222. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
222. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was staying at Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park.
222. Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Thế Tôn trú tại Sāvatthī, trong khu vườn Jetavana của ông Anāthapiṇḍika.
Tena kho pana samayena āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharati.
Now on that occasion, Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling too intimately associated with bhikkhunīs.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni.
Evaṃ saṃsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati – sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling so intimately associated with bhikkhunīs that if any bhikkhu spoke ill of those bhikkhunīs in the presence of Venerable Moḷiyaphagguṇa, Venerable Moḷiyaphagguṇa, angered and displeased, would even make an issue of it.
Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức: nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt Tôn giả Moḷiyaphagguna, thì Tôn giả Moḷiyaphagguna liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu spoke ill of Venerable Moḷiyaphagguṇa in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs, angered and displeased, would even make an issue of it.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai Tôn giả Moḷiyaphagguna trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Evaṃ saṃsaṭṭho āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati.
Venerable Moḷiyaphagguṇa was dwelling so intimately associated with bhikkhunīs.
Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni như vậy.
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then a certain bhikkhu approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Rồi một Tỳ-khưu khác đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘āyasmā, bhante, moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharati.
Sitting to one side, that bhikkhu said to the Blessed One: ‘‘Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling too intimately associated with bhikkhunīs.
Ngồi một bên, Tỳ-khưu ấy bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni.
Evaṃ saṃsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharati – sace koci bhikkhu āyasmato moḷiyaphaggunassa sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tenāyasmā moḷiyaphagguno kupito anattamano adhikaraṇampi karoti.
Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling so intimately associated with bhikkhunīs that if any bhikkhu spoke ill of those bhikkhunīs in the presence of Venerable Moḷiyaphagguṇa, Venerable Moḷiyaphagguṇa, angered and displeased, would even make an issue of it.
Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức: nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt Tôn giả Moḷiyaphagguna, thì Tôn giả Moḷiyaphagguna liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā āyasmato moḷiyaphaggunassa avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu spoke ill of Venerable Moḷiyaphagguṇa in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs, angered and displeased, would even make an issue of it.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai Tôn giả Moḷiyaphagguna trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền tức giận, không vui, và gây ra tranh chấp.
Evaṃ saṃsaṭṭho, bhante, āyasmā moḷiyaphagguno bhikkhunīhi saddhiṃ viharatī’’ti.
Venerable sir, Venerable Moḷiyaphagguṇa is dwelling so intimately associated with bhikkhunīs.’’
Bạch Đức Thế Tôn, Tôn giả Moḷiyaphagguna sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni như vậy.”
223. Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena moḷiyaphaggunaṃ bhikkhuṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso phagguna, āmantetī’’’ti.
223. Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu: ‘‘Come, bhikkhu, in my name call the bhikkhu Moḷiyaphagguṇa, saying: ‘The Teacher calls you, friend Phagguṇa.’’’
223. Rồi Đức Thế Tôn gọi một Tỳ-khưu khác và nói: “Này Tỳ-khưu, hãy đi và nói với Tỳ-khưu Moḷiyaphagguna theo lời của Ta: ‘Này Hiền giả Phagguna, Đức Bổn Sư gọi Hiền giả’.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā yenāyasmā moḷiyaphagguno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ moḷiyaphaggunaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso phagguna, āmantetī’’ti.
‘‘Yes, Venerable sir,’’ that bhikkhu replied to the Blessed One; he approached Venerable Moḷiyaphagguṇa, and having approached, he said to Venerable Moḷiyaphagguṇa: ‘‘The Teacher calls you, friend Phagguṇa.’’
“Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn,” Tỳ-khưu ấy vâng lời Đức Thế Tôn rồi đến chỗ Tôn giả Moḷiyaphagguna; sau khi đến, nói với Tôn giả Moḷiyaphagguna: “Này Hiền giả Phagguna, Đức Bổn Sư gọi Hiền giả.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho āyasmā moḷiyaphagguno tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
‘‘Yes, friend,’’ Venerable Moḷiyaphagguṇa replied to that bhikkhu; he approached the Blessed One, and having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
“Thưa vâng, Hiền giả,” Tôn giả Moḷiyaphagguna vâng lời Tỳ-khưu ấy rồi đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ moḷiyaphaggunaṃ bhagavā etadavoca –
The Bhagavā said this to Venerable Moḷiyaphagguna, who was sitting to one side –
Thế Tôn đã nói điều này với Tôn giả Moḷiyaphagguna đang ngồi một bên:
‘‘Saccaṃ kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho viharasi?
"Is it true, Phagguna, that you live excessively mingled with bhikkhunīs?
“Này Phagguna, có thật là ông sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni không?
Evaṃ saṃsaṭṭho kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ viharasi – sace koci bhikkhu tuyhaṃ sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tena tvaṃ kupito anattamano adhikaraṇampi karosi.
Is it true, Phagguna, that you live mingled with bhikkhunīs in such a way that if any bhikkhu speaks ill of those bhikkhunīs in your presence, you become angry and displeased, and even initiate a dispute?
Này Phagguna, có thật là ông sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông, thì ông liền nổi giận, bất mãn, và gây ra tranh chấp không?
Sace pana koci bhikkhu tāsaṃ bhikkhunīnaṃ sammukhā tuyhaṃ avaṇṇaṃ bhāsati, tena tā bhikkhuniyo kupitā anattamanā adhikaraṇampi karonti.
And if any bhikkhu speaks ill of you in the presence of those bhikkhunīs, those bhikkhunīs become angry and displeased, and even initiate a dispute.
Còn nếu có Tỳ-khưu nào nói lời chê bai ông trước mặt các Tỳ-khưu-ni ấy, thì các Tỳ-khưu-ni ấy liền nổi giận, bất mãn, và gây ra tranh chấp không?
Evaṃ saṃsaṭṭho kira tvaṃ, phagguna, bhikkhunīhi saddhiṃ viharasī’’ti?
Is it true, Phagguna, that you live mingled with bhikkhunīs in such a way?"
Này Phagguna, có thật là ông sống thân cận với các Tỳ-khưu-ni đến mức đó không?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
‘‘Nanu tvaṃ, phagguna, kulaputto saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajito’’ti?
"Phagguna, aren't you a young man of good family who went forth from the home life into homelessness out of faith?"
“Này Phagguna, chẳng phải ông là thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với niềm tin sao?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
224. ‘‘Na kho te etaṃ, phagguna, patirūpaṃ kulaputtassa saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitassa, yaṃ tvaṃ bhikkhunīhi saddhiṃ ativelaṃ saṃsaṭṭho vihareyyāsi.
224. "Phagguna, it is not proper for you, a young man of good family who went forth from the home life into homelessness out of faith, to live excessively mingled with bhikkhunīs.
224. “Này Phagguna, việc ông sống quá thân cận với các Tỳ-khưu-ni là điều không phù hợp với một thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình với niềm tin.
Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāseyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā* chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Therefore, Phagguna, even if someone were to speak ill of those bhikkhunīs in your presence, you, Phagguna, should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó nói lời chê bai các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā tāsaṃ bhikkhunīnaṃ pāṇinā pahāraṃ dadeyya, leḍḍunā pahāraṃ dadeyya, daṇḍena pahāraṃ dadeyya, satthena pahāraṃ dadeyya.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to strike those bhikkhunīs with a hand, strike them with a clod of earth, strike them with a stick, strike them with a weapon in your presence.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó dùng tay đánh, dùng cục đất ném, dùng gậy đánh, dùng dao đâm các Tỳ-khưu-ni ấy trước mặt ông.
Tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
Therein, Phagguna, you should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci sammukhā avaṇṇaṃ bhāseyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to speak ill of you in your presence, you, Phagguna, should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó nói lời chê bai ông trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabbaṃ.
Thus, Phagguna, should you train yourselves.
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.
‘‘Tasmātiha, phagguna, tava cepi koci pāṇinā pahāraṃ dadeyya, leḍḍunā pahāraṃ dadeyya, daṇḍena pahāraṃ dadeyya, satthena pahāraṃ dadeyya, tatrāpi tvaṃ, phagguna, ye gehasitā chandā ye gehasitā vitakkā te pajaheyyāsi.
"Therefore, Phagguna, even if someone were to strike you with a hand, strike you with a clod of earth, strike you with a stick, strike you with a weapon, therein, Phagguna, you should abandon those desires rooted in the household life, those thoughts rooted in the household life.
“Do đó, này Phagguna, ngay cả khi có ai đó dùng tay đánh, dùng cục đất ném, dùng gậy đánh, dùng dao đâm ông trước mặt ông, thì này Phagguna, ông cũng nên từ bỏ những dục vọng thế tục, những tư duy thế tục.
Tatrāpi te, phagguna, evaṃ sikkhitabbaṃ ‘na ceva me cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāmi, hitānukampī ca viharissāmi mettacitto, na dosantaro’ti.
Therein, Phagguna, you should train yourselves thus: 'My mind will not be corrupted, nor will I utter evil words; I will remain compassionate, with a mind of loving-kindness, without inner ill-will.'
Trong trường hợp đó, này Phagguna, ông nên học tập như sau: ‘Tâm ta sẽ không biến đổi, ta sẽ không nói lời ác, ta sẽ sống với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích của người khác, không có ác ý.’
Evañhi te, phagguna, sikkhitabba’’nti.
Thus, Phagguna, should you train yourselves."
Này Phagguna, ông nên học tập như vậy.”
225. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘ārādhayiṃsu vata me, bhikkhave, bhikkhū ekaṃ samayaṃ cittaṃ.
225. Then the Bhagavā addressed the bhikkhus: "Bhikkhus, the bhikkhus once indeed satisfied my mind.
225. Rồi Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, có một lần các Tỳ-khưu đã làm cho tâm Ta hoan hỷ.
Idhāhaṃ, bhikkhave, bhikkhū āmantesiṃ – ahaṃ kho, bhikkhave, ekāsanabhojanaṃ bhuñjāmi.
Here, bhikkhus, I addressed the bhikkhus thus: 'Bhikkhus, I eat only one meal a day.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Ta đã gọi các Tỳ-khưu và nói: ‘Này các Tỳ-khưu, Ta ăn một bữa ăn duy nhất.
Ekāsanabhojanaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, bhuñjamāno appābādhatañca sañjānāmi appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañca.
Bhikkhus, eating only one meal a day, I experience freedom from illness, freedom from affliction, lightness of body, strength, and a comfortable abiding.
Này các Tỳ-khưu, khi Ta ăn một bữa ăn duy nhất, Ta cảm thấy ít bệnh tật, ít phiền não, thân thể nhẹ nhàng, có sức lực và sống an lạc.
Etha tumhepi, bhikkhave, ekāsanabhojanaṃ bhuñjatha.
Come, bhikkhus, you too eat only one meal a day.
Này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy ăn một bữa ăn duy nhất.
Ekāsanabhojanaṃ kho, bhikkhave, tumhepi bhuñjamānā appābādhatañca sañjānissatha appātaṅkatañca lahuṭṭhānañca balañca phāsuvihārañcāti.
Bhikkhus, you too, eating only one meal a day, will experience freedom from illness, freedom from affliction, lightness of body, strength, and a comfortable abiding.'
Này các Tỳ-khưu, khi các ông ăn một bữa ăn duy nhất, các ông cũng sẽ cảm thấy ít bệnh tật, ít phiền não, thân thể nhẹ nhàng, có sức lực và sống an lạc.’
Na me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi; satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Bhikkhus, there was no need for me to instruct those bhikkhus; for me, bhikkhus, it was merely a matter of arousing their mindfulness.
Này các Tỳ-khưu, Ta không cần phải giáo huấn các Tỳ-khưu ấy; Ta chỉ cần nhắc nhở các Tỳ-khưu ấy để họ khởi tâm niệm mà thôi.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, subhūmiyaṃ catumahāpathe ājaññaratho yutto assa ṭhito odhastapatodo.
"Just as, bhikkhus, at a crossroad on good ground, an excellent chariot, yoked and with goad laid aside, might stand.
“Ví như, này các Tỳ-khưu, trên một con đường lớn bằng phẳng, có một cỗ xe ngựa tốt được thắng sẵn, đứng đó với roi đã hạ xuống.
Tamenaṃ dakkho yoggācariyo assadammasārathi abhiruhitvā, vāmena hatthena rasmiyo gahetvā, dakkhiṇena hatthena patodaṃ gahetvā, yenicchakaṃ yadicchakaṃ sāreyyapi paccāsāreyyapi.
Then a skilled charioteer, a trainer of horses, having mounted it, holding the reins with his left hand and the goad with his right hand, might drive it forward or backward as he wished, wherever he wished.
Người huấn luyện ngựa tài giỏi, người điều khiển ngựa đã thuần thục, sau khi leo lên, tay trái nắm dây cương, tay phải cầm roi, có thể điều khiển cỗ xe đi tới hay lùi lại theo ý muốn của mình.
Evameva kho, bhikkhave, na me tesu bhikkhūsu anusāsanī karaṇīyā ahosi, satuppādakaraṇīyameva me, bhikkhave, tesu bhikkhūsu ahosi.
Even so, bhikkhus, there was no need for me to instruct those bhikkhus; for me, bhikkhus, it was merely a matter of arousing their mindfulness.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Ta không cần phải giáo huấn các Tỳ-khưu ấy; Ta chỉ cần nhắc nhở các Tỳ-khưu ấy để họ khởi tâm niệm mà thôi.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhepi akusalaṃ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṃ karotha.
Therefore, bhikkhus, you too should abandon unwholesome states and make an effort in wholesome states.
Do đó, này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy từ bỏ những điều bất thiện, và nỗ lực trong các pháp thiện.
Evañhi tumhepi imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissatha.
For thus, you too will attain growth, increase, and fullness in this Dhamma and Discipline.
Khi làm như vậy, các ông cũng sẽ đạt được sự tăng trưởng, phát triển và viên mãn trong Giáo pháp và Giới luật này.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahantaṃ sālavanaṃ.
"Just as, bhikkhus, not far from a village or town, there might be a large sal forest.
“Ví như, này các Tỳ-khưu, gần một làng hay một thị trấn có một khu rừng sāla rộng lớn.
Tañcassa eḷaṇḍehi sañchannaṃ.
And it might be overgrown with castor-oil plants.
Khu rừng ấy bị bao phủ bởi những cây thầu dầu.
Tassa kocideva puriso uppajjeyya atthakāmo hitakāmo yogakkhemakāmo.
Then a certain man, wishing for his own benefit, wishing for his welfare, wishing for security from bondage, might arise.
Có một người đàn ông xuất hiện, muốn làm lợi ích, muốn làm điều thiện, muốn an lạc.
So yā tā sālalaṭṭhiyo kuṭilā ojāpaharaṇiyo* tā chetvā* bahiddhā nīhareyya, antovanaṃ suvisodhitaṃ visodheyya.
He would cut down those crooked sal saplings that hinder the sap and carry them out, and he would thoroughly clear the interior of the forest.
Người ấy sẽ chặt bỏ những cây sāla non cong queo, hút hết nhựa sống, và mang chúng ra bên ngoài, dọn dẹp sạch sẽ bên trong khu rừng.
Yā pana tā sālalaṭṭhiyo ujukā sujātā tā sammā parihareyya.
But those sal saplings that are straight and well-grown, he would properly tend.
Còn những cây sāla non thẳng thắn, phát triển tốt, người ấy sẽ chăm sóc cẩn thận.
Evañhetaṃ, bhikkhave, sālavanaṃ aparena samayena vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyya.
Thus, bhikkhus, that sal forest would in due course attain growth, increase, and fullness.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, khu rừng sāla ấy sau một thời gian sẽ tăng trưởng, phát triển và viên mãn.
Evameva kho, bhikkhave, tumhepi akusalaṃ pajahatha, kusalesu dhammesu āyogaṃ karotha.
Even so, bhikkhus, you too should abandon unwholesome states and make an effort in wholesome states.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, các ông cũng hãy từ bỏ những điều bất thiện, và nỗ lực trong các pháp thiện.
Evañhi tumhepi imasmiṃ dhammavinaye vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissatha.
For thus, you too will attain growth, increase, and fullness in this Dhamma and Discipline.
Khi làm như vậy, các ông cũng sẽ đạt được sự tăng trưởng, phát triển và viên mãn trong Giáo pháp và Giới luật này.
226. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, imissāyeva sāvatthiyā vedehikā nāma gahapatānī ahosi.
226. "Formerly, bhikkhus, in this very Sāvatthī, there was a laywoman named Vedīhikā.
226. “Này các Tỳ-khưu, thuở xưa, ngay tại Sāvatthī này, có một nữ gia chủ tên là Vedehikā.
Vedehikāya, bhikkhave, gahapatāniyā evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī’ti.
Bhikkhus, such a fine reputation had arisen for the laywoman Vedīhikā: 'The laywoman Vedīhikā is gentle, the laywoman Vedīhikā is humble, the laywoman Vedīhikā is peaceful.'
Này các Tỳ-khưu, tiếng đồn tốt đẹp về nữ gia chủ Vedehikā đã vang xa như sau: ‘Nữ gia chủ Vedehikā là người hiền hòa, nữ gia chủ Vedehikā là người khiêm tốn, nữ gia chủ Vedehikā là người an tịnh.’
Vedehikāya kho pana, bhikkhave, gahapatāniyā kāḷī nāma dāsī ahosi dakkhā analasā susaṃvihitakammantā.
Moreover, bhikkhus, the laywoman Vedīhikā had a maidservant named Kālī, who was skilled, diligent, and well-organized in her work.
Này các Tỳ-khưu, nữ gia chủ Vedehikā có một người hầu gái tên là Kāḷī, rất tháo vát, không lười biếng, và làm việc rất ngăn nắp.
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘mayhaṃ kho ayyāya evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘‘soratā vedehikā gahapatānī, nivātā vedehikā gahapatānī, upasantā vedehikā gahapatānī’’ti.
"Then, bhikkhus, this thought occurred to the maidservant Kālī: 'Such a fine reputation has arisen for my mistress: "The laywoman Vedīhikā is gentle, the laywoman Vedīhikā is humble, the laywoman Vedīhikā is peaceful."
“Rồi, này các Tỳ-khưu, người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Tiếng đồn tốt đẹp về chủ nhân của ta đã vang xa như sau: “Nữ gia chủ Vedehikā là người hiền hòa, nữ gia chủ Vedehikā là người khiêm tốn, nữ gia chủ Vedehikā là người an tịnh.”
Kiṃ nu kho me ayyā santaṃyeva nu kho ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti udāhu asantaṃ udāhu mayhamevete* kammantā susaṃvihitā yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ?
Now, does my mistress not reveal inner anger that is present, or is it that it is not present? Or is it that my work is so well-organized that my mistress does not reveal inner anger that is present, but not anger that is not present?
Có phải chủ nhân của ta không biểu lộ sự tức giận đang có trong lòng, hay là không có sự tức giận nào cả, hay là do công việc của ta được sắp xếp ngăn nắp nên chủ nhân của ta không biểu lộ sự tức giận đang có trong lòng, chứ không phải là không có sự tức giận nào cả?’
Yaṃnūnāhaṃ ayyaṃ vīmaṃseyya’nti.
“What if I were to test my mistress?”
“Hay là ta thử dò xét bà chủ xem sao.”
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divā uṭṭhāsi.
Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose late in the day.
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise late in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’
‘Na khvayye* , kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi* , divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā bhākuṭiṃ* akāsi.
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose late in the day!’ she said, angry and displeased, and she frowned.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, và nhíu mày.
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘santaṃyeva kho me ayyā ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ; mayhamevete kammantā susaṃvihitā, yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
Then, bhikkhus, this thought occurred to the servant Kāḷī: ‘My mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not. It is because my tasks are well-arranged that my mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.’
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có. Chính những công việc của ta được sắp xếp tốt, nên bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Yaṃnūnāhaṃ bhiyyosomattāya ayyaṃ vīmaṃseyya’’’nti.
“What if I were to test my mistress even more?”
Hay là ta thử dò xét bà chủ kỹ hơn nữa xem sao.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṃyeva uṭṭhāsi.
“Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose even later in the day.
“Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy sớm hơn vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je, kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divātaraṃ uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise even later in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy sớm hơn vào ban ngày?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divātaraṃ uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā anattamanavācaṃ nicchāresi.
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose even later in the day!’ she said, angry and displeased, and she uttered displeasing words.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy sớm hơn vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, và thốt ra những lời lẽ không vui.
Atha kho, bhikkhave, kāḷiyā dāsiyā etadahosi – ‘santaṃyeva kho me ayyā ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
Then, bhikkhus, this thought occurred to the servant Kāḷī: ‘My mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī nghĩ: ‘Bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Mayhamevete kammantā susaṃvihitā, yena me ayyā santaṃyeva ajjhattaṃ kopaṃ na pātukaroti, no asantaṃ.
It is because my tasks are well-arranged that my mistress does not reveal inner anger when it exists, nor does she reveal it when it does not.’
Chính những công việc của ta được sắp xếp tốt, nên bà chủ của ta không biểu lộ sự tức giận ẩn chứa bên trong khi nó có, chứ không phải khi nó không có.
Yaṃnūnāhaṃ bhiyyosomattāya ayyaṃ vīmaṃseyya’nti.
“What if I were to test my mistress even more?”
Hay là ta thử dò xét bà chủ kỹ hơn nữa xem sao.’”
‘‘Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī divātaraṃyeva uṭṭhāsi.
“Then, bhikkhus, the servant Kāḷī rose even later in the day.
“Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī thức dậy sớm hơn vào ban ngày.
Atha kho, bhikkhave, vedehikā gahapatānī kāḷiṃ dāsiṃ etadavoca – ‘he je, kāḷī’ti.
Then, bhikkhus, the householder Vedehikā said to the servant Kāḷī: ‘Hey, Kāḷī!’
Này các Tỳ-khưu, rồi nữ gia chủ Vedehikā nói với người hầu gái Kāḷī rằng: ‘Này Kāḷī!’
‘Kiṃ, ayye’ti?
‘What is it, mistress?’
‘Gì vậy, thưa bà chủ?’
‘Kiṃ, je, divā uṭṭhāsī’ti?
‘Why, girl, did you rise late in the day?’
‘Này con, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’
‘Na khvayye, kiñcī’ti.
‘Nothing, mistress.’
‘Không có gì đâu, thưa bà chủ.’
‘No vata re kiñci, pāpi dāsi, divā uṭṭhāsī’ti kupitā anattamanā aggaḷasūciṃ gahetvā sīse pahāraṃ adāsi, sīsaṃ vobhindi* .
‘It’s certainly not nothing, you wretched servant, that you rose late in the day!’ she said, angry and displeased, and taking the door-bar, she struck her on the head, splitting her head open.
‘Không có gì sao, đồ hầu gái xấu xa, sao con lại thức dậy vào ban ngày?’ Bà ta tức giận, không hài lòng, cầm then cửa đánh vào đầu cô ta, làm vỡ đầu cô ta.
Atha kho, bhikkhave, kāḷī dāsī bhinnena sīsena lohitena galantena paṭivissakānaṃ ujjhāpesi – ‘passathayye, soratāya kammaṃ; passathayye, nivātāya kammaṃ, passathayye, upasantāya kammaṃ!
Then, bhikkhus, the servant Kāḷī, with her head split open and blood flowing, complained to the neighbors: ‘Look, good sirs, at the action of the modest one! Look, good sirs, at the humble one’s action! Look, good sirs, at the action of the calm one!
Này các Tỳ-khưu, rồi người hầu gái Kāḷī, với cái đầu bị vỡ và máu chảy ròng ròng, than phiền với những người hàng xóm: ‘Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ hiền lành! Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ khiêm tốn! Này các bà, hãy xem hành động của người phụ nữ điềm tĩnh!
Kathañhi nāma ekadāsikāya divā uṭṭhāsīti kupitā anattamanā aggaḷasūciṃ gahetvā sīse pahāraṃ dassati, sīsaṃ vobhindissatī’ti.
How can she, angry and displeased, take a door-bar and strike a mere servant on the head, splitting her head open, just because she rose late in the day?’
Làm sao mà bà ta lại tức giận, không hài lòng, cầm then cửa đánh vào đầu người hầu gái chỉ vì cô ta thức dậy vào ban ngày, làm vỡ đầu cô ta được chứ!’
‘‘Evameva kho, bhikkhave, idhekacco bhikkhu tāvadeva soratasorato hoti nivātanivāto hoti upasantūpasanto hoti yāva na amanāpā vacanapathā phusanti.
“Just so, bhikkhus, some bhikkhu here is modest, humble, and calm, only as long as he is not touched by disagreeable words.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu nào đó là người rất hiền lành, rất khiêm tốn, rất điềm tĩnh chừng nào những lời lẽ không vừa ý chưa chạm đến vị ấy.
Yato ca, bhikkhave, bhikkhuṃ amanāpā vacanapathā phusanti, atha bhikkhu ‘sorato’ti veditabbo, ‘nivāto’ti veditabbo, ‘upasanto’ti veditabbo.
But when, bhikkhus, that bhikkhu is touched by disagreeable words, then he should be known as ‘modest,’ as ‘humble,’ as ‘calm.’
Nhưng khi, này các Tỳ-khưu, những lời lẽ không vừa ý chạm đến một Tỳ-khưu, bấy giờ vị Tỳ-khưu ấy được biết là ‘hiền lành’, được biết là ‘khiêm tốn’, được biết là ‘điềm tĩnh’.
Nāhaṃ taṃ, bhikkhave, bhikkhuṃ ‘suvaco’ti vadāmi yo cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārahetu suvaco hoti, sovacassataṃ āpajjati.
I do not, bhikkhus, call that bhikkhu ‘easy to admonish’ who is easy to admonish and amenable due to robes, alms-food, lodgings, or requisites of medicine for the sick.
Này các Tỳ-khưu, Ta không gọi một Tỳ-khưu là ‘dễ dạy’ nếu vị ấy dễ dạy, có tính dễ dạy vì y phục, đồ ăn khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cho người bệnh.
Taṃ kissa hetu?
And why is that?
Vì sao vậy?
Tañhi so, bhikkhave, bhikkhu cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhāraṃ alabhamāno na suvaco hoti, na sovacassataṃ āpajjati.
Because, bhikkhus, if that bhikkhu does not receive robes, alms-food, lodgings, or requisites of medicine for the sick, he is not easy to admonish and not amenable.
Vì nếu, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu ấy không nhận được y phục, đồ ăn khất thực, chỗ ở, thuốc men và các vật dụng cho người bệnh, thì vị ấy sẽ không dễ dạy, sẽ không có tính dễ dạy.
Yo ca kho, bhikkhave, bhikkhu dhammaṃyeva sakkaronto, dhammaṃ garuṃ karonto, dhammaṃ mānento, dhammaṃ pūjento, dhammaṃ apacāyamāno* suvaco hoti, sovacassataṃ āpajjati, tamahaṃ ‘suvaco’ti vadāmi.
But, bhikkhus, if a bhikkhu, respecting the Dhamma, holding the Dhamma sacred, revering the Dhamma, honoring the Dhamma, and deferring to the Dhamma, is easy to admonish and amenable, him I call ‘easy to admonish.’
Nhưng, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu nào đó dễ dạy, có tính dễ dạy vì tôn trọng Pháp, vì kính trọng Pháp, vì quý trọng Pháp, vì cúng dường Pháp, vì cung kính Pháp, thì Ta gọi vị ấy là ‘dễ dạy’.
Tasmātiha, bhikkhave, ‘dhammaṃyeva sakkarontā, dhammaṃ garuṃ karontā, dhammaṃ mānentā, dhammaṃ pūjentā, dhammaṃ apacāyamānā suvacā bhavissāma, sovacassataṃ āpajjissāmā’ti.
Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will be easy to admonish, we will be amenable, respecting the Dhamma, holding the Dhamma sacred, revering the Dhamma, honoring the Dhamma, and deferring to the Dhamma.’
Do đó, này các Tỳ-khưu, các con nên học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ là người dễ dạy, sẽ có tính dễ dạy vì tôn trọng Pháp, vì kính trọng Pháp, vì quý trọng Pháp, vì cúng dường Pháp, vì cung kính Pháp.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
That is how you should train yourselves, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như vậy.
227. ‘‘Pañcime, bhikkhave, vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ – kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
227. “Bhikkhus, there are these five ways of speaking by which others might address you: at the right time or at the wrong time; truthfully or untruthfully; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with inner malice.
227. “Này các Tỳ-khưu, có năm cách nói mà người khác có thể nói với các con: đúng lúc hay không đúng lúc; đúng sự thật hay không đúng sự thật; nhẹ nhàng hay thô lỗ; có lợi hay không có lợi; với tâm từ hay với tâm sân.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others might address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others might address you truthfully or untruthfully; bhikkhus, others might address you gently or harshly; bhikkhus, others might address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others might address you with a mind of loving-kindness or with inner malice.
Này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con đúng lúc hay không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con đúng sự thật hay không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con nhẹ nhàng hay thô lỗ; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con có lợi hay không có lợi; này các Tỳ-khưu, người khác có thể nói với các con với tâm từ hay với tâm sân.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā, na dosantarā.
In that case, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘Our minds will not be affected, we will not utter evil words, we will abide compassionate for welfare, with a mind of loving-kindness, without inner malice.
Trong trường hợp đó, này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không bị biến đổi, chúng ta sẽ không thốt ra lời nói ác, chúng ta sẽ sống với lòng từ bi, không có tâm sân.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cittena vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena* pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind accompanied by loving-kindness; and with that as the object, we will abide pervading the entire world with an abundant, expansive, immeasurable mind accompanied by loving-kindness, free from enmity and ill will.’
Chúng ta sẽ sống bằng cách trải tâm từ đến người đó, và trải đến toàn bộ thế gian này với tâm từ rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
That is how you should train yourselves, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, các con phải học tập như vậy.
228. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya kudālapiṭakaṃ* ādāya.
228. “Just as, bhikkhus, a man might come bringing a spade and a basket.
228. “Ví như, này các Tỳ-khưu, có một người đàn ông đến với cái cuốc và cái giỏ.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imaṃ mahāpathaviṃ apathaviṃ karissāmī’ti.
He might say: ‘I will make this great earth non-earth.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ biến trái đất rộng lớn này thành không còn là đất nữa.’
So tatra tatra vikhaṇeyya* , tatra tatra vikireyya, tatra tatra oṭṭhubheyya, tatra tatra omutteyya – ‘apathavī bhavasi, apathavī bhavasī’ti.
He would dig here and there, scatter here and there, spit here and there, urinate here and there, saying: ‘Become non-earth, become non-earth.’
Người ấy đào bới chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước bọt chỗ này chỗ kia, tiểu tiện chỗ này chỗ kia, và nói: ‘Ngươi hãy không còn là đất nữa! Ngươi hãy không còn là đất nữa!’
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso imaṃ mahāpathaviṃ apathaviṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to make this great earth non-earth?”
Này các Tỳ-khưu, các con nghĩ sao, liệu người đàn ông ấy có thể biến trái đất rộng lớn này thành không còn là đất nữa không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Không thể được, bạch Đức Thế Tôn.”
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
“For what reason?”
“Vì sao vậy?”
‘‘Ayañhi, bhante, mahāpathavī gambhīrā appameyyā.
“Because, Venerable Sir, this great earth is deep and immeasurable.
“Vì, bạch Đức Thế Tôn, trái đất rộng lớn này sâu thẳm và vô biên.
Sā na sukarā apathavī kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to make it non-earth; and that man would only become a partaker of weariness and vexation.”
Thật không dễ dàng để biến nó thành không còn là đất nữa; người đàn ông ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và thất vọng mà thôi.”
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ – kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
“Just so, bhikkhus, there are these five ways of speaking by which others might address you: at the right time or at the wrong time; truthfully or untruthfully; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with inner malice.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói mà người khác có thể nói với các con: đúng lúc hay không đúng lúc; đúng sự thật hay không đúng sự thật; nhẹ nhàng hay thô lỗ; có lợi hay không có lợi; với tâm từ hay với tâm sân.
Kālena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others may address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others may address you with what is true or with what is untrue; bhikkhus, others may address you gently or harshly; bhikkhus, others may address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others may address you with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông với lời lẽ dịu dàng hoặc lời lẽ thô lỗ; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông có lợi ích hoặc không có lợi ích; có thể người khác nói với các ông với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ pathavisamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the earth, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như đất’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
229. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya lākhaṃ vā haliddiṃ vā nīlaṃ vā mañjiṭṭhaṃ vā ādāya.
229. ‘‘Bhikkhus, suppose a man were to come bringing lac, or turmeric, or indigo, or crimson.
229. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một người đến, mang theo sơn, hoặc nghệ, hoặc chàm, hoặc son.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imasmiṃ ākāse rūpaṃ likhissāmi, rūpapātubhāvaṃ karissāmī’ti.
He would say: ‘I will draw a figure in this space, I will make a figure manifest.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ vẽ hình trong hư không này, ta sẽ làm cho hình hiện rõ’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso imasmiṃ ākāse rūpaṃ likheyya, rūpapātubhāvaṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to draw a figure in this space, or make a figure manifest?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể vẽ hình trong hư không này, làm cho hình hiện rõ được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Ayañhi, bhante, ākāso arūpī anidassano.
‘‘Because, Venerable Sir, this space is formless and invisible.
‘‘Thưa Thế Tôn, hư không này là vô sắc, không thể thấy được.
Tattha na sukaraṃ rūpaṃ likhituṃ, rūpapātubhāvaṃ kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to draw a figure there, nor to make a figure manifest; the man would only incur weariness and vexation.’’
Ở đó, thật khó để vẽ hình, khó để làm cho hình hiện rõ; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā …pe… ‘na ceva… tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ ākāsasamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you, at the right time or at the wrong time… (as before)… ‘Our mind will not be… and pervading the entire world, which is its object, with a mind like space, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc… (lược)… ‘tâm của chúng ta sẽ không biến đổi… và chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như hư không’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
230. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso āgaccheyya ādittaṃ tiṇukkaṃ ādāya.
230. ‘‘Bhikkhus, suppose a man were to come bringing a burning grass-torch.
230. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một người đến, mang theo một bó đuốc đang cháy.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imāya ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṃ nadiṃ santāpessāmi saṃparitāpessāmī’ti.
He would say: ‘With this burning grass-torch, I will heat and thoroughly scorch the river Ganges.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ làm cho sông Hằng này nóng lên, ta sẽ làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy này’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso ādittāya tiṇukkāya gaṅgaṃ nadiṃ santāpeyya saṃparitāpeyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to heat or thoroughly scorch the river Ganges with that burning grass-torch?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể làm cho sông Hằng này nóng lên, làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Gaṅgā hi, bhante, nadī gambhīrā appameyyā.
‘‘Because, Venerable Sir, the river Ganges is deep and immeasurable.
‘‘Thưa Thế Tôn, sông Hằng này sâu và rộng lớn vô cùng.
Sā na sukarā ādittāya tiṇukkāya santāpetuṃ saṃparitāpetuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to heat or thoroughly scorch it with a burning grass-torch; the man would only incur weariness and vexation.’’
Thật khó để làm cho nó nóng lên, làm cho nó nóng rực lên bằng bó đuốc đang cháy; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā…pe… ‘na ceva… tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ gaṅgāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’’ti.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you, at the right time or at the wrong time… (as before)… ‘Our mind will not be… and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the Ganges, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc… (lược)… ‘tâm của chúng ta sẽ không biến đổi… và chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như sông Hằng’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
231. ‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī chinnasassarā chinnabhabbharā.
231. ‘‘Bhikkhus, suppose a cat’s skin bag were crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated.
231. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ví như một túi da mèo đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc.
Atha puriso āgaccheyya kaṭṭhaṃ vā kathalaṃ* vā ādāya.
Then a man were to come bringing a stick or a potsherd.
Rồi một người đến, mang theo một cây gậy hoặc một mảnh sành.
So evaṃ vadeyya – ‘ahaṃ imaṃ biḷārabhastaṃ madditaṃ sumadditaṃ suparimadditaṃ, mudukaṃ tūliniṃ, chinnasassaraṃ chinnabhabbharaṃ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ karissāmi bharabharaṃ karissāmī’ti.
He would say: ‘I will make this cat’s skin bag, crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated, rustle with a stick or a potsherd, I will make it crackle.’
Người ấy nói rằng: ‘Ta sẽ làm cho túi da mèo này, đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc, phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành này’.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso amuṃ biḷārabhastaṃ madditaṃ sumadditaṃ suparimadditaṃ, mudukaṃ tūliniṃ, chinnasassaraṃ chinnabhabbharaṃ kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ kareyya, bharabharaṃ kareyyā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man be able to make that cat’s skin bag, crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated, rustle or crackle with a stick or a potsherd?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, người ấy có thể làm cho túi da mèo đó, đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc, phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không thể được’’.
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
‘‘For what reason?’’
‘‘Vì sao vậy?’’
‘‘Amu hi, bhante, biḷārabhastā madditā sumadditā suparimadditā, mudukā tūlinī, chinnasassarā chinnabhabbharā.
‘‘Because, Venerable Sir, that cat’s skin bag is crushed, well-crushed, very well-crushed, soft, like cotton, with its rustling sound eliminated, with its crackling sound eliminated.
‘‘Thưa Thế Tôn, túi da mèo đó đã được nhồi nắn kỹ lưỡng, rất mềm mại như bông gòn, không còn tiếng kêu sột soạt, không còn tiếng kêu xào xạc.
Sā na sukarā kaṭṭhena vā kathalena vā sarasaraṃ kātuṃ bharabharaṃ kātuṃ; yāvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighātassa bhāgī assā’’ti.
It is not easy to make it rustle or crackle with a stick or a potsherd; the man would only incur weariness and vexation.’’
Thật khó để làm cho nó phát ra tiếng sột soạt, phát ra tiếng xào xạc bằng cây gậy hoặc mảnh sành; người ấy chỉ chuốc lấy sự mệt mỏi và phiền não mà thôi’’.
‘‘Evameva kho, bhikkhave, pañcime vacanapathā yehi vo pare vadamānā vadeyyuṃ kālena vā akālena vā; bhūtena vā abhūtena vā; saṇhena vā pharusena vā; atthasaṃhitena vā anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā dosantarā vā.
‘‘Even so, bhikkhus, these are the five ways of speaking by which others may address you: at the right time or at the wrong time; with what is true or with what is untrue; gently or harshly; beneficially or unbeneficially; with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, có năm cách nói này mà người khác có thể nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; với lời lẽ dịu dàng hoặc thô lỗ; có lợi ích hoặc không có lợi ích; với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Kālena vā bhikkhave pare vadamānā vadeyyuṃ akālena vā; bhūtena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ abhūtena vā; saṇhena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ pharusena vā; atthasaṃhitena vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ anatthasaṃhitena vā; mettacittā vā, bhikkhave, pare vadamānā vadeyyuṃ dosantarā vā.
Bhikkhus, others may address you at the right time or at the wrong time; bhikkhus, others may address you with what is true or with what is untrue; bhikkhus, others may address you gently or harshly; bhikkhus, others may address you beneficially or unbeneficially; bhikkhus, others may address you with a mind of loving-kindness or with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng lúc hoặc không đúng lúc; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông đúng sự thật hoặc không đúng sự thật; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông với lời lẽ dịu dàng hoặc lời lẽ thô lỗ; này các Tỳ-khưu, có thể người khác nói với các ông có lợi ích hoặc không có lợi ích; có thể người khác nói với các ông với tâm từ ái hoặc với tâm đầy sân hận.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma, tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ biḷārabhastāsamena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind like the cat’s skin bag, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian, như túi da mèo’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
232. ‘‘Ubhatodaṇḍakena cepi, bhikkhave, kakacena corā ocarakā aṅgamaṅgāni okanteyyuṃ, tatrāpi yo mano padūseyya, na me so tena sāsanakaro.
232. ‘‘Even if, bhikkhus, robbers and villains were to carve you limb by limb with a two-handled saw, whoever there were to pollute their mind, he would not be a doer of my teaching.
232. ‘‘Này các Tỳ-khưu, ngay cả khi bọn cướp, bọn trộm dùng cưa hai tay xẻ từng khúc từng khúc thân thể các ông, nếu có ai trong các ông để tâm sân hận, người ấy không phải là người vâng lời ta.
Tatrāpi vo, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘na ceva no cittaṃ vipariṇataṃ bhavissati, na ca pāpikaṃ vācaṃ nicchāressāma, hitānukampī ca viharissāma mettacittā na dosantarā.
Bhikkhus, there too you should train yourselves thus: ‘Our mind will not be corrupted, nor will we utter evil speech, but we will dwell compassionate and with a mind of loving-kindness, not with a mind of hatred.
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, các ông phải học tập như sau: ‘Tâm của chúng ta sẽ không biến đổi, chúng ta sẽ không nói lời ác độc, chúng ta sẽ an trú với lòng từ bi, thương xót vì lợi ích, không có tâm sân hận.
Tañca puggalaṃ mettāsahagatena cetasā pharitvā viharissāma tadārammaṇañca sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharissāmā’ti.
We will abide pervading that person with a mind imbued with loving-kindness, and pervading the entire world, which is its object, with a mind imbued with loving-kindness, vast, exalted, immeasurable, without enmity, without ill will.’
Chúng ta sẽ an trú, trải tâm từ bi đến người đó, và trải tâm từ bi rộng lớn, cao thượng, vô lượng, không hận thù, không ác ý đến toàn thể thế gian’.
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabbaṃ.
Thus, bhikkhus, you should train yourselves.
Này các Tỳ-khưu, các ông phải học tập như vậy.
233. ‘‘Imañca* tumhe, bhikkhave, kakacūpamaṃ ovādaṃ abhikkhaṇaṃ manasi kareyyātha.
233. ‘‘If, bhikkhus, you were to frequently keep this Saw Simile instruction in mind.
233. ‘‘Này các Tỳ-khưu, nếu các ông thường xuyên quán niệm lời khuyên ví dụ cái cưa này.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ vacanapathaṃ, aṇuṃ vā thūlaṃ vā, yaṃ tumhe nādhivāseyyāthā’’ti?
Do you see, bhikkhus, any way of speaking, small or great, that you would not endure?’’
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy lời nói nào, dù nhỏ hay lớn, mà các ông không thể chịu đựng được không?’’
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
‘‘No, Venerable Sir.’’
‘‘Thưa Thế Tôn, không có’’.
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, imaṃ kakacūpamaṃ ovādaṃ abhikkhaṇaṃ manasikarotha.
‘‘Therefore, bhikkhus, frequently keep this Saw Simile instruction in mind.
‘‘Do đó, này các Tỳ-khưu, hãy thường xuyên quán niệm lời khuyên ví dụ cái cưa này.
Taṃ vo bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
That will be for your long-term welfare and happiness.’’
Điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho các ông’’.
234. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
234. Thus have I heard – At one time the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Monastery.
234. Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthī (Xá-vệ), ở Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong tịnh xá của Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Tena kho pana samayena ariṭṭhassa nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa* evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti – ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
Now at that time, a pernicious wrong view had arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Lúc bấy giờ, một ác kiến như vậy khởi lên nơi Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên: “Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
Assosuṃ kho sambahulā bhikkhū – ‘‘ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
Many bhikkhus heard that a pernicious wrong view had arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: “As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Nhiều Tỳ-khưu nghe rằng: “Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’”
Atha kho te bhikkhū yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavocuṃ – ‘‘saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
Then those bhikkhus went to where the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was; having approached, they said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers: “Is it true, friend Ariṭṭha, that such a pernicious wrong view has arisen in you: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in’?”
Rồi các Tỳ-khưu ấy đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên; sau khi đến, họ nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rằng: “Này Hiền giả Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một ác kiến như vầy không: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại’?”
‘‘Evaṃbyākho* ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
“Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
“Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
Atha kho tepi bhikkhū ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjanti samanugāhanti* samanubhāsanti – ‘‘mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṃ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ* , na hi bhagavā evaṃ vadeyya.
Then those bhikkhus, desiring to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, interrogated him, probed him, and admonished him, saying: “Do not speak thus, friend Ariṭṭha, do not misrepresent the Blessed One; for it is not good to misrepresent the Blessed One, nor would the Blessed One speak thus.
Rồi các Tỳ-khưu ấy, muốn khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, liền chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục ông ta: “Này Hiền giả Ariṭṭha, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt, Thế Tôn không bao giờ nói như vậy.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
In many ways, friend Ariṭṭha, have the Blessed One declared obstructive things to be obstructive, and indeed they are capable of being obstacles when indulged in.
Này Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã nói các pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā,ādīnavo ettha bhiyyo.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be of little enjoyment, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục lạc là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… maṃsapesūpamā kāmā vuttā bhagavatā… tiṇukkūpamā kāmā vuttā bhagavatā… aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā bhagavatā… supinakūpamā kāmā vuttā bhagavatā… yācitakūpamā kāmā vuttā bhagavatā… rukkhaphalūpamā kāmā vuttā bhagavatā… asisūnūpamā kāmā vuttā bhagavatā… sattisūlūpamā kāmā vuttā bhagavatā… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’ti.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton… like a piece of flesh… like a grass torch… like a pit of glowing coals… like a dream… like borrowed goods… like a tree with fruits… like a butcher’s knife and chopping block… like a spear stake… like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.”
Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như bộ xương… (vân vân)… Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như miếng thịt… ví như bó đuốc cỏ… ví như hố than hồng… ví như giấc mộng… ví như vật vay mượn… ví như cây có quả… ví như lưỡi dao và thớt… ví như cây giáo nhọn… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.”
Evampi kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tehi bhikkhūhi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno* samanubhāsiyamāno tadeva* pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati – ‘‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti.
Even though the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was thus interrogated, probed, and admonished by those bhikkhus, he still clung to, embraced, and expressed that same pernicious wrong view with tenacity: “Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.”
Dù bị các Tỳ-khưu ấy chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, vẫn kiên quyết bám chặt vào ác kiến ấy và nói: “Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.”
235. Yato kho te bhikkhū nāsakkhiṃsu ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
235. When those bhikkhus were unable to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, then they went to where the Blessed One was; having approached, they saluted the Blessed One and sat down to one side.
235. Khi các Tỳ-khưu ấy không thể khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, thì các Tỳ-khưu ấy liền đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘ariṭṭhassa nāma, bhante, bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Seated to one side, those bhikkhus said to the Blessed One: “Venerable sir, a pernicious wrong view has arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: ‘Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Assumha kho mayaṃ, bhante – ‘ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Indeed, Venerable sir, we heard: ‘A pernicious wrong view has arisen in a bhikkhu named Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, as follows: As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Bạch Thế Tôn, chúng con nghe rằng: ‘Tỳ-khưu tên Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã khởi lên một ác kiến như vầy: Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Atha kho mayaṃ, bhante, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavocumha – ‘saccaṃ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti?
Then, Venerable sir, we went to where the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was; having approached, we said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers: ‘Is it true, friend Ariṭṭha, that such a pernicious wrong view has arisen in you: As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in?’
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên; sau khi đến, chúng con nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rằng: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một ác kiến như vầy không: Ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại’?”
‘‘Evaṃ vutte, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhe etadavoca – ‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
“When this was said, Venerable sir, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, said to us: ‘Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
“Bạch Thế Tôn, khi được nói như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, đã nói với chúng con rằng: ‘Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’”
Atha kho mayaṃ, bhante, ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjimha samanugāhimha samanubhāsimha – ‘mā hevaṃ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṃ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ, na hi bhagavā evaṃ vadeyya.
Then, Venerable sir, desiring to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, we interrogated him, probed him, and admonished him, saying: ‘Do not speak thus, friend Ariṭṭha, do not misrepresent the Blessed One; for it is not good to misrepresent the Blessed One, nor would the Blessed One speak thus.
“Rồi bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, liền chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục ông ta: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, đừng nói như vậy, đừng phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt, Thế Tôn không bao giờ nói như vậy.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
In many ways, friend Ariṭṭha, have the Blessed One declared obstructive things to be obstructive, and indeed they are capable of being obstacles when indulged in.
Này Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã nói các pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be of little enjoyment, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục lạc là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’ti.
Sense pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton… like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.’
Thế Tôn đã nói các dục lạc ví như bộ xương… (vân vân)… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và có nhiều hiểm họa hơn ở đó.’
Evampi kho, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhehi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṃ diṭṭhigataṃ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati – ‘evaṃbyākho ahaṃ, āvuso, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’ti.
Even though, Venerable sir, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, was thus interrogated, probed, and admonished by us, he still clung to, embraced, and expressed that same pernicious wrong view with tenacity: ‘Indeed, friends, I understand the Dhamma taught by the Blessed One in such a way that those things declared by the Blessed One to be obstacles are not capable of being obstacles when indulged in.’
Dù bị chúng con chất vấn, tra hỏi, và thuyết phục như vậy, bạch Thế Tôn, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, vẫn kiên quyết bám chặt vào ác kiến ấy và nói: ‘Này chư Hiền, ta hiểu Pháp do Thế Tôn thuyết giảng như thế này: những pháp được Thế Tôn nói là chướng ngại, nếu có người thực hành chúng thì không đủ sức gây chướng ngại.’
Yato kho mayaṃ, bhante, nāsakkhimha ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṃ, atha mayaṃ etamatthaṃ bhagavato ārocemā’’ti.
When, Venerable sir, we were unable to detach the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the vulture-killers, from that pernicious wrong view, we then reported this matter to the Blessed One.”
Vì chúng con không thể khiến Tỳ-khưu Ariṭṭha, người trước kia là kẻ giết kên kên, rời bỏ ác kiến ấy, bạch Thế Tôn, nên chúng con đã báo cáo sự việc này lên Thế Tôn.”
236. Atha kho bhagavā aññataraṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ āmantehi – ‘satthā taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetī’’’ti.
236. Then the Blessed One addressed a certain bhikkhu: ‘‘Come, bhikkhu, in my name, address the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, saying: ‘Friend Ariṭṭha, the Teacher summons you.’’’
236. Rồi Thế Tôn gọi một Tỳ-khưu khác và bảo: “Này Tỳ-khưu, hãy đi, nhân danh Ta, hãy gọi Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, và nói: ‘Này Hiền giả Ariṭṭha, Bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.’”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca – ‘‘satthā taṃ, āvuso ariṭṭha, āmantetī’’ti.
‘‘Yes, venerable sir,’’ that bhikkhu replied to the Blessed One, and he went to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers; having approached, he said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers: ‘‘Friend Ariṭṭha, the Teacher summons you.’’
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” vị Tỳ-khưu ấy vâng lời Thế Tôn, đi đến chỗ Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền; sau khi đến, vị ấy nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền: “Này Hiền giả Ariṭṭha, Bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
‘‘Yes, friend,’’ the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, replied to that bhikkhu, and he went to the Blessed One; having approached, he paid homage to the Blessed One and sat down to one side.
“Vâng, thưa Hiền giả,” Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, vâng lời vị Tỳ-khưu ấy, đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saccaṃ kira te, ariṭṭha, evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ – ‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti?
The Blessed One then said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, who was sitting to one side: ‘‘Is it true, Ariṭṭha, that such a wicked wrong view has arisen in you: ‘As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, those things called obstructions by the Blessed One are not truly obstructions for one who engages in them’?’’
Thế Tôn nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, đang ngồi một bên: “Này Ariṭṭha, có thật là Hiền giả đã khởi lên một tà kiến xấu xa như thế này: ‘Ta hiểu Giáo Pháp do Thế Tôn thuyết giảng theo cách mà những pháp chướng ngại do Thế Tôn nói ra không đủ gây chướng ngại cho người thực hành chúng’ không?”
‘‘Evaṃbyākho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi – ‘yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’’ti.
‘‘Indeed, venerable sir, I understand the Dhamma taught by the Blessed One thus: ‘Those things called obstructions by the Blessed One are not truly obstructions for one who engages in them.’’’
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy, con hiểu Giáo Pháp do Thế Tôn thuyết giảng theo cách mà những pháp chướng ngại do Thế Tôn nói ra không đủ gây chướng ngại cho người thực hành chúng.”
‘‘Kassa kho nāma tvaṃ, moghapurisa, mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānāsi?
‘‘Whose Dhamma, you foolish man, do you understand as having been taught by me in this way?
“Này kẻ ngu si, Hiền giả đã hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng như vậy từ ai?
Nanu mayā, moghapurisa, anekapariyāyena antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā?
Have I not, you foolish man, in many ways declared things that are obstructions to be obstructions?
Này kẻ ngu si, chẳng phải Ta đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách sao?
Alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
And that they are indeed sufficient to be obstructions for one who engages in them.
Và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
I have declared sensual pleasures to have little gratification, to be full of suffering and distress, with more drawbacks.
Ta đã nói rằng các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā… maṃsapesūpamā kāmā vuttā mayā… tiṇukkūpamā kāmā vuttā mayā… aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā mayā… supinakūpamā kāmā vuttā mayā… yācitakūpamā kāmā vuttā mayā… rukkhaphalūpamā kāmā vuttā mayā… asisūnūpamā kāmā vuttā mayā… sattisūlūpamā kāmā vuttā mayā… sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
I have declared sensual pleasures to be like a skeleton… I have declared sensual pleasures to be like a piece of flesh… I have declared sensual pleasures to be like a grass-torch… I have declared sensual pleasures to be like a pit of glowing embers… I have declared sensual pleasures to be like a dream… I have declared sensual pleasures to be like borrowed goods… I have declared sensual pleasures to be like fruits on a tree… I have declared sensual pleasures to be like a slaughterhouse… I have declared sensual pleasures to be like a spear-stake… I have declared sensual pleasures to be like a snake’s head, full of suffering and distress, with more drawbacks.
Ta đã nói các dục ví như bộ xương… Ta đã nói các dục ví như miếng thịt… Ta đã nói các dục ví như bó đuốc cỏ… Ta đã nói các dục ví như hố than hồng… Ta đã nói các dục ví như giấc mộng… Ta đã nói các dục ví như vật vay mượn… Ta đã nói các dục ví như trái cây trên cây… Ta đã nói các dục ví như lò mổ… Ta đã nói các dục ví như cây giáo nhọn… Ta đã nói các dục ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Atha ca pana tvaṃ, moghapurisa, attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhasi, attānañca khanasi, bahuñca apuññaṃ pasavasi.
Yet you, foolish man, by your own wrongly grasped view, both slander us and dig your own grave, and produce much demerit.
Thế mà, này kẻ ngu si, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, Hiền giả đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện.
Tañhi te, moghapurisa, bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
That, you foolish man, will be for your harm and suffering for a long time.’’
Điều ấy, này kẻ ngu si, sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho Hiền giả trong một thời gian dài.”
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo usmīkatopi imasmiṃ dhammavinaye’’ti?
Then the Blessed One addressed the bhikkhus: ‘‘What do you think, bhikkhus, has this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-slayers, even a spark of understanding in this Dhamma and Discipline?’’
Rồi Thế Tôn hỏi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, có phải là người đã đạt được chút ít hơi ấm của trí tuệ trong Giáo Pháp và Giới Luật này không?”
‘‘Kiñhi* siyā, bhante; no hetaṃ, bhante’’ti.
‘‘How could he, venerable sir? No, venerable sir.’’
“Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được? Không thể được, bạch Thế Tôn.”
Evaṃ vutte, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
When this was said, the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, sat silent, abashed, with shoulders drooping, downcast, pondering, and without a ready answer.
Khi được nói như vậy, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, trở nên im lặng, bối rối, cúi gằm mặt, trầm tư, không thể đối đáp.
Atha kho bhagavā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā ariṭṭhaṃ bhikkhuṃ gaddhabādhipubbaṃ etadavoca – ‘‘paññāyissasi kho tvaṃ, moghapurisa, etena sakena pāpakena diṭṭhigatena.
Then the Blessed One, knowing that the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, was silent, abashed, with shoulders drooping, downcast, pondering, and without a ready answer, said to the bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan: “You, foolish man, will make yourself known by this evil wrong view of yours.
Rồi Thế Tôn, khi thấy Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền, im lặng, bối rối, cúi gằm mặt, trầm tư, không thể đối đáp, liền nói với Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền: “Này kẻ ngu si, Hiền giả sẽ tự bộc lộ với tà kiến xấu xa này của chính mình.
Idhāhaṃ bhikkhū paṭipucchissāmī’’ti.
Here, I shall question the bhikkhus.”
Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỳ-khưu.”
237. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘tumhepi me, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha yathāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṃ pasavatī’’ti?
Then the Blessed One addressed the bhikkhus: “Do you too, bhikkhus, understand the Dhamma taught by me in such a way that this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, by his own wrongly grasped view, both slanders us, undermines himself, and produces much demerit?”
237. Rồi Thế Tôn hỏi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, các ông có hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng theo cách mà Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện không?”
‘‘No hetaṃ, bhante.
“No, Venerable Sir.
“Bạch Thế Tôn, không phải vậy.
Anekapariyāyena hi no, bhante, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā; alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Indeed, Venerable Sir, the obstructive phenomena have been declared by the Blessed One to be obstructive in many ways; and they are sufficient to cause obstruction to one who indulges in them.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách; và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be of little satisfaction, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Thế Tôn đã nói các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’ti.
Sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be like a skeleton…pe… sensual pleasures have been declared by the Blessed One to be like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.”
Thế Tôn đã nói các dục ví như bộ xương… cho đến… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.”
‘‘Sādhu sādhu, bhikkhave, sādhu, kho me tumhe, bhikkhave, evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānātha.
“Good, good, bhikkhus! Indeed, bhikkhus, you understand the Dhamma taught by me in such a way.
“Lành thay, lành thay, này các Tỳ-khưu! Này các Tỳ-khưu, các ông đã hiểu Giáo Pháp do Ta thuyết giảng như vậy thật là tốt.
Anekapariyāyena hi kho, bhikkhave, antarāyikā dhammā vuttā mayā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Indeed, bhikkhus, the obstructive phenomena have been declared by me in many ways; and they are sufficient to cause obstruction to one who indulges in them.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nói rằng những pháp chướng ngại là chướng ngại bằng nhiều phương cách, và chúng đủ sức gây chướng ngại cho người thực hành chúng.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by me to be of little satisfaction, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Ta đã nói các dục là ít vị ngọt, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā…pe… sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Sensual pleasures have been declared by me to be like a skeleton…pe… sensual pleasures have been declared by me to be like a snake’s head, full of suffering, full of vexation, with more danger therein.
Ta đã nói các dục ví như bộ xương… cho đến… ví như đầu rắn, nhiều khổ đau, nhiều phiền não, và hiểm họa thì nhiều hơn.
Atha ca panāyaṃ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṃ pasavati.
Yet, this bhikkhu Ariṭṭha, formerly of the Vulture-killer clan, by his own wrongly grasped view, both slanders us, undermines himself, and produces much demerit.
Thế mà, Tỳ-khưu Ariṭṭha, người từng là kẻ giết kền kền này, với sự chấp giữ sai lầm của chính mình, đã phỉ báng Ta, tự hủy hoại mình, và tạo ra nhiều điều bất thiện.
Tañhi tassa moghapurisassa bhavissati dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.
That will indeed be for the harm and suffering of that foolish man for a long time.
Điều ấy sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho kẻ ngu si ấy trong một thời gian dài.
So vata, bhikkhave, aññatreva kāmehi aññatra kāmasaññāya aññatra kāmavitakkehi kāme paṭisevissatīti – netaṃ ṭhānaṃ vijjati’’.
It is impossible, bhikkhus, that he would indulge in sensual pleasures apart from sensual objects, apart from sensual perceptions, apart from sensual thoughts.”
Này các Tỳ-khưu, việc kẻ ấy thực hành các dục mà không có các dục, không có dục tưởng, không có dục tầm – điều đó là không thể xảy ra.”
238. ‘‘Idha, bhikkhave, ekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
“Here, bhikkhus, some foolish men learn the Dhamma – Sutta, Geyya, Veyyākaraṇa, Gāthā, Udāna, Itivuttaka, Jātaka, Abbhutadhamma, Vedalla.
238. “Này các Tỳ-khưu, ở đây, một số kẻ ngu si học thuộc Giáo Pháp – kinh (sutta), kệ (geyya), giải thích (veyyākaraṇa), thi kệ (gāthā), cảm hứng ngữ (udāna), Phật thuyết như vậy (itivuttaka), bổn sanh (jātaka), pháp hy hữu (abbhutadhamma), vấn đáp (vedalla).
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they do not examine the meaning of those teachings with wisdom.
Sau khi học thuộc Giáo Pháp ấy, họ không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti.
To them, those teachings, not having been examined for their meaning with wisdom, do not lead to deep understanding.
Đối với những người không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ, các pháp ấy không phù hợp để được quán triệt bằng sự suy tư sâu sắc (nijjhāna).
Te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They learn the Dhamma for the sake of finding fault and for the sake of escaping debate.
Họ học thuộc Giáo Pháp chỉ với mục đích chỉ trích người khác và với mục đích thoát khỏi những tranh luận.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ nānubhonti.
They do not experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Họ không thể đạt được mục đích mà vì đó họ học thuộc Giáo Pháp.
Tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti.
Those teachings, being wrongly grasped, lead to their harm and suffering for a long time.
Những pháp ấy, khi được chấp giữ sai lầm, sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho họ trong một thời gian dài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Duggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ.
Because the teachings are wrongly grasped, bhikkhus.
Vì sự chấp giữ sai lầm các pháp, này các Tỳ-khưu.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
“Just as, bhikkhus, a man in need of a snake, seeking a snake, searching for a snake,
“Ví như, này các Tỳ-khưu, một người muốn bắt rắn, đi tìm rắn, đi săn rắn.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ.
might see a large snake.
Người ấy thấy một con rắn lớn.
Tamenaṃ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya.
He might grasp it by its coils or by its tail.
Người ấy bắt nó ở thân hoặc ở đuôi.
Tassa so alagaddo paṭiparivattitvā* hatthe vā bāhāya vā aññatarasmiṃ vā aṅgapaccaṅge ḍaṃseyya* .
That snake, twisting back, might bite him on his hand, or arm, or any other limb.
Con rắn ấy sẽ quay lại cắn vào tay, vào cánh tay, hoặc vào bất kỳ bộ phận nào khác của người ấy.
So tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.
Due to that, he might come to death or suffering like unto death.
Do đó, người ấy có thể chết hoặc chịu khổ đau gần chết.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Because the snake was wrongly grasped, bhikkhus.
Vì sự chấp giữ sai lầm con rắn, này các Tỳ-khưu.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
In the same way, bhikkhus, some foolish men here learn the Dhamma – Sutta, Geyya, Veyyākaraṇa, Gāthā, Udāna, Itivuttaka, Jātaka, Abbhutadhamma, Vedalla.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, một số kẻ ngu si học thuộc Giáo Pháp – kinh (sutta), kệ (geyya), giải thích (veyyākaraṇa), thi kệ (gāthā), cảm hứng ngữ (udāna), Phật thuyết như vậy (itivuttaka), bổn sanh (jātaka), pháp hy hữu (abbhutadhamma), vấn đáp (vedalla).
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ na upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they do not examine the meaning of those teachings with wisdom.
Sau khi học thuộc Giáo Pháp ấy, họ không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ anupaparikkhataṃ na nijjhānaṃ khamanti.
To them, those teachings, not having been examined for their meaning with wisdom, do not lead to deep understanding.
Đối với những người không quán xét ý nghĩa của các pháp ấy bằng trí tuệ, các pháp ấy không phù hợp để được quán triệt bằng sự suy tư sâu sắc (nijjhāna).
Te upārambhānisaṃsā ceva dhammaṃ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They learn the Dhamma for the sake of blaming (others) and for the sake of refuting (other's) views.
Họ học Pháp với mục đích chỉ trích và để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ nānubhonti.
And they do not experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ không đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā duggahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being wrongly grasped, conduce to their harm and suffering for a long time.
Những Pháp ấy, khi bị nắm giữ sai lầm, dẫn đến bất lợi và đau khổ lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Duggahitattā bhikkhave dhammānaṃ.
Because the teachings are wrongly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã bị nắm giữ sai lầm.
239. ‘‘Idha pana, bhikkhave, ekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
239. “Here, bhikkhus, some young men of good family learn the Dhamma—sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhutadhamma, vedalla.
Này các Tỳ-khưu, ở đây có một số thiện gia nam tử học Pháp—Kinh (Sutta), Kệ tụng (Geyya), Giải thích (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như vậy đã nói (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutadhamma), Vedaḷḷa.
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they examine its meaning with wisdom.
Sau khi học Pháp ấy, họ dùng trí tuệ để quán sát ý nghĩa của những Pháp ấy.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ upaparikkhataṃ nijjhānaṃ khamanti.
As they examine the meaning of those teachings with wisdom, they gain insight.
Khi họ dùng trí tuệ quán sát ý nghĩa, những Pháp ấy trở nên rõ ràng đối với họ qua sự quán chiếu.
Te na ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti na itivādappamokkhānisaṃsā ca* .
They do not learn the Dhamma for the sake of blaming (others), nor for the sake of refuting (other's) views.
Họ không học Pháp với mục đích chỉ trích, cũng không phải để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṃ anubhonti.
They experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being rightly grasped, conduce to their welfare and happiness for a long time.
Những Pháp ấy, khi được nắm giữ đúng đắn, dẫn đến lợi ích và an lạc lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā bhikkhave dhammānaṃ.
Because the teachings are rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã được nắm giữ đúng đắn.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṃ caramāno.
“Suppose, bhikkhus, a man desirous of a water-snake, seeking a water-snake, searching for a water-snake,
Này các Tỳ-khưu, ví như một người cần rắn, tìm rắn, đi tìm rắn.
So passeyya mahantaṃ alagaddaṃ.
should see a large water-snake.
Người ấy thấy một con rắn lớn.
Tamenaṃ ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ niggaṇheyya.
He would grasp it firmly with a goat’s-foot stick.
Người ấy sẽ nắm giữ nó một cách chắc chắn bằng một cây gậy có hình chân dê.
Ajapadena daṇḍena suniggahitaṃ niggahitvā, gīvāya suggahitaṃ gaṇheyya.
Having grasped it firmly with a goat’s-foot stick, he would grasp it rightly by the neck.
Sau khi nắm giữ chắc chắn bằng cây gậy có hình chân dê, người ấy sẽ nắm giữ nó một cách chắc chắn ở cổ.
Kiñcāpi so, bhikkhave, alagaddo tassa purisassa hatthaṃ vā bāhaṃ vā aññataraṃ vā aṅgapaccaṅgaṃ bhogehi paliveṭheyya, atha kho so neva tatonidānaṃ maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ.
Even if that water-snake, bhikkhus, should coil itself around that man’s hand or arm or any other limb, he would not on that account incur death or deadly suffering.
Này các Tỳ-khưu, dù con rắn ấy có quấn quanh tay, cánh tay hay bất kỳ bộ phận nào khác của người ấy bằng thân mình, thì người ấy cũng không vì thế mà gặp cái chết hay đau khổ gần kề cái chết.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Because the water-snake was rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì con rắn đã được nắm giữ đúng đắn.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce kulaputtā dhammaṃ pariyāpuṇanti – suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallaṃ.
Even so, bhikkhus, here some young men of good family learn the Dhamma—sutta, geyya, veyyākaraṇa, gāthā, udāna, itivuttaka, jātaka, abbhutadhamma, vedalla.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây có một số thiện gia nam tử học Pháp—Kinh (Sutta), Kệ tụng (Geyya), Giải thích (Veyyākaraṇa), Kệ ngôn (Gāthā), Cảm hứng ngữ (Udāna), Như vậy đã nói (Itivuttaka), Bổn sanh (Jātaka), Vị tằng hữu pháp (Abbhutadhamma), Vedaḷḷa.
Te taṃ dhammaṃ pariyāpuṇitvā tesaṃ dhammānaṃ paññāya atthaṃ upaparikkhanti.
Having learned that Dhamma, they examine its meaning with wisdom.
Sau khi học Pháp ấy, họ dùng trí tuệ để quán sát ý nghĩa của những Pháp ấy.
Tesaṃ te dhammā paññāya atthaṃ upaparikkhataṃ nijjhānaṃ khamanti.
As they examine the meaning of those teachings with wisdom, they gain insight.
Khi họ dùng trí tuệ quán sát ý nghĩa, những Pháp ấy trở nên rõ ràng đối với họ qua sự quán chiếu.
Te na ceva upārambhānisaṃsā dhammaṃ pariyāpuṇanti, na itivādappamokkhānisaṃsā ca.
They do not learn the Dhamma for the sake of blaming (others), nor for the sake of refuting (other's) views.
Họ không học Pháp với mục đích chỉ trích, cũng không phải để thoát khỏi những lời tranh cãi.
Yassa catthāya dhammaṃ pariyāpuṇanti, tañcassa atthaṃ anubhonti.
They experience the purpose for which they learn the Dhamma.
Và mục đích mà họ học Pháp, họ đạt được mục đích ấy.
Tesaṃ te dhammā suggahitā dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya saṃvattanti.
For them, those teachings, being rightly grasped, conduce to their benefit, welfare, and happiness for a long time.
Những Pháp ấy, khi được nắm giữ đúng đắn, dẫn đến lợi ích, an lạc và hạnh phúc lâu dài cho họ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason is that?
Vì lý do gì?
Suggahitattā, bhikkhave, dhammānaṃ.
Because the teachings are rightly grasped, bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, vì Pháp đã được nắm giữ đúng đắn.
Tasmātiha, bhikkhave, yassa me bhāsitassa atthaṃ ājāneyyātha, tathā naṃ dhāreyyātha.
Therefore, bhikkhus, whatsoever meaning of my discourse you comprehend, you should bear it in mind accordingly.
Do đó, này các Tỳ-khưu, ý nghĩa của lời ta đã nói mà các ngươi hiểu rõ, hãy ghi nhớ như vậy.
Yassa ca pana me bhāsitassa atthaṃ na ājāneyyātha, ahaṃ vo tattha paṭipucchitabbo, ye vā panāssu viyattā bhikkhū.
And whatsoever meaning of my discourse you do not comprehend, you should question me about it, or those bhikkhus who are experienced.”
Còn ý nghĩa của lời ta đã nói mà các ngươi không hiểu rõ, thì các ngươi phải hỏi lại ta, hoặc những Tỳ-khưu nào là bậc thông hiểu.
240. ‘‘Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desessāmi nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya.
240. “I will teach you the Dhamma, bhikkhus, by means of a raft simile, for crossing over, not for grasping.
Này các Tỳ-khưu, ta sẽ thuyết Pháp cho các ngươi, ví như chiếc bè, để vượt qua, không phải để nắm giữ.
Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmī’’ti.
Listen to it, pay careful attention, I will speak.”
Hãy lắng nghe điều đó, hãy chú tâm kỹ lưỡng, ta sẽ nói.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
“Yes, venerable sir,” those bhikkhus replied to the Bhagavā.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỳ-khưu ấy đáp lời Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca – ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, puriso addhānamaggappaṭipanno.
The Bhagavā said this: “Suppose, bhikkhus, a man embarked on a long journey.
Thế Tôn đã nói điều này: “Này các Tỳ-khưu, ví như một người đang đi trên một con đường dài.
So passeyya mahantaṃ udakaṇṇavaṃ, orimaṃ tīraṃ sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ; na cassa nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya.
He would see a great expanse of water, with the near shore perilous and fearful, and the far shore safe and free from fear; but there would be no boat for crossing or bridge to get from this side to the other.
Người ấy thấy một vùng nước mênh mông, bờ bên này đầy nguy hiểm và sợ hãi, bờ bên kia an toàn và không sợ hãi; nhưng không có thuyền để vượt qua hay cầu để đi từ bờ này sang bờ kia.
Tassa evamassa – ‘ayaṃ kho mahāudakaṇṇavo, orimaṃ tīraṃ sāsaṅkaṃ sappaṭibhayaṃ, pārimaṃ tīraṃ khemaṃ appaṭibhayaṃ; natthi ca nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṃ gamanāya.
Then it would occur to him: ‘This is indeed a great expanse of water, with the near shore perilous and fearful, and the far shore safe and free from fear; but there is no boat for crossing or bridge to get from this side to the other.
Người ấy nghĩ: ‘Đây là một vùng nước mênh mông, bờ bên này đầy nguy hiểm và sợ hãi, bờ bên kia an toàn và không sợ hãi; không có thuyền để vượt qua hay cầu để đi từ bờ này sang bờ kia.
Yaṃnūnāhaṃ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā, taṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyya’nti.
What if I were to gather grass, wood, branches, and foliage, and having bound them into a raft, and relying on that raft, striving with my hands and feet, cross over safely to the far shore?’
Vậy ta hãy gom cỏ, củi, cành cây và lá cây, kết thành một chiếc bè, rồi nương vào chiếc bè ấy, dùng tay và chân mà cố gắng vượt qua một cách an toàn.’
Atha kho so, bhikkhave, puriso tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ saṃkaḍḍhitvā, kullaṃ bandhitvā taṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttareyya.
Then, bhikkhus, that man would gather grass, wood, branches, and foliage, and having bound them into a raft, and relying on that raft, striving with his hands and feet, he would cross over safely to the far shore.
Rồi người ấy, này các Tỳ-khưu, gom cỏ, củi, cành cây và lá cây, kết thành một chiếc bè, rồi nương vào chiếc bè ấy, dùng tay và chân mà cố gắng vượt qua một cách an toàn.
Tassa purisassa uttiṇṇassa* pāraṅgatassa evamassa – ‘bahukāro kho me ayaṃ kullo; imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttiṇṇo.
Having crossed over and reached the far shore, it would occur to that man: ‘This raft has been very helpful to me; relying on this raft, striving with my hands and feet, I have crossed over safely to the far shore.
Khi người ấy đã vượt qua, đã đến bờ bên kia, người ấy nghĩ: ‘Chiếc bè này đã giúp ta rất nhiều; nhờ nương vào chiếc bè này, dùng tay và chân mà cố gắng, ta đã vượt qua một cách an toàn.
Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ sīse vā āropetvā khandhe vā uccāretvā* yena kāmaṃ pakkameyya’nti.
What if I were to carry this raft on my head or hoist it onto my shoulder and go wherever I wished?’
Vậy ta hãy vác chiếc bè này lên đầu hoặc trên vai rồi đi đến bất cứ nơi nào ta muốn.’
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu so puriso evaṃkārī tasmiṃ kulle kiccakārī assā’’ti?
What do you think, bhikkhus, would that man, by doing so, be doing what is proper with regard to that raft?”
Các ngươi nghĩ sao, này các Tỳ-khưu, liệu người ấy làm như vậy có phải là đã làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, venerable sir.”
“Không phải vậy, bạch Thế Tôn.”
‘‘Kathaṃkārī ca so, bhikkhave, puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa?
“How then, bhikkhus, would that man be doing what is proper with regard to that raft?
“Vậy thì, này các Tỳ-khưu, người ấy phải làm thế nào mới là làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy?
Idha, bhikkhave, tassa purisassa uttiṇṇassa pāraṅgatassa evamassa – ‘bahukāro kho me ayaṃ kullo; imāhaṃ kullaṃ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṃ uttiṇṇo.
Here, bhikkhus, having crossed over and reached the far shore, it would occur to that man: ‘This raft has been very helpful to me; relying on this raft, striving with my hands and feet, I have crossed over safely to the far shore.
Này các Tỳ-khưu, khi người ấy đã vượt qua, đã đến bờ bên kia, người ấy nghĩ: ‘Chiếc bè này đã giúp ta rất nhiều; nhờ nương vào chiếc bè này, dùng tay và chân mà cố gắng, ta đã vượt qua một cách an toàn.
Yaṃnūnāhaṃ imaṃ kullaṃ thale vā ussādetvā* udake vā opilāpetvā yena kāmaṃ pakkameyya’nti.
What if I were to put this raft on dry land or let it sink in the water and go wherever I wished?’
Vậy ta hãy đặt chiếc bè này lên bờ hoặc thả xuống nước rồi đi đến bất cứ nơi nào ta muốn.’
Evaṃkārī kho so, bhikkhave, puriso tasmiṃ kulle kiccakārī assa.
That is how, bhikkhus, that man would be doing what is proper with regard to that raft.
Này các Tỳ-khưu, làm như vậy người ấy mới là làm đúng bổn phận đối với chiếc bè ấy.
Evameva kho, bhikkhave, kullūpamo mayā dhammo desito nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya.
In the same way, bhikkhus, the Dhamma has been taught by me by means of a raft simile, for crossing over, not for grasping.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Pháp do ta thuyết giảng ví như chiếc bè, để vượt qua, không phải để nắm giữ.
Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desitaṃ, ājānantehi dhammāpi vo pahātabbā pageva adhammā.
Since the Dhamma has been taught by me by means of a raft simile, bhikkhus, you who understand this should abandon even the teachings, how much more so what is not Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, khi Pháp đã được ta thuyết giảng ví như chiếc bè, thì các ngươi, những người đã hiểu, phải từ bỏ cả Pháp huống chi là phi Pháp.
241. ‘‘Chayimāni, bhikkhave, diṭṭhiṭṭhānāni.
241. “There are, bhikkhus, these six bases of views.
Này các Tỳ-khưu, có sáu quan điểm.
Katamāni cha?
Which six?
Sáu điều ấy là gì?
Idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto, rūpaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; vedanaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; saññaṃ ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; saṅkhāre ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā tampi ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ – so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti – tampi ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati.
Here, bhikkhus, an uninstructed ordinary person, who is not skilled in the Dhamma of the noble ones, who is not disciplined in the Dhamma of the noble ones, who is not skilled in the Dhamma of the true men, who is not disciplined in the Dhamma of the true men, regards rūpa as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards vedanā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards saññā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; he regards saṅkhārā as ‘This is mine, this I am, this is my self’; and whatsoever is seen, heard, sensed, cognized, attained, searched for, and pondered upon by the mind, that too he regards as ‘This is mine, this I am, this is my self’; and whatsoever is a basis of views—‘This world, this self; after death, I shall become permanent, stable, eternal, not subject to change; I shall remain forever just as I am’—that too he regards as ‘This is mine, this I am, this is my self’.”
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một phàm phu vô văn, không thấy các bậc Thánh, không thông thạo Pháp của các bậc Thánh, không được huấn luyện trong Pháp của các bậc Thánh; không thấy các bậc chân nhân, không thông thạo Pháp của các bậc chân nhân, không được huấn luyện trong Pháp của các bậc chân nhân, quán sát sắc (rūpa) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát thọ (vedanā) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát tưởng (saññā) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; quán sát hành (saṅkhāra) là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; và bất cứ điều gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, được đạt được, được tìm kiếm, được ý nghĩ đi theo, điều đó cũng được quán sát là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’; và bất cứ quan điểm nào—thế giới là tự ngã, ta sẽ tồn tại sau khi chết, thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy—điều đó cũng được quán sát là ‘cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
Sutavā ca kho, bhikkhave, ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto, rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; vedanaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; saññaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; saṅkhāre ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ, anuvicaritaṃ manasā, tampi ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati; yampi taṃ diṭṭhiṭṭhānaṃ – so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmīti – tampi ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
And, bhikkhus, a well-taught noble disciple—one who has seen the noble ones, skilled in the Dhamma of the noble ones, well-trained in the Dhamma of the noble ones; one who has seen the true persons, skilled in the Dhamma of the true persons, well-trained in the Dhamma of the true persons—he regards form thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards feeling thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards perception thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; he regards mental formations thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; and whatever is seen, heard, sensed, cognized, attained, sought, and pondered by the mind, that too he regards thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’; and whatever view there is—‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity’—that too he regards thus: ‘This is not mine, I am not this, this is not my self’.
Này các Tỳ-khưu, một vị Thánh đệ tử có nghe, thấy các bậc Thánh, thông thạo Thánh Pháp, được huấn luyện tốt trong Thánh Pháp; thấy các bậc Chân nhân, thông thạo Pháp của Chân nhân, được huấn luyện tốt trong Pháp của Chân nhân, quán sát sắc (rūpa) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát thọ (vedanā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát tưởng (saññā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; quán sát hành (saṅkhārā) rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; và bất cứ điều gì đã được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, được đạt đến, được tìm kiếm, được ý thức quán sát, điều đó cũng được quán sát rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’; và bất cứ quan điểm nào cho rằng: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy’, điều đó cũng được quán sát rằng: ‘Cái này không phải của ta, ta không phải là cái này, cái này không phải tự ngã của ta’.
So evaṃ samanupassanto asati na paritassatī’’ti.
When he thus regards, he does not tremble at non-existence.”
Khi quán sát như vậy, vị ấy không lo sợ khi không có gì.”
242. Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘siyā nu kho, bhante, bahiddhā asati paritassanā’’ti?
242. When this was said, a certain bhikkhu asked the Blessed One, “Might there be, Venerable Sir, trembling at external non-existence?”
242. Khi được nói như vậy, một Tỳ-khưu hỏi Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, có thể có sự lo sợ khi không có gì bên ngoài chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha bhikkhu ekaccassa evaṃ hoti – ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi; siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī’ti.
“Here, bhikkhu, it occurs to someone: ‘Indeed, I had something, but indeed, I do not have that; indeed, I might have something, but indeed, I do not obtain that.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người nghĩ rằng: ‘Ôi, cái đó đã từng là của ta, nhưng bây giờ cái đó không còn; ôi, cái đó có thể là của ta, nhưng bây giờ ta không có được cái đó.’
So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati.
So he grieves, laments, weeps, beats his breast, and falls into bewilderment.
Người ấy buồn rầu, khổ não, than khóc, đấm ngực, khóc lóc, rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati paritassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is trembling at external non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự lo sợ khi không có gì bên ngoài.”
‘‘Siyā pana, bhante, bahiddhā asati aparitassanā’’ti?
“But might there be, Venerable Sir, non-trembling at external non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, vậy có thể có sự không lo sợ khi không có gì bên ngoài chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha bhikkhu ekaccassa na evaṃ hoti – ‘ahu vata me, taṃ vata me natthi; siyā vata me, taṃ vatāhaṃ na labhāmī’ti.
“Here, bhikkhu, it does not occur to someone: ‘Indeed, I had something, but indeed, I do not have that; indeed, I might have something, but indeed, I do not obtain that.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người không nghĩ rằng: ‘Ôi, cái đó đã từng là của ta, nhưng bây giờ cái đó không còn; ôi, cái đó có thể là của ta, nhưng bây giờ ta không có được cái đó.’
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati.
So he does not grieve, does not lament, does not weep, does not beat his breast, and does not fall into bewilderment.
Người ấy không buồn rầu, không khổ não, không than khóc, không đấm ngực, không khóc lóc, không rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, bahiddhā asati aparitassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is non-trembling at external non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự không lo sợ khi không có gì bên ngoài.”
‘‘Siyā nu kho, bhante, ajjhattaṃ asati paritassanā’’ti?
“Might there be, Venerable Sir, trembling at internal non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, có thể có sự lo sợ khi không có gì bên trong chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti – bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha, bhikkhu, ekaccassa evaṃ diṭṭhi hoti – ‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmī’ti.
“Here, bhikkhu, for someone, there is such a view: ‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người có quan điểm như sau: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.’
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṃ desentassa.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the uprooting of all positions of views, assumptions, obsessions, attachments, and underlying tendencies; for the calming of all formations; for the relinquishment of all acquisitions; for the destruction of craving; for dispassion; for cessation; for Nibbāna.
Người ấy nghe Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai thuyết Pháp về sự diệt trừ tất cả các quan điểm, các chấp trước, các phiền não tiềm ẩn, các khuynh hướng cố hữu; về sự làm lắng dịu tất cả các hành (saṅkhārā); về sự từ bỏ tất cả các chấp thủ (upadhi); về sự đoạn tận tham ái (taṇhā); về sự ly tham (virāga); về sự đoạn diệt (nirodha); về Niết Bàn (Nibbāna).
Tassa evaṃ hoti – ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Then it occurs to him: ‘Alas, I shall be annihilated! Alas, I shall perish! Alas, I shall no longer exist!’
Người ấy nghĩ rằng: ‘Chắc ta sẽ bị đoạn diệt, chắc ta sẽ bị tiêu hoại, chắc ta sẽ không còn tồn tại nữa.’
So socati kilamati paridevati urattāḷiṃ kandati sammohaṃ āpajjati.
So he grieves, laments, weeps, beats his breast, and falls into bewilderment.
Người ấy buồn rầu, khổ não, than khóc, đấm ngực, khóc lóc, rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati paritassanā hotī’’ti.
It is in this way, bhikkhu, that there is trembling at internal non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự lo sợ khi không có gì bên trong.”
‘‘Siyā pana, bhante, ajjhattaṃ asati aparitassanā’’ti?
“But might there be, Venerable Sir, non-trembling at internal non-existence?”
“Bạch Thế Tôn, vậy có thể có sự không lo sợ khi không có gì bên trong chăng?”
‘‘Siyā, bhikkhū’’ti bhagavā avoca.
“There might be, bhikkhu,” the Blessed One said.
“Có, này Tỳ-khưu,” Thế Tôn đáp.
‘‘Idha, bhikkhu, ekaccassa na evaṃ diṭṭhi hoti – ‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva ṭhassāmī’ti.
“Here, bhikkhu, for someone, there is not such a view: ‘This world is the self, after death I shall be permanent, stable, eternal, not subject to change, I shall remain the same for eternity.’
“Ở đây, này Tỳ-khưu, có người không có quan điểm như sau: ‘Thế giới là tự ngã, sau khi chết ta sẽ tồn tại, thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, ta sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.’
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṃ diṭṭhiṭṭhānādhiṭṭhānapariyuṭṭhānābhinivesānusayānaṃ samugghātāya sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṃ desentassa.
He hears the Tathāgata or a disciple of the Tathāgata teaching the Dhamma for the uprooting of all positions of views, assumptions, obsessions, attachments, and underlying tendencies; for the calming of all formations; for the relinquishment of all acquisitions; for the destruction of craving; for dispassion; for cessation; for Nibbāna.
Người ấy nghe Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai thuyết Pháp về sự diệt trừ tất cả các quan điểm, các chấp trước, các phiền não tiềm ẩn, các khuynh hướng cố hữu; về sự làm lắng dịu tất cả các hành (saṅkhārā); về sự từ bỏ tất cả các chấp thủ (upadhi); về sự đoạn tận tham ái (taṇhā); về sự ly tham (virāga); về sự đoạn diệt (nirodha); về Niết Bàn (Nibbāna).
Tassa na evaṃ hoti – ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Then it does not occur to him: ‘Alas, I shall be annihilated! Alas, I shall perish! Alas, I shall no longer exist!’
Người ấy không nghĩ rằng: ‘Chắc ta sẽ bị đoạn diệt, chắc ta sẽ bị tiêu hoại, chắc ta sẽ không còn tồn tại nữa.’
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṃ kandati na sammohaṃ āpajjati.
So he does not grieve, does not lament, does not weep, does not beat his breast, and does not fall into bewilderment.
Người ấy không buồn rầu, không khổ não, không than khóc, không đấm ngực, không khóc lóc, không rơi vào trạng thái mê loạn.
Evaṃ kho, bhikkhu, ajjhattaṃ asati aparitassanā hoti’’.
It is in this way, bhikkhu, that there is non-trembling at internal non-existence.”
Như vậy, này Tỳ-khưu, có sự không lo sợ khi không có gì bên trong.”
243. ‘‘Taṃ* , bhikkhave, pariggahaṃ pariggaṇheyyātha, yvāssa* pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya.
243. “Bhikkhus, would you seize any acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity?
243. “Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nắm giữ sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ pariggahaṃ yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyyā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, pariggahaṃ na samanupassāmi yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva tiṭṭheyya.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such acquisition that is permanent, stable, eternal, not subject to change, and would remain the same for eternity.
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy sự chấp thủ nào mà sự chấp thủ ấy là thường còn, vững chắc, vĩnh cửu, không biến đổi, và sẽ tồn tại mãi mãi như vậy.”
‘‘Taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ upādiyetha, yaṃsa* attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
“Bhikkhus, would you cling to any clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?
“Này các Tỳ-khưu, các ông hãy chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã (attavādupādāna) nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ attavādupādānaṃ yaṃsa attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy sự chấp thủ về tự ngã nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, attavādupādānaṃ na samanupassāmi yaṃsa attavādupādānaṃ upādiyato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such clinging to a doctrine of self, clinging to which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise.
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy sự chấp thủ về tự ngã nào mà khi chấp thủ sự chấp thủ về tự ngã ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.”
‘‘Taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ nissayetha yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā.
“Bhikkhus, would you rely on any view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?
“Này các Tỳ-khưu, các ông hãy nương tựa vào quan điểm (diṭṭhinissaya) nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṃ diṭṭhinissayaṃ yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’ti?
Do you, bhikkhus, see any such view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise?”
Này các Tỳ-khưu, các ông có thấy quan điểm nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh không?”
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, Venerable Sir.”
“Bạch Thế Tôn, không có.”
‘‘Sādhu, bhikkhave.
“Good, bhikkhus.
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu.
Ahampi kho taṃ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṃ na samanupassāmi yaṃsa diṭṭhinissayaṃ nissayato na uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā’’.
Indeed, I too, bhikkhus, do not perceive any such view-basis, relying on which, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair would not arise.”
Này các Tỳ-khưu, ta cũng không thấy quan điểm nào mà khi nương tựa vào quan điểm ấy, các sự sầu bi, khổ ưu, não không phát sinh.”
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ rūpaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti – evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ.
“Therefore, bhikkhus, any kind of form whatsoever—past, future, or present; internal or external; gross or subtle; inferior or superior; far or near—all form should be seen as it actually is with right wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’
“Do đó, này các Tỳ-khưu, bất cứ sắc nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao thượng, xa hay gần, tất cả sắc ấy phải được quán chiếu bằng chánh trí như thật rằng: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Yā kāci vedanā…pe… yā kāci saññā… ye keci saṅkhārā… yaṃ kiñci viññāṇaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ, ajjhattaṃ vā bahiddhā vā, oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vā, hīnaṃ vā paṇītaṃ vā, yaṃ dūre santike vā, sabbaṃ viññāṇaṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti – evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ’’.
Any kind of feeling… any kind of perception… any kind of volitional formations… any kind of consciousness whatsoever—past, future, or present; internal or external; gross or subtle; inferior or superior; far or near—all consciousness should be seen as it actually is with right wisdom thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’”
Bất cứ thọ nào… (tương tự)… bất cứ tưởng nào… bất cứ hành nào… bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô hay tế, thấp kém hay cao thượng, xa hay gần, tất cả thức ấy phải được quán chiếu bằng chánh trí như thật rằng: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.”
245. ‘‘Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmiṃ nibbindati, vedanāya nibbindati, saññāya nibbindati, saṅkhāresu nibbindati, viññāṇasmiṃ nibbindati, nibbidā virajjati* , virāgā vimuccati, vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
245. “Seeing thus, bhikkhus, a well-taught noble disciple becomes disenchanted with form, becomes disenchanted with feeling, becomes disenchanted with perception, becomes disenchanted with volitional formations, becomes disenchanted with consciousness. Being disenchanted, he becomes dispassionate; through dispassion, he is liberated. When liberated, there is the knowledge: ‘Liberated.’
245. “Này các Tỳ-khưu, khi thấy như vậy, vị đệ tử Thánh đã nghe pháp sẽ nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, nhàm chán tưởng, nhàm chán các hành, nhàm chán thức. Do nhàm chán mà ly tham, do ly tham mà được giải thoát. Khi được giải thoát, vị ấy có trí tuệ rằng: ‘Ta đã được giải thoát’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more for this state of being.’
Vị ấy biết: ‘Sự sinh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn tái sinh vào trạng thái này nữa’.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho itipi, saṃkiṇṇaparikkho itipi, abbūḷhesiko itipi, niraggaḷo itipi, ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto itipi.
This bhikkhu, bhikkhus, is called ‘one who has lifted the crossbar,’ ‘one whose moat is filled in,’ ‘one who has pulled out the pillar,’ ‘one who has no bolts,’ ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound.’”
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu này được gọi là người đã nhổ chốt cửa, người đã lấp hố hào, người đã rút cọc nhọn, người đã mở khóa, người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly.”
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti?
“And how, bhikkhus, is a bhikkhu ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound’?
“Và này các Tỳ-khưu, làm thế nào một Tỳ-khưu là người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly?
Idha, bhikkhave, bhikkhuno asmimāno pahīno hoti, ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato, āyatiṃ anuppādadhammo.
Here, bhikkhus, a bhikkhu’s conceit of ‘I am’ is abandoned, uprooted, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, ngã mạn của Tỳ-khưu đã được đoạn trừ, đã bị cắt đứt tận gốc rễ, đã trở thành như gốc cây thốt nốt, đã bị làm cho không còn tồn tại, không còn khả năng sinh khởi trong tương lai.
Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti.
Thus, bhikkhus, a bhikkhu is ‘a noble one with flag laid low, with burden laid down, unbound.’
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu là người cao thượng đã hạ cờ, đã trút gánh nặng, đã thoát ly là như vậy.”
246. ‘‘Evaṃ vimuttacittaṃ kho, bhikkhave, bhikkhuṃ saindā devā sabrahmakā sapajāpatikā anvesaṃ nādhigacchanti – ‘idaṃ nissitaṃ tathāgatassa viññāṇa’nti.
246. “A bhikkhu whose mind is thus liberated, bhikkhus, is not found by the devas, together with Indra, together with Brahmā, together with Pajāpati, when they seek: ‘Where is the Tathāgata’s consciousness established?’
246. “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có tâm giải thoát như vậy, chư thiên cùng với Indra, cùng với Brahmā, cùng với Pajāpati tìm kiếm cũng không tìm thấy – ‘Thức của Như Lai nương tựa vào đâu’.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Diṭṭhevāhaṃ, bhikkhave, dhamme tathāgataṃ ananuvijjoti vadāmi.
I declare, bhikkhus, that the Tathāgata is untraceable even in this very life.
Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng Như Lai không thể được truy tìm ngay trong đời này.
Evaṃvādiṃ kho maṃ, bhikkhave, evamakkhāyiṃ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti – ‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetī’ti.
Yet, bhikkhus, there are some ascetics and brahmins who falsely, vainly, untruly, and incorrectly accuse me who speaks and declares thus: ‘The ascetic Gotama is one who destroys; he teaches the annihilation, destruction, and disappearance of an existent being.’
Này các Tỳ-khưu, có một số Sa-môn, Bà-la-môn đã vu khống, phỉ báng Ta bằng những lời không có thật, trống rỗng, sai lầm, vô căn cứ rằng: ‘Sa-môn Gotama là người đoạn diệt, Ngài tuyên bố sự đoạn diệt, sự tiêu vong, sự không còn tồn tại của hữu tình’.
Yathā cāhaṃ na, bhikkhave* , yathā cāhaṃ na vadāmi, tathā maṃ te bhonto samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti – ‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṃ vināsaṃ vibhavaṃ paññāpetī’ti.
Bhikkhus, just as I do not speak, just as I do not declare, so do those venerables, ascetics and brahmins, falsely, vainly, untruly, and incorrectly accuse me: ‘The ascetic Gotama is one who destroys; he teaches the annihilation, destruction, and disappearance of an existent being.’
Này các Tỳ-khưu, Ta không nói như vậy, nhưng những Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính ấy lại vu khống, phỉ báng Ta bằng những lời không có thật, trống rỗng, sai lầm, vô căn cứ rằng: ‘Sa-môn Gotama là người đoạn diệt, Ngài tuyên bố sự đoạn diệt, sự tiêu vong, sự không còn tồn tại của hữu tình’.
Pubbe cāhaṃ bhikkhave, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi, dukkhassa ca nirodhaṃ.
Formerly, bhikkhus, and now, I teach only suffering and the cessation of suffering.
Này các Tỳ-khưu, trước đây cũng như bây giờ, Ta chỉ tuyên bố về khổ và sự diệt khổ.
Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṃ akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi.
Therein, bhikkhus, if others revile, abuse, offend, or harass the Tathāgata, there is no resentment, no discontent, no displeasure in the Tathāgata’s mind.
Này các Tỳ-khưu, nếu người khác mắng nhiếc, phỉ báng, tức giận, quấy nhiễu Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai không có sự tức giận, không có sự bất mãn, không có sự không hoan hỷ trong tâm.”
‘‘Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṃ sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti ānando na somanassaṃ na cetaso uppilāvitattaṃ.
“Therein, bhikkhus, if others honor, respect, esteem, or venerate the Tathāgata, there is no delight, no joy, no elation in the Tathāgata’s mind.
“Này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai không có sự hoan hỷ, không có sự hài lòng, không có sự phấn khởi trong tâm.
Tatra ce, bhikkhave, pare vā tathāgataṃ sakkaronti garuṃ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa evaṃ hoti – ‘yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ tattha me evarūpā kārā* karīyantī’ti.
Therein, bhikkhus, if others honor, respect, esteem, or venerate the Tathāgata, this thought occurs to the Tathāgata: ‘That which was formerly understood, concerning that, such services are being rendered to me.’
Này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường Như Lai, thì lúc đó, này các Tỳ-khưu, Như Lai nghĩ rằng: ‘Những sự tôn kính như vậy đang được thực hiện đối với những gì Ta đã hiểu biết từ trước’.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare akkoseyyuṃ paribhāseyyuṃ roseyyuṃ viheseyyuṃ, tatra tumhe hi na āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi karaṇīyā.
Therefore, bhikkhus, if others should revile, abuse, offend, or harass you, you should not harbor resentment, discontent, or displeasure in your minds.
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác mắng nhiếc, phỉ báng, tức giận, quấy nhiễu các ông, thì lúc đó, các ông không nên có sự tức giận, không có sự bất mãn, không có sự không hoan hỷ trong tâm.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra tumhehi na ānando na somanassaṃ na cetaso uppilāvitattaṃ karaṇīyaṃ.
Therefore, bhikkhus, if others should honor, respect, esteem, or venerate you, you should not harbor delight, joy, or elation in your minds.
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường các ông, thì lúc đó, các ông không nên có sự hoan hỷ, không có sự hài lòng, không có sự phấn khởi trong tâm.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṃ garuṃ kareyyuṃ māneyyuṃ pūjeyyuṃ, tatra tumhākaṃ evamassa – ‘yaṃ kho idaṃ pubbe pariññātaṃ, tattha me* evarūpā kārā karīyantī’ti.
Therefore, bhikkhus, if others should honor, respect, esteem, or venerate you, this thought should occur to you: ‘That which was formerly understood, concerning that, such services are being rendered to me.’
Do đó, này các Tỳ-khưu, nếu người khác tôn kính, trọng vọng, cung kính, cúng dường các ông, thì lúc đó, các ông nên nghĩ rằng: ‘Những sự tôn kính như vậy đang được thực hiện đối với những gì chúng ta đã hiểu biết từ trước’.
247. ‘‘Tasmātiha, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
247. “Therefore, bhikkhus, abandon that which is not yours; your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
247. “Do đó, này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông?
Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Form, bhikkhus, is not yours; abandon it. Your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
Sắc, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Vedanā, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Feeling, bhikkhus, is not yours; abandon it. Your abandoning of it will be for your long-term welfare and happiness.
Thọ, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.”
Saññā, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; sā vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Perception, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, tưởng không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Saṅkhārā, bhikkhave, na tumhākaṃ, te pajahatha; te vo pahīnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissanti.
Formations, bhikkhus, are not yours; abandon them. Those, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, các hành không phải của các ông, hãy từ bỏ chúng; khi chúng được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Consciousness, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, thức không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, yaṃ imasmiṃ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṃ, taṃ jano hareyya vā daheyya vā yathāpaccayaṃ vā kareyya.
What do you think, bhikkhus? If people were to carry away, burn, or do with as they please, the grass, sticks, branches, and leaves in this Jeta Grove—
Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao về cỏ, củi, cành, lá trong khu rừng Jeta này, nếu người ta mang đi, hoặc đốt cháy, hoặc làm những gì tùy theo nhu cầu?
Api nu tumhākaṃ evamassa – ‘amhe jano harati vā dahati vā yathāpaccayaṃ vā karotī’ti?
would you think: ‘People are carrying us away, burning us, or doing with us as they please’?
Há các ông có nghĩ rằng: ‘Người ta mang chúng tôi đi, hoặc đốt cháy chúng tôi, hoặc làm những gì tùy theo nhu cầu’ ư?
‘‘No hetaṃ, bhante’’.
“No, venerable sir.”
“Không phải vậy, bạch Thế Tôn.”
‘‘Taṃ kissa hetu’’?
“For what reason?”
“Vì lý do gì?”
‘‘Na hi no etaṃ, bhante, attā vā attaniyaṃ vā’’ti.
“Because, venerable sir, that is neither our self nor belonging to our self.”
“Bạch Thế Tôn, vì những thứ đó không phải là tự ngã của chúng con, cũng không phải là sở hữu của tự ngã chúng con.”
‘‘Evameva kho, bhikkhave, yaṃ na tumhākaṃ taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
“In the same way, bhikkhus, that which is not yours, abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
“Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, cái gì không phải của các ông thì hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṃ?
And what, bhikkhus, is not yours?
Và cái gì, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông?
Rūpaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Form, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Này các Tỳ-khưu, sắc không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
Vedanā, bhikkhave…pe… saññā, bhikkhave… saṅkhārā, bhikkhave…pe… viññāṇaṃ, bhikkhave, na tumhākaṃ, taṃ pajahatha; taṃ vo pahīnaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissati.
Feeling, bhikkhus… Perception, bhikkhus… Formations, bhikkhus… Consciousness, bhikkhus, is not yours; abandon it. That, being abandoned by you, will be for your long-term welfare and happiness.
Thọ, này các Tỳ-khưu… (tương tự)… Tưởng, này các Tỳ-khưu… Các hành, này các Tỳ-khưu… (tương tự)… Thức, này các Tỳ-khưu, không phải của các ông, hãy từ bỏ nó; khi nó được từ bỏ, điều đó sẽ đưa đến lợi ích và an lạc lâu dài cho các ông.
248. ‘‘Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
248. “Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
248. “Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṃyojanā sammadaññā vimuttā, vaṭṭaṃ tesaṃ natthi paññāpanāya.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus who are Arahants, whose taints are destroyed, who have lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained their own goal, whose fetters of existence are utterly destroyed, who are rightly liberated through perfect knowledge—for them there is no designation regarding future existence.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào là bậc A-la-hán, đã diệt trừ các lậu hoặc, đã hoàn thành đời sống Phạm hạnh, đã làm những gì cần làm, đã đặt xuống gánh nặng, đã đạt được mục đích tối thượng của mình, đã đoạn trừ các kiết sử hữu, đã giải thoát hoàn toàn nhờ chánh trí, thì không còn sự quy định nào cho họ trong vòng luân hồi.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni, sabbe te opapātikā, tattha parinibbāyino, anāvattidhammā tasmā lokā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the five lower fetters are abandoned are all spontaneously reborn, there they attain final Nibbāna, never to return from that world.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, tất cả họ đều là bậc hóa sanh, sẽ nhập Niết-bàn tại đó, không còn trở lại thế giới ấy nữa.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi saṃyojanāni pahīnāni, rāgadosamohā tanubhūtā, sabbe te sakadāgāmino, sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karissanti.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the three fetters are abandoned, and whose lust, hatred, and delusion are attenuated, are all once-returners; they will return to this world just once and make an end of suffering.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ ba kiết sử, tham, sân, si đã trở nên mỏng manh, tất cả họ đều là bậc Nhất Lai, chỉ một lần nữa trở lại thế giới này rồi sẽ chấm dứt khổ đau.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ bhikkhūnaṃ tīṇi saṃyojanāni pahīnāni, sabbe te sotāpannā, avinipātadhammā, niyatā sambodhiparāyanā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus for whom the three fetters are abandoned are all stream-enterers, no longer subject to downfall, certain of liberation, with enlightenment as their destination.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào đã đoạn trừ ba kiết sử, tất cả họ đều là bậc Nhập Lưu, không còn rơi vào các cõi đọa, chắc chắn sẽ đạt đến giác ngộ.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū dhammānusārino saddhānusārino sabbe te sambodhiparāyanā.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those bhikkhus who are Dhamma-followers and faith-followers all have enlightenment as their destination.
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những Tỳ-khưu nào là bậc tùy pháp hành, tùy tín hành, tất cả họ đều sẽ đạt đến giác ngộ.
Evaṃ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Thus, bhikkhus, has the Dhamma been well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away.
Này các Tỳ-khưu, Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách.
Evaṃ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṃ mayi saddhāmattaṃ pemamattaṃ sabbe te saggaparāyanā’’ti.
When the Dhamma has been thus well-proclaimed by me, clear, open, revealed, with the old cloth cut away, those in whom there is merely faith in me, merely affection for me, all have heaven as their destination.”
Này các Tỳ-khưu, khi Giáo Pháp đã được Ta thuyết giảng rõ ràng, minh bạch, được công bố, không còn vướng mắc như áo cũ rách, thì những ai có chút niềm tin nơi Ta, chút lòng yêu mến, tất cả họ đều sẽ sanh về cõi trời.”
‘‘Bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko* rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati.
‘‘Monk, monk, this anthill smokes by night and blazes by day.
“Này Tỳ-khưu, này Tỳ-khưu, cái ụ mối này ban đêm bốc khói, ban ngày bốc lửa.
Brāhmaṇo evamāha – ‘abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa laṅgiṃ ‘laṅgī, bhadante’ti.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a bolt. ‘A bolt, venerable sir,’ he said.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một cái chốt. ‘Bạch ngài, một cái chốt’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa laṅgiṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the bolt; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ cái chốt; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa uddhumāyikaṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a bloated carcass.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một cái phồng lên.
‘Uddhumāyikā, bhadante’ti.
‘A bloated carcass, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một cái phồng lên’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa uddhumāyikaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the bloated carcass; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ cái phồng lên; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa dvidhāpathaṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a crossroads.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một ngã hai đường.
‘Dvidhāpatho, bhadante’ti.
‘A crossroads, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một ngã hai đường’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa dvidhāpathaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the crossroads; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ ngã hai đường; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa caṅgavāraṃ* .
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a sieve.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một cái rổ rác.
‘Caṅgavāro, bhadante’ti.
‘A sieve, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một cái rổ rác’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa caṅgavāraṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the sieve; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ cái rổ rác; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa kummaṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a tortoise.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một con rùa.
‘Kummo, bhadante’ti.
‘A tortoise, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một con rùa’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa kummaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the tortoise; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ con rùa; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa asisūnaṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a butcher’s knife.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một lò mổ dao.
‘Asisūnā, bhadante’ti.
‘A butcher’s knife, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một lò mổ dao’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa asisūnaṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the butcher’s knife; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ lò mổ dao; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa maṃsapesiṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a lump of flesh.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một miếng thịt.
‘Maṃsapesi, bhadante’ti.
‘A lump of flesh, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một miếng thịt’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘ukkhipa maṃsapesiṃ; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin says thus: ‘Remove the lump of flesh; dig, Sumedha, taking a weapon.’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy nhổ miếng thịt; hãy đào, này Sumedha, cầm lấy con dao’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya addasa nāgaṃ.
Digging, Sumedha, taking a weapon, saw a Nāga.
Khi Sumedha đào, cầm lấy con dao, thấy một con Nāga.
‘Nāgo, bhadante’ti.
‘A Nāga, venerable sir,’ he said.
‘Bạch ngài, một con Nāga’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘tiṭṭhatu nāgo, mā nāgaṃ ghaṭṭesi; namo karohi nāgassā’’’ti.
The brahmin says thus: ‘Let the Nāga remain, do not disturb the Nāga; pay homage to the Nāga.’’
Vị Bà-la-môn nói rằng: ‘Hãy để con Nāga ở yên đó, đừng quấy rầy con Nāga; hãy đảnh lễ con Nāga’.”
‘‘Ime kho tvaṃ, bhikkhu, pañhe bhagavantaṃ upasaṅkamitvā puccheyyāsi, yathā ca te bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāsi.
‘‘Monk, you should approach the Blessed One and ask him these questions; and you should remember how the Blessed One explains them.
“Này Tỳ-khưu, ông hãy đến hỏi Thế Tôn về những câu hỏi này, và hãy ghi nhớ những gì Thế Tôn giải thích.
Nāhaṃ taṃ, bhikkhu, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo imesaṃ pañhānaṃ veyyākaraṇena cittaṃ ārādheyya aññatra tathāgatena vā, tathāgatasāvakena vā, ito vā pana sutvā’’ti – idamavoca sā devatā.
I do not see anyone, monk, in the world with its deities, Māras, and Brahmās, among the generation of ascetics and brahmins, deities and humans, who could satisfy the mind with an explanation of these questions, apart from the Tathāgata, or a disciple of the Tathāgata, or one who has heard it from them’’ – this is what that deity said.
Này Tỳ-khưu, Ta không thấy ai trong thế giới này cùng với chư thiên, Māra, Phạm thiên, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, cùng với loài người và chư thiên, có thể làm cho tâm Ta hoan hỷ bằng cách giải thích những câu hỏi này, ngoại trừ Như Lai, hoặc đệ tử của Như Lai, hoặc người đã nghe từ những vị ấy.” – Vị thiên nhân ấy đã nói lời này.
Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.
Having said this, she vanished right there.
Nói xong lời ấy, vị ấy liền biến mất tại chỗ.
250. Atha kho āyasmā kumārakassapo tassā rattiyā accayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
250. Then, indeed, Venerable Kumārakassapa, after the passing of that night, approached the Blessed One; having approached the Blessed One, having respectfully saluted him, he sat down to one side.
250. Rồi Tôn giả Kumārakassapa, sau đêm đó, đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā kumārakassapo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘imaṃ, bhante, rattiṃ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ andhavanaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Indeed, Venerable Kumārakassapa, seated to one side, said this to the Blessed One: ‘‘Venerable sir, this night, a certain deity, when the night was far advanced, of surpassing beauty, illuminating the entire Andhavana, approached me; having approached, she stood to one side.
Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Kumārakassapa bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, đêm nay, một vị thiên nhân với dung sắc thù thắng, chiếu sáng toàn bộ khu rừng Andhavana khi đêm đã khuya, đã đến chỗ con; sau khi đến, vị ấy đứng sang một bên.
Ekamantaṃ ṭhitā kho, bhante, sā devatā maṃ etadavoca – ‘bhikkhu bhikkhu, ayaṃ vammiko rattiṃ dhūmāyati, divā pajjalati’.
Indeed, Venerable sir, that deity, standing to one side, said this to me: ‘Monk, monk, this anthill smokes by night, blazes by day.’
Bạch Thế Tôn, sau khi đứng sang một bên, vị thiên nhân ấy nói với con rằng: ‘Này Tỳ-kheo, này Tỳ-kheo, ụ mối này đêm thì bốc khói, ngày thì bừng cháy’.
Brāhmaṇo evamāha – ‘abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyā’ti.
The brahmin said thus: ‘Dig, wise one, taking a weapon.’
Bà-la-môn nói như vầy: ‘Này Sumedha, hãy thường xuyên cầm vũ khí lên mà đào’.
Abhikkhaṇanto sumedho satthaṃ ādāya…pe… ito vā pana sutvāti.
The wise one, taking a weapon, dug… and so on… or having heard this.
Sumedha cầm vũ khí lên mà đào… (tức là) đã nghe từ nơi đây hoặc từ nơi khác.
Idamavoca, bhante, sā devatā.
This, Venerable sir, that deity said.
Bạch Thế Tôn, vị thiên nhân ấy đã nói điều này.
Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.
Having said this, she vanished right there.
Nói điều này xong, vị ấy biến mất ngay tại đó.
‘Ko nu kho, bhante, vammiko, kā rattiṃ dhūmāyanā, kā divā pajjalanā, ko brāhmaṇo, ko sumedho, kiṃ satthaṃ, kiṃ abhikkhaṇaṃ, kā laṅgī, kā uddhumāyikā, ko dvidhāpatho, kiṃ caṅgavāraṃ, ko kummo, kā asisūnā, kā maṃsapesi, ko nāgo’’’ti?
‘What, Venerable sir, is the anthill? What is the smoking by night? What is the blazing by day? Who is the brahmin? Who is the wise one? What is the weapon? What is the digging? What is the cross-bar? What is the puffing frog? What is the two-way path? What is the sieve? What is the tortoise? What is the butcher’s block? What is the piece of meat? Who is the nāga?’’’
Bạch Thế Tôn, ụ mối là gì, sự bốc khói vào ban đêm là gì, sự bừng cháy vào ban ngày là gì, Bà-la-môn là ai, Sumedha là ai, vũ khí là gì, sự thường xuyên đào là gì, cái chốt cửa là gì, con ếch phồng là gì, con đường hai ngả là gì, cái lọc nước là gì, con rùa là gì, lò mổ dao là gì, miếng thịt là gì, con rồng là ai?”
‘‘‘Asisūnā’ti kho, bhikkhu, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ – cakkhuviññeyyānaṃ rūpānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ rajanīyānaṃ, sotaviññeyyānaṃ saddānaṃ…pe… ghānaviññeyyānaṃ gandhānaṃ…pe… jivhāviññeyyānaṃ rasānaṃ…pe… kāyaviññeyyānaṃ phoṭṭhabbānaṃ iṭṭhānaṃ kantānaṃ manāpānaṃ piyarūpānaṃ kāmūpasaṃhitānaṃ rajanīyānaṃ.
‘‘‘Butcher’s block,’ monk, is a term for the five strands of sensual pleasure: forms cognizable by the eye that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, connected with sensual desire, and stimulating; sounds cognizable by the ear… and so on… smells cognizable by the nose… and so on… tastes cognizable by the tongue… and so on… tangible objects cognizable by the body that are desirable, agreeable, pleasing, lovely, connected with sensual desire, and stimulating.
Này Tỳ-kheo, ‘lò mổ dao’ là tên gọi của năm dục lạc: các sắc được nhận biết bằng mắt, là những thứ khả ái, dễ chịu, đáng yêu, có hình tướng đẹp, liên quan đến dục, và gây say mê; các tiếng được nhận biết bằng tai… (tương tự)… các mùi được nhận biết bằng mũi… (tương tự)… các vị được nhận biết bằng lưỡi… (tương tự)… các xúc chạm được nhận biết bằng thân, là những thứ khả ái, dễ chịu, đáng yêu, có hình tướng đẹp, liên quan đến dục, và gây say mê.
Ukkhipa asisūnaṃ, pajaha pañca kāmaguṇe; abhikkhaṇa, sumedha, satthaṃ ādāyāti ayametassa attho.
Lift up the butcher’s block, abandon the five strands of sensual pleasure; dig, wise one, taking a weapon: this is its meaning.
Hãy nhổ lò mổ dao lên, hãy từ bỏ năm dục lạc; này Sumedha, hãy thường xuyên cầm vũ khí lên mà đào – đó là ý nghĩa của điều này.
‘‘Ko nu kho, bhikkhave, jātibhūmiyaṃ jātibhūmakānaṃ bhikkhūnaṃ sabrahmacārīnaṃ evaṃ sambhāvito – ‘attanā ca appiccho appicchakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca santuṭṭho santuṭṭhikathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca pavivitto pavivekakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca asaṃsaṭṭho asaṃsaggakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca āraddhavīriyo vīriyārambhakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca sīlasampanno sīlasampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca samādhisampanno samādhisampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca paññāsampanno paññāsampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca vimuttisampanno vimuttisampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca vimuttiñāṇadassanasampanno vimuttiñāṇadassanasampadākathañca bhikkhūnaṃ kattā, ovādako viññāpako sandassako samādapako samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīna’’’nti?
‘‘Which one of the bhikkhus from Jātibhūmi, my companions in the holy life, is thus esteemed: ‘He is himself of few wishes and speaks to bhikkhus about having few wishes; he is himself content and speaks to bhikkhus about contentment; he is himself secluded and speaks to bhikkhus about seclusion; he is himself unentangled and speaks to bhikkhus about unentanglement; he is himself resolute in energy and speaks to bhikkhus about arousing energy; he is himself endowed with sīla and speaks to bhikkhus about the accomplishment of sīla; he is himself endowed with samādhi and speaks to bhikkhus about the accomplishment of samādhi; he is himself endowed with paññā and speaks to bhikkhus about the accomplishment of paññā; he is himself endowed with liberation and speaks to bhikkhus about the accomplishment of liberation; he is himself endowed with the knowledge and vision of liberation and speaks to bhikkhus about the accomplishment of the knowledge and vision of liberation, an instructor, an explainer, a pointer, an engager, an arouser, an encourager of his companions in the holy life’?”
“Này các Tỳ-kheo, trong số các Tỳ-kheo cùng phạm hạnh từ Jātibhūmi, ai được kính trọng như vầy: ‘Tự mình ít dục và là người nói về sự ít dục cho các Tỳ-kheo, tự mình biết đủ và là người nói về sự biết đủ cho các Tỳ-kheo, tự mình sống viễn ly và là người nói về sự viễn ly cho các Tỳ-kheo, tự mình không giao du và là người nói về sự không giao du cho các Tỳ-kheo, tự mình tinh tấn và là người nói về sự tinh tấn cho các Tỳ-kheo, tự mình đầy đủ giới hạnh và là người nói về sự đầy đủ giới hạnh cho các Tỳ-kheo, tự mình đầy đủ định và là người nói về sự đầy đủ định cho các Tỳ-kheo, tự mình đầy đủ tuệ và là người nói về sự đầy đủ tuệ cho các Tỳ-kheo, tự mình đầy đủ giải thoát và là người nói về sự đầy đủ giải thoát cho các Tỳ-kheo, tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến và là người nói về sự đầy đủ giải thoát tri kiến cho các Tỳ-kheo, là người khuyên răn, chỉ dạy, hướng dẫn, khuyến khích, khích lệ, làm cho hoan hỷ cho các bạn đồng phạm hạnh’?”
‘‘Puṇṇo nāma, bhante, āyasmā mantāṇiputto jātibhūmiyaṃ jātibhūmakānaṃ bhikkhūnaṃ sabrahmacārīnaṃ evaṃ sambhāvito – ‘attanā ca appiccho appicchakathañca bhikkhūnaṃ kattā, attanā ca santuṭṭho…pe… ovādako viññāpako sandassako samādapako samuttejako sampahaṃsako sabrahmacārīna’’’nti.
‘‘Venerable sir, Venerable Puṇṇa Mantāṇiputta is thus esteemed among the bhikkhus from Jātibhūmi, our companions in the holy life: ‘He is himself of few wishes and speaks to bhikkhus about having few wishes; he is himself content… and so on… an instructor, an explainer, a pointer, an engager, an arouser, an encourager of his companions in the holy life.’’’
“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Puṇṇa, con của Mantaṇī, trong số các Tỳ-kheo cùng phạm hạnh từ Jātibhūmi, được kính trọng như vầy: ‘Tự mình ít dục và là người nói về sự ít dục cho các Tỳ-kheo, tự mình biết đủ… (tương tự)… là người khuyên răn, chỉ dạy, hướng dẫn, khuyến khích, khích lệ, làm cho hoan hỷ cho các bạn đồng phạm hạnh’.”
255. Atha kho āyasmā puṇṇo mantāṇiputto senāsanaṃ saṃsāmetvā pattacīvaramādāya yena sāvatthi tena cārikaṃ pakkāmi.
255. Then the Venerable Puṇṇa Mantāṇīputta, having put his dwelling in order, taking his bowl and robe, set out on tour towards Sāvatthī.
255. Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta sửa soạn chỗ ở, mang y bát, và du hành đến Sāvatthī.
Anupubbena cārikaṃ caramāno yena sāvatthi jetavanaṃ anāthapiṇḍikassa ārāmo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Touring by stages, he approached Sāvatthī, Jeta's Grove, Anāthapiṇḍika's Park, where the Blessed One was; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Du hành tuần tự, vị ấy đã đến Sāvatthī, khu vườn Jetavana của Anāthapiṇḍika, và đến chỗ Đức Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ puṇṇaṃ mantāṇiputtaṃ bhagavā dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.
The Blessed One then instructed, urged, inspired, and gladdened the Venerable Puṇṇa Mantāṇīputta, who was seated to one side, with a Dhamma talk.
Khi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta ngồi xuống một bên, Đức Thế Tôn đã khai thị, sách tấn, khích lệ và làm cho vị ấy hoan hỷ bằng bài pháp.
Atha kho āyasmā puṇṇo mantāṇiputto bhagavatā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya.
Then the Venerable Puṇṇa Mantāṇīputta, having been instructed, urged, inspired, and gladdened by the Blessed One with a Dhamma talk, having rejoiced in and approved of the Blessed One's words, rose from his seat, paid homage to the Blessed One, circumambulated him respectfully, and went to Andhavana for his day-residence.
Rồi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta, sau khi được Đức Thế Tôn khai thị, sách tấn, khích lệ và làm cho hoan hỷ bằng bài pháp, đã hoan hỷ và tùy hỷ lời dạy của Đức Thế Tôn, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Thế Tôn, đi nhiễu hữu rồi đi đến Andhavana để an trú ban ngày.
‘‘‘Kiṃ nu kho, āvuso, sīlavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’ti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
"When asked, 'Is the holy life, friend, lived under the Blessed One for the purification of moral conduct?' you say, 'No, friend.'
“Khi được hỏi: ‘Này Hiền giả, có phải chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn vì sự thanh tịnh của giới không?’, Hiền giả trả lời: ‘Không phải vậy, thưa Hiền giả.’
‘Kiṃ panāvuso, cittavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’ti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
When asked, 'Then, friend, is the holy life lived under the Blessed One for the purification of mind?' you say, 'No, friend.'
Khi được hỏi: ‘Vậy này Hiền giả, có phải chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn vì sự thanh tịnh của tâm không?’, Hiền giả trả lời: ‘Không phải vậy, thưa Hiền giả.’
‘Kiṃ nu kho, āvuso, diṭṭhivisuddhatthaṃ…pe… kaṅkhāvitaraṇavisuddhatthaṃ…pe… maggāmaggañāṇadassanavisuddhatthaṃ…pe… paṭipadāñāṇadassanavisuddhatthaṃ…pe… kiṃ nu kho, āvuso, ñāṇadassanavisuddhatthaṃ bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’ti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ āvuso’ti vadesi.
When asked, 'Is the holy life, friend, lived under the Blessed One for the purification of views?... for the purification through overcoming doubt?... for the purification of knowledge and vision of what is path and not path?... for the purification of knowledge and vision of the way?... Is the holy life, friend, lived under the Blessed One for the purification of knowledge and vision?' you say, 'No, friend.'
Khi được hỏi: ‘Này Hiền giả, có phải chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn vì sự thanh tịnh của kiến không?… vì sự thanh tịnh của sự vượt qua nghi ngờ không?… vì sự thanh tịnh của tri kiến về đạo và phi đạo không?… vì sự thanh tịnh của tri kiến về con đường thực hành không?… Này Hiền giả, có phải chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn vì sự thanh tịnh của tri kiến không?’, Hiền giả trả lời: ‘Không phải vậy, thưa Hiền giả.’
Kimatthaṃ carahāvuso, bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’’ti?
For what purpose then, friend, is the holy life lived under the Blessed One?"
Vậy này Hiền giả, vì mục đích gì mà chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn?”
‘‘Anupādāparinibbānatthaṃ kho, āvuso, bhagavati brahmacariyaṃ vussatī’’ti.
"The holy life, friend, is lived under the Blessed One for unattached Nibbāna (anupādāparinibbāna)," he replied.
“Này Hiền giả, chúng ta thực hành Phạm hạnh trong Đức Thế Tôn vì mục đích Niết Bàn không chấp thủ (anupādāparinibbāna).”
‘‘‘Kiṃ nu kho, āvuso, sīlavisuddhi anupādāparinibbāna’nti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
"When asked, 'Is the purification of moral conduct, friend, unattached Nibbāna?' you say, 'No, friend.'
“Khi được hỏi: ‘Này Hiền giả, có phải sự thanh tịnh của giới chính là Niết Bàn không chấp thủ không?’, Hiền giả trả lời: ‘Không phải vậy, thưa Hiền giả.’
‘Kiṃ panāvuso, cittavisuddhi anupādāparinibbāna’nti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
When asked, 'Then, friend, is the purification of mind unattached Nibbāna?' you say, 'No, friend.'
Khi được hỏi: ‘Vậy này Hiền giả, có phải sự thanh tịnh của tâm chính là Niết Bàn không chấp thủ không?’, Hiền giả trả lời: ‘Không phải vậy, thưa Hiền giả.’
‘Kiṃ nu kho, āvuso, diṭṭhivisuddhi anupādāparinibbāna’nti…pe… kaṅkhāvitaraṇavisuddhi… maggāmaggañāṇadassanavisuddhi… paṭipadāñāṇadassanavisuddhi… ‘kiṃ nu kho, āvuso, ñāṇadassanavisuddhi anupādāparinibbāna’nti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
‘Is purity of view, friend, Nibbāna without clinging?’ …‘Is purity by overcoming doubt, friend, Nibbāna without clinging?’… ‘Is purity of knowledge and vision of the path and what is not the path, friend, Nibbāna without clinging?’… ‘Is purity of knowledge and vision of the way, friend, Nibbāna without clinging?’… ‘Is purity of knowledge and vision, friend, Nibbāna without clinging?’ – when asked thus, you say, ‘No, friend.’
‘Này hiền giả, phải chăng kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn?’... (tương tự với) hoài nghi vượt thoát tịnh... đạo phi đạo tri kiến tịnh... đạo lộ tri kiến tịnh... ‘Này hiền giả, phải chăng tri kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn?’ Khi được hỏi như vậy, ông đáp: ‘Không phải vậy đâu, này hiền giả.’
‘Kiṃ panāvuso, aññatra imehi dhammehi anupādāparinibbāna’nti iti puṭṭho samāno ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.
‘Is Nibbāna without clinging, friend, apart from these qualities?’ – when asked thus, you say, ‘No, friend.’
‘Này hiền giả, phải chăng vô thủ Niết Bàn là cái khác ngoài những pháp này?’ Khi được hỏi như vậy, ông đáp: ‘Không phải vậy đâu, này hiền giả.’
Yathākathaṃ panāvuso, imassa bhāsitassa attho daṭṭhabbo’’ti?
So how, friend, should the meaning of this statement be understood?”
‘Vậy thì, này hiền giả, ý nghĩa của lời nói này phải được hiểu như thế nào?’
258. ‘‘Sīlavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya* .
258. “If, friend, the Blessed One were to declare purity of virtue as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
258. ‘‘Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ. (tương tự với các trường hợp khác)
Cittavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity of mind as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Diṭṭhivisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity of view as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Kaṅkhāvitaraṇavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity by overcoming doubt as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố hoài nghi vượt thoát tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Maggāmaggañāṇadassanavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity of knowledge and vision of the path and what is not the path as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Paṭipadāñāṇadassanavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity of knowledge and vision of the way as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo lộ tri kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Ñāṇadassanavisuddhiṃ ce, āvuso, bhagavā anupādāparinibbānaṃ paññapeyya, saupādānaṃyeva samānaṃ anupādāparinibbānaṃ paññapeyya.
If, friend, the Blessed One were to declare purity of knowledge and vision as Nibbāna without clinging, he would declare as Nibbāna without clinging that which is with clinging.
Này hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến tịnh là vô thủ Niết Bàn, Ngài sẽ tuyên bố vô thủ Niết Bàn là cái vẫn còn chấp thủ.
Aññatra ce, āvuso, imehi dhammehi anupādāparinibbānaṃ abhavissa, puthujjano parinibbāyeyya.
And if, friend, Nibbāna without clinging were to exist apart from these qualities, then a worldling would attain Nibbāna.
Này hiền giả, nếu vô thủ Niết Bàn có thể có ngoài những pháp này, thì phàm phu cũng sẽ đạt Niết Bàn.
Puthujjano hi, āvuso, aññatra imehi dhammehi.
But, friend, a worldling is apart from these qualities.
Vì, này hiền giả, phàm phu là người ở ngoài những pháp này.
Tena hāvuso, upamaṃ te karissāmi; upamāyapidhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Therefore, friend, I shall make a simile for you; for by a simile some discerning people understand the meaning of what is said.
Vậy thì, này hiền giả, tôi sẽ đưa ra một ví dụ cho ông; đôi khi, những người có trí hiểu được ý nghĩa của lời nói qua ví dụ.
259. ‘‘Seyyathāpi, āvuso, rañño pasenadissa kosalassa sāvatthiyaṃ paṭivasantassa sākete kiñcideva accāyikaṃ karaṇīyaṃ uppajjeyya.
259. “Just as, friend, if King Pasenadi of Kosala, while residing in Sāvatthī, had some urgent business arise in Sāketa.
259. ‘‘Này hiền giả, ví như vua Pasenadi của xứ Kosala, khi đang ở Sāvatthī, có một việc khẩn cấp cần làm ở Sāketa.
Tassa antarā ca sāvatthiṃ antarā ca sāketaṃ satta rathavinītāni upaṭṭhapeyyuṃ.
For him, seven relay-carriages would be stationed between Sāvatthī and Sāketa.
Giữa Sāvatthī và Sāketa, người ta sắp đặt bảy cỗ xe đã được huấn luyện.
Atha kho, āvuso, rājā pasenadi kosalo sāvatthiyā nikkhamitvā antepuradvārā paṭhamaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya, paṭhamena rathavinītena dutiyaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, paṭhamaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya dutiyaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
Then, friend, King Pasenadi of Kosala, departing from Sāvatthī, would mount the first relay-carriage at the palace gate; by the first relay-carriage he would reach the second relay-carriage, he would dismiss the first relay-carriage and mount the second relay-carriage.
Rồi, này hiền giả, vua Pasenadi của xứ Kosala rời Sāvatthī, từ cửa nội cung lên cỗ xe đầu tiên; với cỗ xe đầu tiên, vua đến cỗ xe thứ hai; vua bỏ cỗ xe đầu tiên, lên cỗ xe thứ hai.
Dutiyena rathavinītena tatiyaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, dutiyaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya, tatiyaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
By the second relay-carriage he would reach the third relay-carriage, he would dismiss the second relay-carriage and mount the third relay-carriage.
Với cỗ xe thứ hai, vua đến cỗ xe thứ ba; vua bỏ cỗ xe thứ hai, lên cỗ xe thứ ba.
Tatiyena rathavinītena catutthaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, tatiyaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya, catutthaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
By the third relay-carriage he would reach the fourth relay-carriage, he would dismiss the third relay-carriage and mount the fourth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ ba, vua đến cỗ xe thứ tư; vua bỏ cỗ xe thứ ba, lên cỗ xe thứ tư.
Catutthena rathavinītena pañcamaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, catutthaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya, pañcamaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
By the fourth relay-carriage he would reach the fifth relay-carriage, he would dismiss the fourth relay-carriage and mount the fifth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ tư, vua đến cỗ xe thứ năm; vua bỏ cỗ xe thứ tư, lên cỗ xe thứ năm.
Pañcamena rathavinītena chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, pañcamaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya, chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
By the fifth relay-carriage he would reach the sixth relay-carriage, he would dismiss the fifth relay-carriage and mount the sixth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ năm, vua đến cỗ xe thứ sáu; vua bỏ cỗ xe thứ năm, lên cỗ xe thứ sáu.
Chaṭṭhena rathavinītena sattamaṃ rathavinītaṃ pāpuṇeyya, chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ vissajjeyya, sattamaṃ rathavinītaṃ abhiruheyya.
By the sixth relay-carriage he would reach the seventh relay-carriage, he would dismiss the sixth relay-carriage and mount the seventh relay-carriage.
Với cỗ xe thứ sáu, vua đến cỗ xe thứ bảy; vua bỏ cỗ xe thứ sáu, lên cỗ xe thứ bảy.
Sattamena rathavinītena sāketaṃ anupāpuṇeyya antepuradvāraṃ.
By the seventh relay-carriage he would reach Sāketa, to the palace gate.
Với cỗ xe thứ bảy, vua đến Sāketa, ngay cửa nội cung.
Tamenaṃ antepuradvāragataṃ samānaṃ mittāmaccā ñātisālohitā evaṃ puccheyyuṃ – ‘iminā tvaṃ, mahārāja, rathavinītena sāvatthiyā sāketaṃ anuppatto antepuradvāra’nti?
His friends, ministers, relatives, and kinsmen would ask him, upon his arrival at the palace gate, thus: ‘By this very relay-carriage, great king, have you arrived at the palace gate in Sāketa from Sāvatthī?’
Khi vua đã đến cửa nội cung, bạn bè, quan lại, bà con thân thuộc hỏi vua rằng: ‘Bạch đại vương, ngài đã đến Sāketa từ Sāvatthī bằng cỗ xe này, ngay cửa nội cung phải không?’
Kathaṃ byākaramāno nu kho, āvuso, rājā pasenadi kosalo sammā byākaramāno byākareyyā’’ti?
How, friend, would King Pasenadi of Kosala, in answering, answer correctly?”
Này hiền giả, vua Pasenadi của xứ Kosala sẽ trả lời như thế nào để được xem là trả lời đúng đắn?’’
‘‘Evaṃ byākaramāno kho, āvuso, rājā pasenadi kosalo sammā byākaramāno byākareyya – ‘idha me sāvatthiyaṃ paṭivasantassa sākete kiñcideva accāyikaṃ karaṇīyaṃ uppajji* .
“When answering thus, friend, King Pasenadi of Kosala would answer correctly: ‘Here, while I was residing in Sāvatthī, some urgent business arose for me in Sāketa.
‘‘Này hiền giả, vua Pasenadi của xứ Kosala sẽ trả lời như thế này để được xem là trả lời đúng đắn: ‘Khi ta đang ở Sāvatthī, một việc khẩn cấp cần làm đã phát sinh ở Sāketa.
Tassa me antarā ca sāvatthiṃ antarā ca sāketaṃ satta rathavinītāni upaṭṭhapesuṃ.
For me, seven relay-carriages were stationed between Sāvatthī and Sāketa.
Giữa Sāvatthī và Sāketa, người ta đã sắp đặt bảy cỗ xe cho ta.
Atha khvāhaṃ sāvatthiyā nikkhamitvā antepuradvārā paṭhamaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
Then I, departing from Sāvatthī, mounted the first relay-carriage at the palace gate.
Rồi ta rời Sāvatthī, từ cửa nội cung lên cỗ xe đầu tiên.
Paṭhamena rathavinītena dutiyaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, paṭhamaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ dutiyaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the first relay-carriage I reached the second relay-carriage, I dismissed the first relay-carriage and mounted the second relay-carriage.
Với cỗ xe đầu tiên, ta đến cỗ xe thứ hai; ta bỏ cỗ xe đầu tiên, lên cỗ xe thứ hai.
Dutiyena rathavinītena tatiyaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, dutiyaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ, tatiyaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the second relay-carriage I reached the third relay-carriage, I dismissed the second relay-carriage and mounted the third relay-carriage.
Với cỗ xe thứ hai, ta đến cỗ xe thứ ba; ta bỏ cỗ xe thứ hai, lên cỗ xe thứ ba.
Tatiyena rathavinītena catutthaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, tatiyaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ, catutthaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the third relay-carriage I reached the fourth relay-carriage, I dismissed the third relay-carriage and mounted the fourth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ ba, ta đến cỗ xe thứ tư; ta bỏ cỗ xe thứ ba, lên cỗ xe thứ tư.
Catutthena rathavinītena pañcamaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, catutthaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ, pañcamaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the fourth relay-carriage I reached the fifth relay-carriage, I dismissed the fourth relay-carriage and mounted the fifth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ tư, ta đến cỗ xe thứ năm; ta bỏ cỗ xe thứ tư, lên cỗ xe thứ năm.
Pañcamena rathavinītena chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, pañcamaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ, chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the fifth relay-carriage I reached the sixth relay-carriage, I dismissed the fifth relay-carriage and mounted the sixth relay-carriage.
Với cỗ xe thứ năm, ta đến cỗ xe thứ sáu; ta bỏ cỗ xe thứ năm, lên cỗ xe thứ sáu.
Chaṭṭhena rathavinītena sattamaṃ rathavinītaṃ pāpuṇiṃ, chaṭṭhaṃ rathavinītaṃ vissajjiṃ, sattamaṃ rathavinītaṃ abhiruhiṃ.
By the sixth relay-carriage I reached the seventh relay-carriage, I dismissed the sixth relay-carriage and mounted the seventh relay-carriage.
Với cỗ xe thứ sáu, ta đến cỗ xe thứ bảy; ta bỏ cỗ xe thứ sáu, lên cỗ xe thứ bảy.
Sattamena rathavinītena sāketaṃ anuppatto antepuradvāra’nti.
By the seventh relay-carriage I arrived at the palace gate in Sāketa.’
Với cỗ xe thứ bảy, ta đã đến Sāketa, ngay cửa nội cung.’
Evaṃ byākaramāno kho, āvuso, rājā pasenadi kosalo sammā byākaramāno byākareyyā’’ti.
When answering thus, friend, King Pasenadi of Kosala would answer correctly.”
Này hiền giả, vua Pasenadi của xứ Kosala sẽ trả lời như vậy để được xem là trả lời đúng đắn.’’
260. Evaṃ vutte, āyasmā sāriputto āyasmantaṃ puṇṇaṃ mantāṇiputtaṃ etadavoca – ‘‘konāmo āyasmā, kathañca panāyasmantaṃ sabrahmacārī jānantī’’ti?
260. When this was said, Venerable Sāriputta said to Venerable Puṇṇa Mantāṇiputta, “What is your name, Venerable sir, and how do your fellow monks know you?”
Khi được nói như vậy, Tôn giả Sāriputta hỏi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta rằng: ‘‘Tôn giả tên gì, và các bạn đồng phạm hạnh gọi Tôn giả bằng tên gì?’’
‘‘Puṇṇoti kho me, āvuso, nāmaṃ; mantāṇiputtoti ca pana maṃ sabrahmacārī jānantī’’ti.
“My name, friend, is Puṇṇa; and my fellow monks know me as Mantāṇiputta.”
‘‘Này hiền giả, tên của tôi là Puṇṇa; và các bạn đồng phạm hạnh gọi tôi là Mantāṇiputta.’’
‘‘Acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso!
“It is amazing, friend, it is wonderful, friend!
‘‘Thật kỳ diệu thay, này hiền giả! Thật hy hữu thay, này hiền giả!
Yathā taṃ sutavatā sāvakena sammadeva satthusāsanaṃ ājānantena, evameva āyasmatā puṇṇena mantāṇiputtena gambhīrā gambhīrapañhā anumassa anumassa byākatā.
Just as by a learned disciple who rightly understands the Teacher’s Dispensation, so too by Venerable Puṇṇa, son of Mantāṇī, profound questions were answered by analyzing them thoroughly.
Như một đệ tử có nghe biết, thấu hiểu đúng đắn giáo pháp của Bậc Đạo Sư, cũng vậy, Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta đã giải đáp từng vấn đề sâu xa, từng vấn đề thâm diệu.
Lābhā sabrahmacārīnaṃ, suladdhalābhā sabrahmacārīnaṃ, ye āyasmantaṃ puṇṇaṃ mantāṇiputtaṃ labhanti dassanāya, labhanti payirūpāsanāya.
It is a gain for the spiritual companions, a well-obtained gain for the spiritual companions, who obtain to see Venerable Puṇṇa, son of Mantāṇī, and to attend upon him.
Thật là lợi lộc cho các đồng phạm hạnh, thật là lợi lộc tốt đẹp cho các đồng phạm hạnh, những ai được diện kiến, được gần gũi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta.
Celaṇḍukena* cepi sabrahmacārī āyasmantaṃ puṇṇaṃ mantāṇiputtaṃ muddhanā pariharantā labheyyuṃ dassanāya, labheyyuṃ payirūpāsanāya, tesampi lābhā tesampi suladdhaṃ, amhākampi lābhā amhākampi suladdhaṃ, ye mayaṃ āyasmantaṃ puṇṇaṃ mantāṇiputtaṃ labhāma dassanāya, labhāma payirūpāsanāyā’’ti.
Even if spiritual companions were to carry Venerable Puṇṇa, son of Mantāṇī, on their heads with a head-cloth, and thereby obtain to see him, obtain to attend upon him, that would be a gain for them, a well-obtained gain for them. It is a gain for us, a well-obtained gain for us, that we obtain to see Venerable Puṇṇa, son of Mantāṇī, and to attend upon him.”
Ngay cả nếu các đồng phạm hạnh đội Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta trên đầu mà được diện kiến, được gần gũi, thì đó cũng là lợi lộc, cũng là điều tốt đẹp cho họ; và đó cũng là lợi lộc, cũng là điều tốt đẹp cho chúng ta, những ai được diện kiến, được gần gũi Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta.”
Evaṃ vutte, āyasmā puṇṇo mantāṇiputto āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘ko nāmo āyasmā, kathañca panāyasmantaṃ sabrahmacārī jānantī’’ti?
When this was said, Venerable Puṇṇa, son of Mantāṇī, said to Venerable Sāriputta, “What is your name, venerable sir, and how do the spiritual companions know you?”
Khi được nói như vậy, Tôn giả Puṇṇa Mantāṇiputta hỏi Tôn giả Sāriputta: “Thưa Tôn giả, Tôn giả tên là gì, và các đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?”
‘‘Upatissoti kho me, āvuso, nāmaṃ; sāriputtoti ca pana maṃ sabrahmacārī jānantī’’ti.
“My name, friend, is Upatissa; and spiritual companions know me as Sāriputta.”
“Này hiền giả, tên của tôi là Upatissa; và các đồng phạm hạnh biết tôi là Sāriputta.”
‘‘Satthukappena vata kira, bho* , sāvakena saddhiṃ mantayamānā na jānimha – ‘āyasmā sāriputto’ti.
“Indeed, friends, conversing with a disciple who is comparable to the Teacher, we did not know that ‘this is Venerable Sāriputta!’
“Ôi chao! Thật vậy, chúng tôi đã không biết rằng đó là Tôn giả Sāriputta khi đang đàm luận với một đệ tử xứng đáng như Bậc Đạo Sư.
Sace hi mayaṃ jāneyyāma ‘āyasmā sāriputto’ti, ettakampi no nappaṭibhāseyya* .
If we had known that ‘this is Venerable Sāriputta,’ we would not have spoken so much.
Nếu chúng tôi biết rằng đó là Tôn giả Sāriputta, thì chúng tôi đã không nói nhiều đến thế.
Acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso!
It is wonderful, friend! It is amazing, friend!
Thật kỳ diệu thay, hiền giả! Thật phi thường thay, hiền giả!
Yathā taṃ sutavatā sāvakena sammadeva satthusāsanaṃ ājānantena, evameva āyasmatā sāriputtena gambhīrā gambhīrapañhā anumassa anumassa pucchitā.
Just as by a learned disciple who rightly understands the Teacher’s Dispensation, so too by Venerable Sāriputta, profound questions were asked by analyzing them thoroughly.
Như một đệ tử có nghe biết, thấu hiểu đúng đắn giáo pháp của Bậc Đạo Sư, cũng vậy, Tôn giả Sāriputta đã hỏi từng vấn đề sâu xa, từng vấn đề thâm diệu.
Lābhā sabrahmacārīnaṃ suladdhalābhā sabrahmacārīnaṃ, ye āyasmantaṃ sāriputtaṃ labhanti dassanāya, labhanti payirūpāsanāya.
It is a gain for the spiritual companions, a well-obtained gain for the spiritual companions, who obtain to see Venerable Sāriputta and to attend upon him.
Thật là lợi lộc cho các đồng phạm hạnh, thật là lợi lộc tốt đẹp cho các đồng phạm hạnh, những ai được diện kiến, được gần gũi Tôn giả Sāriputta.
Celaṇḍukena cepi sabrahmacārī āyasmantaṃ sāriputtaṃ muddhanā pariharantā labheyyuṃ dassanāya, labheyyuṃ payirūpāsanāya, tesampi lābhā tesampi suladdhaṃ, amhākampi lābhā amhākampi suladdhaṃ, ye mayaṃ āyasmantaṃ sāriputtaṃ labhāma dassanāya, labhāma payirūpāsanāyā’’ti.
Even if spiritual companions were to carry Venerable Sāriputta on their heads with a head-cloth, and thereby obtain to see him, obtain to attend upon him, that would be a gain for them, a well-obtained gain for them. It is a gain for us, a well-obtained gain for us, that we obtain to see Venerable Sāriputta and to attend upon him.”
Ngay cả nếu các đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sāriputta trên đầu mà được diện kiến, được gần gũi, thì đó cũng là lợi lộc, cũng là điều tốt đẹp cho họ; và đó cũng là lợi lộc, cũng là điều tốt đẹp cho chúng ta, những ai được diện kiến, được gần gũi Tôn giả Sāriputta.”
‘‘Na, bhikkhave, nevāpiko nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ – ‘imaṃ me nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā paribhuñjantā dīghāyukā vaṇṇavanto ciraṃ dīghamaddhānaṃ yāpentū’ti.
“A fowler, bhikkhus, does not scatter bait for animals thinking: ‘May the animals, eating this bait I have scattered, live long, be beautiful, and pass a long time.’
“Này các Tỳ-khưu, người chủ bãi cỏ không gieo bãi cỏ cho loài thú với ý nghĩ: ‘Mong rằng loài thú ăn bãi cỏ ta đã gieo này sẽ sống lâu, có sắc đẹp, sống một thời gian dài, một quãng đường dài.’
Evañca kho, bhikkhave, nevāpiko nivāpaṃ nivapati migajātānaṃ – ‘imaṃ me nivāpaṃ nivuttaṃ migajātā anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjissanti, anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjissanti, mattā samānā pamādaṃ āpajjissanti, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā bhavissanti imasmiṃ nivāpe’ti.
But rather, bhikkhus, a fowler scatters bait for animals thinking: ‘May the animals, pushing forward and becoming infatuated with this bait I have scattered, eat the food; may they, eating the food, pushing forward and becoming infatuated, fall into intoxication; may they, being intoxicated, fall into heedlessness; may they, being heedless, become subject to my will in this bait.’
Mà này các Tỳ-khưu, người chủ bãi cỏ gieo bãi cỏ cho loài thú với ý nghĩ: ‘Loài thú sẽ xông vào, mê đắm thức ăn, ăn bãi cỏ ta đã gieo này; khi xông vào, mê đắm thức ăn, chúng sẽ trở nên say sưa; khi say sưa, chúng sẽ trở nên phóng dật; khi phóng dật, chúng sẽ trở thành đối tượng để ta làm gì tùy ý trên bãi cỏ này.’
263. ‘‘Tatra, bhikkhave, dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
“There, bhikkhus, the second group of animals thought thus: ‘Those first group of animals pushed forward and became infatuated with that scattered bait of the fowler,
263. “Này các Tỳ-khưu, trong đó, loài thú thứ hai đã suy nghĩ như sau: ‘Những loài thú thứ nhất kia đã xông vào, mê đắm thức ăn, ăn bãi cỏ mà người chủ bãi cỏ đã gieo.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
they ate the food. Being there, eating the food, pushing forward and becoming infatuated, they fell into intoxication; being intoxicated, they fell into heedlessness; being heedless, they became subject to the fowler’s will in that bait.
Chúng đã xông vào, mê đắm thức ăn, trở nên say sưa ở đó; khi say sưa, chúng trở nên phóng dật; khi phóng dật, chúng trở thành đối tượng để người chủ bãi cỏ làm gì tùy ý trên bãi cỏ ấy.
Evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
Thus, those first group of animals did not escape the fowler’s power.
Như vậy, loài thú thứ nhất ấy đã không thoát khỏi quyền lực của người chủ bãi cỏ.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
What if we were to completely abstain from bait-food, abstain from frightful enjoyments, and live having plunged into forest hermitages?’
Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, từ bỏ những gì đáng sợ, và sống ẩn mình trong các nơi rừng núi.’
Te sabbaso nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu.
They completely abstained from bait-food, abstained from frightful enjoyments, and lived having plunged into forest hermitages.
Chúng hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, từ bỏ những gì đáng sợ, và sống ẩn mình trong các nơi rừng núi.
Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse, tiṇodakasaṅkhaye, adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
In the last month of summer, with the depletion of grass and water, their bodies became excessively emaciated.
Vào tháng cuối mùa hè, khi cỏ và nước cạn kiệt, thân thể chúng trở nên vô cùng gầy guộc.
Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi.
When their bodies were excessively emaciated, their strength and energy declined.
Khi thân thể chúng trở nên vô cùng gầy guộc, sức lực và tinh thần của chúng suy yếu.
Balavīriye parihīne tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu.
With the decline of strength and energy, they returned to that scattered bait of the fowler.
Khi sức lực và tinh thần suy yếu, chúng quay trở lại bãi cỏ mà người chủ bãi cỏ đã gieo.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
They pushed forward and became infatuated with it and ate the food.
Chúng đã xông vào, mê đắm thức ăn, ăn ở đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
Being there, eating the food, pushing forward and becoming infatuated, they fell into intoxication; being intoxicated, they fell into heedlessness; being heedless, they became subject to the fowler’s will in that bait.
Chúng đã xông vào, mê đắm thức ăn, trở nên say sưa ở đó; khi say sưa, chúng trở nên phóng dật; khi phóng dật, chúng trở thành đối tượng để người chủ bãi cỏ làm gì tùy ý trên bãi cỏ ấy.
Evañhi te, bhikkhave, dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
Thus, bhikkhus, that second group of animals also did not escape the fowler’s power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, loài thú thứ hai ấy cũng đã không thoát khỏi quyền lực của người chủ bãi cỏ.
264. ‘‘Tatra, bhikkhave, tatiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
“There, bhikkhus, the third group of animals thought thus: ‘Those first group of animals pushed forward and became infatuated with that scattered bait of the fowler… thus those first group of animals did not escape the fowler’s power.
264. “Này các Tỳ-khưu, trong đó, loài thú thứ ba đã suy nghĩ như sau: ‘Những loài thú thứ nhất kia đã xông vào, mê đắm thức ăn, ăn bãi cỏ mà người chủ bãi cỏ đã gieo... như vậy, loài thú thứ nhất ấy đã không thoát khỏi quyền lực của người chủ bãi cỏ.
Yepi te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ – ye kho te paṭhamā migajātā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
And those second group of animals who thought thus: Those first group of animals pushed forward and became infatuated with that scattered bait of the fowler… thus those first group of animals did not escape the fowler’s power.
Và những loài thú thứ hai kia đã suy nghĩ như sau: ‘Những loài thú thứ nhất kia đã xông vào, mê đắm thức ăn, ăn bãi cỏ mà người chủ bãi cỏ đã gieo... như vậy, loài thú thứ nhất ấy đã không thoát khỏi quyền lực của người chủ bãi cỏ.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti.
What if we were to completely abstain from bait-food, abstain from frightful enjoyments, and live having plunged into forest hermitages?’
Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, từ bỏ những gì đáng sợ, và sống ẩn mình trong các nơi rừng núi.’
Te sabbaso nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu.
They completely abstained from bait-food, abstained from frightful enjoyments, and lived having plunged into forest hermitages.
Chúng hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, từ bỏ những gì đáng sợ, và sống ẩn mình trong các nơi rừng núi.
Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
In the last month of summer, with the depletion of grass and water, their bodies became excessively emaciated.
Vào tháng cuối mùa hè, khi cỏ và nước cạn kiệt, thân thể chúng trở nên vô cùng gầy guộc.
Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi.
When their bodies were excessively emaciated, their strength and energy declined.
Khi thân thể chúng trở nên vô cùng gầy guộc, sức lực và tinh thần của chúng suy yếu.
Balavīriye parihīne tameva nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa paccāgamiṃsu.
With the decline of strength and energy, they returned to that scattered bait of the fowler.
Khi sức lực và tinh thần suy yếu, chúng quay trở lại bãi cỏ mà người chủ bãi cỏ đã gieo.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
They pushed forward and became infatuated with it and ate the food.
Chúng đã xông vào, mê đắm thức ăn, ăn ở đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
Being there, eating the food, pushing forward and becoming infatuated, they fell into intoxication; being intoxicated, they fell into heedlessness; being heedless, they became subject to the fowler’s will in that bait.
Chúng đã xông vào, mê đắm thức ăn, trở nên say sưa ở đó; khi say sưa, chúng trở nên phóng dật; khi phóng dật, chúng trở thành đối tượng để người chủ bãi cỏ làm gì tùy ý trên bãi cỏ ấy.
Evañhi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
Thus, even those second group of deer did not escape the hunter's power.
Như vậy, nhóm hươu thứ hai ấy cũng không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappeyyāma.
"What if we establish a dwelling place by relying on that bait laid out by the hunter?
“Hay là chúng ta hãy thiết lập nơi trú ngụ nương tựa vào bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpe’ti.
Having established a dwelling there, we will eat the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food without encroaching upon it and without being infatuated, we will not become intoxicated; not being intoxicated, we will not fall into heedlessness; not being heedless, we will not become subject to the hunter's will regarding that bait."
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn mà không chen lấn, không tham đắm, chúng ta sẽ không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng ta sẽ không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng ta sẽ không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.”
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu.
They established a dwelling place by relying on that bait laid out by the hunter.
Chúng đã thiết lập nơi trú ngụ nương tựa vào bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
Having established a dwelling there, they ate the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food there without encroaching upon it and without being infatuated, they did not become intoxicated; not being intoxicated, they did not fall into heedlessness; not being heedless, they did not become subject to the hunter's will regarding that bait.
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng đã ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn ở đó mà không chen lấn, không tham đắm, chúng đã không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng đã không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng đã không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.
‘‘Tatra, bhikkhave, nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi – ‘saṭhāssunāmime tatiyā migajātā ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā parajanā; imañca nāma nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti, na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā.
"At that time, O bhikkhus, the hunter and the hunter's retinue thought: 'These third group of deer are indeed cunning and deceptive; these third group of deer are indeed like powerful spirits.
“Này các Tỳ-khưu, lúc ấy, người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy đã nghĩ thế này: ‘Chắc chắn nhóm hươu thứ ba này là những kẻ xảo quyệt, những kẻ lừa đảo; chắc chắn nhóm hươu thứ ba này là những kẻ có thần thông, những kẻ khác thường; chúng ăn bãi cỏ đã gieo này mà chúng ta không biết đường đi hay đường về của chúng.
Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi* samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma – appeva nāma tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma, yattha te gāhaṃ gaccheyyu’nti.
They consume this bait that has been laid out, yet we do not know their coming or going. What if we encircle this entire area where the bait is laid out with large traps and snares, hoping perhaps to see the dwelling place of the third group of deer, where they might get caught?'
Hay là chúng ta hãy bao vây bãi cỏ đã gieo này một cách toàn diện bằng những tấm lưới lớn có gậy, may ra chúng ta có thể thấy được nơi trú ngụ của nhóm hươu thứ ba, nơi chúng sẽ bị bắt.’
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ.
They then encircled that entire area where the bait was laid out with large traps and snares.
Chúng đã bao vây bãi cỏ đã gieo ấy một cách toàn diện bằng những tấm lưới lớn có gậy.
Addasaṃsu kho, bhikkhave, nevāpiko ca nevāpikaparisā ca tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ agamaṃsu.
And the hunter and the hunter's retinue, O bhikkhus, saw the dwelling place of the third group of deer, where they had gotten caught.
Này các Tỳ-khưu, người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy đã thấy nơi trú ngụ của nhóm hươu thứ ba, nơi chúng đã bị bắt.
Evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
Thus, O bhikkhus, even those third group of deer did not escape the hunter's power.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, nhóm hươu thứ ba ấy cũng không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
265. ‘‘Tatra, bhikkhave, catutthā migajātā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā migajātā…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
265. "At that time, O bhikkhus, the fourth group of deer thought: 'Those first group of deer... (omitted due to repetition)... thus, those first group of deer did not escape the hunter's power.
265. “Này các Tỳ-khưu, lúc ấy, nhóm hươu thứ tư đã suy nghĩ thế này: ‘Nhóm hươu thứ nhất ấy…pe… như vậy, nhóm hươu thứ nhất ấy đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yepi te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ ‘ye kho te paṭhamā migajātā…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
And those second group of deer thought: "Those first group of deer... (omitted due to repetition)... thus, those first group of deer did not escape the hunter's power.
Nhóm hươu thứ hai ấy cũng đã suy nghĩ thế này: ‘Nhóm hươu thứ nhất ấy…pe… như vậy, nhóm hươu thứ nhất ấy đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
What if we completely abstain from the bait food, and having abstained from fearful consumption, we enter into forest abodes and dwell there?'
Hay là chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, sau khi từ bỏ việc ăn uống sợ hãi, chúng ta hãy đi vào những khu rừng để sống.’
Te sabbaso nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu…pe… evañhi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
They completely abstained from the bait food... (omitted due to repetition)... thus, even those second group of deer did not escape the hunter's power.
Chúng đã hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ…pe… như vậy, nhóm hươu thứ hai ấy cũng đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yepi te tatiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ ‘ye kho te paṭhamā migajātā…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
And those third group of deer thought: 'Those first group of deer... (omitted due to repetition)... thus, those first group of deer did not escape the hunter's power.
Nhóm hươu thứ ba ấy cũng đã suy nghĩ thế này: ‘Nhóm hươu thứ nhất ấy…pe… như vậy, nhóm hươu thứ nhất ấy đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yepi te dutiyā migajātā evaṃ samacintesuṃ ‘ye kho te paṭhamā migajātā…pe… evañhi te paṭhamā migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
And those second group of deer thought: 'Those first group of deer... (omitted due to repetition)... thus, those first group of deer did not escape the hunter's power.
Nhóm hươu thứ hai ấy cũng đã suy nghĩ thế này: ‘Nhóm hươu thứ nhất ấy…pe… như vậy, nhóm hươu thứ nhất ấy đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
What if we completely abstain from the bait food, and having abstained from fearful consumption, we enter into forest abodes and dwell there?'
Hay là chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ, sau khi từ bỏ việc ăn uống sợ hãi, chúng ta hãy đi vào những khu rừng để sống.’
Te sabbaso nivāpabhojanā paṭiviramiṃsu…pe… evañhi te dutiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
They completely abstained from the bait food... (omitted due to repetition)... thus, even those second group of deer did not escape the hunter's power.
Chúng đã hoàn toàn từ bỏ thức ăn ở bãi cỏ…pe… như vậy, nhóm hươu thứ hai ấy cũng đã không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpe’ti.
What if we establish a dwelling place by relying on that bait laid out by the hunter; having established a dwelling there, we will eat the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food without encroaching upon it and without being infatuated, we will not become intoxicated; not being intoxicated, we will not fall into heedlessness; not being heedless, we will not become subject to the hunter's will regarding that bait.'
Hay là chúng ta hãy thiết lập nơi trú ngụ nương tựa vào bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy, sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn mà không chen lấn, không tham đắm, chúng ta sẽ không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng ta sẽ không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng ta sẽ không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.”
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
They established a dwelling place by relying on that bait laid out by the hunter; having established a dwelling there, they ate the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food there without encroaching upon it and without being infatuated, they did not become intoxicated; not being intoxicated, they did not fall into heedlessness; not being heedless, they did not become subject to the hunter's will regarding that bait.
Chúng đã thiết lập nơi trú ngụ nương tựa vào bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy, sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng đã ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn ở đó mà không chen lấn, không tham đắm, chúng đã không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng đã không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng đã không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.
‘‘Tatra nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi – ‘saṭhāssunāmime tatiyā migajātā ketabino, iddhimantāssunāmime tatiyā migajātā parajanā, imañca nāma nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti.
"At that time, the hunter and the hunter's retinue thought: 'These third group of deer are indeed cunning and deceptive; these third group of deer are indeed like powerful spirits; they consume this bait that has been laid out.
“Lúc ấy, người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy đã nghĩ thế này: ‘Chắc chắn nhóm hươu thứ ba này là những kẻ xảo quyệt, những kẻ lừa đảo; chắc chắn nhóm hươu thứ ba này là những kẻ có thần thông, những kẻ khác thường; chúng ăn bãi cỏ đã gieo này.
Na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā.
Yet we do not know their coming or going.
Chúng ta không biết đường đi hay đường về của chúng.
Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīti daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma, yattha te gāhaṃ gaccheyyu’nti.
What if we encircle this entire area where the bait is laid out with large traps and snares, hoping perhaps to see the dwelling place of the third group of deer, where they might get caught?'
Hay là chúng ta hãy bao vây bãi cỏ đã gieo này một cách toàn diện bằng những tấm lưới lớn có gậy, may ra chúng ta có thể thấy được nơi trú ngụ của nhóm hươu thứ ba, nơi chúng sẽ bị bắt.’
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīti daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ.
They then encircled that entire area where the bait was laid out with large traps and snares.
Chúng đã bao vây bãi cỏ đã gieo ấy một cách toàn diện bằng những tấm lưới lớn có gậy.
Addasaṃsu kho nevāpiko ca nevāpikaparisā ca tatiyānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ agamaṃsu.
And the hunter and the hunter's retinue saw the dwelling place of the third group of deer, where they had gotten caught.
Người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy đã thấy nơi trú ngụ của nhóm hươu thứ ba, nơi chúng đã bị bắt.
Evañhi te tatiyāpi migajātā na parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
Thus, even those third group of deer did not escape the hunter's power.
Như vậy, nhóm hươu thứ ba ấy cũng không thoát khỏi thần thông của người đặt bẫy.
Yaṃnūna mayaṃ yattha agati nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca tatrāsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma nevāpikassa amusmiṃ nivāpe’ti.
What if we establish a dwelling place where the hunter and the hunter's retinue cannot go; having established a dwelling there, we will eat the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food without encroaching upon it and without being infatuated, we will not become intoxicated; not being intoxicated, we will not fall into heedlessness; not being heedless, we will not become subject to the hunter's will regarding that bait.'
Hay là chúng ta hãy thiết lập nơi trú ngụ ở nơi mà người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy không thể đến được; sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn mà không chen lấn, không tham đắm, chúng ta sẽ không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng ta sẽ không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng ta sẽ không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.”
Te yattha agati nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca tatrāsayaṃ kappayiṃsu.
They established a dwelling place where the hunter and the hunter's retinue could not go.
Chúng đã thiết lập nơi trú ngụ ở nơi mà người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy không thể đến được.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ nevāpikassa ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ nevāpikassa amusmiṃ nivāpe.
Having established a dwelling there, they ate the food (bait) laid out by the hunter without encroaching upon it and without being infatuated; eating the food there without encroaching upon it and without being infatuated, they did not become intoxicated; not being intoxicated, they did not fall into heedlessness; not being heedless, they did not become subject to the hunter's will regarding that bait.
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng đã ăn thức ăn ở bãi cỏ đã gieo ấy của người đặt bẫy mà không chen lấn, không tham đắm; khi ăn thức ăn ở đó mà không chen lấn, không tham đắm, chúng đã không trở nên say sưa; khi không say sưa, chúng đã không trở nên phóng dật; khi không phóng dật, chúng đã không tùy ý hành động theo ý muốn của người đặt bẫy tại bãi cỏ ấy.
‘‘Tatra, bhikkhave, nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi – ‘saṭhāssunāmime catutthā migajātā ketabino, iddhimantāssunāmime catutthā migajātā parajanā.
"At that time, O bhikkhus, the hunter and the hunter's retinue thought: 'These fourth group of deer are indeed cunning and deceptive; these fourth group of deer are indeed like powerful spirits.
“Này các Tỳ-khưu, lúc ấy, người đặt bẫy và đoàn tùy tùng của người đặt bẫy đã nghĩ thế này: ‘Chắc chắn nhóm hươu thứ tư này là những kẻ xảo quyệt, những kẻ lừa đảo; chắc chắn nhóm hươu thứ tư này là những kẻ có thần thông, những kẻ khác thường.
Imañca nāma nivāpaṃ nivuttaṃ paribhuñjanti, na ca nesaṃ jānāma āgatiṃ vā gatiṃ vā.
They consume this bait that has been laid out, yet we do not know their coming or going.
Chúng ăn bãi cỏ đã gieo này mà chúng ta không biết đường đi hay đường về của chúng.
Yaṃnūna mayaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāreyyāma, appeva nāma catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ passeyyāma yattha te gāhaṃ gaccheyyu’nti.
“Let us surround this entire region where the bait has been laid with mighty sticks and nets; perhaps we might find the resort of the fourth type of deer, where they might be caught.”
“Hay là chúng ta hãy bao vây toàn bộ khu vực xung quanh bãi cỏ đã gieo này bằng những cây gậy lớn, may ra chúng ta có thể nhìn thấy nơi trú ẩn của loài hươu thứ tư mà chúng sẽ đi đến đó.”
Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mahatīhi daṇḍavākarāhi samantā sappadesaṃ anuparivāresuṃ.
They surrounded that bait, which was laid, with mighty sticks and nets all around that region.
Họ đã bao vây toàn bộ khu vực xung quanh bãi cỏ đã gieo đó bằng những cây gậy lớn.
Neva kho, bhikkhave, addasaṃsu nevāpiko ca nevāpikaparisā ca catutthānaṃ migajātānaṃ āsayaṃ, yattha te gāhaṃ gaccheyyuṃ.
Yet, bhikkhus, neither the fowler nor the fowler's retinue saw the resort of the fourth type of deer, where they might be caught.
Này các Tỳ-khưu, cả người gieo mồi lẫn đoàn tùy tùng của người gieo mồi đều không thấy nơi trú ẩn của loài hươu thứ tư mà chúng sẽ đi đến đó.
Tatra, bhikkhave, nevāpikassa ca nevāpikaparisāya ca etadahosi – ‘sace kho mayaṃ catutthe migajāte ghaṭṭessāma, te ghaṭṭitā aññe ghaṭṭissanti te ghaṭṭitā aññe ghaṭṭissanti.
Then, bhikkhus, it occurred to the fowler and the fowler's retinue: “If we disturb the fourth type of deer, being disturbed, they will disturb others; being disturbed, those will disturb others.
Này các Tỳ-khưu, lúc đó người gieo mồi và đoàn tùy tùng của người gieo mồi đã nghĩ rằng: “Nếu chúng ta quấy rầy loài hươu thứ tư, thì chúng bị quấy rầy sẽ quấy rầy những con khác, và những con khác bị quấy rầy sẽ quấy rầy những con khác nữa.
Evaṃ imaṃ nivāpaṃ nivuttaṃ sabbaso migajātā parimuñcissanti.
In this way, the deer will completely abandon this laid bait.
Như vậy, tất cả các loài hươu sẽ thoát khỏi bãi cỏ đã gieo này.
Yaṃnūna mayaṃ catutthe migajāte ajjhupekkheyyāmā’ti.
Let us rather overlook the fourth type of deer.”
Hay là chúng ta hãy bỏ qua loài hươu thứ tư.”
Ajjhupekkhiṃsu kho, bhikkhave, nevāpiko ca nevāpikaparisā ca catutthe migajāte.
So, bhikkhus, the fowler and the fowler's retinue overlooked the fourth type of deer.
Này các Tỳ-khưu, người gieo mồi và đoàn tùy tùng của người gieo mồi đã bỏ qua loài hươu thứ tư.
Evañhi te, bhikkhave, catutthā migajātā parimucciṃsu nevāpikassa iddhānubhāvā.
In this way, bhikkhus, those fourth type of deer escaped the fowler's power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, nhờ thần thông của người gieo mồi, loài hươu thứ tư đã thoát khỏi.
266. ‘‘Upamā kho me ayaṃ, bhikkhave, katā atthassa viññāpanāya.
266. “This simile, bhikkhus, I have made to convey the meaning.
266. “Này các Tỳ-khưu, Ta đã tạo ra ví dụ này để làm rõ ý nghĩa.
Ayaṃ cevettha attho – nivāpoti kho, bhikkhave, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
This is indeed the meaning here: ‘Bait’, bhikkhus, is a term for the five strands of sensuality.
Và đây là ý nghĩa ở đây: Này các Tỳ-khưu, ‘nivāpa’ (bãi cỏ) là tên gọi của năm dục lạc.
Nevāpikoti kho, bhikkhave, mārassetaṃ pāpimato adhivacanaṃ.
‘Fowler’, bhikkhus, is a term for Māra, the Evil One.
Này các Tỳ-khưu, ‘nevāpiko’ (người gieo mồi) là tên gọi của ác ma Māra.
Nevāpikaparisāti kho, bhikkhave, māraparisāyetaṃ adhivacanaṃ.
‘Fowler’s retinue’, bhikkhus, is a term for Māra’s retinue.
Này các Tỳ-khưu, ‘nevāpikaparisā’ (đoàn tùy tùng của người gieo mồi) là tên gọi của đoàn tùy tùng của Māra.
Migajātāti kho, bhikkhave, samaṇabrāhmaṇānametaṃ adhivacanaṃ.
‘Deer’, bhikkhus, is a term for ascetics and brahmins.
Này các Tỳ-khưu, ‘migajātā’ (loài hươu) là tên gọi của các Sa-môn và Bà-la-môn.
267. ‘‘Tatra, bhikkhave, paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
267. “Therein, bhikkhus, the first ascetics and brahmins, entering and infatuated with that bait laid by Māra and those worldly allurements, ate the food.
267. “Này các Tỳ-khưu, trong số đó, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đã ăn các món ăn, bị mê mẩn, bám víu vào bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Entering there and infatuated, eating the food, they became intoxicated; being intoxicated, they became heedless; being heedless, they became subject to Māra’s will in that bait and in that worldly allurement.
Khi ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó, họ trở nên say sưa; khi say sưa, họ trở nên phóng dật; khi phóng dật, họ trở thành những người tùy ý Māra trong bãi cỏ đó và trong những lợi lộc thế gian đó.
Evañhi te, bhikkhave, paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus, bhikkhus, those first ascetics and brahmins did not escape Māra’s power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Seyyathāpi te, bhikkhave, paṭhamā migajātā tathūpame ahaṃ ime paṭhame samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
Just as those first type of deer, bhikkhus, so do I speak of these first ascetics and brahmins.
Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất này giống như loài hươu thứ nhất đó.
268. ‘‘Tatra, bhikkhave, dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
268. “Therein, bhikkhus, the second ascetics and brahmins thought thus: ‘Those first ascetics and brahmins, entering and infatuated with that bait laid by Māra and those worldly allurements, ate the food.
268. “Này các Tỳ-khưu, trong số đó, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ hai đã suy nghĩ như sau: ‘Các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã ăn các món ăn, bị mê mẩn, bám víu vào bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Entering there and infatuated, eating the food, they became intoxicated; being intoxicated, they became heedless; being heedless, they became subject to Māra’s will in that bait and in that worldly allurement.
Khi ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó, họ trở nên say sưa; khi say sưa, họ trở nên phóng dật; khi phóng dật, họ trở thành những người tùy ý Māra trong bãi cỏ đó và trong những lợi lộc thế gian đó.
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus those first ascetics and brahmins did not escape Māra’s power.
Như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
Let us completely abstain from bait-food, from worldly allurements, and having abstained from fearful indulgences, let us dwell in forest hermitages.’
Hay là chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ việc ăn bãi cỏ và các lợi lộc thế gian, từ bỏ những thứ đáng sợ và sống trong các khu rừng.’
Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmāti.
They completely abstained from bait-food, from worldly allurements, having abstained from fearful indulgences, they would dwell in forest hermitages.
Họ đã hoàn toàn từ bỏ việc ăn bãi cỏ và các lợi lộc thế gian, từ bỏ những thứ đáng sợ và sống trong các khu rừng.
Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu.
They completely abstained from bait-food, from worldly allurements, having abstained from fearful indulgences, they dwelt in forest hermitages.
Họ đã hoàn toàn từ bỏ việc ăn bãi cỏ và các lợi lộc thế gian, từ bỏ những thứ đáng sợ và sống trong các khu rừng.
Te tattha sākabhakkhāpi ahesuṃ, sāmākabhakkhāpi ahesuṃ, nīvārabhakkhāpi ahesuṃ, daddulabhakkhāpi ahesuṃ, haṭabhakkhāpi ahesuṃ, kaṇabhakkhāpi ahesuṃ, ācāmabhakkhāpi ahesuṃ, piññākabhakkhāpi ahesuṃ, tiṇabhakkhāpi ahesuṃ, gomayabhakkhāpi ahesuṃ, vanamūlaphalāhārā yāpesuṃ pavattaphalabhojī.
There they ate greens, they ate millet, they ate wild rice, they ate scraps of hide, they ate moss, they ate husks, they ate rice gruel, they ate sesame meal, they ate grass, they ate cow dung; they sustained themselves on forest roots and fruits, eating fallen fruits.
Tại đó, họ đã ăn rau xanh, ăn gạo sāmāka, ăn gạo nīvāra, ăn daddula, ăn haṭa, ăn cám, ăn cháo, ăn piññāka, ăn cỏ, ăn phân bò, và sống nhờ rễ cây, trái cây rừng, ăn trái cây tự rụng.
‘‘Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse, tiṇodakasaṅkhaye, adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
“During the last month of the hot season, when grass and water were depleted, their bodies became excessively emaciated.
Vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi cỏ và nước cạn kiệt, thân thể của họ trở nên cực kỳ gầy yếu.
Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi.
As their bodies became excessively emaciated, their strength and energy declined.
Khi thân thể của họ trở nên cực kỳ gầy yếu, sức mạnh và nghị lực của họ suy giảm.
Balavīriye parihīne cetovimutti parihāyi.
When strength and energy declined, liberation of mind declined.
Khi sức mạnh và nghị lực suy giảm, sự giải thoát tâm của họ suy giảm.
Cetovimuttiyā parihīnāya tameva nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca lokāmisāni.
When liberation of mind declined, they returned to that bait laid by Māra and to those worldly allurements.
Khi sự giải thoát tâm suy giảm, họ lại trở về với bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
Entering there and infatuated, they ate the food.
Họ đã ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Entering there and infatuated, eating the food, they became intoxicated; being intoxicated, they became heedless; being heedless, they became subject to Māra’s will in that bait and in that worldly allurement.
Khi ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó, họ trở nên say sưa; khi say sưa, họ trở nên phóng dật; khi phóng dật, họ trở thành những người tùy ý Māra trong bãi cỏ đó và trong những lợi lộc thế gian đó.
Evañhi te, bhikkhave, dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus, bhikkhus, those second ascetics and brahmins also did not escape Māra’s power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ hai đó cũng đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Seyyathāpi te, bhikkhave, dutiyā migajātā tathūpame ahaṃ ime dutiye samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
Just as those second type of deer, bhikkhus, so do I speak of these second ascetics and brahmins.
Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng các Sa-môn và Bà-la-môn thứ hai này giống như loài hươu thứ hai đó.
269. ‘‘Tatra, bhikkhave, tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni…pe….
269. “Therein, bhikkhus, the third ascetics and brahmins thought thus: ‘Those first ascetics and brahmins, entering and infatuated with that bait laid by Māra and those worldly allurements... (the meaning is similar to what was said before).
269. “Này các Tỳ-khưu, trong số đó, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ ba đã suy nghĩ như sau: ‘Các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã ăn bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó… (tương tự như trên)…
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus those first ascetics and brahmins did not escape Māra’s power.
Như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni…pe….
And those second ascetics and brahmins thought thus: “Those first ascetics and brahmins, entering and infatuated with that bait laid by Māra and those worldly allurements… (the meaning is similar to what was said before).
Và các Sa-môn và Bà-la-môn thứ hai đó cũng đã suy nghĩ như sau: ‘Các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã ăn bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó… (tương tự như trên)…
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus those first ascetics and brahmins did not escape Māra’s power.
Như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ nhất đó đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
Let us completely abstain from bait-food, from worldly allurements, and having abstained from fearful indulgences, let us dwell in forest hermitages.”
Hay là chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ việc ăn bãi cỏ và các lợi lộc thế gian, từ bỏ những thứ đáng sợ và sống trong các khu rừng.’
Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu.
They completely abstained from bait-food, from worldly allurements.
Họ đã hoàn toàn từ bỏ việc ăn bãi cỏ và các lợi lộc thế gian.
Bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihariṃsu.
Having abstained from fearful indulgences, they dwelt in forest hermitages.
Họ đã từ bỏ những thứ đáng sợ và sống trong các khu rừng.
Te tattha sākabhakkhāpi ahesuṃ…pe… pavattaphalabhojī.
There they ate greens… (the meaning is similar to what was said before)… eating fallen fruits.
Tại đó, họ đã ăn rau xanh… (tương tự như trên)… ăn trái cây tự rụng.
Tesaṃ gimhānaṃ pacchime māse tiṇodakasaṅkhaye adhimattakasimānaṃ patto kāyo hoti.
During the last month of the hot season, when grass and water were depleted, their bodies became excessively emaciated.
Vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi cỏ và nước cạn kiệt, thân thể của họ trở nên cực kỳ gầy yếu.
Tesaṃ adhimattakasimānaṃ pattakāyānaṃ balavīriyaṃ parihāyi, balavīriye parihīne cetovimutti parihāyi, cetovimuttiyā parihīnāya tameva nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa paccāgamiṃsu tāni ca lokāmisāni.
As their bodies became excessively emaciated, their strength and energy declined; when strength and energy declined, liberation of mind declined; when liberation of mind declined, they returned to that bait laid by Māra and to those worldly allurements.
Khi thân thể của họ trở nên cực kỳ gầy yếu, sức mạnh và nghị lực của họ suy giảm; khi sức mạnh và nghị lực suy giảm, sự giải thoát tâm của họ suy giảm; khi sự giải thoát tâm suy giảm, họ lại trở về với bãi cỏ đã gieo của Māra và những lợi lộc thế gian đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
Entering there and infatuated, they ate the food.
Họ đã ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó.
Te tattha anupakhajja mucchitā bhojanāni bhuñjamānā madaṃ āpajjiṃsu, mattā samānā pamādaṃ āpajjiṃsu, pamattā samānā yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Entering there and infatuated, eating the food, they became intoxicated; being intoxicated, they became heedless; being heedless, they became subject to Māra’s will in that bait and in that worldly allurement.
Khi ăn các món ăn, bị mê mẩn và bám víu vào đó, họ trở nên say sưa; khi say sưa, họ trở nên phóng dật; khi phóng dật, họ trở thành những người tùy ý Māra trong bãi cỏ đó và trong những lợi lộc thế gian đó.
Evañhi te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
Thus those second ascetics and brahmins also did not escape Māra’s power.
Như vậy, các Sa-môn và Bà-la-môn thứ hai đó cũng đã không thoát khỏi thần thông của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappeyyāma, tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise’’ti.
What if we were to establish a dwelling, relying on this bait laid by Māra and these worldly allurements? Having established a dwelling there, we would partake of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements. By partaking of food without being ensnared or infatuated, we would not fall into intoxication. Not being intoxicated, we would not fall into heedlessness. Not being heedless, we would not be subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement."
“Chúng ta hãy nương tựa vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia, rồi thiết lập nơi trú ngụ ở đó. Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia. Khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, chúng ta sẽ không rơi vào say đắm. Không say đắm, chúng ta sẽ không rơi vào phóng dật. Không phóng dật, chúng ta sẽ không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.”
‘‘Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu.
They established a dwelling, relying on this bait laid by Māra and these worldly allurements.
“Họ đã nương tựa vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia để thiết lập nơi trú ngụ.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
Having established a dwelling there, they partook of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements.
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, họ đã thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia.
Te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
There, partaking of food without being ensnared or infatuated, they did not fall into intoxication. Not being intoxicated, they did not fall into heedlessness. Not being heedless, they were not subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement.
Ở đó, khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, họ đã không rơi vào say đắm, không say đắm nên họ đã không rơi vào phóng dật, không phóng dật nên họ đã không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.
Api ca kho evaṃdiṭṭhikā ahesuṃ – sassato loko itipi, asassato loko itipi; antavā loko itipi, anantavā loko itipi; taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ itipi, aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ itipi; hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi, na hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi, neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi.
Nevertheless, they held such views as: ‘The world is eternal,’ or ‘The world is not eternal’; ‘The world is finite,’ or ‘The world is infinite’; ‘The soul is the same as the body,’ or ‘The soul is one thing and the body another’; ‘A Tathāgata exists after death,’ or ‘A Tathāgata does not exist after death,’ or ‘A Tathāgata both exists and does not exist after death,’ or ‘A Tathāgata neither exists nor does not exist after death.’
Tuy nhiên, họ lại có những quan điểm như: “Thế giới là thường còn” hoặc “Thế giới là vô thường”; “Thế giới là hữu hạn” hoặc “Thế giới là vô hạn”; “Mạng sống và thân thể là một” hoặc “Mạng sống là khác, thân thể là khác”; “Như Lai tồn tại sau khi chết” hoặc “Như Lai không tồn tại sau khi chết”, “Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết” hoặc “Như Lai không tồn phải tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết”.
Evañhi te, bhikkhave, tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way, bhikkhus, that even these third recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này cũng không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Seyyathāpi te, bhikkhave, tatiyā migajātā tathūpame ahaṃ ime tatiye samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
Just as those third deer, bhikkhus, so do I speak of these third recluses and brahmins as being comparable.
Này các Tỳ-khưu, ta nói những Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này giống như loài nai thứ ba kia.
270. ‘‘Tatra, bhikkhave, catutthā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa…pe….
270. “There, bhikkhus, the fourth recluses and brahmins reflected thus: ‘Those first recluses and brahmins, relying on this bait laid by Māra…pe….
270. “Này các Tỳ-khưu, ở đây, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư đã suy nghĩ như sau: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia đã nương tựa vào bãi cỏ do Māra gieo rắc… (văn bản lặp lại)
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those first recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ – ‘ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā…pe….
And those second recluses and brahmins reflected thus: ‘Those first recluses and brahmins…pe….
Và những Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai kia đã suy nghĩ như sau: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia… (văn bản lặp lại)
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those first recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
What if we were to entirely refrain from bait-food and worldly allurements, and having renounced objects of fear, dwell having plunged into forest hermitages?’
Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các món ăn từ bãi cỏ, từ bỏ những mồi nhử thế gian, từ bỏ những sự hưởng thụ đáng sợ, rồi đi vào các nơi rừng núi để sống.’
Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu…pe….
They entirely refrained from bait-food and worldly allurements…pe….
Họ đã hoàn toàn từ bỏ các món ăn từ bãi cỏ, từ bỏ những mồi nhử thế gian… (văn bản lặp lại)
Evañhi te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those second recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này cũng đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yepi te tatiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā …pe….
And those third recluses and brahmins reflected thus: ‘Those first recluses and brahmins…pe….
Và những Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba kia đã suy nghĩ như sau: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia… (văn bản lặp lại)
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those first recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yepi te dutiyā samaṇabrāhmaṇā evaṃ samacintesuṃ ye kho te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā…pe….
And those second recluses and brahmins reflected thus: ‘Those first recluses and brahmins…pe….
Và những Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai kia đã suy nghĩ như sau: ‘Những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia… (văn bản lặp lại)
Evañhi te paṭhamā samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those first recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ nhất kia đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭivirameyyāma, bhayabhogā paṭiviratā araññāyatanāni ajjhogāhetvā vihareyyāmā’ti.
What if we were to entirely refrain from bait-food and worldly allurements, and having renounced objects of fear, dwell having plunged into forest hermitages?’
Vậy chúng ta hãy hoàn toàn từ bỏ các món ăn từ bãi cỏ, từ bỏ những mồi nhử thế gian, từ bỏ những sự hưởng thụ đáng sợ, rồi đi vào các nơi rừng núi để sống.’
Te sabbaso nivāpabhojanā lokāmisā paṭiviramiṃsu…pe….
They entirely refrained from bait-food and worldly allurements…pe….
Họ đã hoàn toàn từ bỏ các món ăn từ bãi cỏ, từ bỏ những mồi nhử thế gian… (văn bản lặp lại)
Evañhi te dutiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that those second recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ hai này cũng đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappeyyāma.
What if we were to establish a dwelling, relying on this bait laid by Māra and these worldly allurements?
Vậy chúng ta hãy nương tựa vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia để thiết lập nơi trú ngụ.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmiseti.
Having established a dwelling there, we would partake of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements. By partaking of food without being ensnared or infatuated, we would not fall into intoxication. Not being intoxicated, we would not fall into heedlessness. Not being heedless, we would not be subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement.”
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia. Khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, chúng ta sẽ không rơi vào say đắm. Không say đắm, chúng ta sẽ không rơi vào phóng dật. Không phóng dật, chúng ta sẽ không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.”
‘‘Te amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni upanissāya āsayaṃ kappayiṃsu.
“They established a dwelling, relying on this bait laid by Māra and these worldly allurements.
“Họ đã nương tựa vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia để thiết lập nơi trú ngụ.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu.
Having established a dwelling there, they partook of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements.
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, họ đã thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia.
Te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu.
There, partaking of food without being ensnared or infatuated, they did not fall into intoxication.
Ở đó, khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, họ đã không rơi vào say đắm.
Amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu.
Not being intoxicated, they did not fall into heedlessness.
Không say đắm, họ đã không rơi vào phóng dật.
Appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Not being heedless, they were not subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement.
Không phóng dật, họ đã không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.
Api ca kho evaṃdiṭṭhikā ahesuṃ sassato loko itipi…pe… neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā itipi.
Nevertheless, they held such views as: ‘The world is eternal’…pe… ‘A Tathāgata neither exists nor does not exist after death.’
Tuy nhiên, họ lại có những quan điểm như: “Thế giới là thường còn”… (văn bản lặp lại)… “Như Lai không phải tồn tại cũng không phải không tồn tại sau khi chết”.
Evañhi te tatiyāpi samaṇabrāhmaṇā na parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way that even those third recluses and brahmins were not freed from Māra’s power.
Như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ ba này cũng đã không thoát khỏi quyền năng của Māra.
Yaṃnūna mayaṃ yattha agati mārassa ca māraparisāya ca tatrāsayaṃ kappeyāma.
What if we were to establish a dwelling where there is no access for Māra or Māra’s retinue?
Vậy chúng ta hãy thiết lập nơi trú ngụ ở nơi mà Māra và đoàn tùy tùng của Māra không thể đến được.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjissāma, ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjissāma, amattā samānā na pamādaṃ āpajjissāma, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā bhavissāma mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmiseti.
Having established a dwelling there, we would partake of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements. By partaking of food without being ensnared or infatuated, we would not fall into intoxication. Not being intoxicated, we would not fall into heedlessness. Not being heedless, we would not be subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement.”
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, chúng ta sẽ thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia. Khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, chúng ta sẽ không rơi vào say đắm. Không say đắm, chúng ta sẽ không rơi vào phóng dật. Không phóng dật, chúng ta sẽ không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.”
‘‘Te yattha agati mārassa ca māraparisāya ca tatrāsayaṃ kappayiṃsu.
“They established a dwelling where there is no access for Māra or Māra’s retinue.
“Họ đã thiết lập nơi trú ngụ ở nơi mà Māra và đoàn tùy tùng của Māra không thể đến được.
Tatrāsayaṃ kappetvā amuṃ nivāpaṃ nivuttaṃ mārassa amūni ca lokāmisāni ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjiṃsu, te tattha ananupakhajja amucchitā bhojanāni bhuñjamānā na madaṃ āpajjiṃsu, amattā samānā na pamādaṃ āpajjiṃsu, appamattā samānā na yathākāmakaraṇīyā ahesuṃ mārassa amusmiṃ nivāpe amusmiñca lokāmise.
Having established a dwelling there, they partook of food without being ensnared or infatuated by this bait laid by Māra and these worldly allurements. There, partaking of food without being ensnared or infatuated, they did not fall into intoxication. Not being intoxicated, they did not fall into heedlessness. Not being heedless, they were not subject to Māra's will regarding that bait and that worldly allurement.
Sau khi thiết lập nơi trú ngụ ở đó, họ đã thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm vào bãi cỏ do Māra gieo rắc này và những mồi nhử thế gian kia. Ở đó, khi thọ dụng các món ăn mà không bám víu, không mê đắm, họ đã không rơi vào say đắm, không say đắm nên họ đã không rơi vào phóng dật, không phóng dật nên họ đã không hành động theo ý muốn của Māra đối với bãi cỏ và những mồi nhử thế gian kia.
Evañhi te, bhikkhave, catutthā samaṇabrāhmaṇā parimucciṃsu mārassa iddhānubhāvā.
It was in this way, bhikkhus, that these fourth recluses and brahmins were freed from Māra’s power.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, những Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này đã thoát khỏi quyền năng của Māra.
Seyyathāpi te, bhikkhave, catutthā migajātā tathūpame ahaṃ ime catutthe samaṇabrāhmaṇe vadāmi.
Just as those fourth deer, bhikkhus, so do I speak of these fourth recluses and brahmins as being comparable.
Này các Tỳ-khưu, ta nói những Sa-môn, Bà-la-môn thứ tư này giống như loài nai thứ tư kia.
271. ‘‘Kathañca, bhikkhave, agati mārassa ca māraparisāya ca?
271. “And how, bhikkhus, is there no access for Māra or Māra’s retinue?
271. “Và này các Tỳ-khưu, làm thế nào để Māra và đoàn tùy tùng của Māra không thể đến được?
Idha, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Here, bhikkhus, a bhikkhu, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, enters and dwells in the first jhāna, which is accompanied by vitakka and vicāra, with joy and pleasure born of seclusion.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc do viễn ly sinh.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ, apadaṃ vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato.
This, bhikkhus, is called a bhikkhu who has blinded Māra, who has shattered Māra’s vision and gone beyond the sight of the Evil One.
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu này được gọi là đã làm cho Māra mù quáng, đã đánh bại Māra và mắt của kẻ ác đã không còn nhìn thấy.
272. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
272. Thus have I heard—On one occasion the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, at Jetavana, Anāthapiṇḍika’s monastery.
272. Như vầy tôi nghe: Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi.
Then, in the forenoon, the Blessed One dressed, took his bowl and robe, and entered Sāvatthī for alms.
Rồi vào buổi sáng, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát và đi vào Sāvatthī để khất thực.
Atha kho sambahulā bhikkhū yenāyasmā ānando tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocuṃ – ‘‘cirassutā no, āvuso ānanda, bhagavato sammukhā dhammī kathā.
Then a number of bhikkhus approached Venerable Ānanda; having approached, they said to Venerable Ānanda: ‘‘It has been a long time, friend Ānanda, since we heard a discourse on the Dhamma from the Blessed One himself.
Sau đó, nhiều Tỳ-khưu đi đến chỗ Tôn giả Ānanda; sau khi đến, họ nói với Tôn giả Ānanda: “Thưa Hiền giả Ānanda, đã lâu rồi chúng tôi không được nghe pháp thoại trực tiếp từ Đức Thế Tôn.
Sādhu mayaṃ, āvuso ānanda, labheyyāma bhagavato sammukhā dhammiṃ kathaṃ savanāyā’’ti.
It would be good, friend Ānanda, if we could hear a discourse on the Dhamma from the Blessed One himself.’’
Thưa Hiền giả Ānanda, thật tốt lành nếu chúng tôi được nghe pháp thoại trực tiếp từ Đức Thế Tôn.”
‘‘Tena hāyasmanto yena rammakassa brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkamatha; appeva nāma labheyyātha bhagavato sammukhā dhammiṃ kathaṃ savanāyā’’ti.
‘‘In that case, venerable sirs, go to the hermitage of the brahmin Rammaka; perhaps you may be able to hear a discourse on the Dhamma from the Blessed One himself.’’
“Vậy thì, thưa các Hiền giả, hãy đi đến tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka; có lẽ các Hiền giả sẽ được nghe pháp thoại trực tiếp từ Đức Thế Tôn.”
‘‘Evamāvuso’’ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ.
‘‘Yes, friend,’’ those bhikkhus replied to Venerable Ānanda.
“Thưa Hiền giả, vâng.” Các Tỳ-khưu ấy đáp lời Tôn giả Ānanda.
Atha kho bhagavā sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘āyāmānanda, yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkamissāma divāvihārāyā’’ti.
Then, having wandered for alms in Sāvatthī and returned from his alms round after the meal, the Blessed One addressed Venerable Ānanda: ‘‘Come, Ānanda, let us go to the Pubbārāma, Migāramātupāsāda, for the day’s abiding.’’
Sau đó, Đức Thế Tôn sau khi khất thực ở Sāvatthī và dùng bữa xong, Ngài gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Púbbārāma, cung điện của Migāramātā, để nghỉ trưa.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
‘‘Yes, venerable sir,’’ Venerable Ānanda replied to the Blessed One.
“Bạch Thế Tôn, vâng.” Tôn giả Ānanda đáp lời Đức Thế Tôn.
Atha kho bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena pubbārāmo migāramātupāsādo tenupasaṅkami divāvihārāya.
Then the Blessed One, together with Venerable Ānanda, went to the Pubbārāma, Migāramātupāsāda, for the day’s abiding.
Rồi Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến Púbbārāma, cung điện của Migāramātā, để nghỉ trưa.
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi – ‘‘āyāmānanda, yena pubbakoṭṭhako tenupasaṅkamissāma gattāni parisiñcitu’’nti.
Then, in the evening, having risen from seclusion, the Blessed One addressed Venerable Ānanda: ‘‘Come, Ānanda, let us go to the eastern gatehouse (pubbakoṭṭhaka) to bathe our limbs.’’
Sau đó, vào buổi chiều, Đức Thế Tôn sau khi ra khỏi thiền định, Ngài gọi Tôn giả Ānanda: “Này Ānanda, chúng ta hãy đi đến Púbbakoṭṭhaka để tắm rửa thân thể.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
‘‘Yes, venerable sir,’’ Venerable Ānanda replied to the Blessed One.
“Bạch Thế Tôn, vâng.” Tôn giả Ānanda đáp lời Đức Thế Tôn.
273. Atha kho bhagavā āyasmatā ānandena saddhiṃ yena pubbakoṭṭhako tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.
273. Then the Blessed One, together with Venerable Ānanda, went to the eastern gatehouse to bathe his limbs.
273. Rồi Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ānanda đi đến Púbbakoṭṭhaka để tắm rửa thân thể.
Pubbakoṭṭhake gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.
Having bathed his limbs at the eastern gatehouse, and having come out, he stood wearing a single robe, drying his body.
Sau khi tắm rửa thân thể ở Púbbakoṭṭhaka, Ngài đi lên và đứng một mình với một y, làm khô thân thể.
Atha kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ayaṃ, bhante, rammakassa brāhmaṇassa assamo avidūre.
Then Venerable Ānanda said to the Blessed One: ‘‘Venerable sir, this hermitage of the brahmin Rammaka is not far.
Rồi Tôn giả Ānanda bạch Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka ở không xa đây.
Ramaṇīyo, bhante, rammakassa brāhmaṇassa assamo; pāsādiko, bhante, rammakassa brāhmaṇassa assamo.
Venerable sir, the hermitage of the brahmin Rammaka is delightful; venerable sir, the hermitage of the brahmin Rammaka is charming.
Bạch Thế Tôn, tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka thật khả ái; bạch Thế Tôn, tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka thật đáng kính.
Sādhu, bhante, bhagavā yena rammakassa brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’ti.
It would be good, venerable sir, if the Blessed One would approach the hermitage of the brahmin Rammaka out of compassion.’’
Bạch Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn vì lòng từ bi mà đi đến tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka.”
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
The Blessed One assented by silence.
Đức Thế Tôn im lặng chấp thuận.
Atha kho bhagavā yena rammakassa brāhmaṇassa assamo tenupasaṅkami.
Then the Blessed One approached the hermitage of the brahmin Rammaka.
Rồi Đức Thế Tôn đi đến tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka.
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū rammakassa brāhmaṇassa assame dhammiyā kathāya sannisinnā honti.
Now, at that time, a number of bhikkhus were sitting together in the hermitage of the brahmin Rammaka, engaged in a discourse on the Dhamma.
Lúc bấy giờ, nhiều Tỳ-khưu đang tề tựu trong tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka để đàm luận về Pháp.
Atha kho bhagavā bahidvārakoṭṭhake aṭṭhāsi kathāpariyosānaṃ āgamayamāno.
Then the Blessed One stood outside the door-post, waiting for the end of the discourse.
Rồi Đức Thế Tôn đứng bên ngoài cổng tịnh xá, chờ đợi cuộc đàm luận kết thúc.
Atha kho bhagavā kathāpariyosānaṃ viditvā ukkāsitvā aggaḷaṃ ākoṭesi.
Then, when the Blessed One knew the discourse had ended, he coughed and knocked on the door-bar.
Rồi Đức Thế Tôn biết cuộc đàm luận đã kết thúc, Ngài hắng giọng và gõ cửa.
Vivariṃsu kho te bhikkhū bhagavato dvāraṃ.
Those bhikkhus opened the door for the Blessed One.
Các Tỳ-khưu ấy mở cửa cho Đức Thế Tôn.
Atha kho bhagavā rammakassa brāhmaṇassa assamaṃ pavisitvā paññatte āsane nisīdi.
Then the Blessed One entered the hermitage of the brahmin Rammaka and sat down on the seat that had been prepared.
Rồi Đức Thế Tôn đi vào tịnh xá của Bà-la-môn Rammaka và ngồi xuống chỗ đã được sắp đặt.
Nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘kāyanuttha, bhikkhave, etarahi kathāya sannisinnā?
Having sat down, the Blessed One addressed the bhikkhus: ‘‘On what subject, bhikkhus, are you now sitting together?
Sau khi ngồi xuống, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, hiện giờ các ông đang tề tựu để nói chuyện gì?
Kā ca pana vo antarākathā vippakatā’’ti?
And what was the interrupted discussion you had in between?’’
Và câu chuyện giữa chừng của các ông là gì?”
‘‘Bhagavantameva kho no, bhante, ārabbha dhammī kathā vippakatā, atha bhagavā anuppatto’’ti.
‘‘Venerable sir, it was a discourse on the Dhamma that we had interrupted, concerning the Blessed One himself, when the Blessed One arrived.’’
“Bạch Thế Tôn, chúng con đang đàm luận về Pháp liên quan đến chính Đức Thế Tôn, và rồi Đức Thế Tôn đã đến.”
‘‘Sādhu, bhikkhave!
‘‘Excellent, bhikkhus!
“Tốt lắm, này các Tỳ-khưu!
Etaṃ kho, bhikkhave, tumhākaṃ patirūpaṃ kulaputtānaṃ saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitānaṃ yaṃ tumhe dhammiyā kathāya sannisīdeyyātha.
It is proper for you, bhikkhus, as young men of good family, who have gone forth from home to homelessness out of faith, that you should sit together engaged in a discourse on the Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, điều này thật thích hợp cho các ông, những thiện nam tử đã từ bỏ gia đình để xuất gia không gia đình với niềm tin, rằng các ông nên tề tựu để đàm luận về Pháp.
Sannipatitānaṃ vo, bhikkhave, dvayaṃ karaṇīyaṃ – dhammī vā kathā, ariyo vā tuṇhībhāvo’’.
When you are gathered, bhikkhus, there are two things to be done: a discourse on the Dhamma, or a noble silence.’’
Này các Tỳ-khưu, khi các ông tề tựu, có hai điều nên làm: hoặc là đàm luận về Pháp, hoặc là giữ im lặng cao quý.”
‘‘Kiñca, bhikkhave, jātidhammaṃ vadetha?
‘‘And what, bhikkhus, do you call subject to birth?
“Và này các Tỳ-khưu, các ông gọi những gì là chịu pháp sanh?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, jātidhammaṃ, dāsidāsaṃ jātidhammaṃ, ajeḷakaṃ jātidhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ jātidhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ jātidhammaṃ, jātarūparajataṃ jātidhammaṃ.
Children and wives, bhikkhus, are subject to birth; male and female slaves are subject to birth; goats and sheep are subject to birth; chickens and pigs are subject to birth; elephants, cattle, horses, and mares are subject to birth; gold and silver are subject to birth.
Này các Tỳ-khưu, con cái và vợ là chịu pháp sanh, nô tỳ nam và nữ là chịu pháp sanh, dê và cừu là chịu pháp sanh, gà và heo là chịu pháp sanh, voi, bò, ngựa và ngựa cái là chịu pháp sanh, vàng và bạc là chịu pháp sanh.
Jātidhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
These, bhikkhus, are acquisitions (upadhayo) subject to birth.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này là chịu pháp sanh.
Etthāyaṃ gathito* mucchito ajjhāpanno attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to birth, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to birth.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất sinh mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất sinh.
‘‘Kiñca, bhikkhave, jarādhammaṃ vadetha?
“And what, bhikkhus, do you call subject to aging?
"Này các Tỳ-khưu, các ông nói cái gì là có bản chất già?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, jarādhammaṃ, dāsidāsaṃ jarādhammaṃ, ajeḷakaṃ jarādhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ jarādhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ jarādhammaṃ, jātarūparajataṃ jarādhammaṃ.
Children and spouses, bhikkhus, are subject to aging; male and female slaves are subject to aging; goats and sheep are subject to aging; chickens and pigs are subject to aging; elephants, cattle, horses, and mares are subject to aging; gold and silver are subject to aging.
Này các Tỳ-khưu, vợ con là có bản chất già, nô tỳ nam nữ là có bản chất già, dê cừu là có bản chất già, gà heo là có bản chất già, voi bò ngựa lừa là có bản chất già, vàng bạc là có bản chất già.
Jarādhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Indeed, bhikkhus, these attachments are subject to aging.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này có bản chất già.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā jarādhammo samāno jarādhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to aging, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to aging.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất già mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất già.
‘‘Kiñca, bhikkhave, byādhidhammaṃ vadetha?
“And what, bhikkhus, do you call subject to sickness?
"Này các Tỳ-khưu, các ông nói cái gì là có bản chất bệnh?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, byādhidhammaṃ, dāsidāsaṃ byādhidhammaṃ, ajeḷakaṃ byādhidhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ byādhidhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ byādhidhammaṃ.
Children and spouses, bhikkhus, are subject to sickness; male and female slaves are subject to sickness; goats and sheep are subject to sickness; chickens and pigs are subject to sickness; elephants, cattle, horses, and mares are subject to sickness.
Này các Tỳ-khưu, vợ con là có bản chất bệnh, nô tỳ nam nữ là có bản chất bệnh, dê cừu là có bản chất bệnh, gà heo là có bản chất bệnh, voi bò ngựa lừa là có bản chất bệnh.
Byādhidhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Indeed, bhikkhus, these attachments are subject to sickness.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này có bản chất bệnh.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to sickness, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to sickness.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất bệnh mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất bệnh.
‘‘Kiñca, bhikkhave, maraṇadhammaṃ vadetha?
“And what, bhikkhus, do you call subject to death?
"Này các Tỳ-khưu, các ông nói cái gì là có bản chất chết?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, maraṇadhammaṃ, dāsidāsaṃ maraṇadhammaṃ, ajeḷakaṃ maraṇadhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ maraṇadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ maraṇadhammaṃ.
Children and spouses, bhikkhus, are subject to death; male and female slaves are subject to death; goats and sheep are subject to death; chickens and pigs are subject to death; elephants, cattle, horses, and mares are subject to death.
Này các Tỳ-khưu, vợ con là có bản chất chết, nô tỳ nam nữ là có bản chất chết, dê cừu là có bản chất chết, gà heo là có bản chất chết, voi bò ngựa lừa là có bản chất chết.
Maraṇadhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Indeed, bhikkhus, these attachments are subject to death.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này có bản chất chết.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to death, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to death.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất chết mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất chết.
‘‘Kiñca, bhikkhave, sokadhammaṃ vadetha?
“And what, bhikkhus, do you call subject to sorrow?
"Này các Tỳ-khưu, các ông nói cái gì là có bản chất sầu khổ?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, sokadhammaṃ, dāsidāsaṃ sokadhammaṃ, ajeḷakaṃ sokadhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ sokadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ sokadhammaṃ.
Children and spouses, bhikkhus, are subject to sorrow; male and female slaves are subject to sorrow; goats and sheep are subject to sorrow; chickens and pigs are subject to sorrow; elephants, cattle, horses, and mares are subject to sorrow.
Này các Tỳ-khưu, vợ con là có bản chất sầu khổ, nô tỳ nam nữ là có bản chất sầu khổ, dê cừu là có bản chất sầu khổ, gà heo là có bản chất sầu khổ, voi bò ngựa lừa là có bản chất sầu khổ.
Sokadhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Indeed, bhikkhus, these attachments are subject to sorrow.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này có bản chất sầu khổ.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā sokadhammo samāno sokadhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to sorrow, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to sorrow.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất sầu khổ mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất sầu khổ.
‘‘Kiñca, bhikkhave, saṃkilesadhammaṃ vadetha?
“And what, bhikkhus, do you call subject to defilement?
"Này các Tỳ-khưu, các ông nói cái gì là có bản chất ô nhiễm?
Puttabhariyaṃ, bhikkhave, saṃkilesadhammaṃ, dāsidāsaṃ saṃkilesadhammaṃ, ajeḷakaṃ saṃkilesadhammaṃ, kukkuṭasūkaraṃ saṃkilesadhammaṃ, hatthigavāssavaḷavaṃ saṃkilesadhammaṃ, jātarūparajataṃ saṃkilesadhammaṃ.
Children and spouses, bhikkhus, are subject to defilement; male and female slaves are subject to defilement; goats and sheep are subject to defilement; chickens and pigs are subject to defilement; elephants, cattle, horses, and mares are subject to defilement; gold and silver are subject to defilement.
Này các Tỳ-khưu, vợ con là có bản chất ô nhiễm, nô tỳ nam nữ là có bản chất ô nhiễm, dê cừu là có bản chất ô nhiễm, gà heo là có bản chất ô nhiễm, voi bò ngựa lừa là có bản chất ô nhiễm, vàng bạc là có bản chất ô nhiễm.
Saṃkilesadhammā hete, bhikkhave, upadhayo.
Indeed, bhikkhus, these attachments are subject to defilement.
Này các Tỳ-khưu, những thứ chấp thủ này có bản chất ô nhiễm.
Etthāyaṃ gathito mucchito ajjhāpanno attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesati.
Here, this person, being himself subject to defilement, is bound, infatuated, and overcome, and seeks only that which is subject to defilement.
Người này bị dính mắc, bị mê muội, bị lún sâu vào đây, tự mình có bản chất ô nhiễm mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất ô nhiễm.
Ayaṃ, bhikkhave, anariyā pariyesanā.
This, bhikkhus, is the ignoble search.
Này các Tỳ-khưu, đây là sự tìm cầu không cao thượng.
275. ‘‘Katamā ca, bhikkhave, ariyā pariyesanā?
275. “And what, bhikkhus, is the noble search?
275. "Và này các Tỳ-khưu, thế nào là sự tìm cầu cao thượng?
Idha, bhikkhave, ekacco attanā jātidhammo samāno jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā jarādhammo samāno jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā byādhidhammo samāno byādhidhamme ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā asokaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesati.
Here, bhikkhus, someone, being himself subject to birth, having seen the drawback in that which is subject to birth, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is unborn; being himself subject to aging, having seen the drawback in that which is subject to aging, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is ageless; being himself subject to sickness, having seen the drawback in that which is subject to sickness, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is free from sickness; being himself subject to death, having seen the drawback in that which is subject to death, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is deathless; being himself subject to sorrow, having seen the drawback in that which is subject to sorrow, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is sorrowless; being himself subject to defilement, having seen the drawback in that which is subject to defilement, seeks the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is undefiled.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, có người tự mình có bản chất sinh, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất sinh, tìm cầu Niết-bàn, vô sinh, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược (yogakkhema); tự mình có bản chất già, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất già, tìm cầu Niết-bàn, vô già, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất bệnh, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất bệnh, tìm cầu Niết-bàn, vô bệnh, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất chết, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất chết, tìm cầu Niết-bàn, bất tử, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất sầu khổ, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất sầu khổ, tìm cầu Niết-bàn, vô sầu, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất ô nhiễm, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất ô nhiễm, tìm cầu Niết-bàn, không ô nhiễm, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược.
Ayaṃ, bhikkhave, ariyā pariyesanā.
This, bhikkhus, is the noble search.
Này các Tỳ-khưu, đây là sự tìm cầu cao thượng.
276. ‘‘Ahampi sudaṃ, bhikkhave, pubbeva sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesāmi, attanā jarādhammo samāno jarādhammaṃyeva pariyesāmi, attanā byādhidhammo samāno byādhidhammaṃyeva pariyesāmi, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhammaṃyeva pariyesāmi, attanā sokadhammo samāno sokadhammaṃyeva pariyesāmi, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesāmi.
276. “Before my Enlightenment, bhikkhus, while I was still an unenlightened Bodhisatta, I myself, being subject to birth, sought only that which is subject to birth; being subject to aging, I sought only that which is subject to aging; being subject to sickness, I sought only that which is subject to sickness; being subject to death, I sought only that which is subject to death; being subject to sorrow, I sought only that which is subject to sorrow; being subject to defilement, I sought only that which is subject to defilement.
276. "Này các Tỳ-khưu, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi còn là Bồ-tát chưa chứng Chánh Đẳng Giác, tự mình có bản chất sinh mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất sinh; tự mình có bản chất già mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất già; tự mình có bản chất bệnh mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất bệnh; tự mình có bản chất chết mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất chết; tự mình có bản chất sầu khổ mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất sầu khổ; tự mình có bản chất ô nhiễm mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất ô nhiễm.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘kiṃ nu kho ahaṃ attanā jātidhammo samāno jātidhammaṃyeva pariyesāmi, attanā jarādhammo samāno…pe… byādhidhammo samāno… maraṇadhammo samāno… sokadhammo samāno… attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhammaṃyeva pariyesāmi?
Then, bhikkhus, this thought occurred to me: ‘Why do I, being myself subject to birth, seek only that which is subject to birth? Why do I, being myself subject to aging… subject to sickness… subject to death… subject to sorrow… being myself subject to defilement, seek only that which is subject to defilement?
Này các Tỳ-khưu, rồi Ta suy nghĩ: 'Tại sao Ta, tự mình có bản chất sinh mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất sinh? Tự mình có bản chất già... (v.v.)... bệnh... chết... sầu khổ... tự mình có bản chất ô nhiễm mà chỉ tìm kiếm những gì có bản chất ô nhiễm?
Yaṃnūnāhaṃ attanā jātidhammo samāno jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā jarādhammo samāno jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā byādhidhammo samāno byādhidhamme ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā asokaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyyaṃ, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyeseyya’nti.
What if I, being myself subject to birth, having seen the drawback in that which is subject to birth, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is unborn? What if I, being myself subject to aging, having seen the drawback in that which is subject to aging, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is ageless? What if I, being myself subject to sickness, having seen the drawback in that which is subject to sickness, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is free from sickness? What if I, being myself subject to death, having seen the drawback in that which is subject to death, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is deathless? What if I, being myself subject to sorrow, having seen the drawback in that which is subject to sorrow, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is sorrowless? What if I, being myself subject to defilement, having seen the drawback in that which is subject to defilement, were to seek the unexcelled security from bondage, Nibbāna, which is undefiled?’
Vậy thì, tự mình có bản chất sinh, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất sinh, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, vô sinh, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất già, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất già, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, vô già, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất bệnh, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất bệnh, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, vô bệnh, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất chết, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất chết, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, bất tử, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất sầu khổ, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất sầu khổ, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, vô sầu, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược; tự mình có bản chất ô nhiễm, sau khi thấy sự nguy hiểm trong những gì có bản chất ô nhiễm, Ta hãy tìm cầu Niết-bàn, không ô nhiễm, vô thượng, an ổn khỏi các ách phược.'
277. ‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena daharova samāno susukāḷakeso, bhadrena yobbanena samannāgato paṭhamena vayasā akāmakānaṃ mātāpitūnaṃ assumukhānaṃ rudantānaṃ kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ pabbajiṃ.
277. “So, bhikkhus, at a later time, while still young, with raven black hair, endowed with the blessings of youth, in the prime of my life, I shaved off my hair and beard, put on saffron robes, and went forth from the home life into homelessness, despite my parents’ unwillingness, their faces wet with tears as they wept.
277. "Này các Tỳ-khưu, sau một thời gian, Ta còn trẻ, tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi thanh xuân tươi đẹp, ở độ tuổi đầu tiên, đã cạo bỏ râu tóc, đắp y cà-sa, từ bỏ gia đình xuất gia sống không gia đình, trong khi cha mẹ không muốn, nước mắt lưng tròng, than khóc.
So evaṃ pabbajito samāno kiṃ kusalagavesī* anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamāno yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ.
Having thus gone forth, seeking what is wholesome, seeking the unexcelled, supreme state of peace, I approached Āḷāra Kālāma.
Sau khi xuất gia như vậy, Ta, người tìm kiếm điều thiện, tìm cầu đạo quả an tịnh tối thượng, đã đến gặp Āḷāra Kālāma.
Upasaṅkamitvā āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ – ‘icchāmahaṃ, āvuso kālāma, imasmiṃ dhammavinaye brahmacariyaṃ caritu’nti.
Having approached Āḷāra Kālāma, I said to him: ‘I wish, friend Kālāma, to lead the holy life in this Dhamma and Discipline.’
Sau khi đến, Ta nói với Āḷāra Kālāma: 'Thưa Hiền giả Kālāma, tôi muốn thực hành Phạm hạnh trong Pháp và Luật này.'
Evaṃ vutte, bhikkhave, āḷāro kālāmo maṃ etadavoca – ‘viharatāyasmā; tādiso ayaṃ dhammo yattha viññū puriso nacirasseva sakaṃ ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’ti.
When I said this, bhikkhus, Āḷāra Kālāma said to me: ‘Let the venerable one dwell here. Such is this Dhamma that a wise person can, in no long time, realize for himself, understand, and abide in his own teacher’s doctrine.’
Này các Tỳ-khưu, khi được nói như vậy, Āḷāra Kālāma nói với Ta: 'Thưa Tôn giả, hãy ở lại; Pháp này là như vậy, một người có trí tuệ không lâu sau có thể tự mình chứng ngộ và an trú trong giáo lý của vị thầy mình.'
So kho ahaṃ, bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyāpuṇiṃ.
So, bhikkhus, in no long time, I quickly mastered that Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, Ta không lâu sau, đã nhanh chóng học được Pháp ấy.
So kho ahaṃ, bhikkhave, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalāpanamattena ñāṇavādañca vadāmi theravādañca, ‘jānāmi passāmī’ti ca paṭijānāmi ahañceva aññe ca.
So, bhikkhus, merely with lip service and by mere talk, I and others would declare the doctrine of knowledge and the doctrine of elders, and we would assert, ‘We know, we see.’
Này các Tỳ-khưu, chỉ với chừng đó, chỉ với việc nói ra những lời đã học, Ta và những người khác đều tuyên bố là có tri kiến, có kiến giải, và nói: 'Chúng tôi biết, chúng tôi thấy.'
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘na kho āḷāro kālāmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedeti; addhā āḷāro kālāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ viharatī’ti.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘Surely, Āḷāra Kālāma does not proclaim this Dhamma, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma,” merely out of faith; surely, Āḷāra Kālāma lives knowing and seeing this Dhamma.’
Này các Tỳ-khưu, ý nghĩ này khởi lên trong tôi: ‘Không phải Āḷāra Kālāma tuyên bố rằng ông sống an trú sau khi tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp này chỉ bằng niềm tin suông. Chắc chắn Āḷāra Kālāma đang sống an trú sau khi biết và thấy giáo pháp này’.
‘‘Atha khvāhaṃ, bhikkhave, yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā āḷāraṃ kālāmaṃ etadavocaṃ – ‘kittāvatā no, āvuso kālāma, imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesī’ti* ?
‘‘Then, bhikkhus, I approached Āḷāra Kālāma; having approached, I said to Āḷāra Kālāma: ‘To what extent, friend Kālāma, do you proclaim this Dhamma, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma”?’
Này các Tỳ-khưu, rồi tôi đến chỗ Āḷāra Kālāma; sau khi đến, tôi nói với Āḷāra Kālāma rằng: ‘Này Hiền giả Kālāma, Hiền giả tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp này đến mức độ nào?’
Evaṃ vutte, bhikkhave, āḷāro kālāmo ākiñcaññāyatanaṃ pavedesi.
When this was said, bhikkhus, Āḷāra Kālāma declared the sphere of nothingness (ākiñcaññāyatana).
Này các Tỳ-khưu, khi được nói như vậy, Āḷāra Kālāma tuyên bố về Ākiñcaññāyatana (Không Vô Sở Hữu Xứ).
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘na kho āḷārasseva kālāmassa atthi saddhā, mayhaṃpatthi saddhā; na kho āḷārasseva kālāmassa atthi vīriyaṃ, mayhaṃpatthi vīriyaṃ; na kho āḷārasseva kālāmassa atthi sati, mayhaṃpatthi sati; na kho āḷārasseva kālāmassa atthi samādhi, mayhaṃpatthi samādhi; na kho āḷārasseva kālāmassa atthi paññā, mayhaṃpatthi paññā.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘It is not only Āḷāra Kālāma who has faith; I too have faith. It is not only Āḷāra Kālāma who has energy; I too have energy. It is not only Āḷāra Kālāma who has mindfulness; I too have mindfulness. It is not only Āḷāra Kālāma who has concentration; I too have concentration. It is not only Āḷāra Kālāma who has wisdom; I too have wisdom.
Này các Tỳ-khưu, ý nghĩ này khởi lên trong tôi: ‘Không phải chỉ Āḷāra Kālāma có niềm tin, tôi cũng có niềm tin; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có tinh tấn, tôi cũng có tinh tấn; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có niệm, tôi cũng có niệm; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có định, tôi cũng có định; không phải chỉ Āḷāra Kālāma có tuệ, tôi cũng có tuệ.
Yaṃnūnāhaṃ yaṃ dhammaṃ āḷāro kālāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedeti, tassa dhammassa sacchikiriyāya padaheyya’nti.
What if I were to strive for the realization of the Dhamma that Āḷāra Kālāma proclaims, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma”?’
Vậy thì, tôi hãy nỗ lực để chứng ngộ giáo pháp mà Āḷāra Kālāma tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập’.
So kho ahaṃ, bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ.
So, bhikkhus, before long, very quickly, I myself directly knew, realized, and attained that Dhamma and lived in it.
Này các Tỳ-khưu, không lâu sau đó, tôi đã nhanh chóng tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp ấy và sống an trú trong đó.
‘Lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ sabrahmacāriṃ passāma.
‘It is a gain for us, friend, it is a great acquisition for us, that we see a venerable fellow practitioner such as you.
‘Thật là lợi lộc cho chúng ta, này Hiền giả, thật là điều may mắn cho chúng ta, này Hiền giả, khi chúng ta gặp được một vị đồng Phạm hạnh như vậy.
Iti yāhaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedemi taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi.
Thus, the Dhamma that I proclaim, having myself directly known, realized, and attained it, that Dhamma you too live having yourself directly known, realized, and attained it.
Giáo pháp mà tôi tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập, Hiền giả cũng sống an trú sau khi tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp ấy.
Yaṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi tamahaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedemi.
The Dhamma that you live having yourself directly known, realized, and attained it, that Dhamma I too proclaim having myself directly known, realized, and attained it.
Giáo pháp mà Hiền giả sống an trú sau khi tự mình chứng ngộ và thể nhập, tôi cũng tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp ấy.
Iti yāhaṃ dhammaṃ jānāmi taṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi tamahaṃ dhammaṃ jānāmi.
Thus, the Dhamma that I know, that Dhamma you know; the Dhamma that you know, that Dhamma I know.
Như vậy, giáo pháp tôi biết, Hiền giả cũng biết; giáo pháp Hiền giả biết, tôi cũng biết.
Iti yādiso ahaṃ tādiso tuvaṃ, yādiso tuvaṃ tādiso ahaṃ.
Thus, as I am, so are you; as you are, so am I.
Như vậy, tôi như thế nào, Hiền giả cũng như thế ấy; Hiền giả như thế nào, tôi cũng như thế ấy.
Ehi dāni, āvuso, ubhova santā imaṃ gaṇaṃ pariharāmā’ti.
Come now, friend, let us both, living together, lead this community.’
Này Hiền giả, vậy thì, cả hai chúng ta hãy cùng nhau cai quản đoàn thể này’.
Iti kho, bhikkhave, āḷāro kālāmo ācariyo me samāno (attano)* antevāsiṃ maṃ samānaṃ attanā* samasamaṃ ṭhapesi, uḷārāya ca maṃ pūjāya pūjesi.
Thus, bhikkhus, Āḷāra Kālāma, though he was my teacher, placed me, his pupil, on the same level as himself, and honored me with great veneration.
Này các Tỳ-khưu, như vậy, Āḷāra Kālāma, mặc dù là thầy của tôi, đã đặt tôi, người đệ tử, ngang hàng với mình, và đã tôn kính tôi bằng sự cúng dường cao quý.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘nāyaṃ dhammo nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati, yāvadeva ākiñcaññāyatanūpapattiyā’ti.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘This Dhamma does not lead to disenchantment, nor to dispassion, nor to cessation, nor to peace, nor to direct knowledge, nor to full enlightenment, nor to Nibbāna; it leads only to rebirth in the sphere of nothingness.’
Này các Tỳ-khưu, ý nghĩ này khởi lên trong tôi: ‘Giáo pháp này không đưa đến sự nhàm chán, không đưa đến sự ly tham, không đưa đến sự đoạn diệt, không đưa đến sự an tịnh, không đưa đến thắng trí, không đưa đến giác ngộ hoàn toàn, không đưa đến Nibbāna, mà chỉ đưa đến sự tái sinh vào cõi Ākiñcaññāyatana (Không Vô Sở Hữu Xứ)’.
So kho ahaṃ, bhikkhave, taṃ dhammaṃ analaṅkaritvā tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
So, bhikkhus, not valuing that Dhamma, I became disenchanted with it and departed from it.
Này các Tỳ-khưu, tôi không tán thành giáo pháp ấy, tôi đã chán ghét giáo pháp ấy và rời đi.
278. ‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, kiṃ kusalagavesī anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamāno yena udako* rāmaputto tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ – ‘icchāmahaṃ, āvuso* , imasmiṃ dhammavinaye brahmacariyaṃ caritu’nti.
278. ‘‘So, bhikkhus, searching for what is skillful, seeking the incomparable, supreme state of peace, I approached Uddaka Rāmaputta; having approached, I said to Uddaka Rāmaputta: ‘I wish, friend, to lead the holy life in this Dhamma and Discipline.’
278. Này các Tỳ-khưu, rồi tôi, người đang tìm kiếm điều thiện lành, đang tìm kiếm trạng thái tối thượng an tịnh, đã đến chỗ Udaka Rāmaputta; sau khi đến, tôi nói với Udaka Rāmaputta rằng: ‘Này Hiền giả, tôi muốn sống Phạm hạnh trong giáo pháp và giới luật này’.
Evaṃ vutte, bhikkhave, udako rāmaputto maṃ etadavoca – ‘viharatāyasmā; tādiso ayaṃ dhammo yattha viññū puriso nacirasseva sakaṃ ācariyakaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihareyyā’ti.
When this was said, bhikkhus, Uddaka Rāmaputta said to me: ‘Live, Venerable One; such is this Dhamma that an intelligent person, before long, can himself directly know, realize, and attain his teacher’s doctrine and live in it.’
Này các Tỳ-khưu, khi được nói như vậy, Udaka Rāmaputta nói với tôi rằng: ‘Hiền giả hãy ở lại; giáo pháp này là như vậy, một người trí tuệ không lâu sau có thể tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo lý của thầy mình và sống an trú trong đó’.
So kho ahaṃ, bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyāpuṇiṃ.
So, bhikkhus, before long, very quickly, I mastered that Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, không lâu sau đó, tôi đã nhanh chóng học thuộc giáo pháp ấy.
So kho ahaṃ, bhikkhave, tāvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalāpanamattena ñāṇavādañca vadāmi theravādañca, ‘jānāmi passāmī’ti ca paṭijānāmi ahañceva aññe ca.
So, bhikkhus, merely by touching with the lips, merely by talking and conversing, I proclaimed the doctrine of knowledge and the doctrine of the elders, and I and others declared, ‘We know, we see.’
Này các Tỳ-khưu, chỉ với mức độ đó, chỉ với việc chạm môi, chỉ với việc nói đi nói lại, tôi và những người khác đều tuyên bố là có kiến thức và có truyền thống (Theravāda), và tôi tuyên bố ‘tôi biết, tôi thấy’.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘na kho rāmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ saddhāmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesi; addhā rāmo imaṃ dhammaṃ jānaṃ passaṃ vihāsī’ti.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘Surely, Rāma did not proclaim this Dhamma, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma,” merely out of faith; surely, Rāma lived knowing and seeing this Dhamma.’
Này các Tỳ-khưu, ý nghĩ này khởi lên trong tôi: ‘Không phải Rāma tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp này chỉ bằng niềm tin suông; chắc chắn Rāma đã sống an trú sau khi biết và thấy giáo pháp này’.
‘‘Atha khvāhaṃ, bhikkhave, yena udako rāmaputto tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā udakaṃ rāmaputtaṃ etadavocaṃ – ‘kittāvatā no, āvuso, rāmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesī’ti?
‘‘Then, bhikkhus, I approached Uddaka Rāmaputta; having approached, I said to Uddaka Rāmaputta: ‘To what extent, friend, did Rāma proclaim this Dhamma, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma”?’
Này các Tỳ-khưu, rồi tôi đến chỗ Udaka Rāmaputta; sau khi đến, tôi nói với Udaka Rāmaputta rằng: ‘Này Hiền giả, Rāma đã tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp này đến mức độ nào?’
Evaṃ vutte, bhikkhave, udako rāmaputto nevasaññānāsaññāyatanaṃ pavedesi.
When this was said, bhikkhus, Uddaka Rāmaputta declared the sphere of neither perception nor non-perception (nevasaññānāsaññāyatana).
Này các Tỳ-khưu, khi được nói như vậy, Udaka Rāmaputta tuyên bố về Nevasaññānāsaññāyatana (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ).
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘na kho rāmasseva ahosi saddhā, mayhaṃpatthi saddhā; na kho rāmasseva ahosi vīriyaṃ, mayhaṃpatthi vīriyaṃ; na kho rāmasseva ahosi sati, mayhaṃpatthi sati; na kho rāmasseva ahosi samādhi, mayhaṃpatthi samādhi, na kho rāmasseva ahosi paññā, mayhaṃpatthi paññā.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘It was not only Rāma who had faith; I too have faith. It was not only Rāma who had energy; I too have energy. It was not only Rāma who had mindfulness; I too have mindfulness. It was not only Rāma who had concentration; I too have concentration. It was not only Rāma who had wisdom; I too have wisdom.
Này các Tỳ-khưu, ý nghĩ này khởi lên trong tôi: ‘Không phải chỉ Rāma có niềm tin, tôi cũng có niềm tin; không phải chỉ Rāma có tinh tấn, tôi cũng có tinh tấn; không phải chỉ Rāma có niệm, tôi cũng có niệm; không phải chỉ Rāma có định, tôi cũng có định; không phải chỉ Rāma có tuệ, tôi cũng có tuệ.
Yaṃnūnāhaṃ yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharāmīti pavedesi, tassa dhammassa sacchikiriyāya padaheyya’nti.
What if I were to strive for the realization of the Dhamma that Rāma proclaimed, saying, “I live having myself directly known, realized, and attained this Dhamma”?’
Vậy thì, tôi hãy nỗ lực để chứng ngộ giáo pháp mà Rāma tuyên bố đã tự mình chứng ngộ và thể nhập’.
So kho ahaṃ, bhikkhave, nacirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsiṃ.
So, bhikkhus, before long, very quickly, I myself directly knew, realized, and attained that Dhamma and lived in it.
Này các Tỳ-khưu, không lâu sau đó, tôi đã nhanh chóng tự mình chứng ngộ và thể nhập giáo pháp ấy và sống an trú trong đó.
‘Lābhā no, āvuso, suladdhaṃ no, āvuso, ye mayaṃ āyasmantaṃ tādisaṃ sabrahmacāriṃ passāma.
‘Gains for us, friends, excellent gains for us, friends, that we see the Venerable One, such a companion in the holy life.
‘Này chư Hiền, chúng ta có được lợi lộc, chúng ta đã được lợi lộc tốt đẹp, vì chúng ta được thấy một vị đồng Phạm hạnh đáng kính như vậy.
Iti yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesi, taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi.
Thus, the Dhamma that Rama proclaimed, having himself directly known, realized, and attained, that Dhamma you dwell in, having yourself directly known, realized, and attained.
Như vậy, pháp mà Rāma tự mình chứng ngộ, chứng đạt và tuyên bố, thì ông cũng tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú trong pháp ấy.
Yaṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharasi, taṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja pavedesi.
The Dhamma that you dwell in, having yourself directly known, realized, and attained, that Dhamma Rama proclaimed, having himself directly known, realized, and attained.
Pháp mà ông tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú, thì Rāma cũng tự mình chứng ngộ, chứng đạt và tuyên bố pháp ấy.
Iti yaṃ dhammaṃ rāmo abhiññāsi taṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, yaṃ tvaṃ dhammaṃ jānāsi, taṃ dhammaṃ rāmo abhiññāsi.
Thus, the Dhamma that Rama directly knew, that Dhamma you know; what Dhamma you know, that Dhamma Rama directly knew.
Như vậy, pháp mà Rāma đã chứng ngộ thì ông cũng biết pháp ấy; pháp mà ông biết thì Rāma cũng đã chứng ngộ pháp ấy.
Iti yādiso rāmo ahosi tādiso tuvaṃ, yādiso tuvaṃ tādiso rāmo ahosi.
Thus, as Rama was, so are you; as you are, so was Rama.
Như vậy, Rāma như thế nào thì ông cũng như thế ấy; ông như thế nào thì Rāma cũng như thế ấy.
Ehi dāni, āvuso, tuvaṃ imaṃ gaṇaṃ pariharā’ti.
Come now, friend, you lead this assembly.’
Này chư Hiền, bây giờ ông hãy dẫn dắt chúng hội này.’
Iti kho, bhikkhave, udako rāmaputto sabrahmacārī me samāno ācariyaṭṭhāne maṃ ṭhapesi, uḷārāya ca maṃ pūjāya pūjesi.
Thus, bhikkhus, Udaka Rāmaputta, though my companion in the holy life, placed me in the position of a teacher, and honored me with great honor.
Này chư Tỳ-kheo, như vậy, Udaka Rāmaputta, đồng Phạm hạnh với ta, đã đặt ta vào vị trí của một vị thầy, và đã tôn kính ta với sự cúng dường cao quý.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘nāyaṃ dhammo nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati, yāvadeva nevasaññānāsaññāyatanūpapattiyā’ti.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘This Dhamma does not lead to disenchantment, nor to dispassion, nor to cessation, nor to peace, nor to direct knowledge, nor to full awakening, nor to Nibbāna; it leads only to rebirth in the sphere of neither perception nor non-perception.’
Này chư Tỳ-kheo, ta đã nghĩ: ‘Pháp này không đưa đến sự nhàm chán, không đưa đến sự ly tham, không đưa đến sự đoạn diệt, không đưa đến sự an tịnh, không đưa đến sự thắng trí, không đưa đến sự giác ngộ tối thượng, không đưa đến Nibbāna, mà chỉ đưa đến sự tái sanh vào cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà thôi.’
So kho ahaṃ, bhikkhave, taṃ dhammaṃ analaṅkaritvā tasmā dhammā nibbijja apakkamiṃ.
So, bhikkhus, not being delighted by that Dhamma, I became disenchanted with that Dhamma and departed.
Này chư Tỳ-kheo, ta không tán thán pháp ấy, và vì nhàm chán pháp ấy, ta đã rời đi.
279. ‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, kiṃ kusalagavesī anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamāno magadhesu anupubbena cārikaṃ caramāno yena uruvelā senānigamo tadavasariṃ.
279. ‘‘Then, bhikkhus, seeking what is wholesome, searching for the unexcelled, supreme state of peace, I wandered progressively through Magadha and arrived at Uruvelā, a military encampment.
279. Này chư Tỳ-kheo, ta, người đang tìm kiếm điều thiện, đang tìm kiếm trạng thái an tịnh tối thượng vô thượng, đã tuần tự du hành qua xứ Magadha, rồi đến làng quân sự Uruvelā.
Tatthaddasaṃ ramaṇīyaṃ bhūmibhāgaṃ, pāsādikañca vanasaṇḍaṃ, nadiñca sandantiṃ setakaṃ supatitthaṃ ramaṇīyaṃ, samantā* ca gocaragāmaṃ.
There I saw a beautiful stretch of ground, a pleasing forest grove, a river flowing with clear water, with good fords, and delightful, and all around were villages for alms-round.
Ở đó, ta thấy một vùng đất đẹp đẽ, một khu rừng khả ái, một dòng sông trong xanh chảy xiết với bến nước tốt lành và đẹp đẽ, và một làng khất thực ở xung quanh.
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘ramaṇīyo vata, bho, bhūmibhāgo, pāsādiko ca vanasaṇḍo, nadī ca sandati setakā supatitthā ramaṇīyā, samantā ca gocaragāmo.
Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘Indeed, this is a beautiful stretch of ground, and a pleasing forest grove, and the river flows with clear water, with good fords, and is delightful, and all around are villages for alms-round.
Này chư Tỳ-kheo, ta đã nghĩ: ‘Ôi, vùng đất này thật đẹp đẽ, khu rừng này thật khả ái, dòng sông trong xanh chảy xiết với bến nước tốt lành và đẹp đẽ, và một làng khất thực ở xung quanh.
Alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāyā’ti.
Indeed, this is sufficient for a young man desirous of exertion, for exertion.’
Thật thích hợp cho một thiện nam tử có ý chí tinh tấn để thực hành tinh tấn!’
So kho ahaṃ, bhikkhave, tattheva nisīdiṃ – alamidaṃ padhānāyāti.
So, bhikkhus, I sat down right there, thinking: ‘This is sufficient for exertion.’
Này chư Tỳ-kheo, ta đã ngồi xuống ngay tại đó, nghĩ rằng: ‘Nơi này thích hợp cho sự tinh tấn.’
280. ‘‘So kho ahaṃ, bhikkhave, attanā jātidhammo samāno jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā jarādhammo samāno jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā byādhidhammo samāno byādhidhamme ādīnavaṃ viditvā abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno abyādhiṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā maraṇadhammo samāno maraṇadhamme ādīnavaṃ viditvā amataṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā sokadhammo samāno sokadhamme ādīnavaṃ viditvā asokaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ, attanā saṃkilesadhammo samāno saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamāno asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃ.
280. ‘‘Then, bhikkhus, I, who was myself subject to birth, having understood the danger in what is subject to birth, seeking the unborn, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the unborn, unexcelled security from bondage, Nibbāna; I, who was myself subject to aging, having understood the danger in what is subject to aging, seeking the unaging, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the unaging, unexcelled security from bondage, Nibbāna; I, who was myself subject to sickness, having understood the danger in what is subject to sickness, seeking the unailing, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the unailing, unexcelled security from bondage, Nibbāna; I, who was myself subject to death, having understood the danger in what is subject to death, seeking the undying, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the undying, unexcelled security from bondage, Nibbāna; I, who was myself subject to sorrow, having understood the danger in what is subject to sorrow, seeking the sorrowless, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the sorrowless, unexcelled security from bondage, Nibbāna; I, who was myself subject to defilement, having understood the danger in what is subject to defilement, seeking the undefiled, unexcelled security from bondage, Nibbāna, I attained the undefiled, unexcelled security from bondage, Nibbāna.
280. Này chư Tỳ-kheo, ta, tự mình chịu sự sanh, đã thấy sự nguy hiểm của sự sanh, đã tìm kiếm Nibbāna vô sanh, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna vô sanh, vô thượng, vô ách. Tự mình chịu sự già, đã thấy sự nguy hiểm của sự già, đã tìm kiếm Nibbāna vô già, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna vô già, vô thượng, vô ách. Tự mình chịu sự bệnh, đã thấy sự nguy hiểm của sự bệnh, đã tìm kiếm Nibbāna vô bệnh, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna vô bệnh, vô thượng, vô ách. Tự mình chịu sự chết, đã thấy sự nguy hiểm của sự chết, đã tìm kiếm Nibbāna bất tử, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna bất tử, vô thượng, vô ách. Tự mình chịu sự sầu, đã thấy sự nguy hiểm của sự sầu, đã tìm kiếm Nibbāna vô sầu, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna vô sầu, vô thượng, vô ách. Tự mình chịu sự ô nhiễm, đã thấy sự nguy hiểm của sự ô nhiễm, đã tìm kiếm Nibbāna vô ô nhiễm, vô thượng, vô ách, và đã chứng đạt Nibbāna vô ô nhiễm, vô thượng, vô ách.
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi – ‘akuppā me vimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’ti.
And knowledge and vision arose in me: ‘My liberation is unshakeable; this is my last birth; now there is no more renewed existence.’
Và tri kiến đã khởi lên nơi ta: ‘Sự giải thoát của ta là bất động; đây là lần sanh cuối cùng; không còn tái sanh nữa.’
281. ‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘adhigato kho myāyaṃ dhammo gambhīro duddaso duranubodho santo paṇīto atakkāvacaro nipuṇo paṇḍitavedanīyo.
281. ‘‘Then, bhikkhus, it occurred to me: ‘This Dhamma that I have attained is profound, difficult to see, difficult to comprehend, peaceful, sublime, beyond the sphere of logical thought, subtle, to be experienced by the wise.
281. Này chư Tỳ-kheo, ta đã nghĩ: ‘Pháp này ta đã chứng đạt thật sâu xa, khó thấy, khó thấu hiểu, tịch tịnh, vi diệu, vượt ngoài tầm suy luận, tế nhị, chỉ bậc trí mới có thể cảm nhận.
Ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratā ālayasammuditā.
But this generation delights in attachment, rejoices in attachment, is content in attachment.
Nhưng chúng sanh này lại ưa thích chấp thủ (ālaya), vui thích chấp thủ, hoan hỷ trong chấp thủ.
Ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratāya ālayasammuditāya duddasaṃ idaṃ ṭhānaṃ yadidaṃ – idappaccayatā paṭiccasamuppādo.
For this generation that delights in attachment, rejoices in attachment, and is content in attachment, it is difficult to see this state, namely, specific conditionality, dependent origination.
Đối với chúng sanh ưa thích chấp thủ, vui thích chấp thủ, hoan hỷ trong chấp thủ này, thật khó thấy được trạng thái này, tức là Duyên khởi (Idappaccayatā Paṭiccasamuppāda).
Idampi kho ṭhānaṃ duddasaṃ yadidaṃ – sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ.
This state is also difficult to see, namely, the stilling of all formations, the relinquishing of all substrata of existence, the destruction of craving, dispassion, cessation, Nibbāna.
Trạng thái này cũng thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành (saṅkhāra), sự xả bỏ tất cả chấp thủ (upadhi), sự diệt tận tham ái (taṇhā), sự ly tham (virāga), sự đoạn diệt (nirodha), Nibbāna.
Ahañceva kho pana dhammaṃ deseyyaṃ, pare ca me na ājāneyyuṃ, so mamassa kilamatho, sā mamassa vihesā’ti.
If I were to teach the Dhamma, and others would not understand me, that would be weariness for me, that would be vexation for me.’
Nếu ta thuyết pháp, mà người khác không hiểu, thì điều đó sẽ làm ta mệt mỏi, sẽ làm ta phiền não.’
Apissu maṃ, bhikkhave, imā anacchariyā gāthāyo paṭibhaṃsu pubbe assutapubbā –
And then, bhikkhus, these unmarvelous verses occurred to me, never heard before:
Này chư Tỳ-kheo, những bài kệ phi thường này, chưa từng được nghe trước đây, đã hiện lên trong tâm ta:
282. ‘‘Itiha me, bhikkhave, paṭisañcikkhato appossukkatāya cittaṃ namati, no dhammadesanāya.
282. ‘‘Thus, bhikkhus, as I reflected, my mind inclined to dwelling at ease, not to teaching the Dhamma.
282. Này chư Tỳ-kheo, khi ta suy tư như vậy, tâm ta nghiêng về sự ít bận tâm, không nghiêng về việc thuyết pháp.
Atha kho, bhikkhave, brahmuno sahampatissa mama cetasā cetoparivitakkamaññāya etadahosi – ‘nassati vata bho loko, vinassati vata bho loko, yatra hi nāma tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa appossukkatāya cittaṃ namati* , no dhammadesanāyā’ti.
Then, bhikkhus, Brahmā Sahampati, having known my thought with his mind, thought: ‘Alas, the world is perishing, alas, the world is being destroyed! How can it be that the mind of the Tathāgata, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One, inclines to dwelling at ease, not to teaching the Dhamma!’
Này chư Tỳ-kheo, sau đó, Brahmā Sahampati, biết được ý nghĩ trong tâm ta bằng tâm của mình, đã nghĩ: ‘Ôi, thế gian này sẽ bị hủy hoại, thế gian này sẽ bị tiêu vong, khi mà tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, lại nghiêng về sự ít bận tâm, không nghiêng về việc thuyết pháp!’
Atha kho, bhikkhave, brahmā sahampati – seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evameva – brahmaloke antarahito mama purato pāturahosi.
Then, bhikkhus, Brahmā Sahampati, just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, so too he vanished from the Brahmā-world and appeared before me.
Này chư Tỳ-kheo, sau đó, Brahmā Sahampati, cũng như một người lực sĩ co cánh tay đang duỗi ra, hoặc duỗi cánh tay đang co lại, đã biến mất khỏi cõi Phạm thiên và hiện ra trước mặt ta.
Atha kho, bhikkhave, brahmā sahampati ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yenāhaṃ tenañjaliṃ paṇāmetvā maṃ etadavoca – ‘desetu, bhante, bhagavā dhammaṃ, desetu sugato dhammaṃ.
Then, bhikkhus, Brahmā Sahampati, having arranged his upper robe over one shoulder, extended his joined hands towards me and spoke to me thus: ‘Venerable Sir, let the Blessed One teach the Dhamma! Let the Sugata teach the Dhamma!
Này chư Tỳ-kheo, sau đó, Brahmā Sahampati, đắp y vai trái, chắp tay hướng về phía ta và thưa với ta: ‘Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, xin Thiện Thệ hãy thuyết pháp!
Santi sattā apparajakkhajātikā, assavanatā dhammassa parihāyanti.
There are beings with little dust in their eyes, who are perishing through not hearing the Dhamma.
Có những chúng sanh có ít bụi trần trong mắt, họ sẽ bị suy đồi nếu không được nghe Pháp.
Bhavissanti dhammassa aññātāro’ti.
There will be those who will understand the Dhamma.’
Sẽ có những người thấu hiểu Pháp.’
Idamavoca, bhikkhave, brahmā sahampati.
This is what Brahmā Sahampati said, bhikkhus.
Này chư Tỳ-kheo, Brahmā Sahampati đã nói như vậy.
Idaṃ vatvā athāparaṃ etadavoca –
Having said this, he then spoke further:
Sau khi nói điều đó, ngài lại nói thêm:
283. ‘‘Atha kho ahaṃ, bhikkhave, brahmuno ca ajjhesanaṃ viditvā sattesu ca kāruññataṃ paṭicca buddhacakkhunā lokaṃ volokesiṃ.
283. ‘‘Then, bhikkhus, having understood Brahmā’s request and out of compassion for beings, I surveyed the world with the Buddha-eye.
283. “Này các Tỳ-khưu, sau đó, khi đã biết được lời thỉnh cầu của Phạm Thiên và vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, Ta đã quán sát thế gian bằng Phật nhãn.
Addasaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, buddhacakkhunā lokaṃ volokento satte apparajakkhe mahārajakkhe, tikkhindriye mudindriye, svākāre dvākāre, suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvine* viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvine* viharante.
Monks, looking upon the world with the Buddha-eye, I saw beings with little dust in their eyes and with much dust in their eyes, with keen faculties and with dull faculties, with good dispositions and with bad dispositions, easy to instruct and difficult to instruct; some living with a perception of fear regarding faults in the next world, and some living without a perception of fear regarding faults in the next world.
Này các Tỳ-khưu, khi Ta dùng Phật nhãn quán sát thế gian, Ta thấy các chúng sanh có ít bụi trần, có nhiều bụi trần; có căn tánh bén nhạy, có căn tánh chậm lụt; có thiện hạnh, có ác hạnh; dễ dạy, khó dạy; một số sống với cái thấy sợ hãi tội lỗi ở đời sau, một số khác không sống với cái thấy sợ hãi tội lỗi ở đời sau.
Seyyathāpi nāma uppaliniyaṃ vā paduminiyaṃ vā puṇḍarīkiniyaṃ vā appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakānuggatāni antonimuggaposīni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakānuggatāni samodakaṃ ṭhitāni, appekaccāni uppalāni vā padumāni vā puṇḍarīkāni vā udake jātāni udake saṃvaḍḍhāni udakaṃ accuggamma ṭhitāni* anupalittāni udakena; evameva kho ahaṃ, bhikkhave, buddhacakkhunā lokaṃ volokento addasaṃ satte apparajakkhe mahārajakkhe, tikkhindriye mudindriye, svākāre dvākāre, suviññāpaye duviññāpaye, appekacce paralokavajjabhayadassāvine viharante, appekacce na paralokavajjabhayadassāvine viharante.
Just as, monks, in a pond of blue lotuses or a pond of red lotuses or a pond of white lotuses, some blue lotuses or red lotuses or white lotuses, born in the water, grown in the water, remaining submerged, nourished within the water; and some blue lotuses or red lotuses or white lotuses, born in the water, grown in the water, emerged from the water and standing level with the water; and some blue lotuses or red lotuses or white lotuses, born in the water, grown in the water, having risen above the water, stand unbesmeared by the water; even so, monks, looking upon the world with the Buddha-eye, I saw beings with little dust in their eyes and with much dust in their eyes, with keen faculties and with dull faculties, with good dispositions and with bad dispositions, easy to instruct and difficult to instruct; some living with a perception of fear regarding faults in the next world, and some living without a perception of fear regarding faults in the next world.
Cũng như trong đầm sen xanh, đầm sen hồng, hay đầm sen trắng, có những hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong nước, chìm sâu trong nước, được nước nuôi dưỡng; có những hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong nước, ngang mặt nước; có những hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng sinh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn cao khỏi mặt nước, không bị nước làm ô nhiễm. Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, khi Ta dùng Phật nhãn quán sát thế gian, Ta thấy các chúng sanh có ít bụi trần, có nhiều bụi trần; có căn tánh bén nhạy, có căn tánh chậm lụt; có thiện hạnh, có ác hạnh; dễ dạy, khó dạy; một số sống với cái thấy sợ hãi tội lỗi ở đời sau, một số khác không sống với cái thấy sợ hãi tội lỗi ở đời sau.
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, brahmānaṃ sahampatiṃ gāthāya paccabhāsiṃ –
Then, monks, I addressed Brahmā Sahampati with a stanza:
Bấy giờ, này các Tỳ-khưu, Ta đã đáp lại Phạm thiên Sahampati bằng bài kệ:
284. ‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ; ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti?
284. “Then, monks, this thought occurred to me: ‘To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?’
284. Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Ta nên thuyết Pháp cho ai trước? Ai sẽ nhanh chóng hiểu được Pháp này?’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘ayaṃ kho āḷāro kālāmo paṇḍito viyatto medhāvī dīgharattaṃ apparajakkhajātiko.
Then, monks, this thought occurred to me: ‘This Āḷāra Kālāma is wise, skilled, intelligent, and has had little dust in his eyes for a long time.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Đạo sĩ Āḷāra Kālāma này là người thông thái, khéo léo, có trí tuệ, và đã có ít bụi trần trong một thời gian dài.
Yaṃnūnāhaṃ āḷārassa kālāmassa paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ.
What if I were to teach the Dhamma first to Āḷāra Kālāma?
Hay là Ta nên thuyết Pháp cho đạo sĩ Āḷāra Kālāma trước.
So imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti.
He would quickly understand this Dhamma.’
Ông ấy sẽ nhanh chóng hiểu được Pháp này.’
Atha kho maṃ, bhikkhave, devatā upasaṅkamitvā etadavoca – ‘sattāhakālaṅkato, bhante, āḷāro kālāmo’ti.
Then, monks, a devatā approached me and said: ‘Venerable Sir, Āḷāra Kālāma passed away seven days ago.’
Bấy giờ, này các Tỳ-khưu, một vị thiên đến gần Ta và nói: ‘Bạch Thế Tôn, đạo sĩ Āḷāra Kālāma đã qua đời được bảy ngày rồi.’
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi – ‘sattāhakālaṅkato āḷāro kālāmo’ti.
And then knowledge and vision arose in me: ‘Āḷāra Kālāma passed away seven days ago.’
Và tri kiến của Ta đã khởi lên: ‘Đạo sĩ Āḷāra Kālāma đã qua đời được bảy ngày rồi.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘mahājāniyo kho āḷāro kālāmo.
Then, monks, this thought occurred to me: ‘Great indeed is the loss for Āḷāra Kālāma.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Đạo sĩ Āḷāra Kālāma thật là một mất mát lớn.
Sace hi so imaṃ dhammaṃ suṇeyya, khippameva ājāneyyā’ti.
If he had heard this Dhamma, he would have quickly understood it.’
Nếu ông ấy được nghe Pháp này, chắc chắn ông ấy sẽ nhanh chóng hiểu được.’
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ; ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti?
“Then, monks, this thought occurred to me: ‘To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?’
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Ta nên thuyết Pháp cho ai trước? Ai sẽ nhanh chóng hiểu được Pháp này?’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘ayaṃ kho udako rāmaputto paṇḍito viyatto medhāvī dīgharattaṃ apparajakkhajātiko.
Then, monks, this thought occurred to me: ‘This Udaka Rāmaputta is wise, skilled, intelligent, and has had little dust in his eyes for a long time.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Đạo sĩ Udaka Rāmaputta này là người thông thái, khéo léo, có trí tuệ, và đã có ít bụi trần trong một thời gian dài.
Yaṃnūnāhaṃ udakassa rāmaputtassa paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ.
What if I were to teach the Dhamma first to Udaka Rāmaputta?
Hay là Ta nên thuyết Pháp cho đạo sĩ Udaka Rāmaputta trước.
So imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti.
He would quickly understand this Dhamma.’
Ông ấy sẽ nhanh chóng hiểu được Pháp này.’
Atha kho maṃ, bhikkhave, devatā upasaṅkamitvā etadavoca – ‘abhidosakālaṅkato, bhante, udako rāmaputto’ti.
Then, monks, a devatā approached me and said: ‘Venerable Sir, Udaka Rāmaputta passed away last night.’
Bấy giờ, này các Tỳ-khưu, một vị thiên đến gần Ta và nói: ‘Bạch Thế Tôn, đạo sĩ Udaka Rāmaputta đã qua đời vào tối hôm qua.’
Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi – ‘abhidosakālaṅkato udako rāmaputto’ti.
And then knowledge and vision arose in me: ‘Udaka Rāmaputta passed away last night.’
Và tri kiến của Ta đã khởi lên: ‘Đạo sĩ Udaka Rāmaputta đã qua đời vào tối hôm qua.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘mahājāniyo kho udako rāmaputto.
Then, monks, this thought occurred to me: ‘Great indeed is the loss for Udaka Rāmaputta.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Đạo sĩ Udaka Rāmaputta thật là một mất mát lớn.
Sace hi so imaṃ dhammaṃ suṇeyya, khippameva ājāneyyā’ti.
If he had heard this Dhamma, he would have quickly understood it.’
Nếu ông ấy được nghe Pháp này, chắc chắn ông ấy sẽ nhanh chóng hiểu được.’
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyyaṃ; ko imaṃ dhammaṃ khippameva ājānissatī’ti?
“Then, monks, this thought occurred to me: ‘To whom should I teach the Dhamma first? Who will quickly understand this Dhamma?’
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Ta nên thuyết Pháp cho ai trước? Ai sẽ nhanh chóng hiểu được Pháp này?’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘bahukārā kho me pañcavaggiyā bhikkhū, ye maṃ padhānapahitattaṃ upaṭṭhahiṃsu.
Then, monks, this thought occurred to me: ‘The group of five bhikkhus were very helpful to me, those who attended me when I was striving strenuously.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như đã giúp đỡ Ta rất nhiều khi Ta đang tinh tấn tu tập.
Yaṃnūnāhaṃ pañcavaggiyānaṃ bhikkhūnaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyya’nti.
What if I were to teach the Dhamma first to the group of five bhikkhus?’
Hay là Ta nên thuyết Pháp cho năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như trước.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi – ‘kahaṃ nu kho etarahi pañcavaggiyā bhikkhū viharantī’ti?
Then, monks, this thought occurred to me: ‘Where are the group of five bhikkhus staying now?’
Này các Tỳ-khưu, Ta đã nghĩ: ‘Hiện giờ năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như đang ở đâu?’
Addasaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena pañcavaggiye bhikkhū bārāṇasiyaṃ viharante isipatane migadāye.
Then, monks, I saw with the divine eye, purified and surpassing that of humans, the group of five bhikkhus staying in Bārāṇasī, at Isipatana, in the Migadāya.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã dùng thiên nhãn thanh tịnh, siêu việt phàm tục, thấy năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như đang ở Isipatana, Migadāya, gần Bārāṇasī.
Atha khvāhaṃ, bhikkhave, uruvelāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā yena bārāṇasī tena cārikaṃ pakkamiṃ* .
Then, monks, having stayed at Uruvelā for as long as I wished, I set out on a journey towards Bārāṇasī.
Bấy giờ, này các Tỳ-khưu, sau khi ở Uruvelā tùy ý Ta, Ta đã du hành đến Bārāṇasī.
285. ‘‘Addasā kho maṃ, bhikkhave, upako ājīvako antarā* ca gayaṃ antarā ca bodhiṃ addhānamaggappaṭipannaṃ.
285. “Then, monks, Upaka the Ājīvaka saw me walking along the road between Gayā and Bodhi.
285. Này các Tỳ-khưu, đạo sĩ Upaka Ājīvaka đã thấy Ta đang đi trên đường giữa Gayā và Bồ-đề.
Disvāna maṃ etadavoca – ‘vippasannāni kho te, āvuso, indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto!
Having seen me, he said to me: ‘Friend, your faculties are very clear, your complexion is pure and bright!
Sau khi thấy Ta, ông ấy nói: ‘Thưa Hiền giả, các căn của Ngài thật thanh tịnh, sắc da Ngài thật trong sáng và rạng rỡ!
Kaṃsi tvaṃ, āvuso, uddissa pabbajito, ko vā te satthā, kassa vā tvaṃ dhammaṃ rocesī’ti?
For whose sake, friend, have you gone forth? Who is your Teacher? Whose Dhamma do you approve of?’
Thưa Hiền giả, Ngài xuất gia vì ai? Ai là thầy của Ngài? Ngài ưa thích Pháp của ai?’
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, upakaṃ ājīvakaṃ gāthāhi ajjhabhāsiṃ –
When this was said, monks, I addressed Upaka the Ājīvaka with stanzas:
Này các Tỳ-khưu, khi được nói như vậy, Ta đã đáp lại đạo sĩ Upaka Ājīvaka bằng những bài kệ:
286. ‘‘Atha khvāhaṃ, bhikkhave, anupubbena cārikaṃ caramāno yena bārāṇasī isipatanaṃ migadāyo yena pañcavaggiyā bhikkhū tenupasaṅkamiṃ.
286. “Then, monks, I wandered by stages and arrived at Bārāṇasī, at Isipatana, in the Migadāya, where the group of five bhikkhus were.
286. Bấy giờ, này các Tỳ-khưu, Ta tuần tự du hành đến Isipatana, Migadāya, gần Bārāṇasī, nơi năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như đang ở.
Addasaṃsu kho maṃ, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū dūrato āgacchantaṃ.
Then, monks, the group of five bhikkhus saw me approaching from afar.
Này các Tỳ-khưu, năm vị Tỳ-khưu nhóm Kiều-Trần-Như đã thấy Ta từ xa đang đến.
Disvāna aññamaññaṃ saṇṭhapesuṃ* – ‘ayaṃ kho, āvuso, samaṇo gotamo āgacchati bāhulliko* padhānavibbhanto āvatto bāhullāya.
Having seen me, they agreed among themselves: ‘Friends, this ascetic Gotama is approaching, he is indulgent, he has given up striving, he has reverted to abundance.
Sau khi thấy Ta, họ đã thỏa thuận với nhau: ‘Này chư Hiền, Sa-môn Gotama này đang đến, Ngài là người thích hưởng thụ, đã từ bỏ sự tinh tấn, đã quay trở lại với sự hưởng thụ.
So neva abhivādetabbo, na paccuṭṭhātabbo; nāssa pattacīvaraṃ paṭiggahetabbaṃ.
He should not be saluted, nor should he be stood up for; his bowl and robe should not be received.
Chúng ta không nên đảnh lễ Ngài, không nên đứng dậy đón Ngài; không nên nhận y bát của Ngài.
Api ca kho āsanaṃ ṭhapetabbaṃ, sace ākaṅkhissati nisīdissatī’ti.
“And a seat should be prepared; if he wishes, he will sit down.”
Tuy nhiên, hãy đặt một chỗ ngồi, nếu vị ấy muốn thì sẽ ngồi.”
Yathā yathā kho ahaṃ, bhikkhave, upasaṅkamiṃ tathā tathā pañcavaggiyā bhikkhū nāsakkhiṃsu sakāya katikāya saṇṭhātuṃ.
Bhikkhus, in whatever way I approached, the group of five bhikkhus were unable to stand by their own resolution.
Này các Tỳ-khưu, khi Ta đến gần theo cách nào, thì các Tỳ-khưu nhóm năm không thể giữ vững lời giao ước của mình theo cách đó.
Appekacce maṃ paccuggantvā pattacīvaraṃ paṭiggahesuṃ, appekacce āsanaṃ paññapesuṃ, appekacce pādodakaṃ upaṭṭhapesuṃ.
Some went forth to meet me and received my bowl and robe; some prepared a seat; some offered water for the feet.
Một số người đi ra đón Ta và nhận y bát, một số người sắp đặt chỗ ngồi, một số người chuẩn bị nước rửa chân.
Api ca kho maṃ nāmena ca āvusovādena ca samudācaranti.
But they addressed me by name and as ‘āvuso’.
Tuy nhiên, họ vẫn gọi Ta bằng tên và xưng hô “Āvuso”.
‘‘Evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ – ‘mā, bhikkhave, tathāgataṃ nāmena ca āvusovādena ca samudācaratha* .
“When this was said, bhikkhus, I told the group of five bhikkhus: ‘Do not, bhikkhus, address the Tathāgata by name and as ‘āvuso’.
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Ta đã nói với các Tỳ-khưu nhóm năm rằng: ‘Này các Tỳ-khưu, chớ gọi Như Lai bằng tên và xưng hô “Āvuso”.
Arahaṃ, bhikkhave, tathāgato sammāsambuddho.
Bhikkhus, the Tathāgata is an Arahant, a Perfectly Self-Enlightened One.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai là bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác.
Odahatha, bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ, ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ desemi.
Lend your ear, bhikkhus; the Deathless has been attained. I will instruct, I will teach the Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, hãy lắng tai nghe, pháp bất tử đã được chứng đắc, Ta sẽ giáo huấn, Ta sẽ thuyết giảng Dhamma.
Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissathā’ti.
Practicing as instructed, you will not long hence—for the sake of which noble sons rightly go forth from home into homelessness—abide, having realized for yourselves with direct knowledge, in this very life, that unexcelled culmination of the holy life.
Khi thực hành theo lời giáo huấn, không bao lâu nữa – vì mục đích mà các thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình để sống không gia đình, đó là sự hoàn mãn vô thượng của đời sống Phạm hạnh – các con sẽ tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú trong đó ngay trong hiện tại.”
Evaṃ vutte, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ – ‘tāyapi kho tvaṃ, āvuso gotama, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamā uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ, kiṃ pana tvaṃ etarahi bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesa’nti?
When this was said, bhikkhus, the group of five bhikkhus said to me: ‘Friend Gotama, even with that posture, with that practice, with that extreme austerity, you did not attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision. How will you now, having become abundant, having deviated from exertion, having returned to abundance, attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision?’
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu nhóm năm đã nói với Ta rằng: ‘Này hiền giả Gotama, ngay cả với tư thế, với con đường tu tập, với sự thực hành khổ hạnh khó khăn đó, hiền giả cũng không đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh, vậy làm sao bây giờ hiền giả lại sống phóng dật, từ bỏ sự tinh tấn, trở lại với sự phóng dật mà có thể đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh?’
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ – ‘na, bhikkhave, tathāgato bāhulliko, na padhānavibbhanto, na āvatto bāhullāya.
When this was said, bhikkhus, I told the group of five bhikkhus: ‘Bhikkhus, the Tathāgata is not abundant, nor has he deviated from exertion, nor has he returned to abundance.
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Ta đã nói với các Tỳ-khưu nhóm năm rằng: ‘Này các Tỳ-khưu, Như Lai không phóng dật, không từ bỏ sự tinh tấn, không trở lại với sự phóng dật.
Arahaṃ, bhikkhave, tathāgato sammāsambuddho.
Bhikkhus, the Tathāgata is an Arahant, a Perfectly Self-Enlightened One.
Này các Tỳ-khưu, Như Lai là bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác.
Odahatha, bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ, ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ desemi.
Lend your ear, bhikkhus; the Deathless has been attained. I will instruct, I will teach the Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, hãy lắng tai nghe, pháp bất tử đã được chứng đắc, Ta sẽ giáo huấn, Ta sẽ thuyết giảng Dhamma.
Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissathā’ti.
Practicing as instructed, you will not long hence—for the sake of which noble sons rightly go forth from home into homelessness—abide, having realized for yourselves with direct knowledge, in this very life, that unexcelled culmination of the holy life.’
Khi thực hành theo lời giáo huấn, không bao lâu nữa – vì mục đích mà các thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình để sống không gia đình, đó là sự hoàn mãn vô thượng của đời sống Phạm hạnh – các con sẽ tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú trong đó ngay trong hiện tại.”
Dutiyampi kho, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ – ‘tāyapi kho tvaṃ, āvuso gotama, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamā uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ, kiṃ pana tvaṃ etarahi bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesa’nti?
A second time, bhikkhus, the group of five bhikkhus said to me: ‘Friend Gotama, even with that posture, with that practice, with that extreme austerity, you did not attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision. How will you now, having become abundant, having deviated from exertion, having returned to abundance, attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision?’
Lần thứ hai, này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu nhóm năm đã nói với Ta rằng: ‘Này hiền giả Gotama, ngay cả với tư thế, với con đường tu tập, với sự thực hành khổ hạnh khó khăn đó, hiền giả cũng không đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh, vậy làm sao bây giờ hiền giả lại sống phóng dật, từ bỏ sự tinh tấn, trở lại với sự phóng dật mà có thể đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh?’
Dutiyampi kho ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ – ‘na, bhikkhave, tathāgato bāhulliko…pe… upasampajja viharissathā’ti.
A second time, bhikkhus, I told the group of five bhikkhus: ‘Bhikkhus, the Tathāgata is not abundant…you will abide, having realized for yourselves.’
Lần thứ hai, này các Tỳ-khưu, Ta đã nói với các Tỳ-khưu nhóm năm rằng: ‘Này các Tỳ-khưu, Như Lai không phóng dật… (như trên)… và an trú trong đó ngay trong hiện tại.”
Tatiyampi kho, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū maṃ etadavocuṃ – ‘tāyapi kho tvaṃ, āvuso gotama, iriyāya tāya paṭipadāya tāya dukkarakārikāya nājjhagamā uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ, kiṃ pana tvaṃ etarahi bāhulliko padhānavibbhanto āvatto bāhullāya adhigamissasi uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanavisesa’nti?
A third time, bhikkhus, the group of five bhikkhus said to me: ‘Friend Gotama, even with that posture, with that practice, with that extreme austerity, you did not attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision. How will you now, having become abundant, having deviated from exertion, having returned to abundance, attain any higher human Dhamma, any noble superior knowledge and vision?’
Lần thứ ba, này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu nhóm năm đã nói với Ta rằng: ‘Này hiền giả Gotama, ngay cả với tư thế, với con đường tu tập, với sự thực hành khổ hạnh khó khăn đó, hiền giả cũng không đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh, vậy làm sao bây giờ hiền giả lại sống phóng dật, từ bỏ sự tinh tấn, trở lại với sự phóng dật mà có thể đạt được pháp thượng nhân, sự đặc biệt của tri kiến thánh?’
‘‘Evaṃ vutte, ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū etadavocaṃ – ‘abhijānātha me no tumhe, bhikkhave, ito pubbe evarūpaṃ pabhāvitameta’nti* ?
“When this was said, bhikkhus, I told the group of five bhikkhus: ‘Do you recall, bhikkhus, that I have ever spoken in this way before?’
Khi được nói như vậy, này các Tỳ-khưu, Ta đã nói với các Tỳ-khưu nhóm năm rằng: ‘Này các Tỳ-khưu, các con có nhớ rằng trước đây Ta chưa từng nói lời nào như vậy không?’
‘No hetaṃ, bhante’.
‘No indeed, Venerable Sir.’
‘Thưa Thế Tôn, không phải vậy.’
‘Arahaṃ, bhikkhave, tathāgato sammāsambuddho.
‘Bhikkhus, the Tathāgata is an Arahant, a Perfectly Self-Enlightened One.
‘Này các Tỳ-khưu, Như Lai là bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác.
Odahatha, bhikkhave, sotaṃ, amatamadhigataṃ, ahamanusāsāmi, ahaṃ dhammaṃ desemi.
Lend your ear, bhikkhus; the Deathless has been attained. I will instruct, I will teach the Dhamma.
Này các Tỳ-khưu, hãy lắng tai nghe, pháp bất tử đã được chứng đắc, Ta sẽ giáo huấn, Ta sẽ thuyết giảng Dhamma.
Yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipajjamānā nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissathā’ti.
Practicing as instructed, you will not long hence—for the sake of which noble sons rightly go forth from home into homelessness—abide, having realized for yourselves with direct knowledge, in this very life, that unexcelled culmination of the holy life.’
Khi thực hành theo lời giáo huấn, không bao lâu nữa – vì mục đích mà các thiện nam tử đã xuất gia từ bỏ gia đình để sống không gia đình, đó là sự hoàn mãn vô thượng của đời sống Phạm hạnh – các con sẽ tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú trong đó ngay trong hiện tại.”
‘‘Asakkhiṃ kho ahaṃ, bhikkhave, pañcavaggiye bhikkhū saññāpetuṃ.
“I was able, bhikkhus, to convince the group of five bhikkhus.
Này các Tỳ-khưu, Ta đã có thể thuyết phục các Tỳ-khưu nhóm năm.
Dvepi sudaṃ, bhikkhave, bhikkhū ovadāmi, tayo bhikkhū piṇḍāya caranti.
Bhikkhus, I instructed two bhikkhus, while three bhikkhus went for alms.
Này các Tỳ-khưu, Ta giáo huấn hai Tỳ-khưu, ba Tỳ-khưu đi khất thực.
Yaṃ tayo bhikkhū piṇḍāya caritvā āharanti tena chabbaggiyā* yāpema.
We six sustained ourselves with what the three bhikkhus brought back from their alms round.
Chúng Ta sáu người sống nhờ vào những gì ba Tỳ-khưu đi khất thực mang về.
Tayopi sudaṃ, bhikkhave, bhikkhū ovadāmi, dve bhikkhū piṇḍāya caranti.
I also instructed three bhikkhus, while two bhikkhus went for alms.
Ta giáo huấn ba Tỳ-khưu, hai Tỳ-khưu đi khất thực.
Yaṃ dve bhikkhū piṇḍāya caritvā āharanti tena chabbaggiyā yāpema.
We six sustained ourselves with what the two bhikkhus brought back from their alms round.
Chúng Ta sáu người sống nhờ vào những gì hai Tỳ-khưu đi khất thực mang về.
Atha kho, bhikkhave, pañcavaggiyā bhikkhū mayā evaṃ ovadiyamānā evaṃ anusāsiyamānā attanā jātidhammā samānā jātidhamme ādīnavaṃ viditvā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamānā ajātaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu, attanā jarādhammā samānā jarādhamme ādīnavaṃ viditvā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamānā ajaraṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu, attanā byādhidhammā samānā…pe… attanā maraṇadhammā samānā… attanā sokadhammā samānā… attanā saṃkilesadhammā samānā saṃkilesadhamme ādīnavaṃ viditvā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ pariyesamānā asaṃkiliṭṭhaṃ anuttaraṃ yogakkhemaṃ nibbānaṃ ajjhagamaṃsu.
Then, bhikkhus, while being thus exhorted, thus instructed by me, the group of five bhikkhus, being themselves subject to birth, having seen the danger in what is subject to birth, sought the unborn, unexcelled security from bondage, Nibbāna, and attained the unborn, unexcelled security from bondage, Nibbāna; being themselves subject to aging, having seen the danger in what is subject to aging, sought the ageless, unexcelled security from bondage, Nibbāna, and attained the ageless, unexcelled security from bondage, Nibbāna; being themselves subject to sickness… being themselves subject to death… being themselves subject to sorrow… being themselves subject to defilement, having seen the danger in what is subject to defilement, sought the undefiled, unexcelled security from bondage, Nibbāna, and attained the undefiled, unexcelled security from bondage, Nibbāna.
Sau đó, này các Tỳ-khưu, các Tỳ-khưu nhóm năm, được Ta giáo huấn và chỉ dạy như vậy, chính họ là những người có bản chất sinh, đã thấy sự nguy hiểm trong bản chất sinh, đã tìm cầu sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không sinh, và đã đạt được sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không sinh; chính họ là những người có bản chất già, đã thấy sự nguy hiểm trong bản chất già, đã tìm cầu sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không già, và đã đạt được sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không già; chính họ là những người có bản chất bệnh… (như trên)… chính họ là những người có bản chất chết… chính họ là những người có bản chất sầu muộn… chính họ là những người có bản chất ô nhiễm, đã thấy sự nguy hiểm trong bản chất ô nhiễm, đã tìm cầu sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không ô nhiễm, và đã đạt được sự an ổn vô thượng khỏi ách buộc, Niết-bàn không ô nhiễm.
Ñāṇañca pana nesaṃ dassanaṃ udapādi – ‘akuppā no vimutti* , ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’ti.
And for them, knowledge and vision arose: ‘Our liberation is unshakeable; this is the final birth; now there is no more renewed existence.’
Và tri kiến đã khởi lên nơi họ: ‘Sự giải thoát của chúng ta là bất động, đây là lần tái sinh cuối cùng, không còn tái hữu nữa.’
287. ‘‘Pañcime, bhikkhave, kāmaguṇā.
287. “Bhikkhus, there are these five strands of sensual pleasure.
287. “Này các Tỳ-khưu, có năm dục lạc này.
Katame pañca?
Which five?
Năm dục lạc nào?
Cakkhuviññeyyā rūpā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā, sotaviññeyyā saddā…pe… ghānaviññeyyā gandhā… jivhāviññeyyā rasā… kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā iṭṭhā kantā manāpā piyarūpā kāmūpasaṃhitā rajanīyā.
Forms cognizable by the eye, desirable, agreeable, pleasing, lovely, connected with sensual desire, and stimulating; sounds cognizable by the ear… odours cognizable by the nose… tastes cognizable by the tongue… tangible objects cognizable by the body, desirable, agreeable, pleasing, lovely, connected with sensual desire, and stimulating.
Những sắc khả tri bằng mắt, khả ái, khả hỷ, khả ý, có hình tướng đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng lôi cuốn; những âm thanh khả tri bằng tai… (như trên)… những hương khả tri bằng mũi… những vị khả tri bằng lưỡi… những xúc chạm khả tri bằng thân, khả ái, khả hỷ, khả ý, có hình tướng đáng yêu, liên hệ đến dục, có khả năng lôi cuốn.
Ime kho, bhikkhave, pañca kāmaguṇā.
These, bhikkhus, are the five strands of sensual pleasure.
Này các Tỳ-khưu, đây là năm dục lạc.
Ye hi keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe gathitā mucchitā ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti, te evamassu veditabbā – ‘anayamāpannā byasanamāpannā yathākāmakaraṇīyā pāpimato’* .
Whatever recluses or brahmins, bhikkhus, are entangled, infatuated, and engrossed in these five strands of sensual pleasure, not seeing the danger, not understanding the escape, and indulge in them, they should be known as ‘having come to ruin, having met with disaster, at the disposal of the Evil One’.
Này các Tỳ-khưu, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc, mê đắm, chìm đắm trong năm dục lạc này, không thấy sự nguy hiểm, không có trí tuệ thoát ly, mà hưởng thụ chúng, thì họ phải được biết là: ‘Họ đã rơi vào sự bất hạnh, rơi vào tai họa, trở thành nô lệ cho kẻ ác (Ma vương).’
‘Seyyathāpi, bhikkhave, āraññako mago baddho pāsarāsiṃ adhisayeyya.
Bhikkhus, just as a wild deer caught and lying on a snare
Này các Tỳ-khưu, ví như một con nai rừng bị mắc bẫy và nằm trên đống bẫy.
So evamassa veditabbo – anayamāpanno byasanamāpanno yathākāmakaraṇīyo luddassa.
should be known as ‘having come to ruin, having met with disaster, at the disposal of the hunter’.
Nó phải được biết là: ‘Nó đã rơi vào sự bất hạnh, rơi vào tai họa, trở thành nô lệ cho người thợ săn.’
Āgacchante ca pana ludde yena kāmaṃ na pakkamissatī’ti.
And when the hunter comes, it will not go where it pleases.”
Và khi người thợ săn đến, nó sẽ không thể đi đâu được tùy ý.”
Evameva kho, bhikkhave, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe gathitā mucchitā ajjhopannā anādīnavadassāvino anissaraṇapaññā paribhuñjanti, te evamassu veditabbā – ‘anayamāpannā byasanamāpannā yathākāmakaraṇīyā pāpimato’.
Just in the same way, bhikkhus, whatever recluses or brahmins are entangled, infatuated, and immersed in these five cords of sensual pleasure, not seeing their danger, lacking wisdom for escape, they should be known thus: ‘They have fallen into ruin, fallen into misfortune, becoming agents for Māra, the Evil One, to do with as he wishes’.
Hỡi các Tỳ-kheo, cũng vậy, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào thọ hưởng năm dục trần này mà bị ràng buộc, mê đắm, chìm đắm, không thấy sự nguy hiểm, không có tuệ thoát ly, thì họ phải được biết là: ‘đã rơi vào sự suy đồi, đã rơi vào sự hủy diệt, là đối tượng để Ác ma làm theo ý muốn’.
Ye ca kho keci, bhikkhave, samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe agathitā amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā paribhuñjanti, te evamassu veditabbā – ‘na anayamāpannā na byasanamāpannā na yathākāmakaraṇīyā pāpimato’.
But whatever recluses or brahmins, bhikkhus, are not entangled, not infatuated, not immersed in these five cords of sensual pleasure, seeing their danger, possessing wisdom for escape, they should be known thus: ‘They have not fallen into ruin, not fallen into misfortune, not becoming agents for Māra, the Evil One, to do with as he wishes’.
Nhưng hỡi các Tỳ-kheo, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào thọ hưởng năm dục trần này mà không bị ràng buộc, không mê đắm, không chìm đắm, thấy được sự nguy hiểm, có tuệ thoát ly, thì họ phải được biết là: ‘không rơi vào sự suy đồi, không rơi vào sự hủy diệt, không phải là đối tượng để Ác ma làm theo ý muốn’.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, āraññako mago abaddho pāsarāsiṃ adhisayeyya.
‘‘Just as, bhikkhus, a wild deer, unbound, might lie down among a heap of snares.
Hỡi các Tỳ-kheo, ví như một con nai rừng không bị trói buộc mà nằm trên một đống bẫy lưới.
So evamassa veditabbo – ‘na anayamāpanno na byasanamāpanno na yathākāmakaraṇīyo luddassa.
It should be known of it thus: ‘It has not fallen into ruin, not fallen into misfortune, not becoming an agent for the hunter to do with as he wishes.
Nó phải được biết là: ‘không rơi vào sự suy đồi, không rơi vào sự hủy diệt, không phải là đối tượng để thợ săn làm theo ý muốn.
Āgacchante ca pana ludde yena kāmaṃ pakkamissatī’ti.
And when the hunter comes, it will go wherever it wishes’.
Khi thợ săn đến, nó sẽ bỏ đi bất cứ nơi nào nó muốn’.
Evameva kho, bhikkhave, ye hi keci samaṇā vā brāhmaṇā vā ime pañca kāmaguṇe agathitā amucchitā anajjhopannā ādīnavadassāvino nissaraṇapaññā paribhuñjanti, te evamassu veditabbā – ‘na anayamāpannā na byasanamāpannā na yathākāmakaraṇīyā pāpimato’.
Just in the same way, bhikkhus, whatever recluses or brahmins are not entangled, not infatuated, not immersed in these five cords of sensual pleasure, seeing their danger, possessing wisdom for escape, they should be known thus: ‘They have not fallen into ruin, not fallen into misfortune, not becoming agents for Māra, the Evil One, to do with as he wishes’.
Cũng vậy, hỡi các Tỳ-kheo, bất cứ Sa-môn hay Bà-la-môn nào thọ hưởng năm dục trần này mà không bị ràng buộc, không mê đắm, không chìm đắm, thấy được sự nguy hiểm, có tuệ thoát ly, thì họ phải được biết là: ‘không rơi vào sự suy đồi, không rơi vào sự hủy diệt, không phải là đối tượng để Ác ma làm theo ý muốn’.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, āraññako mago araññe pavane caramāno vissattho gacchati, vissattho tiṭṭhati, vissattho nisīdati, vissattho seyyaṃ kappeti.
‘‘Just as, bhikkhus, a wild deer roaming in the forest and wilderness goes confidently, stands confidently, sits confidently, and sleeps confidently.
Hỡi các Tỳ-kheo, ví như một con nai rừng đang đi trong rừng sâu, nó đi lại tự tại, đứng lại tự tại, ngồi xuống tự tại, nằm nghỉ tự tại.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Anāpāthagato, bhikkhave, luddassa.
It is beyond the hunter’s reach, bhikkhus.
Hỡi các Tỳ-kheo, nó đã ra khỏi tầm với của thợ săn.
Evameva kho, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati.
Just in the same way, bhikkhus, a bhikkhu, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, enters and remains in the first jhāna, which is accompanied by initial application and sustained application, with rapture and pleasure born of seclusion.
Cũng vậy, hỡi các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ apadaṃ, vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato.
This bhikkhu, bhikkhus, is said to have made Māra blind, to have destroyed the eye of Māra, and to have gone beyond the sight of the Evil One.
Hỡi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này được gọi là: ‘đã làm cho Ma mù lòa, không còn dấu vết, đã đánh tan mắt của Ma, đã ra khỏi tầm nhìn của Ác ma’.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññāvedayitanirodhaṃ upasampajja viharati, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti.
‘‘Furthermore, bhikkhus, by completely surmounting the base of neither perception nor non-perception, a bhikkhu enters and remains in the cessation of perception and feeling; and having seen with wisdom, his taints are utterly destroyed.
Lại nữa, hỡi các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo vượt hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng định; và các lậu hoặc của vị ấy được diệt tận do thấy bằng tuệ.
Ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu andhamakāsi māraṃ apadaṃ, vadhitvā māracakkhuṃ adassanaṃ gato pāpimato.
This bhikkhu, bhikkhus, is said to have made Māra blind, to have destroyed the eye of Māra, and to have gone beyond the sight of the Evil One.
Hỡi các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này được gọi là: ‘đã làm cho Ma mù lòa, không còn dấu vết, đã đánh tan mắt của Ma, đã ra khỏi tầm nhìn của Ác ma’.
Tiṇṇo loke visattikaṃ vissattho gacchati, vissattho tiṭṭhati, vissattho nisīdati, vissattho seyyaṃ kappeti.
He has crossed over the sticky mud of the world; he goes confidently, stands confidently, sits confidently, and sleeps confidently.
Vị ấy đã vượt qua sự ràng buộc trong đời, đi lại tự tại, đứng lại tự tại, ngồi xuống tự tại, nằm nghỉ tự tại.
Taṃ kissa hetu?
Why is that?
Vì sao vậy?
Anāpāthagato, bhikkhave, pāpimato’’ti.
He is beyond the reach of Māra, the Evil One’’.
Hỡi các Tỳ-kheo, vị ấy đã ra khỏi tầm với của Ác ma”.