp thủ.
104. ‘‘Ime kho te, bhikkhave, dhammā gambhīrā duddasā duranubodhā santā paṇītā atakkāvacarā nipuṇā paṇḍitavedanīyā, ye tathāgato sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, yehi tathāgatassa yathābhuccaṃ vaṇṇaṃ sammā vadamānā vadeyyuṃ.
“Monks, these are the deep, hard to see, hard to comprehend, peaceful, sublime, beyond the scope of mere reasoning, subtle, to be experienced by the wise, principles that the Tathāgata, having directly known and realized them himself, proclaims—by which they would rightly and truly praise the Tathāgata.
104. Này các Tỳ-khưu, những pháp này là sâu xa, khó thấy, khó thấu hiểu, tịch tịnh, vi diệu, nằm ngoài phạm vi suy luận, tinh tế, chỉ những bậc trí mới có thể cảm nhận được, mà Như Lai đã tự mình chứng ngộ và tuyên bố, nhờ đó mà các vị ấy có thể nói lên lời tán thán chân thực về Như Lai.
106. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
“Among these, monks, those recluses and brahmins who are partial-eternalists and partial-non-eternalists, proclaiming the self and the world to be partly eternal and partly non-eternal by four tenets, their experience is also for those venerable recluses and brahmins who do not know and do not see, who are caught in craving, merely fidgeting and agitation.
106. Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần thường hằng, một phần vô thường, tuyên bố một phần tự ngã và thế giới là thường hằng, một phần là vô thường bằng bốn luận điểm, thì sự cảm thọ đó của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, những người bị lòng tham chi phối, chỉ là sự lo lắng và dao động.
108. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā tattha tattha pañhaṃ puṭṭhā samānā vācāvikkhepaṃ āpajjanti amarāvikkhepaṃ catūhi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
“Among these, monks, those recluses and brahmins who are eel-wrigglers, who, when questioned on this or that point, resort to equivocation, to eel-wriggling by four tenets, their experience is also for those venerable recluses and brahmins who do not know and do not see, who are caught in craving, merely fidgeting and agitation.
108. Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn là những người lẩn tránh như lươn, khi được hỏi về một vấn đề nào đó, họ rơi vào sự lẩn tránh lời nói như lươn bằng bốn luận điểm, thì sự cảm thọ đó của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, những người bị lòng tham chi phối, chỉ là sự lo lắng và dao động.
110. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā pubbantakappikā pubbantānudiṭṭhino pubbantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti aṭṭhārasahi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
“Among these, monks, those recluses and brahmins who are speculators about the past, holding views about the past, expressing various kinds of dogmatic assertions concerning the past by eighteen tenets, their experience is also for those venerable recluses and brahmins who do not know and do not see, who are caught in craving, merely fidgeting and agitation.
110. Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn là những người suy đoán về quá khứ, có quan kiến về quá khứ, tuyên bố nhiều loại quan điểm tùy thuộc vào quá khứ bằng mười tám luận điểm, thì sự cảm thọ đó của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, những người bị lòng tham chi phối, chỉ là sự lo lắng và dao động.
114. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññapenti sattahi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
“Among these, monks, those recluses and brahmins who are annihilationists, proclaiming the cutting off, destruction, and annihilation of an existing being by seven tenets, their experience is also for those venerable recluses and brahmins who do not know and do not see, who are caught in craving, merely fidgeting and agitation.
114. Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương đoạn kiến, tuyên bố sự đoạn diệt, sự hủy hoại, sự tiêu vong của một hữu tình hiện hữu bằng bảy luận điểm, thì sự cảm thọ đó của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, những người bị lòng tham chi phối, chỉ là sự lo lắng và dao động.
115. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā diṭṭhadhammanibbānavādā sato sattassa paramadiṭṭhadhammanibbānaṃ paññapenti pañcahi vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
115. ‘‘Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who are proponents of Nibbāna in this present life, who proclaim the ultimate Nibbāna in this present life for an existing being, by five points—that too is just a feeling, a trembling, a quivering, born of craving, for those venerable recluses and brahmins who do not know, who do not see.
115. ‘‘Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Niết-bàn hiện tại, tuyên bố Niết-bàn hiện tại tối thượng của hữu tình đang hiện hữu bằng năm phương diện, thì điều đó cũng chỉ là sự cảm thọ, sự bồn chồn, dao động của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, bị tham ái chi phối.
116. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā aparantakappikā aparantānudiṭṭhino aparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti catucattārīsāya vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
116. ‘‘Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who speculate about the future, who hold views about the future, who assert various speculative propositions concerning the future, by forty-four points—that too is just a feeling, a trembling, a quivering, born of craving, for those venerable recluses and brahmins who do not know, who do not see.
116. ‘‘Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người suy đoán về tương lai, có những quan kiến về tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau về tương lai bằng bốn mươi bốn phương diện, thì điều đó cũng chỉ là sự cảm thọ, sự bồn chồn, dao động của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, bị tham ái chi phối.
117. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā pubbantakappikā ca aparantakappikā ca pubbantāparantakappikā ca pubbantāparantānudiṭṭhino pubbantāparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti dvāsaṭṭhiyā vatthūhi, tadapi tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ ajānataṃ apassataṃ vedayitaṃ taṇhāgatānaṃ paritassitavipphanditameva.
117. ‘‘Therein, bhikkhus, those recluses and brahmins who speculate about the past and the future, who hold views about the past and the future, who assert various speculative propositions concerning the past and the future, by sixty-two points—that too is just a feeling, a trembling, a quivering, born of craving, for those venerable recluses and brahmins who do not know, who do not see.
117. ‘‘Này các Tỳ-khưu, trong số đó, những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người suy đoán về quá khứ và tương lai, có những quan kiến về quá khứ và tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau về quá khứ và tương lai bằng sáu mươi hai phương diện, thì điều đó cũng chỉ là sự cảm thọ, sự bồn chồn, dao động của các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy, những người không biết, không thấy, bị tham ái chi phối.
144. ‘‘Tatra, bhikkhave, ye te samaṇabrāhmaṇā sassatavādā sassataṃ attānañca lokañca paññapenti catūhi vatthūhi, yepi te samaṇabrāhmaṇā ekaccasassatikā ekaccaasassatikā…pe… yepi te samaṇabrāhmaṇā antānantikā… yepi te samaṇabrāhmaṇā amarāvikkhepikā… yepi te samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannikā… yepi te samaṇabrāhmaṇā pubbantakappikā… yepi te samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā saññīvādā… yepi te samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā asaññīvādā… yepi te samaṇabrāhmaṇā uddhamāghātanikā nevasaññīnāsaññīvādā… yepi te samaṇabrāhmaṇā ucchedavādā… yepi te samaṇabrāhmaṇā diṭṭhadhammanibbānavādā… yepi te samaṇabrāhmaṇā aparantakappikā… yepi te samaṇabrāhmaṇā pubbantakappikā ca aparantakappikā ca pubbantāparantakappikā ca pubbantāparantānudiṭṭhino pubbantāparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti dvāsaṭṭhiyā vatthūhi, sabbe te chahi phassāyatanehi phussa phussa paṭisaṃvedenti tesaṃ vedanāpaccayā taṇhā, taṇhāpaccayā upādānaṃ, upādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti.
144. “There, bhikkhus, those recluses and brahmins who are eternalists, who declare the self and the world to be eternal with four grounds; and those recluses and brahmins who are semi-eternalists… and those recluses and brahmins who are exponents of finitude and infinitude… and those recluses and brahmins who are eel-wrigglers… and those recluses and brahmins who are accidentalists… and those recluses and brahmins who speculate about the past… and those recluses and brahmins who are supra-mundane conceptualists, who declare a percipient self after death… and those recluses and brahmins who are supra-mundane non-conceptualists, who declare a non-percipient self after death… and those recluses and brahmins who are supra-mundane neither-percipient-nor-non-percipientists, who declare a neither-percipient-nor-non-percipient self after death… and those recluses and brahmins who are annihilationists… and those recluses and brahmins who are adherents of the doctrine of nibbāna in this present life… and those recluses and brahmins who speculate about the future… and those recluses and brahmins who speculate about the past and speculate about the future, who hold views concerning the past and the future, who declare various speculative theories concerning the past and the future with sixty-two grounds — all of them experience by repeatedly making contact through the six contact bases. Dependent on their feeling is craving; dependent on craving is clinging; dependent on clinging is existence; dependent on existence is birth; dependent on birth, old age and death, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair come to be.
144. Này các Tỳ-khưu, trong số ấy, những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương thường kiến, tuyên bố tự ngã và thế giới là thường còn bằng bốn luận điểm; và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương một phần thường còn, một phần không thường còn…pe… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương có giới hạn và vô hạn… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người do dự, lẩn tránh… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương vô nhân ngẫu nhiên sinh… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người suy đoán về quá khứ… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương có tưởng sau khi chết… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương vô tưởng sau khi chết… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương phi tưởng phi phi tưởng sau khi chết… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương đoạn diệt… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào chủ trương Nibbāna hiện tại… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người suy đoán về tương lai… và những Sa-môn, Bà-la-môn nào là những người suy đoán về quá khứ, và những người suy đoán về tương lai, và những người suy đoán về cả quá khứ và tương lai, có những quan kiến về cả quá khứ và tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau về cả quá khứ và tương lai bằng sáu mươi hai luận điểm, tất cả những vị ấy đều cảm thọ do xúc chạm, do xúc chạm, do sáu xứ xúc chạm. Do duyên thọ mà có ái, do duyên ái mà có thủ, do duyên thủ mà có hữu, do duyên hữu mà có sinh, do duyên sinh mà già chết, sầu bi khổ ưu não phát sinh.
146. ‘‘Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā pubbantakappikā vā aparantakappikā vā pubbantāparantakappikā vā pubbantāparantānudiṭṭhino pubbantāparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti, sabbe te imeheva dvāsaṭṭhiyā vatthūhi antojālīkatā, ettha sitāva ummujjamānā ummujjanti, ettha pariyāpannā antojālīkatāva ummujjamānā ummujjanti.
146. “Whatever recluses or brahmins, bhikkhus, speculate about the past or speculate about the future, or speculate about the past and the future, holding views concerning the past and the future, and declare various speculative theories concerning the past and the future, all of them are entrapped by these sixty-two grounds, and plunging up and down, they do so remaining within this net, entrapped within this net, plunging up and down, they do so remaining within this net.
146. Này các Tỳ-khưu, bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, dù là người suy đoán về quá khứ, hay người suy đoán về tương lai, hay người suy đoán về cả quá khứ và tương lai, có những quan kiến về cả quá khứ và tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau về cả quá khứ và tương lai, tất cả những người ấy đều bị giam hãm trong sáu mươi hai luận điểm này, bị mắc kẹt ở đây, họ trồi lên rồi lặn xuống; bị bao vây ở đây, bị giam hãm trong lưới này, họ trồi lên rồi lặn xuống.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, dakkho kevaṭṭo vā kevaṭṭantevāsī vā sukhumacchikena jālena parittaṃ udakadahaṃ* otthareyya.
“Just as, bhikkhus, a skillful fisherman or his apprentice might cast a fine-meshed net over a small pool of water.
Này các Tỳ-khưu, ví như một người đánh cá lão luyện hoặc đệ tử của người đánh cá, dùng một cái lưới mắt nhỏ bao vây một hồ nước nhỏ.
Tassa evamassa – ‘ye kho keci imasmiṃ udakadahe oḷārikā pāṇā, sabbe te antojālīkatā.
It would occur to him thus: ‘Whatever large creatures are in this pool, all of them are entrapped within the net.
Người ấy sẽ nghĩ thế này: ‘Bất kỳ loài cá lớn nào trong hồ nước này, tất cả chúng đều bị giam hãm trong lưới.
Ettha sitāva ummujjamānā ummujjanti; ettha pariyāpannā antojālīkatāva ummujjamānā ummujjantī’ti; evameva kho, bhikkhave, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā pubbantakappikā vā aparantakappikā vā pubbantāparantakappikā vā pubbantāparantānudiṭṭhino pubbantāparantaṃ ārabbha anekavihitāni adhimuttipadāni abhivadanti, sabbe te imeheva dvāsaṭṭhiyā vatthūhi antojālīkatā ettha sitāva ummujjamānā ummujjanti, ettha pariyāpannā antojālīkatāva ummujjamānā ummujjanti.
Plunging up and down, they do so remaining within this net; entrapped within this net, plunging up and down, they do so remaining within this net.’ In the same way, bhikkhus, whatever recluses or brahmins speculate about the past or speculate about the future, or speculate about the past and the future, holding views concerning the past and the future, and declare various speculative theories concerning the past and the future, all of them are entrapped by these sixty-two grounds, and plunging up and down, they do so remaining within this net, entrapped within this net, plunging up and down, they do so remaining within this net.
Bị mắc kẹt ở đây, chúng trồi lên rồi lặn xuống; bị bao vây ở đây, bị giam hãm trong lưới này, chúng trồi lên rồi lặn xuống.’ Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, bất kỳ Sa-môn hay Bà-la-môn nào, dù là người suy đoán về quá khứ, hay người suy đoán về tương lai, hay người suy đoán về cả quá khứ và tương lai, có những quan kiến về cả quá khứ và tương lai, tuyên bố nhiều loại quan điểm khác nhau về cả quá khứ và tương lai, tất cả những người ấy đều bị giam hãm trong sáu mươi hai luận điểm này, bị mắc kẹt ở đây, họ trồi lên rồi lặn xuống; bị bao vây ở đây, bị giam hãm trong lưới này, họ trồi lên rồi lặn xuống.
147. ‘‘Ucchinnabhavanettiko, bhikkhave, tathāgatassa kāyo tiṭṭhati.
147. “Bhikkhus, the Tathāgata’s body stands with the cord of existence cut.
147. Này các Tỳ-khưu, thân của Như Lai vẫn còn tồn tại với sợi dây ái hữu đã bị cắt đứt.
Yāvassa kāyo ṭhassati, tāva naṃ dakkhanti devamanussā.
As long as his body endures, devas and humans will see him.
Chừng nào thân của Ngài còn tồn tại, chừng ấy chư thiên và loài người còn thấy Ngài.
Kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā na naṃ dakkhanti devamanussā.
With the breaking up of the body, with the exhaustion of life, devas and humans will no longer see him.
Sau khi thân hoại, sau khi mạng sống chấm dứt, chư thiên và loài người sẽ không còn thấy Ngài nữa.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, ambapiṇḍiyā vaṇṭacchinnāya yāni kānici ambāni vaṇṭapaṭibandhāni* , sabbāni tāni tadanvayāni bhavanti; evameva kho, bhikkhave, ucchinnabhavanettiko tathāgatassa kāyo tiṭṭhati, yāvassa kāyo ṭhassati, tāva naṃ dakkhanti devamanussā, kāyassa bhedā uddhaṃ jīvitapariyādānā na naṃ dakkhanti devamanussā’’ti.
“Just as, bhikkhus, when the stem of a mango cluster is cut, all the mangoes that are connected to the stem follow it; in the same way, bhikkhus, the Tathāgata’s body stands with the cord of existence cut. As long as his body endures, devas and humans will see him; with the breaking up of the body, with the exhaustion of life, devas and humans will no longer see him.”
Này các Tỳ-khưu, ví như một chùm xoài khi cuống đã bị cắt, bất kỳ quả xoài nào còn dính vào cuống, tất cả chúng đều bị ảnh hưởng bởi cuống ấy; cũng vậy, này các Tỳ-khưu, thân của Như Lai vẫn còn tồn tại với sợi dây ái hữu đã bị cắt đứt, chừng nào thân của Ngài còn tồn tại, chừng ấy chư thiên và loài người còn thấy Ngài, sau khi thân hoại, sau khi mạng sống chấm dứt, chư thiên và loài người sẽ không còn thấy Ngài nữa.”
148. Evaṃ vutte āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante, ko nāmo ayaṃ, bhante, dhammapariyāyo’’ti?
148. When this was said, Venerable Ānanda said to the Blessed One, “It is wonderful, Venerable Sir! It is amazing, Venerable Sir! What is the name of this discourse, Venerable Sir?”
148. Khi được nói như vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, bài Pháp môn này tên là gì?”
‘‘Tasmātiha tvaṃ, ānanda, imaṃ dhammapariyāyaṃ atthajālantipi naṃ dhārehi, dhammajālantipi naṃ dhārehi, brahmajālantipi naṃ dhārehi, diṭṭhijālantipi naṃ dhārehi, anuttaro saṅgāmavijayotipi naṃ dhārehī’’ti.
“Therefore, Ānanda, you should remember this discourse as the ‘Net of Meaning,’ as the ‘Net of Dhamma,’ as the ‘Supreme Net,’ as the ‘Net of Views,’ and as the ‘Unsurpassed Victory in Battle.’”
“Do đó, này Ānanda, con hãy ghi nhớ bài Pháp môn này là Lưới Lợi Ích (Atthajāla), là Lưới Giáo Pháp (Dhammajāla), là Lưới Phạm Thiên (Brahmajāla), là Lưới Tà Kiến (Diṭṭhijāla), là Chiến Thắng Vô Thượng (Anuttaro Saṅgāmavijayo).”
Idamavoca bhagavā.
This is what the Blessed One said.
Thế Tôn đã nói như vậy.