38. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
38. This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I heard:
38. Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Tathāgataṃ, bhikkhave, arahantaṃ sammāsambuddhaṃ dve vitakkā bahulaṃ samudācaranti – khemo ca vitakko, paviveko ca* .
“Monks, two thoughts frequently occur to the Tathāgata, the Arahant, the Fully Self-Awakened One: the thought of safety and the thought of seclusion.
“Này các Tỳ-khưu, hai loại tư duy thường xuyên khởi lên trong Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác: tư duy an ổn và tư duy viễn ly.
Abyāpajjhārāmo* , bhikkhave, tathāgato abyāpajjharato.
The Tathāgata, monks, delights in non-affliction, is fond of non-affliction.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai vui thích trong sự không làm hại, hoan hỷ trong sự không làm hại.
Tamenaṃ, bhikkhave, tathāgataṃ abyāpajjhārāmaṃ abyāpajjharataṃ eseva vitakko bahulaṃ samudācarati – ‘imāyāhaṃ iriyāya na kiñci byābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā’ti.
To that Tathāgata, monks, who delights in non-affliction, is fond of non-affliction, this thought frequently occurs: ‘By this deportment of mine, I do not harm anything, neither trembling nor firm.’
Này các Tỳ-khưu, khi Như Lai vui thích trong sự không làm hại, hoan hỷ trong sự không làm hại, chính tư duy này thường xuyên khởi lên trong Ngài: ‘Với oai nghi này, Ta không làm hại bất cứ điều gì, dù là chúng sinh di động hay bất động.’
‘‘Pavivekārāmo, bhikkhave, tathāgato pavivekarato.
“The Tathāgata, monks, delights in seclusion, is fond of seclusion.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai vui thích trong sự viễn ly, hoan hỷ trong sự viễn ly.
Tamenaṃ, bhikkhave, tathāgataṃ pavivekārāmaṃ pavivekarataṃ eseva vitakko bahulaṃ samudācarati – ‘yaṃ akusalaṃ taṃ pahīna’nti.
To that Tathāgata, monks, who delights in seclusion, is fond of seclusion, this thought frequently occurs: ‘What is unwholesome, that is abandoned.’
Này các Tỳ-khưu, khi Như Lai vui thích trong sự viễn ly, hoan hỷ trong sự viễn ly, chính tư duy này thường xuyên khởi lên trong Ngài: ‘Những điều bất thiện đã được đoạn trừ.’
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, tumhepi abyāpajjhārāmā viharatha abyāpajjharatā.
“Therefore, monks, you too should dwell delighting in non-affliction, fond of non-affliction.
Do đó, này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy sống vui thích trong sự không làm hại, hoan hỷ trong sự không làm hại.
Tesaṃ vo, bhikkhave, tumhākaṃ abyāpajjhārāmānaṃ viharataṃ abyāpajjharatānaṃ eseva vitakko bahulaṃ samudācarissati – ‘imāya mayaṃ iriyāya na kiñci byābādhema tasaṃ vā thāvaraṃ vā’ti.
To you, monks, dwelling delighting in non-affliction, fond of non-affliction, this thought will frequently occur: ‘By this deportment of ours, we do not harm anything, neither trembling nor firm.’
Này các Tỳ-khưu, khi các ông sống vui thích trong sự không làm hại, hoan hỷ trong sự không làm hại, chính tư duy này sẽ thường xuyên khởi lên trong các ông: ‘Với oai nghi này, chúng ta không làm hại bất cứ điều gì, dù là chúng sinh di động hay bất động.’
‘‘Pavivekārāmā, bhikkhave, viharatha pavivekaratā.
“Monks, dwell delighting in seclusion, fond of seclusion.
Này các Tỳ-khưu, hãy sống vui thích trong sự viễn ly, hoan hỷ trong sự viễn ly.
Tesaṃ vo, bhikkhave, tumhākaṃ pavivekārāmānaṃ viharataṃ pavivekaratānaṃ eseva vitakko bahulaṃ samudācarissati – ‘kiṃ akusalaṃ, kiṃ appahīnaṃ, kiṃ pajahāmā’’’ti.
To you, monks, dwelling delighting in seclusion, fond of seclusion, this thought will frequently occur: ‘What is unwholesome? What is unabandoned? What shall we abandon?’”
Này các Tỳ-khưu, khi các ông sống vui thích trong sự viễn ly, hoan hỷ trong sự viễn ly, chính tư duy này sẽ thường xuyên khởi lên trong các ông: ‘Điều gì là bất thiện? Điều gì chưa được đoạn trừ? Chúng ta nên đoạn trừ điều gì?’”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein, this is said:
Tại đó, điều này được nói như sau:
‘‘Tathāgataṃ buddhamasayhasāhinaṃ, duve vitakkā samudācaranti naṃ;
“To the Tathāgata, the Buddha, the unconquerable victor, two thoughts occur to him;
“Trong Như Lai, bậc Phật không thể bị khuất phục,
Khemo vitakko paṭhamo udīrito, tato viveko dutiyo pakāsito.
The thought of safety is declared first, then seclusion is proclaimed as the second.
Hai loại tư duy thường khởi lên nơi Ngài: Tư duy an ổn được nói là thứ nhất, rồi tư duy viễn ly được công bố là thứ hai.
‘‘Tamonudaṃ pāragataṃ mahesiṃ, taṃ pattipattaṃ vasimaṃ anāsavaṃ;
“The dispeller of darkness, gone to the far shore, the great sage, one who has attained what is to be attained, one who has mastery, one who is without āsavas;
Bậc Đại Hiền Giả, diệt trừ bóng tối, đã đến bờ bên kia,
Visantaraṃ* taṇhakkhaye vimuttaṃ, taṃ ve muniṃ antimadehadhāriṃ;
One who has crossed the poison, liberated by the destruction of craving, that indeed is the sage, bearing the final body;
Đã đạt được thành tựu, bậc làm chủ, không lậu hoặc,
Mārañjahaṃ* brūmi jarāya pāraguṃ.
I call him the abandoner of Māra, one who has gone beyond aging.
Vượt qua mọi độc tố, giải thoát khỏi sự đoạn tận ái dục, bậc ẩn sĩ mang thân cuối cùng,
Tathūpamaṃ dhammamayaṃ sumedho, pāsādamāruyha samantacakkhu;
So too, the wise one, the all-seeing, having ascended the palace made of Dhamma, thus comparable;
Như người đứng trên đỉnh núi cao,
Sokāvatiṇṇaṃ janatamapetasoko, avekkhati jātijarābhibhūta’’nti.
Sorrowless, he surveys the populace submerged in sorrow, overcome by birth and aging.”
Có thể nhìn thấy mọi người xung quanh; cũng vậy, bậc toàn giác, bậc có mắt khắp nơi, với trí tuệ siêu việt, đã lên cung điện Pháp, không còn sầu khổ, nhìn xuống chúng sanh đang chìm đắm trong sầu khổ, bị sinh và già chi phối.”
39. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
39. This was said by the Blessed One, said by the Arahant, so I heard:
39. Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Tathāgatassa, bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa dve dhammadesanā pariyāyena bhavanti.
‘‘Bhikkhus, there are two discourses on Dhamma given by the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One, in due course.
“Này các Tỳ-khưu, có hai lời giáo huấn Pháp của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, theo cách tuần tự.
Katamā dve?
Which two?
Hai điều đó là gì?
‘Pāpaṃ pāpakato passathā’ti – ayaṃ paṭhamā dhammadesanā; ‘pāpaṃ pāpakato disvā tattha nibbindatha virajjatha vimuccathā’ti – ayaṃ dutiyā dhammadesanā.
‘See evil as evil’—this is the first discourse on Dhamma; ‘Having seen evil as evil, become disgusted with it, dispassionate towards it, and liberated from it’—this is the second discourse on Dhamma.
‘Hãy thấy điều ác là ác’ – đây là lời giáo huấn Pháp thứ nhất; ‘sau khi thấy điều ác là ác, hãy nhàm chán, ly tham, giải thoát khỏi nó’ – đây là lời giáo huấn Pháp thứ hai.
Tathāgatassa, bhikkhave, arahato sammāsambuddhassa imā dve dhammadesanā pariyāyena bhavantī’’ti.
Bhikkhus, these two discourses on Dhamma are given by the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One, in due course.’’
Này các Tỳ-khưu, hai lời giáo huấn Pháp này của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, theo cách tuần tự.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Tại đó, điều này được nói như sau:
‘‘Tathāgatassa buddhassa, sabbabhūtānukampino;
‘‘Behold the sequential teaching of the Buddha, the Tathāgata, who has compassion for all beings;
“Hãy nhìn lời giáo huấn tuần tự của Đức Phật Như Lai,
Tato virattacittāse, dukkhassantaṃ karissathā’’ti.
Then, with minds dispassionate, you will make an end of suffering.’’
Từ đó, với tâm đã ly tham, các ông sẽ chấm dứt khổ đau.”
40. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
40. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
40. Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Avijjā, bhikkhave, pubbaṅgamā akusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā anvadeva ahirikaṃ anottappaṃ; vijjā ca kho, bhikkhave, pubbaṅgamā kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā anvadeva hirottappa’’nti.
‘‘Ignorance, bhikkhus, is the forerunner in the acquisition of unwholesome states, followed by shamelessness and fearlessness of wrongdoing; and true knowledge, bhikkhus, is the forerunner in the acquisition of wholesome states, followed by moral shame and moral dread.’’
“Này các Tỳ-khưu, vô minh là đi trước trong sự phát sinh các pháp bất thiện, theo sau là không hổ thẹn và không ghê sợ tội lỗi; còn minh là đi trước trong sự phát sinh các pháp thiện, theo sau là hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Tại đó, điều này được nói như sau:
Avijjāmūlikā sabbā, icchālobhasamussayā.
All are rooted in ignorance, accumulated through craving and greed.
Trong đời này và đời sau, đều có gốc rễ từ vô minh, được tích lũy bởi dục vọng và tham lam.
‘‘Yato ca hoti pāpiccho, ahirīko anādaro;
‘‘When one is of evil wishes, shameless, and disrespectful;
Khi một người có ý muốn xấu xa, không hổ thẹn, không kính trọng,
‘‘Tasmā chandañca lobhañca, avijjañca virājayaṃ;
‘‘Therefore, a bhikkhu, abandoning craving, greed, and ignorance;
Do đó, Tỳ-khưu hãy ly tham dục vọng, tham lam và vô minh;
41. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
41. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
41. Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Te, bhikkhave, sattā suparihīnā ye ariyāya paññāya parihīnā.
‘‘Those beings, bhikkhus, are utterly deprived who are deprived of noble wisdom.
“Này các Tỳ-khưu, những chúng sinh nào thiếu trí tuệ Thánh, thì họ là những chúng sinh bị tổn thất nặng nề.
Te diṭṭheva dhamme dukkhaṃ viharanti savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ; kāyassa bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
They dwell in suffering in this very life, with vexation, lamentation, and feverish distress; at the breaking up of the body, after death, a state of woe is to be expected.
Trong đời này, họ sống khổ sở, với sự quấy nhiễu, phiền muộn, và ưu não; sau khi thân hoại mạng chung, ác thú là điều đáng mong đợi.
Te* , bhikkhave, sattā aparihīnā ye ariyāya paññāya aparihīnā.
Those beings, bhikkhus, are not deprived who are not deprived of noble wisdom.
Này các Tỳ-khưu, những chúng sinh nào không thiếu trí tuệ Thánh, thì họ là những chúng sinh không bị tổn thất.
Te diṭṭheva dhamme sukhaṃ viharanti avighātaṃ anupāyāsaṃ apariḷāhaṃ; kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugati pāṭikaṅkhā’’ti.
They dwell in happiness in this very life, without vexation, lamentation, or feverish distress; at the breaking up of the body, after death, a good destination is to be expected.’’
Trong đời này, họ sống an lạc, không bị quấy nhiễu, không phiền muộn, không ưu não; sau khi thân hoại mạng chung, thiện thú là điều đáng mong đợi.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Tại đó, điều này được nói như sau:
Niviṭṭhaṃ nāmarūpasmiṃ, idaṃ saccanti maññati.
Immersed in name-and-form, it considers this to be true.
Do thiếu trí tuệ, họ bám chấp vào danh sắc, cho rằng ‘đây là sự thật’.
Pihayanti hāsapaññānaṃ* , sarīrantimadhārina’’nti.
Who possess extensive wisdom, and bear their final body, devas and humans alike aspire.’’
Những bậc Chánh Đẳng Giác, những bậc có niệm, có trí tuệ rộng lớn, những bậc mang thân cuối cùng.”
42. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
42. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
42. Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Dveme, bhikkhave, sukkā dhammā lokaṃ pālenti.
‘‘Bhikkhus, these two wholesome states protect the world.
“Này các Tỳ-khưu, có hai pháp trắng này bảo vệ thế gian.
Katame dve?
Which two?
Hai điều đó là gì?
Hirī* ca, ottappañca.
Moral shame (hirī) and moral dread (ottappa).
Đó là hổ thẹn (hiri) và ghê sợ tội lỗi (ottappa).
Ime ce, bhikkhave, dve sukkā dhammā lokaṃ na pāleyyuṃ, nayidha paññāyetha mātāti vā mātucchāti vā mātulānīti vā ācariyabhariyāti vā garūnaṃ dārāti vā.
If, bhikkhus, these two wholesome states did not protect the world, there would be no distinction here of ‘mother’, or ‘aunt’, or ‘uncle’s wife’, or ‘teacher’s wife’, or ‘wives of respected ones’.
Này các Tỳ-khưu, nếu hai pháp trắng này không bảo vệ thế gian, thì ở đây sẽ không có sự phân biệt ‘mẹ’ hay ‘dì’ hay ‘cô’ hay ‘vợ của thầy’ hay ‘vợ của những bậc đáng kính’.
Sambhedaṃ loko agamissa yathā ajeḷakā kukkuṭasūkarā soṇasiṅgālā* .
The world would fall into promiscuity, like goats, sheep, chickens, pigs, dogs, and jackals.
Thế gian sẽ trở nên hỗn loạn như dê, cừu, gà, heo, chó, và chó rừng.
Yasmā ca kho, bhikkhave, ime dve sukkā dhammā lokaṃ pālenti tasmā paññāyati mātāti vā mātucchāti vā mātulānīti vā ācariyabhariyāti vā garūnaṃ dārāti vā’’ti.
But because, bhikkhus, these two wholesome states protect the world, therefore there is the distinction of ‘mother’, or ‘aunt’, or ‘uncle’s wife’, or ‘teacher’s wife’, or ‘wives of respected ones’.’’
Nhưng này các Tỳ-khưu, vì hai pháp trắng này bảo vệ thế gian, nên mới có sự phân biệt ‘mẹ’ hay ‘dì’ hay ‘cô’ hay ‘vợ của thầy’ hay ‘vợ của những bậc đáng kính’.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Tại đó, điều này được nói như sau:
Virūḷhabrahmacariyā te, santo khīṇapunabbhavā’’ti.
Those saints, whose holy life is developed, have exhausted rebirth."
Họ là những bậc tu Phạm hạnh đã phát triển, những bậc Thánh đã đoạn tận tái sinh.”
43. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
43. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant; thus have I heard –
43. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Atthi, bhikkhave, ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ.
‘‘Monks, there is the unborn, unbecome, unmade, unconditioned.
“Này các Tỳ-khưu, có cái không sanh, không hiện hữu, không được tạo tác, không bị điều kiện hóa (asaṅkhata).
No cetaṃ, bhikkhave, abhavissa ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyetha.
If, monks, there were not the unborn, unbecome, unmade, unconditioned, then no escape from the born, become, made, conditioned would be discernible here.
Này các Tỳ-khưu, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không được tạo tác, không bị điều kiện hóa, thì sẽ không có sự xuất ly khỏi cái đã sanh, đã hiện hữu, đã được tạo tác, đã bị điều kiện hóa được biết đến ở đây.
Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi ajātaṃ abhūtaṃ akataṃ asaṅkhataṃ, tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṃ paññāyatī’’ti.
But since, monks, there is the unborn, unbecome, unmade, unconditioned, therefore an escape from the born, become, made, conditioned is discernible.’’
Nhưng này các Tỳ-khưu, vì có cái không sanh, không hiện hữu, không được tạo tác, không bị điều kiện hóa, nên sự xuất ly khỏi cái đã sanh, đã hiện hữu, đã được tạo tác, đã bị điều kiện hóa mới được biết đến.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Jātaṃ bhūtaṃ samuppannaṃ, kataṃ saṅkhatamaddhuvaṃ;
‘‘That which is born, become, arisen, made, conditioned, impermanent;
“Cái đã sanh, đã hiện hữu, đã khởi lên, được tạo tác, bị điều kiện hóa, vô thường;
Jarāmaraṇasaṅghāṭaṃ, roganīḷaṃ* pabhaṅguraṃ* .
Bound by aging and death, a nest of disease, perishable.
Là sự kết hợp của già và chết, là tổ của bệnh tật, là cái dễ bị hoại diệt.
Tassa nissaraṇaṃ santaṃ, atakkāvacaraṃ dhuvaṃ.
Its escape is the peaceful, beyond reasoning, permanent.
Sự xuất ly của nó là an tịnh, vượt ngoài tầm suy luận, thường hằng.
‘‘Ajātaṃ asamuppannaṃ, asokaṃ virajaṃ padaṃ;
‘‘The unborn, unarisen, sorrowless, stainless state;
Là không sanh, không khởi lên, không sầu muộn, không cấu uế, là cảnh giới;
Nirodho dukkhadhammānaṃ, saṅkhārūpasamo sukho’’ti.
The cessation of suffering phenomena, the calming of formations, is bliss.’’
Sự diệt trừ các pháp khổ, sự an tịnh của các hành là an lạc.”
44. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
44. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant; thus have I heard –
44. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Dvemā, bhikkhave, nibbānadhātuyo.
‘‘Monks, there are these two Nibbāna-dhātus.
“Này các Tỳ-khưu, có hai giới Nibbāna.
Katame dve?
Which two?
Hai điều nào?
Saupādisesā ca nibbānadhātu, anupādisesā ca nibbānadhātu.
The Nibbāna-dhātu with residue remaining, and the Nibbāna-dhātu without residue remaining.
Đó là giới Nibbāna hữu dư y và giới Nibbāna vô dư y.
‘‘Katamā ca, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu?
‘‘And what, monks, is the Nibbāna-dhātu with residue remaining?
“Này các Tỳ-khưu, thế nào là giới Nibbāna hữu dư y?
Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññā vimutto.
Here, monks, a bhikkhu is an Arahant, one whose asavas are destroyed, who has lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained his own goal, utterly destroyed the fetters of existence, and is rightly liberated by perfect knowledge.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã diệt tận, đã sống phạm hạnh, những việc cần làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, đã đạt được mục đích tối thượng, các kiết sử hữu đã đoạn tận, đã giải thoát hoàn toàn nhờ chánh trí.
Tassa tiṭṭhanteva pañcindriyāni yesaṃ avighātattā* manāpāmanāpaṃ paccanubhoti, sukhadukkhaṃ paṭisaṃvedeti.
For him, while his five sense faculties still remain, he experiences agreeable and disagreeable things, he feels pleasure and pain, due to the non-destruction of these faculties.
Năm căn của vị ấy vẫn còn tồn tại, do chúng chưa bị hoại diệt, vị ấy vẫn còn kinh nghiệm các điều khả ái và bất khả ái, cảm thọ khổ và lạc.
Tassa yo rāgakkhayo, dosakkhayo, mohakkhayo – ayaṃ vuccati, bhikkhave, saupādisesā nibbānadhātu.
The destruction of lust, the destruction of hatred, the destruction of delusion in him – this, monks, is called the Nibbāna-dhātu with residue remaining.
Sự diệt trừ tham, diệt trừ sân, diệt trừ si của vị ấy – này các Tỳ-khưu, đây được gọi là giới Nibbāna hữu dư y.
‘‘Katamā ca, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu?
‘‘And what, monks, is the Nibbāna-dhātu without residue remaining?
“Này các Tỳ-khưu, thế nào là giới Nibbāna vô dư y?
Idha, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ hoti khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññā vimutto.
Here, monks, a bhikkhu is an Arahant, one whose asavas are destroyed, who has lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained his own goal, utterly destroyed the fetters of existence, and is rightly liberated by perfect knowledge.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã diệt tận, đã sống phạm hạnh, những việc cần làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, đã đạt được mục đích tối thượng, các kiết sử hữu đã đoạn tận, đã giải thoát hoàn toàn nhờ chánh trí.
Tassa idheva, bhikkhave, sabbavedayitāni anabhinanditāni sīti bhavissanti* .
Here, monks, all feelings, not being delighted in, will become cool.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, tất cả các cảm thọ của vị ấy sẽ trở nên mát mẻ, không còn hoan hỷ.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, anupādisesā nibbānadhātu.
This, monks, is called the Nibbāna-dhātu without residue remaining.
Này các Tỳ-khưu, đây được gọi là giới Nibbāna vô dư y.
Imā kho, bhikkhave, dve nibbānadhātuyo’’ti.
These, monks, are the two Nibbāna-dhātus.’’
Này các Tỳ-khưu, đây chính là hai giới Nibbāna này.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Duve imā cakkhumatā pakāsitā, nibbānadhātū anissitena tādinā;
‘‘These two Nibbāna-dhātus, the Seer, the Tādin, unattached, has proclaimed;
“Hai giới Nibbāna này đã được bậc Có Mắt, bậc Như Lai vô sở y tuyên bố;
Ekā hi dhātu idha diṭṭhadhammikā, saupādisesā bhavanettisaṅkhayā;
One dhātu is here, in this present life, with residue remaining, the ending of the guide to existence;
Một giới là hiện pháp lạc trú ở đời này, hữu dư y, là sự đoạn tận của ái dẫn đến tái sanh;
‘‘Ye etadaññāya padaṃ asaṅkhataṃ, vimuttacittā bhavanettisaṅkhayā;
‘‘Those who, having understood this unconditioned state, with minds liberated, having ended the guide to existence;
Những ai hiểu rõ cảnh giới vô điều kiện này, tâm được giải thoát, ái dẫn đến tái sanh đã đoạn tận;
Te dhammasārādhigamā khaye ratā, pahaṃsu te sabbabhavāni tādino’’ti.
Having attained the essence of the Dhamma, delight in cessation, those Tādins have abandoned all existences.’’
Những bậc Như Lai ấy, đã đạt được tinh túy của Pháp, hoan hỷ trong sự diệt tận, đã đoạn trừ tất cả các hữu.”
45. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
45. This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant; thus have I heard –
45. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Paṭisallānārāmā* , bhikkhave, viharatha paṭisallānaratā, ajjhattaṃ cetosamathamanuyuttā, anirākatajjhānā, vipassanāya samannāgatā, brūhetā suññāgārānaṃ.
‘‘Monks, dwell devoted to seclusion, delighting in seclusion, engaged in inner mental tranquility, not neglecting jhāna, endowed with vipassanā, cultivating empty dwellings.
“Này các Tỳ-khưu, hãy sống hoan hỷ trong độc cư (paṭisallāna), yêu thích độc cư, chuyên tâm vào sự an tịnh của nội tâm, không từ bỏ thiền định, đầy đủ tuệ quán, phát triển các trú xứ vắng vẻ.
Paṭisallānārāmānaṃ, bhikkhave, viharataṃ paṭisallānaratānaṃ ajjhattaṃ cetosamathamanuyuttānaṃ anirākatamajjhānānaṃ vipassanāya samannāgatānaṃ brūhetānaṃ suññāgārānaṃ dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā’’ti.
For monks dwelling devoted to seclusion, delighting in seclusion, engaged in inner mental tranquility, not neglecting jhāna, endowed with vipassanā, cultivating empty dwellings, one of two fruits is to be expected: either final knowledge in this very life, or, if there is still residue remaining, the state of non-returner.’’
Này các Tỳ-khưu, đối với những ai sống hoan hỷ trong độc cư, yêu thích độc cư, chuyên tâm vào sự an tịnh của nội tâm, không từ bỏ thiền định, đầy đủ tuệ quán, phát triển các trú xứ vắng vẻ, một trong hai quả sẽ được mong đợi: hoặc là chánh trí ngay trong hiện tại, hoặc là quả Bất Hoàn (Anāgāmitā) nếu còn dư y.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Ye santacittā nipakā, satimanto ca* jhāyino;
“Those whose minds are tranquil, who are discerning, mindful, and meditative;
“Những ai tâm an tịnh, khéo léo, có niệm và là bậc thiền giả;
‘‘Appamādaratā santā, pamāde bhayadassino;
Those who delight in diligence, who are peaceful, seeing danger in negligence;
Hoan hỷ trong không phóng dật, thấy sự nguy hiểm trong phóng dật;
46. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
46. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Sikkhānisaṃsā, bhikkhave, viharatha paññuttarā vimuttisārā satādhipateyyā.
“Monks, dwell with the benefits of training, having wisdom as supreme, liberation as their essence, and mindfulness as their chief.
“Này các Tỳ-khưu, hãy sống với lợi ích của học pháp (sikkhānisaṃsa), với tuệ là tối thượng, giải thoát là cốt lõi, niệm là chủ tể.
Sikkhānisaṃsānaṃ, bhikkhave, viharataṃ paññuttarānaṃ vimuttisārānaṃ satādhipateyyānaṃ dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā’’ti.
For those monks dwelling with the benefits of training, having wisdom as supreme, liberation as their essence, and mindfulness as their chief, one of two fruits is to be expected: either final knowledge in this very life, or non-returning if there is still a remnant of clinging.”
Này các Tỳ-khưu, đối với những ai sống với lợi ích của học pháp, với tuệ là tối thượng, giải thoát là cốt lõi, niệm là chủ tể, một trong hai quả sẽ được mong đợi: hoặc là chánh trí ngay trong hiện tại, hoặc là quả Bất Hoàn nếu còn dư y.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein, this is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Paripuṇṇasikkhaṃ* apahānadhammaṃ, paññuttaraṃ jātikhayantadassiṃ;
“One who has perfected the training, whose Dhamma is indeclinable, supreme in wisdom, seeing the end of birth;
“Bậc đã hoàn tất học pháp, không có pháp thoái thất, với tuệ tối thượng, thấy sự diệt tận của sanh;
Taṃ ve muniṃ antimadehadhāriṃ, mārañjahaṃ brūmi jarāya pāraguṃ.
that sage, bearing the final body, abandoning Māra, I declare to be one who has crossed beyond old age.
Ta gọi vị ẩn sĩ ấy là người mang thân cuối cùng, đã đoạn trừ Ma vương, đã vượt qua già chết.
‘‘Tasmā sadā jhānaratā samāhitā, ātāpino jātikhayantadassino;
Therefore, monks, always delighting in jhāna, composed, ardent, seeing the end of birth;
Vì vậy, này các Tỳ-khưu, hãy luôn hoan hỷ trong thiền định, chánh niệm, tinh cần, thấy sự diệt tận của sanh;
47. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
47. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Jāgaro cassa, bhikkhave, bhikkhu vihareyya sato sampajāno samāhito pamudito vippasanno ca tattha kālavipassī ca kusalesu dhammesu.
“Monks, a monk should dwell vigilant, mindful, clearly comprehending, composed, joyful, clear, and discerning the Dhamma at the right time in wholesome states.
“Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu nên sống tỉnh giác, có niệm, có chánh tri kiến, tâm định tĩnh, hoan hỷ, thanh tịnh, và quán sát các thiện pháp đúng thời điểm.
Jāgarassa, bhikkhave, bhikkhuno viharato satassa sampajānassa samāhitassa pamuditassa vippasannassa tattha kālavipassino kusalesu dhammesu dvinnaṃ phalānaṃ aññataraṃ phalaṃ pāṭikaṅkhaṃ – diṭṭheva dhamme aññā, sati vā upādisese anāgāmitā’’ti.
For a monk who dwells vigilant, mindful, clearly comprehending, composed, joyful, clear, and discerning the Dhamma at the right time in wholesome states, one of two fruits is to be expected: either final knowledge in this very life, or non-returning if there is still a remnant of clinging.”
Này các Tỳ-khưu, đối với Tỳ-khưu sống tỉnh giác, có niệm, có chánh tri kiến, tâm định tĩnh, hoan hỷ, thanh tịnh, và quán sát các thiện pháp đúng thời điểm, một trong hai quả sẽ được mong đợi: hoặc là chánh trí ngay trong hiện tại, hoặc là quả Bất Hoàn nếu còn dư y.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein, this is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Jāgarantā suṇāthetaṃ, ye suttā te pabujjhatha;
“Listen, you who are vigilant; wake up, you who are asleep;
“Những ai đang tỉnh thức, hãy lắng nghe điều này, những ai đang ngủ, hãy thức tỉnh;
‘‘Yo jāgaro ca satimā sampajāno, samāhito mudito vippasanno ca;
One who is vigilant, mindful, clearly comprehending, composed, joyful, and clear;
Ai tỉnh giác, có niệm, có chánh tri kiến, tâm định tĩnh, hoan hỷ và thanh tịnh;
Kālena so sammā dhammaṃ parivīmaṃsamāno, ekodibhūto vihane tamaṃ so.
rightly contemplating the Dhamma at the right time, being unified, he dispels the darkness.
Vị ấy, đúng thời điểm, quán sát Pháp một cách chân chánh, trở thành độc nhất và diệt trừ bóng tối ấy.
‘‘Tasmā have jāgariyaṃ bhajetha, ātāpī bhikkhu nipako jhānalābhī;
Therefore, indeed, a monk who is ardent, discerning, and a recipient of jhāna should cultivate vigilance;
Vì vậy, Tỳ-khưu tinh cần, khéo léo, đạt được thiền định, hãy luôn thực hành tỉnh giác;
48. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
48. Điều này đã được Thế Tôn nói, đã được bậc A-la-hán nói, tôi đã nghe như vậy –
‘‘Dveme, bhikkhave, āpāyikā nerayikā idamappahāya.
“Monks, there are these two who are bound for the woeful states, bound for hell, without abandoning this.
“Này các Tỳ-khưu, có hai hạng người sẽ đọa vào khổ cảnh, vào địa ngục, vì không từ bỏ điều này.
Katame dve?
Which two?
Hai hạng nào?
Yo ca abrahmacārī brahmacāripaṭiñño, yo ca paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carantaṃ amūlakena abrahmacariyena anuddhaṃseti.
One who is not a celibate but claims to be a celibate, and one who, without basis, slanders with unchastity another who is living a complete and pure holy life.
Một là kẻ không sống phạm hạnh nhưng tự xưng là sống phạm hạnh, hai là kẻ phỉ báng một người đang sống phạm hạnh hoàn toàn trong sạch bằng một hành vi phi phạm hạnh không có căn cứ.
Ime kho, bhikkhave, dve āpāyikā nerayikā idamappahāyā’’ti.
These two, monks, are bound for the woeful states, bound for hell, without abandoning this.”
Này các Tỳ-khưu, đây chính là hai hạng người sẽ đọa vào khổ cảnh, vào địa ngục, vì không từ bỏ điều này.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Thế Tôn đã nói ý nghĩa này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein, this is said:
Trong đó, điều này được nói là:
‘‘Abhūtavādī nirayaṃ upeti, yo vāpi katvā na karomi cāha;
“A speaker of falsehood goes to hell, and one who, having done, says ‘I did not’;
“Kẻ nói lời không thật sẽ đọa địa ngục, hoặc kẻ đã làm mà nói ‘Tôi không làm’;
Ubhopi te pecca samā bhavanti, nihīnakammā manujā parattha.
both of them, having passed away, become equal, base-actioned humans in the next world.
Cả hai người ấy, sau khi chết, đều trở thành ngang nhau, những người có nghiệp thấp kém ở đời sau.
‘‘Kāsāvakaṇṭhā bahavo, pāpadhammā asaññatā;
Many with ochre robes, of evil nature, unrestrained;
Nhiều kẻ mang áo cà-sa, có ác pháp, không tự chế;
Pāpā pāpehi kammehi, nirayaṃ te upapajjare.
being evil, by their evil deeds, they fall into hell.
Những kẻ ác ấy, do các nghiệp ác, sẽ sanh vào địa ngục.
Yañce bhuñjeyya dussīlo, raṭṭhapiṇḍamasaññato’’ti.
than for an immoral, unrestrained person to eat the alms of the country.”
Còn hơn là kẻ ác giới, không tự chế, thọ dụng vật thực cúng dường của quốc dân.”
49. Vuttañhetaṃ bhagavatā, vuttamarahatāti me sutaṃ –
This was spoken by the Blessed One, spoken by the Arahant, so I heard—
49. Điều này đã được Đức Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, tôi đã nghe như vầy –
‘‘Dvīhi, bhikkhave, diṭṭhigatehi pariyuṭṭhitā devamanussā olīyanti eke, atidhāvanti eke; cakkhumanto ca passanti.
“Monks, devas and humans, beset by two kinds of views, some cling, some rush ahead; but those with vision see.
“Này các Tỳ-khưu, bị hai loại tà kiến này vây hãm, một số chư thiên và loài người thì chìm đắm, một số thì vượt quá giới hạn; còn những bậc có mắt thì thấy rõ.”
‘‘Kathañca, bhikkhave, olīyanti eke?
“And how, monks, do some cling?
“Và này các Tỳ-khưu, một số người chìm đắm như thế nào?
Bhavārāmā, bhikkhave, devamanussā bhavaratā bhavasammuditā tesaṃ bhavanirodhāya dhamme desiyamāne cittaṃ na pakkhandati na pasīdati na santiṭṭhati nādhimuccati.
Monks, devas and humans delight in existence, rejoice in existence, and are pleased with existence. When the Dhamma for the cessation of existence is taught to them, their minds do not incline towards it, do not become serene, do not settle, and do not resolve upon it.
Này các Tỳ-khưu, chư thiên và loài người vui thích với sự hiện hữu (bhava), hoan hỷ với sự hiện hữu, thỏa mãn với sự hiện hữu. Khi Giáo Pháp được thuyết giảng về sự chấm dứt sự hiện hữu, tâm của họ không hướng đến, không tịnh tín, không an trú, không giải thoát.
Evaṃ kho, bhikkhave, olīyanti eke.
It is in this way, monks, that some cling.
Này các Tỳ-khưu, một số người chìm đắm là như vậy.”
‘‘Kathañca, bhikkhave, atidhāvanti eke?
‘‘And how, monks, do some overleap?
“Và này các Tỳ-khưu, một số người vượt quá giới hạn như thế nào?
Bhaveneva kho paneke aṭṭīyamānā harāyamānā jigucchamānā vibhavaṃ abhinandanti – yato kira, bho, ayaṃ attā* kāyassa bhedā paraṃ maraṇā ucchijjati vinassati na hoti paraṃ maraṇā; etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ etaṃ yāthāvanti.
Indeed, some, being oppressed by existence, ashamed of it, and disgusted by it, delight in non-existence, thinking: ‘Friends, when this self is utterly cut off, destroyed, and does not exist after the break-up of the body, after death, that is peaceful, that is excellent, that is truly real.’
Này các Tỳ-khưu, một số người, vì chán ghét, hổ thẹn, ghê tởm sự hiện hữu, nên hoan hỷ với sự không hiện hữu (vibhava) – ‘Này các bạn, khi tự ngã này (satta) tan rã thân thể, sau khi chết thì bị đoạn diệt, bị tiêu vong, không còn tồn tại sau khi chết; điều này là an tịnh, điều này là thù thắng, điều này là chân thật.’
Evaṃ kho, bhikkhave, atidhāvanti eke.
It is in this way, monks, that some overleap.
Này các Tỳ-khưu, một số người vượt quá giới hạn là như vậy.”
‘‘Kathañca, bhikkhave, cakkhumanto passanti?
‘‘And how, monks, do those with vision see?
“Và này các Tỳ-khưu, những bậc có mắt thấy rõ như thế nào?
Idha bhikkhu bhūtaṃ bhūtato passati; bhūtaṃ bhūtato disvā bhūtassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Here, a bhikkhu sees what has come to be as what has come to be; having seen what has come to be as what has come to be, he practices for disenchantment with what has come to be, for dispassion, for cessation.
Ở đây, một Tỳ-khưu thấy cái đang hiện hữu (bhūta) như nó đang hiện hữu; sau khi thấy cái đang hiện hữu như nó đang hiện hữu, vị ấy thực hành để nhàm chán, ly tham, đoạn diệt cái đang hiện hữu.
Evaṃ kho, bhikkhave, cakkhumanto passantī’’ti.
It is in this way, monks, that those with vision see.’’
Này các Tỳ-khưu, những bậc có mắt thấy rõ là như vậy.”
Etamatthaṃ bhagavā avoca.
The Blessed One spoke this meaning.
Đức Thế Tôn đã nói điều này.
Tatthetaṃ iti vuccati –
Therein it is said:
Ở đó, điều này được nói như sau –
‘‘Ye* bhūtaṃ bhūtato disvā, bhūtassa ca atikkamaṃ;
‘‘Those who, having seen what has come to be as what has come to be, and the transcendence of what has come to be;
“Những ai thấy cái đang hiện hữu như nó đang hiện hữu, và sự vượt qua cái đang hiện hữu;
‘‘Sa ve* bhūtapariñño, so vītataṇho bhavābhave;
‘‘Indeed, he is one who has fully understood what has come to be, he is free from craving for existence and non-existence;
Vị ấy thật sự là người đã hoàn toàn hiểu biết về cái đang hiện hữu, vị ấy đã ly tham trong các sự hiện hữu;
Dve indriyā dve tapanīyā, sīlena apare duve;
Two Indriyas, two Tapanīyas, and two others on Sīla;
Hai Indriya, hai Tapanīya, hai Sīla khác;
Anottāpī kuhanā dve ca, saṃvejanīyena te dasa.
Anottāpī, two Kuhanās, and with Saṃvejanīya, these are ten.
Anottāpī, hai Kuhanā, và Saṃvejanīya – mười bài ấy.
Vitakkā desanā vijjā, paññā dhammena pañcamaṃ;
Vitakkā, Desanā, Vijjā, Paññā, the fifth with Dhamma;
Vitakka, Desanā, Vijjā, Paññā, thứ năm là Dhamma;
Ajātaṃ dhātusallānaṃ, sikkhā jāgariyena ca;
Ajāta, Dhātusallāna, Sikkhā, and with Jāgariya;
Ajāta, Dhātusalla, Sikkhā và Jāgariya;