43. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
43. At one time the Bhagavā was staying in Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s monastery.
43. Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong khu vườn Jetavana của ông Anāthapiṇḍika.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya pāvisi.
Then, in the forenoon, the Bhagavā dressed, took his bowl and robe, and entered Sāvatthī for alms.
Rồi, vào buổi sáng, Đức Thế Tôn đắp y, mang bát và đi vào Sāvatthī để khất thực.
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘āyāmānanda, yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkamissāma divāvihārāyā’’ti.
Having wandered for alms in Sāvatthī and returned from his alms round after the meal, he addressed Āyasmā Ānanda: “Come, Ānanda, let us go to the Pubbārāma, Migāra’s Mother’s Palace, for our midday abiding.”
Sau khi khất thực ở Sāvatthī và trở về sau buổi ăn, Đức Thế Tôn gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Migāramātupāsāda ở Pubbārāma để nghỉ trưa.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
“Yes, Bhante,” Āyasmā Ānanda replied to the Bhagavā.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” Tôn giả Ānanda đáp lời Đức Thế Tôn.
Atha kho bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkami.
Then the Bhagavā, together with Āyasmā Ānanda, went to the Pubbārāma, Migāra’s Mother’s Palace.
Rồi Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến Migāramātupāsāda ở Pubbārāma.
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘āyāmānanda, yena pubbakoṭṭhako tenupasaṅkamissāma gattāni parisiñcitu’’nti.
Then, in the evening, having risen from seclusion, the Bhagavā addressed Āyasmā Ānanda: “Come, Ānanda, let us go to the Pubbakoṭṭhaka to bathe our limbs.”
Rồi vào buổi chiều, Đức Thế Tôn từ chỗ độc cư đứng dậy, gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Pubbakoṭṭhaka để tắm rửa thân thể.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
“Yes, Bhante,” Āyasmā Ānanda replied to the Bhagavā.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” Tôn giả Ānanda đáp lời Đức Thế Tôn.
Atha kho bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena pubbakoṭṭhako tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.
Then the Bhagavā, together with Āyasmā Ānanda, went to the Pubbakoṭṭhaka to bathe their limbs.
Rồi Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến Pubbakoṭṭhaka để tắm rửa thân thể.
Pubbakoṭṭhake gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.
Having bathed his limbs at the Pubbakoṭṭhaka, he came up out of the water and stood clad in a single robe, drying his limbs.
Sau khi tắm rửa thân thể ở Pubbakoṭṭhaka, Ngài bước lên bờ, chỉ với một y, đứng phơi khô thân thể.
Tena kho pana samayena rañño pasenadissa kosalassa seto nāma nāgo mahātūriya* tāḷitavāditena pubbakoṭṭhakā paccuttarati.
At that time, King Pasenadi of Kosala’s elephant, named Seta, was coming up from the Pubbakoṭṭhaka, accompanied by the beating and playing of grand musical instruments.
Vào lúc đó, con voi trắng tên Seta của vua Pasenadi xứ Kosala đang bước lên từ Pubbakoṭṭhaka với tiếng nhạc lớn được tấu lên.
Apissu taṃ jano disvā evamāha – ‘‘abhirūpo vata, bho, rañño nāgo; dassanīyo vata, bho, rañño nāgo; pāsādiko vata, bho, rañño nāgo; kāyupapanno vata, bho, rañño nāgo’’ti!
And people, seeing it, exclaimed: “Oh, how beautiful is the king’s elephant! Oh, how charming is the king’s elephant! Oh, how pleasing is the king’s elephant! Oh, how well-formed is the king’s elephant!”
Dân chúng thấy con voi đó liền nói: “Ôi chao, con voi của nhà vua thật đẹp! Ôi chao, con voi của nhà vua thật đáng chiêm ngưỡng! Ôi chao, con voi của nhà vua thật đáng kính trọng! Ôi chao, con voi của nhà vua thật có thân hình vĩ đại!”
Evaṃ vutte āyasmā udāyī bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘hatthimeva nu kho, bhante, mahantaṃ brahantaṃ* kāyupapannaṃ jano disvā evamāha – ‘nāgo vata, bho, nāgo’ti, udāhu aññampi kañci* mahantaṃ brahantaṃ kāyupapannaṃ jano disvā evamāha – ‘nāgo vata, bho, nāgo’’’ti?
When this was said, Āyasmā Udāyī said to the Bhagavā: “Bhante, do people, seeing a great, magnificent, well-formed elephant, exclaim: ‘Oh, what a Nāga! Oh, what a Nāga!’ or do they, seeing any other great, magnificent, well-formed being, also exclaim: ‘Oh, what a Nāga! Oh, what a Nāga!’?”
Khi được nói như vậy, Tôn giả Udāyī bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, phải chăng dân chúng chỉ thấy một con voi có thân hình vĩ đại, to lớn, rồi nói: ‘Ôi chao, một nāga! Ôi chao, một nāga!’ Hay là dân chúng thấy một cái gì khác có thân hình vĩ đại, to lớn, rồi cũng nói: ‘Ôi chao, một nāga! Ôi chao, một nāga!’?”
‘‘Hatthimpi kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ kāyupapannaṃ jano disvā evamāha – ‘nāgo vata, bho, nāgo’ti!
“Indeed, Udāyī, people, seeing a great, magnificent, well-formed elephant, exclaim: ‘Oh, what a Nāga! Oh, what a Nāga!’
“Này Udāyī, dân chúng thấy một con voi có thân hình vĩ đại, to lớn, rồi nói: ‘Ôi chao, một nāga! Ôi chao, một nāga!’
Assampi kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ…pe… goṇampi kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ…pe… uragampi* kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ…pe… rukkhampi kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ…pe… manussampi kho, udāyi, mahantaṃ brahantaṃ kāyupapannaṃ jano disvā evamāha – ‘nāgo vata, bho, nāgo’ti!
And, Udāyī, people, seeing a great, magnificent… horse… a great, magnificent… ox… a great, magnificent… snake… a great, magnificent… tree… a great, magnificent, well-formed human being, exclaim: ‘Oh, what a Nāga! Oh, what a Nāga!’
Này Udāyī, dân chúng thấy một con ngựa có thân hình vĩ đại, to lớn… Này Udāyī, dân chúng thấy một con bò có thân hình vĩ đại, to lớn… Này Udāyī, dân chúng thấy một con rắn có thân hình vĩ đại, to lớn… Này Udāyī, dân chúng thấy một cái cây có thân hình vĩ đại, to lớn… Này Udāyī, dân chúng thấy một con người có thân hình vĩ đại, to lớn, rồi nói: ‘Ôi chao, một nāga! Ôi chao, một nāga!’
Api ca, udāyi, yo sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya āguṃ na karoti kāyena vācāya manasā, tamahaṃ ‘nāgo’ti brūmī’’ti.
But, Udāyī, whoever in this world with its devas, Māras, and Brahmās, among the generation with its recluses and brahmins, its devas and humans, commits no offense by body, speech, or mind—him I call a ‘Nāga’.”
Tuy nhiên, này Udāyī, người nào trong thế giới này cùng với chư thiên, Māra, Phạm thiên, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, cùng với loài người và chư thiên, không làm điều ác bằng thân, lời, ý, người đó ta gọi là ‘nāga’.”
‘‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante!
“Wonderful, Bhante! Amazing, Bhante!
“Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!
Yāva subhāsitaṃ cidaṃ, bhante, bhagavatā – api ca, udāyi, yo sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya āguṃ na karoti kāyena vācāya manasā, tamahaṃ ‘nāgo’ti brūmī’’ti.
How well-spoken, Bhante, is this statement by the Bhagavā: ‘But, Udāyī, whoever in this world with its devas, Māras, and Brahmās, among the generation with its recluses and brahmins, its devas and humans, commits no offense by body, speech, or mind—him I call a ‘Nāga’.”
Lời Đức Thế Tôn thật là diệu ngôn – ‘Tuy nhiên, này Udāyī, người nào trong thế giới này cùng với chư thiên, Māra, Phạm thiên, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, cùng với loài người và chư thiên, không làm điều ác bằng thân, lời, ý, người đó ta gọi là “nāga”.’
Idañca panāhaṃ, bhante, bhagavatā subhāsitaṃ imāhi gāthāhi anumodāmi –
And I, Bhante, approve of this well-spoken statement by the Bhagavā with these verses:
Bạch Thế Tôn, con xin tán thán lời diệu ngôn này của Đức Thế Tôn bằng những bài kệ sau:
44. Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Then, in the morning, Venerable Ānanda dressed, took his bowl and robe, and went to the residence of the lay follower Migasālā; having gone there, he sat down on the prepared seat. Then the lay follower Migasālā approached Venerable Ānanda; having approached, she paid homage to Venerable Ānanda and sat down to one side. Sitting to one side, the lay follower Migasālā said to Venerable Ānanda:
44. Rồi, vào buổi sáng, Tôn giả Ānanda đắp y, mang bát và y phục, đi đến nhà của nữ cư sĩ Migasālā; sau khi đến, Ngài ngồi xuống chỗ đã được sắp sẵn.
Atha kho migasālā* upāsikā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then the lay follower Migasālā approached Venerable Ānanda; having approached, she paid homage to Venerable Ānanda and sat down to one side.
Rồi, nữ cư sĩ Migasālā đi đến chỗ Tôn giả Ānanda; sau khi đến, cô đảnh lễ Tôn giả Ānanda rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho migasālā upāsikā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca –
Sitting to one side, the lay follower Migasālā said to Venerable Ānanda:
Khi đã ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ Migasālā bạch với Tôn giả Ānanda rằng:
‘‘Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṃ?
“How, Venerable Ānanda, is the Dhamma taught by the Blessed One to be understood, when both one who observes the holy life and one who does not observe the holy life will have the same destination in the next world?
“Bạch Tôn giả Ānanda, Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng phải được hiểu như thế nào, mà cả người sống Phạm hạnh lẫn người không sống Phạm hạnh, cả hai đều có cùng một cảnh giới sau khi chết?
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato methunā gāmadhammā.
My father, Venerable Sir, a former observer of the holy life, was one who kept aloof, abstaining from sexual intercourse, the village-dhamma.
Bạch Tôn giả, cha con là Purāṇa, đã sống Phạm hạnh, giữ giới thanh tịnh, tránh xa dâm dục và thói tục làng xã.
So kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmisatto* tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.
When he passed away, the Blessed One declared that he was a once-returner, reborn in the Tusita realm.
Ông ấy đã qua đời, và Đức Thế Tôn đã thọ ký rằng ông ấy là bậc Nhất Lai, đã tái sinh vào cõi trời Tusita.
Petteyyopi* me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho.
And my paternal uncle, Venerable Sir, Isidatta, was not an observer of the holy life, being content with his own wife.
Bạch Tôn giả, chú con là Isidatta, đã không sống Phạm hạnh, chỉ bằng lòng với vợ mình.
Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.
When he too passed away, the Blessed One declared that he was a once-returner, reborn in the Tusita realm.
Ông ấy cũng đã qua đời, và Đức Thế Tôn đã thọ ký rằng ông ấy là bậc Nhất Lai, đã tái sinh vào cõi trời Tusita.
Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāya’’nti?
How, Venerable Ānanda, is the Dhamma taught by the Blessed One to be understood, when both one who observes the holy life and one who does not observe the holy life will have the same destination in the next world?”
Bạch Tôn giả Ānanda, Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng phải được hiểu như thế nào, mà cả người sống Phạm hạnh lẫn người không sống Phạm hạnh, cả hai đều có cùng một cảnh giới sau khi chết?”
‘‘Evaṃ kho panetaṃ, bhagini, bhagavatā byākata’’nti.
“Indeed, sister, that is what the Blessed One declared.”
“Này chị, Đức Thế Tôn đã thọ ký như vậy đó.”
Atha kho āyasmā ānando migasālāya upāsikāya nivesane piṇḍapātaṃ gahetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Then Venerable Ānanda, having received almsfood at the residence of the lay follower Migasālā, rose from his seat and departed.
Rồi, Tôn giả Ānanda sau khi nhận thức ăn khất thực tại nhà nữ cư sĩ Migasālā, đứng dậy khỏi chỗ ngồi và rời đi.
Atha kho āyasmā ānando pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then Venerable Ānanda, after his meal, having returned from his alms round, approached the Blessed One; having approached, he paid homage to the Blessed One and sat down to one side.
Rồi, Tôn giả Ānanda, sau bữa ăn và đã trở về từ cuộc khất thực, đi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, Ngài đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca –
Seated to one side, Venerable Ānanda then said to the Blessed One:
Khi đã ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Đức Thế Tôn rằng:
‘‘Idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṃ tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdiṃ.
“Here, Bhante, in the forenoon, having dressed and taken my bowl and robes, I approached the residence of the lay follower Migasālā; having approached, I sat down on the seat prepared.
“Bạch Đức Thế Tôn, vào buổi sáng, con đã đắp y, mang bát và y phục, đi đến nhà của nữ cư sĩ Migasālā; sau khi đến, con ngồi xuống chỗ đã được sắp sẵn.
Atha kho, bhante, migasālā upāsikā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then, Bhante, the lay follower Migasālā approached me; having approached, she saluted me and sat down to one side.
Rồi, bạch Đức Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasālā đi đến chỗ con; sau khi đến, cô đảnh lễ con rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho, bhante, migasālā upāsikā maṃ etadavoca – ‘kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṃ.
Seated to one side, Bhante, the lay follower Migasālā said to me: ‘How, Venerable Ānanda, is this Dhamma taught by the Blessed One to be understood, where both a celibate and a non-celibate will have the same destination in the next world?
Khi đã ngồi xuống một bên, bạch Đức Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasālā bạch con rằng: ‘Bạch Tôn giả Ānanda, Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng phải được hiểu như thế nào, mà cả người sống Phạm hạnh lẫn người không sống Phạm hạnh, cả hai đều có cùng một cảnh giới sau khi chết?
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato methunā gāmadhammā.
My father, Bhante, Purāṇa, was a celibate, one who practiced aloofness, abstaining from sexual intercourse, the village-dhamma.
Bạch Tôn giả, cha con là Purāṇa, đã sống Phạm hạnh, giữ giới thanh tịnh, tránh xa dâm dục và thói tục làng xã.
So kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.
He passed away, and the Blessed One declared that he had attained Sakadāgāmī and was reborn in the Tusita realm.
Ông ấy đã qua đời, và Đức Thế Tôn đã thọ ký rằng ông ấy là bậc Nhất Lai, đã tái sinh vào cõi trời Tusita.
Petteyyopi me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho.
My paternal uncle, Bhante, Isidatta, was a non-celibate, content with his own wife.
Bạch Tôn giả, chú con là Isidatta, đã không sống Phạm hạnh, chỉ bằng lòng với vợ mình.
Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṃ kāyaṃ upapannoti.
He also passed away, and the Blessed One declared that he had attained Sakadāgāmī and was reborn in the Tusita realm.
Ông ấy cũng đã qua đời, và Đức Thế Tôn đã thọ ký rằng ông ấy là bậc Nhất Lai, đã tái sinh vào cõi trời Tusita.
Kathaṃ kathaṃ nāmāyaṃ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāya’nti?
How, Venerable Ānanda, is this Dhamma taught by the Blessed One to be understood, where both a celibate and a non-celibate will have the same destination in the next world?’
Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng phải được hiểu như thế nào, mà cả người sống Phạm hạnh lẫn người không sống Phạm hạnh, cả hai đều có cùng một cảnh giới sau khi chết?’
Evaṃ vutte ahaṃ, bhante, migasālaṃ upāsikaṃ etadavocaṃ – ‘evaṃ kho panetaṃ, bhagini, bhagavatā byākata’’’nti.
When this was said, Bhante, I said to the lay follower Migasālā: ‘Indeed, sister, it has been declared thus by the Blessed One.’”
Khi được nói vậy, bạch Đức Thế Tôn, con đã nói với nữ cư sĩ Migasālā rằng: ‘Này chị, Đức Thế Tôn đã thọ ký như vậy đó.’”
‘‘Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakasaññā* , ke ca purisapuggalaparopariyañāṇe?
“What is the lay follower Migasālā, Ānanda? She is foolish, unskilled, a mere woman, with a woman’s understanding. And who are those with the knowledge of the superiority and inferiority of individuals?
“Này Ānanda, nữ cư sĩ Migasālā là ai mà ngu dốt, không hiểu biết, với những ý nghĩ ấu trĩ, và ai có trí tuệ thấu suốt về những hạng người khác?
Chayime, ānanda, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.
There are, Ānanda, six types of individuals existing, found in the world.
Này Ānanda, có sáu hạng người hiện hữu trên đời.
‘‘Katame cha?
“Which six?
“Sáu hạng nào?
Idhānanda, ekacco puggalo sorato hoti sukhasaṃvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena.
Here, Ānanda, a certain individual is gentle and pleasant to live with; his fellow practitioners delight in living together with him.
Này Ānanda, ở đây có một người hiền lành, dễ sống chung, các vị đồng Phạm hạnh hoan hỷ khi sống cùng.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.
For him, hearing (the Dhamma) is not accomplished, extensive learning is not accomplished, penetration by view is not accomplished, and he does not attain temporary liberation.
Người ấy chưa từng nghe pháp, chưa từng học rộng, chưa thấu hiểu bằng chánh kiến, cũng không đạt được giải thoát tạm thời.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
Upon the breaking up of the body, after death, he goes to decline, not to distinction; he is one who goes to decline, not to distinction.
Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến chỗ suy đồi chứ không phải tiến bộ, chỉ đi đến chỗ suy đồi chứ không phải tiến bộ.
‘‘Idha panānanda, ekacco puggalo sorato hoti sukhasaṃvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena.
But here, Ānanda, a certain individual is gentle and pleasant to live with; his fellow practitioners delight in living together with him.
“Nhưng này Ānanda, ở đây có một người hiền lành, dễ sống chung, các vị đồng Phạm hạnh hoan hỷ khi sống cùng.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.
For him, hearing (the Dhamma) is accomplished, extensive learning is accomplished, penetration by view is accomplished, and he attains temporary liberation.
Người ấy đã từng nghe pháp, đã từng học rộng, đã thấu hiểu bằng chánh kiến, và đạt được giải thoát tạm thời.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti no hānāya, visesagāmīyeva hoti no hānagāmī.
Upon the breaking up of the body, after death, he goes to distinction, not to decline; he is one who goes to distinction, not to decline.
Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến chỗ tiến bộ chứ không phải suy đồi, chỉ đi đến chỗ tiến bộ chứ không phải suy đồi.
‘‘Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti – ‘imassapi teva dhammā aparassapi teva dhammā, kasmā tesaṃ eko hīno eko paṇīto’ti!
Therein, Ānanda, those who make comparisons compare, saying: ‘For this one, there are these same qualities, and for that other one, there are these same qualities. Why is one inferior and one superior?’
“Này Ānanda, ở đây, những người hay so đo sẽ so đo rằng: ‘Người này cũng có những pháp như vậy, người kia cũng có những pháp như vậy, tại sao một người trong số họ lại thấp kém, một người lại cao quý?’
Tañhi tesaṃ, ānanda, hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.
This, Ānanda, will be for their harm and suffering for a long time.
Này Ānanda, điều đó thật sự sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau lâu dài cho họ.
‘‘Tatrānanda, yvāyaṃ puggalo sorato hoti sukhasaṃvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena, tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.
Therein, Ānanda, this individual who is gentle and pleasant to live with, whom his fellow practitioners delight in living together with, for whom hearing (the Dhamma) is accomplished, extensive learning is accomplished, penetration by view is accomplished, and who attains temporary liberation—
Này Ānanda, ở đây, người nào là người có hành vi tốt đẹp, dễ sống chung, các vị đồng Phạm hạnh hoan hỷ khi sống chung với người ấy; người ấy đã thực hành việc lắng nghe (Pháp), đã thực hành việc học rộng, đã thấu hiểu bằng chánh kiến, và đạt được sự giải thoát tạm thời (sāmāyika vimutti).
Ayaṃ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca.
this individual, Ānanda, is more excellent and more sublime than that former individual.
Này Ānanda, người này cao quý và ưu việt hơn người trước.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao vậy?
Imaṃ hānanda, puggalaṃ dhammasoto nibbahati, tadantaraṃ ko jāneyya aññatra tathāgatena!
Because, Ānanda, the stream of Dhamma carries this individual along; who could know the difference except the Tathāgata?
Này Ānanda, dòng Pháp sẽ đưa người này đến đích, ai có thể biết được điều đó ngoài Như Lai!
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha; mā puggalesu pamāṇaṃ gaṇhittha.
Therefore, Ānanda, do not be one who makes comparisons among individuals; do not make comparisons among individuals.
Do đó, này Ānanda, đừng trở thành những người hay so đo về các cá nhân; đừng lấy thước đo để đánh giá các cá nhân.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇhanto.
For, Ānanda, one who makes comparisons among individuals is flawed.
Này Ānanda, người nào lấy thước đo để đánh giá các cá nhân thì sẽ bị thiệt hại.
Ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ, yo vā panassa mādiso.
Either I, Ānanda, would make comparisons among individuals, or one who is like me.
Này Ānanda, hoặc là ta, hoặc là người nào giống như ta, mới có thể lấy thước đo để đánh giá các cá nhân.
‘‘Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato* hoti, samayena samayañcassa lobhadhammā uppajjanti.
But here, Ānanda, a certain individual has not overcome anger and conceit, and covetous states arise in him from time to time.
“Này Ānanda, ở đây, đối với một cá nhân nào đó, sự sân hận và kiêu mạn đã được chế ngự, nhưng thỉnh thoảng các pháp tham ái vẫn khởi lên.
Tassa savanenapi akataṃ hoti, bāhusaccenapi akataṃ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.
For him, hearing (the Dhamma) is not accomplished, extensive learning is not accomplished, penetration by view is not accomplished, and he does not attain temporary liberation.
Người ấy chưa thực hành việc lắng nghe, chưa thực hành việc học rộng, chưa thấu hiểu bằng chánh kiến, và không đạt được sự giải thoát tạm thời.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
After the breaking up of the body, after death, he goes to decline, not to distinction; he is one who goes to decline, not one who goes to distinction.
Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến sự suy đồi chứ không phải sự thăng tiến, người ấy chỉ đi đến sự suy đồi chứ không phải sự thăng tiến.
‘‘Idha, panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti.
“Here, Ānanda, a certain individual has acquired anger and conceit, and from time to time, verbal formations arise in him.
“Này Ānanda, ở đây, đối với một cá nhân nào đó, sự sân hận và kiêu mạn đã được chế ngự, nhưng thỉnh thoảng các hành vi lời nói vẫn khởi lên.
Tassa savanenapi akataṃ hoti…pe… sāmāyikampi vimuttiṃ na labhati.
He has not done it by listening...pe... he does not obtain even temporary liberation.
Người ấy chưa thực hành việc lắng nghe… (tương tự như trên)… không đạt được sự giải thoát tạm thời.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
After the breaking up of the body, after death, he goes to decline, not to distinction; he is one who goes to decline, not one who goes to distinction.
Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến sự suy đồi chứ không phải sự thăng tiến, người ấy chỉ đi đến sự suy đồi chứ không phải sự thăng tiến.
‘‘Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti.
“Here, Ānanda, a certain individual has acquired anger and conceit, and from time to time, verbal formations arise in him.
“Này Ānanda, ở đây, đối với một cá nhân nào đó, sự sân hận và kiêu mạn đã được chế ngự, nhưng thỉnh thoảng các hành vi lời nói vẫn khởi lên.
Tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.
He has done it by listening, he has done it by extensive learning, it has been penetrated by view, and he obtains temporary liberation.
Người ấy đã thực hành việc lắng nghe, đã thực hành việc học rộng, đã thấu hiểu bằng chánh kiến, và đạt được sự giải thoát tạm thời.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā visesāya pareti no hānāya, visesagāmīyeva hoti no hānagāmī.
After the breaking up of the body, after death, he goes to distinction, not to decline; he is one who goes to distinction, not one who goes to decline.
Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy đi đến sự thăng tiến chứ không phải sự suy đồi, người ấy chỉ đi đến sự thăng tiến chứ không phải sự suy đồi.
‘‘Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti – ‘imassapi teva dhammā, aparassapi teva dhammā.
“There, Ānanda, those who measure, measure: ‘This one also has these same qualities, and that other one also has these same qualities.
“Này Ānanda, ở đây, những người hay so đo sẽ so đo rằng: ‘Người này cũng có những pháp như vậy, người kia cũng có những pháp như vậy.
Kasmā tesaṃ eko hīno, eko paṇīto’ti?
Why is one of them inferior, and one superior?’
Tại sao một người trong số họ lại thấp kém, một người lại cao quý?’
Tañhi tesaṃ, ānanda, hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.
Indeed, Ānanda, that will be for their harm and suffering for a long time.
Này Ānanda, điều đó thật sự sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau lâu dài cho họ.
‘‘Tatrānanda, yassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti, tassa savanenapi kataṃ hoti, bāhusaccenapi kataṃ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṃ hoti, sāmāyikampi vimuttiṃ labhati.
“There, Ānanda, the individual in whom anger and conceit have arisen, and from time to time verbal formations arise, has done it by listening, has done it by extensive learning, it has been penetrated by view, and he obtains temporary liberation.
“Này Ānanda, người nào có sự sân hận và kiêu mạn đã được chế ngự, nhưng thỉnh thoảng các hành vi lời nói vẫn khởi lên, người ấy đã thực hành việc lắng nghe, đã thực hành việc học rộng, đã thấu hiểu bằng chánh kiến, và đạt được sự giải thoát tạm thời.
Ayaṃ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca.
This individual, Ānanda, is more excellent and more distinguished than that former individual.
Này Ānanda, người này cao quý và ưu việt hơn người trước.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao vậy?
Imaṃ hānanda, puggalaṃ dhammasoto nibbahati.
Because, Ānanda, the stream of Dhamma carries this individual along.
Này Ānanda, dòng Pháp sẽ đưa người này đến đích.
Tadantaraṃ ko jāneyya aññatra tathāgatena!
Who would know that difference apart from the Tathāgata!
Ai có thể biết được điều đó ngoài Như Lai!
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha; mā puggalesu pamāṇaṃ gaṇhittha.
Therefore, Ānanda, do not be measurers of individuals; do not take measure of individuals.
Do đó, này Ānanda, đừng trở thành những người hay so đo về các cá nhân; đừng lấy thước đo để đánh giá các cá nhân.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇhanto.
Indeed, Ānanda, one who takes measure of individuals is impaired.
Này Ānanda, người nào lấy thước đo để đánh giá các cá nhân thì sẽ bị thiệt hại.
Ahaṃ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṃ gaṇheyyaṃ, yo vā panassa mādiso.
Either I, Ānanda, would take measure of individuals, or one who is like me.
Này Ānanda, hoặc là ta, hoặc là người nào giống như ta, mới có thể lấy thước đo để đánh giá các cá nhân.
‘‘Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakasaññā, ke ca purisapuggalaparopariyañāṇe!
“And what, Ānanda, is Migasālā the lay follower? She is foolish, unskilled, a mere woman, with a woman’s understanding. And who are those with knowledge of the superiority and inferiority of male individuals!
“Này Ānanda, cư sĩ Migasālā chỉ là một người nữ ngu si, thiếu hiểu biết, với trí tuệ phụ nữ, còn ai là người có trí tuệ biết được sự sai biệt về căn tánh của các cá nhân nam giới!
Ime kho, ānanda, cha puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.
These six individuals, Ānanda, exist and are found in the world.
Này Ānanda, sáu hạng người này là có thật, hiện hữu trên thế gian.
‘‘Yathārūpena, ānanda, sīlena purāṇo samannāgato ahosi, tathārūpena sīlena isidatto samannāgato abhavissa.
“If Purāṇa had been endowed with the same kind of virtue as Isidatta was, Isidatta would not have known Purāṇa’s destination.
“Này Ānanda, nếu Purāṇa có giới hạnh như Isidatta, thì Isidatta sẽ không biết được cảnh giới của Purāṇa.
Nayidha purāṇo isidattassa gatimpi aññassa.
Purāṇa would not have known Isidatta’s destination.
Purāṇa không biết cảnh giới của Isidatta.
Yathārūpāya ca, ānanda, paññāya isidatto samannāgato ahosi, tathārūpāya paññāya purāṇo samannāgato abhavissa.
And if Purāṇa had been endowed with the same kind of wisdom as Isidatta was, Isidatta would not have known Purāṇa’s destination.
Và này Ānanda, nếu Purāṇa có trí tuệ như Isidatta, thì Isidatta sẽ không biết được cảnh giới của Purāṇa.
Nayidha isidatto purāṇassa gatimpi aññassa.
Isidatta would not have known Purāṇa’s destination.
Isidatta không biết cảnh giới của Purāṇa.
Iti kho, ānanda, ime puggalā ubho ekaṅgahīnā’’ti.
Thus, Ānanda, these two individuals are both deficient in one aspect.”
Như vậy, này Ānanda, hai cá nhân này đều thiếu một phần.”
Dutiyaṃ.
The Second.
Bài thứ hai.
45. ‘‘Dāliddiyaṃ* , bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
45. “Is poverty, bhikkhus, suffering in the world for one who enjoys sensual pleasures?”
45. “Này các Tỳ-khưu, sự nghèo khó là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Bhante.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Yampi, bhikkhave, daliddo* assako anāḷhiko* iṇaṃ ādiyati, iṇādānampi, bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
“That a poor, destitute, and unfortunate person takes a loan—is taking a loan, bhikkhus, suffering in the world for one who enjoys sensual pleasures?”
“Này các Tỳ-khưu, một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải lại đi vay nợ; việc vay nợ cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Bhante.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko iṇaṃ ādiyitvā vaḍḍhiṃ paṭissuṇāti, vaḍḍhipi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
“That a poor, destitute, and unfortunate person, having taken a loan, agrees to interest—is interest, bhikkhus, suffering in the world for one who enjoys sensual pleasures?”
“Này các Tỳ-khưu, một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải, sau khi vay nợ lại hứa trả lãi; việc trả lãi cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Bhante.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko vaḍḍhiṃ paṭissuṇitvā kālābhataṃ* vaḍḍhiṃ na deti, codentipi naṃ; codanāpi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
“That a poor, destitute, and unfortunate person, having agreed to interest, does not pay the interest when due, and they press him—is pressing, bhikkhus, suffering in the world for one who enjoys sensual pleasures?”
“Này các Tỳ-khưu, một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải, sau khi hứa trả lãi lại không trả lãi đúng hạn, người ta đến đòi; việc bị đòi nợ cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Bhante.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko codiyamāno na deti, anucarantipi naṃ; anucariyāpi, bhikkhave, dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
“That a poor, destitute, and unfortunate person, being pressed, does not pay, and they pursue him—is pursuing, bhikkhus, suffering in the world for one who enjoys sensual pleasures?”
“Này các Tỳ-khưu, một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải, bị đòi nợ mà không trả, người ta đến theo dõi; việc bị theo dõi cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Bhante.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Yampi, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko anucariyamāno na deti, bandhantipi naṃ; bandhanampi, bhikkhave, dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino’’ti?
“And also, bhikkhus, when a poor, propertyless, destitute person, being pursued, does not give, they imprison him; is imprisonment, bhikkhus, suffering in the world for a pleasure-seeker?”
“Này các Tỳ-khưu, một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải, bị theo dõi mà không trả, người ta đến bắt trói; việc bị bắt trói cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc phải không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Iti kho, bhikkhave, dāliddiyampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino, iṇādānampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino, vaḍḍhipi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, codanāpi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, anucariyāpi dukkhā lokasmiṃ kāmabhogino, bandhanampi dukkhaṃ lokasmiṃ kāmabhogino; evamevaṃ kho, bhikkhave, yassa kassaci saddhā natthi kusalesu dhammesu, hirī natthi kusalesu dhammesu, ottappaṃ natthi kusalesu dhammesu, vīriyaṃ natthi kusalesu dhammesu, paññā natthi kusalesu dhammesu – ayaṃ vuccati, bhikkhave, ariyassa vinaye daliddo assako anāḷhiko.
“Thus, bhikkhus, poverty is suffering in the world for a pleasure-seeker; taking on debt is suffering in the world for a pleasure-seeker; interest is suffering in the world for a pleasure-seeker; dunning is suffering in the world for a pleasure-seeker; pursuit is suffering in the world for a pleasure-seeker; imprisonment is suffering in the world for a pleasure-seeker. In the same way, bhikkhus, whoever has no faith in wholesome states, no shame (hirī) in wholesome states, no dread (ottappa) in wholesome states, no energy in wholesome states, no wisdom in wholesome states—this one, bhikkhus, is called poor, propertyless, and destitute in the Noble One’s Discipline.
“Như vậy, này các Tỳ-khưu, sự nghèo khó cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc, việc vay nợ cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc, việc trả lãi cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc, việc bị đòi nợ cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc, việc bị theo dõi cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc, việc bị bắt trói cũng là khổ trên thế gian đối với những người hưởng thụ dục lạc; cũng như vậy, này các Tỳ-khưu, người nào không có lòng tin vào các pháp thiện, không có hổ thẹn vào các pháp thiện, không có ghê sợ vào các pháp thiện, không có tinh tấn vào các pháp thiện, không có trí tuệ vào các pháp thiện – người này, này các Tỳ-khưu, được gọi là một người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải trong Giới luật của bậc Thánh.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko saddhāya asati kusalesu dhammesu, hiriyā asati kusalesu dhammesu, ottappe asati kusalesu dhammesu, vīriye asati kusalesu dhammesu, paññāya asati kusalesu dhammesu, kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati.
“That poor, propertyless, destitute person, bhikkhus, when faith is absent in wholesome states, when shame (hirī) is absent in wholesome states, when dread (ottappa) is absent in wholesome states, when energy is absent in wholesome states, when wisdom is absent in wholesome states, performs misconduct by body, performs misconduct by speech, performs misconduct by mind.
“Này các Tỳ-khưu, người nghèo khó, không có tài sản, không có của cải ấy, vì không có lòng tin vào các pháp thiện, không có hổ thẹn vào các pháp thiện, không có ghê sợ vào các pháp thiện, không có tinh tấn vào các pháp thiện, không có trí tuệ vào các pháp thiện, nên người ấy thực hành ác hạnh bằng thân, thực hành ác hạnh bằng lời, thực hành ác hạnh bằng ý.
Idamassa iṇādānasmiṃ vadāmi.
This I call his taking on debt.
Điều này, ta gọi là việc vay nợ của người ấy.”
‘‘So tassa kāyaduccaritassa paṭicchādanahetu pāpikaṃ icchaṃ paṇidahati* .
“For the purpose of concealing that bodily misconduct, he forms an evil wish.
Vì muốn che giấu ác hạnh thân ấy, người ấy khởi lên ác dục.
‘Mā maṃ jaññū’ti icchati, ‘mā maṃ jaññū’ti saṅkappati, ‘mā maṃ jaññū’ti vācaṃ bhāsati, ‘mā maṃ jaññū’ti kāyena parakkamati.
‘May they not know me!’ he wishes, ‘May they not know me!’ he resolves, ‘May they not know me!’ he speaks, ‘May they not know me!’ he strives with his body.
Người ấy mong muốn ‘mong rằng người khác đừng biết đến ta’, suy nghĩ ‘mong rằng người khác đừng biết đến ta’, nói lời ‘mong rằng người khác đừng biết đến ta’, và dùng thân để hành động ‘mong rằng người khác đừng biết đến ta’.
So tassa vacīduccaritassa paṭicchādanahetu…pe… so tassa manoduccaritassa paṭicchādanahetu…pe… ‘mā maṃ jaññū’ti kāyena parakkamati.
For the purpose of concealing that verbal misconduct… For the purpose of concealing that mental misconduct… ‘May they not know me!’ he strives with his body.
Người ấy, vì muốn che giấu ác hạnh khẩu ấy… và người ấy, vì muốn che giấu ác hạnh ý ấy… và dùng thân để hành động ‘mong rằng người khác đừng biết đến ta’.
Idamassa vaḍḍhiyā vadāmi.
This I call his interest.
Ta nói điều này về sự gia tăng* của người ấy.
‘‘Sa kho so, bhikkhave, daliddo assako anāḷhiko kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya duccaritaṃ caritvā manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā nirayabandhane vā bajjhati tiracchānayonibandhane vā.
“That poor, propertyless, destitute person, bhikkhus, having performed bodily misconduct, having performed verbal misconduct, having performed mental misconduct, after the breakup of the body, after death, is imprisoned either in the bonds of hell or in the bonds of the animal realm.
Này các Tỷ-kheo, người nghèo khổ, không tài sản, không của cải ấy, sau khi đã hành ác hạnh thân, hành ác hạnh khẩu, hành ác hạnh ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị trói buộc trong ngục địa ngục hoặc bị trói buộc trong cõi súc sinh.
Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekabandhanampi samanupassāmi evaṃdāruṇaṃ evaṃkaṭukaṃ* evaṃantarāyakaraṃ anuttarassa yogakkhemassa adhigamāya, yathayidaṃ, bhikkhave, nirayabandhanaṃ vā tiracchānayonibandhanaṃ vā’’ti.
I do not see, bhikkhus, any other single bond so cruel, so bitter, so obstructive to the attainment of the unsurpassed security from bondage (yogakkhema), as this, bhikkhus, bond of hell or bond of the animal realm.”
Này các Tỷ-kheo, ta không thấy có một sự trói buộc nào khác lại khắc nghiệt như vậy, lại cay đắng như vậy, lại gây chướng ngại như vậy cho sự đạt đến an ổn vô thượng khỏi ách buộc, như sự trói buộc trong địa ngục hay sự trói buộc trong cõi súc sinh này, này các Tỷ-kheo’.
46. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā mahācundo cetīsu viharati sayaṃjātiyaṃ* .
46. Thus have I heard: On one occasion, the Venerable Mahācunda was staying among the Cetīs, in Sayaṃjāti.
46. Tôi nghe như vầy: Một thời, Tôn giả Mahācunda trú tại Sayaṃjāti, xứ Cetī.
Tatra kho āyasmā mahācundo bhikkhū āmantesi – ‘‘āvuso bhikkhave’’ti.
There, the Venerable Mahācunda addressed the bhikkhus: “Friends, bhikkhus!”
Tại đó, Tôn giả Mahācunda gọi các Tỷ-kheo: “Này chư Hiền Tỷ-kheo!”
‘‘Āvuso’’ti kho te bhikkhū āyasmato mahācundassa paccassosuṃ.
“Friend!” those bhikkhus replied to the Venerable Mahācunda.
“Thưa Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy vâng lời Tôn giả Mahācunda.
Āyasmā mahācundo etadavoca –
The Venerable Mahācunda said this:
Tôn giả Mahācunda nói như sau:
‘‘Idhāvuso, dhammayogā bhikkhū jhāyī bhikkhū apasādenti – ‘ime pana jhāyinomhā, jhāyinomhāti jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti avajjhāyanti* .
“Here, friends, bhikkhus devoted to Dhamma disparage bhikkhus devoted to jhāna: ‘These meditators, saying “we are meditators, we are meditators,” meditate, ponder, reflect, contemplate.
“Này chư Hiền, ở đây, các Tỷ-kheo chuyên về Pháp (dhammayoga) chê bai các Tỷ-kheo tu thiền (jhāyī): ‘Những người tu thiền này, họ nói ‘chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền’ rồi họ tu thiền, họ suy tư, họ quán sát, họ chuyên chú.
Kimime* jhāyanti, kintime jhāyanti, kathaṃ ime jhāyantī’ti?
What do they meditate on? For what do they meditate? How do they meditate?’
Họ tu thiền gì? Họ tu thiền vì mục đích gì? Họ tu thiền như thế nào?’
Tattha dhammayogā ca bhikkhū nappasīdanti, jhāyī ca bhikkhū nappasīdanti, na ca bahujanahitāya paṭipannā honti bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.
There, neither the bhikkhus devoted to Dhamma nor the bhikkhus devoted to jhāna are pleased, and they do not practice for the welfare of the many, for the happiness of the many, for the benefit, welfare, and happiness of devas and humans.
Trong trường hợp đó, cả các Tỷ-kheo chuyên về Pháp cũng không hoan hỷ, và các Tỷ-kheo tu thiền cũng không hoan hỷ, và họ không hành động vì lợi ích của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì mục đích, vì lợi ích, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người.
‘‘Idha panāvuso, jhāyī bhikkhū dhammayoge bhikkhū apasādenti – ‘ime pana dhammayogamhā, dhammayogamhāti uddhatā unnaḷā capalā mukharā vikiṇṇavācā muṭṭhassatī asampajānā asamāhitā vibbhantacittā pākatindriyā.
“Here again, friends, bhikkhus devoted to jhāna disparage bhikkhus devoted to Dhamma: ‘These Dhamma-devotees, saying “we are Dhamma-devotees, we are Dhamma-devotees,” are arrogant, conceited, restless, talkative, garrulous, unmindful, not fully aware, not concentrated, with scattered minds, with uncontrolled faculties.
“Này chư Hiền, ở đây, các Tỷ-kheo tu thiền chê bai các Tỷ-kheo chuyên về Pháp: ‘Những người chuyên về Pháp này, họ nói ‘chúng tôi chuyên về Pháp, chúng tôi chuyên về Pháp’ rồi họ trở nên kiêu căng, ngạo mạn, xao động, nói nhiều, nói năng lộn xộn, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn phóng túng.
Kimime dhammayogā, kintime dhammayogā, kathaṃ ime dhammayogā’ti?
What are these Dhamma-devotees? For what are these Dhamma-devotees? How are these Dhamma-devotees?’
Họ chuyên về Pháp gì? Họ chuyên về Pháp vì mục đích gì? Họ chuyên về Pháp như thế nào?’
Tattha jhāyī ca bhikkhū nappasīdanti, dhammayogā ca bhikkhū nappasīdanti, na ca bahujanahitāya paṭipannā honti bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.
There, neither the bhikkhus devoted to jhāna nor the bhikkhus devoted to Dhamma are pleased, and they do not practice for the welfare of the many, for the happiness of the many, for the benefit, welfare, and happiness of devas and humans.
Trong trường hợp đó, cả các Tỷ-kheo tu thiền cũng không hoan hỷ, và các Tỷ-kheo chuyên về Pháp cũng không hoan hỷ, và họ không hành động vì lợi ích của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì mục đích, vì lợi ích, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người.
‘‘Idha panāvuso, dhammayogā bhikkhū dhammayogānaññeva bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsanti, no jhāyīnaṃ bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsanti.
“Here again, friends, bhikkhus devoted to Dhamma praise only bhikkhus devoted to Dhamma, and do not praise bhikkhus devoted to jhāna.
“Này chư Hiền, ở đây, các Tỷ-kheo chuyên về Pháp chỉ ca ngợi các Tỷ-kheo chuyên về Pháp, chứ không ca ngợi các Tỷ-kheo tu thiền.
Tattha dhammayogā ca bhikkhū nappasīdanti, jhāyī ca bhikkhū nappasīdanti, na ca bahujanahitāya paṭipannā honti bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.
There, neither the bhikkhus devoted to Dhamma nor the bhikkhus devoted to jhāna are pleased, and they do not practice for the welfare of the many, for the happiness of the many, for the benefit, welfare, and happiness of devas and humans.
Trong trường hợp đó, cả các Tỷ-kheo chuyên về Pháp cũng không hoan hỷ, và các Tỷ-kheo tu thiền cũng không hoan hỷ, và họ không hành động vì lợi ích của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì mục đích, vì lợi ích, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người.
‘‘Idha panāvuso, jhāyī bhikkhū jhāyīnaññeva bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsanti, no dhammayogānaṃ bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsanti.
“Here again, friends, bhikkhus devoted to jhāna praise only bhikkhus devoted to jhāna, and do not praise bhikkhus devoted to Dhamma.
“Này chư Hiền, ở đây, các Tỷ-kheo tu thiền chỉ ca ngợi các Tỷ-kheo tu thiền, chứ không ca ngợi các Tỷ-kheo chuyên về Pháp.
Tattha jhāyī ca bhikkhū nappasīdanti, dhammayogā ca bhikkhū nappasīdanti, na ca bahujanahitāya paṭipannā honti bahujanasukhāya bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.
There, neither the bhikkhus devoted to jhāna nor the bhikkhus devoted to Dhamma are pleased, and they do not practice for the welfare of the many, for the happiness of the many, for the benefit, welfare, and happiness of devas and humans.
Trong trường hợp đó, cả các Tỷ-kheo tu thiền cũng không hoan hỷ, và các Tỷ-kheo chuyên về Pháp cũng không hoan hỷ, và họ không hành động vì lợi ích của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì mục đích, vì lợi ích, vì hạnh phúc của chư thiên và loài người.
‘‘Tasmātihāvuso, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘dhammayogā samānā jhāyīnaṃ bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsissāmā’ti.
“Therefore, friends, you should train yourselves thus: ‘Being Dhamma-devotees, we will praise bhikkhus devoted to jhāna.’
“Vì vậy, này chư Hiền, các vị nên học tập như sau: ‘Chúng ta là những người chuyên về Pháp, sẽ ca ngợi các Tỷ-kheo tu thiền’.
Evañhi vo, āvuso, sikkhitabbaṃ.
Thus, friends, you should train yourselves.
Này chư Hiền, các vị nên học tập như vậy.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Acchariyā hete, āvuso, puggalā dullabhā lokasmiṃ, ye amataṃ dhātuṃ kāyena phusitvā viharanti.
Rare indeed are those individuals in the world, friends, who abide having touched the Deathless element with their bodies.
Này chư Hiền, những hạng người ấy thật kỳ diệu, hiếm có trên thế gian, những người chạm đến yếu tố bất tử (amataṃ dhātu) bằng thân.
Tasmātihāvuso, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘jhāyī samānā dhammayogānaṃ bhikkhūnaṃ vaṇṇaṃ bhāsissāmā’ti.
Therefore, friends, you should train yourselves thus: ‘Being jhāna-devotees, we will praise bhikkhus devoted to Dhamma.’
Vì vậy, này chư Hiền, các vị nên học tập như sau: ‘Chúng ta là những người tu thiền, sẽ ca ngợi các Tỷ-kheo chuyên về Pháp’.
Evañhi vo, āvuso, sikkhitabbaṃ.
Thus, friends, you should train yourselves.
Này chư Hiền, các vị nên học tập như vậy.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Acchariyā hete, āvuso, puggalā dullabhā lokasmiṃ ye gambhīraṃ atthapadaṃ paññāya ativijjha passantī’’ti.
Rare indeed are those individuals in the world, friends, who penetrate and see a profound meaning with wisdom.”
Này chư Hiền, những hạng người ấy thật kỳ diệu, hiếm có trên thế gian, những người dùng trí tuệ xuyên thấu và thấy rõ ý nghĩa sâu xa của Pháp.
Catutthaṃ.
The Fourth.
Thứ tư.