Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-5

Edit
1743

19. Saṭṭhinipāto

19. Saṭṭhinipāta

19. Saṭṭhinipāta

1744
* 1. Soṇakajātakavaṇṇanā
* 1. Commentary on the Soṇaka Jātaka
* 1. Chú giải Soṇaka Jātaka
1745
Kassa sutvā sataṃ dammīti idaṃ satthā jetavane viharanto nekkhammapāramiṃ ārabbha kathesi.
To whom, having heard, do I give a hundred?” This the Teacher related while dwelling at Jetavana, concerning the perfection of renunciation (nekkhamma-pāramī).
" Kassa sutvā sataṃ dammī" – câu này Đức Phật đã kể khi Ngài trú tại Jetavana, liên quan đến hạnh Ba-la-mật về xuất ly.
Tadā hi bhagavā dhammasabhāyaṃ nekkhammapāramiṃ vaṇṇayantānaṃ bhikkhūnaṃ majjhe nisīditvā ‘‘na, bhikkhave, idāneva, pubbepi tathāgato mahābhinikkhamanaṃ nikkhantoyevā’’ti vatvā atītaṃ āhari.
At that time, the Blessed One, sitting in the Dhamma hall among bhikkhus who were extolling the perfection of renunciation, said, “Bhikkhus, it is not only now, but in the past too, the Tathāgata performed a great renunciation,” and he recounted a past event.
Khi đó, Đức Thế Tôn ngồi giữa các Tỳ-kheo đang ca ngợi hạnh Ba-la-mật về xuất ly trong Pháp đường, Ngài nói: "Này các Tỳ-kheo, không chỉ bây giờ, mà cả trong quá khứ, Như Lai cũng đã thực hiện sự xuất ly vĩ đại," rồi Ngài kể lại câu chuyện quá khứ.
1746
Atīte rājagahe magadharājā nāma rajjaṃ kāresi.
In the past, a king named Magadha reigned in Rājagaha.
Trong quá khứ, có một vị vua tên là Magadha cai trị vương quốc Rājagaha.
Bodhisatto tassa aggamahesiyā kucchismiṃ nibbatti, nāmaggahaṇadivase cassa ‘‘arindamakumāro’’ti nāmaṃ kariṃsu.
The Bodhisatta was reborn in the womb of his chief queen, and on the naming day, they gave him the name “Arindama Kumāra.”
Bồ-tát đản sanh vào bụng của vị hoàng hậu ấy, và vào ngày đặt tên, họ đặt tên cho ngài là ‘‘Arindama Kumāra’’ (Hoàng tử Arindama).
Tassa jātadivaseyeva purohitassapi putto jāyi, ‘‘soṇakakumāro’’tissa nāmaṃ kariṃsu.
On the very day of his birth, a son was also born to the purohita; they named him “Soṇaka Kumāra.”
Ngay trong ngày ngài đản sanh, con trai của vị trưởng lão Bà-la-môn cũng chào đời, và họ đặt tên cho cậu bé là ‘‘Soṇaka Kumāra’’ (Hoàng tử Soṇaka).
Te ubhopi ekatova vaḍḍhitvā vayappattā uttamarūpadharā rūpena nibbisesā hutvā takkasilaṃ gantvā uggahitasippā tato nikkhamitvā ‘‘sabbasamayasippañca desacārittañca jānissāmā’’ti anupubbena cārikaṃ carantā bārāṇasiṃ patvā rājuyyāne vasitvā punadivase nagaraṃ pavisiṃsu.
Both of them grew up together, reached maturity, possessed supreme beauty, were indistinguishable in appearance, and went to Takkasilā. Having mastered their crafts there, they left and, desiring to learn “all arts and local customs,” they traveled gradually and arrived at Bārāṇasī. After staying in the royal park, they entered the city the next day.
Cả hai cùng lớn lên, khi đến tuổi trưởng thành, với dung mạo tuyệt mỹ không khác biệt, họ đến Takkasilā (Taxila) học nghề, rồi từ đó ra đi với ý nghĩ: ‘‘Chúng ta sẽ học tất cả các nghề và phong tục của các nước’’. Họ tuần tự du hành và đến Bārāṇasī, nghỉ lại trong vườn thượng uyển của vua, rồi ngày hôm sau họ vào thành.
Taṃ divasañca ekacce manussā ‘‘brāhmaṇavācanakaṃ karissāmā’’ti pāyāsaṃ paṭiyādetvā āsanāni paññāpetvā āgacchante te kumāre disvā gharaṃ pavesetvā paññattāsane nisīdāpesuṃ.
On that day, some people, intending to perform a “brahminical recitation,” had prepared sweet rice and arranged seats. Seeing the princes approaching, they invited them into the house and seated them on the prepared seats.
Vào ngày hôm đó, một số người muốn ‘‘tổ chức lễ tụng niệm của Bà-la-môn’’ nên đã chuẩn bị món cơm sữa (pāyāsa), sắp đặt chỗ ngồi, và khi thấy hai hoàng tử đang đến, họ mời vào nhà và cho ngồi vào những chỗ đã được sắp đặt.
Tattha bodhisattassa paññattāsane suddhavatthaṃ atthataṃ ahosi, soṇakassa rattakambalaṃ.
There, a clean cloth was spread on the seat for the Bodhisatta, and a red blanket for Soṇaka.
Tại đó, trên chỗ ngồi dành cho Bồ-tát có trải một tấm vải trắng tinh, còn cho Soṇaka là một tấm chăn đỏ.
So taṃ nimittaṃ disvāva ‘‘ajja me piyasahāyo arindamakumāro bārāṇasirājā bhavissati, mayhaṃ pana senāpatiṭṭhānaṃ dassatī’’ti aññāsi.
Seeing that omen, he immediately knew, “Today my dear friend, Prince Arindama, will become the king of Bārāṇasī, and he will give me the position of commander-in-chief.”
Vị ấy vừa thấy điềm lành đó liền biết: ‘‘Hôm nay, người bạn thân của ta là Hoàng tử Arindama sẽ trở thành vua Bārāṇasī, còn ta sẽ được ban chức tổng tư lệnh’’. (capana: Người bạn thân của ta là Arindama sẽ trở thành vua Bārāṇasī, còn ta sẽ được ban chức tổng tư lệnh).
Te ubhopi katabhattakiccā uyyānameva agamaṃsu.
Both of them, having finished their meal, went to the park.
Cả hai sau khi dùng bữa xong thì đi đến vườn thượng uyển.
1747
Tadā bārāṇasirañño kālakatassa sattamo divaso hoti, aputtakaṃ rājakulaṃ.
At that time, it was the seventh day since the king of Bārāṇasī had passed away, and the royal lineage was without an heir.
Lúc bấy giờ là ngày thứ bảy sau khi vua Bārāṇasī băng hà, và hoàng tộc không có con trai nối dõi.
Amaccādayo pātova sasīsaṃ nhātā sannipatitvā ‘‘rajjārahassa santikaṃ gamissatī’’ti phussarathaṃ yojetvā vissajjesuṃ.
The ministers and others, having bathed their heads in the morning, assembled and released the auspicious chariot, saying, “It will go to the one worthy of the kingship.”
Các quan đại thần và những người khác, vào buổi sáng sớm, tắm gội sạch sẽ, tụ họp lại và cho xe hoa (phussaratha) khởi hành, với ý nghĩ ‘‘nó sẽ đi đến nơi của người xứng đáng làm vua’’.
So nagarā nikkhamitvā anupubbena rājuyyānaṃ gantvā uyyānadvāre nivattitvā ārohaṇasajjo hutvā aṭṭhāsi.
It left the city, gradually went to the royal park, turned at the park gate, and stood ready for someone to ascend.
Chiếc xe đó rời khỏi thành, tuần tự đi đến vườn thượng uyển, dừng lại ở cổng vườn và đứng sẵn sàng để người lên.
Bodhisatto maṅgalasilāpaṭṭesasīsaṃ pārupitvā nipajji, soṇakakumāro tassa santike nisīdi.
The Bodhisatta lay down, covering his head with an auspicious stone slab, and Soṇaka Kumāra sat near him.
Bồ-tát nằm nghỉ trên tảng đá thiêng (maṅgalasilāpaṭṭa) với đầu đắp kín, Hoàng tử Soṇaka ngồi bên cạnh ngài.
So tūriyasaddaṃ sutvā ‘‘arindamassa phussaratho āgacchati, ajjesa rājā hutvā mama senāpatiṭṭhānaṃ dassati, na kho pana mayhaṃ issariyenattho, etasmiṃ gate nikkhamitvā pabbajissāmī’’ti cintetvā ekamante paṭicchanne aṭṭhāsi.
Hearing the sound of trumpets, he thought, “Arindama’s auspicious chariot is coming. Today he will become king and give me the position of commander-in-chief. But I have no desire for sovereignty; when he leaves, I will renounce and go forth.” So, he stood hidden to one side.
Nghe tiếng nhạc, vị ấy nghĩ: ‘‘Xe hoa đang đến đón Arindama. Hôm nay, vị ấy sẽ trở thành vua và ban cho ta chức tổng tư lệnh. Nhưng ta không cần quyền lực. Khi vị ấy đi rồi, ta sẽ xuất gia’’, rồi đứng ẩn mình một bên.
Purohito uyyānaṃ pavisitvā mahāsattaṃ nipannakaṃ disvā tūriyāni paggaṇhāpesi.
The purohita entered the park, saw the Great Being lying down, and had the trumpets sounded.
Vị trưởng lão Bà-la-môn vào vườn, thấy Đại sĩ đang nằm, liền ra hiệu cho các nhạc công ngưng tấu nhạc.
Mahāsatto pabujjhitvā parivattitvā thokaṃ nipajjitvā uṭṭhāya silāpaṭṭe pallaṅkena nisīdi.
The Great Being awoke, turned over, lay for a moment, then rose and sat cross-legged on the stone slab.
Đại sĩ thức dậy, trở mình nằm thêm một lát rồi đứng dậy, ngồi kiết già trên tảng đá.
Atha naṃ purohito añjaliṃ paggaṇhitvā āha – ‘‘rajjaṃ te, deva, pāpuṇātī’’ti.
Then the purohita, raising his clasped hands, said to him, “The kingship, O Deva, has come to you.”
Bấy giờ, vị trưởng lão Bà-la-môn chắp tay thưa: ‘‘Thưa Thiên tử, vương quốc thuộc về ngài’’.
‘‘Kiṃ aputtakaṃ rājakula’’nti?
“Is the royal lineage without an heir?”
‘‘Hoàng tộc không có con trai sao?’’
‘‘Evaṃ, devā’’ti.
“Yes, O Deva.”
‘‘Vâng, thưa Thiên tử’’.
‘‘Tena hi sādhū’’ti.
“Then it is well,” he said.
‘‘Vậy thì tốt rồi’’.
Atha naṃ te tattheva abhisiñcitvā rathaṃ āropetvā mahantena parivārena nagaraṃ pavesesuṃ.
Then they anointed him right there, placed him in the chariot, and led him into the city with a large retinue.
Sau đó, họ làm lễ quán đảnh cho ngài ngay tại đó, rồi rước ngài lên xe và đưa vào thành với đoàn tùy tùng lớn.
So nagaraṃ padakkhiṇaṃ katvā pāsādaṃ abhirūhi.
He circumambulated the city and ascended the palace.
Ngài đi nhiễu quanh thành rồi lên cung điện.
So yasamahantatāya soṇakakumāraṃ na sari.
Due to his great glory, he did not remember Soṇaka Kumāra.
Vì sự vĩ đại của vinh quang, ngài đã quên mất Hoàng tử Soṇaka.
1748
Sopi tasmiṃ nagaraṃ paviṭṭhe pacchā āgantvā silāpaṭṭe nisīdi.
He (Soṇaka), after the king had entered the city, came and sat on the stone slab.
Vị ấy (Soṇaka) cũng đi theo sau khi đức vua đã vào thành, rồi ngồi trên tảng đá.
Athassa purato bandhanā pavuttaṃ sālarukkhato paṇḍupalāsaṃ pati.
Then, a withered leaf fell from a Sāla tree that stood in front of him.
Bấy giờ, một chiếc lá vàng từ cây sala trước mặt, nơi những sợi dây buộc, rơi xuống.
So taṃ disvāva ‘‘yathevetaṃ, tathā mamapi sarīraṃ jaraṃ patvā patissatī’’ti aniccādivasena vipassanaṃ paṭṭhapetvā paccekabodhiṃ pāpuṇi.
Seeing it, he immediately established insight based on impermanence, thinking, “Just as this, so too will my body fall into decay and perish,” and he attained Paccekabodhi.
Vị ấy vừa thấy chiếc lá đó liền nghĩ: ‘‘Cũng như chiếc lá này, thân ta rồi cũng sẽ già nua và rơi rụng’’. Vị ấy bắt đầu quán chiếu về vô thường và những điều tương tự, rồi chứng đắc Độc Giác Bồ-đề.
Taṃkhaṇaññevassa gihiliṅgaṃ antaradhāyi, pabbajitaliṅgaṃ pāturahosi.
At that very moment, his lay attire disappeared, and the attire of a renunciant appeared.
Ngay lúc đó, y phục cư sĩ của vị ấy biến mất, và y phục xuất gia xuất hiện.
So ‘‘natthi dāni punabbhavo’’ti udānaṃ udānento nandamūlakapabbhāraṃ agamāsi.
Uttering the exclamation, “There is no more rebirth now,” he went to the Nandamūlaka Cave.
Vị ấy thốt lên lời cảm hứng ‘‘không còn tái sanh nữa’’, rồi đi đến hang động Nandamūlaka.
Mahāsattopi cattālīsamattānaṃ saṃvaccharānaṃ accayena saritvā ‘‘kahaṃ nu kho me sahāyo soṇako’’ti soṇakaṃ punappunaṃ sarantopi ‘‘mayā suto vā diṭṭho vā’’ti vattāraṃ alabhitvā alaṅkatamahātale rājapallaṅke nisinno gandhabbanāṭakanaccagītādīhi parivuto sampattimanubhavanto ‘‘yo me kassaci santike sutvā ‘asukaṭṭhāne nāma soṇako vasatī’ti ācikkhissati, tassa sataṃ dassāmi, yo me sāmaṃ disvā ārocessati, tassa sahassa’’nti ekaṃ udānaṃ abhisaṅkharitvā gītavasena udānento paṭhamaṃ gāthamāha –
After the passing of exactly forty years, the Bodhisatta, remembering, "Where indeed is my friend Soṇaka?", and though remembering Soṇaka again and again, not finding anyone who would say, "I have heard or seen him," sat on the royal couch in the magnificently adorned great hall, surrounded by musicians, actors, dancers, singers, and so forth, experiencing prosperity. He formulated an inspired utterance: "Whoever, having heard from anyone, tells me, 'Soṇaka lives in such and such a place,' to him I will give a hundred. Whoever, having seen him himself, informs me, to him I will give a thousand." Uttering this in the form of a song, he spoke the first verse:
Đại sĩ, sau khoảng bốn mươi năm, nhớ lại và tự hỏi: ‘‘Bạn Soṇaka của ta bây giờ ở đâu?’’ Dù nhớ Soṇaka nhiều lần, nhưng không tìm được ai nói rằng ‘‘tôi đã nghe hoặc thấy Soṇaka ở chỗ nọ’’. Ngài ngồi trên ngai vàng trong cung điện được trang hoàng lộng lẫy, được bao quanh bởi các ca múa, nhạc kịch và ca hát, tận hưởng sự thịnh vượng, rồi thốt lên một lời cảm hứng theo lối ca hát: ‘‘Ai nghe được tin tức và báo cho ta biết Soṇaka ở đâu, ta sẽ thưởng một trăm (đồng tiền). Ai tự mình thấy và báo cho ta biết, ta sẽ thưởng một ngàn’’. Ngài nói lên bài kệ đầu tiên:
1749
‘‘Kassa sutvā sataṃ dammi, sahassaṃ diṭṭha soṇakaṃ;
"Having heard from whom shall I give a hundred? A thousand for seeing Soṇaka!
‘‘Nghe tin ai, ta thưởng một trăm, thấy Soṇaka, ta thưởng một ngàn;
1750
Ko me soṇakamakkhāti, sahāyaṃ paṃsukīḷita’’nti.
Who will tell me of Soṇaka, my friend from playing in the sand?"
Ai báo cho ta biết Soṇaka, người bạn chơi cát của ta?’’
1751
Athassa mukhato luñcantī viya gahetvā ekā nāṭakītthī taṃ gāyi.
Then, as if snatching it from his mouth, a certain actress sang it.
Bấy giờ, một vũ nữ như thể giật lấy từ miệng ngài, đã hát bài kệ đó.
Athaññā athaññāti ‘‘amhākaṃ rañño piyagīta’’nti sabbā orodhā gāyiṃsu.
Then another, and another—all the royal women sang it, saying, "This is our king's favorite song."
Rồi người này đến người khác, tất cả các cung nữ đều hát bài kệ đó, vì nghĩ ‘‘đây là bài hát yêu thích của đức vua chúng ta’’.
Anukkamena nagaravāsinopi jānapadāpi tameva gītaṃ gāyiṃsu.
Gradually, the townspeople and also the country folk sang that very song.
Dần dần, dân chúng trong thành và cả dân ở các vùng quê cũng hát bài kệ đó.
Rājāpi punappunaṃ tameva gītaṃ gāyati.
The king also sang that very song again and again.
Đức vua cũng nhiều lần hát bài kệ đó.
Paṇṇāsamattānaṃ saṃvaccharānaṃ accayena panassa bahū puttadhītaro ahesuṃ, jeṭṭhaputto dīghāvukumāro nāma ahosi.
After the passing of exactly fifty years, he had many sons and daughters; his eldest son was named Dīghāvukumāra.
Sau khoảng năm mươi năm, ngài có nhiều con trai và con gái. Con trai cả tên là Dīghāvu Kumāra (Hoàng tử Dīghāvu).
Tadā soṇakapaccekabuddho ‘‘arindamarājā maṃ daṭṭhukāmo, ahaṃ tattha gantvā kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme cānisaṃsaṃ kathetvā pabbajjanākāraṃ karomī’’ti cintetvā iddhiyā ākāsenāgantvā uyyāne nisīdi.
At that time, Soṇaka Paccekabuddha, thinking, "King Arindama wishes to see me; I will go there, speak of the danger in sensual pleasures and the benefit in renunciation, and create an opportunity for him to go forth," came through the air by psychic power and sat in the royal park.
Lúc bấy giờ, Độc Giác Phật Soṇaka nghĩ: ‘‘Vua Arindama muốn gặp ta. Ta sẽ đến đó, nói về sự nguy hiểm của dục lạc và lợi ích của sự xuất ly, rồi tạo cơ hội cho việc xuất gia’’. Vị ấy dùng thần thông bay đến và ngồi trong vườn thượng uyển.
Tadā eko sattavassiko pañcacūḷakakumārako mātarā pahito gantvā uyyānavane dārūni uddharanto punappunaṃ tameva gītaṃ gāyi.
Then, a seven-year-old boy with five topknots, sent by his mother, went to the park and, while gathering firewood, sang that very song again and again.
Bấy giờ, một cậu bé bảy tuổi, với năm búi tóc (pañcacūḷaka), được mẹ sai đi, đang nhặt củi trong vườn và cứ hát đi hát lại bài kệ đó.
Atha naṃ so pakkositvā ‘‘kumāraka, tvaṃ aññaṃ agāyitvā ekameva gītaṃ gāyasi, kiṃ aññaṃ na jānāsī’’ti pucchi.
Then Soṇaka called him and asked, "Boy, you sing only one song and no other; do you not know any other?"
Bấy giờ, vị ấy gọi cậu bé lại và hỏi: ‘‘Này cậu bé, con không hát bài nào khác mà chỉ hát một bài này thôi sao? Con không biết bài nào khác à?’’
‘‘Jānāmi, bhante, amhākaṃ pana rañño idameva piyaṃ, tena naṃ punnappunaṃ gāyāmī’’ti.
"I know others, venerable sir, but this is our king's favorite, so I sing it again and again."
‘‘Bạch ngài, con biết. Nhưng đây là bài hát yêu thích của đức vua chúng con, nên con cứ hát đi hát lại’’, cậu bé đáp.
‘‘Etassa pana te gītassa paṭigītaṃ gāyanto koci diṭṭhapubbo’’ti.
"Have you ever seen anyone sing a counter-song to this song of yours?"
‘‘Con đã từng thấy ai hát đáp lại bài hát này chưa?’’
‘‘Na diṭṭhapubbo, bhante’’ti.
"Never, venerable sir."
‘‘Bạch ngài, con chưa từng thấy’’, cậu bé đáp.
‘‘Ahaṃ taṃ sikkhāpessāmi, sakkhissasi rañño santikaṃ gantvā paṭigītaṃ gāyitu’’nti.
"I will teach you; will you be able to go to the king and sing a counter-song?"
‘‘Ta sẽ dạy con. Con có thể đến gặp đức vua và hát đáp lại không?’’
‘‘Āma, bhante’’ti.
"Yes, venerable sir."
‘‘Vâng, bạch ngài’’, cậu bé đáp.
Athassa so paṭigītaṃ ācikkhanto ‘‘mayhaṃ sutvā’’tiādimāha.
Then, teaching him the counter-song, he began with "mayhaṃ sutvā" (having heard from me).
Bấy giờ, vị ấy dạy cậu bé bài hát đáp lại, bắt đầu bằng ‘‘mayhaṃ sutvā’’ (nghe ta nói).
Uggaṇhāpetvā ca pana taṃ uyyojesi – ‘‘gaccha, kumāraka, imaṃ paṭigītaṃ raññā saddhiṃ gāyāhi, rājā te mahantaṃ issariyaṃ dassati, kiṃ te dārūhi, vegena yāhī’’ti.
Having taught him, he sent him off: "Go, boy, sing this counter-song with the king. The king will give you great authority. What use is firewood to you? Go quickly!"
Sau khi dạy xong, vị ấy tiễn cậu bé đi: ‘‘Hãy đi đi, cậu bé. Hãy hát bài đáp lại này cùng với đức vua. Đức vua sẽ ban cho con quyền lực lớn. Củi đối với con có ích gì? Hãy đi nhanh lên!’’
1752
So ‘‘sādhū’’ti taṃ paṭigītaṃ uggaṇhitvā vanditvā, ‘‘bhante, yāvāhaṃ rājānaṃ ānemi, tāva idheva hothā’’ti vatvā vegena mātu santikaṃ gantvā, ‘‘amma, khippaṃ maṃ nhāpetvā alaṅkarotha, ajja taṃ daliddabhāvato mocessāmī’’ti vatvā nhātamaṇḍito rājadvāraṃ gantvā ‘‘ayya dovārika, ‘eko dārako tumhehi saddhiṃ paṭigītaṃ gāyissāmīti āgantvā dvāre ṭhito’ti rañño arocehī’’ti āha.
He said, "Very well," learned that counter-song, paid homage, and said, "Venerable sir, please remain here until I bring the king," then quickly went to his mother and said, "Mother, quickly bathe and adorn me; today I will free you from poverty." Having bathed and adorned, he went to the royal palace gate and said, "Sir doorkeeper, please inform the king that 'a boy has come and is standing at the gate, saying he will sing a counter-song with you.'"
Cậu bé nói ‘‘Vâng’’, học thuộc bài hát đáp lại đó, đảnh lễ, rồi nói: ‘‘Bạch ngài, xin ngài cứ ở đây cho đến khi con đưa đức vua đến’’. Sau đó, cậu bé nhanh chóng về nhà mẹ, nói: ‘‘Mẹ ơi, hãy nhanh chóng tắm rửa và trang điểm cho con. Hôm nay con sẽ giải thoát mẹ khỏi cảnh nghèo khó’’. Sau khi tắm rửa và trang điểm xong, cậu bé đến cổng cung điện và nói: ‘‘Thưa ngài gác cổng, xin hãy báo với đức vua rằng ‘có một cậu bé đến cổng và muốn hát đáp lại cùng với ngài’ ’’.
So vegena gantvā rañño ārocesi.
He quickly went and informed the king.
Vị ấy nhanh chóng đi báo với đức vua.
Rājā ‘‘āgacchatū’’ti pakkosāpetvā, ‘‘tāta, tvaṃ mayā saddhiṃ paṭigītaṃ gāyissasī’’ti āha.
The king had him called and said, "My son, will you sing a counter-song with me?"
Đức vua cho gọi cậu bé vào và nói: ‘‘Này con, con sẽ hát đáp lại cùng với ta sao?’’
‘‘Āma, devā’’ti.
"Yes, Your Majesty."
‘‘Vâng, thưa Thiên tử’’, cậu bé đáp.
‘‘Tena hi gāyassū’’ti.
"Then sing!"
‘‘Vậy thì hãy hát đi!’’
‘‘Deva, imasmiṃ ṭhāne na gāyāmi, nagare pana bheriṃ carāpetvā mahājanaṃ sannipātāpetha, mahājanamajjhe gāyissāmī’’ti.
"Your Majesty, I will not sing in this place. Please have a drum beaten in the city and gather the great multitude; I will sing in the midst of the multitude."
‘‘Thưa Thiên tử, con sẽ không hát ở đây. Xin ngài hãy cho đánh trống trong thành và tập hợp đại chúng lại. Con sẽ hát giữa đại chúng’’.
Rājā tathā kāretvā alaṅkatamaṇḍape pallaṅkamajjhe nisīditvā tassānurūpaṃ āsanaṃ dāpetvā ‘‘idāni tava gītaṃ gāyassū’’ti āha.
The king had it done accordingly, and sitting in the middle of the couch in the adorned pavilion, he had a suitable seat given to the boy and said, "Now, sing your song."
Đức vua làm theo, rồi ngồi giữa ngai vàng trong một sảnh đường được trang hoàng lộng lẫy, cho đặt một chỗ ngồi tương xứng cho cậu bé, rồi nói: ‘‘Bây giờ, hãy hát bài hát của con đi!’’
‘‘Deva, tumhe tāva gāyatha, athāhaṃ paṭigītaṃ gāyissāmī’’ti.
"Your Majesty, you sing first, then I will sing the counter-song."
‘‘Thưa Thiên tử, xin ngài hãy hát trước, sau đó con sẽ hát đáp lại’’.
Tato rājā paṭhamaṃ gāyanto gāthamāha –
Then the king, singing first, spoke the verse:
Bấy giờ, đức vua hát bài kệ đầu tiên:
1753
1.
1.
1.
1754
‘‘Kassa sutvā sataṃ dammi, sahassaṃ diṭṭha soṇakaṃ;
"Having heard from whom shall I give a hundred? A thousand for seeing Soṇaka!
‘‘Nghe tin ai, ta thưởng một trăm, thấy Soṇaka, ta thưởng một ngàn;
1755
So me soṇakamakkhāti, sahāyaṃ paṃsukīḷita’’nti.
Who will tell me of Soṇaka, my friend from playing in the sand?"
Ai báo cho ta biết Soṇaka, người bạn chơi cát của ta?’’
1756
Tattha sutvāti ‘‘asukaṭṭhāne nāma te piyasahāyo soṇako vasatī’’ti tassa vasanaṭṭhānaṃ sutvā ārocentassa kassa sataṃ dammi.
Here, sutvā means: "to whom shall I give a hundred who, having heard of his dwelling place, 'my dear friend Soṇaka lives in such and such a place,' informs me?"
Trong đó, sutvā (nghe tin): ‘‘Ta thưởng một trăm cho ai nghe và báo cho ta biết nơi ở của người bạn thân Soṇaka của ta, rằng ‘Soṇaka sống ở nơi nọ’ ’’.
Diṭṭhāti ‘‘asukaṭṭhāne nāma mayā diṭṭho’’ti disvā ārocentassa kassa sahassaṃ dammīti.
Seen means, "I will give a thousand to whoever reports, having seen, 'He was seen by me in such and such a place.'"
Diṭṭhā (thấy): ‘‘Ta thưởng một ngàn cho ai thấy và báo cho ta biết, rằng ‘tôi đã thấy ở nơi nọ’ ’’.
1757
Evaṃ raññā paṭhamaṃ udānagāthāya gītāya pañcacūḷakadārakena paṭigītabhāvaṃ pakāsento satthā abhisambuddho hutvā dīyaḍḍhagāthā abhāsi –
Thus, the Teacher, having become fully enlightened, spoke one and a half verses, revealing how the five-crested boy sang in response to the king's first utterance-verse –
Khi đức vua đã hát bài kệ cảm hứng đầu tiên như vậy, Đức Phật Toàn Giác, để bày tỏ việc cậu bé năm búi tóc đã hát đáp lại, đã thuyết giảng một bài kệ rưỡi:
1758
2.
2.
2.
1759
‘‘Athabravī māṇavako, daharo pañcacūḷako;
"Then the young boy spoke, the five-crested one;
‘‘Bấy giờ, cậu bé năm búi tóc trẻ tuổi nói:
1760
Mayhaṃ sutvā sataṃ dehi, sahassaṃ diṭṭha soṇakaṃ;
Give me the hundred for hearing, the thousand for seeing Soṇaka;
Nghe lời ta, hãy thưởng một trăm, thấy Soṇaka, hãy thưởng một ngàn;
1761
Ahaṃ te soṇakakkhissaṃ, sahāyaṃ paṃsukīḷita’’nti.
I will show you Soṇaka, your playmate from the dust."
Ta sẽ báo cho ngài biết Soṇaka, người bạn chơi cát của ngài’’.
1762
Tena vuttagāthāya pana ayamattho – mahārāja, yaṃ tvaṃ ‘‘sutvā ārocentassa sataṃ dammī’’ti vadasi, tampi mameva dehi, yaṃ ‘‘disvā ārocentassa sahassaṃ dammī’’ti vadasi, tampi mayhameva dehi, ahaṃ te piyasahāyaṃ idāneva paccakkhatova ‘‘ayaṃ soṇako’’ti ācikkhissanti.
The meaning of the verse spoken by him is this: "Great king, that which you say, 'I will give a hundred to whoever reports, having heard,' give that to me; and that which you say, 'I will give a thousand to whoever reports, having seen,' give that also to me. I will now directly point out your dear friend, 'This is Soṇaka.'"
Ý nghĩa của bài kệ được vị ấy nói là: ‘‘Đại vương, cái mà ngài nói ‘ta thưởng một trăm cho ai nghe và báo tin’, xin hãy ban cho chính con. Cái mà ngài nói ‘ta thưởng một ngàn cho ai thấy và báo tin’, xin cũng ban cho chính con. Con sẽ báo cho ngài biết người bạn thân của ngài ngay bây giờ, tận mắt thấy rằng ‘đây là Soṇaka’ ’’.
1763
Ito paraṃ suviññeyyā sambuddhagāthā pāḷinayeneva veditabbā –
From this point on, the Buddha's verses, being easily understandable, should be known according to the Pali text itself –
Từ đây trở đi, những bài kệ của bậc Chánh Đẳng Giác, dễ hiểu, nên được biết theo phương pháp Pali –
1764
3.
3.
3.
1765
‘‘Katamasmiṃ so janapade, raṭṭhesu nigamesu ca;
"In which country, among which realms and towns,
“Trong xứ sở nào,
1766
Kattha soṇakamaddakkhi, taṃ me akkhāhi pucchito.
Where did you see Soṇaka? Tell me, when asked.
Trong những quốc độ, thị trấn nào; Ngài đã thấy Soṇaka ở đâu? Khi ta hỏi, hãy nói cho ta biết điều đó.”
1767
4.
4.
4.
1768
‘‘Taveva deva vijite, tavevuyyānabhūmiyaṃ;
"Indeed, in your own dominion, in your own pleasure garden;
“Thưa Đại Vương, trong vương quốc của ngài, trong khu vườn của ngài;
1769
Ujuvaṃsā mahāsālā, nīlobhāsā manoramā.
There are straight-trunked, great sāla trees, dark blue and delightful.
Có những cây sala lớn, thân thẳng tắp, xanh biếc và đẹp đẽ.
1770
5.
5.
5.
1771
‘‘Tiṭṭhanti meghasamānā, rammā aññoññanissitā;
They stand like clouds, charming, interdependent;
Chúng đứng tựa như mây, đẹp đẽ, nương tựa lẫn nhau;
1772
Tesaṃ mūlamhi soṇako, jhāyatī anupādano;
At their root, Soṇaka meditates, without clinging;
Dưới gốc cây ấy, Soṇaka đang thiền định, không còn chấp thủ;
1773
Upādānesu lokesu, ḍayhamānesu nibbuto.
Amidst worlds burning with clinging, he is extinguished."
Giữa thế gian đang bốc cháy bởi chấp thủ, Ngài đã tịch tịnh.”
1774
6.
6.
6.
1775
‘‘Tato ca rājā pāyāsi, senāya caturaṅgiyā;
Then the king set out with his fourfold army;
Sau đó, nhà vua khởi hành, với quân đội bốn binh chủng;
1776
Kārāpetvā samaṃ maggaṃ, agamā yena soṇako.
Having had the path leveled, he went to where Soṇaka was.
Sau khi cho san bằng con đường, Ngài đi đến chỗ Soṇaka.
1777
7.
7.
7.
1778
‘‘Uyyānabhūmiṃ gantvāna, vicaranto brahāvane;
Having gone to the pleasure garden, wandering in the great forest;
Đến khu vườn, đi dạo trong khu rừng lớn;
1779
Āsīnaṃ soṇakaṃ dakkhi, ḍayhamānesu nibbuta’’nti.
He saw Soṇaka seated, extinguished amidst the burning."
Ngài thấy Soṇaka đang ngồi, tịch tịnh giữa những điều đang bốc cháy.”
1780
Tattha ujuvaṃsāti ujukkhandhā.
Therein, ujuvaṃsā means with straight trunks.
Ở đây, ujuvaṃsā nghĩa là có thân cây thẳng.
Mahāsālāti mahārukkhā.
Mahāsālā means great trees.
Mahāsālā nghĩa là những cây lớn.
Meghasamānāti nīlameghasadisā.
Meghasamānā means like dark blue clouds.
Meghasamānā nghĩa là giống như những đám mây xanh đậm.
Rammāti ramaṇīyā.
Rammā means delightful.
Rammā nghĩa là đáng yêu, đẹp đẽ.
Aññoññanissitāti sākhāhi sākhaṃ, mūlena mūlaṃ saṃsibbitvā ṭhitā.
Aññoññanissitā means standing intertwined, branch with branch, root with root.
Aññoññanissitā nghĩa là những cây đứng đan xen cành với cành, gốc với gốc.
Tesanti tesaṃ evarūpānaṃ tava uyyānavane sālānaṃ heṭṭhā.
Tesaṃ means beneath those sāla trees of such kind in your pleasure garden.
Tesaṃ nghĩa là dưới những cây sala như vậy trong khu vườn của ngài.
Jhāyatīti lakkhaṇūpanijjhānaārammaṇūpanijjhānasaṅkhātehi jhānehi jhāyati.
Jhāyatī means he meditates with jhānas, which are discerning observation of characteristics and discerning observation of the object.
Jhāyati nghĩa là thiền định với các thiền định bao gồm lakkhaṇūpanijjhāna (thiền quán tướng) và ārammaṇūpanijjhāna (thiền quán đối tượng).
Anupādanoti kāmupādānādivirahito.
Anupādano means free from clinging to sensuality and so forth.
Anupādano nghĩa là không có kāmupādāna (chấp thủ dục lạc) và các loại chấp thủ khác.
Ḍayhamānesūti ekādasahi aggīhi ḍayhamānesu sattesu.
Ḍayhamānesu means among beings burning with the eleven fires.
Ḍayhamānesu nghĩa là giữa chúng sanh đang bị mười một ngọn lửa thiêu đốt.
Nibbutoti te aggī nibbāpetvā sītalena hadayena jhāyamāno tava uyyāne maṅgalasālarukkhamūle silāpaṭṭe nisinno esa te sahāyo kañcanapaṭimā viya sobhamāno paṭimānetīti.
Nibbuto means having extinguished those fires, meditating with a cool heart, seated on a stone slab at the foot of an auspicious sāla tree in your pleasure garden, that friend of yours, shining like a golden image, awaits you.
Nibbuto nghĩa là đã dập tắt những ngọn lửa ấy, với trái tim mát lạnh đang thiền định, ngồi trên phiến đá dưới gốc cây sala cát tường trong khu vườn của ngài, người bạn ấy của ngài đang chờ đợi, rạng rỡ như một bức tượng vàng.
Tato cāti, bhikkhave, tato so arindamo rājā tassa vacanaṃ sutvāva ‘‘soṇakapaccekabuddhaṃ passissāmī’’ti caturaṅginiyā senāya pāyāsi nikkhami.
Tato cāti, monks, then that king, the subduer of enemies, having heard his words, set out with a fourfold army, thinking, "I will see the Paccekabuddha Soṇaka."
Tato cā nghĩa là, này các Tỳ-kheo, sau khi nghe lời ấy, vua Arindama liền khởi hành với quân đội bốn binh chủng, nói rằng: “Ta sẽ đi gặp Soṇaka Độc Giác Phật.”
Vicarantoti ujukameva agantvā tasmiṃ mahante vanasaṇḍe vicaranto tassa santikaṃ gantvā taṃ āsīnaṃ addakkhi.
Vicaranto means not going straight, but wandering in that great forest grove, he went to him and saw him seated.
Vicaranto nghĩa là không đi thẳng mà đi dạo trong khu rừng lớn ấy, đến gần Ngài và thấy Ngài đang ngồi.
1781
So taṃ avanditvā ekamantaṃ nisīditvā attano kilesābhiratattā taṃ ‘‘kapaṇo’’ti maññamāno imaṃ gāthamāha –
Without saluting him, he sat down at one side and, due to his attachment to defilements, considering him to be "wretched," spoke this verse –
Không đảnh lễ Ngài, vua ngồi sang một bên, vì quá đắm chìm trong phiền não của mình, vua nghĩ Ngài là “kẻ đáng thương” và nói bài kệ này:
1782
8.
8.
8.
1783
‘‘Kapaṇo vatayaṃ bhikkhu, muṇḍo saṅghāṭipāruto;
"Indeed, this bhikkhu is wretched, shaven, clad in a patched robe;
“Thật đáng thương thay vị Tỳ-kheo này,
1784
Amātiko apitiko, rukkhamūlasmi jhāyatī’’ti.
Without mother, without father, he meditates at the foot of a tree."
Đầu trọc, đắp y hoại sắc, không mẹ, không cha, đang thiền định dưới gốc cây.”
1785
Tattha jhāyatīti nimmātiko nippitiko kāruññappatto jhāyati.
Therein, jhāyatī means he meditates, having no mother, having no father, having attained compassion.
Ở đây, jhāyati nghĩa là thiền định, không mẹ, không cha, đáng thương.
1786
9.
9.
9.
1787
‘‘Imaṃ vākyaṃ nisāmetvā, soṇako etadabravi;
"Hearing this statement, Soṇaka said this;
“Nghe lời nói này, Soṇaka liền nói:
1788
Na rāja kapaṇo hoti, dhammaṃ kāyena phassayaṃ.
O king, one who touches the Dhamma with the body is not wretched.
Thưa Đại Vương, người cảm nhận Pháp bằng thân không phải là kẻ đáng thương.
1789
10.
10.
10.
1790
‘‘Yo ca dhammaṃ niraṃkatvā, adhammamanuvattati;
But he who rejects the Dhamma and follows unrighteousness;
Còn kẻ nào từ bỏ Pháp, sống theo phi Pháp;
1791
Sa rāja kapaṇo hoti, pāpo pāpaparāyaṇo’’ti.
He, O king, is wretched, evil, with evil as his destination."
Kẻ ấy, thưa Đại Vương, mới là kẻ đáng thương, kẻ ác, kẻ có ác nghiệp là nơi nương tựa.”
1792
Tattha imanti tassa kilesābhiratassa pabbajjaṃ arocentassa imaṃ pabbajjāgarahavacanaṃ sutvā.
Therein, imaṃ means having heard this word of reproach for asceticism from that person attached to defilements.
Ở đây, imaṃ nghĩa là sau khi nghe lời trách móc về đời sống xuất gia này từ kẻ đắm chìm trong phiền não ấy.
Etadabravīti pabbajjāya guṇaṃ pakāsento etaṃ abravi.
Etadabravī means he spoke this, revealing the virtue of asceticism.
Etadabravī nghĩa là nói điều này để tuyên bố công đức của đời sống xuất gia.
Phassayanti phassayanto yena ariyamaggadhammo nāmakāyena phassito, so kapaṇo nāma na hotīti dassento evamāha.
Phassayaṃ means touching; he said this to show that one by whom the noble path Dhamma has been touched with the mental body is not called wretched.
Phassayaṃ nghĩa là đang cảm nhận. Ngài nói như vậy để chỉ ra rằng người nào đã cảm nhận Pháp Thánh Đạo bằng thân thì không phải là kẻ đáng thương.
Niraṃkatvāti attabhāvato nīharitvā.
Niraṃkatvā means having removed from one's own being.
Niraṃkatvā nghĩa là loại bỏ khỏi sự tồn tại.
Pāpo pāpaparāyaṇoti sayaṃ pāpānaṃ karaṇena pāpo, aññesampi karontānaṃ patiṭṭhābhāvena pāpaparāyaṇoti.
Pāpo pāpaparāyaṇo means he is evil by committing evil deeds himself, and he has evil as his destination by being a support for others who commit them.
Pāpo pāpaparāyaṇo nghĩa là tự mình làm điều ác nên là kẻ ác, và vì là chỗ dựa cho những người khác làm điều ác nên có ác nghiệp là nơi nương tựa.
1793
Evaṃ so bodhisattaṃ garahi.
Thus, he reproached the Bodhisatta.
Như vậy, vua đã trách móc Bồ-tát.
So attano garahitabhāvaṃ ajānanto viya hutvā nāmagottaṃ kathetvā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ karonto gāthamāha –
So, as if unaware of his blameworthiness, he stated his name and clan, and making friendly conversation with him, he spoke a verse –
Bồ-tát, giả vờ như không biết mình bị trách móc, nói tên và dòng họ của mình, rồi bắt chuyện với vua bằng bài kệ:
1794
11.
11.
11.
1795
‘‘Arindamoti me nāmaṃ, kāsirājāti maṃ vidū;
‘‘My name is Arindama; they know me as the King of Kasi;
“Tên của ta là Arindama, người ta biết ta là vua xứ Kasi;
1796
Kacci bhoto sukhasseyyā, idha pattassa soṇakā’’ti.
Is your rest comfortable, sir, having arrived here, O recluse?’’
Này Soṇaka, ngài có ngủ ngon không, khi đến đây?”
1797
Tattha kaccīti amhākaṃ tāva na kiñci aphāsukaṃ, bhoto pana kacci idha pattassa imasmiṃ uyyāne vasato sukhavihāroti pucchati.
Here, kacci means, "For us, there is nothing uncomfortable; but for you, sir, having arrived here and dwelling in this park, is your abiding comfortable?" he asks.
Ở đây, kaccī nghĩa là hỏi: “Chúng tôi thì không có gì bất tiện, nhưng ngài, khi đến đây, sống trong khu vườn này có được an lạc không?”
1798
Atha naṃ paccekabuddho, ‘‘mahārāja, na kevalaṃ idha, aññatrāpi vasantassa me asukhaṃ nāma natthī’’ti vatvā tassa samaṇabhadragāthāyo nāma ārabhi –
Then the Paccekabuddha, saying, ‘‘Great King, not only here, but dwelling elsewhere too, there is no discomfort for me,’’ began to recite what are called the Verses on the Fortunate Ascetic for him –
Bấy giờ, Độc Giác Phật nói với vua: “Đại Vương, không chỉ ở đây, mà ở bất cứ nơi nào tôi sống cũng không có gì bất an,” rồi Ngài bắt đầu nói những bài kệ gọi là Samaṇabhadragāthā:
1799
12.
12.
12.
1800
‘‘Sadāpi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Always fortunate is the mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Luôn luôn là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1801
Na tesaṃ koṭṭhe openti, na kumbhiṃ na kaḷopiyaṃ;
They do not store in granaries, nor in pots, nor in baskets;
Họ không cất giữ trong kho lúa, không trong chum, không trong giỏ;
1802
Paraniṭṭhitamesānā, tena yāpenti subbatā.
Seeking what is prepared by others, the virtuous ones sustain themselves with that.
Những người giữ giới hạnh tốt đẹp ấy sống bằng cách tìm kiếm thức ăn đã được chuẩn bị sẵn của người khác.”
1803
13.
13.
13.
1804
‘‘Dutiyampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Secondly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ hai, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1805
Anavajjapiṇḍo bhottabbo, na ca kocūparodhati.
He should consume blameless almsfood, and no one should trouble him.
Thức ăn khất thực không có lỗi phải được thọ dụng, và không có gì làm phiền nhiễu.”
1806
14.
14.
14.
1807
‘‘Tatiyampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Thirdly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ ba, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1808
Nibbuto piṇḍo bhottabbo, na ca kocūparodhati.
He should consume tranquil almsfood, and no one should trouble him.
Thức ăn khất thực đã tịch tịnh phải được thọ dụng, và không có gì làm phiền nhiễu.”
1809
15.
15.
15.
1810
‘‘Catutthampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Fourthly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ tư, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1811
Muttassa raṭṭhe carato, saṅgo yassa na vijjati.
Wandering free in the realm, for whom there is no attachment.
Người đi lại trong quốc độ đã được giải thoát, không có sự ràng buộc nào.”
1812
16.
16.
16.
1813
‘‘Pañcamampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Fifthly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ năm, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1814
Nagaramhi ḍayhamānamhi, nāssa kiñci aḍayhatha.
When a city is burning, nothing of his would burn.
Khi thành phố bị cháy, không có gì của vị ấy bị cháy.”
1815
17.
17.
17.
1816
‘‘Chaṭṭhampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Sixthly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ sáu, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1817
Raṭṭhe vilumpamānamhi, nāssa kiñci ahīratha.
When the realm is being plundered, nothing of his would be stolen.
Khi quốc độ bị cướp bóc, không có gì của vị ấy bị lấy đi.”
1818
18.
18.
18.
1819
‘‘Sattamampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Seventhly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ bảy, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1820
Corehi rakkhitaṃ maggaṃ, ye caññe paripanthikā;
On a path guarded by thieves, and other brigands;
Con đường bị bọn cướp canh giữ, và những kẻ cản trở khác;
1821
Pattacīvaramādāya, sotthiṃ gacchati subbato.
Taking his bowl and robe, the virtuous one goes safely.
Người giữ giới hạnh tốt đẹp ấy mang theo bát và y, đi qua an toàn.”
1822
19.
19.
19.
1823
‘‘Aṭṭhamampi bhadramadhanassa, anāgārassa bhikkhuno;
‘‘Eighthly, for the fortunate mendicant, the homeless one, a bhikkhu;
“Lần thứ tám, cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản;
1824
Yaṃ yaṃ disaṃ pakkamati, anapekkhova gacchatī’’ti.
Whichever direction he goes, he goes without attachment.’’
Bất cứ phương hướng nào vị ấy đi đến, vị ấy đi mà không có sự mong đợi.”
1825
Tattha anāgārassāti, mahārāja, gharāvāsaṃ pahāya anāgāriyabhāvaṃ pattassa adhanassa akiñcanassa bhikkhuno sabbakālaṃ bhadrameva.
Here, anāgārassa means, "Great King, for a bhikkhu who has abandoned household life and attained the state of homelessness, who is without wealth and possessions, it is always fortunate."
Ở đây, anāgārassa nghĩa là, Đại Vương, đối với vị Tỳ-kheo đã từ bỏ đời sống gia đình, đã đạt được trạng thái không gia đình, không tài sản, không sở hữu, thì mọi lúc đều là tốt đẹp.
Na tesanti, mahārāja, tesaṃ adhanānaṃ bhikkhūnaṃ na koṭṭhāgāre dhanadhaññāni openti, na kumbhiyaṃ, na pacchiyaṃ, te pana subbatā paraniṭṭhitaṃ paresaṃ ghare pakkaṃ āhāraṃ saṅghāṭiṃ pārupitvā kapālamādāya gharapaṭipāṭiyā esānā pariyesantā tena tato laddhena piṇḍena taṃ āhāraṃ navannaṃ pāṭikulyānaṃ vasena paccavekkhitvā paribhuñjitvā jīvitavuttiṃ yāpenti.
Na tesaṃ means, "Great King, for those bhikkhus who are without wealth, they do not store wealth and grain in granaries, nor in pots, nor in baskets. But those virtuous ones, esānā searching for paraniṭṭhitaṃ food cooked in others' homes, by covering themselves with the saṅghāṭi and taking their almsbowl, house by house, they sustain their life by consuming that almsfood obtained from there, after reflecting on that food in terms of the nine repulsive aspects."
Na tesaṃ nghĩa là, Đại Vương, những vị Tỳ-kheo không tài sản ấy không cất giữ vàng bạc, ngũ cốc trong kho, không trong chum, không trong giỏ. Còn những người giữ giới hạnh tốt đẹp ấy, paraniṭṭhitaṃ nghĩa là thức ăn đã nấu chín tại nhà người khác, khoác y, cầm bát, đi từng nhà esānā nghĩa là tìm kiếm, và bằng thức ăn khất thực nhận được từ đó, sau khi quán xét thức ăn ấy theo chín khía cạnh ghê tởm, họ thọ dụng và duy trì sự sống.
1826
Anavajjapiṇḍo bhottabboti vejjakammādikāya anesanāya vā kuhanā lapanā nemittikatā nippesikatā lābhena lābhaṃ nijigīsanatāti evarūpena micchājīvena vā uppāditā cattāro paccayā, dhammena uppāditāpi apaccavekkhitvā paribhuttā sāvajjapiṇḍo nāma.
Anavajjapiṇḍo bhottabbo means that the four requisites obtained through an improper livelihood such as medical practice, or through deception, flattery, fortune-telling, hinting, or seeking gain with gain, or even requisites obtained righteously but consumed without reflection, are called blameworthy almsfood.
Anavajjapiṇḍo bhottabbo nghĩa là thức ăn khất thực không có lỗi phải được thọ dụng. Bốn vật dụng được tạo ra bằng cách kiếm sống sai trái như nghề y, hoặc bằng cách lừa dối, xu nịnh, bói toán, nịnh hót, hay tìm kiếm lợi lộc bằng lợi lộc, hoặc ngay cả những vật dụng được tạo ra bằng Pháp nhưng thọ dụng mà không quán xét, đều được gọi là thức ăn khất thực có lỗi.
Anesanaṃ pana pahāya micchājīvaṃ vajjetvā dhammena samena uppāditā ‘‘paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmī’’ti vuttanayeneva paccavekkhitvā paribhuttā anavajjapiṇḍo nāma.
However, almsfood obtained righteously and properly, by abandoning improper livelihood and avoiding wrong livelihood, and consumed after reflecting on it in the manner stated, "I use the robe after wise reflection," is called blameless almsfood.
Còn thức ăn khất thực được tạo ra bằng Pháp một cách chính đáng, sau khi từ bỏ cách kiếm sống sai trái và tránh xa tà mạng, và được thọ dụng sau khi quán xét theo cách đã nói, ví dụ như “Ta thọ dụng y phục sau khi quán xét kỹ lưỡng,” thì được gọi là thức ăn khất thực không có lỗi.
Yena evarūpo anavajjapiṇḍo bhottabbo paribhuñjitabbo, yañca evarūpaṃ anavajjaṃ piṇḍaṃ bhuñjamānānaṃ paccaye nissāya koci appamattakopi kileso na uparodhati na pīḷeti, tassa dutiyampi bhadraṃ adhanassa anāgārassa bhikkhuno.
For him who should consume such blameless almsfood, and by relying on the requisites while consuming such blameless almsfood, koci no kileso defilement, however slight, na uparodhati does not oppress or trouble him, for such a homeless bhikkhu without wealth, it is fortunate a second time.
Người nào thọ dụng thức ăn khất thực không có lỗi như vậy, và nương vào các vật dụng khi thọ dụng thức ăn khất thực không có lỗi như vậy mà koci nghĩa là dù chỉ một chút phiền não cũng na uparodhati nghĩa là không làm phiền nhiễu, thì lần thứ hai cũng là tốt đẹp cho vị Tỳ-kheo không gia đình, không tài sản ấy.
1827
Nibbutoti puthujjanabhikkhuno dhammena uppannapiṇḍopi paccavekkhitvā paribhuñjiyamāno nibbutapiṇḍo nāma, ekantato pana khīṇāsavassa piṇḍova nibbutapiṇḍo nāma.
Nibbuto means that even for a puthujjana bhikkhu, almsfood obtained righteously and consumed after reflection is called tranquil almsfood. However, for an Arahant, almsfood is definitively called tranquil almsfood.
Nibbuto nghĩa là thức ăn khất thực được tạo ra bằng Pháp, dù được thọ dụng sau khi quán xét bởi một Tỳ-kheo phàm phu, cũng được gọi là thức ăn khất thực đã tịch tịnh. Tuy nhiên, thức ăn khất thực của một vị A-la-hán thì chắc chắn là thức ăn khất thực đã tịch tịnh.
Kiṃkāraṇā?
Why?
Tại sao?
So hi theyyaparibhogo, iṇaparibhogo, dāyajjaparibhogo, sāmiparibhogoti imesu catūsu paribhogesu sāmiparibhogavasena taṃ bhuñjati, taṇhādāsabyaṃ atīto sāmī hutvā paribhuñjati, na taṃ tappaccayā koci appamattakopi kileso uparodhati.
For he consumes it in the manner of a master's consumption, among these four kinds of consumption: consumption as a thief, consumption as a debtor, consumption as an heir, and consumption as a master. He consumes it as a master, having gone beyond the slavery of craving, and no defilement, however slight, troubles him on account of it.
Vì vị ấy thọ dụng thức ăn ấy theo cách thọ dụng của chủ nhân, trong số bốn cách thọ dụng là thọ dụng như kẻ trộm, thọ dụng như kẻ vay nợ, thọ dụng như người thừa kế, và thọ dụng như chủ nhân. Vị ấy đã vượt qua sự nô lệ của tham ái, trở thành chủ nhân mà thọ dụng, và không có một chút phiền não nào làm phiền nhiễu do thức ăn ấy.
1828
Muttassa raṭṭhe caratoti upaṭṭhākakulādīsu alaggamānasassa chinnavalāhakassa viya rāhumukhā pamuttassa vimalacandamaṇḍalassa viya ca yassa gāmanigamādīsu carantassa rāgasaṅgādīsu ekopi saṅgo natthi.
To one who wanders freed in the land means for one whose mind is not attached to supporter families and so forth, who is like a pure disc of the moon released from the mouth of Rahu, or like a cloud that has burst forth, and who, wandering in villages, towns, and so forth, has not even a single attachment to sensual desires and so forth.
Muttassa raṭṭhe carato nghĩa là người đi lại trong các làng mạc, thị trấn, không bị ràng buộc vào các gia đình hộ trì, giống như một đám mây đã tan, hoặc như vầng trăng không tì vết đã thoát khỏi miệng La-hầu, không có bất kỳ sự ràng buộc nào vào tham ái và các loại ràng buộc khác.
Ekacco hi kulehi saṃsaṭṭho viharati sahasokī sahanandī, ekacco mātāpitūsupi alaggamānaso vicarati korunagaragāmavāsī daharo viya, evarūpassa puthujjanassapi bhadrameva.
Indeed, some live entangled with families, sharing sorrow and sharing joy; some wander with a mind unattached even to parents, like a young person living in a city or village. Even for such a worldling, it is indeed good.
Một số người sống gắn bó với gia đình, cùng buồn cùng vui; một số khác đi lại mà không gắn bó ngay cả với cha mẹ, giống như một đứa trẻ sống ở thành phố hoặc làng mạc của người Kurus. Ngay cả đối với một phàm phu như vậy, điều đó cũng là tốt đẹp.
1829
Nāssa kiñcīti yo hi bahuparikkhāro hoti, so ‘‘mā me corā parikkhāre hariṃsū’’ti atirekāni ca cīvarādīni antonagare upaṭṭhākakule nikkhipati, atha nagaramhi ḍayhamāne ‘‘asukakule nāma aggi uṭṭhito’’ti sutvā socati kilamati, evarūpassa bhadraṃ nāma natthi.
Nothing belongs to him means that one who has many requisites, thinking, “May thieves not take my requisites,” deposits extra robes and so forth in a supporter family's house within the city. Then, when the city is burning, hearing, “Fire has broken out in such and such a family’s house,” he grieves and suffers. For such a person, there is no good whatsoever.
Nāssa kiñcī nghĩa là người nào có nhiều vật dụng, thì lo sợ kẻ trộm sẽ lấy mất vật dụng của mình, nên cất giữ y phục và các vật dụng dư thừa khác trong nhà của gia đình hộ trì trong thành phố. Khi thành phố bị cháy, nghe nói “lửa đã bùng lên ở nhà kia,” thì người ấy đau khổ, mệt mỏi; đối với người như vậy thì không có gì là tốt đẹp.
Yo pana, mahārāja, sakuṇavattaṃ pūreti, kāyapaṭibaddhaparikkhārova hoti, tassa tādisassa na kiñci aḍayhatha, tenassa pañcamampi bhadrameva.
But, great king, one who lives like a bird, having only requisites attached to his body, for such a one, nothing would burn. Therefore, his fifth good thing is indeed good.
Còn Đại Vương, người nào sống như chim, chỉ có những vật dụng gắn liền với thân, thì không có gì của người ấy bị cháy. Vì vậy, lần thứ năm cũng là tốt đẹp cho người ấy.
1830
Vilumpamānamhīti viluppamānamhi, ayameva vā pāṭho.
When being plundered (Vilumpamānamhi) or this reading is also possible.
Vilumpamānamhīti là viluppamānamhi, hoặc đây là cách đọc (pāṭho).
Ahīrathāti yathā pabbatagahanādīhi nikkhamitvā raṭṭhaṃ vilumpamānesu coresu bahuparikkhārassa antogāme ṭhapitaṃ vilumpati harati, tathā yassa adhanassa kāyapaṭibaddhaparikkhārassa na kiñci ahīratha tassa chaṭṭhampi bhadrameva.
Did not take away (Ahīrathā) means that just as when robbers plunder the land, having emerged from mountain thickets and so forth, they take away and plunder the belongings of one with many requisites deposited in a village, so too, for one who is without possessions and whose requisites are attached to his body, nothing would be taken away. Therefore, his sixth good thing is indeed good.
Ahīrathāti: Cũng như khi bọn cướp rời khỏi rừng núi và cướp bóc đất nước, chúng cướp phá và mang đi những tài sản quý giá được cất giữ trong làng, thì đối với người không có tài sản, chỉ có những vật dụng gắn liền với thân, không có gì bị cướp đi (ahīratha), ngay cả điều thứ sáu cũng là tốt lành.
1831
Ye caññe paripanthikāti ye ca aññepi tesu tesu ṭhānesu suṅkagahaṇatthāya ṭhapitā paripanthikā, tehi ca rakkhitaṃ.
And other highwaymen means those other highwaymen stationed in various places for collecting tolls; it is also protected from them.
Ye caññe paripanthikāti: Và những kẻ cướp đường (paripanthikā) khác được đặt ở những nơi khác nhau để thu thuế, thì những thứ được bảo vệ bởi chúng.
Pattacīvaranti corānaṃ anupakāraṃ suṅkikānaṃ asuṅkārahaṃ mattikāpattañceva katadaḷhīkammaparibhaṇḍaṃ paṃsukūlacīvarañca appagghāni kāyabandhanaparissāvanasūcivāsipattatthavikāni cāti sabbepi aṭṭha parikkhāre kāyapaṭibaddhe katvā maggappaṭipanno kenaci aviheṭhiyamāno sotthiṃ gacchati.
Bowl and robe means that a clay bowl, which is of no benefit to thieves and not subject to toll by toll collectors, and a rag-robe made durable, along with other inexpensive requisites such as a waist-band, water-strainer, needle, razor, and bowl-bag—all eight requisites, kept attached to the body—allow one to travel the path safely, unmolested by anyone.
Pattacīvaranti: Bát và y, không có lợi cho bọn cướp, không đáng bị thu thuế bởi những người thu thuế. Bát đất sét và y phấn tảo được làm bền chắc, cùng với tám vật dụng khác như dây thắt lưng, lọc nước, kim, dao cạo, và túi đựng bát, tất cả đều là những vật dụng gắn liền với thân. Người đi đường mang theo chúng mà không bị ai quấy nhiễu sẽ được bình an.
Subbatoti lobhanīyāni hi cīvarādīni disvā corā haranti, suṅkikāpi ‘‘kiṃ nu kho etassa hatthe’’ti pattatthavikādīni sodhenti, subbato pana sallahukavutti tesaṃ passantānaññeva sotthiṃ gacchati, tenassa sattamampi bhadrameva.
Of good conduct (Subbato) means that thieves steal robes and so forth when they see them as desirable, and toll collectors also search bowl-bags and so forth, thinking, “What might be in his hand?” But one of good conduct, living simply, passes safely even while they are watching. Therefore, his seventh good thing is indeed good.
Subbatoti: Bọn cướp thường lấy y phục và những thứ đáng ham muốn khác khi nhìn thấy, những người thu thuế cũng lục soát túi đựng bát và những thứ khác, tự hỏi: “Trong tay người này có gì vậy?”. Nhưng một người có giới hạnh tốt (subbato) và lối sống thanh đạm thì ngay cả khi họ nhìn thấy, người ấy vẫn đi qua bình an. Vì vậy, điều thứ bảy cũng là tốt lành cho người ấy.
1832
Anapekkhova gacchatīti kāyapaṭibaddhato atirekassa vihāre paṭisāmitassa kassaci parikkhārassa abhāvā vasanaṭṭhānaṃ nivattitvāpi na oloketi.
Goes without looking back means that, having no extra requisites stored in the monastery beyond those attached to his body, he does not look back even when leaving his dwelling place.
Anapekkhova gacchatīti: Vì không có vật dụng nào thừa thãi ngoài những thứ gắn liền với thân được cất giữ trong tịnh xá, nên người ấy không quay lại nhìn nơi ở.
Yaṃ yaṃ disaṃ gantukāmo hoti, taṃ taṃ gacchanto anapekkhova gacchati anurādhapurā nikkhamitvā thūpārāme pabbajitānaṃ dvinnaṃ kulaputtānaṃ vuḍḍhataro viya.
Whatever direction he wishes to go, he goes without looking back, like the elder of the two young men who had gone forth from Anuradhapura to Thūpārāma.
Người ấy đi đến bất cứ hướng nào mình muốn mà không ngoái nhìn, giống như hai vị thiện nam tử xuất gia từ Anurādhapura đến Thūpārāma, vị lớn tuổi hơn.
1833
Iti soṇakapaccekabuddho aṭṭha samaṇabhadrakāni kathesi.
Thus, the Paccekabuddha Soṇaka spoke of eight good things for a recluse.
Như vậy, Soṇaka Paccekabuddha đã thuyết giảng tám điều tốt lành của Sa-môn.
Tato uttariṃ pana satampi sahassampi aparimāṇāni samaṇabhadrakāni esa kathetuṃ samatthoyeva.
Beyond that, he was capable of speaking of hundreds, thousands, or immeasurable good things for a recluse.
Hơn nữa, vị ấy có khả năng thuyết giảng hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí vô số điều tốt lành của Sa-môn.
Rājā pana kāmābhiratattā tassa kathaṃ pacchinditvā ‘‘mayhaṃ samaṇabhadrakehi attho natthī’’ti attano kāmādhimuttataṃ pakāsento āha –
But the king, being devoted to sensual pleasures, interrupted his discourse and, revealing his own inclination towards sensual pleasures, said:
Nhưng nhà vua, vì ham mê dục lạc, đã cắt ngang bài pháp của vị ấy và nói, bày tỏ sự ham muốn dục lạc của mình:
1834
20.
20.
20.
1835
‘‘Bahūni samaṇabhadrāni, ye tvaṃ bhikkhu pasaṃsasi;
“Many are the good things for a recluse, which you, bhikkhu, praise;
“Này Tỳ-kheo, ông ca ngợi nhiều điều tốt lành của Sa-môn;
1836
Ahañca giddho kāmesu, kathaṃ kāhāmi soṇaka.
But I am greedy for sensual pleasures, how shall I fare, Soṇaka?
Còn ta thì đắm say dục lạc, làm sao ta có thể làm được, Soṇaka?
1837
21.
21.
21.
1838
‘‘Piyā me mānusā kāmā, atho dibyāpi me piyā;
“Human sensual pleasures are dear to me, and divine ones are also dear;
Ta yêu thích dục lạc của loài người, và cả dục lạc của chư thiên cũng ta cũng yêu thích;
1839
Atha kena nu vaṇṇena, ubho loke labhāmase’’ti.
By what means, then, can we obtain both worlds?”
Vậy bằng cách nào, ta có thể đạt được cả hai thế giới?”
1840
Tattha vaṇṇenāti kāraṇena.
There, by means (vaṇṇenā) means by reason.
Trong đó, vaṇṇenāti có nghĩa là do nguyên nhân.
1841
Atha naṃ paccekabuddho āha –
Then the Paccekabuddha said to him:
Sau đó, vị Paccekabuddha nói với nhà vua:
1842
22.
22.
22.
1843
‘‘Kāme giddhā kāmaratā, kāmesu adhimuccitā;
“Greedy for sensual pleasures, delighting in sensual pleasures, devoted to sensual pleasures;
“Những người đắm say dục lạc, vui thích dục lạc, bị dục lạc chi phối;
1844
Narā pāpāni katvāna, upapajjanti duggatiṃ.
People, having done evil deeds, are reborn in a woeful state.
Họ làm các điều ác rồi tái sinh vào cõi khổ.
1845
23.
23.
23.
1846
‘‘Ye ca kāme pahantvāna, nikkhantā akutobhayā;
“But those who have abandoned sensual pleasures, having gone forth fearless;
Còn những ai đã từ bỏ dục lạc, xuất gia không còn sợ hãi từ bất cứ đâu;
1847
Ekodibhāvādhigatā, na te gacchanti duggatiṃ.
Having attained unification (ekodibhāva), they do not go to a woeful state.
Đã đạt được trạng thái độc cư, họ không đi đến cõi khổ.
1848
24.
24.
24.
1849
‘‘Upamaṃ te karissāmi, taṃ suṇohi arindama;
“I will give you a simile, listen to it, O subduer of enemies;
Ta sẽ kể cho đại vương một ví dụ, hãy lắng nghe, hỡi người chinh phục kẻ thù;
1850
Upamāya midhekacce, atthaṃ jānanti paṇḍitā.
Through a simile, some wise ones here understand the meaning.
Bởi vì một số người trí tuệ hiểu được ý nghĩa qua ví dụ.
1851
25.
25.
25.
1852
‘‘Gaṅgāya kuṇapaṃ disvā, vuyhamānaṃ mahaṇṇave;
“A crow, seeing a corpse floating in the Ganges, in the great ocean;
Thấy một xác chết trôi trên sông Gaṅgā, ra biển lớn;
1853
Vāyaso samacintesi, appapañño acetaso.
Thought, being of little wisdom and senseless:
Một con quạ, ít trí tuệ, không có tâm trí, đã suy nghĩ:
1854
26.
26.
26.
1855
‘‘Yānañca vatidaṃ laddhaṃ, bhakkho cāyaṃ anappako;
“‘Indeed, this is a vehicle obtained, and this food is not small;
“Đây đúng là một phương tiện vận chuyển ta đã tìm được, và thức ăn này cũng không ít;
1856
Tattha rattiṃ tattha divā, tattheva nirato mano.
There, night and day, there indeed my mind delights.’
Ngày đêm ở đó, tâm trí ta vui thích ở đó.”
1857
27.
27.
27.
1858
‘‘Khādaṃ nāgassa maṃsāni, pivaṃ bhāgīrathodakaṃ;
“Eating the elephant’s flesh, drinking the water of the Bhāgīrathī;
Ăn thịt voi, uống nước sông Bhāgīrathī;
1859
Sampassaṃ vanacetyāni, na palettha vihaṅgamo.
Seeing the forest shrines, the bird did not fly away.
Nhìn thấy những khu rừng thiêng liêng, con chim vẫn không bay đi.
1860
28.
28.
28.
1861
‘‘Tañca otaraṇī gaṅgā, pamattaṃ kuṇape rataṃ;
That Ganges, flowing down, carried away the careless one, delighting in the corpse;
Và dòng sông Gaṅgā đang chảy xuống, cuốn theo con quạ lơ đễnh, vui thích trên xác chết;
1862
Samuddaṃ ajjhagāhāsi, agatī yattha pakkhinaṃ.
It carried him to the ocean, where there is no going for birds.
Đã đưa nó ra biển, nơi chim chóc không thể đến được.
1863
29.
29.
29.
1864
‘‘So ca bhakkhaparikkhīṇo, udapatvā vihaṅgamo;
And that bird, its food exhausted, flew up;
Khi thức ăn đã cạn, con chim bay lên;
1865
Na pacchato na purato, nuttaraṃ nopi dakkhiṇaṃ.
Neither to the west nor to the east, nor to the north nor to the south.
Không về phía sau, không về phía trước, không về phía bắc, cũng không về phía nam.
1866
30.
30.
30.
1867
‘‘Dīpaṃ so najjhagāgañchi, agatī yattha pakkhinaṃ;
He did not reach an island, where there is no going for birds;
Nó không tìm thấy một hòn đảo, nơi chim chóc không thể đến được;
1868
So ca tattheva pāpattha, yathā dubbalako tathā.
And he fell right there, just like a weak one.
Và nó đã rơi xuống ngay tại đó, như một kẻ yếu ớt.
1869
31.
31.
31.
1870
‘‘Tañca sāmuddikā macchā, kumbhīlā makarā susū;
And the sea fish, crocodiles, makaras, and susūs;
Và những loài cá biển, cá sấu, cá heo;
1871
Pasayhakārā khādiṃsu, phandamānaṃ vipakkhakaṃ.
Forcefully devoured him, flapping his broken wings.
Đã nuốt chửng con chim đang vùng vẫy, bị gãy cánh, một cách thô bạo.
1872
32.
32.
32.
1873
‘‘Evameva tuvaṃ rāja, ye caññe kāmabhogino;
Even so, O king, and all others who indulge in sensual pleasures;
Cũng vậy, đại vương, và những người khác đang hưởng thụ dục lạc;
1874
Giddhā ce na vamissanti, kākapaññāva te vidū.
If they are greedy and do not give them up, they are known as having the wisdom of a crow.
Nếu họ tham lam mà không từ bỏ, thì họ được coi là có trí tuệ như quạ.
1875
33.
33.
33.
1876
‘‘Esā te upamā rāja, atthasandassanī katā;
This simile, O king, illustrating the meaning, has been made for you;
Đây là ví dụ ta đã kể cho đại vương, để làm sáng tỏ ý nghĩa;
1877
Tvañca paññāyase tena, yadi kāhasi vā na vā’’ti.
And you will be known by it, whether you act upon it or not.”
Và đại vương sẽ được biết đến qua đó, dù ngài có làm hay không làm.”
1878
Tattha pāpānīti, mahārāja, tvaṃ kāmagiddho, narā ca kāme nissāya kāyaduccaritādīni pāpāni katvā yattha supinantepi dibbā ca mānusikā ca kāmā na labbhanti, taṃ duggatiṃ upapajjantīti attho.
There, pāpāni means, O great king, you are greedy for sensual pleasures, and men, relying on sensual pleasures, commit evil deeds such as misconduct in body, and thereby go to a bad destination where divine and human sensual pleasures are not obtained even in dreams. This is the meaning.
Trong đó, pāpānīti: Này đại vương, ngài là người đắm say dục lạc, và những người nương vào dục lạc mà làm các điều ác như thân ác hạnh, rồi tái sinh vào cõi khổ, nơi mà ngay cả trong giấc mơ cũng không thể tìm thấy dục lạc của chư thiên và loài người, đó là ý nghĩa.
Pahantvānāti kheḷapiṇḍaṃ viya pahāya.
Pahantvānā means having abandoned them like a lump of phlegm.
Pahantvānāti: Từ bỏ như nhổ nước bọt.
Akutobhayāti rāgādīsu kutoci anāgatabhayā.
Akutobhayā means fearless from any quarter regarding defilements like lust.
Akutobhayāti: Không có nỗi sợ hãi từ bất cứ đâu trong tham ái, v.v.
Ekodibhāvādhigatāti ekodibhāvaṃ ekavihārikataṃ adhigatā.
Ekodibhāvādhigatā means having attained the state of solitude, the state of dwelling alone.
Ekodibhāvādhigatāti: Đã đạt được trạng thái độc cư, trạng thái sống một mình.
Na teti te evarūpā pabbajitā duggatiṃ na gacchanti.
Na te means such renunciants do not go to a bad destination.
Na teti: Những người xuất gia như vậy không đi đến cõi khổ.
1879
Upamaṃ teti, mahārāja, dibbamānusake kāme patthentassa hatthikuṇape paṭibaddhakākasadisassa tava ekaṃ upamaṃ karissāmi, taṃ suṇohīti attho.
Upamaṃ te means, O great king, I will make a simile for you, who long for divine and human sensual pleasures, like a crow attached to an elephant's corpse; listen to it. This is the meaning.
Upamaṃ teti: Này đại vương, ta sẽ kể cho ngài một ví dụ về ngài, người khao khát dục lạc của chư thiên và loài người, giống như con quạ bám vào xác voi. Hãy lắng nghe, đó là ý nghĩa.
Kuṇapanti hatthikaḷevaraṃ.
Kuṇapaṃ means an elephant's carcass.
Kuṇapanti: Xác voi.
Mahaṇṇaveti gambhīraputhule udake.
Mahaṇṇave means in deep and vast water.
Mahaṇṇaveti: Trong vùng nước sâu rộng.
Eko kira mahāvāraṇo gaṅgātīre caranto gaṅgāyaṃ patitvā uttarituṃ asakkento tattheva mato gaṅgāya vuyhi, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
It is said that once a great elephant, wandering on the bank of the Ganges, fell into the Ganges and, being unable to get out, died there and was carried away by the Ganges. This is what is referred to.
Người ta nói rằng một con voi lớn đang đi dọc bờ sông Gaṅgā đã rơi xuống sông và chết ở đó vì không thể thoát ra được, rồi trôi theo dòng sông Gaṅgā. Điều này được nói đến trong ngữ cảnh đó.
Vāyasoti ākāsena gacchanto eko kāko.
Vāyaso means a crow flying through the sky.
Vāyasoti: Một con quạ đang bay trên trời.
Yānañca vatidanti so evaṃ cintetvā tattha nilīyitvā ‘‘idaṃ mayā hatthiyānaṃ laddhaṃ, ettha nilīno sukhaṃ carissāmi, ayameva ca me anappako bhakkho bhavissati, idāni mayā aññattha gantuṃ na vaṭṭatī’’ti sanniṭṭhānamakāsi.
Yānañca vatidaṃ means, having thought thus, he settled there and resolved, “I have obtained this elephant-vehicle; I will dwell here comfortably, and this will be no small amount of food for me. Now I should not go elsewhere.”
Yānañca vatidanti: Con quạ đó đã suy nghĩ như vậy và đậu ở đó, rồi quyết định: “Đây là chiếc xe voi ta đã tìm được, ta sẽ sống thoải mái khi đậu ở đây, và đây sẽ là nguồn thức ăn dồi dào cho ta. Giờ đây ta không cần phải đi đâu khác nữa.”
Tattha rattinti tattha rattiñca divā ca tattheva mano abhirato ahosi.
Tattha rattiṃ means there, day and night, his mind delighted in that very place.
Tattha rattinti: Ở đó, cả ngày lẫn đêm, tâm trí nó đều vui thích ở đó.
Na paletthāti na uppatitvā pakkāmi.
Na paletthā means he did not fly up and depart.
Na paletthāti: Không bay đi.
1880
Otaraṇīti samuddābhimukhī otaramānā.
Otaraṇī means descending towards the ocean.
Otaraṇīti: Chảy xuống, hướng ra biển.
‘‘Ohāriṇī’’tipi pāṭho, sā samuddābhimukhī avahāriṇīti attho.
“Ohāriṇī” is also a reading, meaning it is a current carrying towards the ocean.
Cũng có cách đọc là “Ohāriṇī”, có nghĩa là cuốn trôi, hướng ra biển.
Agatī yatthāti samuddamajjhaṃ sandhāyāha.
Agatī yatthā refers to the middle of the ocean.
Agatī yatthāti: Nói đến giữa biển.
Bhakkhaparikkhīṇoti parikkhīṇabhakkho.
Bhakkhaparikkhīṇo means with exhausted food.
Bhakkhaparikkhīṇoti: Hết thức ăn.
Udapatvāti khīṇe camme ca maṃse ca aṭṭhisaṅghāto ūmivegena bhinno udake nimujji.
Udapatvā means when the skin and flesh were exhausted, the skeleton, broken by the force of the waves, sank into the water.
Udapatvāti: Khi da và thịt đã cạn kiệt, khối xương bị sóng đánh vỡ và chìm xuống nước.
Atha so kāko udake patiṭṭhātuṃ asakkonto uppati, evaṃ uppatitvāti attho.
Then that crow, unable to find a foothold in the water, flew up; thus, having flown up, is the meaning.
Sau đó, con quạ không thể đứng vững trên mặt nước nên đã bay lên. Ý nghĩa là “khi đã bay lên như vậy”.
Agatī yattha pakkhinanti yasmiṃ samuddamajjhe pakkhīnaṃ agati, tattha so evaṃ uppatito pacchimaṃ disaṃ gantvā tattha patiṭṭhaṃ alabhitvā puratthimaṃ, tato uttaraṃ, tato dakkhiṇanti catassopi disā gantvā attano patiṭṭhānaṃ na ajjhagā nāgañchīti attho.
Agatī yattha pakkhinaṃ means where there is no going for birds in the middle of the ocean, there, having flown up thus, he went to the western direction and, finding no foothold there, then to the eastern, then to the northern, then to the southern; having gone to all four directions, he did not find his foothold. This is the meaning.
Agatī yattha pakkhinanti: Nơi giữa biển mà chim chóc không thể đến được, con quạ đã bay lên như vậy, đi về phía tây nhưng không tìm thấy nơi trú ẩn, rồi đi về phía đông, sau đó về phía bắc, rồi về phía nam, đi khắp bốn phương nhưng không tìm thấy nơi trú ẩn của mình, đó là ý nghĩa.
Atha vā vāyaso evaṃ uppatitvā pacchimādīsu ekekaṃ disaṃ āgañchi, dīpaṃ pana najjhāgamāti evamettha attho daṭṭhabbo.
Alternatively, the crow, having flown up thus, went to each of the western and other directions, but did not reach an island. This is how the meaning should be understood here.
Hoặc, con quạ đã bay lên như vậy và đến từng hướng như phía tây, v.v., nhưng không tìm thấy một hòn đảo nào. Ý nghĩa phải được hiểu như vậy ở đây.
Pāpatthāti papatito.
Pāpatthā means fell down.
Pāpatthāti: Đã rơi xuống.
Yathā dubbalakoti yathā dubbalako pateyya, tatheva patito.
Yathā dubbalako means just as a weak one would fall, so he fell.
Yathā dubbalakoti: Rơi xuống như một kẻ yếu ớt sẽ rơi.
Susūti susunāmakā caṇḍamacchā.
Susū means fierce fish called susunā.
Susūti: Những loài cá dữ gọi là susunā.
Pasayhakārāti anicchamānakaṃyeva balakkārena.
Pasayhakārā means forcibly, even against his will.
Pasayhakārāti: Bằng vũ lực, ngay cả khi nó không muốn.
Vipakkhakanti viddhastapakkhakaṃ.
Vipakkhakaṃ means with broken wings.
Vipakkhakanti: Bị gãy cánh.
1881
Giddhā ce na vamissantīti yadi giddhā hutvā kāme na vamissanti, na chaḍḍessanti.
Giddhā ce na vamissantī means if, being greedy, they do not give up sensual pleasures, do not cast them away.
Giddhā ce na vamissantīti: Nếu tham lam mà không từ bỏ dục lạc, không vứt bỏ.
Kākapaññāva teti kākassa samānapaññā iti te buddhādayo paṇḍitā vidū vidanti, jānantīti attho.
Kākapaññāva te means those wise ones, such as the Buddhas, vidū know, understand, that they have wisdom similar to a crow. This is the meaning.
Kākapaññāva teti: Những người có trí tuệ như con quạ, các vị Phật và các bậc hiền trí vidū (biết), hiểu rõ, đó là ý nghĩa.
Atthasandassanīti atthappakāsikā.
Atthasandassanī means illustrating the meaning.
Atthasandassanīti: Làm sáng tỏ ý nghĩa.
Tvañca paññāyaseti tvañca paññāyissasi.
Tvañca paññāyase means and you will be known.
Tvañca paññāyaseti: Và ngài sẽ được biết đến.
Idaṃ vuttaṃ hoti – mahārāja, mayā hitakāmena tava ovādo dinno, taṃ pana tvaṃ yadi kāhasi, devaloke nibbattissasi, yadi na kāhasi, kāmapaṅke nimuggo jīvitapariyosāne niraye nibbattissasīti evaṃ tvameva tena kāraṇena vā akāraṇena vā sagge vā niraye vā paññāyissasi.
This is what was said: "O great king, I, wishing your welfare, have given you this advice. If you follow it, you will be reborn in the deva realm. If you do not follow it, you will be immersed in the mud of sensual pleasures and at the end of your life, you will be reborn in hell. Thus, you yourself, for that reason or for no reason, will appear in heaven or in hell."
Điều này có nghĩa là: Này đại vương, ta, người mong muốn lợi ích cho ngài, đã ban lời khuyên. Nếu ngài làm theo, ngài sẽ tái sinh vào cõi trời; nếu ngài không làm theo, ngài sẽ chìm trong vũng lầy dục lạc và cuối đời sẽ tái sinh vào địa ngục. Như vậy, chính ngài sẽ được biết đến trong cõi trời hoặc địa ngục do nguyên nhân đó hoặc không do nguyên nhân đó.
Ahaṃ pana sabbabhavehi mutto appaṭisandhikoti.
"But I am freed from all existences, having no further rebirth."
Còn ta thì đã thoát khỏi mọi kiếp sống, không còn tái sinh nữa.
1882
Imaṃ pana ovādaṃ dentena paccekabuddhena nadī dassitā, tāya vuyhamānaṃ hatthikuṇapaṃ dassitaṃ, kuṇapakhādako kāko dassito, tassa kuṇapaṃ khāditvā pānīyapivanakālo dassito, ramaṇīyavanasaṇḍadassanakālo dassito, kuṇapassa nadiyā vuyhamānassa samuddapaveso dassito, samuddamajjhe kākassa hatthikuṇape patiṭṭhaṃ alabhitvā vināsaṃ pattakālo dassito.
Giving this advice, the Paccekabuddha showed the river, showed the elephant carcass being carried by it, showed the crow eating the carcass, showed the time when it drank water after eating the carcass, showed the time when it saw the delightful forest grove, showed the carcass entering the ocean as it was carried by the river, and showed the time when the crow, unable to find a foothold on the elephant carcass in the middle of the ocean, met its destruction.
Tuy nhiên, khi ban lời khuyên này, vị Paccekabuddha đã chỉ ra dòng sông, chỉ ra xác voi đang trôi trên đó, chỉ ra con quạ ăn xác chết, chỉ ra thời điểm nó ăn xác chết và uống nước, chỉ ra thời điểm nó nhìn thấy những khu rừng đẹp đẽ, chỉ ra việc xác chết bị dòng sông cuốn ra biển, chỉ ra thời điểm con quạ không tìm thấy chỗ dựa trên xác voi giữa biển và bị hủy diệt.
Tattha nadī viya anamataggo saṃsāro daṭṭhabbo, nadiyā vuyhamānaṃ hatthikuṇapaṃ viya saṃsāre pañca kāmaguṇā, kāko viya bālaputhujjano, kākassa kuṇapaṃ khāditvā pānīyapivanakālo viya puthujjanassa kāmaguṇe paribhuñjitvā somanassikakālo, kākassa kuṇape laggasseva ramaṇīyavanasaṇḍadassanaṃ viya puthujjanassa kāmaguṇesu laggasseva savanavasena aṭṭhatiṃsārammaṇadassanaṃ, kuṇape samuddaṃ paviṭṭhe kākassa patiṭṭhaṃ labhituṃ asakkontassa vināsaṃ pattakālo viya bālaputhujjanassa kāmaguṇagiddhassa pāpaparāyaṇassa kusaladhamme patiṭṭhaṃ labhituṃ asakkontassa mahāniraye mahāvināsapatti daṭṭhabbāti.
Therein, saṃsāra should be seen as beginningless, like the river; the five strands of sensual pleasure in saṃsāra, like the elephant carcass being carried by the river; the foolish ordinary person, like the crow; the time when an ordinary person experiences joy after indulging in sensual pleasures, like the time when the crow drank water after eating the carcass; the sight of thirty-eight objects of sense, by way of hearing, while an ordinary person is clinging to sensual pleasures, like the sight of the delightful forest grove while the crow was still clinging to the carcass; and the great destruction in the great hell for a foolish ordinary person greedy for sensual pleasures and prone to evil, unable to find a foothold in wholesome Dhammas, like the time when the crow, unable to find a foothold when the carcass entered the ocean, met its destruction.
Ở đây, luân hồi (saṃsāra) nên được xem như một dòng sông vô tận, không có khởi điểm; năm dục lạc (kāmaguṇa) trong luân hồi giống như xác voi bị dòng sông cuốn trôi; phàm phu ngu si giống như con quạ; thời điểm phàm phu hưởng thụ dục lạc và vui sướng giống như thời điểm con quạ ăn xác chết rồi uống nước; việc phàm phu bị mắc kẹt vào dục lạc mà thấy được ba mươi tám đối tượng (ārammaṇa) đáng yêu qua sự lắng nghe, giống như việc con quạ bị mắc kẹt vào xác chết mà thấy được khu rừng đẹp đẽ; thời điểm phàm phu ngu si, tham đắm dục lạc, chuyên làm điều ác, không thể tìm được chỗ đứng trong các thiện pháp và phải chịu sự hủy diệt lớn trong các đại địa ngục (mahāniraya), giống như thời điểm xác chết trôi ra biển, con quạ không thể tìm được chỗ đậu và phải chịu sự hủy diệt.
1883
Evamassa so imāya upamāya ovādaṃ datvā idāni tameva ovādaṃ thiraṃ katvā patiṭṭhapetuṃ gāthamāha –
Having thus given him advice with this simile, he now spoke a verse to firmly establish and confirm that same advice:
Sau khi ban lời khuyên cho vị ấy bằng ví dụ này, nay để củng cố và thiết lập vững chắc lời khuyên đó, vị ấy nói bài kệ:
1884
34.
34.
34.
1885
‘‘Ekavācampi dvivācaṃ, bhaṇeyya anukampako;
"Even once or twice, one who is compassionate may speak;
“Dù chỉ một lần, hai lần,
1886
Tatuttariṃ na bhāseyya, dāsovayyassa santike’’ti.
Beyond that, one should not speak in the presence of a slave."
Người có lòng từ bi nên nói;
1887
Tattha na bhāseyyāti vacanaṃ aggaṇhantassa hi tato uttariṃ bhāsamāno sāmikassa santike dāso viya hoti.
Therein, the phrase "should not speak" means that if one speaks beyond that to one who does not heed, one becomes like a slave in the presence of a master.
Không nên nói thêm nữa,
Dāso hi sāmike kathaṃ gaṇhantepi aggaṇhantepi kathetiyeva.
For a slave speaks to his master whether the master heeds or not.
Trước mặt kẻ nô lệ.”
Tena vuttaṃ ‘‘tatuttariṃ na bhāseyyā’’ti.
Therefore, it was said, "beyond that, one should not speak."
Ở đây, câu na bhāseyyāti (không nên nói) có nghĩa là, nếu ai nói thêm nữa với người không tiếp thu lời khuyên, thì người đó sẽ giống như một người nô lệ trước mặt chủ nhân. Người nô lệ thì cứ nói mãi, dù chủ nhân có lắng nghe hay không. Vì vậy, đã nói rằng “không nên nói thêm nữa”.
1888
35.
35.
35.
1889
‘‘Idaṃ vatvāna pakkāmi, soṇako amitabuddhimā;
"Having said this, Soṇaka, the one with infinite wisdom, departed;
“Nói xong điều này, Tôn giả Soṇaka, bậc có trí tuệ vô lượng, đã bay đi;
1890
Vehāse antalikkhasmiṃ, anusāsitvāna khattiya’’nti–
Through the air in the sky, having advised the king."
Trên không trung, sau khi giáo huấn vị vua Khattiya.”
1891
Ayaṃ abhisambuddhagāthā.
This is a verse spoken by the Fully Enlightened One.
Đây là bài kệ Abhisambuddha.
1892
Tattha idaṃ vatvānāti, bhikkhave, so paccekabuddho amitāya lokuttarabuddhiyā amitabuddhimā idaṃ vatvā iddhiyā uppatitvā ‘‘sace pabbajissasi, taveva, no ce pabbajissasi, taveva, dinno te mayā ovādo, appamatto hohī’’ti evaṃ anusāsitvāna khattiyaṃ pakkāmi.
Therein, "having said this," O bhikkhus, that Paccekabuddha, Soṇaka, possessed of infinite supramundane wisdom, having said this, rose into the air by psychic power, and having advised the king thus: "If you go forth, it is for your own good; if you do not go forth, it is for your own good. I have given you advice, be heedful," he departed.
Ở đây, idaṃ vatvānāti, này các Tỳ-khưu, vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha) Soṇaka, bậc có trí tuệ siêu việt vô lượng, đã nói điều này, rồi dùng thần thông bay lên không trung, nói: “Nếu ngươi xuất gia, đó là của ngươi; nếu ngươi không xuất gia, đó cũng là của ngươi. Ta đã ban lời khuyên cho ngươi rồi, hãy sống không phóng dật!” Sau khi giáo huấn vị vua Khattiya như vậy, Ngài đã bay đi.
1893
Bodhisattopi taṃ ākāsena gacchantaṃ yāva dassanapathā olokento ṭhatvā tasmiṃ cakkhupathe atikkante saṃvegaṃ paṭilabhitvā cintesi – ‘‘ayaṃ brāhmaṇo hīnajacco samāno asambhinne khattiyavaṃse jātassa mama matthake attano pādarajaṃ okiranto ākāsaṃ uppatitvā gato, mayāpi ajjeva nikkhamitvā pabbajituṃ vaṭṭatī’’ti.
The Bodhisatta, too, stood watching him go through the air as long as he was within sight, and when he passed beyond the range of vision, he felt a sense of urgency and reflected: "This brahmin, being of low birth, yet scattering the dust of his feet upon my head, who was born into an unblemished royal lineage, has risen into the air and departed. It is proper for me to go forth and become an ascetic today itself."
Bồ-tát cũng đứng nhìn Ngài bay trên không cho đến khi khuất tầm mắt. Khi Ngài đã khuất khỏi tầm nhìn, Bồ-tát khởi lên tâm xúc động và suy nghĩ: “Vị Bà-la-môn này, dù sinh ra trong dòng dõi thấp kém, đã rải bụi chân lên đầu ta, người sinh trong dòng dõi Khattiya thuần khiết, rồi bay lên không trung mà đi. Vậy ta cũng nên xuất gia ngay hôm nay.”
So rajjaṃ niyyādetvā pabbajitukāmo gāthādvayamāha –
Desiring to renounce the kingdom and go forth, he spoke two verses:
Muốn nhường lại vương quốc để xuất gia, Ngài nói hai bài kệ:
1894
36.
36.
36.
1895
‘‘Ko nume rājakattāro, suddā veyyattamāgatā;
"Who are those who will make me king, the Suddas who have attained competence?
“Ai là những người sẽ cai trị ta? Những người Suddā (thấp kém) đã trở nên thông minh;
1896
Rajjaṃ niyyādayissāmi, nāhaṃ rajjena matthiko.
I will give up the kingdom; I have no need for kingship.
Ta sẽ nhường lại vương quốc, ta không cần vương quốc.”
1897
37.
37.
37.
1898
‘‘Ajjeva pabbajissāmi, ko jaññā maraṇaṃ suve;
"Today itself I will go forth; who knows what tomorrow may bring for death?
“Hôm nay ta sẽ xuất gia, ai biết được ngày mai có chết không?
1899
Māhaṃ kākova dummedho, kāmānaṃ vasamanvaga’’nti.
May I not, like the foolish crow, fall under the sway of sensual pleasures."
Chớ để ta như con quạ ngu si, bị các dục lạc chi phối.”
1900
Tattha ko numeti kuhiṃ nu ime.
Therein, ko nu me means "where are these."
Ở đây, ko numeti là “những người này ở đâu?”.
Rājakattāroti ye rājārahaṃ abhisiñcitvā rājānaṃ karonti.
Rājakattāro means "those who consecrate and make one a king worthy of kingship."
Rājakattāroti là “những người phong vương và lập vua”.
Suddā veyyattamāgatāti suddā ca ye ca aññe byattabhāvaṃ āgatā mukhamaṅgalikā.
Suddā veyyattamāgatā means "the Suddas and others who have attained competence, the auspicious-faced ones."
Suddā veyyattamāgatāti là “những người Suddā và những người khác đã trở nên thông minh, những người có lời nói may mắn”.
Rajjena matthikoti rajjena atthiko.
Rajjena matthiko means "desirous of kingship."
Rajjena matthikoti là “người cần vương quốc”.
Ko jaññā maraṇaṃ suveti maraṇaṃ ajja vā suve vāti idaṃ ko jānituṃ samattho.
Ko jaññā maraṇaṃ suve means "who is capable of knowing whether death will be today or tomorrow?"
Ko jaññā maraṇaṃ suveti là “ai có thể biết được cái chết sẽ đến hôm nay hay ngày mai?”
1901
Evaṃ rajjaṃ niyyādentassa sutvā amaccā āhaṃsu –
Hearing him thus renouncing the kingdom, the ministers said:
Nghe vua nhường ngôi như vậy, các quan đại thần nói:
1902
38.
38.
38.
1903
‘‘Atthi te daharo putto, dīghāvu raṭṭhavaḍḍhano;
"You have a young son, Dīghāvu, who will expand the kingdom;
“Đức vua có một người con trai trẻ, Dīghāvu, người sẽ làm hưng thịnh đất nước;
1904
Taṃ rajje abhisiñcassu, so no rājā bhavissatī’’ti.
“Anoint him in the kingship; he will be our king.”
Xin hãy tấn phong người ấy lên ngôi, người ấy sẽ là vua của chúng ta.”
1905
Tato paraṃ raññā vuttagāthamādiṃ katvā udānasambandhagāthā pāḷinayeneva veditabbā –
Thereafter, beginning with the verse spoken by the king, the verses related to the Udāna should be understood according to the Pali method –
Từ đó trở đi, các bài kệ liên quan đến lời cảm hứng (udāna) của nhà vua, bắt đầu bằng bài kệ đã nói, nên được hiểu theo cách của Pāḷi.
1906
39.
39.
39.
1907
‘‘Khippaṃ kumāramānetha, dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ;
“Quickly bring the prince, Dīghāvu, the prosperity of the realm;
“Hãy mau chóng đưa hoàng tử Dīghāvu, người sẽ làm hưng thịnh đất nước, đến đây;
1908
Taṃ rajje abhisiñcissaṃ, so vo rājā bhavissati.
I shall anoint him in the kingship; he will be your king.
Ta sẽ tấn phong người ấy lên ngôi, người ấy sẽ là vua của các ngươi.”
1909
40.
40.
40.
1910
‘‘Tato kumāramānesuṃ, dīghāvuṃ raṭṭhavaḍḍhanaṃ;
Then they brought the prince, Dīghāvu, the prosperity of the realm;
“Rồi họ đưa hoàng tử Dīghāvu, người sẽ làm hưng thịnh đất nước, đến;
1911
Taṃ disvā ālapī rājā, ekaputtaṃ manoramaṃ.
Seeing him, the king addressed his only beloved son.
Thấy người con trai duy nhất đáng yêu đó, nhà vua nói.”
1912
41.
41.
41.
1913
‘‘Saṭṭhi gāmasahassāni, paripuṇṇāni sabbaso;
“Sixty thousand villages, fully complete in every way;
“Sáu mươi ngàn làng, đầy đủ mọi thứ;
1914
Te putta paṭipajjasu, rajjaṃ niyyādayāmi te.
Son, take possession of them; I bestow the kingship upon you.
Này con, hãy nhận lấy chúng, ta sẽ nhường lại vương quốc cho con.”
1915
42.
42.
42.
1916
‘‘Ajjeva pabbajissāmi, ko jaññā maraṇaṃ suve;
I shall go forth today; who knows about death tomorrow?
“Hôm nay ta sẽ xuất gia, ai biết được ngày mai có chết không?
1917
Māhaṃ kāko va dummedho, kāmānaṃ vasamanvagaṃ.
May I not, like a foolish crow, fall under the sway of sensual pleasures.
Chớ để ta như con quạ ngu si, bị các dục lạc chi phối.”
1918
43.
43.
43.
1919
‘‘Saṭṭhi nāgasahassāni, sabbālaṅkārabhūsitā;
Sixty thousand elephants, adorned with all ornaments;
“Sáu mươi ngàn con voi, tất cả đều được trang sức lộng lẫy;
1920
Suvaṇṇakacchā mātaṅgā, hemakappanavāsasā.
Elephants with golden trappings, wearing golden coverings.
Với yên vàng, những con voi lớn, mặc áo giáp vàng.”
1921
44.
44.
44.
1922
‘‘Ārūḷhā gāmaṇīyebhi, tomaraṅkusapāṇibhi;
Mounted by chieftains, with spears and goads in hand;
“Được cưỡi bởi các tướng lĩnh, tay cầm giáo và móc sắt;
1923
Te putta paṭipajjassu, rajjaṃ niyyādayāmi te.
Son, take possession of them; I bestow the kingship upon you.
Này con, hãy nhận lấy chúng, ta sẽ nhường lại vương quốc cho con.”
1924
45.
45.
45.
1925
‘‘Ajjeva pabbajissāmi, ko jaññā maraṇaṃ suve;
I shall go forth today; who knows about death tomorrow?
“Hôm nay ta sẽ xuất gia, ai biết được ngày mai có chết không?
1926
Māhaṃ kākova dummedho, kāmānaṃ vasamanvagaṃ.
May I not, like a foolish crow, fall under the sway of sensual pleasures.
Chớ để ta như con quạ ngu si, bị các dục lạc chi phối.”
1927
46.
46.
46.
1928
‘‘Saṭṭhi assasahassāni, sabbālaṅkārabhūsitā;
Sixty thousand horses, adorned with all ornaments;
“Sáu mươi ngàn con ngựa, tất cả đều được trang sức lộng lẫy;
Next Page →