Tattha (mahāva. aṭṭha. 340-342) ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgataṃ bhikkhuṃ cīvarapaṭiggāhakaṃ sammannituṃ, yo na chandāgatiṃ gaccheyya, na dosāgatiṃ gaccheyya, na mohāgatiṃ gaccheyya, na bhayāgatiṃ gaccheyya, gahitāgahitañca jāneyyā’’ti (mahāva. 342) vacanato imehi pañcahaṅgehi samannāgato cīvarapaṭiggāhako sammannitabbo.
Therein, according to the saying, "Bhikkhus, I permit appointing a bhikkhu endowed with five qualities as the robe-receiver: one who does not go by way of desire, does not go by way of hatred, does not go by way of delusion, does not go by way of fear, and knows what has been received and what has not been received," a robe-receiver endowed with these five qualities should be appointed.
Trong đó, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép bổ nhiệm một Tỳ-khưu có đủ năm yếu tố làm vị thọ nhận y phục: vị ấy không đi theo thiên vị dục vọng (chandāgati), không đi theo thiên vị sân hận (dosāgati), không đi theo thiên vị si mê (mohāgati), không đi theo thiên vị sợ hãi (bhayāgati), và biết được cái đã nhận và cái chưa nhận”, thì vị thọ nhận y phục phải được bổ nhiệm với năm yếu tố này.
Tattha pacchā āgatānampi attano ñātakādīnaṃ paṭhamataraṃ paṭiggaṇhanto vā ekaccasmiṃ pemaṃ dassetvā gaṇhanto vā lobhapakatitāya attano pariṇāmento vā chandāgatiṃ gacchati nāma. Paṭhamataraṃ āgatassapi kodhavasena pacchā gaṇhanto vā duggatamanussesu avamaññaṃ katvā gaṇhanto vā ‘‘kiṃ vo ghare ṭhapanokāso natthi, tumhākaṃ santakaṃ gahetvā gacchathā’’ti evaṃ saṅghassa lābhantarāyaṃ karonto vā dosāgatiṃ gacchati nāma.
Therein, a bhikkhu who receives robes first for his own relatives, etc., even if they arrived later, or who shows favoritism towards certain donors and receives from them, or who appropriates for himself due to a greedy nature, is said to go by way of desire. A bhikkhu who, out of anger, takes from someone who arrived first only later, or who treats poor people with contempt, or who causes an obstacle to the Saṅgha's gain by saying, "Do you have no place to keep things at home? Take your things and leave," is said to go by way of hatred.
Trong đó, vị nào nhận y phục trước cho những người thân, v.v., dù họ đến sau, hoặc thể hiện sự ưu ái đối với một số người rồi nhận, hoặc vì tính tham lam mà biến thành của riêng mình, thì được gọi là đi theo thiên vị dục vọng. Vị nào dù người đến trước nhưng vì sân hận mà nhận sau, hoặc coi thường những người nghèo khổ rồi nhận, hoặc nói: “Trong nhà các ông không có chỗ để cất giữ sao? Các ông hãy mang của mình về đi”, làm trở ngại đến lợi lộc của Tăng-già, thì được gọi là đi theo thiên vị sân hận.
Yo pana muṭṭhassati asampajāno, ayaṃ mohāgatiṃ gacchati nāma.
But a bhikkhu who is forgetful and not fully aware is said to go by way of delusion.
Vị nào bị thất niệm, không có sự hiểu biết rõ ràng, thì vị ấy được gọi là đi theo thiên vị si mê.
Pacchā āgatānampi issarānaṃ bhayena paṭhamataraṃ paṭiggaṇhanto vā ‘‘cīvarapaṭiggāhakaṭṭhānaṃ nāmetaṃ bhāriya’’nti santasanto vā bhayāgatiṃ gacchati nāma.
A bhikkhu who, out of fear of influential people, receives robes first for those who arrived later, or who is apprehensive, thinking, "This position of robe-receiver is a difficult one," is said to go by way of fear.
Vị nào vì sợ hãi các vị có quyền lực mà nhận trước cho những người đến sau, hoặc lo sợ rằng: “Chức vụ thọ nhận y phục này thật khó khăn”, thì vị ấy được gọi là đi theo thiên vị sợ hãi.
‘‘Mayā idañcidañca gahitaṃ, idañcidañca na gahita’’nti evaṃ jānanto gahitāgahitaṃ jānāti nāma.
One who knows, "I have received this and that, and I have not received this and that," is said to know what has been received and what has not been received.
Vị nào biết rõ: “Tôi đã nhận cái này và cái này, tôi chưa nhận cái này và cái này”, thì được gọi là biết cái đã nhận và cái chưa nhận.
Tasmā yo chandāgatiādivasena na gacchati, ñātakaaññātakaaḍḍhaduggatesu visesaṃ akatvā āgatapaṭipāṭiyā gaṇhāti, sīlācārapaṭipattiyutto hoti satimā medhāvī bahussuto, sakkoti dāyakānaṃ vissaṭṭhāya vācāya parimaṇḍalehi padabyañjanehi anumodanaṃ karonto pasādaṃ janetuṃ, evarūpo sammannitabbo.
Therefore, one who does not proceed swayed by chandāgati, etc., who receives in due order of arrival without making distinctions among relatives, non-relatives, the rich, or the poor, who is endowed with morality, good conduct, and practice, who is mindful, intelligent, and learned, and who is capable of generating faith in donors by offering felicitations with clear speech and perfectly arranged words and phrases—such a bhikkhu should be appointed.
Vì vậy, tỳ khưu nào không đi theo đường thiên vị do dục vọng, v.v., không phân biệt thân quyến hay không thân quyến, giàu hay nghèo, mà nhận y theo thứ tự đến, có đầy đủ giới hạnh và oai nghi, có niệm, có trí tuệ, đa văn, có thể làm phát sinh tịnh tín nơi các thí chủ bằng cách tùy hỷ với lời lẽ rõ ràng và câu chữ hoàn hảo, thì vị tỳ khưu như vậy nên được chỉ định.
Ettha (mahāva. aṭṭha. 343) ca yattha chadanādīsu koci doso natthi, taṃ guttaṃ.
In this context, that which has no fault in its roof, etc., is called protected.
Ở đây, nơi nào không có bất kỳ lỗi nào trong mái che, v.v., thì đó là chỗ được bảo quản (gutta).
Yattha pana chadanatiṇaṃ vā chadaniṭṭhakā vā yattha katthaci patitā, yena ovassati vā, mūsikādīnaṃ vā paveso hoti, bhittiādīsu vā katthaci chiddaṃ hoti, upacikā vā uṭṭhahanti, taṃ sabbaṃ aguttaṃ nāma.
But where roofing grass or roofing bricks have fallen anywhere, causing rain to seep in, or allowing rats etc. to enter, or where there is a hole anywhere in the walls etc., or where termites emerge, all that is called unprotected.
Còn nơi nào mái che bằng cỏ hoặc mái che bằng gạch bị rơi rụng ở bất cứ đâu, khiến mưa dột hoặc chuột, v.v. có thể vào được, hoặc có lỗ hổng ở tường, v.v., hoặc mối mọt nổi lên, thì tất cả những chỗ đó gọi là không được bảo quản (agutta).
Taṃ sallakkhetvā bhaṇḍāgārikena paṭisaṅkharitabbaṃ.
The storekeeper should observe such and repair it.
Người giữ kho nên nhận biết điều đó và sửa chữa.
Sītasamaye dvārañca vātapānañca supihitaṃ kātabbaṃ.
During the cold season, the door and windows should be properly closed.
Vào mùa lạnh, cửa ra vào và cửa sổ nên được đóng kín cẩn thận.
Sītena hi cīvarāni kaṇṇakitāni honti.
For robes become moldy due to cold.
Vì y phục sẽ bị mốc do lạnh.
Uṇhasamaye antarantarā vātappavesanatthaṃ vivaritabbaṃ.
During the hot season, they should be opened from time to time to allow air to enter.
Vào mùa nóng, nên mở ra từng lúc để không khí lưu thông.
Evaṃ karonto hi guttāguttaṃ jānāti nāma.
One who acts thus is said to know what is protected and unprotected.
Làm như vậy thì gọi là biết rõ cái được bảo quản và cái không được bảo quản.
197. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, bhaṇḍāgāraṃ sammannituṃ, yaṃ saṅgho ākaṅkhati vihāraṃ vā aḍḍhayogaṃ vā pāsādaṃ vā hammiyaṃ vā guhaṃ vā’’ti (mahāva. 343) vacanato bhaṇḍāgāraṃ sammannitvā ṭhapetabbaṃ.
197. As stated: “I allow, bhikkhus, to appoint a storehouse (bhaṇḍāgāra), be it a monastery (vihāra), a half-gabled house (aḍḍhayoga), a storied dwelling (pāsāda), a pinnacled mansion (hammiya), or a cave (guhā), which the Saṅgha desires,” a storehouse should be appointed and established.
197. Theo lời dạy: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép chỉ định một kho chứa, bất cứ tịnh xá, nhà nửa mái, lầu đài, nhà cao tầng, hay hang động nào mà Tăng đoàn mong muốn,” thì kho chứa nên được chỉ định và đặt.
Ettha ca yo ārāmamajjhe ārāmikasāmaṇerādīhi avivitto sabbesaṃ samosaraṇaṭṭhāne vihāro vā aḍḍhayogo vā hoti, so sammannitabbo.
In this regard, a monastery or a half-gabled house that is not secluded by lay attendants (ārāmika), novices (sāmaṇera), etc., within the monastery grounds, but is a place where all can gather, should be appointed.
Ở đây, một tịnh xá hoặc nhà nửa mái nằm giữa khu vườn, không bị quấy rầy bởi người làm vườn, sa-di, v.v., và là nơi tụ họp của tất cả mọi người, thì nên được chỉ định.
Paccantasenāsanaṃ pana na sammannitabbaṃ.
However, a dwelling at the outskirts should not be appointed.
Tuy nhiên, chỗ ở xa xôi hẻo lánh thì không nên được chỉ định.
Imaṃ pana bhaṇḍāgāraṃ khaṇḍasīmaṃ gantvā khaṇḍasīmāya nisinnehi sammannituṃ na vaṭṭati.
But this storehouse cannot be appointed by going to a khaṇḍasīmā and sitting there.
Và kho chứa này không được chỉ định bằng cách đi đến khu vực sīmā và ngồi trong khu vực sīmā.
Vihāramajjheyeva ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho itthannāmaṃ vihāraṃ bhaṇḍāgāraṃ sammanneyyā’’tiādinā (mahāva. 343) nayena kammavācāya vā apalokanena vā sammannitabbaṃ.
It should be appointed within the monastery itself by a formal act (kammavācā) or by simple declaration (apalokana) in the manner beginning, “May the Saṅgha, Venerables, listen to me. If it is suitable for the Saṅgha, the Saṅgha should appoint the monastery named so-and-so as the storehouse.”
Mà nên được chỉ định ngay giữa tịnh xá, bằng lời bạch yết ma hoặc lời thông báo theo cách bắt đầu bằng: “Bạch chư Tăng, xin Tăng đoàn lắng nghe con. Nếu Tăng đoàn xét thấy thích hợp, Tăng đoàn nên chỉ định tịnh xá tên là (tên tịnh xá) làm kho chứa.”
Cīvarapaṭiggāhakādīhi pana tīhipi attano vattaṃ jānitabbaṃ.
The three bhikkhus—the robe-receiver, etc.—should know their respective duties.
Ba vị tỳ khưu này, tức là người nhận y, v.v., nên biết bổn phận của mình.
Tattha cīvarapaṭiggāhakena tāva yaṃ yaṃ manussā ‘‘kālacīvara’’nti vā ‘‘akālacīvara’’nti vā ‘‘accekacīvara’’nti vā ‘‘vassikasāṭika’’nti vā ‘‘nisīdana’’nti vā ‘‘paccattharaṇa’’nti vā ‘‘mukhapuñchanacoḷa’’nti vā denti, taṃ sabbaṃ ekarāsiṃ katvā missetvā na gaṇhitabbaṃ, visuṃ visuṃ katvāva gaṇhitvā cīvaranidahakassa tatheva ācikkhitvā dātabbaṃ.
Among them, the robe-receiver should not collect and mix all robes that people donate, whether they are called “timely robes,” “untimely robes,” “emergency robes,” “rain-cloths,” “sitting-cloths,” “bed-sheets,” or “face-towels”; he should receive them separately and inform the robe-storing bhikkhu in the same way, then hand them over.
Trong đó, người nhận y không nên gom chung tất cả các loại y mà người ta cúng dường, dù là y đúng thời (kālacīvara), y không đúng thời (akālacīvara), y khẩn cấp (accekacīvara), y tắm mưa (vassikasāṭika), tọa cụ (nisīdana), trải giường (paccattharaṇa), hay khăn lau mặt (mukhapuñchanacoḷa), mà nên nhận riêng từng loại, sau đó báo cáo và giao lại cho người cất giữ y theo đúng như vậy.
Cīvaranidahakenapi bhaṇḍāgārikassa dadamānena ‘‘idaṃ kālacīvaraṃ…pe… idaṃ mukhapuñchanacoḷa’’nti ācikkhitvāva dātabbaṃ.
The robe-storing bhikkhu, when giving to the storekeeper, should also inform him, saying, “This is a timely robe… etc.… This is a face-towel,” and then give it.
Người cất giữ y cũng vậy, khi giao cho người giữ kho, nên báo cáo: “Đây là y đúng thời… (v.v.)… đây là khăn lau mặt” rồi mới giao.
Bhaṇḍāgārikenapi tatheva visuṃ visuṃ saññāṇaṃ katvā ṭhapetabbaṃ.
The storekeeper should also label them separately and store them in the same way.
Người giữ kho cũng nên đặt riêng từng loại và đánh dấu như vậy.
Tato saṅghena ‘‘kālacīvaraṃ āharā’’ti vutte kālacīvarameva dātabbaṃ…pe… ‘‘mukhapuñchanacoḷaṃ āharā’’ti vutte tadeva dātabbaṃ.
Then, when the Saṅgha says, “Bring a timely robe,” only a timely robe should be given… etc.… when it says, “Bring a face-towel,” only that should be given.
Sau đó, khi Tăng đoàn nói: “Hãy mang y đúng thời đến,” thì chỉ nên giao y đúng thời… (v.v.)… khi nói: “Hãy mang khăn lau mặt đến,” thì chỉ nên giao đúng loại đó.
Iti bhagavatā cīvarapaṭiggāhako anuññāto, cīvaranidahako anuññāto, bhaṇḍāgāriko anuññāto, bhaṇḍāgāraṃ anuññātaṃ, na bāhulikatāya, na asantuṭṭhitāya, apica kho saṅghānuggahāya.
Thus, the Buddha allowed the robe-receiver, the robe-storing bhikkhu, the storekeeper, and the storehouse, not out of greed or discontent, but rather for the benefit of the Saṅgha.
Như vậy, Thế Tôn đã cho phép người nhận y, người cất giữ y, người giữ kho, và kho chứa không phải vì muốn có nhiều y, không phải vì không biết đủ, mà là vì lợi ích của Tăng đoàn.
Sace hi āhaṭāhaṭaṃ gahetvā bhikkhū bhājeyyuṃ, neva āhaṭaṃ, na anāhaṭaṃ, na dinnaṃ, na adinnaṃ, na laddhaṃ, na aladdhaṃ jāneyyuṃ, āhaṭāhaṭaṃ therāsane vā dadeyyuṃ, khaṇḍākhaṇḍaṃ vā chinditvā gaṇheyyuṃ, evaṃ sati ayuttaparibhogo ca hoti, na ca sabbesaṃ saṅgaho kato hoti.
For if bhikkhus were to divide whatever was brought as soon as it was received, they would not know what was brought or not brought, given or not given, received or not received; they might give whatever was brought to the senior bhikkhus or cut it into pieces and take it. In such a case, there would be improper use, and not everyone would be accommodated.
Thật vậy, nếu các tỳ khưu tự ý nhận và phân chia y phục khi chúng được mang đến, họ sẽ không biết cái nào đã được mang đến, cái nào chưa được mang đến, cái nào đã được cho, cái nào chưa được cho, cái nào đã nhận, cái nào chưa nhận. Họ có thể trao những y phục mới mang đến cho các vị trưởng lão, hoặc cắt xé từng mảnh rồi nhận. Trong trường hợp đó, việc sử dụng sẽ không phù hợp, và không phải tất cả mọi người đều được giúp đỡ.
Bhaṇḍāgāre pana cīvaraṃ ṭhapetvā ussannakāle ekekassa bhikkhuno ticīvaraṃ vā dve dve vā ekekaṃ vā cīvaraṃ dassanti, laddhāladdhaṃ jānissanti, aladdhabhāvaṃ ñatvā saṅgahaṃ kātuṃ maññissantīti.
However, by storing robes in the storehouse, during times of abundance, they will give three robes, or two, or one robe to each bhikkhu, they will know what has been received and what has not, and knowing who has not received, they will consider making arrangements.
Nhưng nếu y phục được cất giữ trong kho, thì khi có nhiều y, mỗi tỳ khưu sẽ được cấp ba y, hoặc hai y, hoặc một y. Họ sẽ biết cái nào đã nhận, cái nào chưa nhận, và khi biết mình chưa nhận, họ sẽ nghĩ đến việc giúp đỡ Tăng đoàn.
Ettha sabhāgānaṃ bhikkhūnaṃ apāpuṇantampi mahagghacīvaraṃ dento chandāgatiṃ gacchati nāma.
Here, one who gives an expensive robe to bhikkhus of similar status, even when it is not due, is said to go by way of desire (chandāgati).
Tại đây, vị tỳ khưu nào trao y đắt tiền cho các tỳ khưu đồng phái của mình dù họ không xứng đáng thì gọi là đi theo dục vọng.
Aññesaṃ vuḍḍhatarānaṃ pāpuṇantampi mahagghacīvaraṃ adatvā appagghaṃ dento dosāgatiṃ gacchati nāma.
One who, without giving an expensive robe to other elder bhikkhus even when it is due, gives them an inexpensive one, is said to go by way of hatred (dosāgati).
Vị nào không trao y đắt tiền cho các tỳ khưu lớn tuổi hơn xứng đáng nhận, mà lại trao y rẻ tiền thì gọi là đi theo sân hận.
Mohamūḷho cīvaradānavattaṃ ajānanto mohāgatiṃ gacchati nāma.
One who, deluded by ignorance, does not know the practice of robe-distribution, is said to go by way of delusion (mohāgati).
Vị nào vì si mê mà không biết bổn phận phân chia y thì gọi là đi theo si mê.
Mukharānaṃ navakānampi bhayena apāpuṇantaṃ eva mahagghaṃ cīvaraṃ dento bhayāgatiṃ gacchati nāma.
One who, out of fear of quarrelsome junior bhikkhus, gives them an expensive robe even when it is not due, is said to go by way of fear (bhayāgati).
Vị nào vì sợ hãi mà trao y đắt tiền cho các tỳ khưu trẻ tuổi, hay nói nhiều dù họ không xứng đáng thì gọi là đi theo sợ hãi.
Yo evaṃ na gacchati, sabbesaṃ tulābhūto pamāṇabhūto majjhatto, so sammannitabbo.
The one who does not go by these ways, but is impartial, like a balance, a standard for all, that one should be appointed.
Vị nào không đi theo những điều này, là người công bằng, chuẩn mực, trung lập với tất cả, thì vị ấy nên được tấn cử.
Tenapi cīvaraṃ bhājentena paṭhamaṃ ‘‘idaṃ thūlaṃ, idaṃ saṇhaṃ, idaṃ ghanaṃ, idaṃ tanukaṃ, idaṃ paribhuttaṃ, idaṃ aparibhuttaṃ, idaṃ dīghato ettakaṃ, puthulato ettaka’’nti evaṃ vatthāni vicinitvā ‘‘idaṃ ettakaṃ agghati, idaṃ ettaka’’nti evaṃ agghaparicchedaṃ katvā sace sabbesaṃ ekekameva dasadasaagghanakaṃ pāpuṇāti, iccetaṃ kusalaṃ.
That person, when distributing robes, should first examine the cloths, saying: "This is coarse, this is fine; this is thick, this is thin; this is used, this is unused; this is so much in length, so much in width." Then, having determined the value, saying: "This is worth so much, this is worth so much," if everyone receives one piece worth ten (coins) each, that is good.
Vị ấy khi phân chia y, trước hết phải chọn lựa các tấm y, chẳng hạn: “Tấm này thô, tấm này mịn, tấm này dày, tấm này mỏng, tấm này đã dùng, tấm này chưa dùng, tấm này dài chừng này, rộng chừng này,” rồi định giá: “Tấm này giá chừng này, tấm này giá chừng này.” Nếu mỗi tỳ khưu đều nhận được một tấm y trị giá mười đồng, thì điều đó là tốt.
No ce pāpuṇāti, yaṃ nava vā aṭṭha vā agghati, taṃ aññena ekaagghanakena ca dviagghanakena ca saddhiṃ bandhitvā etena upāyena same paṭivīse ṭhapetvā kuso pātetabbo.
If it is not enough, then a cloth worth nine or eight (coins) should be bundled together with one worth one (coin) and one worth two (coins), and by this means, having made equal shares, lots should be cast.
Nếu không được như vậy, thì tấm y nào trị giá chín hoặc tám đồng, hãy buộc nó với một tấm y trị giá một đồng và một tấm y trị giá hai đồng, rồi dùng phương pháp này để đặt thành các phần bằng nhau và gieo thẻ (kusa).
Sace ekekassa dīyamāne cīvare divaso nappahoti, dasa dasa bhikkhū gaṇetvā dasa dasa cīvarapaṭivīse ekato bandhitvā bhaṇḍikaṃ katvā eko cīvarapaṭivīso ṭhapetabbo.
If, when robes are being given individually to each person, a day is not enough, then counting ten bhikkhus at a time, ten shares of robes should be bundled together, made into a package, and one bundle of robe shares should be set aside.
Nếu thời gian một ngày không đủ để trao y cho từng tỳ khưu, thì hãy nhóm mười tỳ khưu lại, buộc mười phần y thành một bó, rồi đặt một phần y riêng ra.
Evaṃ ṭhapitesu cīvarapaṭivīsesu kuso pātetabbo.
When the robe shares are set aside in this manner, lots should be cast.
Khi các phần y đã được đặt như vậy, thì gieo thẻ.
Tehipi bhikkhūhi puna kusapātaṃ katvā bhājetabbaṃ.
Those bhikkhus, too, should cast lots again and distribute them.
Các tỳ khưu đó cũng phải gieo thẻ lại và phân chia.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sāmaṇerānaṃ upaḍḍhapaṭivīsaṃ dātu’’nti (mahāva. 343) vacanato ye sāmaṇerā attissarā bhikkhusaṅghassa kattabbakammaṃ na karonti, uddesaparipucchāsu yuttā ācariyupajjhāyānaṃyeva vattapaṭivattaṃ karonti, aññesaṃ na karonti, etesaṃyeva upaḍḍhabhāgo dātabbo.
According to the statement: "Bhikkhus, I allow to give a half-share to novices," those novices who are independent and do not perform duties for the bhikkhu Saṅgha, but are engaged in learning and questioning and only perform duties for their own teachers and preceptors, and not for others, to these should a half-share be given.
Theo lời dạy: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép trao một nửa phần cho các sa-di” – chỉ nên trao một nửa phần cho những sa-di tự chủ, không làm các công việc của Tăng chúng, mà chỉ làm các bổn phận đối với các vị ācariya (thầy) và upajjhāya (bổn sư) trong việc học hỏi và vấn đáp, không làm cho người khác.
Ye pana purebhattañca pacchābhattañca bhikkhusaṅghasseva kattabbakiccaṃ karonti, tesaṃ samako dātabbo.
But those who perform duties for the bhikkhu Saṅgha both before and after meals, to them an equal share should be given.
Tuy nhiên, những sa-di nào làm các công việc cần thiết cho Tăng chúng cả trước và sau bữa ăn, thì nên được trao phần bằng nhau.
Idañca piṭṭhisamaye uppannena bhaṇḍāgāre ṭhapitena akālacīvareneva kathitaṃ, kālacīvaraṃ pana samakaṃyeva dātabbaṃ.
This statement refers to non-seasonal robes obtained outside the Kathina period and kept in the storehouse; seasonal robes, however, should always be given equally.
Điều này chỉ nói đến y phi thời (akālacīvara) phát sinh ngoài thời gian Kathina và được cất giữ trong kho; còn y đúng thời (kālacīvara) thì phải được trao phần bằng nhau.
Tatruppādavassāvāsikaṃ sammuñjanībandhanādi saṅghassa phātikammaṃ katvā gahetabbaṃ.
The robes produced there for the Rains-residence should be taken after performing community work for the Saṅgha, such as sweeping and tying brooms.
Y an cư (vassāvāsika) phát sinh ở đó phải được nhận sau khi đã làm các công việc lợi ích cho Tăng chúng như quét dọn, buộc chổi, v.v.
Etañhettha sabbesaṃ vattaṃ.
This is the duty for all in this regard.
Đây là bổn phận của tất cả mọi người ở đó.
Bhaṇḍāgāracīvarepi sace sāmaṇerā āgantvā ‘‘bhante, mayaṃ yāguṃ pacāma, bhattaṃ pacāma, khajjakaṃ pacāma, appaharitaṃ karoma, dantakaṭṭhaṃ āharāma, raṅgachalliṃ kappiyaṃ katvā dema, kiṃ amhehi na kataṃ nāmā’’ti ukkuṭṭhiṃ karonti, samabhāgova dātabbo.
Even regarding storehouse robes, if novices come and complain, saying: "Venerable sirs, we cook gruel, we cook rice, we cook snacks, we clear green vegetation, we bring tooth-sticks, we prepare and give dye-bark; what haven't we done?", an equal share should be given.
Ngay cả đối với y trong kho, nếu các sa-di đến và kêu ca: “Bạch chư Tăng, chúng con nấu cháo, nấu cơm, nấu đồ ăn vặt, dọn dẹp cỏ dại, mang tăm xỉa răng đến, làm vỏ cây nhuộm y cho phép, có việc gì mà chúng con chưa làm đâu?” thì nên trao cho họ phần bằng nhau.
Etaṃyeva virajjhitvā karonti, yesañca karaṇabhāvo na paññāyati, te sandhāya vuttaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, sāmaṇerānaṃ upaḍḍhapaṭivīsaṃ dātu’’nti.
If they fail to do these things, and their act of doing is not evident, it is with reference to them that it was said: "Bhikkhus, I allow to give a half-share to novices."
Nếu họ làm sai những việc này, và không rõ ràng về việc làm của họ, thì lời dạy “Này các tỳ khưu, Ta cho phép trao một nửa phần cho các sa-di” là để chỉ những sa-di đó.
Kurundiyaṃ pana ‘‘sace sāmaṇerā ‘kasmā mayaṃ, bhante, saṅghakammaṃ na karoma, karissāmā’ti yācanti, samapaṭivīso dātabbo’’ti vuttaṃ.
However, in the Kurundi, it is stated: "If novices plead, 'Venerable sirs, why should we not do Saṅgha duties? We will do them,' an equal share should be given."
Tuy nhiên, trong bộ Kurundi, có nói: “Nếu các sa-di cầu xin: ‘Bạch chư Tăng, tại sao chúng con không làm công việc của Tăng chúng? Chúng con sẽ làm,’ thì nên trao cho họ phần bằng nhau.”
Sace koci bhikkhu sakaṃ bhāgaṃ gahetvā satthaṃ labhitvā nadiṃ vā kantāraṃ vā uttaritvā disāpakkamitukāmo hoti, tassa ‘‘anujānāmi, bhikkhave, uttarantassa sakaṃ bhāgaṃ dātu’’nti (mahāva. 343) vacanato cīvaresu bhaṇḍāgārato bahi nīhaṭesu ghaṇṭiṃ paharitvā bhikkhusaṅghe sannipatite cīvarabhājakena ‘‘imassa bhikkhuno koṭṭhāsena ettakena bhavitabba’’nti takketvā nayaggāhena samabhāgena cīvaraṃ dātabbaṃ.
If a certain bhikkhu, having received his share and found a caravan, desires to cross a river or a wilderness and depart to another direction, then, according to the statement: "Bhikkhus, I allow to give his share to one who is departing," when robes are brought out from the storehouse, the robe-distributor should strike the bell, gather the bhikkhu Saṅgha, estimate: "This bhikkhu's portion should be this much," and give him an equal share of robes by estimation.
Nếu có một tỳ khưu nào đó muốn lấy phần của mình, tìm được một đoàn lữ hành, vượt sông hoặc sa mạc, và muốn đi đến một phương hướng khác, thì theo lời dạy: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép trao phần của mình cho người đi đường” – khi các tấm y đã được đưa ra khỏi kho, sau khi đánh chuông và Tăng chúng đã tập hợp, vị phân chia y phải ước lượng: “Phần của tỳ khưu này nên là chừng này,” rồi trao y bằng một phần bằng nhau theo cách phỏng đoán.
Tulāya tulitamiva hi samasamaṃ dātuṃ na sakkā, tasmā ūnaṃ vā hotu adhikaṃ vā, evaṃ takkena nayena dinnaṃ sudinnaṃ.
It is indeed not possible to give an exact equal amount as if weighed on a scale; therefore, whether it is less or more, a gift given in such an estimated way is well given.
Thật vậy, không thể trao y bằng nhau như cân bằng cân, do đó, dù ít hơn hay nhiều hơn, việc trao y bằng cách ước lượng như vậy là việc trao y tốt.
Neva ūnakaṃ puna dātabbaṃ, nātirittaṃ paṭiggaṇhitabbaṃ.
Neither should less be given again, nor should excess be accepted.
Không nên trao thêm nếu thiếu, cũng không nên nhận lại nếu thừa.
Sace dasa bhikkhū honti, sāṭakāpi daseva, tesu eko dvādasa agghati, sesā dasagghanakā.
If there are ten bhikkhus and also ten cloths, and among them one is worth twelve (coins), while the rest are worth ten (coins).
Nếu có mười tỳ khưu, và cũng có mười tấm y, trong đó có một tấm trị giá mười hai đồng, còn lại chín tấm trị giá mười đồng mỗi tấm.
Sabbesu dasagghanakavasena kuse pātite yassa bhikkhuno dvādasagghanako kuso pātito, tena yattakaṃ tasmiṃ paṭivīse adhikaṃ, tattakaṃ agghanakaṃ yaṃ kiñci attano santakaṃ kappiyabhaṇḍaṃ datvā so atirekabhāgo gahetabbo.
When lots are cast for all as if each were worth ten (coins), and the lot for the bhikkhu who receives the one worth twelve (coins) is drawn, then he should take that extra portion by giving something else of his own permissible requisites (kappiyabhaṇḍa) worth the amount that is in excess in that portion.
Khi gieo thẻ cho tất cả các tấm y theo giá trị mười đồng, nếu tấm y trị giá mười hai đồng rơi vào tỳ khưu nào, thì vị ấy phải lấy phần dư đó bằng cách trao bất kỳ vật dụng hợp lệ nào thuộc sở hữu của mình có giá trị tương đương với phần dư đó.
Sace sabbesaṃ pañca pañca vatthāni pattāni, sesānipi atthi, ekekaṃ pana na pāpuṇāti, chinditvā dātabbāni.
If everyone receives five cloths each, and there are still some left, but not enough for each to get one more, then they should be cut and given.
Nếu mỗi tỳ khưu nhận được năm tấm y, và vẫn còn y dư, nhưng không đủ để mỗi người nhận thêm một tấm, thì phải cắt ra để trao.
Chindantena ca aḍḍhamaṇḍalādīnaṃ vā upāhanatthavikādīnaṃ vā pahonakāni khaṇḍāni katvā dātabbāni.
When cutting, pieces suitable for half-circles or for sandals, bags, etc., should be made and given.
Khi cắt, phải cắt thành những mảnh đủ để làm bán nguyệt, hoặc túi giày, v.v.
Heṭṭhimaparicchedena caturaṅgulavitthārampi anuvātappahonakāyāmaṃ khaṇḍaṃ katvā dātuṃ vaṭṭati, aparibhogaṃ pana na kātabbaṃ.
It is permissible to cut a piece with a minimum width of four finger-breadths and a length sufficient for an under-robe, but it should not be made unusable.
Theo giới hạn thấp nhất, cũng được phép cắt một mảnh rộng bốn ngón tay và dài đủ để làm dây buộc, nhưng không được làm cho nó không thể sử dụng được.
Sacepi ekassa bhikkhuno koṭṭhāse ekaṃ vā dve vā vatthāni nappahonti, tattha aññaṃ sāmaṇakaṃ parikkhāraṃ ṭhapetvā yo tena tussati, tassa taṃ bhāgaṃ katvā pacchā kusapāto kātabbo.
Even if one or two cloths are not enough for a bhikkhu's portion, other suitable requisites should be placed there, and that portion should be given to the one who is satisfied with it, and then lots should be cast.
Nếu trong phần của một tỳ khưu không đủ một hoặc hai tấm y, thì hãy đặt một vật dụng thích hợp khác vào đó, rồi trao phần đó cho tỳ khưu nào hài lòng với nó, sau đó mới gieo thẻ.
Sace dasa dasa bhikkhū gaṇetvā vaggaṃ karontānaṃ eko vaggo na pūrati, aṭṭha vā nava vā honti, tesaṃ aṭṭha vā nava vā koṭṭhāsā ‘‘tumhe ime gahetvā visuṃ bhājethā’’ti dātabbā.
If, when forming groups by counting ten bhikkhus at a time, one group is not full, consisting of eight or nine, those eight or nine portions should be given to them with the instruction: "You take these and distribute them separately."
Nếu khi nhóm mười tỳ khưu thành từng nhóm mà một nhóm không đủ mười người, chỉ có tám hoặc chín người, thì nên trao tám hoặc chín phần đó cho họ và nói: “Quý vị hãy lấy những phần này và tự chia riêng.”
Evaṃ datvā pacchā kusapāto kātabbo.
Having given them thus, lots should be cast afterwards.
Sau khi trao như vậy, sau đó mới gieo thẻ.
Tattha ‘‘sīmāya dammī’’ti evaṃ sīmaṃ parāmasitvā dento sīmāya deti nāma.
Among these, one who gives by referring to a boundary, saying: "I give to the boundary," is said to give to the boundary.
Trong đó, người nào trao y bằng cách đề cập đến sīmā, chẳng hạn: “Tôi dâng cúng cho sīmā,” thì gọi là trao cho sīmā.
Evaṃ sīmāya dinnaṃ yāvatikā bhikkhū antosīmāgatā, tehi bhājetabbaṃ.
That which is given to the boundary in this way should be distributed by as many bhikkhus as are within that boundary.
Y được trao cho sīmā như vậy phải được phân chia bởi tất cả các tỳ khưu có mặt trong sīmā.
Sīmā ca nāmesā khaṇḍasīmā upacārasīmā samānasaṃvāsasīmā avippavāsasīmā lābhasīmā gāmasīmā nigamasīmā nagarasīmā abbhantarasīmā udakukkhepasīmā janapadasīmā raṭṭhasīmā rajjasīmā dīpasīmā cakkavāḷasīmāti pannarasavidhā hoti.
And this sīmā is of fifteen kinds: khaṇḍasīmā, upacārasīmā, samānasaṃvāsasīmā, avippavāsasīmā, lābhasīmā, gāmasīmā, nigamasīmā, nagarasīmā, abbhantarasīmā, udakukkhepasīmā, janapadasīmā, raṭṭhasīmā, rajjasīmā, dīpasīmā, and cakkavāḷasīmā.
Sīmā (biên giới) này có mười lăm loại: khaṇḍasīmā (biên giới phân chia), upacārasīmā (biên giới cận xứ), samānasaṃvāsasīmā (biên giới cùng sống chung), avippavāsasīmā (biên giới không xa rời), lābhasīmā (biên giới lợi lộc), gāmasīmā (biên giới làng), nigamasīmā (biên giới thị trấn), nagarasīmā (biên giới thành phố), abbhantarasīmā (biên giới nội bộ), udakukkhepasīmā (biên giới ném nước), janapadasīmā (biên giới xứ), raṭṭhasīmā (biên giới quốc gia), rajjasīmā (biên giới vương quốc), dīpasīmā (biên giới đảo) và cakkavāḷasīmā (biên giới thế giới).
Tattha khaṇḍasīmā sīmākathāyaṃ vuttāva.
Among these, khaṇḍasīmā has already been stated in the discourse on sīmā.
Trong số đó, khaṇḍasīmā (biên giới phân chia) đã được nói đến trong phần trình bày về sīmā.
Upacārasīmā nāma parikkhittassa vihārassa parikkhepena, aparikkhittassa parikkhepārahaṭṭhānena paricchinnā hoti.
Upacārasīmā is that which is demarcated by the boundary of an enclosed monastery, or by an area suitable for enclosure for an unenclosed one.
Upacārasīmā (biên giới cận xứ) là ranh giới được xác định bởi hàng rào của một tu viện có hàng rào, hoặc bởi khu vực thích hợp để làm hàng rào của một tu viện không có hàng rào.
Apica bhikkhūnaṃ dhuvasannipātaṭṭhānato pariyante ṭhitabhojanasālato vā nibaddhavasanaāvāsato vā thāmamajjhimassa purisassa dvinnaṃ leḍḍupātānaṃ anto upacārasīmāti veditabbā.
Moreover, the upacārasīmā is to be understood as the area within two clods thrown by a man of medium strength, either from the bhikkhus' permanent assembly place, or from the alms-hall situated at the edge, or from a continuously inhabited dwelling.
Hơn nữa, cần phải biết rằng upacārasīmā (biên giới cận xứ) là khu vực bên trong hai lần ném đất của một người đàn ông có sức khỏe trung bình, tính từ nơi Tăng đoàn thường xuyên tập hợp, hoặc từ nhà ăn ở rìa, hoặc từ trú xứ cố định.
Sā pana āvāsesu vaḍḍhantesu vaḍḍhati, parihāyantesu parihāyati.
This sīmā expands when the monasteries expand, and shrinks when they shrink.
Biên giới này mở rộng khi các trú xứ mở rộng và thu hẹp khi các trú xứ thu hẹp.
Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘bhikkhūsupi vaḍḍhantesu vaḍḍhatī’’ti vuttaṃ.
However, in the Mahāpaccariya, it is stated, “It also expands when the bhikkhus increase.”
Tuy nhiên, trong Mahāpaccariyaṃ, có nói rằng “nó cũng mở rộng khi số Tỳ-khưu tăng lên”.
Tasmā sace vihāre sannipatitabhikkhūhi saddhiṃ ekābaddhā hutvā yojanasatampi pūretvā nisīdanti, yojanasatampi upacārasīmāva hoti, sabbesaṃ lābho pāpuṇāti.
Therefore, if bhikkhus, becoming connected as one with the bhikkhus assembled in a monastery, sit, filling even a hundred yojanas, that hundred-yojana area also becomes an upacārasīmā, and the gain accrues to all.
Do đó, nếu các Tỳ-khưu tụ họp trong tu viện cùng nhau ngồi liên tục đến một trăm dojana, thì một trăm dojana đó cũng là upacārasīmā (biên giới cận xứ), và tất cả sẽ được hưởng lợi lộc.
Samānasaṃvāsaavippavāsasīmādvayampi vuttameva.
Both samānasaṃvāsa and avippavāsasīmā have also been stated.
Cả hai loại samānasaṃvāsasīmā (biên giới cùng sống chung) và avippavāsasīmā (biên giới không xa rời) cũng đã được nói đến.
Lābhasīmā nāma neva sammāsambuddhena anuññātā, na dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitā, apica kho rājarājamahāmattā vihāraṃ kāretvā gāvutaṃ vā aḍḍhayojanaṃ vā yojanaṃ vā samantato paricchinditvā ‘‘ayaṃ amhākaṃ vihārassa lābhasīmā’’ti nāmalikhitake thambhe nikhaṇitvā ‘‘yaṃ etthantare uppajjati, sabbaṃ amhākaṃ vihārassa demā’’ti sīmā ṭhapenti, ayaṃ lābhasīmā nāma.
Lābhasīmā is that which was not authorized by the Perfectly Enlightened One, nor established by the Elders who compiled the Dhamma, but rather, kings and great ministers, having built a monastery, demarcate a gāvuta, half a yojana, or a yojana all around, and planting pillars inscribed with the name, “This is the lābhasīmā of our monastery,” declare, “Whatever arises within this boundary, we give it all to our monastery.” This is called lābhasīmā.
Lābhasīmā (biên giới lợi lộc) không phải do Đức Chánh Đẳng Giác cho phép, cũng không do các trưởng lão kết tập Dhamma thiết lập, mà là khi các vua, đại thần xây dựng tu viện, phân định một khu vực rộng một gāvuta, nửa dojana hoặc một dojana xung quanh, rồi cắm các cột có khắc tên “Đây là lābhasīmā (biên giới lợi lộc) của tu viện chúng tôi”, và nói “Tất cả những gì phát sinh trong khu vực này, chúng tôi xin dâng cho tu viện chúng tôi”. Đây được gọi là lābhasīmā (biên giới lợi lộc).
Gāmanigamanagaraabbhantaraudakukkhepasīmāpi vuttā eva.
Gāmasīmā, nigamasīmā, nagarasīmā, abbhantarasīmā, and udakukkhepasīmā have also been stated.
Gāmasīmā (biên giới làng), nigamasīmā (biên giới thị trấn), nagarasīmā (biên giới thành phố), abbhantarasīmā (biên giới nội bộ), udakukkhepasīmā (biên giới ném nước) cũng đã được nói đến.
Janapadasīmā nāma kāsikosalaraṭṭhādīnaṃ anto bahū janapadā honti, tattha ekeko janapadaparicchedo janapadasīmā.
Janapadasīmā refers to the many provinces within realms like Kāsī and Kosala; the demarcation of each province is a janapadasīmā.
Janapadasīmā (biên giới xứ) là ranh giới của từng xứ trong nhiều xứ nằm trong các quốc gia như Kāsī và Kosala.
Raṭṭhasīmā nāma kāsikosalādiraṭṭhaparicchedo.
Raṭṭhasīmā is the demarcation of kingdoms like Kāsī and Kosala.
Raṭṭhasīmā (biên giới quốc gia) là ranh giới của các quốc gia như Kāsī và Kosala.
Rajjasīmā nāma ‘‘coḷabhogo keraḷabhogo’’ti evaṃ ekekassa rañño āṇāpavattiṭṭhānaṃ.
Rajjasīmā is the area where the command of a single king prevails, as in "the Coḷa territory" or "the Keraḷa territory."
Rajjasīmā (biên giới vương quốc) là khu vực quyền lực của từng vị vua, ví dụ như “lãnh thổ Coḷa” hay “lãnh thổ Keraḷa”.
Dīpasīmā nāma samuddantena paricchinnamahādīpā ca antaradīpā ca.
Dīpasīmā refers to the great islands and intermediate islands demarcated by the ocean's edge.
Dīpasīmā (biên giới đảo) là các đại đảo và tiểu đảo được bao quanh bởi biển.
Cakkavāḷasīmā cakkavāḷapabbateneva paricchinnā.
Cakkavāḷasīmā is demarcated solely by the Cakkavāḷa mountain.
Cakkavāḷasīmā (biên giới thế giới) được bao quanh bởi chính núi Cakkavāḷa.
Evametāsu sīmāsu khaṇḍasīmāya kenaci kammena sannipatitaṃ saṅghaṃ disvā ‘‘ettheva sīmāya saṅghassa demī’’ti vutte yāvatikā bhikkhū antokhaṇḍasīmāgatā, tehi bhājetabbaṃ.
Thus, concerning these sīmās, if one sees a Saṅgha assembled for some act within a khaṇḍasīmā and says, "I give to the Saṅgha right here within this sīmā," then it should be divided by those bhikkhus who are within that khaṇḍasīmā.
Trong số các sīmā này, khi thấy Tăng đoàn tụ họp để thực hiện một nghi thức nào đó trong khaṇḍasīmā (biên giới phân chia), nếu có người nói “Tôi xin dâng cho Tăng đoàn ngay trong sīmā này”, thì những Tỳ-khưu nào đang ở bên trong khaṇḍasīmā (biên giới phân chia) sẽ được chia phần.
Tesaṃyeva hi taṃ pāpuṇāti, aññesaṃ sīmantarikāya vā upacārasīmāya vā ṭhitānampi na pāpuṇāti.
Indeed, it accrues only to them; it does not accrue to others, even if they are situated in a sīmantarika or an upacārasīmā.
Thật vậy, lợi lộc đó thuộc về họ, những người khác dù đang ở sīmantarikā (ranh giới liền kề) hay upacārasīmā (biên giới cận xứ) cũng không được hưởng.
Khaṇḍasīmāya ṭhite pana rukkhe vā pabbate vā ṭhitassa heṭṭhā vā pathavīvemajjhagatassa pāpuṇātiyeva.
However, if one is on a tree or a mountain within a khaṇḍasīmā, or underground, it certainly accrues to them.
Tuy nhiên, nếu đang ở trong khaṇḍasīmā (biên giới phân chia), thì dù đang ở trên cây hay trên núi, hoặc đang ở dưới lòng đất, vẫn được hưởng.
‘‘Imissā upacārasīmāya saṅghassa dammī’’ti dinnaṃ pana khaṇḍasīmāsīmantarikāsu ṭhitānampi pāpuṇāti.
But if something is given with the statement, "I give to the Saṅgha in this upacārasīmā," it accrues even to those situated in khaṇḍasīmāsīmantarikā.
Còn vật dâng cúng với lời nói “Tôi xin dâng cho Tăng đoàn trong upacārasīmā (biên giới cận xứ) này” thì những người đang ở khaṇḍasīmā (biên giới phân chia) hay sīmantarikā (ranh giới liền kề) cũng được hưởng.
‘‘Samānasaṃvāsasīmāya dammī’’ti dinnaṃ pana khaṇḍasīmāsīmantarikāsu ṭhitānaṃ na pāpuṇāti.
However, something given with the statement, "I give in the samānasaṃvāsasīmā," does not accrue to those situated in khaṇḍasīmāsīmantarikā.
Vật dâng cúng với lời nói “Tôi xin dâng trong samānasaṃvāsasīmā (biên giới cùng sống chung)” thì những người đang ở khaṇḍasīmā (biên giới phân chia) hay sīmantarikā (ranh giới liền kề) không được hưởng.
Avippavāsasīmālābhasīmāsu dinnaṃ tāsu sīmāsu antogatānaṃ pāpuṇāti.
Something given in avippavāsasīmā or lābhasīmā accrues to those within those sīmās.
Vật dâng cúng trong avippavāsasīmā (biên giới không xa rời) và lābhasīmā (biên giới lợi lộc) thì những người đang ở bên trong các sīmā đó được hưởng.
Gāmasīmādīsu dinnaṃ tāsaṃ sīmānaṃ abbhantare baddhasīmāya ṭhitānampi pāpuṇāti.
Something given in gāmasīmā and the like accrues even to those situated in a bound sīmā within those boundaries.
Vật dâng cúng trong gāmasīmā (biên giới làng) và các loại tương tự thì những người đang ở trong sīmā đã được thiết lập bên trong các sīmā đó cũng được hưởng.
Abbhantarasīmāudakukkhepasīmāsu dinnaṃ tattha antogatānaṃyeva pāpuṇāti.
Something given in abbhantarasīmā or udakukkhepasīmā accrues only to those within them.
Vật dâng cúng trong abbhantarasīmā (biên giới nội bộ) và udakukkhepasīmā (biên giới ném nước) thì chỉ những người đang ở bên trong đó mới được hưởng.
Janapadaraṭṭharajjadīpacakkavāḷasīmāsupi gāmasīmādīsu vuttasadisoyeva vinicchayo.
Regarding janapadasīmā, raṭṭhasīmā, rajjasīmā, dīpasīmā, and cakkavāḷasīmā, the decision is the same as that stated for gāmasīmā and the like.
Đối với janapadasīmā (biên giới xứ), raṭṭhasīmā (biên giới quốc gia), rajjasīmā (biên giới vương quốc), dīpasīmā (biên giới đảo) và cakkavāḷasīmā (biên giới thế giới), sự phân định cũng tương tự như đã nói về gāmasīmā (biên giới làng) và các loại tương tự.
Sace pana jambudīpe ṭhito ‘‘tambavaṇṇidīpe saṅghassa dammī’’ti vadati, tambapaṇṇidīpato ekopi āgantvā sabbesaṃ gaṇhituṃ labhati.
However, if a person situated in Jambudīpa says, "I give to the Saṅgha in Tambapaṇṇidīpa," even one bhikkhu from Tambapaṇṇidīpa may come and take for all.
Nếu một người đang ở Jambudīpa (Ấn Độ) nói “Tôi xin dâng cho Tăng đoàn ở Tambapaṇṇidīpa (Tích Lan)”, thì dù chỉ một vị từ Tambapaṇṇidīpa đến cũng có thể nhận phần cho tất cả.
Sacepi tatreva eko sabhāgabhikkhu sabhāgānaṃ bhāgaṃ gaṇhāti, na vāretabbo.
And even if one bhikkhu, a partner, takes a share for the partners right there, he should not be prevented.
Dù ở ngay đó, một vị Tỳ-khưu có cùng phần (sabhāgabhikkhu) nhận phần cho những người có cùng phần (sabhāga), cũng không nên ngăn cản.
Evaṃ tāva yo sīmaṃ parāmasitvā deti, tassa dāne vinicchayo veditabbo.
Thus, the decision regarding the giving of one who gives by referring to a sīmā should be understood.
Như vậy, cần phải biết sự phân định về việc dâng cúng của người đã chỉ định sīmā (biên giới).
Yo pana ‘‘asukasīmāya’’nti vattuṃ na jānāti, kevalaṃ ‘‘sīmā’’ti vacanamattameva jānanto vihāraṃ āgantvā ‘‘sīmāya dammī’’ti vā ‘‘sīmaṭṭhakasaṅghassa dammī’’ti vā bhaṇati, so pucchitabbo ‘‘sīmā nāma bahuvidhā, katarasīmaṃ sandhāya bhaṇasī’’ti.
But if a person does not know how to say "in such-and-such a sīmā," and knowing only the mere word "sīmā," comes to a monastery and says, "I give in the sīmā" or "I give to the Saṅgha residing in the sīmā," he should be asked, "Sīmā is of many kinds; which sīmā do you refer to?"
Còn người không biết nói “trong sīmā (biên giới) nào đó”, chỉ biết nói đơn giản “sīmā” (biên giới), khi đến tu viện nói “Tôi xin dâng trong sīmā” hoặc “Tôi xin dâng cho Tăng đoàn đang ở trong sīmā”, thì cần phải hỏi vị ấy rằng “Sīmā (biên giới) có nhiều loại, ngài muốn nói đến sīmā nào?”
Sace vadati ‘‘ahaṃ ‘asukasīmā’ti na jānāmi, sīmaṭṭhakasaṅgho bhājetvā gaṇhatū’’ti, katarasīmāya bhājetabbaṃ?
If he says, "I do not know 'such-and-such a sīmā'; let the Saṅgha residing in the sīmā divide and take it," then in which sīmā should it be divided?
Nếu vị ấy nói “Tôi không biết ‘sīmā nào đó’, Tăng đoàn đang ở trong sīmā hãy chia nhau mà nhận”, thì nên chia theo sīmā nào?
Mahāsīvatthero kirāha ‘‘avippavāsasīmāyā’’ti.
It is said that Mahāsīvatthera replied, "In the avippavāsasīmā."
Nghe nói Đại Trưởng lão Mahāsīva đã nói “theo avippavāsasīmā (biên giới không xa rời)”.
Tato naṃ āhaṃsu ‘‘avippavāsasīmā nāma tiyojanāpi hoti, evaṃ sante tiyojane ṭhitā lābhaṃ gaṇhissanti, tiyojane ṭhatvā āgantukavattaṃ pūretvā ārāmaṃ pavisitabbaṃ bhavissati, gamiko tiyojanaṃ gantvā senāsanaṃ āpucchissati, nissayappaṭipannassa tiyojanātikkame nissayo paṭippassambhissati, pārivāsikena tiyojanaṃ atikkamitvā aruṇaṃ uṭṭhapetabbaṃ bhavissati, bhikkhuniyā tiyojane ṭhatvā ārāmappavesanaṃ āpucchitabbaṃ bhavissati, sabbampetaṃ upacārasīmāparicchedavaseneva kātuṃ vaṭṭati, tasmā upacārasīmāya bhājetabba’’nti.
Then they said to him, "Avippavāsasīmā can be three yojanas long; if so, bhikkhus residing within three yojanas will receive the gain, and one will have to stay within three yojanas, fulfill the duties of a visiting bhikkhu, and then enter the monastery. A bhikkhu on a journey will have to travel three yojanas and then ask permission for a lodging. For a bhikkhu undergoing nissaya, the nissaya will be suspended if he transgresses three yojanas. A bhikkhunī will have to stay within three yojanas and then ask permission to enter the monastery. All this should be done by means of the demarcation of the upacārasīmā. Therefore, it should be divided in the upacārasīmā."
Sau đó, họ nói với vị ấy rằng “Avippavāsasīmā (biên giới không xa rời) có thể rộng đến ba dojana, nếu vậy thì những người đang ở ba dojana đó sẽ nhận được lợi lộc, và phải đến tu viện sau khi hoàn thành bổn phận của khách tăng ở ba dojana đó; người đi đường sẽ phải xin phép chỗ ở sau khi đi ba dojana; đối với người đang thực hành nương tựa, sự nương tựa sẽ chấm dứt khi vượt quá ba dojana; Tỳ-khưu-ni sẽ phải xin phép vào tu viện sau khi đứng ở ba dojana; tất cả những điều này đều có thể thực hiện được theo sự phân định của upacārasīmā (biên giới cận xứ), do đó nên chia theo upacārasīmā (biên giới cận xứ)”.
200. Katikāya detīti ettha pana katikā nāma samānalābhakatikā.
200. Here, regarding gives by agreement (katikāya detī), katikā means an agreement for equal gains.
200. Trong câu Katikāya deti (dâng cúng theo thỏa thuận), katikā (thỏa thuận) ở đây là samānalābhakatikā (thỏa thuận về lợi lộc bình đẳng).
Tatrevaṃ katikā kātabbā, ekasmiṃ vihāre sannipatitehi bhikkhūhi yaṃ vihāraṃ saṅgaṇhitukāmā samānalābhaṃ kātuṃ icchanti, tassa nāmaṃ gahetvā ‘‘asuko nāma vihāro porāṇako’’ti vā ‘‘buddhādhivuttho’’ti vā ‘‘appalābho’’ti vā ya kiñci kāraṇaṃ vatvā ‘‘taṃ vihāraṃ iminā vihārena saddhiṃ ekalābhaṃ kātuṃ saṅghassa ruccatī’’ti tikkhattuṃ sāvetabbaṃ.
There, such an agreement should be made: the bhikkhus assembled in a monastery, desiring to support a certain monastery and wishing to make the gains equal, should mention its name and say some reason, such as "monastery so-and-so is old," or "it was inhabited by the Buddha," or "it has few gains," and then announce three times, "The Saṅgha approves of making that monastery have equal gains with this monastery."
Trong trường hợp đó, katikā (thỏa thuận) cần được thực hiện như sau: các Tỳ-khưu tụ họp trong một tu viện, muốn hỗ trợ và làm cho lợi lộc bình đẳng, sẽ nêu tên tu viện đó, nói một lý do nào đó như “tu viện này là tu viện cổ”, hoặc “nơi Đức Phật đã trú ngụ”, hoặc “tu viện này ít lợi lộc”, rồi ba lần thông báo rằng “Tăng đoàn đồng ý để tu viện đó có lợi lộc bình đẳng với tu viện này”.
Ettāvatā tasmiṃ vihāre nisinnopi idha nisinnova hoti.
By this much, even one who is sitting in that monastery is considered as sitting in this one.
Chỉ cần như vậy, người đang ngồi trong tu viện đó cũng như đang ngồi ở đây.
Tasmiṃ vihārepi saṅghena evameva kātabbaṃ.
In that monastery too, the Saṅgha should act in the same way.
Trong tu viện đó, Tăng đoàn cũng phải làm tương tự.
Ettāvatā idha nisinnopi tasmiṃ nisinnova hoti.
By this much, even one who is sitting in this monastery is considered as sitting in that one.
Chỉ cần như vậy, người đang ngồi ở đây cũng như đang ngồi trong tu viện đó.
Ekasmiṃ vihāre lābhe bhājiyamāne itarasmiṃ ṭhitassa bhāgaṃ gahetuṃ vaṭṭati.
When gains are being divided in one monastery, it is allowable for a bhikkhu situated in the other to receive a share.
Khi lợi lộc được chia trong một tu viện, người đang ở tu viện khác cũng có thể nhận phần.
Evaṃ ekena vihārena saddhiṃ bahūpi āvāsā ekalābhā kātabbā.
In this way, many dwellings can be made to have equal gains with one monastery.
Như vậy, nhiều trú xứ cũng có thể được làm cho có lợi lộc bình đẳng với một tu viện.
Evañca kate ekasmiṃ āvāse dinne sabbattha dinnaṃ hoti.
And when this is done, a gift given in one dwelling is considered given in all.
Khi đã làm như vậy, vật dâng cúng trong một trú xứ cũng như đã dâng cúng ở tất cả các nơi.
201. Bhikkhāpaññatti nāma attano pariccāgapaññāpanaṭṭhānaṃ, yattha saṅghassa dhuvakārā karīyanti.
201. Bhikkhāpaññatti means the place for declaring one's donation, where permanent services for the Saṅgha are performed.
201. Bhikkhāpaññatti (sự quy định về vật thực) là nơi quy định sự bố thí của mình, nơi các công việc thường xuyên của Tăng đoàn được thực hiện.
Ettha ca yasmiṃ vihāre imassa cīvaradāyakassa santakaṃ saṅghassa pākavaṭṭaṃ vā vattati, yasmiṃ vihāre bhikkhū attano bhāraṃ katvā sadā gehe bhojeti, yattha vā tena āvāso kārito, salākabhattādīni vā nibaddhāni, ime dhuvakārā nāma.
And here, permanent services are these: when a meal-offering for the Saṅgha belonging to this robe-giver is due in a monastery, or when bhikkhus, taking it upon themselves, always feed them in their home, or when a dwelling has been built by that person, or when tickets for meals and the like have been permanently arranged.
Ở đây, các công việc thường xuyên (dhuvakārā) là: trong tu viện nào có vật thực nấu chín được dâng cúng cho Tăng đoàn của thí chủ dâng y này, hoặc trong tu viện nào các Tỳ-khưu tự gánh vác việc cúng dường và luôn thọ thực tại nhà, hoặc nơi thí chủ đó đã xây dựng trú xứ, hoặc nơi các salākabhatta (vật thực theo phiếu) và các vật cúng dường khác được thiết lập thường xuyên.
Yena pana sakalopi vihāro patiṭṭhāpito, tattha vattabbameva natthi, tasmā sace so ‘‘yattha mayhaṃ dhuvakārā karīyanti, tattha dammī’’ti vā ‘‘tattha dethā’’ti vā bhaṇati, bahūsu cepi ṭhānesu dhuvakārā honti, sabbattha dinnameva hoti.
But if a donor has established an entire monastery, there is nothing to say about it. Therefore, if that donor says, "I give it where my permanent donations (dhuvakārā) are made," or "Give it there," and if permanent donations are made in many places, it is considered given everywhere.
Nhưng nếu có người đã xây dựng toàn bộ tinh xá, thì không có gì phải nói về điều đó. Do vậy, nếu người ấy nói: “Tôi sẽ cúng dường ở nơi mà các việc cúng dường thường xuyên của tôi được thực hiện” hoặc “Hãy cúng dường ở đó”, thì dù có nhiều nơi có các việc cúng dường thường xuyên, tất cả đều được xem là đã cúng dường.
Sace pana ekasmiṃ vihāre bhikkhū bahutarā honti, tehi vattabbaṃ ‘‘tumhākaṃ dhuvakāre ekattha bhikkhū bahū, ekattha appakā’’ti.
But if there are many bhikkhus in one monastery, it should be said by them, "In your places of permanent donation, in one place there are many bhikkhus, in another place there are few."
Nhưng nếu trong một tinh xá có nhiều Tỳ-khưu hơn, thì họ nên nói: “Trong những nơi cúng dường thường xuyên của quý vị, một nơi có nhiều Tỳ-khưu, một nơi có ít Tỳ-khưu.”
Sace ‘‘bhikkhugaṇanāya gaṇhathā’’ti bhaṇati, tathā bhājetvā gaṇhituṃ vaṭṭati.
If he says, "Take it according to the number of bhikkhus," it is permissible to divide it and take it accordingly.
Nếu người ấy nói: “Hãy nhận theo số lượng Tỳ-khưu”, thì được phép chia và nhận như vậy.
Ettha ca vatthabhesajjādi appakampi sukhena bhājīyati.
And here, even a small amount of robes, medicines, and so forth can be easily divided separately.
Và ở đây, ngay cả những vật phẩm nhỏ như y phục và thuốc men cũng dễ dàng được chia.
Yadi pana mañco vā pīṭhaṃ vā ekameva hoti, taṃ pucchitvā yassa vihārassa, ekavihārepi vā yassa senāsanassa so vicāreti, tattha dātabbaṃ.
However, if there is only one couch or one chair, after asking the donor, it should be given to the monastery that the donor designates, or even within a single monastery, to the particular lodging (senāsana) that he designates.
Nhưng nếu chỉ có một cái giường hoặc một cái ghế, thì sau khi hỏi người ấy, nên cúng dường cho tinh xá nào, hoặc trong một tinh xá, cho chỗ ở (senāsana) nào mà người ấy định.
Sacepi ‘‘asukabhikkhu gaṇhatū’’ti vadati, vaṭṭati.
Even if he says, "Let such-and-such a bhikkhu take it," it is permissible.
Nếu người ấy nói: “Tỳ-khưu kia hãy nhận”, thì cũng được phép.
Atha ‘‘mayhaṃ dhuvakāre dethā’’ti vatvā avicāretvā gacchati, saṅghassapi vicāretuṃ vaṭṭati.
If, however, having said, "Give it to my permanent donation places," he departs without designating further, it is permissible for the Saṅgha to designate it.
Nếu sau khi nói: “Hãy cúng dường cho các việc cúng dường thường xuyên của tôi” mà người ấy bỏ đi không sắp đặt, thì Tăng-già cũng được phép sắp đặt.
Evaṃ pana vicāretabbaṃ, ‘‘saṅghattherassa vasanaṭṭhāne dethā’’ti vattabbaṃ.
However, it should be designated thus: "Give it to the lodging of the Saṅgha's senior bhikkhu (Saṅghatthera)."
Nhưng nên sắp đặt như thế này: “Hãy cúng dường cho chỗ ở của trưởng lão Tăng-già (Saṅghatthera).”
Sace tattha senāsanaṃ paripuṇṇaṃ hoti, yattha nappahoti, tattha dātabbaṃ.
If the lodging there is complete, it should be given where it is insufficient.
Nếu chỗ ở đó đã đầy đủ, thì nên cúng dường cho nơi nào còn thiếu.
Sace eko bhikkhu ‘‘mayhaṃ vasanaṭṭhāne senāsanaparibhogabhaṇḍaṃ natthī’’ti vadati, tattha dātabbaṃ.
If one bhikkhu says, "There are no lodging requisites (senāsanaparibhogabhaṇḍa) in my dwelling place," it should be given there.
Nếu một Tỳ-khưu nói: “Chỗ ở của tôi không có đồ dùng chỗ ở (senāsanaparibhogabhaṇḍa)”, thì nên cúng dường cho chỗ đó.
202. Saṅghassa detīti ettha pana sace vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni saṅghassa dammī’’ti deti, upacārasīmāya ṭhitena saṅghena ghaṇṭiṃ paharitvā kālaṃ ghosetvā bhājetabbāni, sīmaṭṭhakassa asampattassapi bhāgaṃ gaṇhanto na vāretabbo.
202. Regarding "He gives to the Saṅgha," if he enters a monastery and says, "I give these robes to the Saṅgha," they should be rung with a bell, the time announced, and divided by the Saṅgha standing within the precinct (upacārasīma). One should not prevent a member of the Saṅgha who takes a share, even if he has not arrived at the division place but is within the sīmā.
202. Cúng dường cho Tăng-già Ở đây, nếu có người vào tinh xá và nói: “Tôi cúng dường những y phục này cho Tăng-già”, thì Tăng-già đang ở trong ranh giới (upacārasīmā) nên đánh chuông, báo thời gian và chia y phục. Người chưa đến nơi chia, nhưng đang ở trong ranh giới sīmā, cũng không nên bị ngăn cản nhận phần của mình.
Vihāro mahā hoti, therāsanato paṭṭhāya vatthesu dīyamānesu alasajātikā mahātherā pacchā āgacchanti, ‘‘bhante, vīsativassānaṃ dīyati, tumhākaṃ ṭhitikā atikkantā’’ti na vattabbā, ṭhitikaṃ ṭhapetvā tesaṃ datvā pacchā ṭhitibhāya dātabbaṃ.
If the monastery is large and venerable elders (mahātherā) who are lazy come late while robes are being given from the seat of the most senior bhikkhu (therāsana), it should not be said, "Venerable sir, it is given to those with twenty years of seniority; your turn has passed." Setting aside the order (ṭhitikā), it should be given to them, and afterward, to those according to their seniority.
Nếu tinh xá rộng lớn, và các đại trưởng lão (mahāthera) có tính biếng nhác đến sau khi y phục đã được cúng dường từ chỗ ngồi của trưởng lão (therāsana) trở đi, thì không nên nói: “Bạch chư Tăng, y phục được cúng dường cho các vị có hai mươi hạ lạp, phần của quý vị đã quá thời hạn rồi.” Thay vào đó, nên giữ lại phần quy định (ṭhitikaṃ), cúng dường cho các vị ấy trước, sau đó mới chia phần còn lại theo quy định.
‘‘Asukavihāre kira bahu cīvaraṃ uppanna’’nti sutvā yojanantarikavihāratopi bhikkhū āgacchanti, sampattasampattānaṃ ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dātabbaṃ, asampattānampi upacārasīmaṃ paviṭṭhānaṃ antevāsikādīsu gaṇhantesu dātabbameva.
Hearing, "It seems many robes have arisen in such-and-such a monastery," bhikkhus come even from monasteries a yojana distant. It should be given to those who have arrived, starting from their position; even to those who have not arrived but have entered the precinct (upacārasīma), it should certainly be given if their pupils (antevāsikā) or others take it for them.
Nghe nói: “Có nhiều y phục được cúng dường trong tinh xá kia”, các Tỳ-khưu từ tinh xá cách đó một dojana cũng đến. Nên cúng dường cho những ai đã đến, bắt đầu từ chỗ họ đang đứng. Ngay cả những người chưa đến nhưng đã vào ranh giới sīmā, nếu các đệ tử (antevāsika) của họ nhận thay, thì cũng nên cúng dường.
‘‘Bahiupacārasīmāya ṭhitānaṃ dethā’’ti vadanti, na dātabbaṃ.
If they say, "Give it to those standing outside the upacārasīmā," it should not be given.
Nếu họ nói: “Hãy cúng dường cho những người đang ở ngoài ranh giới sīmā”, thì không nên cúng dường.
Sace pana upacārasīmaṃ okkantehi ekābaddhā hutvā attano vihāradvāre vā antovihāreyeva vā honti, parisavasena vaḍḍhitā nāma sīmā hoti, tasmā dātabbaṃ.
But if those who have entered the upacārasīmā are connected as one group at their monastery gate or inside the monastery itself, the sīmā is considered expanded by the assembly, therefore it should be given.
Nhưng nếu những người đã vào ranh giới sīmā liên kết với nhau và ở tại cổng tinh xá hoặc ngay trong tinh xá, thì ranh giới sīmā được xem là đã mở rộng theo số đông. Do đó, nên cúng dường.
Saṅghanavakassa dinnepi pacchā āgatānaṃ dātabbameva.
Even if it is given to a junior bhikkhu of the Saṅgha, it must still be given to those who arrive later.
Ngay cả khi đã cúng dường cho Tỳ-khưu mới (saṅghanavaka), thì vẫn phải cúng dường cho những người đến sau.
Dutiyabhāge pana therāsanaṃ āruḷhe āgatānaṃ paṭhamabhāgo na pāpuṇāti, dutiyabhāgato vassaggena dātabbaṃ.
However, in the second distribution (dutiyabhāga), those who arrive after the therāsana has been ascended do not receive a share from the first distribution. From the second distribution, it should be given according to seniority in years (vassagga).
Tuy nhiên, trong phần thứ hai, khi đã đến chỗ ngồi của trưởng lão (therāsana), những người đến sau sẽ không được nhận phần đầu tiên. Nên cúng dường từ phần thứ hai theo thứ tự hạ lạp (vassaggena).
Ekasmiṃ vihāre dasa bhikkhū honti, dasa vatthāni ‘‘saṅghassa demā’’ti denti, pāṭekkaṃ bhājetabbāni.
In one monastery, there are ten bhikkhus. Ten robes are offered, saying, "We give to the Saṅgha." They should be divided individually.
Trong một tinh xá có mười Tỳ-khưu, họ cúng dường mười tấm y phục và nói: “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già.” Các y phục này phải được chia riêng lẻ.
Sace ‘‘sabbāneva amhākaṃ pāpuṇantī’’ti gahetvā gacchanti, duppāpitāni ceva duggahitāni ca, gatagataṭṭhāne saṅghikāneva honti.
If they take them, saying, "All of them belong to us," and depart, they are considered improperly received and improperly taken, and remain Saṅghika property wherever they go.
Nếu họ nói: “Tất cả đều thuộc về chúng tôi” và nhận lấy rồi đi, thì đó là việc nhận sai và cúng dường sai. Dù đi đến đâu, những y phục đó vẫn là của Tăng-già.
Ekaṃ pana uddharitvā ‘‘idaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti saṅghattherassa pāpetvā ‘‘sesāni amhākaṃ pāpuṇantī’’ti gahetuṃ vaṭṭati.
However, it is permissible to take one out, let the Saṅghatthera receive it, saying, "This belongs to you," and then take the rest, saying, "The remaining ones belong to us."
Nhưng được phép lấy một tấm ra, trao cho trưởng lão Tăng-già (Saṅghatthera) và nói: “Tấm này thuộc về quý vị”, rồi nhận lấy những tấm còn lại và nói: “Những tấm còn lại thuộc về chúng tôi.”
Ekameva vatthaṃ ‘‘saṅghassa demā’’ti āharanti, abhājetvāva ‘‘amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhanti, duppāpitañceva duggahitañca.
If only one robe is brought, saying, "We give to the Saṅgha," and they take it without dividing, saying, "It belongs to us," it is improperly received and improperly taken.
Nếu họ mang đến một tấm y phục và nói: “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già”, rồi nhận lấy mà không chia và nói: “Tấm này thuộc về chúng tôi”, thì đó là việc cúng dường sai và nhận sai.
Satthakena vā haliddiādinā vā lekhaṃ katvā ekakoṭṭhāsaṃ ‘‘idaṃ ṭhānaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti saṅghattherassa pāpetvā ‘‘sesaṃ amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gahetuṃ vaṭṭati.
It is permissible to make a mark with a knife or turmeric, etc., let the Saṅghatthera receive one part, saying, "This part belongs to you," and then take the rest, saying, "The remaining part belongs to us."
Được phép dùng dao hoặc bột nghệ, v.v., để tạo một dấu hiệu, rồi trao một phần cho trưởng lão Tăng-già và nói: “Phần này thuộc về quý vị”, rồi nhận lấy phần còn lại và nói: “Phần còn lại thuộc về chúng tôi.”
Yaṃ pana vatthasseva pupphaṃ vā vali vā, tena paricchedaṃ kātuṃ na vaṭṭati.
However, it is not permissible to make a division by means of a pattern or a fold on the robe itself.
Nhưng không được phép phân định bằng cách dựa vào hoa văn hoặc nếp gấp của y phục.
Sace ekaṃ tantaṃ uddharitvā ‘‘idaṃ ṭhānaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti therassa datvā ‘‘sesaṃ amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhanti, vaṭṭati.
If they pull out a single thread, give that portion to the thera, saying, "This portion belongs to you," and take the rest, saying, "The remaining portion belongs to us," it is permissible.
Nếu họ rút một sợi chỉ ra, trao cho trưởng lão và nói: “Phần này thuộc về quý vị”, rồi nhận lấy phần còn lại và nói: “Phần còn lại thuộc về chúng tôi”, thì được phép.
Khaṇḍaṃ khaṇḍaṃ chinditvā bhājiyamānaṃ vaṭṭatiyeva.
If it is cut into pieces and divided, it is certainly permissible.
Việc chia bằng cách cắt thành từng mảnh là được phép.
Ekabhikkhuke vihāre saṅghassa cīvaresu uppannesu sace pubbe vuttanayeneva so bhikkhu ‘‘sabbāni mayhaṃ pāpuṇantī’’ti gaṇhāti, suggahitāni, ṭhitikā pana na tiṭṭhati.
In a monastery with only one bhikkhu, if robes arise for the Saṅgha, and that bhikkhu takes all of them, saying, "All of them belong to me," in the manner previously described, they are well-taken, but the seniority order (ṭhitikā) does not apply.
Trong một tinh xá chỉ có một Tỳ-khưu, nếu y phục được cúng dường cho Tăng-già mà Tỳ-khưu đó nhận tất cả theo cách đã nói trước đây và nói: “Tất cả đều thuộc về tôi”, thì việc nhận đó là hợp lệ, nhưng quy định (ṭhitikā) sẽ không được duy trì.
Sace ekekaṃ uddharitvā ‘‘idaṃ mayhaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhāti, ṭhitikā tiṭṭhati.
If he takes each one individually, saying, "This one belongs to me," then the ṭhitikā applies.
Nếu Tỳ-khưu đó lấy từng tấm một và nói: “Tấm này thuộc về tôi”, thì quy định được duy trì.
Tattha aṭṭhitāya ṭhitikāya puna aññasmiṃ cīvare uppanne sace eko bhikkhu āgacchati, majjhe chinditvā dvīhipi gahetabbaṃ.
Where the ṭhitikā does not apply, if another robe arises again and one bhikkhu arrives, it should be cut in the middle and taken by both.
Trong trường hợp quy định không được duy trì, nếu một Tỳ-khưu khác đến khi có y phục mới, thì y phục đó phải được chia đôi và cả hai cùng nhận.
Ṭhitāya ṭhitikāya puna aññasmiṃ cīvare uppanne sace navakataro āgacchati, ṭhitikā heṭṭhā orohati.
If, when the ṭhitikā applies, another robe arises again and a more junior bhikkhu arrives, the ṭhitikā descends.
Trong trường hợp quy định đã được duy trì, nếu một Tỳ-khưu trẻ hơn đến khi có y phục mới, thì quy định sẽ được hạ xuống.
Sace vuḍḍhataro āgacchati, ṭhitikā uddhaṃ ārohati.
If a more senior bhikkhu arrives, the ṭhitikā ascends.
Nếu một Tỳ-khưu lớn tuổi hơn đến, thì quy định sẽ được nâng lên.
Atha añño natthi, puna attano pāpetvā gahetabbaṃ.
If there is no other, he should make it his own again and take it.
Nếu không có ai khác, thì Tỳ-khưu đó lại được nhận phần của mình.
‘‘Saṅghassa demā’’ti vā ‘‘bhikkhusaṅghassa demā’’ti vā yena kenaci ākārena saṅghaṃ āmasitvā dinnaṃ pana paṃsukūlikānaṃ na vaṭṭati ‘‘gahapaticīvaraṃ paṭikkhipāmi, paṃsukūlikaṅgaṃ samādiyāmī’’ti vuttattā, na pana akappiyattā.
However, what is given by touching the Saṅgha in any way, saying, "We give to the Saṅgha," or "We give to the community of bhikkhus," is not permissible for a paṃsukūlika (rag-robe wearer), not because it is unsuitable (akappiya), but because he has declared, "I reject household robes; I undertake the ascetic practice of a paṃsukūlika."
Tuy nhiên, y phục được cúng dường bằng bất kỳ cách nào có liên quan đến Tăng-già, như nói: “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già” hoặc “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già Tỳ-khưu”, thì không hợp lệ đối với người thực hành hạnh đầu đà (paṃsukūlika) vì đã nói: “Tôi từ bỏ y phục của gia chủ, tôi thọ trì hạnh đầu đà”, chứ không phải vì y phục đó là không hợp pháp (akappiya).
Bhikkhusaṅghena apaloketvā dinnampi na gahetabbaṃ.
Even what is given by the community of bhikkhus with an announcement (apaloketvā) should not be taken.
Y phục được Tăng-già cho phép cũng không nên nhận.
Yaṃ pana bhikkhu attano santakaṃ deti, taṃ bhikkhudattiyaṃ nāma vaṭṭati, paṃsukūlaṃ pana na hoti.
But a robe that a bhikkhu gives as his own is called a bhikkhu's gift (bhikkhudattiya) and is permissible, but it is not a rag-robe (paṃsukūla).
Nhưng y phục mà một Tỳ-khưu tự mình cúng dường thì được gọi là cúng dường của Tỳ-khưu (bhikkhudattiya) và hợp lệ, nhưng không phải là y phục từ đống rác (paṃsukūla).
Evaṃ santepi dhutaṅgaṃ na bhijjati.
Even so, the dhutaṅga (ascetic practice) is not broken.
Dù vậy, hạnh đầu đà (dhutaṅga) vẫn không bị phá vỡ.
‘‘Bhikkhūnaṃ dema, therānaṃ demā’’ti vutte pana paṃsukūlikānampi vaṭṭati, ‘‘idaṃ vatthaṃ saṅghassa dema, iminā upāhanatthavikapattatthavikaāyogaaṃsabaddhakādīni karontū’’ti dinnampi vaṭṭati.
However, if it is said, "We give to the bhikkhus, we give to the theras," it is permissible even for paṃsukūlikas; even if it is given saying, "We give this cloth to the Saṅgha, let them make sandal-bags, bowl-bags, shoulder-straps, etc., from it," it is permissible.
Nếu nói: “Chúng tôi cúng dường cho các Tỳ-khưu, chúng tôi cúng dường cho các trưởng lão”, thì cũng hợp lệ đối với người thực hành hạnh đầu đà. Ngay cả y phục được cúng dường và nói: “Chúng tôi cúng dường tấm y phục này cho Tăng-già, xin hãy dùng nó để làm túi giày (upāhanatthavika), túi bát (pattatthavika), dây đeo vai (āyogaaṃsabaddhaka), v.v.”, thì cũng hợp lệ.
Pattatthavikādīnaṃ atthāya dinnāni bahūnipi honti, cīvaratthāyapi pahonti, tato cīvaraṃ katvā pārupituṃ vaṭṭati.
If many cloths are given for bowl-bags and so forth, and they are sufficient even for robes, it is permissible to make a robe from them and wear it.
Có nhiều vật phẩm được cúng dường để làm túi bát, v.v., và cũng đủ để làm y phục. Từ đó, được phép làm y phục và mặc.
Sace pana saṅgho bhājitātirittāni vatthāni chinditvā upāhanatthavikādīnaṃ atthāya bhājeti, tato gahetuṃ na vaṭṭati.
But if the Saṅgha cuts up cloths that are surplus after division and divides them for sandal-bags and so forth, it is not permissible to take from that.
Nhưng nếu Tăng-già cắt những y phục còn lại sau khi đã chia và chia chúng để làm túi giày, v.v., thì không được phép nhận từ đó.
Sāmikehi vicāritameva hi vaṭṭati, na itaraṃ.
For only what has been designated by the owners is permissible, not otherwise.
Chỉ những gì được chủ sở hữu sắp đặt mới hợp lệ, những thứ khác thì không.
Paṃsukūlikaṃ ‘‘saṅghassa dhammakaraṇapaṭādīnaṃ atthāya demā’’ti vuttepi gahetuṃ vaṭṭati, parikkhāro nāma paṃsukūlikānampi icchitabbo.
Even if it is said, "We give to the Saṅgha for dharma-implements (dhammakaraṇa-paṭa) and so forth," a paṃsukūlika may take it, for requisites (parikkhāra) are desirable even for paṃsukūlikas.
Ngay cả khi nói: “Chúng tôi cúng dường vật phẩm này cho Tăng-già để làm vải pháp cụ (dhammakaraṇapaṭa), v.v.”, thì người thực hành hạnh đầu đà cũng được phép nhận, vì đồ dùng (parikkhāra) là thứ mà ngay cả người thực hành hạnh đầu đà cũng mong muốn.
Yaṃ tattha atirekaṃ hoti, taṃ cīvarepi upanetuṃ vaṭṭati.
Whatever is extra there, it is permissible to apply it even to a robe.
Bất cứ thứ gì dư thừa ở đó, cũng được phép dùng làm y phục.
Suttaṃ saṅghassa denti, paṃsukūlikehipi gahetabbaṃ.
If yarn is given to the Saṅgha, it should be taken even by paṃsukūlikas.
Nếu họ cúng dường sợi chỉ cho Tăng-già, thì người thực hành hạnh đầu đà cũng nên nhận.
Ayaṃ tāva vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni saṅghassa dammī’’ti dinnesu vinicchayo.
This is the decision regarding what is given by entering the monastery and saying, "I give these robes to the Saṅgha."
Đây là quyết định đối với những y phục được cúng dường khi vào tinh xá và nói: “Tôi cúng dường những y phục này cho Tăng-già.”
Sace pana bahiupacārasīmāya addhānamaggappaṭipanne bhikkhū disvā ‘‘saṅghassa dammī’’ti saṅghattherassa vā saṅghanavakassa vā āroceti, sacepi yojanaṃ pharitvā parisā ṭhitā hoti, ekābaddhā ce, sabbesaṃ pāpuṇāti.
However, if, seeing bhikkhus on the road outside the upacārasīmā, he says, "I give to the Saṅgha," and informs the Saṅghatthera or a junior bhikkhu of the Saṅgha, even if the assembly extends for a yojana, if they are connected as one group, it reaches all of them.
Nhưng nếu có người nhìn thấy các Tỳ-khưu đang đi trên đường ngoài ranh giới sīmā và nói: “Tôi cúng dường cho Tăng-già” rồi báo cho trưởng lão Tăng-già hoặc Tỳ-khưu mới, thì dù hội chúng có trải rộng một dojana, nếu họ liên kết với nhau, tất cả đều được nhận.
Ye pana dvādasahi hatthehi parisaṃ asampattā, tesaṃ na pāpuṇāti.
But it does not reach those who are not within twelve cubits of the assembly.
Nhưng những người không đến được hội chúng trong vòng mười hai cánh tay thì không được nhận.
203. Ubhatosaṅghassa detīti ettha ‘‘ubhatosaṅghassa dammī’’ti vuttepi ‘‘dvidhā saṅghassa dammī’’ti, ‘‘dvinnaṃ saṅghānaṃ dammī’’ti, ‘‘bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīsaṅghassa ca dammī’’ti vuttepi ubhatosaṅghassa dinnameva hoti.
203. Here, regarding " one gives to both Saṅghas," even if it is said, "I give to both Saṅghas," or "I give to the Saṅgha in two ways," or "I give to the two Saṅghas," or "I give to the Bhikkhu-Saṅgha and to the Bhikkhunī-Saṅgha," it is still considered as given to both Saṅghas.
203. Trong câu "dâng cúng cho cả hai hội chúng (Ubhatosaṅghassa detī)", dù nói "tôi dâng cúng cho cả hai hội chúng", hay "tôi dâng cúng cho hội chúng theo hai cách", hay "tôi dâng cúng cho hai hội chúng", hay "tôi dâng cúng cho hội chúng Tỳ-khưu và hội chúng Tỳ-khưu-ni", thì đó vẫn là việc dâng cúng cho cả hai hội chúng.
Tattha sace bahukāpi bhikkhū honti, ekā bhikkhunī hoti, upaḍḍhaṃ dātabbaṃ, dve bhāge same katvā eko bhāgo dātabboti attho.
In that case, if there are many bhikkhus but only one bhikkhunī, half should be given. The meaning is that after making two equal portions, one portion should be given.
Trong trường hợp đó, nếu có nhiều Tỳ-khưu nhưng chỉ có một Tỳ-khưu-ni, thì phải dâng cúng một nửa, nghĩa là chia làm hai phần bằng nhau và dâng cúng một phần.
Sace bahukāpi bhikkhuniyo honti, eko bhikkhu hoti, upaḍḍhaṃ dātabbaṃ.
If there are many bhikkhunīs but only one bhikkhu, half should be given.
Nếu có nhiều Tỳ-khưu-ni nhưng chỉ có một Tỳ-khưu, thì phải dâng cúng một nửa.
‘‘Ubhatosaṅghassa ca tuyhañca dammī’’ti vutte sace dasa dasa bhikkhū ca bhikkhuniyo ca honti, ekavīsati paṭivīse katvā eko puggalassa dātabbo, dasa bhikkhusaṅghassa, dasa bhikkhunīsaṅghassa.
If it is said, "I give to both Saṅghas and to you," and if there are ten bhikkhus and ten bhikkhunīs, then making twenty-one shares, one share should be given to the individual, ten to the Bhikkhu-Saṅgha, and ten to the Bhikkhunī-Saṅgha.
Khi nói “Con dâng cúng cho cả hai Tăng đoàn và cho ngài”, nếu có mười vị Tỳ-khưu và mười vị Tỳ-khưu-ni, thì chia thành hai mươi mốt phần, một phần được dâng cho cá nhân, mười phần cho Tăng đoàn Tỳ-khưu, và mười phần cho Tăng đoàn Tỳ-khưu-ni.
Yena puggaliko laddho, so saṅghatopi attano vassaggena gahetuṃ labhati.
The individual who has received a personal share may also take from the Saṅgha's share according to his seniority in years of ordination (vassaggena).
Vị nào đã nhận phần cá nhân đó, vị ấy cũng có thể nhận từ Tăng đoàn theo thứ tự thâm niên hạ lạp của mình.
Ubhatosaṅghaggahaṇena gahitattā.
Because it is included in the acceptance for both Saṅghas.
Vì đã được nhận bằng cách nói “cả hai Tăng đoàn”.
‘‘Ubhatosaṅghassa ca cetiyassa ca dammī’’ti vuttepi eseva nayo.
The same principle applies if it is said, "I give to both Saṅghas and to the cetiya."
Khi nói “Con dâng cúng cho cả hai Tăng đoàn và cho bảo tháp”, cũng theo cách này.
Idha pana cetiyassa saṅghato pāpuṇanakoṭṭhāso nāma natthi, ekapuggalassa pattakoṭṭhāsasamova koṭṭhāso hoti.
However, in this case, there is no portion for the cetiya that comes from the Saṅgha; the portion is only equivalent to what one individual receives.
Tuy nhiên, ở đây, không có phần nào thuộc về bảo tháp từ Tăng đoàn, mà phần của bảo tháp chỉ bằng phần của một cá nhân.
‘‘Ubhatosaṅghassa ca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vutte pana dvāvīsati koṭṭhāse katvā dasa bhikkhūnaṃ, dasa bhikkhunīnaṃ, eko puggalassa, eko cetiyassa dātabbo.
If it is said, "I give to both Saṅghas, to you, and to the cetiya," then making twenty-two portions, ten should be given to the bhikkhus, ten to the bhikkhunīs, one to the individual, and one to the cetiya.
Nhưng khi nói “Con dâng cúng cho cả hai Tăng đoàn, cho ngài và cho bảo tháp”, thì chia thành hai mươi hai phần, mười phần cho các Tỳ-khưu, mười phần cho các Tỳ-khưu-ni, một phần cho cá nhân, và một phần cho bảo tháp.
Tattha puggalo saṅghatopi attano vassaggena gahetuṃ labhati, cetiyassa ekoyeva.
In that case, the individual may also take from the Saṅgha's share according to his seniority, but the cetiya receives only one share.
Trong trường hợp đó, cá nhân có thể nhận từ Tăng đoàn theo thứ tự thâm niên hạ lạp của mình, còn bảo tháp chỉ có một phần.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca dammī’’ti vutte pana na majjhe bhinditvā dātabbaṃ, bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā dātabbaṃ.
If it is said, "I give to the Bhikkhu-Saṅgha and to the bhikkhunīs," it should not be divided in the middle; it should be given by counting the bhikkhus and bhikkhunīs.
Khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu và cho các Tỳ-khưu-ni”, thì không nên chia đôi mà phải đếm số Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni rồi dâng cúng.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca tuyhañcā’’ti vutte pana puggalo visuṃ na labhati, pāpuṇanaṭṭhānato ekameva labhati.
If it is said, "I give to the Bhikkhu-Saṅgha, to the bhikkhunīs, and to you," the individual does not receive a separate share; he receives only one from the designated place of receipt.
Nhưng khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu, cho các Tỳ-khưu-ni và cho ngài”, thì cá nhân không nhận riêng, mà chỉ nhận một phần từ nơi đáng được nhận.
Bhikkhusaṅghaggahaṇena gahitattā.
Because it is included in the acceptance for the Bhikkhu-Saṅgha.
Vì đã được nhận bằng cách nói “Tăng đoàn Tỳ-khưu”.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyassa ekapuggalapaṭivīso labbhati, puggalassa visuṃ na labbhati, tasmā ekaṃ cetiyassa datvā avasesaṃ bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā bhājetabbaṃ.
If it is said, "I give to the Bhikkhu-Saṅgha, to the bhikkhunīs, to you, and to the cetiya," one share is allotted to the cetiya, but the individual does not receive a separate share. Therefore, after giving one share to the cetiya, the remainder should be divided by counting the bhikkhus and bhikkhunīs.
Khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu, cho các Tỳ-khưu-ni, cho ngài và cho bảo tháp”, thì bảo tháp nhận một phần bằng phần của một cá nhân, cá nhân không nhận riêng; do đó, sau khi dâng một phần cho bảo tháp, phần còn lại phải chia theo số lượng Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni.
‘‘Bhikkhūnañca bhikkhunīnañca dammī’’ti vuttepi majjhe bhinditvā na dātabbaṃ, puggalagaṇanāya eva vibhajitabbaṃ.
If it is said, "I give to the bhikkhus and to the bhikkhunīs," it should not be divided in the middle; it should be divided according to the individual count.
Khi nói “Con dâng cúng cho các Tỳ-khưu và cho các Tỳ-khưu-ni”, cũng không nên chia đôi mà phải chia theo số lượng cá nhân.
‘‘Bhikkhūnañca bhikkhunīnañca tuyhañca, bhikkhūnañca bhikkhunīnañca cetiyassa ca, bhikkhūnañca bhikkhunīnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti evaṃ vuttepi cetiyassa ekapaṭivīso labbhati, puggalassa visuṃ natthi, bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā eva bhājetabbaṃ.
If it is said, "To the bhikkhus and bhikkhunīs and to you," or "To the bhikkhus and bhikkhunīs and to the cetiya," or "To the bhikkhus and bhikkhunīs, to you and to the cetiya," even then, one portion is allotted to the cetiya, but there is no separate portion for the individual; it should be divided by counting the bhikkhus and bhikkhunīs.
Khi nói “Con dâng cúng cho các Tỳ-khưu và các Tỳ-khưu-ni và cho ngài, cho các Tỳ-khưu và các Tỳ-khưu-ni và cho bảo tháp, cho các Tỳ-khưu và các Tỳ-khưu-ni và cho ngài và cho bảo tháp” như vậy, thì bảo tháp nhận một phần bằng phần của một cá nhân, cá nhân không có phần riêng, mà phải chia theo số lượng Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni.
Yathā ca bhikkhusaṅghaṃ ādiṃ katvā nayo nīto, evaṃ bhikkhunīsaṅghaṃ ādiṃ katvāpi netabbo.
Just as the principle has been laid down starting with the Bhikkhu-Saṅgha, so too should it be applied starting with the Bhikkhunī-Saṅgha.
Cách thức đã được trình bày bắt đầu từ Tăng đoàn Tỳ-khưu, thì cũng phải áp dụng tương tự khi bắt đầu từ Tăng đoàn Tỳ-khưu-ni.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca tuyhañcā’’ti vutte puggalassa visuṃ na labbhati, vassaggeneva gahetabbaṃ.
If it is said, "To the Bhikkhu-Saṅgha and to you," the individual does not receive a separate share; it should be taken according to seniority in years of ordination.
Khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu và cho ngài”, thì cá nhân không nhận riêng, mà phải nhận theo thâm niên hạ lạp.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca cetiyassa cā’’ti vutte pana cetiyassa visuṃ paṭivīso labbhati.
But if it is said, "To the Bhikkhu-Saṅgha and to the cetiya," a separate portion is allotted to the cetiya.
Nhưng khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu và cho bảo tháp”, thì bảo tháp nhận một phần riêng.
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyasseva visuṃ labbhati, na puggalassa.
If it is said, "To the Bhikkhu-Saṅgha, to you, and to the cetiya," only the cetiya receives a separate share, not the individual.
Khi nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu, cho ngài và cho bảo tháp”, thì chỉ bảo tháp nhận riêng, không phải cá nhân.
‘‘Bhikkhūnañca tuyhañcā’’ti vuttepi visuṃ na labbhati, ‘‘bhikkhūnañca cetiyassa cā’’ti vutte pana cetiyassa labbhati.
If it is said, "To the bhikkhus and to you," a separate share is not received. But if it is said, "To the bhikkhus and to the cetiya," the cetiya receives a share.
Khi nói “Con dâng cúng cho các Tỳ-khưu và cho ngài”, cũng không nhận riêng, nhưng khi nói “Con dâng cúng cho các Tỳ-khưu và cho bảo tháp”, thì bảo tháp nhận được.
‘‘Bhikkhūnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyasseva visuṃ labbhati, na puggalassa.
If it is said, "To the bhikkhus, to you, and to the cetiya," only the cetiya receives a separate share, not the individual.
Khi nói “Con dâng cúng cho các Tỳ-khưu, cho ngài và cho bảo tháp”, thì chỉ bảo tháp nhận riêng, không phải cá nhân.
Bhikkhunīsaṅghaṃ ādiṃ katvāpi evameva yojetabbaṃ.
The same principle should be applied starting with the Bhikkhunī-Saṅgha.
Tương tự, khi bắt đầu từ Tăng đoàn Tỳ-khưu-ni cũng phải áp dụng như vậy.
Pubbe buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ denti, bhagavā majjhe nisīdati, dakkhiṇato bhikkhū, vāmato bhikkhuniyo nisīdanti, bhagavā ubhinnaṃ saṅghatthero, tadā bhagavā attanā laddhapaccaye attanāpi paribhuñjati, bhikkhūnampi dāpeti.
Formerly, people used to give offerings to both Saṅghas with the Buddha at their head. The Blessed One would sit in the middle, bhikkhus to his right, and bhikkhunīs to his left. The Blessed One was the Saṅgha-thera (elder) for both Saṅghas. At that time, the Blessed One would consume the requisites he received himself, and would also have them given to the bhikkhus.
Trước đây, người ta dâng cúng cho cả hai Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu, Đức Thế Tôn ngồi giữa, các Tỳ-khưu ngồi bên phải, các Tỳ-khưu-ni ngồi bên trái, Đức Thế Tôn là Tăng trưởng của cả hai Tăng đoàn. Khi đó, Đức Thế Tôn tự mình thọ hưởng những vật phẩm đã nhận, và cũng cho các Tỳ-khưu thọ hưởng.
Etarahi pana paṇḍitamanussā sadhātukaṃ paṭimaṃ vā cetiyaṃ vā ṭhapetvā buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ denti, paṭimāya vā cetiyassa vā purato ādhārake pattaṃ ṭhapetvā dakkhiṇodakaṃ datvā ‘‘buddhānaṃ demā’’ti, tattha paṭhamaṃ khādanīyabhojanīyaṃ denti, vihāraṃ vā āharitvā ‘‘idaṃ cetiyassa demā’’ti piṇḍapātañca mālāgandhādīni ca denti, tattha kathaṃ paṭipajjitabbanti?
However, nowadays, wise people place an image or a cetiya containing relics and offer donations to both Saṅghas with the Buddha at their head. They place a bowl on a stand in front of the image or cetiya, pour the water of dedication, and say, "We give to the Buddhas." First, they offer edibles and food. Or, after bringing them to the monastery, they offer almsfood, garlands, perfumes, and so on, saying, "We give this to the cetiya." In this case, how should one proceed?
Ngày nay, những người trí thức đặt một pho tượng Phật có xá lợi hoặc một bảo tháp, rồi dâng cúng cho cả hai Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu. Họ đặt bát trước pho tượng hoặc bảo tháp, sau đó rưới nước hồi hướng và nói “Chúng con dâng cúng cho các Đức Phật”, rồi đầu tiên dâng các món ăn thức uống, hoặc mang đến tu viện và nói “Chúng con dâng cúng cái này cho bảo tháp”, rồi dâng cúng vật thực và hoa, hương, v.v. Trong trường hợp đó, phải thực hành như thế nào?
Mālāgandhādīni tāva cetiye āropetabbāni, vatthehi paṭākā, telena padīpā kātabbā.
Garlands, perfumes, and so on should be placed on the cetiya. Banners should be made with cloths, and oil lamps with oil.
Trước hết, các loại hoa, hương, v.v. phải được đặt lên bảo tháp; cờ phướn phải được làm bằng vải, đèn dầu phải được thắp bằng dầu.
Piṇḍapātamadhuphāṇitādīni pana yo nibaddhacetiyajaggako hoti pabbajito vā gahaṭṭho vā, tassa dātabbāni.
As for almsfood, honey, molasses, and so on, they should be given to whoever is the regular keeper of the cetiya, whether a renunciant or a layperson.
Còn các vật thực như vật thực khất thực, mật, đường phèn, v.v. thì phải dâng cho vị giữ gìn bảo tháp thường xuyên, dù là người xuất gia hay cư sĩ.
Nibaddhajaggake asati āhaṭabhattaṃ ṭhapetvā vattaṃ katvā paribhuñjituṃ vaṭṭati, upakaṭṭhe kāle bhuñjitvā pacchāpi vattaṃ kātuṃ vaṭṭatiyeva.
If there is no regular keeper, it is permissible to keep the brought food, perform the duties, and then consume it. If the time is near, it is also permissible to consume it first and then perform the duties.
Nếu không có người giữ gìn thường xuyên, thì có thể đặt vật thực đã mang đến, thực hiện các bổn phận (vatta) rồi thọ hưởng; nếu đã gần đến giờ ngọ, thì có thể thọ hưởng trước rồi sau đó thực hiện các bổn phận cũng được.
Mālāgandhādīsu ca yaṃ kiñci ‘‘idaṃ haritvā cetiye pūjaṃ karothā’’ti vutte dūrampi haritvā pūjetabbaṃ, ‘‘bhikkhusaṅghassa harā’’ti vuttepi haritabbaṃ.
Regarding garlands, perfumes, and so on, if it is said, "Take this and make an offering at the cetiya," one should take it and offer it, even if it is far away. If it is said, "Take it to the Bhikkhu-Saṅgha," one should also take it.
Và đối với các loại hoa, hương, v.v., bất cứ thứ gì khi được nói “Hãy mang cái này đến cúng dường tại bảo tháp”, thì dù xa cũng phải mang đến cúng dường; khi được nói “Hãy mang đến cho Tăng đoàn Tỳ-khưu”, cũng phải mang đến.
Sace pana ‘‘ahaṃ piṇḍāya carāmi, āsanasālāya bhikkhū atthi, te harissantī’’ti vutte ‘‘bhante, tuyhameva dammī’’ti vadati, bhuñjituṃ vaṭṭati.
But if, when it is said, "I am going on alms round, there are bhikkhus in the assembly hall, they will take it," someone says, "Venerable Sir, I give it only to you," then it is permissible to consume it.
Nhưng nếu vị ấy nói “Tôi đi khất thực, có các Tỳ-khưu ở giảng đường, họ sẽ mang đến”, và người thí chủ nói “Bạch Đại đức, con xin dâng cúng cho chính Đại đức”, thì được phép thọ hưởng.
Atha pana ‘‘bhikkhusaṅghassa dassāmī’’ti harantassa gacchato antarāva kālo upakaṭṭho hoti, attano pāpetvā bhuñjituṃ vaṭṭati.
However, if, while taking it saying, "I will give it to the Bhikkhu-Saṅgha," the time approaches midway, it is permissible to take it for oneself and consume it.
Còn nếu vị ấy đang mang vật thực đi để dâng cho Tăng đoàn Tỳ-khưu thì giữa đường đã gần đến giờ ngọ, thì được phép tự mình nhận lấy và thọ hưởng.
204. Vassaṃvuṭṭhasaṅghassa detīti ettha pana sace vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni vassaṃvuṭṭhasaṅghassa dammī’’ti deti, yattakā bhikkhū tasmiṃ āvāse vassacchedaṃ akatvā purimavassaṃvuṭṭhā, tehi bhājetabbaṃ, aññesaṃ na pāpuṇāti.
204. Here, regarding " one gives to the Saṅgha that has completed the rains residence," if one enters the monastery and says, "I give these robes to the Saṅgha that has completed the rains residence," then it should be divided among all the bhikkhus in that abode who have completed the former rains residence without breaking their residence. It does not apply to others.
204. Đối với trường hợp dâng cúng cho Tăng đoàn đã an cư kiết hạ, nếu một vị Tỳ-khưu đi vào tu viện và nói “Con dâng cúng những y này cho Tăng đoàn đã an cư kiết hạ”, thì những Tỳ-khưu nào đã an cư kiết hạ trong trú xứ đó mà không bị gián đoạn hạ lạp, họ sẽ chia nhau, những vị khác không được nhận.
Disāpakkantassapi sati gāhake yāva kathinassubbhārā dātabbaṃ.
Even for one who has departed to another region, if there is an eligible recipient, it should be given until the removal of the Kathina.
Ngay cả phần của vị đã đi nơi khác, nếu có người nhận, thì cũng phải dâng cho đến khi y Kathina được xả.
‘‘Anatthate pana kathine antohemante evañca vatvā dinnaṃ pacchimavassaṃvuṭṭhānampi pāpuṇātī’’ti lakkhaṇaññū vadanti.
Experts on characteristics say, "If the Kathina has not been spread, and it is given in this way during the winter season, it also applies to those who completed the latter rains residence."
Tuy nhiên, các bậc thông thạo luật (lakkhaṇaññū) nói rằng “Nếu y Kathina chưa được trải, và vật cúng dường được nói như vậy trong mùa đông, thì ngay cả các vị đã an cư kiết hạ sau cũng được nhận”.
Aṭṭhakathāsu panetaṃ na vicāritaṃ.
However, this is not discussed in the Commentaries.
Nhưng điều này không được thảo luận trong các bản Chú giải (Aṭṭhakathā).
Sace pana bahiupacārasīmāyaṃ ṭhito ‘‘vassaṃvuṭṭhasaṅghassa dammī’’ti vadati, sampattānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti.
But if one stands outside the upacāra boundary and says, "I give to the Saṅgha that has completed the rains residence," it applies to all who are present.
Nhưng nếu một vị đứng ngoài ranh giới upacāra-sīmā và nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn đã an cư kiết hạ”, thì tất cả những vị đã đến đều được nhận.
Atha ‘‘asukavihāre vassaṃvuṭṭhasaṅghassā’’ti vadati, tatra vassaṃvuṭṭhānameva yāva kathinassubbhārā pāpuṇāti.
If one says, "To the Saṅgha that has completed the rains residence in such-and-such a monastery," it applies only to those who completed the rains residence there, until the removal of the Kathina.
Nếu nói “Con dâng cúng cho Tăng đoàn đã an cư kiết hạ tại tu viện X”, thì chỉ những vị đã an cư kiết hạ tại đó mới được nhận cho đến khi y Kathina được xả.
Sace pana gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya evaṃ vadati, tatra sammukhībhūtānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti.
But if one says this starting from the first day of summer, it applies to all who are present there.
Nhưng nếu nói như vậy từ ngày đầu tiên của mùa hè, thì tất cả những vị hiện diện tại đó đều được nhận.
Piṭṭhisamaye uppannattā.
Because it arose outside the (Kathina) period.
Vì đã phát sinh vào thời điểm sau.
Antovasseyeva ‘‘vassaṃ vasantānaṃ dammī’’ti vutte chinnavassā na labhanti, vassaṃ vasantāva labhanti.
If, within the rains season itself, it is said, "I give to those observing the rains residence," those who have broken their residence do not receive it; only those observing the rains residence receive it.
Nếu trong mùa an cư kiết hạ mà nói “Con dâng cúng cho những vị đang an cư kiết hạ”, thì những vị đã bị gián đoạn hạ lạp không được nhận, chỉ những vị đang an cư kiết hạ mới được nhận.
Cīvaramāse pana ‘‘vassaṃ vasantānaṃ dammī’’ti vutte pacchimikāya vassūpagatānaṃyeva pāpuṇāti, purimikāya vassūpagatānañca chinnavassānañca na pāpuṇāti.
In the robe season, however, when it is said, "I give to those who observe the rains residence," it belongs only to those who undertook the rains residence in the later period, and it does not belong to those who undertook the rains residence in the earlier period nor to those whose rains residence was broken.
Tuy nhiên, trong tháng dâng y, khi nói ‘tôi sẽ dâng cho những vị đang an cư mùa mưa’, thì y ấy chỉ đến với những vị đã an cư mùa mưa sau (pacchimikāya), còn những vị đã an cư mùa mưa trước (purimikāya) và những vị đã hủy bỏ an cư mùa mưa thì không đến.
Cīvaramāsato paṭṭhāya yāva hemantassa pacchimo divaso, tāva ‘‘vassāvāsikaṃ demā’’ti vutte kathinaṃ atthataṃ vā hotu anatthataṃ vā, atītavassaṃvuṭṭhānameva pāpuṇāti.
From the robe season onwards, up to the last day of the cold season, when it is said, "We give a rains-residence robe," whether the kathina has been spread or not, it belongs only to those who have completed their rains residence.
Từ tháng dâng y cho đến ngày cuối cùng của mùa đông, khi nói ‘chúng tôi sẽ dâng y an cư mùa mưa’, thì dù y kāṭhina đã được dâng hay chưa được dâng, y ấy chỉ đến với những vị đã mãn hạ an cư mùa mưa trước.
Gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya vutte pana mātikā āropetabbā ‘‘atītapassāvāsassa pañca māsā atikkantā, anāgato cātumāsaccayena bhavissati, kataravassāvāsassa desī’’ti.
However, if it is said starting from the first day of the hot season, a question should be posed: "Five months have passed for the former rains residence, and the coming one will be in four months; to whose rains residence do you give?"
Tuy nhiên, nếu nói bắt đầu từ ngày đầu tiên của mùa hè, thì cần phải nêu rõ vấn đề: ‘Năm tháng của mùa an cư mùa mưa đã qua, mùa an cư mùa mưa sắp tới sẽ đến sau bốn tháng, ông dâng cho mùa an cư mùa mưa nào?’.
Sace ‘‘atītavassaṃvuṭṭhānaṃ dammī’’ti vadati, taṃ antovassaṃvuṭṭhānameva pāpuṇāti, disāpakkantānampi sabhāgā gaṇhituṃ labhanti.
If one says, "I give to those who have completed the rains residence," it belongs only to those who resided during that past rains residence; those who have departed to other directions are also allowed to receive their portions by their fellow monks.
Nếu người ấy nói ‘tôi sẽ dâng cho những vị đã mãn hạ an cư mùa mưa trước’, thì y ấy chỉ đến với những vị đã an cư trong mùa mưa đó, và những vị đồng phần dù đã đi phương khác vẫn có thể nhận được.
Sace ‘‘anāgate vassāvāsikaṃ dammī’’ti vadati, taṃ ṭhapetvā vassūpanāyikadivase gahetabbaṃ.
If one says, "I give a rains-residence robe for the future," it should be set aside and received on the day of undertaking the rains residence.
Nếu người ấy nói ‘tôi sẽ dâng y an cư mùa mưa sắp tới’, thì y ấy phải được cất giữ và nhận vào ngày nhập hạ.
Atha ‘‘agutto vihāro, corabhayaṃ atthi, na sakkā ṭhapetuṃ gaṇhitvā vā āhiṇḍitu’’nti vutte ‘‘sampattānaṃ dammī’’ti vadati, bhājetvā gahetabbaṃ.
If it is said, "The monastery is unguarded, there is fear of thieves, it is impossible to store it or to wander about with it," and one says, "I give to those who are present," it should be divided and received.
Nếu nói ‘tu viện không được bảo vệ, có nguy hiểm trộm cướp, không thể cất giữ hoặc mang đi’, và người ấy nói ‘tôi sẽ dâng cho những vị hiện diện’, thì y ấy phải được chia và nhận.
Sace vadati ‘‘ito me, bhante, tatiye vasse vassāvāsikaṃ na dinnaṃ, taṃ dammī’’ti, tasmiṃ antovasse vuṭṭhabhikkhūnaṃ pāpuṇāti.
If one says, "Venerable Sir, I did not give a rains-residence robe in the third year from this one, I give that now," it belongs to the bhikkhus who completed the rains residence in that year.
Nếu người ấy nói ‘Bạch Đại đức, y an cư mùa mưa của tôi chưa được dâng vào năm thứ ba kể từ năm nay, tôi sẽ dâng y đó’, thì y ấy thuộc về các Tỳ-khưu đã an cư trong mùa mưa đó.
Sace te disā pakkantā, añño vissāsiko gaṇhāti, dātabbaṃ.
If they have departed to other directions, another trustworthy bhikkhu may receive it; it should be given.
Nếu các vị ấy đã đi phương khác, một vị thân tín khác có thể nhận, thì phải dâng cho vị ấy.
Athekoyeva avasiṭṭho, sesā kālakatā, sabbaṃ ekasseva pāpuṇāti.
If only one remains and the others have passed away, everything belongs to that one bhikkhu alone.
Nếu chỉ còn một vị, và các vị khác đã viên tịch, thì tất cả đều thuộc về một mình vị ấy.
Sace ekopi natthi, saṅghikaṃ hoti, sammukhībhūtehi bhājetabbaṃ.
If not even one remains, it becomes property of the Saṅgha, and should be divided by those present.
Nếu không còn một vị nào, thì y ấy thuộc về Tăng, và phải được chia bởi những vị hiện diện.
205. Ādissa detīti ettha pana yāguyā vā bhatte vā khādanīye vā cīvare vā senāsane vā bhesajje vā ādisitvā paricchinditvā dento ādissa deti nāma.
205. In the phrase gives by specifying, giving by specifying and determining whether it is for gruel, rice, solid food, robes, dwellings, or medicine, is called 'gives by specifying'.
205. Ở đây, dâng bằng cách chỉ định có nghĩa là dâng cháo, cơm, đồ ăn, y phục, chỗ ở hoặc thuốc men bằng cách chỉ định rõ ràng và phân định.
Tatrāyaṃ vinicchayo – bhikkhū ajjatanāya vā svātanāya vā yāguyā nimantetvā tesaṃ gharaṃ paviṭṭhānaṃ yāguṃ deti, yāguṃ datvā pītāya yāguyā ‘‘imāni cīvarāni yehi mayhaṃ yāgu pītā, tesaṃ dammī’’ti deti, yehi nimantitehi yāgu pītā, tesaṃyeva pāpuṇāti.
Herein, this is the determination: having invited bhikkhus for gruel today or tomorrow, one gives gruel to those who have entered the house; having given gruel, after the gruel has been drunk, if one says, "I give these robes to those by whom my gruel was drunk," it belongs only to those invited bhikkhus who drank the gruel.
Đây là sự phân định trong trường hợp này: Sau khi thỉnh các Tỳ-khưu dùng cháo vào hôm nay hoặc ngày mai, và khi các vị ấy đã vào nhà, người ấy dâng cháo. Sau khi dâng cháo và các vị ấy đã dùng xong, người ấy nói ‘những y phục này tôi dâng cho những vị đã dùng cháo của tôi’, thì y ấy chỉ thuộc về những vị đã được thỉnh và dùng cháo.
Yehi pana bhikkhācāravattena gharadvārena gacchantehi vā gharaṃ paviṭṭhehi vā yāgu laddhā, yesaṃ vā āsanasālato pattaṃ āharitvā manussehi nītā, yesaṃ vā therehi pesitā, tesaṃ na pāpuṇāti.
But it does not belong to those bhikkhus who received gruel by going through the house door according to the alms-round practice, or those who entered the house, or those for whom it was brought by people from the assembly hall after having received it in their bowls, or those for whom it was sent by elder bhikkhus.
Tuy nhiên, y ấy không thuộc về những Tỳ-khưu đã nhận cháo khi đi ngang qua cửa nhà theo phép khất thực hoặc đã vào nhà, hoặc những vị mà bát của họ đã được người ta mang từ sảnh đường đến, hoặc những vị mà cháo đã được các Trưởng lão gửi đến.
Sace pana nimantihabhikkhūhi saddhiṃ aññepi bahū āgantvā antogehañca bahigehañca pūretvā nisinnā, dāyako ca evaṃ vadati ‘‘nimantitā vā hontu animantitā vā, yesaṃ mayā yāgu dinnā, sabbesaṃ imāni vatthāni hontū’’ti, sabbesaṃ pāpuṇāti.
However, if many other bhikkhus, both invited and uninvited, come and fill the inner and outer parts of the house and are seated, and the donor says, "Whether invited or uninvited, let these cloths belong to all those to whom I gave gruel," then it belongs to all of them.
Tuy nhiên, nếu cùng với các Tỳ-khưu được thỉnh, nhiều vị khác cũng đến, lấp đầy cả trong nhà và ngoài nhà, và thí chủ nói rằng ‘dù được thỉnh hay không được thỉnh, những y phục này sẽ thuộc về tất cả những vị mà tôi đã dâng cháo’, thì y ấy thuộc về tất cả các vị.
Yehi pana therānaṃ hatthato yāgu laddhā, tesaṃ na pāpuṇāti.
But it does not belong to those who received gruel from the hands of the elder bhikkhus.
Tuy nhiên, y ấy không thuộc về những Tỳ-khưu đã nhận cháo từ tay các Trưởng lão.
Atha so ‘‘yehi mayhaṃ yāgu pītā, sabbesaṃ hotū’’ti vadati, sabbesaṃ pāpuṇāti.
But if he says, "Let it belong to all those by whom my gruel was drunk," then it belongs to all.
Nếu người ấy nói ‘y này sẽ thuộc về tất cả những vị đã dùng cháo của tôi’, thì y ấy thuộc về tất cả các vị.
Bhattakhādanīyesupi eseva nayo.
The same method applies to rice and solid food.
Đối với cơm và đồ ăn cũng vậy.
Cīvare pana pubbepi tena vassaṃ vāsetvā bhikkhūnaṃ cīvaraṃ dinnapubbaṃ hoti, so ce bhikkhū bhojetvā vadati ‘‘yesaṃ mayā pubbe cīvaraṃ dinnaṃ, tesaṃyeva imaṃ cīvaraṃ vā suttaṃ vā sappimadhuphāṇitādīni vā hontū’’ti, sabbaṃ tesaṃyeva pāpuṇāti.
In the case of robes, if the donor had previously given robes to bhikkhus after they had completed the rains residence, and if, after feeding the bhikkhus, he says, "Let this robe or thread or ghee, honey, sugar, and so forth belong only to those to whom I previously gave robes," then all of it belongs only to them.
Tuy nhiên, đối với y phục, nếu trước đây người ấy đã từng an cư mùa mưa và dâng y cho các Tỳ-khưu, và sau khi cúng dường các Tỳ-khưu, người ấy nói ‘những y phục này, hoặc sợi chỉ này, hoặc bơ, mật, đường phèn, v.v., sẽ thuộc về những vị mà tôi đã dâng y trước đây’, thì tất cả đều thuộc về những vị ấy.
Senāsanepi ‘‘yo mayā kārite vihāre vā pariveṇe vā vasati, tassidaṃ hotū’’ti vutte tasseva hoti.
In the case of dwellings, if it is said, "Let this belong to whoever resides in the monastery or cell that I have had built," then it belongs to that very person.
Đối với chỗ ở, khi nói ‘người nào cư trú trong tu viện hoặc tịnh xá do tôi xây dựng, thì chỗ này sẽ thuộc về người ấy’, thì chỗ ấy thuộc về chính người ấy.
Bhesajjepi ‘‘mayaṃ kālena kālaṃ therānaṃ sappiādīni bhesajjāni dema, yehi tāni laddhāni, tesaṃyevidaṃ hotū’’ti vutte tesaṃyeva hoti.
In the case of medicine, if it is said, "We give ghee and other medicines to the elders from time to time; let this belong only to those by whom those were received," then it belongs only to them.
Đối với thuốc men, khi nói ‘chúng tôi thường xuyên dâng bơ và các loại thuốc khác cho các Trưởng lão, những vị nào đã nhận chúng, thì thuốc này sẽ thuộc về những vị ấy’, thì thuốc ấy thuộc về những vị ấy.
206. Puggalassa detīti ettha pana ‘‘imaṃ cīvaraṃ itthannāmassa dammī’’ti evaṃ parammukhā vā, pādamūle ṭhapetvā ‘‘idaṃ, bhante, tumhākaṃ dammī’’ti evaṃ sammukhā vā deti, taṃ tasseva hoti.
206. In the phrase gives to an individual, if one gives by saying, "I give this robe to so-and-so," either in their absence, or by placing it at their feet and saying, "Venerable Sir, I give this to you," directly to them, then it belongs only to that person.
206. Ở đây, dâng cho một cá nhân có nghĩa là dâng y phục bằng cách nói ‘y phục này tôi dâng cho vị tên là...’ khi không có mặt, hoặc đặt dưới chân và nói ‘Bạch Đại đức, y phục này tôi dâng cho Đại đức’ khi có mặt, thì y ấy thuộc về chính vị ấy.
Sace pana ‘‘idaṃ tumhākañca tumhākaṃ antevāsikānañca dammī’’ti evaṃ vadati, therassa ca antevāsikānañca pāpuṇāti.
However, if one says, "I give this to you and your pupils," then it belongs to both the elder and his pupils.
Tuy nhiên, nếu người ấy nói ‘y phục này tôi dâng cho Đại đức và các đệ tử của Đại đức’, thì y ấy thuộc về vị Trưởng lão và các đệ tử của vị ấy.
Uddesaṃ gahetuṃ āgato gahetvā gacchanto ca atthi, tassapi pāpuṇāti.
If there is a pupil who has come to learn the texts and is leaving after having learned them, it also belongs to him.
Vị đệ tử đến để học kinh và đang mang kinh đi cũng được nhận.
‘‘Tumhehi saddhiṃ nibaddhacārikabhikkhūnaṃ dammī’’ti vutte uddesantevāsikānaṃ vattaṃ katvā uddesaparipucchādīni gahetvā vicarantānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti.
If it is said, "I give to the bhikkhus who constantly wander with you," it belongs to all the pupils who observe their duties and wander about, having learned and inquired about the texts.
Khi nói ‘tôi dâng cho các Tỳ-khưu thường xuyên đi cùng Đại đức’, thì y ấy thuộc về tất cả những vị đệ tử đang thực hành phận sự, học hỏi và hỏi đáp, v.v.
Ayaṃ ‘‘puggalassa detī’’ti imasmiṃ pade vinicchayo.
This is the determination concerning this phrase, "gives to an individual."
Đây là sự phân định trong câu ‘dâng cho một cá nhân’ này.
Sace koci bhikkhu ekova vassaṃ vasati, tattha manussā ‘‘saṅghassa demā’’ti cīvarāni denti, tattha kiṃ kātabbanti?
If a certain bhikkhu observes the rains residence alone, and people there give robes saying, "We give to the Saṅgha," what should be done in that situation?
Nếu có một Tỳ-khưu an cư mùa mưa một mình, và người ta dâng y phục cho Tăng-già, thì phải làm gì?
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tasseva tāni cīvarāni yāva kathinassa ubbhārā’’ti (mahāva. 363) vacanato sace (mahāva. aṭṭha. 363) gaṇapūrake bhikkhū labhitvā kathinaṃ atthataṃ hoti, pañca māse, no ce atthataṃ hoti, ekaṃ cīvaramāsaṃ aññattha gahetvā nītānipi tasseva tāni cīvarāni, na tesaṃ añño koci issaro.
According to the saying, "I allow, bhikkhus, those robes to belong to that bhikkhu until the kathina is annulled," if the kathina has been spread by obtaining bhikkhus sufficient for the full complement, he may keep them for five months. If it has not been spread, he may keep them for one robe month. Even if they are taken elsewhere, those robes belong only to him, and no one else has authority over them.
Theo lời dạy ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép y phục đó thuộc về chính vị ấy cho đến khi y kāṭhina được dỡ bỏ’, nếu các Tỳ-khưu đầy đủ số lượng đã nhận và y kāṭhina đã được dâng, thì trong năm tháng, y phục đó thuộc về chính vị Tỳ-khưu ấy, ngay cả khi y phục đó đã được mang đi nơi khác; không ai khác có quyền sở hữu chúng. Nếu y kāṭhina chưa được dâng, thì trong một tháng dâng y.
Yaṃ yañhi ‘‘saṅghassa demā’’ti vā ‘‘saṅghaṃ uddissa demā’’ti vā ‘‘vassaṃvuṭṭhasaṅghassa demā’’ti vā ‘‘vassāvāsikaṃ demā’’ti vā denti, sacepi matakacīvaraṃ avibhajitvā taṃ vihāraṃ pavisati, taṃ sabbaṃ tasseva bhikkhuno hoti.
Whatever robes are given, whether by saying, "We give to the Saṅgha," or "We give dedicating it to the Saṅgha," or "We give to the Saṅgha that has completed the rains residence," or "We give a rains-residence robe," even if a robe of a deceased bhikkhu enters that monastery without being divided, all of it belongs to that bhikkhu alone.
Bất cứ y phục nào được dâng với lời ‘chúng tôi dâng cho Tăng-già’, hoặc ‘chúng tôi dâng để cúng dường Tăng-già’, hoặc ‘chúng tôi dâng cho Tăng-già đã mãn hạ an cư mùa mưa’, hoặc ‘chúng tôi dâng y an cư mùa mưa’, thì ngay cả khi đó là y phục của người đã mất mà chưa chia, và y ấy được mang vào tu viện đó, thì tất cả đều thuộc về chính vị Tỳ-khưu ấy.
Yampi so vassāvāsatthāya vaḍḍhiṃ payojetvā ṭhapitaupanikkhepato vā tatruppādato vā vassāvāsikaṃ gaṇhāti, sabbaṃ suggahitameva hoti.
And whatever rains-residence robe he receives, whether from a deposit he has placed at interest for the rains residence, or from income arising from that place, all of it is considered well-received.
Và bất cứ y an cư mùa mưa nào vị ấy nhận được từ khoản tiền gửi đã được sử dụng để tăng trưởng cho mục đích an cư mùa mưa hoặc từ các sản phẩm phát sinh ở đó, tất cả đều được nhận một cách đúng đắn.
Idañhettha lakkhaṇaṃ – yena tenākārena saṅghassa uppannavatthaṃ atthatakathinassa pañca māse, anatthatakathinassa ekaṃ cīvaramāsaṃ pāpuṇāti.
This is the characteristic here: any cloth that arises for the Saṅgha, in any manner whatsoever, belongs for five months if the kathina has been spread, and for one robe month if the kathina has not been spread.
Đây là dấu hiệu ở đây: Y phục phát sinh cho Tăng-già bằng bất kỳ cách nào đều thuộc về vị Tỳ-khưu đã dâng y kāṭhina trong năm tháng, và thuộc về vị Tỳ-khưu chưa dâng y kāṭhina trong một tháng dâng y.
Sace pana koci bhikkhu vassānato aññasmiṃ utukāle ekako vasati, tattha manussā ‘‘saṅghassa demā’’ti cīvarāni denti, tena bhikkhunā adhiṭṭhātabbaṃ ‘‘mayhimāni cīvarānī’’ti.
However, if a certain bhikkhu resides alone at a time other than the rainy season, and people there give robes saying, "We give to the Saṅgha," that bhikkhu should determine, "These robes belong to me."
Tuy nhiên, nếu có một Tỳ-khưu nào đó sống một mình vào thời tiết khác ngoài mùa mưa, và người ta dâng y phục cho Tăng-già, thì vị Tỳ-khưu đó phải tác ý ‘những y phục này thuộc về tôi’.
Adhiṭṭhahantena pana vattaṃ jānitabbaṃ.
However, in determining, one should know the procedure.
Tuy nhiên, vị Tỳ-khưu tác ý phải biết phận sự.
Tena hi bhikkhunā ghaṇṭiṃ vā paharitvā kālaṃ vā ghosetvā thokaṃ āgametvā sace ghaṇṭisaññāya vā kālasaññāya vā bhikkhū āgacchanti, tehi saddhiṃ bhājetabbāni.
That bhikkhu should strike a bell or announce the time, wait a little, and if bhikkhus come in response to the bell signal or the announcement of time, he should divide them with them.
Vị Tỳ-khưu đó phải đánh chuông hoặc thông báo giờ, chờ một chút, nếu có các Tỳ-khưu đến theo tiếng chuông hoặc theo giờ thông báo, thì phải chia y phục với các vị ấy.
Tehi ce bhikkhūhi tasmiṃ cīvare bhājiyamāne apātite kuse añño bhikkhu āgacchati, samako dātabbo bhāgo, pātite kuse añño bhikkhu āgacchati, na akāmā dātabbo bhāgo.
If, while those bhikkhus are dividing that robe, another bhikkhu comes before the kusagga (grass marker) is laid down, an equal share should be given. If another bhikkhu comes after the kusagga is laid down, a share should not be given against one's will.
Nếu khi các Tỳ-khưu đó đang chia y phục, một Tỳ-khưu khác đến trước khi ném que chia, thì phải chia phần bằng nhau; nếu một Tỳ-khưu khác đến sau khi que chia đã được ném, thì không cần chia phần nếu không muốn.
Ekakoṭṭhāsepi hi kusadaṇḍake pātitamatte sacepi bhikkhusahassaṃ hoti, gahitameva nāma cīvaraṃ, tasmā na akāmā bhāgo dātabbo.
Even if there are a thousand bhikkhus, as soon as the kusadaṇḍaka (small stick for marking grass) for one portion is laid down, the robe is considered to have been received. Therefore, a share should not be given against one's will.
Ngay cả khi chỉ một que chia đã được ném cho một phần, thì dù có một ngàn Tỳ-khưu, y phục đó vẫn được coi là đã nhận; do đó, không cần chia phần nếu không muốn.
Sace pana attano ruciyā dātukāmā honti, dentu.
However, if they wish to give voluntarily, let them give.
Tuy nhiên, nếu các vị ấy muốn dâng theo ý muốn của mình, thì hãy dâng.
Anubhāgepi eseva nayo.
The same method applies to a subsequent division.
Đối với việc dâng thêm cũng vậy.
Atha ghaṇṭisaññāya vā kālasaññāya vā aññe bhikkhū na āgacchanti, ‘‘mayhimāni cīvarāni pāpuṇantī’’ti adhiṭṭhātabbāni.
If, however, other bhikkhus do not come in response to the bell signal or the announcement of time, the robes should be determined as, "These robes belong to me."
Nếu các Tỳ-khưu khác không đến theo tiếng chuông hoặc theo giờ thông báo, thì phải tác ý ‘những y phục này thuộc về tôi’.
Evaṃ adhiṭṭhite sabbāni tasseva honti, ṭhitikā pana na tiṭṭhati.
When so determined, all of them belong to him, but the seniority tradition does not stand.
Khi đã tác ý như vậy, tất cả đều thuộc về vị ấy, nhưng thứ tự Trưởng lão thì không được thiết lập.
Sace ekekaṃ uddharitvā ‘‘ayaṃ paṭhamabhāgo mayhaṃ pāpuṇāti, ayaṃ dutiyabhāgo’’ti evaṃ gaṇhāti, gahitāni ca suggahitāni honti, ṭhitikā ca tiṭṭhati, evaṃ pāpetvā gaṇhantenapi adhiṭṭhitameva hoti.
If, taking them out one by one, he thinks, "This first share falls to me, this is the second share," and takes them in this way, then what is taken is well-taken, and the seniority order is maintained. Even if he takes them after causing them to come to him, it is still considered as having been determined.
Nếu lấy từng chiếc ra rồi nói: “Phần đầu này thuộc về tôi, phần thứ hai này cũng vậy,” và lấy như thế, thì những gì đã lấy là được lấy đúng, và truyền thống (ṭhitikā) cũng được duy trì. Ngay cả khi lấy sau khi đã cho phép (đến lượt mình), thì đó cũng là sự chấp nhận (adhiṭṭhita) vậy.
Sace pana ghaṇṭiṃ paharitvā vā appaharitvā vā kālampi ghosetvā vā aghosetvā vā ‘‘ahamevettha, mayhameva imāni cīvarānī’’ti gaṇhāti, duggahitāni honti.
But if, having struck the bell or not struck it, having announced the time or not announced it, he takes them thinking, "I alone am here, these robes belong to me alone," then they are badly taken.
Nhưng nếu đánh chuông hay không đánh chuông, báo giờ hay không báo giờ, rồi nói: “Chỉ có tôi ở đây, những y này thuộc về tôi,” và lấy như thế, thì những gì đã lấy là được lấy sai.
Atha ‘‘añño koci idha natthi, mayhaṃ etāni pāpuṇantī’’ti gaṇhāti, suggahitāni.
Otherwise, if he takes them thinking, "There is no one else here, these fall to me," then they are well-taken.
Nếu nói: “Không có ai khác ở đây, những y này thuộc về tôi,” và lấy như thế, thì những gì đã lấy là được lấy đúng.
Atha anadhiṭṭhahitvāva tāni cīvarāni gahetvā aññaṃ vihāraṃ uddissa gacchati ‘‘tattha bhikkhūhi saddhiṃ bhājessāmī’’ti, tāni cīvarāni gatagataṭṭhāne saṅghikāneva honti.
Otherwise, if he takes those robes without having determined them and goes, intending for another monastery, saying, "I will distribute them with the bhikkhus there," then those robes remain saṅghika wherever he goes.
Nếu không chấp nhận (adhiṭṭhita) mà mang những y đó đi đến một tu viện khác với ý định: “Tôi sẽ chia cho các Tỳ-khưu ở đó,” thì những y đó vẫn là của Tăng (saṅghika) ở bất cứ nơi nào chúng được mang đến.
Bhikkhūhi diṭṭhamattamevettha pamāṇaṃ.
In this case, the mere sight by bhikkhus is the standard.
Ở đây, việc các Tỳ-khưu nhìn thấy là đủ.
Tasmā sace keci paṭipathaṃ āgacchantā ‘‘kuhiṃ, āvuso, gacchasī’’ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā ‘‘kiṃ, āvuso, mayaṃ saṅgho na homā’’ti tattheva bhājetvā gaṇhanti, suggahitāni.
Therefore, if some bhikkhus coming along the path ask, "Where are you going, venerable sir?" and, hearing the matter, ask, "Venerable sir, are we not the Saṅgha?" and divide and take them right there, then they are well-taken.
Vì vậy, nếu có Tỳ-khưu nào đó đi ngược chiều hỏi: “Này chư Hiền, ngài đi đâu vậy?” và sau khi nghe sự việc, nói: “Này chư Hiền, chúng tôi không phải là Tăng sao?” rồi chia và lấy ngay tại đó, thì những gì đã lấy là được lấy đúng.
Sacepi esa maggā okkamitvā kañci vihāraṃ vā āsanasālaṃ vā piṇḍāya caranto ekagehameva vā pavisati, tatra ca naṃ bhikkhū disvā tamatthaṃ pucchitvā bhājetvā gaṇhanti, suggahitāneva.
Even if he steps off the road and enters some monastery, or a hall for meals, or a single house while on alms-round, and bhikkhus see him there, ask about the matter, and divide and take them, they are still well-taken.
Ngay cả khi vị ấy rời khỏi đường, đi vào một tu viện hay một nhà ăn, hoặc đi khất thực vào một ngôi nhà, và ở đó các Tỳ-khưu nhìn thấy vị ấy, hỏi sự việc rồi chia và lấy, thì những gì đã lấy vẫn là được lấy đúng.
‘‘Na, bhikkhave, aññatra vassaṃvuṭṭhena aññatra cīvarabhāgo sāditabbo, yo sādiyeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 364) vacanato aññatra vassaṃvuṭṭho aññatra bhāgaṃ gaṇhāti, dukkaṭaṃ.
According to the saying, "Bhikkhus, one who has completed the rains residence in one place should not accept a robe-share in another; if he were to accept it, there is an offense of dukkata," if one who has completed the rains residence in one place accepts a share in another, it is a dukkata.
Theo lời dạy: “Này chư Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu đã an cư kiết hạ ở một nơi không nên nhận phần y ở một nơi khác. Nếu ai nhận, sẽ phạm tội dukkaṭa,” nên nếu một Tỳ-khưu đã an cư kiết hạ ở một nơi mà nhận phần y ở một nơi khác, thì phạm tội dukkaṭa.
Ettha pana kiñcāpi lahukā āpatti, atha kho gahitāni cīvarāni gahitaṭṭhāne dātabbāni.
Although in this case the offense is light, nevertheless, the robes taken must be given back at the place where they were taken.
Ở đây, mặc dù là tội nhẹ, nhưng những y đã nhận phải được trả lại tại nơi đã nhận.
Sacepi naṭṭhāni vā jiṇṇāni vā honti, tasseva gīvā.
Even if they are lost or worn out, the responsibility is his.
Ngay cả khi chúng bị mất hoặc hư hỏng, thì đó là trách nhiệm của vị ấy.
‘‘Dehī’’ti vutte adento dhuranikkhepe bhaṇḍagghena kāretabbo.
If, when told to "Give," he does not give, he must be made to pay the value of the robes for having relinquished the responsibility.
Khi được yêu cầu: “Hãy trả lại,” mà không trả, thì phải bồi thường giá trị của y phục theo quy định về việc từ bỏ trách nhiệm (dhuranikkhepe).
Eko bhikkhu dvīsu āvāsesu vassaṃ vasati ‘‘evaṃ me bahu cīvaraṃ uppajjissatī’’ti, ekaṃ puggalapaṭivīsaṃyeva labhati.
A single bhikkhu resides for the rains in two monasteries, thinking, "In this way, many robes will arise for me"; he receives only one individual's share.
Một Tỳ-khưu an cư kiết hạ ở hai trú xứ với ý nghĩ: “Như vậy tôi sẽ được nhiều y hơn,” nhưng chỉ nhận được một phần y của một cá nhân.
Tasmā sace ekekasmiṃ vihāre ekāhamekāhaṃ vā sattāhaṃ vā vasati, ekekasmiṃ vihāre yaṃ eko puggalo labhati, tato tato upaḍḍhaṃ upaḍḍhaṃ dātabbaṃ.
Therefore, if he stays one day at a time or one week at a time in each monastery, from the share that one individual receives in each monastery, half of it must be given from each.
Vì vậy, nếu vị ấy ở mỗi tu viện một ngày hoặc một tuần, thì ở mỗi tu viện, vị ấy sẽ được nhận một nửa phần mà một cá nhân thông thường nhận được.
Evañhi ekapuggalapaṭivīso dinno hoti.
In this way, one individual's share is given.
Như vậy, phần của một cá nhân sẽ được trao.
Sace pana ekasmiṃ vihāre vasanto itarasmiṃ sattāhavārena aruṇameva uṭṭhāpeti, bahutaraṃ vasitavihārato tassa paṭivīso dātabbo.
But if, while residing in one monastery, he only causes the dawn to break in the other monastery by staying for seven days, a larger share should be given to him from the monastery where he stayed more.
Nhưng nếu vị ấy ở một tu viện và chỉ cho bình minh lên ở tu viện kia theo chu kỳ bảy ngày, thì vị ấy sẽ được nhận phần lớn hơn từ tu viện mà vị ấy đã ở nhiều hơn.
Evampi ekapuggalapaṭivīsoyeva dinno hoti.
In this way too, only one individual's share is given.
Ngay cả như vậy, phần của một cá nhân vẫn được trao.
Idañca nānālābhehi nānūpacārehi ekasīmāvihārehi kathitaṃ, nānāsīmāvihāre pana senāsanaggāho paṭippassambhati.
This statement applies to monasteries with different acquisitions and different precincts, within a single sīmā. However, in monasteries with different sīmās, the acquisition of dwelling places is suspended.
Điều này được nói về các tu viện có nhiều lợi lộc khác nhau, có các nghi thức khác nhau, và nằm trong cùng một khu vực giới hạn (ekasīmāvihāra). Còn đối với các tu viện có các khu vực giới hạn khác nhau (nānāsīmāvihāre), việc nhận chỗ ở (senāsanaggāho) sẽ bị đình chỉ.
Tasmā tattha cīvarapaṭivīso na pāpuṇāti, sesaṃ pana āmisabhesajjādi sabbaṃ sabbattha antosīmāgatassa pāpuṇāti.
Therefore, in that case, a robe-share is not obtained; but all other things, such as requisites like food and medicine, accrue to one who has entered the sīmā everywhere.
Vì vậy, phần y phục không được nhận ở đó, nhưng tất cả các vật phẩm khác như đồ ăn, thuốc men, v.v., đều thuộc về vị Tỳ-khưu đã đến trong khu vực giới hạn ở mọi nơi.
208. Gilānupaṭṭhākānaṃ lābhe pana ayaṃ vinicchayo – sace sakale bhikkhusaṅghe upaṭṭhahante kālaṃ karoti, sabbepi sāmikā.
Regarding the attendants of the sick receiving a share, this is the decision: if he passes away while the entire community of bhikkhus is attending to him, all of them are owners.
Về việc nhận lợi lộc của những người chăm sóc bệnh nhân, có sự phân xử như sau: Nếu vị ấy viên tịch khi toàn thể Tăng chúng đang chăm sóc, thì tất cả đều là chủ sở hữu.
Atha ekaccehi vāre kate ekaccehi akateyeva kālaṃ karoti, tatra ekacce ācariyā vadanti ‘‘sabbepi attano vāre sampatte kareyyuṃ, tasmā sabbepi sāmino’’ti.
If, however, he passes away while some have taken their turn and some have not, then some teachers say, "All would have taken their turn when it came, therefore all are owners."
Nếu vị ấy viên tịch khi một số đã chăm sóc theo phiên và một số chưa chăm sóc, thì một số vị thầy nói: “Tất cả đều sẽ chăm sóc khi đến phiên của mình, vì vậy tất cả đều là chủ sở hữu.”
Ekacce vadanti ‘‘yehi jaggito, te eva labhanti, itare na labhantī’’ti.
Others say, "Only those who attended to him receive it; others do not."
Một số vị khác nói: “Chỉ những người đã chăm sóc mới nhận được, những người khác thì không.”
Sāmaṇerepi kālakate sace cīvaraṃ atthi, gilānupaṭṭhākānaṃ dātabbaṃ.
If a sāmaṇera also passes away, if there are robes, they should be given to the attendants of the sick.
Ngay cả khi một Sa-di viên tịch, nếu có y phục, thì phải trao cho những người chăm sóc bệnh nhân.
No ce atthi, yaṃ atthi, taṃ dātabbaṃ.
If not, whatever is there should be given.
Nếu không có y phục, thì phải trao những gì có.
Aññasmiṃ parikkhāre sati cīvarabhāgaṃ katvā dātabbaṃ.
If there are other requisites, a robe-share should be made and given.
Nếu có các vật dụng khác, thì phải chia phần y phục và trao.
Bhikkhu ca sāmaṇero ca sace samaṃ upaṭṭhahiṃsu, samako bhāgo dātabbo.
If a bhikkhu and a sāmaṇera attended equally, an equal share should be given.
Nếu Tỳ-khưu và Sa-di cùng chăm sóc như nhau, thì phải chia phần bằng nhau.
Atha sāmaṇerova upaṭṭhahati, bhikkhussa saṃvidahanamattameva hoti, sāmaṇerassa jeṭṭhakoṭṭhāso dātabbo.
But if only the sāmaṇera attends, and the bhikkhu merely arranged things, the greater share should be given to the sāmaṇera.
Nếu chỉ có Sa-di chăm sóc, còn Tỳ-khưu chỉ sắp xếp, thì Sa-di được nhận phần lớn hơn.
Sace sāmaṇero bhikkhunā ānītaudakena yāguṃ pacitvā paṭiggahāpanamattameva karoti, bhikkhu upaṭṭhahati, bhikkhussa jeṭṭhabhāgo dātabbo.
If the sāmaṇera merely cooks porridge with water brought by the bhikkhu and offers it, while the bhikkhu attends, the bhikkhu should be given the greater share.
Nếu Sa-di chỉ nấu cháo bằng nước do Tỳ-khưu mang đến và chỉ dâng cúng, còn Tỳ-khưu chăm sóc, thì Tỳ-khưu được nhận phần lớn hơn.
Bahū bhikkhū sabbe samaggā hutvā upaṭṭhahanti, sabbesaṃ samako bhāgo dātabbo.
If many bhikkhus, all in harmony, attend, an equal share should be given to all.
Nếu nhiều Tỳ-khưu cùng nhất trí chăm sóc, thì tất cả đều được nhận phần bằng nhau.
Yo panettha visesena upaṭṭhahati, tassa viseso kātabbo.
If one among them attends exceptionally, a special consideration should be made for him.
Vị nào chăm sóc đặc biệt hơn, thì vị ấy được nhận phần đặc biệt.
Yena pana ekadivasampi gilānupaṭṭhākavasena yāgubhattaṃ vā pacitvā dinnaṃ, nhānaṃ vā paṭisāditaṃ, sopi gilānupaṭṭhākova.
Whoever, even for one day, cooked and gave porridge and rice, or prepared water for bathing, in the capacity of an attendant to the sick, is also an attendant to the sick.
Vị nào dù chỉ một ngày, với tư cách là người chăm sóc bệnh nhân, đã nấu và dâng cháo hoặc cơm, hoặc đã chuẩn bị nước tắm, thì vị ấy cũng là người chăm sóc bệnh nhân.
Yo pana samīpaṃ anāgantvā bhesajjataṇḍulādīni peseti, ayaṃ gilānupaṭṭhāko na hoti.
But one who does not come near but sends medicines, rice, etc., is not an attendant to the sick.
Còn vị nào không đến gần mà chỉ gửi thuốc men, gạo, v.v., thì vị ấy không phải là người chăm sóc bệnh nhân.
Yo pariyesitvā gāhetvā āgacchati, ayaṃ gilānupaṭṭhākova.
One who searches for them, obtains them, and brings them, is indeed an attendant to the sick.
Vị nào tìm kiếm, nhận lấy rồi mang đến, thì vị ấy là người chăm sóc bệnh nhân.
Eko vattasīsena jaggati, eko paccāsāya, matakāle ubhopi paccāsīsanti, ubhinnampi dātabbaṃ.
One attends out of duty, another out of hope. At the time of death, if both have hopes, it should be given to both.
Một người chăm sóc vì bổn phận, một người chăm sóc vì mong đợi (lợi lộc); khi vị ấy viên tịch, cả hai đều mong đợi, thì cả hai đều được nhận.
Eko upaṭṭhahitvā gilānassa vā kammena attano vā kammena katthaci gato ‘‘puna āgantvā jaggissāmī’’ti, etassapi dātabbaṃ.
One who attended for a while and then went somewhere for the sick person's work or his own work, thinking, "I will come back and attend again," should also be given a share.
Một người chăm sóc rồi đi đến nơi nào đó vì công việc của bệnh nhân hoặc công việc của mình, với ý định: “Tôi sẽ trở lại chăm sóc,” thì vị ấy cũng được nhận.
Eko ciraṃ upaṭṭhahitvā ‘‘idāni na sakkomī’’ti dhuraṃ nikkhipitvā gacchati, sacepi taṃ divasameva gilāno kālaṃ karoti, upaṭṭhākabhāgo na dātabbo.
One who attended for a long time, then relinquished the duty saying, "I can't do it anymore," and left, even if the sick person passes away on that very day, no attendant's share should be given to him.
Một người đã chăm sóc lâu rồi nói: “Bây giờ tôi không thể nữa,” và từ bỏ trách nhiệm rồi bỏ đi, thì ngay cả khi bệnh nhân viên tịch vào chính ngày đó, phần của người chăm sóc không được trao.
Gilānupaṭṭhāko nāma gihī vā hotu pabbajito vā antamaso mātugāmopi, sabbe bhāgaṃ labhanti.
An attendant to the sick can be a layperson or one who has gone forth, even a woman; all receive a share.
Người chăm sóc bệnh nhân, dù là cư sĩ hay người xuất gia, thậm chí là nữ giới, tất cả đều được nhận phần.
Sace tassa bhikkhuno pattacīvaramattameva hoti, aññaṃ natthi, sabbaṃ gilānupaṭṭhākānaṃyeva dātabbaṃ.
If that bhikkhu only has a bowl and robes and nothing else, everything should be given to the attendants of the sick.
Nếu vị Tỳ-khưu đó chỉ có bát và y phục, không có gì khác, thì tất cả đều phải trao cho những người chăm sóc bệnh nhân.
Sacepi sahassaṃ agghati, aññaṃ pana bahumpi parikkhāraṃ te na labhanti, saṅghasseva hoti.
Even if it is worth a thousand, but they do not receive many other requisites, it belongs to the Saṅgha.
Dù trị giá một ngàn (đồng), nhưng những đồ dùng khác dù nhiều, họ (người hộ bệnh) không được nhận, mà thuộc về Tăng-già.
Avasesaṃ bhaṇḍaṃ bahu ceva mahagghañca, ticīvaraṃ appagghaṃ, tato gahetvā ticīvaraparikkhāro dātabbo, sabbañcetaṃ saṅghikatova labbhati.
If the remaining goods are many and of great value, but the three robes are of little value, the requisites for the three robes should be given by taking from those goods, and all this is obtained from what is Saṅghika.
Những đồ vật còn lại thì nhiều và đắt tiền, còn ba y thì ít tiền. Từ những đồ dùng nhiều đó, nên lấy đồ dùng gồm ba y để cho. Tất cả những thứ này chỉ được nhận từ tài sản của Tăng-già.
Sace pana so jīvamānoyeva sabbaṃ attano parikkhāraṃ nissajjitvā kassaci adāsi, koci vā vissāsaṃ aggahesi, yassa dinnaṃ, yena ca gahitaṃ, tasseva hoti, tassa ruciyā eva gilānupaṭṭhākā labhanti.
But if, while still alive, he renounced all his requisites and gave them to someone, or someone took them with intimacy, it belongs to the one to whom it was given and by whom it was taken; the attendants of the sick receive it only according to that person’s wish.
Tuy nhiên, nếu vị Tỳ-khưu bệnh nhân ấy, khi còn sống, đã từ bỏ tất cả đồ dùng của mình và đã cho ai đó, hoặc ai đó đã nhận lấy một cách tin cậy, thì vật đó thuộc về người đã được cho và người đã nhận. Người hộ bệnh chỉ được nhận theo ý muốn của người đó.
Aññesaṃ adatvā dūre ṭhapitaparikkhārāpi tattha tattha saṅghasseva honti.
Requisites placed at a distance without being given to others also belong to the Saṅgha of that particular place.
Những đồ dùng được cất giữ ở xa, không cho người khác, cũng thuộc về Tăng-già ở những nơi đó.
Dvinnaṃ santakaṃ hoti avibhattaṃ, ekasmiṃ kālakate itaro sāmī.
If property belongs to two and is undivided, when one passes away, the other is the owner.
Nếu là tài sản của hai vị chưa phân chia, khi một vị viên tịch, vị kia là chủ sở hữu.
Bahūnampi santake eseva nayo.
The same method applies to property belonging to many.
Đối với tài sản của nhiều vị cũng theo cách này.
Sabbesu matesu saṅghikaṃ hoti.
When all have died, it becomes Saṅghika.
Khi tất cả đều viên tịch, tài sản đó thuộc về Tăng-già.
Sacepi avibhajitvā saddhivihārikādīnaṃ denti, adinnameva hoti, vibhajitvā dinnaṃ pana sudinnaṃ.
Even if they give to co-residents and others without having divided it, it is not properly given; but what is given after dividing is well given.
Dù cho các saddhivihārika và những vị khác mà không phân chia, thì vẫn xem như chưa cho. Nhưng nếu đã phân chia rồi mới cho thì là đã cho đúng cách.
Taṃ tesu matesupi saddhivihārikādīnaṃyeva hoti, na saṅghassa.
That property belongs to the co-residents and others even when those givers have died; it does not belong to the Saṅgha.
Dù các vị đó đã viên tịch, tài sản đó vẫn thuộc về các saddhivihārika và những vị khác, không thuộc về Tăng-già.
Sace vassaṃvuṭṭho bhikkhu anuppanne vā uppanne vā cīvare abhājite vā pakkamati, ummattako khittacitto vedanāṭṭo ukkhittako vā hoti, sante patirūpe gāhake bhāgo dātabbo.
If a bhikkhu who has completed the rains-residence departs before the robes have arisen or, having arisen, before they are distributed; or if he is insane, of scattered mind, afflicted by pain, or has been suspended, his share should be given if there is a suitable recipient.
Nếu một Tỳ-khưu đã an cư kiết hạ, y phục chưa được nhận hoặc đã được nhận nhưng chưa phân chia, mà vị ấy rời đi, hoặc bị điên loạn, tâm trí bất ổn, bị bệnh hành hạ, hoặc bị trục xuất (ukkhittaka), thì phần y phục nên được cấp cho người nhận phù hợp.
Sace pana vibbhamati vā kālaṃ vā karoti sāmaṇero vā paṭijānāti, sikkhaṃ paccakkhātako, antimavatthuṃ ajjhāpannako, paṇḍako, theyyasaṃvāsako, titthiyapakkantako, tiracchānagato, mātughātako, pitughātako, arahantaghātako, bhikkhunīdūsako, saṅghabhedako, lohituppādako, ubhatobyañjanako vā paṭijānāti, saṅgho sāmī, bhāgo na dātabbo.
But if he disrobes, or passes away, or declares himself a sāmaṇera, one who has renounced the training, one who has committed a terminal offense, a paṇḍaka, a thief in communion, one who has gone over to another sect, one who has become an animal, a matricide, a parricide, a killer of an Arahant, a violator of a bhikkhunī, a schismatic, one who has wounded a Buddha, or declares himself an ubhatobyañjanaka, the Saṅgha is the owner; the share should not be given.
Tuy nhiên, nếu vị ấy hoàn tục hoặc viên tịch, hoặc tự xưng là Sāmaṇera, hoặc đã từ bỏ giới, hoặc đã phạm tội trọng (pārājika), hoặc là paṇḍaka (người không có khả năng tình dục rõ ràng), hoặc là kẻ trộm cắp sống chung (theyyasaṃvāsaka), hoặc đã theo ngoại đạo, hoặc đã tái sinh làm súc vật, hoặc là kẻ giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm nhơ bẩn Tỳ-khưu-ni, chia rẽ Tăng-già, làm chảy máu Phật, hoặc tự xưng là ubhatobyañjanaka (người có hai bộ phận sinh dục), thì Tăng-già là chủ sở hữu, không nên cấp phần y phục cho vị ấy.
Sace vassaṃvuṭṭhānaṃ bhikkhūnaṃ anuppanne cīvare saṅgho bhijjati, kosambakabhikkhū viya dve koṭṭhāsā honti, tattha manussā ekasmiṃ pakkhe dakkhiṇodakañca gandhādīni ca denti, ekasmiṃ cīvarāni denti ‘‘saṅghassa demā’’ti, yattha vā udakaṃ dinnaṃ, yasmiṃyeva pakkhe cīvarāni denti ‘‘saṅghassa demā’’ti, saṅghasseva tāni cīvarāni, dvinnampi koṭṭhāsānaṃ pāpuṇanti, ghaṇṭiṃ paharitvā dvīhipi pakkhehi ekato bhājetabbāni.
If, before robes have arisen for the bhikkhus who have completed the rains-residence, the Saṅgha becomes divided, and there are two factions like the Kosambi bhikkhus, and in that situation, people give dedication-water and perfumes, etc., to one faction, and give robes to one faction saying, "We give to the Saṅgha," or where the water was given, they give robes to that very same faction saying, "We give to the Saṅgha," those robes belong to the Saṅgha; they are for both factions. Having rung the bell, they should be divided together by both factions.
Nếu khi y phục của các Tỳ-khưu đã an cư kiết hạ chưa được nhận mà Tăng-già bị chia rẽ, như các Tỳ-khưu ở Kosambī, thành hai phe. Khi đó, nếu mọi người cúng dường nước cúng dường (dakkhiṇodaka) và các loại hương liệu cho một phe, và cúng dường y phục cho một phe khác với lời nói “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già”, hoặc nếu nước cúng dường đã được cúng dường cho phe nào, và y phục cũng được cúng dường cho chính phe đó với lời nói “Chúng tôi cúng dường cho Tăng-già”, thì những y phục đó thuộc về Tăng-già, và cả hai phe đều được nhận. Nên đánh chuông và phân chia đồng đều cho cả hai phe.
Sace pana manussā ekasmiṃ pakkhe dakkhiṇodakaṃ gandhādīni ca denti, ekasmiṃ pakkhe cīvarāni denti ‘‘pakkhassa demā’’ti, pakkhasseva tāni cīvarāni.
But if people give dedication-water and perfumes, etc., to one faction, and give robes to another faction saying, "We give to the faction," those robes belong to the faction.
Tuy nhiên, nếu mọi người cúng dường nước cúng dường và các loại hương liệu cho một phe, và cúng dường y phục cho một phe khác với lời nói “Chúng tôi cúng dường cho phe này”, thì những y phục đó thuộc về phe đó.
Evañhi dinne yassa koṭṭhāsassa udakaṃ dinnaṃ, tassa udakameva hoti.
When given in this way, for whichever group the water was given, they have only the water.
Khi cúng dường như vậy, nước cúng dường thuộc về phe đã nhận nước.
Yassa cīvaraṃ dinnaṃ, tasseva cīvaraṃ.
Whichever group was given the robes, the robes are theirs alone.
Y phục thuộc về phe đã nhận y phục.
Yasmiṃ padese dakkhiṇodakaṃ pamāṇaṃ hoti, tattha eko pakkho dakkhiṇodakassa laddhattā cīvarāni labhati, eko cīvarānameva laddhattāti ubhohi ekato hutvā yathāvuḍḍhaṃ bhājetabbaṃ.
In a region where the dedication-water is the standard, there, one faction receives the robes because they have received the dedication-water, while the other faction has only received the robes. For these reasons, both factions should join together and divide them according to seniority.
Ở nơi nào nước cúng dường được xem là tiêu chuẩn, thì một phe nhận y phục vì đã nhận nước cúng dường, và phe kia nhận y phục vì đã nhận y phục. Cả hai phe nên hợp lại và phân chia theo thứ bậc tuổi hạ.
‘‘Idaṃ kira parasamudde lakkhaṇa’’nti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ.
It is said in the Mahā-aṭṭhakathā: “This, it seems, is the custom on the other side of the ocean.”
Điều này được nói trong Mahāaṭṭhakathā là “dấu hiệu ở hải ngoại”.
Sace yasmiṃ pakkhe udakaṃ dinnaṃ, tasmiṃyeva pakkhe cīvarāni denti ‘‘pakkhassa demā’’ti, pakkhasseva tāni cīvarāni, itaro pakkho anissaroyeva.
If, in the same faction where the water was given, they also give robes saying, "We give to the faction," those robes belong to that faction; the other faction has no claim.
Nếu nước cúng dường đã được cúng dường cho phe nào, và y phục cũng được cúng dường cho chính phe đó với lời nói “Chúng tôi cúng dường cho phe này”, thì những y phục đó thuộc về phe đó, phe kia không có quyền sở hữu.
Sace pana vassaṃvuṭṭhānaṃ bhikkhūnaṃ uppanne cīvare abhājite saṅgho bhijjati, sabbesaṃ samakaṃ bhājetabbaṃ.
But if, after robes have arisen for the bhikkhus who have completed the rains-residence, but before they are distributed, the Saṅgha becomes divided, it should be divided equally among all.
Tuy nhiên, nếu khi y phục của các Tỳ-khưu đã an cư kiết hạ đã được nhận nhưng chưa phân chia mà Tăng-già bị chia rẽ, thì nên phân chia đồng đều cho tất cả.
Sace sambahulesu bhikkhūsu addhānamaggappaṭipannesu keci bhikkhū paṃsukūlatthāya susānaṃ okkamanti, keci anāgamentā pakkamanti, anāgamentānaṃ na akāmā bhāgo dātabbo, āgamentānaṃ pana akāmāpi dātabbo bhāgo.
If, among many bhikkhus traveling on a long journey, some bhikkhus go down to a charnel ground for the sake of rag-robes, while others depart without waiting, a share should not be given to those who did not wait against their will; but to those who did wait, a share should be given even against their will.
Nếu trong số nhiều Tỳ-khưu đang đi trên đường dài, một số Tỳ-khưu đi vào nghĩa địa để tìm y phấn tảo, một số khác rời đi mà không chờ đợi, thì không nên cấp phần y phục cho những người không chờ đợi. Nhưng đối với những người chờ đợi, dù không muốn, cũng phải cấp phần y phục cho họ.
Yadi pana manussā ‘‘idhāgatā eva gaṇhantū’’ti denti, saññāṇaṃ vā katvā gacchanti ‘‘sampattā gaṇhantū’’ti, sampattānaṃ sabbesampi pāpuṇāti.
But if people give, saying, “Let only those who have come here receive,” or if they go after making a sign, saying, “Let those who have arrived receive,” it is due to all who have arrived.
Tuy nhiên, nếu mọi người cúng dường với lời nói “Chỉ những ai đến đây mới được nhận”, hoặc họ đi và để lại dấu hiệu với lời nói “Những ai đến nơi sẽ nhận được”, thì tất cả những ai đến nơi đều được nhận.
Sace chaḍḍetvā gatā, yena gahitaṃ, so eva sāmī.
If they have gone after abandoning it, the one who took it is the owner.
Nếu họ đã bỏ lại và đi, thì người nào đã nhặt được, người đó là chủ sở hữu.
Sace keci bhikkhū paṭhamaṃ susānaṃ okkamanti, keci pacchā, tattha paṭhamaṃ okkantā paṃsukūlaṃ labhanti, pacchā okkantā na labhanti.
If some bhikkhus go down to the charnel ground first, and others later, those who went down first receive the rag-robes; those who went down later do not receive them.
Nếu một số Tỳ-khưu đi vào nghĩa địa trước, một số khác đi sau, thì những người đi vào trước sẽ nhận được y phấn tảo, những người đi sau sẽ không nhận được.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pacchā okkantānaṃ na akāmā bhāgaṃ dātu’’nti (mahāva. 341) vacanato pacchā okkantānaṃ akāmā bhāgo na dātabbo.
Because of the statement, “Bhikkhus, I allow that a share not be given against their will to those who went down later,” a share should not be given against their will to those who went down later.
Theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép không cấp phần y phục cho những người đi vào sau, dù họ không muốn”, thì không nên cấp phần y phục cho những người đi vào sau, dù họ không muốn.
Sace pana sabbepi samaṃ okkantā, keci labhanti, keci na labhanti.
But if all went down at the same time, some receive, and some do not.
Tuy nhiên, nếu tất cả đều đi vào cùng lúc, một số nhận được, một số không nhận được.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sadisānaṃ okkantānaṃ akāmāpi bhāgaṃ dātu’’nti (mahāva. 341) vacanato samaṃ okkantānaṃ akāmāpi bhāgo dātabbo.
Because of the statement, “Bhikkhus, I allow that a share be given even against their will to those who went down together,” a share should be given even against their will to those who went down at the same time.
Theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cấp phần y phục cho những người đi vào cùng lúc, dù họ không muốn”, thì nên cấp phần y phục cho những người đi vào cùng lúc, dù họ không muốn.
Sace pana ‘‘laddhaṃ paṃsukūlaṃ sabbe bhājetvā gaṇhissāmā’’ti bahimeva katikaṃ katvā susānaṃ okkantā keci labhanti, keci na labhanti, ‘‘anujānāmi, bhikkhave, katikaṃ katvā okkantānaṃ akāmā bhāgaṃ dātu’’nti (mahāva. 341) vacanato katikaṃ katvā okkantānampi akāmā bhāgo dātabbo.
But if, having made an agreement outside, “We will all divide and take the rag-robes we receive,” they go down to the charnel ground, and some receive while others do not, because of the statement, “Bhikkhus, I allow that a share be given against their will to those who went down after making an agreement,” a share should be given against their will also to those who went down after making an agreement.
Tuy nhiên, nếu tất cả đã thỏa thuận bên ngoài nghĩa địa rằng “Chúng ta sẽ chia nhau y phấn tảo đã nhận được”, và sau đó đi vào nghĩa địa, một số nhận được, một số không nhận được, thì theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cấp phần y phục cho những người đã thỏa thuận và đi vào, dù họ không muốn”, thì cũng nên cấp phần y phục cho những người đã thỏa thuận và đi vào, dù họ không muốn.
Ayaṃ tāva cīvarabhājanīyakathā.
This, for now, is the discussion on the distribution of robes.
Đây là câu chuyện về việc phân chia y phục.
Uddesabhattādīsu pana ayaṃ nayo – raññā vā rājamahāmattena vā ‘‘saṅghato uddisitvā ettake bhikkhū ānethā’’ti pahite kālaṃ ghosetvā ṭhitikā pucchitabbā.
In the case of designated meals and so forth, however, this is the method: when sent by a king or a royal minister with the instruction, “Having designated from the Saṅgha, bring this many bhikkhus,” after announcing the time, the established turn should be asked for.
Tuy nhiên, đối với uddesabhatta và các loại khác, quy tắc như sau: Khi vua hoặc đại thần của vua sai người đi mời “Hãy chỉ định và mời chừng đó Tỳ-khưu từ Tăng-già đến”, thì nên thông báo thời gian và hỏi về thứ tự luân phiên.
Sace atthi, tato paṭṭhāya gāhetabbaṃ.
If there is one, it should be taken starting from there.
Nếu có, thì nên bắt đầu nhận từ đó.
No ce, therāsanato paṭṭhāya gāhetabbaṃ.
If not, it should be taken starting from the elder’s seat.
Nếu không có, thì nên bắt đầu nhận từ chỗ ngồi của vị Trưởng lão.
Uddesakena piṇḍapātikānampi na atikkāmetabbaṃ.
The one designating should not pass over even the alms-food-gatherers.
Người chỉ định không nên bỏ qua các Tỳ-khưu hành khất thực.
Te pana dhutaṅgaṃ rakkhantā sayameva atikkamissanti.
But they, guarding their ascetic practices, will pass over of their own accord.
Tuy nhiên, những vị ấy, vì giữ gìn hạnh đầu đà, sẽ tự mình bỏ qua.
Evaṃ gāhiyamāne alasajātikā mahātherā pacchā āgacchanti, ‘‘bhante, vīsativassānaṃ gāhīyati, tumhākaṃ ṭhitikā atikkantā’’ti na vattabbā, ṭhitikaṃ ṭhapetvā tesaṃ gāhetvā pacchā ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
When it is being taken in this way, if senior elders of a lazy nature arrive later, they should not be told, “Venerable sirs, it is being taken for those of twenty vassas; your turn has passed.” Setting aside the turn, and having had them take it, it should afterwards be taken according to the turn.
Khi nhận như vậy, nếu các Đại Trưởng lão lười biếng đến sau, không nên nói “Bạch Đại đức, các Tỳ-khưu hai mươi hạ đang nhận, thứ tự của Đại đức đã qua rồi”. Nên bỏ qua thứ tự luân phiên, cho các vị đó nhận trước, sau đó mới tiếp tục theo thứ tự luân phiên.
‘‘Asukavihāre bahu uddesabhattaṃ uppanna’’nti sutvā yojanantarikavihāratopi bhikkhū āgacchanti, sampattasampattānaṃ ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya gāhetabbaṃ, asampattānampi upacārasīmaṃ paviṭṭhānaṃ antevāsikādīsu gaṇhantesu gāhetabbameva.
Having heard, “Much designated food has arisen at such-and-such a monastery,” if bhikkhus come even from a monastery a yojana away, it should be taken starting from the place where each has arrived. For those who have not yet arrived but have entered the immediate vicinity (upacārasīmā), when their disciples and others are receiving, it should be received for them as well.
Khi nghe nói “Có nhiều uddesabhatta đã phát sinh ở tu viện kia”, các Tỳ-khưu từ tu viện cách một yojana cũng đến. Nên cấp cho những ai đã đến, bắt đầu từ chỗ họ đang đứng. Ngay cả những người chưa đến nhưng đã vào khu vực giới hạn (upacārasīmā), khi các đệ tử và những người khác của họ nhận, thì cũng nên cấp cho họ.
‘‘Bahiupacārasīmāyaṃ ṭhitānaṃ gāhethā’’ti vadanti, na gāhetabbaṃ.
If they say, “Receive it for those who are standing outside the immediate vicinity,” it should not be received.
Nếu họ nói “Hãy cấp cho những người đang ở bên ngoài khu vực giới hạn”, thì không nên cấp.
Sace upacārasīmaṃ okkantehi ekābaddhā hutvā attano vihāradvāre vā antovihāreyeva vā honti, parisavasena vaḍḍhitā nāma sīmā hoti, tasmā gāhetabbaṃ.
If they are connected as one (group) with those who have entered the monastic precincts, either at the door of their own monastery or within the monastery itself, the sīmā is said to be extended by way of the assembly; therefore, it should be received.
Nếu các vị Tỳ-khưu đã vào trong ranh giới upacāra-sīmā và trở thành một nhóm gắn bó, dù ở cổng tu viện hay ngay trong tu viện, thì ranh giới được gọi là đã mở rộng theo sự hiện diện của hội chúng, do đó được phép nhận.
Saṅghanavakassa dinnepi pacchā āgatānaṃ gāhetabbameva.
Even if given to a junior bhikkhu of the Saṅgha, it should still be received for those who came later (senior bhikkhus).
Ngay cả khi đã dâng cho một Tỳ-khưu trẻ, thì những vị đến sau cũng phải được nhận.
Dutiyabhāge pana therāsanaṃ āruḷhe puna āgatānaṃ paṭhamabhāgo na pāpuṇāti, dutiyabhāgato vassaggena gāhetabbaṃ.
But in the second portion, after the elder's seat has been taken, the first portion is not obtained by those who come again; it should be received from the second portion by seniority of years.
Nhưng trong phần thứ hai, khi vị trưởng lão đã an tọa, những vị đến sau không được nhận phần đầu tiên, mà phải nhận từ phần thứ hai theo thâm niên hạ lạp.
Ekasmiṃ vihāre ekaṃ bhattuddesaṭṭhānaṃ paricchinditvā gāvutappamāṇāyapi upacārasīmāya yattha katthaci ārocitaṃ uddesabhattaṃ tasmiṃyeva bhattuddesaṭṭhāne gāhetabbaṃ.
In a single monastery, having designated one place for announcing alms-food, any announced alms-food within a monastic precinct, even one measuring a gāvuta, should be received at that same alms-food announcement place.
Trong một tu viện, sau khi đã chỉ định một nơi để chia vật thực, thì dù trong ranh giới upacāra-sīmā rộng bằng một gāvuta (khoảng 3.6 km), vật thực được thông báo ở bất cứ đâu cũng phải được nhận tại chính nơi chia vật thực đó.
Eko ekassa bhikkhuno pahiṇati ‘‘sve saṅghato uddisitvā dasa bhikkhū pahiṇathā’’ti, tena so attho bhattuddesakassa ārocetabbo.
If one person sends word to one bhikkhu, saying, "Tomorrow, assign ten bhikkhus from the Saṅgha and send them," that matter should be conveyed to the alms-food announcer.
Một người sai một tỳ-khưu rằng: “Ngày mai, hãy chỉ định mười tỳ-khưu từ Tăng-già và sai đi.” Tỳ-khưu đó phải báo việc ấy cho người phân phát vật thực.
Sace taṃ divasaṃ pamussati, dutiyadivase pātova ārocetabbo, atha pamussitvāva piṇḍāya pavisanto sarati, yāva upacārasīmaṃ nātikkamati, tāva yā bhojanasālāya pakatiṭhitikā, tassāyeva vasena gāhetabbaṃ.
If he forgets it that day, he should announce it early the next day; but if he remembers while entering for alms-round after having forgotten, as long as he has not passed beyond the monastic precinct, it should be received according to the established custom of the refectory.
Nếu vào ngày đó vị ấy quên, thì vào sáng ngày thứ hai phải báo. Nếu đã quên mà nhớ ra khi đang vào khất thực, thì chừng nào chưa vượt quá ranh giới khu vực (upacārasīmā), chừng đó phải nhận theo thứ tự thông thường của phòng ăn.
Sacepi upacārasīmaṃ atikkanto, bhikkhū ca upacārasīmaṭṭhakehi ekābaddhā honti, aññamaññaṃ dvādasahatthantaraṃ avijahitvā gacchanti, pakatiṭhitikāya vasena gāhetabbaṃ.
Even if he has passed beyond the monastic precinct, and the bhikkhus are connected as one (group) with those within the precinct, walking without leaving more than twelve cubits between each other, it should be received according to the established custom.
Dù đã vượt quá ranh giới khu vực, nhưng nếu các tỳ-khưu liên kết với những vị ở ranh giới khu vực theo cách đã nói, đi mà không cách nhau mười hai khuỷu tay, thì phải nhận theo thứ tự thông thường.
Bhikkhūnaṃ pana tādise ekābaddhe asati bahiupacārasīmāya yasmiṃ ṭhāne sarati, tattha navaṃ ṭhitikaṃ katvā gāhetabbaṃ.
However, if the bhikkhus are not connected as one (group) in such a way, and he remembers outside the monastic precinct, a new custom should be established there, and it should be received.
Tuy nhiên, nếu các tỳ-khưu không liên kết theo cách đó, thì ở nơi nào vị ấy nhớ ra ngoài ranh giới khu vực, ở đó phải thiết lập một thứ tự mới mà nhận.
Antogāme āsanasālāya sarantena āsanasālāya ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
If one remembers in the assembly hall within the village, it should be received according to the custom of the assembly hall.
Nếu nhớ ra trong phòng ngồi ở nội thôn, thì phải nhận theo thứ tự của phòng ngồi.
Yattha katthaci saritvā gāhetabbameva, agāhetuṃ na vaṭṭati.
It must be received wherever one remembers; it is not proper not to receive it.
Dù nhớ ra ở bất cứ đâu, cũng phải nhận, không được phép không nhận.
Na hi etaṃ dutiyadivase labbhatīti.
For it is not obtained the next day.
Vì điều này không được phép vào ngày thứ hai.
Sace sakavihārato aññaṃ vihāraṃ gacchante bhikkhū disvā koci uddesabhattaṃ uddisāpeti, yāva antoupacāre vā upacārasīmaṭṭhakehi saddhiṃ vuttanayena ekābaddhā vā honti, tāva sakavihāre ṭhitikāvasena gāhetabbaṃ.
If, seeing bhikkhus going from their own monastery to another, someone announces alms-food for them, as long as they are within the precinct or are connected as one (group) with those within the precinct in the manner described, it should be received according to the custom of their own monastery.
Nếu một người thấy các tỳ-khưu đang đi từ tu viện của mình đến một tu viện khác và yêu cầu chỉ định vật thực, thì chừng nào họ còn ở trong khu vực nội vi (antoupacāra) hoặc còn liên kết với những vị ở ranh giới khu vực theo cách đã nói, chừng đó phải nhận theo thứ tự của tu viện mình.
Bahiupacāre ṭhitānaṃ dinnaṃ pana ‘‘saṅghato, bhante, ettake nāma bhikkhū uddisathā’’ti vutte sampattasampattānaṃ gāhetabbaṃ.
However, if it is given to those standing outside the precinct, and it is said, "Bhante, assign these many bhikkhus from the Saṅgha," it should be received for those who are present and arrived.
Tuy nhiên, nếu vật thực được cúng dường cho những vị đang ở ngoài khu vực nội vi, và có người nói: “Bạch chư Tôn đức, xin hãy chỉ định bấy nhiêu vị tỳ-khưu từ Tăng-già,” thì phải nhận cho những vị đã đến.
Tattha dvādasahatthantaraṃ avijahitvā ekābaddhanayena dūre ṭhitāpi sampattāyevāti veditabbā.
In that case, it should be understood that those standing far away are also considered present if they are connected as one (group) without leaving more than twelve cubits between each other.
Ở đó, những vị đứng xa mà không cách nhau mười hai khuỷu tay theo cách liên kết cũng được xem là đã đến.
Sace yaṃ vihāraṃ gacchanti, tattha paviṭṭhānaṃ ārocenti, tassa vihārassa ṭhitikāvasena gāhetabbaṃ.
If they arrive at the monastery they are going to and the matter is announced to those who have entered it, it should be received according to the custom of that monastery.
Nếu họ báo cho những vị đã vào tu viện mà họ đang đến, thì phải nhận theo thứ tự của tu viện đó.
Sacepi gāmadvāre vā vīthiyaṃ vā catukke vā antaraghare vā bhikkhū disvā koci saṅghuddesaṃ āroceti, tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne antoupacāragatānaṃ gāhetabbaṃ.
Even if someone sees bhikkhus at the village gate, or on the street, or at a crossroads, or inside a house, and announces a Saṅgha-assignment, it should be received for those who have gone within the precinct at that particular place.
Dù có người thấy các tỳ-khưu ở cổng làng, trên đường, ở ngã tư, hoặc trong nhà và báo về việc chỉ định vật thực cho Tăng-già, thì phải nhận cho những vị đã vào khu vực nội vi ở nơi đó.
Gharūpacāro cettha ekagharaṃ ekūpacāraṃ, ekagharaṃ nānūpacāraṃ, nānāgharaṃ ekūpacāraṃ, nānāgharaṃ nānūpacāranti imesaṃ vasena veditabbo.
Here, the household precinct should be understood in terms of a single house with a single precinct, a single house with multiple precincts, multiple houses with a single precinct, and multiple houses with multiple precincts.
Ở đây, khu vực nội vi của nhà (gharūpacāra) phải được hiểu theo các trường hợp: một nhà một khu vực nội vi, một nhà nhiều khu vực nội vi, nhiều nhà một khu vực nội vi, và nhiều nhà nhiều khu vực nội vi.
Tattha yaṃ ekakulassa gharaṃ ekavaḷañjaṃ hoti, taṃ suppapātaparicchedassa anto ekūpacāraṃ nāma, tatthuppanno uddesalābho ekasmiṃ upacāre bhikkhācāravattenapi ṭhitānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti.
Among these, a house belonging to one family that has a single entrance is called a single precinct within the boundary of a fallen tray; an assigned offering that arises there is obtained by all bhikkhus standing in that one precinct, even by those observing the bhikkhu's alms-round practice.
Trong đó, một ngôi nhà của một gia đình có một lối ra vào, nằm trong phạm vi một cái mâm rơi xuống, thì được gọi là một khu vực nội vi. Vật thực chỉ định phát sinh ở đó sẽ đến với tất cả các tỳ-khưu đang ở trong một khu vực nội vi, dù chỉ theo quy định khất thực.
Etaṃ ekagharaṃ ekūpacāraṃ nāma.
This is called a single house with a single precinct.
Đây gọi là một nhà một khu vực nội vi.
Yaṃ pana ekagharaṃ dvinnaṃ bhariyānaṃ sukhavihāratthāya majjhe bhittiṃ uṭṭhapetvā nānādvāravaḷañjaṃ kataṃ, tatthuppanno uddesalābho bhittiantarikassa na pāpuṇāti, tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne nisinnasseva pāpuṇāti.
However, if a single house has been constructed with a wall in the middle for the comfortable living of two wives, having multiple entrances, an assigned offering that arises there is not obtained by one separated by the wall; it is obtained only by the one sitting in that particular place.
Tuy nhiên, một ngôi nhà được xây tường ở giữa để hai người vợ ở thoải mái, có nhiều lối ra vào khác nhau, thì vật thực chỉ định phát sinh ở đó sẽ không đến với người ở bên kia bức tường, mà chỉ đến với người đang ngồi ở vị trí của mình.
Etaṃ ekagharaṃ nānūpacāraṃ nāma.
This is called a single house with multiple precincts.
Đây gọi là một nhà nhiều khu vực nội vi.
Yasmiṃ pana ghare bahū bhikkhū nimantetvā antogehato paṭṭhāya ekābaddhe katvā paṭivissakagharānipi pūretvā nisīdāpenti, tattha uppanno uddesalābho sabbesaṃ pāpuṇāti.
But in a house where many bhikkhus are invited and seated, arranged in an unbroken line starting from inside the house and filling even the neighboring houses, an assigned offering that arises there is obtained by all.
Tuy nhiên, trong một ngôi nhà mà nhiều tỳ-khưu được mời, và họ được sắp xếp liên kết từ bên trong nhà cho đến các nhà lân cận, thì vật thực chỉ định phát sinh ở đó sẽ đến với tất cả.
Yampi nānākulassa nivesanaṃ majjhe bhittiṃ akatvā ekadvāreneva vaḷañjanti, tatrāpi eseva nayo.
Even when residences belonging to different families are used with a single entrance without building a dividing wall in the middle, the same principle applies.
Tương tự, một khu cư trú của nhiều gia đình mà không có tường ngăn ở giữa, chỉ có một lối ra vào, thì cũng theo cách này.
Etaṃ nānāgharaṃ ekūpacāraṃ nāma.
This is called multiple houses with a single precinct.
Đây gọi là nhiều nhà một khu vực nội vi.
Yo pana nānānivesanesu nisinnānaṃ bhikkhūnaṃ uddesalābho uppajjati, kiñcāpi bhitticchiddena bhikkhū dissanti, tasmiṃ tasmiṃ nivesane nisinnānaṃyeva pāpuṇāti.
However, for an assigned offering that arises for bhikkhus sitting in separate residences, even if the bhikkhus are seen through a hole in the wall, it is obtained only by those sitting in their respective residences.
Tuy nhiên, vật thực chỉ định phát sinh cho các tỳ-khưu đang ngồi ở nhiều khu cư trú khác nhau, dù có thể thấy các tỳ-khưu qua khe hở của bức tường, thì vật thực đó chỉ đến với những vị đang ngồi trong khu cư trú của mình.
Etaṃ nānāgharaṃ nānūpacāraṃ nāma.
This is called multiple houses with multiple precincts.
Đây gọi là nhiều nhà nhiều khu vực nội vi.
Yo pana gāmadvāravīthicatukkesu aññatarasmiṃ ṭhāne uddesabhattaṃ labhitvā aññasmiṃ bhikkhusmiṃ asati attanova pāpuṇāpetvā dutiyadivasepi tasmiṃyeva ṭhāne aññaṃ labhati, tena yaṃ aññaṃ navakaṃ vā vuḍḍhaṃ vā bhikkhuṃ passati, tassa gāhetabbaṃ.
If a bhikkhu receives alms-food in any of the places like the village gate, street, or crossroads, and if there is no other bhikkhu, he receives it for himself; if he receives another (alms-food) at the same place the next day, he should give it to any junior or senior bhikkhu he sees.
Nếu một tỳ-khưu nhận được vật thực chỉ định ở cổng làng, trên đường, ở ngã tư, hoặc ở một nơi nào đó, và không có tỳ-khưu nào khác, vị ấy sẽ nhận cho mình. Nếu vào ngày thứ hai, vị ấy lại nhận được một vật thực khác ở cùng nơi đó, thì vị ấy phải nhận cho bất kỳ tỳ-khưu nào mà vị ấy thấy, dù là vị trẻ hay vị lớn tuổi.
Sace koci natthi, attanova pāpetvā bhuñjitabbaṃ.
If there is no one, he should obtain it for himself and eat it.
Nếu không có ai, vị ấy có thể nhận cho mình và thọ dụng.
Sace āsanasālāya nisīditvā kālaṃ paṭimānentesu bhikkhūsu koci āgantvā ‘‘saṅghuddesapattaṃ detha, uddesapattaṃ detha, saṅghato uddisitvā pattaṃ detha, saṅghikaṃ pattaṃ dethā’’ti vā vadati, uddesapattaṃ ṭhitikāya gāhetvā dātabbaṃ.
If, while bhikkhus are sitting in the assembly hall waiting for the mealtime, someone comes and says, "Give a Saṅgha-assigned bowl, give an assigned bowl, give a bowl assigned by the Saṅgha, give a Saṅgha's bowl," then the assigned bowl should be taken according to the roster and given.
Nếu khi các tỳ-khưu đang ngồi trong phòng ngồi chờ đợi thời gian, có người đến và nói: “Xin hãy cho bát vật thực chỉ định cho Tăng-già, xin hãy cho bát vật thực chỉ định, xin hãy chỉ định từ Tăng-già mà cho bát, xin hãy cho bát của Tăng-già,” thì phải nhận bát vật thực chỉ định theo thứ tự và trao cho.
‘‘Saṅghuddesabhikkhuṃ detha, saṅghato uddisitvā bhikkhuṃ detha, saṅghikaṃ bhikkhuṃ dethā’’ti vuttepi eseva nayo.
The same applies when it is said, "Give a Saṅgha-assigned bhikkhu, give a bhikkhu assigned by the Saṅgha, give a Saṅgha's bhikkhu."
Khi có người nói: “Xin hãy cho tỳ-khưu chỉ định cho Tăng-già, xin hãy chỉ định từ Tăng-già mà cho tỳ-khưu, xin hãy cho tỳ-khưu của Tăng-già,” thì cũng theo cách này.
Uddesako panettha pesalo lajjī medhāvī icchitabbo, tena tikkhattuṃ ṭhitikaṃ pucchitvā sace koci ṭhitikaṃ jānanto natthi, therāsanato gāhetabbaṃ.
Here, the announcer should be a virtuous, conscientious, and intelligent person; he should ask three times for the roster, and if no one knows the roster, it should be received starting from the elder's seat.
Ở đây, người chỉ định phải là người hiền lành, biết hổ thẹn, có trí tuệ. Vị ấy phải hỏi ba lần về thứ tự; nếu không có ai biết thứ tự, thì phải nhận từ vị trưởng lão nhất.
Sace pana ‘‘ahaṃ jānāmi, dasavassena laddha’’nti koci bhaṇati, ‘‘atthāvuso, dasavassā bhikkhū’’ti pucchitabbaṃ.
But if someone says, "I know, it is obtained by one with ten vassas (years)," he should be asked, "Are there, venerable sir, bhikkhus with ten vassas?"
Nếu có vị nào đó nói: “Tôi biết, tôi đã nhận được khi có mười hạ lạp,” thì phải hỏi: “Thưa Tôn giả, có các tỳ-khưu mười hạ lạp không?”
Sace tassa sutvāva ‘‘dasavassamha dasavassamhā’’ti bahū āgacchanti, ‘‘tuyhaṃ pāpuṇāti, tuyhaṃ pāpuṇātī’’ti agatvā ‘‘sabbe appasaddā hothā’’ti vatvā paṭipāṭiyā ṭhapetabbā, ṭhapetvā ‘‘kati bhikkhū icchathā’’ti upāsako pucchitabbo, ‘‘ettake nāma, bhante’’ti vutte ‘‘tuyhaṃ pāpuṇāti, tuyhaṃ pāpuṇātī’’ti avatvā sabbanavakassa vassaggañca utu ca divasabhāgo ca chāyā ca pucchitabbā.
If, hearing him, many come saying, "We have ten vassas, we have ten vassas," one should not say, "It is for you, it is for you," but rather say, "All of you, be silent," and arrange them in order, then ask the lay devotee, "How many bhikkhus do you desire?" When he says, "These many, Bhante," one should not say, "It is for you, it is for you," but instead ask the junior-most for his vassas, season, time of day, and shadow (of ordination).
Nếu nghe lời đó, nhiều tỳ-khưu đến và nói: “Chúng tôi mười hạ lạp, chúng tôi mười hạ lạp,” thì không nên nói: “Vị này được, vị kia được,” mà phải nói: “Tất cả hãy giữ im lặng,” rồi sắp xếp theo thứ tự. Sau khi sắp xếp, phải hỏi người cư sĩ: “Các vị muốn bao nhiêu tỳ-khưu?” Khi người cư sĩ nói: “Bạch chư Tôn đức, chúng tôi muốn bấy nhiêu vị,” thì không nên nói: “Vị này được, vị kia được,” mà phải hỏi vị trẻ nhất về số hạ lạp, mùa, phần ngày, và bóng.
Sace chāyāyapi pucchiyamānāya añño vuḍḍhataro āgacchati, tassa dātabbaṃ.
If, while asking about the shadow, another more senior bhikkhu arrives, it should be given to him.
Nếu khi đang hỏi về bóng, có vị lớn tuổi hơn đến, thì phải trao cho vị ấy.
Atha chāyaṃ pucchitvā ‘‘tuyhaṃ pāpuṇātī’’ti vutte vuḍḍhataro āgacchati, na labhati.
But if, after asking about the shadow and saying, "It is for you," a more senior bhikkhu arrives, he does not obtain it.
Nếu đã hỏi về bóng và nói: “Vị này được,” rồi sau đó có vị lớn tuổi hơn đến, thì vị ấy sẽ không được nhận.
Kathāpapañcena hi nisinnassapi niddāyantassapi gāhitaṃ suggāhitaṃ, atikkantaṃ suatikkantaṃ.
For, what is received, even by one sitting or sleeping, through the elaboration of talk, is well-received; what is passed over is well-passed over.
Vì vật thực đã nhận khi đang ngồi hay đang ngủ do sự kéo dài cuộc nói chuyện đều được xem là đã nhận đúng cách, và vật thực đã bỏ qua cũng được xem là đã bỏ qua đúng cách.
Bhājanīyabhaṇḍañhi nāmetaṃ sampattasseva pāpuṇāti, tattha sampattabhāvo upacārena paricchinditabbo.
Indeed, this shareable item is obtained only by the one who is present; presence there should be defined by the monastic precinct.
Vì vật phẩm cần chia này chỉ thuộc về người hiện diện; ở đó, sự hiện diện phải được xác định bằng khu vực nội vi.
Āsanasālāya ca antoparikkhepo upacāro, tasmiṃ ṭhitassa lābho pāpuṇāti.
And the internal enclosure of the assembly hall is the precinct; an offering obtained by one standing therein is obtained.
Khu vực nội vi của phòng ngồi là phạm vi bên trong; vật thực sẽ đến với vị đang ở trong đó.
Koci āsanasālato aṭṭha uddesapatte āharāpetvā satta patte paṇītabhojanānaṃ, ekaṃ udakassa pūretvā āsanasālaṃ pahiṇati, gahetvā āgatā kiñci avatvā bhikkhūnaṃ hatthesu patiṭṭhapetvā pakkamanti, yena yaṃ laddhaṃ, tasseva taṃ hoti.
If someone brings eight assigned bowls from the assembly hall, fills seven bowls with choice food and one with water, and sends them to the assembly hall, those who bring them, without saying anything, place them in the hands of the bhikkhus and depart; whatever is received by whomever, that belongs to him.
Một người mang tám bát vật thực chỉ định từ phòng ngồi, bảy bát đựng thức ăn ngon, một bát đựng nước, rồi gửi đến phòng ngồi. Những người mang đến không nói gì, chỉ đặt bát vào tay các tỳ-khưu rồi bỏ đi. Vật thực mà ai nhận được thì thuộc về người đó.
Yena pana udakaṃ laddhaṃ, tassa atikkantampi ṭhitikaṃ ṭhapetvā aññaṃ uddesabhattaṃ gāhetabbaṃ, tañca lūkhaṃ vā labhatu paṇītaṃ vā ticīvaraparivāraṃ vā, tasseva taṃ hoti.
However, for the one who has received water, another designated meal (uddesabhatta) should be accepted, even setting aside his past turn (ṭhitika). And whether that designated meal is coarse or refined, or accompanied by the three robes (ticīvara), it belongs to him alone.
Vị Tỳ-khưu nào đã nhận được nước, thì dù đã qua lượt (ṭhitika) của mình, vị ấy cũng phải nhận một phần cơm cúng dường (uddesabhatta) khác. Và phần cơm cúng dường ấy, dù thô sơ hay tinh tế, hay có đủ ba y (ticīvara) đi nữa, thì đều thuộc về vị ấy.
Īdiso hissa puññaviseso, udakaṃ pana yasmā āmisaṃ na hoti, tasmā aññaṃ uddesabhattaṃ labhati.
Such indeed is his special merit. But since water is not material food (āmisa), he receives another designated meal.
Đây chính là công đức đặc biệt của vị ấy. Nhưng vì nước không phải là vật thực (āmisa), nên vị ấy được nhận một phần cơm cúng dường (uddesabhatta) khác.
Sace pana te gahetvā āgatā ‘‘idaṃ kira, bhante, sabbaṃ bhājetvā bhuñjathā’’ti vatvā gacchanti, sabbehi bhājetvā bhuñjitvā udakaṃ pātabbaṃ.
But if those who have brought the bowls say, "Sirs, please divide and partake of all of this," and then leave, all should divide and partake, and the water should be drunk.
Nếu những người mang đến nói rằng: “Bạch chư Tôn giả, xin chư Tôn giả hãy chia tất cả những thứ này ra mà thọ dụng,” rồi họ ra về, thì tất cả chư Tỳ-khưu phải chia ra, thọ dụng và uống nước.
‘‘Saṅghato uddisitvā aṭṭha mahāthere detha, majjhime detha, navake detha, paripuṇṇavasse sāmaṇere detha, majjhimabhāṇakādayo detha, mayhaṃ ñātibhikkhū dethā’’ti vadantassa pana ‘‘upāsaka, tvaṃ evaṃ vadasi, ṭhitikāya pana tesaṃ na pāpuṇātī’’ti vatvā ṭhitikāvaseneva dātabbā.
To one who says, "Designate from the Saṅgha and give to the eight senior bhikkhus, give to the middle ones, give to the new ones, give to the sāmaṇeras of full age, give to those who know the Majjhima Nikāya and others, give to my bhikkhu relatives," it should be said, "Lay follower, you say this, but according to the seniority (ṭhitika), it does not apply to them," and it should be given according to seniority.
Còn đối với người nói: “Hãy chỉ định từ Tăng mà cấp cho tám vị Đại Trưởng lão, cấp cho các vị Tỳ-khưu trung niên, cấp cho các vị Tỳ-khưu mới, cấp cho các Sa-di đã đủ tuổi hạ (paripuṇṇavassa), cấp cho các vị tụng đọc kinh Trung Bộ (Majjhimabhāṇaka) và các vị khác, cấp cho các Tỳ-khưu là thân quyến của tôi,” thì phải nói: “Này cận sự nam, ông nói như vậy, nhưng theo lượt (ṭhitika) thì những vị ấy không được nhận,” rồi phải cấp theo đúng lượt (ṭhitika).
Daharasāmaṇerehi pana uddesabhattesu laddhesu sace dāyakānaṃ ghare maṅgalaṃ hoti, ‘‘tumhākaṃ ācariyupajjhāye pesethā’’ti vattabbaṃ.
If, however, when young sāmaṇeras receive designated meals (uddesabhatta), there is an auspicious occasion at the donors' house, it should be said, "Send your teachers and preceptors."
Còn khi các Sa-di trẻ nhận được các phần cơm cúng dường (uddesabhatta), nếu có lễ hội tại nhà của các thí chủ, thì phải nói: “Hãy sai các vị Ācariya và Upajjhāya của các con đến.”
Yasmiṃ pana uddesabhatte paṭhamabhāgo sāmaṇerānaṃ pāpuṇāti, anubhāgo mahātherānaṃ, na tattha sāmaṇerā ‘‘mayaṃ paṭhamabhāgaṃ labhimhā’’ti purato gantuṃ labhanti, yathāpaṭipāṭiyā eva gantabbaṃ.
But in the case of a designated meal where the first portion falls to the sāmaṇeras and the subsequent portion to the senior bhikkhus, the sāmaṇeras are not allowed to go ahead saying, "We have received the first portion"; they must go in due order.
Trong phần cơm cúng dường (uddesabhatta) mà phần đầu thuộc về các Sa-di, phần sau thuộc về các Đại Trưởng lão, thì các Sa-di không được đi trước với ý nghĩ: “Chúng tôi đã nhận được phần đầu.” Phải đi theo đúng thứ tự.
‘‘Saṅghato uddisitvā tumhe ethā’’ti vutte ‘‘mayhaṃ aññadāpi jānissasi, ṭhitikā pana evaṃ gacchatī’’ti ṭhitikāvaseneva gāhetabbaṃ.
When it is said, "Designate from the Saṅgha and come," if one responds, "You will know me another time; this is how the seniority (ṭhitika) proceeds," it should be taken according to seniority.
Khi được nói: “Hãy chỉ định từ Tăng và các vị hãy đến,” thì phải nhận theo đúng lượt (ṭhitika) với lời nói: “Ngài sẽ biết tôi vào dịp khác, nhưng lượt (ṭhitika) thì diễn ra như thế này.”
Atha ‘‘saṅghuddesapattaṃ dethā’’ti vatvā aggāhiteyeva patte yassa kassaci pattaṃ gahetvā pūretvā āharati, āhaṭampi ṭhitikāya eva gāhetabbaṃ.
Then, if one says, "Give a Saṅgha-designated bowl," and brings a bowl filled with food from anyone, even before the bowls are assigned, that food, when brought, should also be taken according to seniority.
Nếu có người nói: “Hãy mang bát cúng dường của Tăng (saṅghuddesapatta) đến,” và trước khi bát được đặt xuống, người ấy lấy bát của bất kỳ ai, đổ đầy rồi mang đến, thì phần vật thực được mang đến cũng phải được nhận theo đúng lượt (ṭhitika).
Eko ‘‘saṅghuddesapattaṃ āharā’’ti pesito ‘‘bhante, ekaṃ pattaṃ detha, nimantanabhattaṃ āharissāmī’’ti vadati, so ce ‘‘uddesabhattagharato ayaṃ āgato’’ti ñatvā bhikkhūhi ‘‘nanu tvaṃ asukagharato āgato’’ti vutto ‘‘āma, bhante, na nimantanabhattaṃ, uddesabhatta’’nti bhaṇati, ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
A person sent to "bring a Saṅgha-designated bowl" says, "Venerable Sirs, give me a bowl, I will bring a specially invited meal." If the bhikkhus, knowing that he came from a house designated for uddesabhatta, ask him, "Did you not come from such-and-such a house?" and he replies, "Yes, Venerable Sirs, it is not a specially invited meal, but a designated meal," then it should be accepted according to seniority.
Một người được sai đi: “Hãy mang bát cúng dường của Tăng đến,” nói: “Bạch chư Tôn giả, xin hãy cho một cái bát, con sẽ mang cơm cúng dường (nimantanabhatta) đến.” Nếu các Tỳ-khưu biết người ấy đến từ nhà cúng dường (uddesabhatta) và hỏi: “Chẳng phải ông đến từ nhà kia sao?”, người ấy đáp: “Vâng, bạch chư Tôn giả, không phải cơm cúng dường (nimantanabhatta), mà là cơm cúng dường (uddesabhatta),” thì phải nhận theo lượt (ṭhitika).
Yo pana ‘‘ekaṃ pattaṃ āharā’’ti vutte ‘‘kinti vatvā āharāmī’’ti vatvā ‘‘yathā te ruccatī’’ti vutto āgacchati, ayaṃ vissaṭṭhadūto nāma.
But if, when told "bring a bowl," he asks "What should I say when I bring it?" and is told "whatever you like," and then he comes, he is called a "free messenger."
Còn người nào khi được nói: “Hãy mang một cái bát đến,” mà hỏi: “Con phải nói gì để mang đến?” và được đáp: “Tùy ý ông,” rồi người ấy đi, thì người này được gọi là sứ giả được ủy quyền (vissaṭṭhadūta).
Uddesapattaṃ vā paṭipāṭipattaṃ vā puggalikapattaṃ vā yaṃ icchati, taṃ etassa dātabbaṃ.
Whether a designated bowl (uddesapatta), a bowl for those in order of seniority (paṭipāṭipatta), or a personal bowl (puggalikapatta)—whatever he wishes—should be given to him.
Bát cúng dường của Tăng (uddesapatta), bát theo thứ tự (paṭipāṭipatta), hay bát cá nhân (puggalikapatta) mà người ấy muốn, thì phải cấp cho người ấy.
Eko bālo abyatto ‘‘uddesapattaṃ āharā’’ti pesito vattuṃ na jānāti, tuṇhībhūto tiṭṭhati, so ‘‘kassa santikaṃ āgatosī’’ti vā ‘‘kassa pattaṃ harissasī’’ti vā na vattabbo.
If a foolish, unintelligent person sent to "bring a designated bowl" does not know what to say and stands silently, he should not be asked, "To whom have you come?" or "Whose bowl will you carry?"
Một người ngu dốt, không khéo léo, được sai đi: “Hãy mang bát cúng dường của Tăng đến,” mà không biết nói gì, chỉ đứng im lặng, thì không nên hỏi người ấy: “Ông đến với ai?” hay “Ông sẽ mang bát của ai?”
Evañhi vutto pucchāsabhāgena ‘‘tumhākaṃ santikaṃ āgatomhī’’ti vā ‘‘tumhākaṃ pattaṃ harissāmī’’ti vā vadeyya.
For if asked thus, he might answer, similar to a direct question, "I have come to you," or "I will carry your bowl."
Vì nếu được hỏi như vậy, người ấy có thể đáp theo kiểu hỏi: “Con đến với các Ngài” hay “Con sẽ mang bát của các Ngài.”
Tato taṃ bhikkhuṃ aññe bhikkhū jigucchantā na olokeyyuṃ, ‘‘kuhiṃ gacchasi, kiṃ karonto āhiṇḍasī’’ti pana vattabbo.
Then other bhikkhus might look at that bhikkhu with disgust. Instead, he should be asked, "Where are you going? What are you doing wandering about?"
Khi đó, các Tỳ-khưu khác sẽ ghê tởm vị Tỳ-khưu ấy và không nhìn đến. Thay vào đó, phải hỏi: “Ông đi đâu? Ông làm gì mà đi lang thang?”
Tassa ‘‘uddesapattatthāya āgatomhī’’ti vadantassa gāhetvā patto dātabbo.
And when he says, "I have come for a designated bowl," a bowl should be given to him after it has been received by a bhikkhu due by seniority.
Khi người ấy nói: “Con đến để lấy bát cúng dường của Tăng,” thì phải nhận và cấp bát cho.
Ekā kūṭaṭṭhitikā nāma hoti.
There is a type of deceitful seniority (kūṭaṭṭhitikā).
Có một loại lượt (ṭhitika) gian lận (kūṭaṭṭhitikā).
Rañño vā rājamahāmattassa vā gehe atipaṇītāni aṭṭha uddesabhattāni niccaṃ dīyanti, tāni ekacārikabhattāni katvā bhikkhū visuṃ ṭhitikāya paribhuñjanti.
Eight very fine uddesabhattas are regularly given at the house of a king or a royal minister. Bhikkhus make these into individual meals (ekacārikabhatta) and partake of them separately according to seniority (ṭhitika).
Tại nhà của vua hoặc quan đại thần, thường có tám phần cơm cúng dường (uddesabhatta) rất tinh tế được dâng cúng. Các Tỳ-khưu biến chúng thành cơm đi khất thực riêng (ekacārikabhatta) và thọ dụng theo lượt (ṭhitika) riêng.
Ekacce bhikkhū ‘‘sve dāni amhākaṃ pāpuṇissantī’’ti attano ṭhitikaṃ sallakkhetvā gatā.
Some bhikkhus, anticipating their turn, think, "Tomorrow will be our turn," and go.
Một số Tỳ-khưu đã đi, nghĩ rằng: “Ngày mai đến lượt của chúng ta.”
Tesu anāgatesuyeva aññe āgantukā bhikkhū āgantvā āsanasālāya nisīdanti.
Before they arrive, other newly arrived bhikkhus come and sit in the assembly hall.
Trong khi họ chưa đến, các Tỳ-khưu khách khác đã đến và ngồi trong phòng khách (āsanasālā).
Taṅkhaṇaññeva rājapurisā āgantvā ‘‘paṇītabhattapatte dethā’’ti vadanti, āgantukā ṭhitikaṃ ajānantā gāhenti, taṅkhaṇaññeva ca ṭhitikaṃ jānanakabhikkhū āgantvā ‘‘kiṃ gāhethā’’ti vadanti.
Right then, royal officials arrive and say, "Give us the bowls for the fine food." The newly arrived bhikkhus, not knowing the seniority, accept them. And right then, bhikkhus who know the seniority arrive and say, "What are you accepting?"
Ngay lúc đó, các quan quân của vua đến và nói: “Hãy cho các bát cơm tinh tế.” Các Tỳ-khưu khách không biết lượt (ṭhitika) nên nhận. Ngay lúc đó, các Tỳ-khưu biết lượt (ṭhitika) đến và nói: “Các Ngài nhận gì vậy?”
Rājagehe paṇītabhattanti.
"It's fine food from the royal palace."
“Cơm tinh tế tại nhà vua.”
Kativassato paṭṭhāyāti.
"From how many vassa-years onwards?"
“Từ bao nhiêu tuổi hạ trở lên?”
Ettakavassato nāmāti.
"From this many vassa-years," they say.
“Từ bấy nhiêu tuổi hạ.”
‘‘Mā gāhethā’’ti nivāretvā ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
It should be stopped by saying, "Do not accept," and then accepted according to seniority.
Phải ngăn cản và nhận theo lượt (ṭhitika).
Gāhite āgatehipi, pattadānakāle āgatehipi, dinnakāle āgatehipi, rājagehato patte pūretvā āhaṭakāle āgatehipi, rājā ‘‘ajja bhikkhūyeva āgacchantū’’ti pesetvā bhikkhūnaṃyeva hatthe piṇḍapātaṃ deti, evaṃ dinnaṃ piṇḍapātaṃ gahetvā āgatakāle āgatehipi ṭhitikaṃ jānanakabhikkhūhi ‘‘mā bhuñjitthā’’ti vāretvā ṭhitikāyameva gāhetabbaṃ.
Even if they arrive when the food is being accepted, or when the bowls are being given, or when it has been given, or when the bowls have been brought filled from the royal palace, or when the king sends for the bhikkhus saying, "Let the bhikkhus themselves come today," and gives almsfood into the hands of the bhikkhus themselves, and the bhikkhus who know the seniority arrive when that almsfood is brought, they should be restrained by saying, "Do not eat," and it should be accepted according to seniority.
Dù họ đến khi đã nhận, dù họ đến vào lúc dâng bát, dù họ đến vào lúc đã dâng cúng, dù họ đến vào lúc các quan quân đã đổ đầy bát từ nhà vua và mang đến, hay dù vua sai: “Hôm nay chư Tỳ-khưu hãy đến,” rồi tự tay dâng vật thực (piṇḍapāta) cho chư Tỳ-khưu, thì khi họ đến vào lúc vật thực đã được nhận và mang về, các Tỳ-khưu biết lượt (ṭhitika) cũng phải ngăn cản và nhận theo đúng lượt (ṭhitika).
Atha ne rājā bhojetvā pattepi nesaṃ pūretvā deti, yaṃ āhaṭaṃ, taṃ ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
Then, if the king feeds them and also fills their bowls, whatever is brought should be accepted according to seniority.
Nếu vua đã cúng dường cho họ và còn đổ đầy bát cho họ mang về, thì phần vật thực được mang về phải được nhận theo lượt (ṭhitika).
Sace pana ‘‘mā tucchahatthā gacchantū’’ti thokameva pattesu pakkhittaṃ hoti, taṃ na gāhetabbaṃ.
If, however, only a small amount has been put into the bowls so that they do not go with empty hands, that should not be accepted.
Nhưng nếu chỉ đổ một ít vào bát với ý nghĩ: “Đừng để họ về tay không,” thì không nên nhận.
‘‘Atha bhuñjitvā tucchapattāva āgacchanti, yaṃ tehi bhuttaṃ, taṃ nesaṃ gīvā hotī’’ti mahāsumatthero āha.
Venerable Mahāsumā said, "If they eat and then come back with empty bowls, what they have eaten becomes a 'burden' for them."
Đại Trưởng lão Mahāsumatthera nói: “Nếu họ đã thọ dụng và về với bát không, thì phần vật thực họ đã thọ dụng là tội lỗi của họ (gīvā).”
Mahāpadumatthero panāha ‘‘gīvākiccaṃ ettha natthi, ṭhitikaṃ pana ajānantehi yāva jānanakā āgacchanti, tāva nisīditabbaṃ siyā, evaṃ santepi bhikkhūhi bhuttaṃ subhuttaṃ, idāni pattaṭṭhānena gāhetabba’’nti.
But Venerable Mahāpadumā said, "There is no 'burden' involved here. However, those who do not know the seniority should sit until those who know it arrive. Even so, the food eaten by the bhikkhus is well-eaten. Now, it should be received based on the turn of the bowl."
Đại Trưởng lão Mahāpadumatthera lại nói: “Ở đây không có vấn đề tội lỗi (gīvā). Tuy nhiên, những Tỳ-khưu không biết lượt (ṭhitika) nên ngồi chờ cho đến khi những vị biết lượt (ṭhitika) đến. Dù vậy, phần vật thực mà các Tỳ-khưu đã thọ dụng là tốt đẹp (subhuttaṃ). Bây giờ, phải nhận theo vị trí của bát.”
Eko ticīvaraparivāro satagghanako piṇḍapāto avassikassa bhikkhuno patto, vihāre ca ‘‘evarūpo piṇḍapāto avassikassa patto’’ti likhitvā ṭhapesuṃ.
An almsfood, costing a hundred (coins) and complete with three robes (ticīvara), was allotted to a bhikkhu who had not yet completed one vassa. And in the monastery, it was written and kept, "Such almsfood is allotted to a bhikkhu who has not completed one vassa."
Một phần vật thực (piṇḍapāta) trị giá một trăm đồng, có đủ ba y (ticīvara) đi kèm, đã đến với một Tỳ-khưu chưa đủ tuổi hạ (avassika). Trong tu viện, họ đã ghi lại: “Phần vật thực như vậy đã đến với một Tỳ-khưu chưa đủ tuổi hạ.”
Atha saṭṭhivassaccayena añño tathārūpo piṇḍapāto uppanno, ayaṃ kiṃ avassikaṭhitikāya gāhetabbo, udāhu saṭṭhivassaṭhitikāyāti?
Then, sixty years later, another such almsfood arose. Should this be accepted according to the seniority of one who has not completed a vassa, or according to the seniority of sixty vassa-years?
Sau sáu mươi năm, một phần vật thực tương tự xuất hiện. Phần này nên được nhận theo lượt (ṭhitika) của Tỳ-khưu chưa đủ tuổi hạ, hay theo lượt (ṭhitika) của sáu mươi tuổi hạ?
Saṭṭhivassaṭhitikāyāti vuttaṃ.
It is said that it should be according to the seniority of sixty vassa-years.
Được nói là theo lượt (ṭhitika) của sáu mươi tuổi hạ.
Ayañhi bhikkhuṭhitikaṃ gahetvāyeva vaḍḍhitoti.
This bhikkhu has progressed by taking the seniority (ṭhitika).
Vì vị Tỳ-khưu này đã trưởng thành sau khi nhận được lượt (ṭhitika).
Eko uddesabhattaṃ bhuñjitvā sāmaṇero jāto, puna taṃ bhattaṃ sāmaṇeraṭhitikāya pattaṃ gaṇhituṃ labhati.
A bhikkhu who has eaten an uddesabhatta becomes a sāmaṇera. He may again receive that food as a sāmaṇera according to the sāmaṇera's turn.
Một Tỳ-khưu đã thọ dụng cơm cúng dường (uddesabhatta) rồi trở thành Sa-di. Vị ấy có thể nhận lại phần cơm ấy theo lượt (ṭhitika) của Sa-di.
Ayaṃ kira antarābhaṭṭhako nāma.
This is called an "interrupted" one.
Người này được gọi là antarābhaṭṭhaka (người bị gián đoạn).
Yo pana paripuṇṇavasso sāmaṇero ‘‘sve uddesabhattaṃ labhissatī’’ti ajjeva upasampajjati, atikkantā tassa ṭhitikā.
However, if a sāmaṇera of full age (paripuṇṇavassa) gets ordained (upasampajjati) today, thinking, "Tomorrow I will receive the uddesabhatta," his turn (ṭhitika) has passed.
Còn vị Sa-di đã đủ tuổi hạ (paripuṇṇavassa) mà hôm nay thọ giới Tỳ-khưu với ý nghĩ: “Ngày mai mình sẽ nhận được cơm cúng dường (uddesabhatta),” thì lượt (ṭhitika) của vị ấy đã qua rồi.
Ekassa bhikkhuno uddesabhattaṃ pattaṃ, patto cassa na tuccho hoti, so aññassa samīpe nisinnassa pattaṃ dāpeti, taṃ ce theyyāya haranti, gīvā hoti.
A designated meal (uddesabhatta) has fallen to a bhikkhu, and his bowl is not empty. He has another person give his bowl. If they carry it away as theft, it is a "burden" (gīvā).
Phần cơm cúng dường (uddesabhatta) đã đến với một Tỳ-khưu, và bát của vị ấy không trống rỗng. Vị ấy sai người khác đang ngồi gần đó lấy bát, nếu họ lấy trộm, thì đó là tội lỗi (gīvā).
Sace pana so bhikkhu ‘‘mayhaṃ pattaṃ dammī’’ti sayameva deti, assa gīvā na hoti.
But if that bhikkhu himself says, "I give my bowl," and gives it, it is not a "burden" for him.
Nhưng nếu vị Tỳ-khưu ấy tự mình nói: “Tôi dâng bát của tôi,” thì vị ấy không có tội lỗi (gīvā).
Athāpi tena bhattena anatthiko hutvā ‘‘alaṃ mayhaṃ, tavetaṃ bhattaṃ dammi, pattaṃ pesetvā āharāpehī’’ti aññaṃ vadati, yaṃ tato āharīyati, sabbaṃ pattasāmikassa hoti.
Alternatively, if he is not interested in that food and says to another, "Enough for me, I give this food to you; send a bowl and have it brought," all that is brought from there belongs to the owner of the bowl.
Hoặc nếu vị ấy không muốn phần cơm đó và nói với người khác: “Tôi đủ rồi, tôi dâng phần cơm này cho ông, hãy sai người mang bát đến,” thì tất cả những gì được mang đến từ đó đều thuộc về chủ bát.
Pattaṃ ce theyyāya haranti, suhaṭo, bhattassa dinnattā gīvā na hoti.
If they carry the bowl away as theft, it is well-carried; since the food was given, there is no "burden."
Nếu bát bị lấy trộm, thì việc mang đến là tốt đẹp (suhaṭo), và vì đã dâng cúng vật thực nên không có tội lỗi (gīvā).
Vihāre dasa bhikkhū honti, tesu nava piṇḍapātikā, eko sādiyanako, ‘‘dasa uddesapatte dethā’’ti vutte piṇḍapātikā gahetuṃ na icchanti.
There are ten bhikkhus in the monastery. Of them, nine are alms-round practitioners (piṇḍapātika), and one is an acceptor (sādiyanaka). When it is said, "Give ten uddesabhatta bowls," the alms-round practitioners do not wish to accept them.
Trong tu viện có mười Tỳ-khưu, trong số đó có chín vị hành hạnh khất thực (piṇḍapātika), và một vị chấp nhận (sādiyanaka). Khi được nói: “Hãy cấp mười bát cơm cúng dường (uddesapatta),” các vị hành hạnh khất thực không muốn nhận.
Itaro bhikkhu ‘‘sabbāni mayhaṃ pāpuṇantī’’ti gaṇhāti, ṭhitikā na hoti.
The other bhikkhu accepts, saying, "All belong to me." This is not seniority (ṭhitika).
Vị Tỳ-khưu kia nghĩ: “Tất cả đều thuộc về tôi,” và nhận lấy, thì đó không phải là lượt (ṭhitika).
Ekekaṃ ce pāpetvā gaṇhāti, ṭhitikā tiṭṭhati.
If he has them delivered one by one and accepts them, the seniority stands.
Nếu nhận từng bát một theo thứ tự, thì lượt (ṭhitika) vẫn được giữ nguyên.
Evaṃ gāhetvā dasahipi pattehi āharāpetvā ‘‘bhante, mayhaṃ saṅgahaṃ karothā’’ti nava patte piṇḍapātikānaṃ deti, bhikkhudattiyaṃ nāmetaṃ, gahetuṃ vaṭṭati.
Having thus received it and caused it to be brought in all ten bowls, he gives nine bowls to the alms-gatherers, saying, "Sirs, please do me a favor." This is called a bhikkhu's gift (bhikkhudattiya); it is allowable to accept it.
Cứ như vậy, sau khi nhận và sai mang về bằng mười bát, rồi nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy giúp đỡ cho con,” thì vị ấy dâng chín bát cho các Tỳ-khưu hành khất (piṇḍapātika). Đây gọi là vật cúng dường do Tỳ-khưu dâng, được phép thọ nhận.
Sace so upāsako ‘‘bhante, gharaṃ āgantabba’’nti vadati, so ca bhikkhu te bhikkhū ‘‘etha, bhante, mayhaṃ sahāyā hothā’’ti tassa gharaṃ gacchati, yaṃ tattha labhati, sabbaṃ tasseva hoti, itare tena dinnaṃ labhanti.
If that lay follower says, "Sirs, you should come to my house," and that bhikkhu goes to his house with those bhikkhus, saying, "Sirs, come, be my companions," whatever he obtains there, all of it belongs to that bhikkhu alone, and the others receive what he gives them.
Nếu vị cư sĩ ấy nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy đến nhà,” và vị Tỳ-khưu ấy nói với các Tỳ-khưu kia: “Bạch chư Tăng, xin hãy đến, hãy là bạn đồng hành của con,” rồi đi đến nhà của vị cư sĩ ấy, thì tất cả những gì nhận được ở đó đều thuộc về vị Tỳ-khưu ấy; các vị Tỳ-khưu khác thọ nhận những gì vị ấy đã cho.
Atha nesaṃ ghareyeva nisīdāpetvā dakkhiṇodakaṃ datvā yāgukhajjakādīni denti ‘‘bhante, yaṃ manussā denti, taṃ gaṇhathā’’ti, tassa bhikkhuno vacaneneva itaresaṃ vaṭṭati.
Then, if they are seated in the house and, after giving them water of dedication (dakkhiṇodakaṃ), they offer gruel, snacks, and so forth, saying, "Sirs, please accept whatever the people offer," it is allowable for the other bhikkhus solely by the word of that bhikkhu.
Rồi sau khi cho họ ngồi tại nhà và dâng nước thọ thực (dakkhiṇodaka), họ dâng cháo, đồ ăn nhẹ, v.v., và nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy thọ nhận những gì người ta dâng.” Thì các vị Tỳ-khưu khác được phép thọ nhận chỉ bằng lời của vị Tỳ-khưu ấy.
Bhuttāvīnaṃ patte pūretvā gaṇhitvā gamanatthāya denti, sabbaṃ tasseva bhikkhuno hoti, tena dinnaṃ itaresaṃ vaṭṭati.
When bowls are filled and taken by those who have eaten, and given for departure, all belongs to that bhikkhu, and what he gives is allowable for the others.
Sau khi thọ thực, họ đổ đầy bát và dâng cho các vị Tỳ-khưu để mang đi, tất cả đều thuộc về vị Tỳ-khưu ấy; các vị Tỳ-khưu khác được phép thọ nhận những gì vị ấy đã cho.
Yadi pana te vihāreyeva tena bhikkhunā ‘‘bhante, mayhaṃ bhikkhaṃ gaṇhatha, manussānaṃ vacanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttā gacchanti, tattha yaṃ bhuñjanti ceva nīharanti ca, sabbaṃ taṃ tesaṃyeva santakaṃ.
However, if those bhikkhus are told by that bhikkhu in the monastery, "Sirs, accept alms for me; it is allowable to follow the words of the people," and they go, whatever they eat or carry out there, all of it is their own possession.
Nếu các vị Tỳ-khưu ấy được vị Tỳ-khưu kia nói tại tu viện rằng: “Bạch chư Tăng, xin hãy nhận vật thực cho con, được phép làm theo lời của người ta,” rồi đi đến đó, thì tất cả những gì họ thọ dụng và mang về ở đó đều thuộc về chính họ.
Athāpi ‘‘mayhaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti avuttā ‘‘manussānaṃ vacanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti gacchanti, tatra ce ekassa madhurena sarena anumodanaṃ karontassa sutvā therānañca upasame pasīditvā bahuṃ samaṇaparikkhāraṃ denti, ayaṃ theresu pasādena uppanno akatabhāgo nāma, tasmā sabbesaṃ pāpuṇāti.
Or, if they go, not having been told "accept alms for me," but rather, "it is allowable to follow the words of the people," and there, hearing one bhikkhu's sweet-voiced anumodana, and becoming pleased with the elders' peacefulness, they give many requisites for monastics, this is called an unapportioned gift (akatabhāgo) arising from devotion to the elders; therefore, it falls to all.
Hoặc nếu không được nói: “Xin hãy nhận vật thực cho con,” mà họ đi vì “được phép làm theo lời của người ta,” và ở đó, sau khi nghe một vị Tỳ-khưu chú nguyện với giọng nói ngọt ngào, rồi họ hoan hỷ với sự an tịnh của các Trưởng lão và dâng nhiều vật dụng cho Sa-môn, thì đây gọi là phần chưa được chia phát sinh do sự hoan hỷ đối với các Trưởng lão, do đó tất cả đều được thọ nhận.
Eko saṅghato uddisāpetvā ṭhitikāya gāhitapattaṃ haritvā paṇītassa khādanīyabhojanīyassa pūretvā āharitvā ‘‘imaṃ, bhante, sabbo saṅgho paribhuñjatū’’ti deti, sabbehi bhājetvā paribhuñjitabbaṃ.
If a person designates a bowl from the Saṅgha and, having taken it according to the apportionment (ṭhitikā), fills it with choice edibles and food, brings it, and says, "Sirs, let the whole Saṅgha partake of this," it should be divided and partaken of by all.
Một người sau khi sai chỉ định từ Tăng-già và mang một chiếc bát đã được nhận theo thứ tự (ṭhitikā) điền đầy thức ăn và đồ uống cao cấp về, rồi nói: “Bạch chư Tăng, xin toàn thể Tăng-già thọ dụng vật này,” thì tất cả phải chia nhau thọ dụng.
Pattasāmikassa pana atikkantampi ṭhitikaṃ ṭhapetvā aññaṃ uddesabhattaṃ dātabbaṃ.
For the owner of the bowl, however, even if his turn has passed, another designated meal (uddesabhatta) should be given, setting aside his previous turn.
Đối với chủ bát, dù thứ tự của vị ấy đã quá, cũng phải cho một bữa ăn chỉ định khác.
Atha paṭhamaṃyeva ‘‘sabbaṃ saṅghikapattaṃ dethā’’ti vadati, ekassa lajjibhikkhuno santako patto dātabbo.
If one first says, "Give a Saṅgha bowl for all," a bowl belonging to a conscientious bhikkhu should be given.
Nếu ngay từ đầu vị ấy nói: “Xin hãy dâng tất cả các bát của Tăng-già,” thì phải dâng chiếc bát thuộc về một vị Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn (lajjibhikkhu).
Āharitvā ca ‘‘sabbo saṅgho paribhuñjatū’’ti vutte bhājetvā paribhuñjitabbaṃ.
And when it is brought and one says, "Let the whole Saṅgha partake," it should be divided and partaken of.
Và sau khi mang về, nếu nói: “Xin toàn thể Tăng-già thọ dụng,” thì phải chia nhau thọ dụng.
Eko pātiyā bhattaṃ āharitvā ‘‘saṅghuddesaṃ dammī’’ti vadati, ekekaṃ ālopaṃ adatvā ṭhitikāya ekassa yāpanamattaṃ katvā dātabbaṃ.
If a person brings food in a bowl and says, "I give this as a Saṅgha-designated meal," instead of giving one lump to each, it should be prepared in such a quantity as is sufficient for one bhikkhu according to the apportionment (ṭhitikā), and then given.
Một người mang vật thực về bằng một cái bát (pāti) và nói: “Con dâng vật này cho Tăng-già theo sự chỉ định,” thì không được cho từng miếng mà phải chia theo thứ tự (ṭhitikā) đủ dùng cho một người.
Atha so bhattaṃ āharitvā kiñci vattuṃ ajānanto tuṇhībhūto acchati, ‘‘kassa te ānītaṃ, kassa dātukāmosī’’ti na vattabbaṃ.
If, having brought the food, he remains silent, not knowing what to say, one should not ask, "For whom did you bring it? To whom do you wish to give it?"
Nếu người ấy mang vật thực về mà không biết nói gì, rồi ngồi im lặng, thì không được nói: “Vật này được mang về cho ai? Ông muốn dâng cho ai?”
Pucchāsabhāgena hi ‘‘tumhākaṃ ānītaṃ, tumhākaṃ dātukāmomhī’’ti vadeyya, tato taṃ bhikkhuṃ aññe bhikkhū jigucchantā gīvaṃ parivattetvā oloketabbampi na maññeyyuṃ.
For by such a questioning manner, he might say, "I brought it for you; I wish to give it to you," and then the other bhikkhus, being disgusted with that bhikkhu, would not even deign to look at him by turning their necks.
Bởi vì, do tính chất của câu hỏi, vị ấy có thể nói: “Được mang về cho quý vị, tôi muốn dâng cho quý vị,” thì sau đó các Tỳ-khưu khác sẽ ghê tởm vị Tỳ-khưu ấy và thậm chí không muốn quay cổ nhìn.
Sace pana ‘‘kuhiṃ yāsi, kiṃ karonto āhiṇḍasī’’ti vutte ‘‘uddesabhattaṃ gahetvā āgatomhī’’ti vadati, ekena lajjibhikkhunā ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
If, however, when asked, "Where are you going? What are you wandering about doing?" he replies, "I have come for the designated meal," a conscientious bhikkhu should accept it according to the apportionment (ṭhitikā).
Tuy nhiên, nếu được hỏi: “Ông đi đâu, ông làm gì mà đi lang thang?” và vị ấy nói: “Tôi đến để nhận bữa ăn chỉ định,” thì một vị Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn (lajjibhikkhu) phải nhận theo thứ tự (ṭhitikā).
Sace ābhataṃ bahu hoti, sabbesaṃ pahoti, ṭhitikākiccaṃ natthi.
If what is brought is abundant and suffices for all, there is no need for apportionment (ṭhitikā).
Nếu vật thực mang về nhiều, đủ cho tất cả, thì không cần đến thứ tự (ṭhitikā).
Therāsanato paṭṭhāya pattaṃ pūretvā dātabbaṃ.
It should be given by filling a bowl, starting from the elder's seat.
Phải đổ đầy bát và dâng từ chỗ ngồi của các Trưởng lão trở đi.
‘‘Saṅghuddesapattaṃ dethā’’ti vutte ‘‘kiṃ āharissasī’’ti avatvā pakatiṭhitikāya eva gāhetabbaṃ.
When one says, "Give a Saṅgha-designated bowl," one should accept it according to the usual apportionment (pakatiṭhitikāya), without asking, "What will you bring?"
Khi được nói: “Xin hãy dâng bát vật thực chỉ định cho Tăng-già,” thì không được hỏi: “Ông sẽ mang gì về?” mà phải nhận theo thứ tự thông thường (pakatiṭhitikā).
Yo pana pāyāso vā rasapiṇḍapāto vā niccaṃ labbhati, evarūpānaṃ paṇītabhojanānaṃ āveṇikā ṭhitikā kātabbā, tathā saparivārāya yāguyā mahagghānaṃ phalānaṃ paṇītānañca khajjakānaṃ.
However, for certain refined foods such as porridge (pāyāso) or flavorful alms food (rasapiṇḍapāto) that are regularly received, a special apportionment (āveṇikā ṭhitikā) should be made, as also for gruel with its accompaniments, expensive fruits, and choice snacks.
Tuy nhiên, nếu thường xuyên nhận được cháo hoặc vật thực có nước cốt, thì phải thiết lập một thứ tự riêng (āveṇikā ṭhitikā) cho những loại thực phẩm cao cấp như vậy, cũng như cho cháo có đầy đủ phụ liệu, các loại trái cây đắt tiền và đồ ăn nhẹ cao cấp.
Pakatibhattayāguphalakhajjakānaṃ ekāva ṭhitikā kātabbā.
For ordinary rice, gruel, fruits, and snacks, a single apportionment (ekāva ṭhitikā) should be made.
Đối với các loại vật thực, cháo, trái cây và đồ ăn nhẹ thông thường, chỉ cần một thứ tự (ṭhitikā) duy nhất.
‘‘Sappiṃ āharissāmī’’ti vutte sabbasappīnaṃ ekāva ṭhitikā vaṭṭati, tathā sabbatelānaṃ.
If one says, "I will bring ghee," a single apportionment (ekāva ṭhitikā) for all types of ghee is allowable, and likewise for all types of oil.
Khi được nói: “Tôi sẽ mang bơ (sappi) về,” thì chỉ một thứ tự (ṭhitikā) cho tất cả các loại bơ là được phép, cũng như cho tất cả các loại dầu.
‘‘Madhuṃ āharissāmī’’ti vutte pana madhuno ekāva ṭhitikā vaṭṭati, tathā phāṇitassa laṭṭhimadhukādīnañca bhesajjānaṃ.
However, if one says, "I will bring honey," a single apportionment (ekāva ṭhitikā) for honey is allowable, and likewise for molasses, licorice, and other medicines.
Tuy nhiên, khi được nói: “Tôi sẽ mang mật (madhu) về,” thì chỉ một thứ tự (ṭhitikā) cho mật là được phép, cũng như cho đường phèn và các loại thuốc như cam thảo (laṭṭhimadhuka), v.v.
Sace pana gandhamālaṃ saṅghuddesaṃ denti, piṇḍapātikassa vaṭṭati, na vaṭṭatīti?
But if they offer perfumes and garlands as a Saṅgha-designated gift, is it allowable for an alms-gatherer (piṇḍapātika) or not?
Nếu họ dâng hương và hoa cho Tăng-già theo sự chỉ định, thì vị Tỳ-khưu hành khất có được phép thọ nhận hay không?
Āmisasseva paṭikkhittattā vaṭṭati.
Since only solid food (āmisa) is prohibited, it is allowable.
Vì chỉ có vật thực (āmisa) bị cấm, nên được phép thọ nhận.
‘‘Saṅghaṃ uddissa dinnattā pana na gahetabba’’nti vadanti.
However, some say that because it is given for the Saṅgha, it should not be accepted.
Tuy nhiên, họ nói: “Vì được dâng cho Tăng-già theo sự chỉ định, nên không được thọ nhận.”
210. Nimantanaṃ puggalikaṃ ce, sayameva issaro.
210. If an invitation (nimantanaṃ) is personal (puggalikaṃ), one is oneself the master.
210. Nếu lời mời (nimantana) là cá nhân, thì chính vị ấy là chủ nhân.
Saṅghikaṃ pana uddesabhatte vuttanayeneva gāhetabbaṃ.
But if it is for the Saṅgha, it should be accepted in the manner described for designated alms (uddesabhatta).
Tuy nhiên, nếu là của Tăng-già, thì phải nhận theo cách đã nói trong bữa ăn chỉ định.
Sace panettha dūto byatto hoti, ‘‘bhante, rājagehe bhikkhusaṅghassa bhattaṃ gaṇhathā’’ti avatvā ‘‘bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti vadati, piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
If the messenger here is skillful, he says, "Accept alms," instead of saying, "Sirs, accept food for the Saṅgha of bhikkhus at the royal palace." Even then, it is allowable for alms-gatherers.
Nếu ở đây vị sứ giả là người khéo léo, không nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy nhận bữa ăn cho Tăng-già tại cung điện của vua,” mà nói: “Xin hãy nhận vật thực,” thì các vị Tỳ-khưu hành khất cũng được phép thọ nhận.
Atha dūto abyatto ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, bhattuddesako byatto ‘‘bhatta’’nti avatvā ‘‘bhante, tumhe yātha, tumhe yāthā’’ti vadati, evampi piṇḍapātikānampi vaṭṭati, ‘‘tumhākaṃ, bhante, paṭipāṭiyā bhattaṃ pāpuṇātī’’ti vutte pana na vaṭṭati.
If the messenger is unskilled and says, "Accept food," and the one designating the food is skillful and says, "Sirs, you may go, you may go," instead of saying "food," even then it is allowable for alms-gatherers; but if he says, "Sirs, your turn for food has arrived," it is not allowable.
Nếu vị sứ giả là người không khéo léo nói: “Xin hãy nhận bữa ăn,” và vị Tỳ-khưu chỉ định bữa ăn là người khéo léo, không nói: “bữa ăn,” mà nói: “Bạch chư Tăng, xin quý vị đi, xin quý vị đi,” thì các vị Tỳ-khưu hành khất cũng được phép thọ nhận; nhưng nếu nói: “Bạch chư Tăng, bữa ăn đến lượt quý vị,” thì không được phép thọ nhận.
Sace nimantituṃ āgatamanusso āsanasālaṃ pavisitvā ‘‘aṭṭha bhikkhū dethā’’ti vā ‘‘aṭṭha patte dethā’’ti vā vadati, evampi piṇḍapātikānaṃ vaṭṭati, ‘‘tumhe ca tumhe ca gacchathā’’ti vattabbaṃ.
If the person who has come to invite enters the assembly hall and says, "Give eight bhikkhus," or "Give eight bowls," even then it is allowable for alms-gatherers; one should say, "You may go, and you may go."
Nếu người đến mời đi vào sảnh đường chỗ ngồi và nói: “Xin hãy cho tám vị Tỳ-khưu,” hoặc “Xin hãy cho tám bát,” thì các vị Tỳ-khưu hành khất cũng được phép thọ nhận; phải nói: “Quý vị và quý vị hãy đi.”
Sace ‘‘aṭṭha bhikkhū detha, bhattaṃ gaṇhatha, aṭṭha patte detha, bhattaṃ gaṇhathā’’ti vā vadati, paṭipāṭiyā gāhetabbaṃ.
If he says, "Give eight bhikkhus, accept food, give eight bowls, accept food," then it should be accepted in due order (paṭipāṭiyā).
Nếu nói: “Xin hãy cho tám vị Tỳ-khưu, xin hãy nhận bữa ăn, xin hãy cho tám bát, xin hãy nhận bữa ăn,” thì phải nhận theo thứ tự.
Gāhentena pana vicchinditvā ‘‘bhatta’’nti avadantena ‘‘tumhe ca tumhe ca gacchathā’’ti vutte piṇḍapātikānaṃ vaṭṭati.
However, if the one receiving it, without mentioning "food" separately, says, "You may go, and you may go," it is allowable for alms-gatherers.
Tuy nhiên, vị Tỳ-khưu nhận mà không nói “bữa ăn” một cách ngắt quãng, mà nói: “Quý vị và quý vị hãy đi,” thì các vị Tỳ-khưu hành khất được phép thọ nhận.
‘‘Bhante, tumhākaṃ pattaṃ detha, tumhe ethā’’ti vutte pana ‘‘sādhu upāsakā’’ti gantabbaṃ.
But if one says, "Sirs, give your bowls, you may come," then one should go, saying, "Very well, lay follower."
Nhưng khi được nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy dâng bát của quý vị, xin quý vị hãy đến,” thì phải đi và nói: “Thưa cư sĩ, tốt lành.”
‘‘Saṅghato uddisitvā tumhe ethā’’ti vuttepi ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
Even if one says, "Designating from the Saṅgha, you may come," it should be accepted according to the apportionment (ṭhitikā).
Ngay cả khi được nói: “Sau khi được chỉ định từ Tăng-già, xin quý vị hãy đến,” thì cũng phải nhận theo thứ tự (ṭhitikā).
Nimantanabhattagharato pana pattatthāya āgatassa uddesabhatte vuttanayeneva ṭhitikāya patto dātabbo.
For one who comes from an invited meal house for a bowl, a bowl should be given according to the apportionment (ṭhitikāya), in the manner described for designated alms (uddesabhatta).
Đối với người đến từ nhà cúng dường bữa ăn mời (nimantanabhatta) để nhận bát, thì phải dâng bát theo thứ tự (ṭhitikā) như đã nói trong bữa ăn chỉ định.
Eko ‘‘saṅghato paṭipāṭiyā patta’’nti avatvā kevalaṃ ‘‘ekaṃ pattaṃ dethā’’ti vatvā aggāhiteyeva patte yassa kassaci pattaṃ gahetvā pūretvā āharati, taṃ pattasāmikasseva hoti.
If one person, without saying "a bowl from the Saṅgha in due order," merely says, "Give one bowl," and takes and fills a bowl of anyone before the bowls are received, and brings it, that bowl belongs to its owner alone.
Một người không nói: “Bát được nhận theo thứ tự từ Tăng-già,” mà chỉ nói: “Xin hãy dâng một chiếc bát,” rồi lấy bát của bất kỳ ai chưa nhận và đổ đầy rồi mang về, thì bát đó thuộc về chính chủ bát.
Uddesabhatte viya ṭhitikāya na gāhetabbaṃ.
It should not be accepted according to apportionment (ṭhitikāya), as in the case of designated alms (uddesabhatta).
Không được nhận theo thứ tự (ṭhitikā) như trong bữa ăn chỉ định.
Idhāpi yo āgantvā tuṇhībhūto tiṭṭhati, so ‘‘kassa santikaṃ āgatosī’’ti vā ‘‘kassa pattaṃ harissasī’’ti vā na vattabbo.
Here too, if a person comes and remains silent, he should not be asked, "To whom have you come?" or "Whose bowl will you carry?"
Ở đây cũng vậy, nếu một người đến và đứng im lặng, thì không được hỏi: “Ông đến với ai?” hoặc “Ông sẽ mang bát của ai đi?”
Pucchāsabhāgena hi ‘‘tumhākaṃ santikaṃ āgato, tumhākaṃ pattaṃ harissāmī’’ti vadeyya, tato so bhikkhu bhikkhūhi jigucchanīyo assa.
For by such a questioning manner, he might say, "I have come to you; I will carry your bowl," and then that bhikkhu would be scorned by the bhikkhus.
Bởi vì, do tính chất của câu hỏi, vị ấy có thể nói: “Tôi đến với quý vị, tôi sẽ mang bát của quý vị đi,” thì sau đó vị Tỳ-khưu ấy sẽ bị các Tỳ-khưu khác ghê tởm.
‘‘Kuhiṃ gacchasi, kiṃ karonto āhiṇḍasī’’ti pana vutte ‘‘tassa pattatthāya āgatomhī’’ti vadantassa paṭipāṭibhattaṭṭhitikāya gahetvā patto dātabbo.
However, if, when asked, "Where are you going? What are you wandering about doing?" he says, "I have come for a bowl," a bowl should be given to that person, having been received according to the apportionment (ṭhitikāya) for a regular meal.
Tuy nhiên, nếu được hỏi: “Ông đi đâu, ông làm gì mà đi lang thang?” và vị ấy nói: “Tôi đến để nhận bát,” thì phải nhận theo thứ tự bữa ăn và dâng bát cho người ấy.
‘‘Bhattaharaṇapattaṃ dethā’’ti vuttepi paṭipāṭibhattaṭṭhitikāya eva dātabbo.
Even if one says, "Give a food-carrying bowl," it should be given according to the apportionment (ṭhitikāya) for a regular meal.
Ngay cả khi được nói: “Xin hãy dâng bát để mang vật thực về,” thì cũng phải dâng theo thứ tự bữa ăn.
Sace āharitvā ‘‘sabbo saṅgho bhuñjatū’’ti vadati, bhājetvā bhuñjitabbaṃ.
If, having brought it, one says, "Let the whole Saṅgha partake," it should be divided and partaken of.
Nếu sau khi mang về, vị ấy nói: “Xin toàn thể Tăng-già thọ dụng,” thì phải chia nhau thọ dụng.
Pattasāmikassa atikkantampi ṭhitikaṃ ṭhapetvā aññaṃ paṭipāṭibhattaṃ gāhetabbaṃ.
For the owner of the bowl, even if his turn has passed, another regular meal should be accepted, setting aside his previous turn.
Đối với chủ bát, dù thứ tự của vị ấy đã quá, cũng phải nhận một bữa ăn theo thứ tự khác.
Eko pātiyā bhattaṃ āharitvā ‘‘saṅghassa dammī’’ti vadati, ālopabhattaṭṭhitikato paṭṭhāya ālopasaṅkhepena bhājetabbaṃ.
If a person brings alms-food in a bowl and says, "I give it to the Saṅgha," it should be distributed spoonful by spoonful, starting from the custom of giving spoonfuls of food.
Nếu một người mang cơm đến bằng bát và nói: “Tôi cúng dường Tăng chúng,” thì nên chia theo suất cơm từng vắt, bắt đầu từ suất cơm từng vắt.
Sace pana tuṇhībhūto acchati, ‘‘kassa te ābhataṃ, kassa dātukāmosī’’ti na vattabbo.
However, if he remains silent, he should not be asked, "For whom have you brought this? To whom do you wish to give it?"
Nhưng nếu người ấy im lặng, thì không nên nói: “Ngươi mang đến cho ai, ngươi muốn cúng dường cho ai?”
Sace pana ‘‘kuhiṃ gacchasi, kiṃ karonto āhiṇḍasī’’ti vutte pana ‘‘saṅghassa me bhattaṃ ābhataṃ, therānaṃ me bhattaṃ ābhata’’nti vadati, gahetvā ālopabhattaṭṭhitikāya bhājetabbaṃ.
If, however, when asked, "Where are you going? What are you doing wandering about?" he replies, "I have brought food for the Saṅgha, I have brought food for the elder monks," then it should be taken and distributed according to the custom of giving spoonfuls of food.
Nhưng nếu khi được hỏi: “Ngươi đi đâu, làm gì mà lang thang vậy?” mà người ấy nói: “Tôi mang cơm đến cho Tăng chúng, tôi mang cơm đến cho các vị Trưởng lão,” thì nên nhận lấy và chia theo suất cơm từng vắt.
Sace pana evaṃ ābhataṃ bhattaṃ bahu hoti, sakalasaṅghassa pahoti, abhihaṭabhikkhā nāma, piṇḍapātikānampi vaṭṭati, ṭhitikāpucchanakiccaṃ natthi, therāsanato paṭṭhāya pattaṃ pūretvā dātabbaṃ.
If the food thus brought is plentiful and sufficient for the entire Saṅgha, it is called abhihaṭa bhikkhā (brought alms-food), and it is suitable even for piṇḍapātikas. There is no need to ask about the custom (ṭhitikā); it should be given by filling the bowl, starting from the senior monk's seat.
Nhưng nếu cơm được mang đến như vậy rất nhiều, đủ cho toàn thể Tăng chúng, thì đó gọi là Abhihaṭabhikkhā (thức ăn được mang đến), cũng hợp lệ cho những vị hành khất (piṇḍapātika), không cần hỏi về suất ăn, mà nên phân phát đầy bát bắt đầu từ chỗ ngồi của các vị Trưởng lão.
Upāsako saṅghattherassa vā ganthadhutaṅgavasena abhiññātassa vā bhattuddesakassa vā pahiṇati ‘‘amhākaṃ bhattagahaṇatthāya aṭṭha bhikkhū gahetvā āgacchathā’’ti, sacepi ñātiupaṭṭhākehi pesitaṃ hoti, ime tayo janā pucchituṃ na labhanti, āruḷhāyeva mātikaṃ.
An upāsaka sends word to the Saṅgha's elder monk, or to a monk well-known for his knowledge of the scriptures (ganthadhutaṅga) or for carrying out ascetic practices (dhutaṅga), or to the distributor of food, saying, "Take eight bhikkhus and come for our food offering." Even if sent by relatives or supporters, these three persons are not allowed to ask (the donor); the procedure is already established.
Nếu một cận sự nam sai người đến Saṅghatthera (Trưởng lão Tăng chúng) hoặc một vị nổi tiếng về việc học kinh điển và giữ các pháp đầu đà (ganthadhutaṅga), hoặc vị bhattuddesaka (người phân phát thức ăn), nói rằng: “Xin hãy mang tám vị Tỳ-khưu đến để nhận thức ăn cho chúng tôi.” Dù là do bà con hoặc người hộ độ sai đến, ba vị này không được phép hỏi (người cúng dường), mà phải tuân theo quy định đã được thiết lập.
Saṅghato aṭṭha bhikkhū uddisāpetvā attanavamehi gantabbaṃ.
Eight bhikkhus should be designated by the Saṅgha, and they should go, with the inviting bhikkhu as the ninth.
Nên chỉ định tám vị Tỳ-khưu từ Tăng chúng và đi, tổng cộng là chín vị cùng với mình.
Bhikkhusaṅghassa hi ete bhikkhū nissāya lābho uppajjatīti.
Because the Saṅgha obtains requisites through these bhikkhus.
Vì nhờ những vị Tỳ-khưu này mà Tăng chúng có được lợi lộc.
Ganthadhutaṅgādīhi pana anabhiññāto āvāsikabhikkhu āpucchituṃ labhati, tasmā tena ‘‘kiṃ saṅghato gaṇhāmi, udāhu ye jānāmi, tehi saddhiṃ āgacchāmī’’ti mātikaṃ āropetvā yathā dāyakā vadanti, tathā paṭipajjitabbaṃ.
However, a resident bhikkhu who is not well-known through scripture-learning or ascetic practices is permitted to ask. Therefore, he should set the matter (mātika) by asking, "Should I take (bhikkhus) from the Saṅgha, or should I go with those whom I know?" and act according to what the donors say.
Tuy nhiên, một vị Tỳ-khưu thường trú (āvāsika bhikkhu) không nổi tiếng về việc học kinh điển và giữ các pháp đầu đà thì được phép hỏi. Do đó, vị ấy nên đặt câu hỏi: “Tôi nên nhận từ Tăng chúng, hay tôi nên đi cùng với những vị mà tôi biết?” và hành động theo lời dặn của thí chủ.
‘‘Tumhākaṃ nissitake vā ye vā jānātha, te gahetvā ethā’’ti vutte pana ye icchanti, tehi saddhiṃ gantuṃ labhati.
If it is said, "Take those dependent on you, or those whom you know, and come," then he is allowed to go with whomever he wishes.
Nếu được nói: “Hãy mang theo những vị nương tựa của quý vị hoặc những vị mà quý vị biết,” thì được phép đi cùng với những vị mình muốn.
Sace ‘‘aṭṭha bhikkhū pahiṇathā’’ti pesenti, saṅghatova pesetabbā.
If they send word saying, "Send eight bhikkhus," they should be sent only from the Saṅgha.
Nếu họ sai đến và nói: “Xin hãy cử tám vị Tỳ-khưu,” thì chỉ nên cử từ Tăng chúng.
Attanā sace aññasmiṃ gāme sakkā hoti bhikkhā labhituṃ, añño gāmo gantabbo.
If the bhikkhu himself can obtain alms in another village, he should go to that other village.
Nếu có thể nhận thức ăn khất thực ở một ngôi làng khác, thì nên đi đến ngôi làng khác.
Na sakkā ce hoti labhituṃ, soyeva gāmo piṇḍāya pavisitabbo.
If he cannot obtain it, he should enter that same village for alms.
Nếu không thể nhận được, thì nên vào ngôi làng đó để khất thực.
Nimantitabhikkhū āsanasālāya nisinnā honti, tatra ce manussā ‘‘patte dethā’’ti āgacchanti, animantitehi na dātabbā, ‘‘ete nimantitā bhikkhū’’ti vattabbaṃ, ‘‘tumhepi dethā’’ti vutte pana dātuṃ vaṭṭati.
If invited bhikkhus are seated in the assembly hall, and people come there saying, "Give us bowls," those who are not invited should not give them. They should be told, "These bhikkhus are invited." If they then say, "You too should give," it is permissible to give.
Nếu các vị Tỳ-khưu được thỉnh mời đang ngồi trong sảnh đường chỗ ngồi, và có người đến nói: “Xin hãy nhận bát,” thì những vị không được thỉnh mời không nên nhận, mà nên nói: “Đây là các vị Tỳ-khưu được thỉnh mời.” Nhưng nếu được nói: “Quý vị cũng hãy nhận đi,” thì được phép nhận.
Ussavādīsu manussā sayameva pariveṇāni ca padhānagharāni ca gantvā tipiṭake ca dhammakathike ca bhikkhusatenapi saddhiṃ nimantenti, tadā tehi ye jānanti, te gahetvā gantuṃ vaṭṭati.
On festival days and the like, people themselves go to the monasteries and meditation houses and invite Tripiṭaka masters and Dhamma speakers, even with a hundred bhikkhus. In such cases, it is permissible for them to take those whom they know and go.
Vào các dịp lễ hội, người dân tự mình đến các tịnh xá (pariveṇa) và các thiền đường (padhānaghara) để thỉnh mời các vị Tỳ-khưu thông thạo Tam tạng (tipiṭaka) và các vị thuyết pháp (dhammakathika), thậm chí cả trăm vị Tỳ-khưu. Lúc đó, các vị ấy được phép mang theo những vị mà mình biết.
Na hi mahābhikkhusaṅghena atthikā manussā pariveṇapadhānagharāni gacchanti, sannipātaṭṭhānatova yathāsatti yathābalaṃ bhikkhū gaṇhitvā gacchantīti.
Because people who desire a large Saṅgha do not go to monasteries and meditation houses; they take bhikkhus from the assembly place, according to their ability and strength, and go.
Vì những người muốn cúng dường cho một đại Tăng chúng không đến các tịnh xá hay thiền đường, mà họ đến nơi tập hợp và tùy theo khả năng, tùy theo sức lực mà thỉnh mời các vị Tỳ-khưu.
Sace pana saṅghatthero vā ganthadhutaṅgavasena abhiññāto vā bhattuddesako vā aññatra vā vassaṃ vasitvā katthaci vā gantvā puna sakaṭṭhānaṃ āgacchati, manussā ca āgantukassa sakkāraṃ karonti, ekavāraṃ ye jānanti, te gahetvā gantabbaṃ.
If the Saṅgha's elder, or one renowned for his knowledge of scriptures (ganthadhutaṅga), or the food distributor, having resided somewhere else for the Rains retreat, or having gone somewhere, returns to his own place, and people show respect to the arriving monk, he may take those whom he knows once.
Tuy nhiên, nếu Saṅghatthera, hoặc một vị nổi tiếng về việc học kinh điển và giữ các pháp đầu đà, hoặc vị bhattuddesaka, sau khi an cư kiết hạ ở một nơi khác hoặc đi đến đâu đó rồi trở về chỗ cũ, và người dân tổ chức lễ cúng dường cho vị khách mới đến, thì một lần được phép mang theo những vị mà mình biết.
Paṭibaddhakālato paṭṭhāya dutiyavāre āraddhe saṅghatoyeva gahetvā gantabbaṃ.
From the time of continuous (offerings), for the second occasion onwards, he must take (bhikkhus) only from the Saṅgha.
Từ thời điểm đã được quy định, khi đến lần thứ hai, thì chỉ nên mang theo những vị từ Tăng chúng.
Abhinavaāgantukāva hutvā ‘‘ñātī vā upaṭṭhāke vā passissāmī’’ti gacchanti, tatra ce tesaṃ ñātī ca upaṭṭhākā ca sakkāraṃ karonti, ettha pana ye jānanti, te gahetvā gantumpi vaṭṭati.
If newly arrived bhikkhus go thinking, "I will see my relatives or supporters," and their relatives and supporters show them respect, in this case, it is also permissible to take those whom one knows and go.
Nếu các vị khách mới đến nói: “Tôi sẽ đến thăm bà con hoặc người hộ độ của tôi,” và khi đến đó, bà con và người hộ độ của họ tổ chức lễ cúng dường, thì trong trường hợp này, cũng được phép mang theo những vị mà mình biết.
Yo pana atilābhī hoti, sakaṭṭhānañca āgantukaṭṭhānañca ekasadisaṃ, sabbattha manussā saṅghabhattaṃ sajjetvāva nisīdanti, tena saṅghatova gahetvā gantabbanti ayaṃ nimantane viseso.
However, if a bhikkhu is highly esteemed, and his own place and the visiting place are similar, and in all places, people sit having already prepared Saṅgha food, then he must take (bhikkhus) only from the Saṅgha and go. This is the distinction in invitations.
Nhưng đối với vị có nhiều lợi lộc, mà nơi ở của mình và nơi đến giống nhau, và người dân ở khắp mọi nơi đều chuẩn bị bữa cơm cho Tăng chúng rồi ngồi chờ, thì vị ấy chỉ nên mang theo những vị từ Tăng chúng. Đây là sự khác biệt trong việc thỉnh mời.
Avaseso sabbapañho uddesabhatte vuttanayeneva veditabbo.
All remaining questions should be understood in the same way as stated for uddesabhatta (designated food).
Tất cả các vấn đề còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong Uddesabhatta.
Kurundiyaṃ pana ‘‘aṭṭha mahāthere dethāti vutte aṭṭha mahātherāva dātabbā’’ti vuttaṃ.
However, in the Kurundī, it is said, "If it is said, 'Give eight senior monks,' then only eight senior monks should be given."
Tuy nhiên, trong Kurundī có nói: “Nếu được yêu cầu cử tám vị Trưởng lão, thì chỉ nên cử tám vị Trưởng lão.”
Esa nayo majjhimādīsu.
This method applies to middle-aged bhikkhus and others.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho các vị trung cấp (majjhima) và các vị khác.
Sace pana avisesetvā ‘‘aṭṭha bhikkhū dethā’’ti vadati, saṅghato dātabbāti.
If, however, it is said without specifying, "Give eight bhikkhus," then they should be given from the Saṅgha.
Nhưng nếu không phân biệt mà nói: “Hãy cử tám vị Tỳ-khưu,” thì nên cử từ Tăng chúng.
211. Salākabhattaṃ pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, salākāya vā paṭṭikāya vā upanibandhitvā opuñjitvā bhattaṃ uddisitu’’nti (cūḷava. 326) vacanato rukkhasāramayāya salākāya vā veḷuvilīvatālapaṇṇādimayāya paṭṭikāya vā ‘‘asukassa nāma salākabhatta’’nti evaṃ akkharāni upanibandhitvā pacchiyaṃ vā cīvarabhoge vā katvā sabbasalākāyo opuñjitvā punappunaṃ heṭṭhupariyavasena āloḷetvā pañcaṅgasamannāgatena bhattuddesakena sace ṭhitikā atthi, ṭhitikato paṭṭhāya, no ce atthi, therāsanato paṭṭhāya salākā dātabbā.
211. As for salākabhatta (ticket food), according to the saying, "Monks, I allow food to be distributed by writing it on a salākā (wooden stick) or a paṭṭikā (leaf plate), and shaking them out" (Cūḷava. 326), letters should be inscribed on a salākā made of heartwood or a paṭṭikā made of bamboo strips, reeds, or palm leaves, etc., saying, "This salākabhatta is for so-and-so." Then, these salākā should be put into a basket or a robe-bundle, shaken repeatedly, and mixed up and down. The food distributor, endowed with five qualities, should distribute the salākā starting from the custom (ṭhitikā), if there is one, or from the senior monk's seat, if there is none.
211. Salākabhatta (Cơm phiếu) thì, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép phân phát thức ăn bằng cách ghi tên vào phiếu (salākā) hoặc bảng (paṭṭikā) rồi xóc lên,” nên ghi chữ “cơm phiếu của người tên là X” vào một phiếu làm bằng gỗ cứng, hoặc một bảng làm bằng tre, nứa, lá cọ, v.v., rồi bỏ tất cả các phiếu vào một cái giỏ hoặc một cái gói y, xóc đi xóc lại nhiều lần từ dưới lên trên, rồi vị bhattuddesaka (người phân phát thức ăn) có đủ năm yếu tố, nếu có quy định về suất ăn, thì phân phát phiếu bắt đầu từ suất ăn đó; nếu không có, thì bắt đầu từ chỗ ngồi của các vị Trưởng lão.
Pacchā āgatānampi ekābaddhavasena dūre ṭhitānampi uddesabhatte vuttanayeneva dātabbā.
Even for those who arrive later, or those standing far away, the salākā should be given in the same manner as stated for uddesabhatta.
Đối với những vị đến sau và những vị đứng xa, cũng nên phân phát theo cách đã nói trong Uddesabhatta.
Sace vihārassa samantato bahū gocaragāmā, bhikkhū pana na bahū, gāmavasenapi salākā pāpuṇanti.
If there are many alms-round villages surrounding the monastery, but not many bhikkhus, the salākā may be obtained by village.
Nếu xung quanh tu viện có nhiều làng khất thực, nhưng Tỳ-khưu không nhiều, thì cũng có thể nhận phiếu theo làng.
‘‘Tumhākaṃ asukagāme salākabhattaṃ pāpuṇātī’’ti gāmavaseneva gāhetabbaṃ.
It should be accepted by village, saying, "Your salākabhatta falls in such-and-such village."
Nên nhận theo làng, nói rằng: “Phiếu cơm của quý vị ở làng tên là X.”
Evaṃ gāhentena sacepi ekamekasmiṃ gāme nānappakārāni saṭṭhi salākabhattāni, sabbāni gahitāneva honti.
If one accepts it in this way, even if there are sixty kinds of salākabhatta in each individual village, all of them are considered accepted.
Khi nhận như vậy, dù ở mỗi làng có sáu mươi suất cơm phiếu khác nhau, thì tất cả đều được xem là đã nhận.
Tassa pattagāmasamīpe aññānipi dve tīṇi salākabhattāni honti, tāni tasseva dātabbāni.
If there are two or three other salākabhatta near the village where his lot fell, those should be given to him as well.
Nếu gần ngôi làng mà vị ấy đã đến có hai hoặc ba suất cơm phiếu khác, thì những suất đó cũng nên được trao cho chính vị ấy.
Na hi sakkā tesaṃ kāraṇā aññaṃ bhikkhuṃ pahiṇitunti.
For it is not possible to send another bhikkhu on account of them.
Vì không thể cử một Tỳ-khưu khác chỉ vì những suất đó.
Sace ekaccesu gāmesu bahūni salākabhattāni sallakkhetvā sattannampi aṭṭhannampi bhikkhūnaṃ dātabbāni.
If, in some villages, many salākabhatta are observed, they should be given to seven or eight bhikkhus.
Nếu ở một số làng có nhiều suất cơm phiếu, thì nên chỉ định và trao cho bảy hoặc tám vị Tỳ-khưu.
Dentena pana catunnaṃ pañcannaṃ bhattānaṃ salākāyo ekato bandhitvā dātabbā.
When giving, the salākā for four or five food offerings should be tied together and given.
Khi trao, nên buộc các phiếu của bốn hoặc năm suất cơm lại với nhau rồi trao.
Sace taṃ gāmaṃ atikkamitvā añño gāmo hoti, tasmiñca ekameva salākabhattaṃ, taṃ pana pātova denti, tampi etesu bhikkhūsu ekassa niggahena datvā ‘‘pātova taṃ gahetvā pacchā orimagāme itarāni bhattāni gaṇhāhī’’ti vattabbo.
If there is another village beyond that village, and there is only one salākabhatta in it, and they offer it early in the morning, even that should be given to one of these bhikkhus with some constraint, saying, "Take that early in the morning, and afterwards, receive the other food offerings in the nearer village."
Nếu có một ngôi làng khác nằm xa hơn ngôi làng đó, và ở đó chỉ có một suất cơm phiếu, mà họ cúng dường sớm, thì cũng nên trao suất đó cho một trong các vị Tỳ-khưu này bằng cách ép buộc, và nói: “Hãy nhận suất đó vào buổi sáng sớm, sau đó hãy nhận các suất cơm còn lại ở ngôi làng gần hơn.”
Sace orimagāme salākabhattesu aggahitesveva gahitasaññāya gacchati, parabhāgagāme salākabhattaṃ gahetvā puna vihāraṃ āgantvā itarāni gahetvā orimagāmo gantabbo.
If he goes with the perception of having received the salākabhatta in the nearer village even before they are received, he should take the salākabhatta in the village beyond, then return to the monastery, take the other salākabhatta, and then go to the nearer village.
Nếu vị ấy đi với ý nghĩ rằng đã nhận các suất cơm phiếu ở làng gần hơn dù chưa nhận, thì sau khi nhận suất cơm phiếu ở làng xa hơn, vị ấy nên trở về tu viện, rồi nhận các suất cơm còn lại và đi đến làng gần hơn.
Na hi bahisīmāya saṅghalābho gāhetuṃ labbhatīti ayaṃ nayo kurundiyaṃ vutto.
For it is not permissible to receive Saṅgha requisites outside the sīmā (boundary). This method is stated in the Kurundī.
Vì không được phép nhận lợi lộc của Tăng chúng bên ngoài ranh giới sīmā. Đây là nguyên tắc được nói trong Kurundī.
Sace pana bhikkhū bahū honti, gāmavasena salākā na pāpuṇanti, vīthivasena vā vīthiyaṃ ekagehavasena vā ekakulavasena vā gāhetabbaṃ.
If, however, there are many bhikkhus and the salākā are not sufficient by village, they should be obtained by street, or by house on a street, or by family.
Nhưng nếu có nhiều Tỳ-khưu, mà phiếu không đủ theo làng, thì nên nhận theo đường phố, hoặc theo từng nhà trên đường phố, hoặc theo từng gia đình.
Vīthiādīsu ca yattha bahūni bhattāni, tattha gāme vuttanayeneva bahūnaṃ bhikkhūnaṃ gāhetabbāni, salākāsu asati uddisitvāpi gāhetabbāni.
And in streets and so on, where there are many food offerings, they should be obtained for many bhikkhus in the same way as stated for villages, and if there are no salākā, they should be obtained by designation.
Ở các đường phố, v.v., nơi có nhiều suất cơm, thì nên nhận cho nhiều vị Tỳ-khưu theo cách đã nói ở làng; nếu không có phiếu, thì cũng nên chỉ định rồi nhận.
212. Salākadāyakena pana vattaṃ jānitabbaṃ.
212. The duties of the salākadāyaka (distributor of tickets) should be known.
212. Vị Salākadāyaka (người phân phát phiếu) nên biết phận sự.
Tena hi kālasseva vuṭṭhāya pattacīvaraṃ gahetvā bhojanasālaṃ gantvā asammaṭṭhaṭṭhānaṃ sammajjitvā pānīyaṃ paribhojanīyaṃ upaṭṭhāpetvā ‘‘idāni bhikkhūhi vattaṃ kataṃ bhavissatī’’ti kālaṃ sallakkhetvā ghaṇṭiṃ paharitvā bhikkhūsu sannipatitesu paṭhamameva vāragāme salākabhattaṃ gāhetabbaṃ, ‘‘tuyhaṃ asukasmiṃ nāma vāragāme salākā pāpuṇāti, tatra gacchā’’ti vattabbaṃ.
Therefore, having risen early, taking the bowl and robes, going to the refectory, sweeping the unswept areas, preparing drinking water and water for use, and then, discerning the time, thinking, “Now the bhikkhus must have performed their duties,” strike the bell. When the bhikkhus have assembled, the salākā-meal in the assigned village should be taken first, and it should be said: “Your turn for the salākā falls in such and such a village; go there.”
Vậy thì, hãy thức dậy sớm, cầm bát và y đi đến nhà ăn, quét dọn những chỗ chưa được quét, sắp đặt nước uống và nước dùng, rồi xem xét thời gian "bây giờ các Tỳ-khưu đã làm xong phận sự rồi", đánh chuông, khi các Tỳ-khưu đã tập hợp, trước tiên phải nhận suất cơm phiếu (salākabhatta) ở làng có phiên (vāragāma), và phải nói rằng: "Phiếu cơm của Tỳ-khưu sẽ đến ở làng có phiên tên là ấy, hãy đi đến đó."
Sace abhirekagāvute gāmo hoti, taṃ divasaṃ gacchantā kilamanti, ‘‘sve tuyhaṃ vāragāme pāpuṇātī’’ti ajjeva gāhetabbaṃ.
If the village is more than a gāvuta away, and those going that day would become weary, then it should be taken today, with the words: “Your turn for the village will be tomorrow.”
Nếu làng cách xa hơn một gāvuta (khoảng 2.5 km), các Tỳ-khưu đi trong ngày sẽ mệt mỏi, thì nên nhận (phiếu) ngay hôm nay và nói: "Ngày mai phiếu cơm của Tỳ-khưu sẽ đến ở làng có phiên."
Yo vāragāmaṃ pesiyamāno na gacchati, aññaṃ salākaṃ maggati, na dātabbā.
If a bhikkhu, being sent to an assigned village, does not go and seeks another salākā, it should not be given.
Tỳ-khưu nào được cử đến làng có phiên mà không đi, lại tìm phiếu khác, thì không nên cấp.
Saddhānañhi manussānaṃ puññahāni ca saṅghassa ca lābhacchedo hoti, tasmā tassa dutiyepi tatiyepi divase aññā salākā na dātabbā, ‘‘attano pattaṭṭhānaṃ gantvā bhuñjāhī’’ti vattabbo, tīṇi pana divasāni agacchantassa vāragāmato orimavāragāme salākā gāhetabbā.
For this causes a loss of merit for faithful people and a loss of gain for the Saṅgha. Therefore, he should not be given another salākā on the second or third day, but should be told: “Go to your assigned place and eat.” If he does not go for three days, a salākā from a village nearer than his assigned village should be taken for him.
Vì như vậy sẽ gây tổn thất phước báu cho những người có đức tin và làm giảm lợi lộc của Tăng-già. Do đó, vào ngày thứ hai và thứ ba cũng không nên cấp phiếu khác cho Tỳ-khưu ấy, mà phải nói: "Hãy đi đến chỗ được phân của mình mà thọ thực." Nhưng nếu Tỳ-khưu ấy không đi trong ba ngày, thì phải nhận phiếu cơm ở làng có phiên gần hơn làng có phiên đã được chỉ định.
Tañce na gaṇhāti, tato paṭṭhāya tassa aññaṃ salākaṃ dātuṃ na vaṭṭati, daṇḍakammaṃ daḷhaṃ kātabbaṃ.
If he does not accept that, then from then on, it is not proper to give him any other salākā; a strong punishment should be imposed.
Nếu Tỳ-khưu ấy không nhận, thì từ đó trở đi không được cấp phiếu khác cho Tỳ-khưu ấy, mà phải áp dụng hình phạt nặng.
Saṭṭhito vā paṇṇāsato vā na parihāpetabbaṃ.
It should not be reduced by sixty or fifty.
Không được giảm xuống dưới sáu mươi hoặc năm mươi.
Vāragāme gāhetvā vihāravāro gāhetabbo, ‘‘tuyhaṃ vihāravāro pāpuṇātī’’ti vattabbaṃ.
After taking the salākā for the assigned village, the turn for the monastery should be taken, and it should be said: “Your turn for the monastery has arrived.”
Sau khi nhận phiếu cơm ở làng có phiên, thì phải nhận phiên trực trú-xá (vihāravāra), và phải nói: "Phiên trực trú-xá của Tỳ-khưu đã đến."
Vihāravārikassa dve tisso yāgusalākāyo tisso catasso bhattasalākāyo ca dātabbā, nibaddhaṃ katvā pana na dātabbā.
The bhikkhu in charge of the monastery should be given two or three salākā for rice-gruel and three or four salākā for meals, but they should not be given on a regular, fixed basis.
Tỳ-khưu trực trú-xá nên được cấp hai hoặc ba phiếu cháo, và ba hoặc bốn phiếu cơm, nhưng không được cấp thường xuyên.
Yāgubhattadāyakā hi ‘‘amhākaṃ yāgubhattaṃ vihāragopakāvabhuñjantī’’ti aññathattaṃ āpajjeyyuṃ, tasmā aññesu kulesu dātabbā.
For the donors of rice-gruel and meals might become displeased, thinking, “Our rice-gruel and meals are eaten only by the monastery custodians.” Therefore, they should be given to other families.
Vì những người cúng dường cháo và cơm có thể thay lòng đổi dạ mà nghĩ: "Cháo và cơm của chúng ta chỉ do những người giữ trú-xá thọ dụng." Do đó, nên cấp ở các gia đình khác.
Sace vihāravārikānaṃ sabhāgā āharitvā denti, iccetaṃ kusalaṃ.
If kindred families bring and give to the monastery attendants, that is good.
Nếu những người cùng phần với Tỳ-khưu trực trú-xá mang đến cúng dường, thì điều đó là tốt.
No ce, vāraṃ gahetvā tesaṃ yāgubhattaṃ āharāpetabbaṃ, tāva nesaṃ salākā phātikammameva bhavanti.
If not, the turn should be taken, and their rice-gruel and meals should be arranged to be brought. For them, these salākā are simply a matter of business.
Nếu không, thì sau khi nhận phiên, phải yêu cầu họ mang cháo và cơm đến cho các vị ấy. Khi đó, các phiếu của họ chỉ là phần chia lợi ích.
Vassaggena pattaṭṭhāne pana aññampi paṇītabhattasalākaṃ gaṇhituṃ labhantiyeva.
However, at the place of the turn according to seniority, they may also receive another delicious meal salākā.
Tuy nhiên, ở chỗ được phân theo thứ tự thâm niên hạ lạp, họ vẫn có thể nhận thêm phiếu cơm ngon.
Atirekauttaribhaṅgassa ekacārikabhattassa visuṃ ṭhitikaṃ katvā salākā dātabbā.
Salākā for extra curries and for single meals should be given with a separate roster.
Đối với suất cơm một người (ekacārikabhatta) có thêm phần thức ăn phụ trội, phải thiết lập quy định riêng và cấp phiếu.
Sace yena salākā laddhā, so taṃ divasaṃ taṃ bhattaṃ na labhati, puna divase gāhetabbaṃ.
If the bhikkhu who received the salākā does not receive that meal on that day, it should be taken again on the next day.
Nếu Tỳ-khưu đã nhận phiếu mà không nhận được suất cơm đó trong ngày, thì phải nhận lại vào ngày hôm sau.
Bhattaññeva labhati, na uttaribhaṅgaṃ, evampi puna gāhetabbaṃ.
If he only receives the meal but not the extra curry, it should also be taken again.
Nếu chỉ nhận được cơm mà không có thức ăn phụ trội, thì cũng phải nhận lại vào ngày hôm sau.
Khīrabhattasalākāyapi eseva nayo.
The same method applies to the salākā for milk-meals.
Đối với phiếu cơm sữa cũng vậy.
Sace pana khīrameva labhati, na bhattaṃ, khīralābhato paṭṭhāya puna na gāhetabbaṃ.
However, if he only receives milk and not the meal, he should not take it again from the time he receives the milk.
Nhưng nếu chỉ nhận được sữa mà không có cơm, thì từ khi nhận được sữa trở đi không cần nhận lại nữa.
Dve tīṇi ekacārikabhattāni ekasseva pāpuṇanti, dubbhikkhasamaye saṅghanavakena laddhakāle vijaṭetvā visuṃ gāhetabbāni.
If two or three single meals fall to the same person, in a time of famine, when received by a newly ordained bhikkhu, they should be unwound and taken separately.
Nếu hai hoặc ba suất cơm một người đến cùng một Tỳ-khưu, thì vào thời kỳ khan hiếm, khi Tỳ-khưu mới của Tăng-già đã nhận được, thì nên tách ra và nhận riêng.
Pākatikasalākabhattaṃ aladdhassapi punadivase gāhetabbaṃ.
Even one who has not received a regular salākā-meal should be given one again on the next day.
Tỳ-khưu nào không nhận được suất cơm phiếu thông thường, thì cũng phải nhận lại vào ngày hôm sau.
Sace khuddako vihāro hoti, sabbe bhikkhū ekasambhogā, ucchusalākaṃ gāhentena yassa kassaci sammukhībhūtassa pāpetvā mahātherādīnaṃ divā tacchetvā dātuṃ vaṭṭati.
If it is a small monastery where all bhikkhus share equally, the one taking the sugarcane salākā may give it to any bhikkhu present, after peeling it in the daytime, for the senior bhikkhus and so forth.
Nếu là một trú-xá nhỏ, tất cả Tỳ-khưu đều cùng thọ dụng, thì khi nhận phiếu mía, có thể đưa cho bất kỳ Tỳ-khưu nào đang có mặt, rồi gọt vỏ và cấp cho các vị Trưởng lão vào ban ngày.
Rasasalākaṃ pāpetvā pacchābhattampi parissāvetvā phāṇitaṃ vā kāretvā piṇḍapātikādīnampi dātabbaṃ, āgantukānaṃ āgatānāgatabhāvaṃ ñatvā gāhetabbā.
The juice salākā can be given even to piṇḍapāta-bhikkhus after filtering it in the evening or having it made into treacle, knowing whether visitors have come or not.
Phiếu nước mía có thể được đưa đến, sau bữa ăn cũng có thể lọc lại, hoặc làm thành đường phèn rồi cấp cho các vị hành khất (piṇḍapātika) và những vị khác; phải nhận biết tình trạng đến và đi của các Tỳ-khưu khách mà cấp.
Mahāāvāse ṭhitikaṃ katvā gāhetabbā.
In large monasteries, it should be taken according to a fixed roster.
Ở các trú-xá lớn, phải thiết lập quy định và cấp phiếu.
Takkasalākampi sabhāgaṭṭhāne pāpetvā vā dhūmāpetvā pacāpetvā vā therānaṃ dātuṃ vaṭṭati.
The buttermilk salākā may also be given to the elder bhikkhus after bringing it to the common area or having it smoked and cooked.
Phiếu buttermilk (takkasalāka) cũng có thể được đưa đến chỗ cùng phần, hoặc hun khói, hoặc nấu chín rồi cấp cho các vị trưởng lão.
Mahāāvāse vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ.
In large monasteries, the method described should be followed.
Ở các trú-xá lớn, phải thực hành theo phương pháp đã nói.
Phalasalākapūvasalākabhesajjagandhamālāsalākāyopi visuṃ ṭhitikāya gāhetabbā.
Salākā for fruits, cakes, medicines, perfumes, and garlands should also be taken with a separate roster.
Phiếu trái cây, phiếu bánh ngọt, phiếu thuốc men, phiếu hương liệu, phiếu vòng hoa cũng phải được nhận theo quy định riêng.
Bhesajjādisalākāyo cettha kiñcāpi piṇḍapātikānampi vaṭṭanti, salākavasena pana gāhitattā na sāditabbā.
Although salākā for medicines etc. are proper even for piṇḍapāta bhikkhus, since they are taken by means of a salākā, they should not be enjoyed.
Mặc dù các phiếu thuốc men và các loại khác ở đây cũng hợp lệ cho các vị hành khất, nhưng vì đã được nhận theo hình thức phiếu, nên không được thọ dụng.
Aggabhikkhāmattaṃ salākabhattaṃ denti, ṭhitikaṃ pucchitvā gāhetabbaṃ.
If they give only a portion of the main meal as a salākā-meal, it should be taken after inquiring about the roster.
Nếu họ cúng dường suất cơm phiếu chỉ bằng một phần cơm đầu tiên (aggabhikkhāmatta), thì phải hỏi quy định rồi nhận.
Asatiyā ṭhitikāya therāsanato paṭṭhāya gāhetabbaṃ.
If there is no roster, it should be taken starting from the senior bhikkhu's seat.
Nếu không có quy định, thì phải nhận từ chỗ ngồi của các vị trưởng lão trở đi.
Sace tādisāni bhattāni bahūni honti, ekekassa bhikkhuno dve tīṇi dātabbāni.
If there are many such meals, two or three should be given to each bhikkhu.
Nếu có nhiều suất cơm như vậy, thì mỗi Tỳ-khưu nên được cấp hai hoặc ba suất.
No ce, ekekameva datvā paṭipāṭiyā gatāya puna therāsanato paṭṭhāya dātabbaṃ.
If not, only one should be given, and after the round is completed, it should be started again from the senior bhikkhu's seat.
Nếu không, thì chỉ cấp mỗi người một suất, sau khi hết lượt, lại bắt đầu cấp từ chỗ ngồi của các vị trưởng lão trở đi.
Atha antarāva upacchijjati, ṭhitikā sallakkhetabbā.
If it runs out in the middle, the roster should be noted.
Nếu bị gián đoạn giữa chừng, thì phải xem xét lại quy định.
Yadi pana tādisaṃ bhattaṃ nibaddhameva hoti, yassa pāpuṇāti, so vattabbo ‘‘laddhā vā aladdhā vā svepi gaṇheyyāsī’’ti.
But if such a meal is regular, the one to whom it falls should be told: “Whether received or not, you should take it tomorrow too.”
Nếu suất cơm như vậy là thường xuyên, thì Tỳ-khưu nào được nhận, phải nói với vị ấy rằng: "Dù đã nhận được hay chưa nhận được, ngày mai Tỳ-khưu cũng hãy nhận."
Ekaṃ anibaddhaṃ hoti, labhanadivase pana yāvadatthaṃ labhati.
If one is not regular, but on the day it is received, one receives as much as desired.
Nếu có một suất không thường xuyên, nhưng vào ngày nhận được thì nhận đủ theo ý muốn.
Alabhanadivasā bahutarā honti, taṃ yassa pāpuṇāti, so alabhitvā ‘‘sve gaṇheyyāsī’’ti vattabbo.
If the days of not receiving are more numerous, the one to whom it falls, if he does not receive it, should be told: “You should take it tomorrow.”
Nếu số ngày không nhận được nhiều hơn, thì Tỳ-khưu nào được nhận mà không nhận được, phải nói với vị ấy rằng: "Ngày mai Tỳ-khưu hãy nhận."
Yo salākāsu gahitāsu pacchā āgacchati, tassa atikkantāva salākā na upaṭṭhāpetvā dātabbā.
If someone arrives after the salākā have been taken, those salākā are already past; they should not be prepared and given to him.
Tỳ-khưu nào đến sau khi các phiếu đã được nhận, thì phiếu của vị ấy đã quá hạn, không nên sắp đặt và cấp cho.
Salākaṃ nāma ghaṇṭiṃ paharaṇato paṭṭhāya āgantvā hatthaṃ pasārentova labhati, aññassa āgantvā samīpe ṭhitassapi atikkantā atikkantāva hoti.
A salākā is received only by stretching out one’s hand after the bell has been struck. Even if another bhikkhu comes and stands nearby, if it is already past, it is considered past.
Phiếu cơm chỉ được nhận khi đến và giơ tay ra kể từ khi đánh chuông; ngay cả khi một Tỳ-khưu khác đến và đứng gần, nếu phiếu đã quá hạn thì vẫn là quá hạn.
Sace panassa añño gaṇhanto atthi, sayaṃ anāgatopi labhati, sabhāgaṭṭhāne ‘‘asuko anāgato’’ti ñatvā ‘‘ayaṃ tassa salākā’’ti ṭhapetuṃ vaṭṭati.
However, if there is another person taking it on his behalf, he may receive it even if he has not come himself. In the common area, knowing that “such and such a bhikkhu has not come,” it is proper to set it aside, saying, “This is his salākā.”
Tuy nhiên, nếu có người khác nhận thay cho Tỳ-khưu ấy, thì dù Tỳ-khưu ấy không có mặt cũng được nhận. Ở chỗ cùng phần, biết rằng "vị ấy không có mặt", có thể để riêng "đây là phiếu của vị ấy".
Sace ‘‘anāgatassa na dātabbā’’ti katikaṃ karonti, adhammikā hoti.
However, if they make a rule saying, “It should not be given to one who has not come,” that rule is unrighteous.
Nếu họ thỏa thuận rằng "không được cấp cho người không có mặt", thì đó là một thỏa thuận phi pháp.
Antoupacāre ṭhitassa hi bhājanīyabhaṇḍaṃ pāpuṇāti.
For an item to be distributed falls to one who is within the precinct.
Vì vật phẩm được chia phần thuộc về người đang ở trong khu vực giới hạn (upacāra).
Sace pana ‘‘anāgatassa dethā’’ti mahāsaddaṃ karonti, daṇḍakammaṃ ṭhapetabbaṃ, ‘‘āgantvā gaṇhantū’’ti vattabbaṃ.
But if they make a great noise, saying, “Give it to one who has not come,” a punishment should be imposed, and it should be said: “Let them come and take it.”
Tuy nhiên, nếu họ lớn tiếng nói: "Hãy cấp cho người không có mặt", thì phải áp dụng hình phạt, và phải nói: "Hãy đến mà nhận."
Cha pañcasalākā naṭṭhā honti, bhattuddesako dāyakānaṃ nāmaṃ na sarati, so ce naṭṭhasalākā mahātherassa vā attano vā pāpetvā bhikkhū vadeyya ‘‘mayā asukagāme salākabhattaṃ mayhaṃ pāpitaṃ, tumhe tattha laddhasalākabhattaṃ bhuñjeyyāthā’’ti, vaṭṭati, vihāre apāpitaṃ pana āsanasālāya taṃ bhattaṃ labhitvā tattheva pāpetvā bhuñjituṃ na vaṭṭati.
If five or six salākā are lost, and the meal-appointer does not remember the names of the donors, and that meal-appointer, having obtained the lost salākā for the Great Elder or for himself, should say to the bhikkhus, “The salākā-meal has been assigned to me in such and such a village; you should eat the salākā-meal received there,” that is permissible. But it is not permissible to receive that meal in the assembly hall and eat it there, if it was not assigned to the monastery.
Nếu năm hoặc sáu phiếu bị thất lạc, người phân phát cơm không nhớ tên các thí chủ, nếu người ấy cấp các phiếu thất lạc cho vị Trưởng lão hoặc cho chính mình rồi nói với các Tỳ-khưu: "Tôi đã nhận được suất cơm phiếu ở làng kia, các Tỳ-khưu hãy thọ dụng suất cơm phiếu đã nhận được ở đó", thì điều đó là hợp lệ. Nhưng nếu suất cơm đó chưa được mang đến trú-xá, mà nhận được ở nhà ăn rồi thọ dụng ngay tại đó, thì không hợp lệ.
‘‘Ajja paṭṭhāya mayhaṃ salākabhattaṃ gaṇhathā’’ti vutte tatra āsanasālāya gāhetuṃ na vaṭṭati, vihāraṃ ānetvā gāhetabbaṃ.
If it is said, “From today, take my salākā-meal,” it is not proper to take it in the assembly hall; it should be brought to the monastery and taken.
Khi được nói: "Từ hôm nay, hãy nhận suất cơm phiếu cho tôi", thì không được nhận ở nhà ăn, mà phải mang về trú-xá để nhận.
‘‘Sve paṭṭhāyā’’ti vutte pana bhattuddesakassa ācikkhitabbaṃ ‘‘sve paṭṭhāya asukakulaṃ nāma salākabhattaṃ deti, salākaggāhaṇakāle sareyyāsī’’ti.
However, if it is said, “From tomorrow,” the meal-appointer should be informed: “From tomorrow, such and such a family will give a salākā-meal; please remember this at the time of taking the salākā.”
Tuy nhiên, khi được nói: "Từ ngày mai", thì phải báo cho người phân phát cơm biết: "Từ ngày mai, gia đình tên là ấy sẽ cúng dường suất cơm phiếu, xin hãy nhớ vào lúc nhận phiếu."
Dubbhikkhe salākabhattaṃ pacchinditvā subhikkhe jāte kañci bhikkhuṃ disvā ‘‘ajja paṭṭhāya amhākaṃ salākabhattaṃ gaṇhathā’’ti puna paṭṭhapenti, antogāme agāhetvā vihāraṃ ānetvā gāhetabbaṃ.
If, during a famine, salākā-meals are discontinued, and then when times of plenty arrive, seeing some bhikkhu, they again appoint a salākā-meal saying, “From today, take our salākā-meal,” it should not be taken within the village, but should be brought to the monastery and taken.
Vào thời kỳ khan hiếm, suất cơm phiếu bị ngưng, khi thời kỳ sung túc đến, thấy một Tỳ-khưu nào đó, họ lại bắt đầu cúng dường: "Từ hôm nay, hãy nhận suất cơm phiếu của chúng tôi." Thì không được nhận ở trong làng, mà phải mang về trú-xá để nhận.
Idañhi salākabhattaṃ nāma uddesabhattasadisaṃ na hoti, vihārameva sandhāya dīyati, tasmā bahiupacāre gāhetuṃ na vaṭṭati, ‘‘sve paṭṭhāyā’’ti vutte pana vihāre gāhetabbameva.
For this salākā-meal is not like a specially designated meal; it is given with reference to the monastery itself. Therefore, it is not proper to take it outside the precinct. However, if it is said, “From tomorrow,” it must be taken in the monastery.
Vì suất cơm phiếu này không giống như suất cơm được chỉ định (uddesabhatta), mà được cúng dường dành riêng cho trú-xá, do đó không được nhận ở bên ngoài khu vực giới hạn (bahiupacāra). Tuy nhiên, khi được nói: "Từ ngày mai", thì nhất định phải nhận ở trú-xá.
Gamiko bhikkhu yaṃ disābhāgaṃ gantukāmo, tattha aññena vāragāmasalākā laddhā hoti, taṃ gahetvā itaraṃ bhikkhuṃ ‘‘mayhaṃ pattasalākaṃ tvaṃ gaṇhāhī’’ti vatvā gantuṃ vaṭṭati.
It is permissible for a traveling bhikkhu, wishing to go in a certain direction, where another bhikkhu has received a salākā for an assigned village, to take that salākā and tell the other bhikkhu: “You take my assigned salākā,” and then depart.
Nếu một Tỳ-khưu đang đi đường muốn đến một phương hướng nào đó, mà ở đó có một Tỳ-khưu khác đã nhận được phiếu cơm ở làng có phiên, thì vị Tỳ-khưu đi đường có thể nhận phiếu đó, rồi nói với Tỳ-khưu kia: "Tỳ-khưu hãy nhận phiếu đã đến phần của tôi", rồi đi.
Tena pana upacārasīmaṃ anatikkanteyeva tasmiṃ tassa salākā gāhetabbā.
But that resident monk must take the tickets for that departing monk before he crosses the boundary.
Vị tỳ-khưu lưu trú đó phải nhận lấy các thẻ cúng dường của vị tỳ-khưu sắp đi trước khi vị đó vượt qua giới hạn của khu vực.
Chaḍḍitavihāre vasitvā manussā ‘‘bodhicetiyādīni jaggitvā bhuñjantū’’ti salākabhattaṃ paṭṭhapenti, bhikkhū sabhāgaṭṭhānesu vasitvā kālasseva gantvā tattha vattaṃ karitvā taṃ bhattaṃ bhuñjanti, vaṭṭati.
Having resided in a deserted monastery, people establish ticket-food, saying, "May they partake after maintaining the bodhi-cetiyas and so forth." It is permissible for monks, having resided in suitable places, to go early, perform their duties there, and then partake of that food.
Người ta sống trong các tịnh xá bị bỏ hoang, rồi thiết lập vật thực thẻ cúng dường (salākabhatta) với ý nghĩ: “Mong các vị tỳ-khưu chăm sóc các bảo tháp giác ngộ (bodhicetiya) v.v… rồi thọ dụng”. Các vị tỳ-khưu sống ở những nơi phù hợp, đi đến đó sớm, thực hành phận sự ở đó rồi thọ dụng vật thực đó, điều này được phép.
Sace tesu svātanāya attano pāpetvā gatesu āgantuko bhikkhu chaḍḍitavihāre vasitvā kālasseva vattaṃ katvā ghaṇṭiṃ paharitvā salākabhattaṃ attano pāpetvā āsanasālaṃ gacchati, sova tassa bhattassa issaro.
If, when those monks have assigned their tickets for the next day and departed, an arriving monk, having resided in the deserted monastery, performs his duties early, strikes the bell, assigns the ticket-food to himself, and goes to the assembly hall, he alone is the owner of that food.
Nếu các vị tỳ-khưu đó đã đi sau khi sắp xếp vật thực thẻ cúng dường (salākabhatta) cho ngày mai của mình, rồi một vị tỳ-khưu khách sống trong tịnh xá bị bỏ hoang, sớm thực hành phận sự, đánh chuông, sắp xếp vật thực thẻ cúng dường cho mình rồi đi đến sảnh đường tọa cụ, thì chính vị đó là chủ của vật thực đó.
Yo pana bhikkhūsu vattaṃ karontesuyeva bhūmiyaṃ dve tayo sammuñjanīpahāre datvā ghaṇṭiṃ paharitvā ‘‘dhuragāme salākabhattaṃ mayhaṃ pāpuṇātī’’ti gacchati, tassa taṃ corikāya gahitattā na pāpuṇāti, vattaṃ katvā pāpetvā pacchāgatabhikkhūnaṃyeva hoti.
But if a monk, while other monks are still performing their duties, sweeps the ground two or three times, strikes the bell, and goes, saying, "The ticket-food in the main village is for me," that food does not accrue to him because it was taken by stealth; it belongs only to the monks who performed their duties, assigned the tickets, and arrived later.
Còn vị tỳ-khưu nào, trong khi các vị tỳ-khưu khác đang thực hành phận sự, chỉ quét hai ba nhát chổi trên đất, rồi đánh chuông, nói: “Vật thực thẻ cúng dường ở làng chính thuộc về tôi”, rồi đi, thì vật thực đó không thuộc về vị đó vì đã lấy bằng cách trộm cắp; nó thuộc về các vị tỳ-khưu đã thực hành phận sự, đã sắp xếp rồi đến sau.
Eko gāmo atidūre hoti, bhikkhū niccaṃ gantuṃ na icchanti, manussā ‘‘mayaṃ puññena paribāhirā homā’’ti vadanti, ye tassa gāmassa āsannavihāre sabhāgabhikkhū, te vattabbā ‘‘imesaṃ bhikkhūnaṃ anāgatadivase tumhe bhuñjathā’’ti, salākā pana devasikaṃ pāpetabbā.
There is a village that is too far, and the monks do not wish to go there regularly. People say, "We are excluded from merit." The resident monks in a monastery near that village should be told, "You may partake of these monks' food on the days they do not come," but the tickets must be assigned daily.
Có một ngôi làng quá xa, các vị tỳ-khưu không muốn đi thường xuyên, người dân nói: “Chúng tôi sẽ bị thiếu phước báu”. Các vị tỳ-khưu cùng hội sống ở tịnh xá gần ngôi làng đó nên được nói: “Vào những ngày các vị tỳ-khưu này không đến, quý vị hãy thọ dụng”. Còn các thẻ cúng dường thì phải được sắp xếp hằng ngày.
Tā ca kho pana ghaṇṭipaharaṇamattena vā pacchicālanamattena vā pāpitā na honti, pacchiṃ pana gahetvā salākā pīṭhake ākiritabbā, pacchi pana mukhavaṭṭiyaṃ na gahetabbā.
Those assignments, however, are not made merely by striking a bell or shaking a basket. One should take the basket, and the tickets should be poured out onto a mat. The basket, however, should not be held by its rim.
Và việc sắp xếp đó không phải chỉ bằng cách đánh chuông hoặc chỉ bằng cách lắc giỏ, mà phải cầm giỏ và đổ các thẻ cúng dường ra ghế. Tuy nhiên, không nên cầm giỏ ở miệng giỏ.
Sace hi tattha ahi vā vicchiko vā bhaveyya, dukkhaṃ uppādeyya, tasmā heṭṭhā gahetvā pacchiṃ parammukhaṃ katvā salākā ākiritabbā ‘‘sacepi sappo bhavissati, ettova palāyissatī’’ti.
For if there were a snake or scorpion in it, it could cause harm. Therefore, it should be held from below, with the opening facing away, and the tickets poured out, thinking, "Even if there is a snake, it will simply flee this way."
Vì nếu có rắn hoặc bọ cạp ở đó, nó có thể gây hại. Do đó, phải cầm giỏ ở phía dưới, quay miệng giỏ ra ngoài rồi đổ các thẻ cúng dường ra, (với ý nghĩ) “ngay cả nếu có rắn, nó cũng sẽ bỏ chạy”.
Evaṃ salākā ākiritvā gāmādivasena pubbe vuttanayeneva gāhetabbā.
Having poured out the tickets in this way, they should be taken according to the method stated earlier, based on the village and so forth.
Sau khi đổ các thẻ cúng dường như vậy, phải nhận lấy theo cách đã nói trước đây, tùy theo làng v.v…
Apica ekaṃ mahātherassa pāpetvā ‘‘avasesā mayhaṃ pāpuṇantī’’ti attano pāpetvā vattaṃ katvā cetiyaṃ vanditvā vitakkamāḷake ṭhitehi bhikkhūhi ‘‘pāpitā, āvuso, salākā’’ti vutte ‘‘āma, bhante, tumhe gatagatagāme salākabhattaṃ gaṇhathā’’ti vattabbaṃ.
Furthermore, having assigned one ticket to a Mahāthera and said, "The remaining ones are for me," and having assigned them to oneself, performed one's duties, paid homage to the cetiya, and when the monks standing in the meditation hall say, "Are the tickets assigned, venerable sir?" it should be said, "Yes, venerable sirs, you may take the ticket-food in any village you visit."
Hơn nữa, sau khi sắp xếp một thẻ cúng dường cho một vị Đại Trưởng lão và sắp xếp phần còn lại cho mình với ý nghĩ: “Phần còn lại thuộc về tôi”, rồi thực hành phận sự, đảnh lễ bảo tháp, khi các vị tỳ-khưu đang đứng ở sảnh đường suy tư (vitakkamāḷaka) hỏi: “Thưa Tôn giả, các thẻ cúng dường đã được sắp xếp chưa?”, thì phải nói: “Vâng, thưa Ngài, quý vị hãy nhận vật thực thẻ cúng dường ở bất cứ làng nào quý vị đến”.
Evañhi pāpitāpi supāpitāva honti.
In this way, even assigned tickets are well-assigned.
Như vậy, ngay cả khi đã sắp xếp, chúng cũng được xem là đã sắp xếp tốt.
Bhikkhū sabbarattiṃ dhammassavanatthaṃ aññaṃ vihāraṃ gacchantā ‘‘mayaṃ tattha dānaṃ aggahetvāva amhākaṃ gocaragāme piṇḍāya caritvā āgamissāmā’’ti salākā aggahetvāva gatā vihāre therassa pattaṃ salākabhattaṃ bhuñjituṃ āgacchanti, vaṭṭati.
Monks going to another monastery for a whole night to listen to the Dhamma, saying, "We will not take alms there, but will go on almsround in our own alms-village and return," and who have gone without taking tickets, return to partake of the ticket-food received by the elder in the monastery; this is permissible.
Các vị tỳ-khưu đi đến một tịnh xá khác để nghe Pháp suốt đêm, rồi không nhận bố thí ở đó mà đi khất thực ở làng trú xứ của mình rồi quay về, đến tịnh xá để thọ dụng vật thực thẻ cúng dường đã được sắp xếp cho vị Trưởng lão, điều này được phép.
Atha mahātheropi ‘‘ahaṃ idha kiṃ karomī’’ti tehiyeva saddhiṃ gacchati, tehi gatavihāre abhuñjitvāva gocaragāmaṃ anuppattehi ‘‘detha, bhante, patte, salākayāguādīni āharissāmā’’ti vutte pattā na dātabbā.
If the Mahāthera also goes with them, thinking, "What shall I do here?", and when they, having not partaken in the monastery they visited, arrive at the alms-village and are told, "Give us your bowls, venerable sirs, we will bring ticket-gruel and so forth," the bowls should not be given.
Nếu vị Đại Trưởng lão cũng nghĩ: “Tôi làm gì ở đây?”, rồi đi cùng với các vị đó, khi các vị đó đã đến làng khất thực mà chưa thọ dụng ở tịnh xá đã đi, và người ta nói: “Thưa quý Ngài, xin hãy cho bát, chúng tôi sẽ mang cháo thẻ cúng dường v.v… đến”, thì không nên đưa bát.
Kasmā, bhante, na dethāti.
"Why do you not give them, venerable sirs?"
“Thưa quý Ngài, tại sao quý Ngài không cho?”
Vihāraṭṭhakaṃ bhattaṃ vihāre vutthānaṃ pāpuṇāti, mayaṃ aññavihāre vutthāti.
"Food designated for the monastery accrues to those who have resided in the monastery; we have resided in another monastery."
“Vật thực thuộc về tịnh xá là dành cho những ai đã sống trong tịnh xá. Chúng tôi đã sống ở một tịnh xá khác.”
‘‘Detha, bhante, na mayaṃ vihāre pālikāya dema, tumhākaṃ dema, gaṇhatha amhākaṃ bhikkha’’nti vutte pana vaṭṭati.
But if they say, "Give them, venerable sirs, we are not giving to the monastery's caretaker, we are giving to you; take our alms," then it is permissible.
Tuy nhiên, nếu người ta nói: “Thưa quý Ngài, xin hãy cho. Chúng tôi không cho để giữ gìn tịnh xá, chúng tôi cho quý Ngài. Xin quý Ngài hãy nhận vật thực bố thí của chúng tôi”, thì điều này được phép.
213. Pakkhikādīsu pana yaṃ abhilakkhitesu cātuddasī pañcadasī pañcamī aṭṭhamīti imesu pakkhesu kammappasutehi uposathaṃ kātuṃ satikaraṇatthāya dīyati, taṃ pakkhikaṃ nāma.
213. Among fortnightly offerings and so forth, that which is given on designated fortnightly days—the fourteenth, fifteenth, fifth, and eighth days of the lunar fortnight—by those engaged in meritorious deeds, in order to remind them to observe Uposatha, is called fortnightly food (Pakkhika-bhatta).
213. Pakkhika (vật thực nửa tháng) v.v… là vật thực được dâng vào những ngày như mười bốn, mười lăm, mùng năm, mùng tám của nửa tháng, nhằm mục đích nhắc nhở những người đang làm công đức giữ giới Uposatha.
Taṃ salākabhattagatikameva hoti, gāhetvā bhuñjitabbaṃ.
This is similar in nature to ticket-food; it should be received and partaken of.
Vật thực đó cũng theo cách của vật thực thẻ cúng dường (salākabhatta), phải nhận rồi thọ dụng.
Sace salākabhattampi pakkhikabhattampi bahuṃ sabbesaṃ vinivijjhitvā gacchati, dvepi bhattāni visuṃ visuṃ gāhetabbāni.
If there is much ticket-food and much fortnightly food, and it is distributed among all without distinction, both types of food should be received separately.
Nếu cả vật thực thẻ cúng dường và vật thực nửa tháng đều nhiều, và được chia đều cho tất cả, thì cả hai loại vật thực phải được nhận riêng biệt.
Sace bhikkhusaṅgho mahā, pakkhikaṃ gāhetvā tassa ṭhitikāya salākabhattaṃ gāhetabbaṃ, salākabhattaṃ vā gāhāpetvā tassa ṭhitikāya pakkhikaṃ gāhetabbaṃ.
If the community of monks is large, the fortnightly food should be received, and according to its roster, the ticket-food should be received, or the ticket-food should be received first, and according to its roster, the fortnightly food should be received.
Nếu Tăng đoàn đông, thì sau khi nhận vật thực nửa tháng, vật thực thẻ cúng dường phải được nhận theo thứ tự; hoặc sau khi nhận vật thực thẻ cúng dường, vật thực nửa tháng phải được nhận theo thứ tự.
Yesaṃ na pāpuṇāti, te piṇḍāya carissanti.
Those who do not receive any will go on almsround.
Những vị nào không được nhận thì sẽ đi khất thực.
Sace dvepi bhattāni bahūni, bhikkhū mandā, salākabhattaṃ nāma devasikaṃ labbhati, tasmā taṃ ṭhapetvā ‘‘pakkhikaṃ, āvuso, bhuñjathā’’ti pakkhikameva dātabbaṃ.
If both types of food are abundant and the monks are few, ticket-food is received daily; therefore, setting it aside, only the fortnightly food should be given, saying, "Venerable sirs, partake of the fortnightly food."
Nếu cả hai loại vật thực đều nhiều, và các vị tỳ-khưu ít, thì vật thực thẻ cúng dường được nhận hằng ngày. Do đó, sau khi bỏ qua vật thực đó, chỉ nên dâng vật thực nửa tháng với lời nói: “Thưa quý Ngài, xin hãy thọ dụng vật thực nửa tháng”.
Pakkhikaṃ paṇītaṃ denti, visuṃ ṭhitikā kātabbā, ‘‘sve pakkho’’ti ajja pakkhikaṃ na gāhetabbaṃ.
If choice fortnightly food is offered, a separate roster should be made; fortnightly food should not be received today if it is "tomorrow is the fortnightly day."
Nếu người dâng cúng vật thực nửa tháng là vật thực tinh xảo, thì phải thiết lập một thứ tự riêng. Không nên nhận vật thực nửa tháng hôm nay với ý nghĩ: “Ngày mai là ngày nửa tháng”.
Sace pana dāyakā vadanti ‘‘svepi amhākaṃ ghare lūkhabhattaṃ bhavissati, ajjeva pakkhikabhattaṃ uddisathā’’ti, evaṃ vaṭṭati.
But if the donors say, "Tomorrow there will be coarse food in our house, so designate the fortnightly food today," then it is permissible.
Tuy nhiên, nếu thí chủ nói: “Ngày mai nhà chúng tôi sẽ có vật thực thô sơ, xin quý Ngài hãy chỉ định vật thực nửa tháng ngay hôm nay”, thì điều này được phép.
Uposathikaṃ nāma anvaḍḍhamāse uposathadivase uposathaṅgāni samādiyitvā yaṃ attanā bhuñjati, tadeva dīyati.
Uposathika-bhatta is food that is given on the Uposatha day every half-month, by those who have undertaken the Uposatha observances, it is the same food that one partakes of oneself.
Uposathika (vật thực Uposatha) là vật thực mà người ta tự thọ dụng vào ngày Uposatha mỗi nửa tháng, sau khi đã thọ trì các giới Uposatha, và chỉ vật thực đó được dâng cúng.
Pāṭipadikaṃ nāma ‘‘uposathe bahū saddhā pasannā bhikkhūnaṃ sakkāraṃ karonti, pāṭipade pana bhikkhū kilamanti, pāṭipade dinnaṃ dubbhikkhadānasadisaṃ mahapphalaṃ hoti, uposathakammena vā parisuddhasīlānaṃ dutiyadivase dinnaṃ mahapphalaṃ hotī’’ti sallakkhetvā pāṭipade dīyamānakadānaṃ.
Pāṭipadika-bhatta is an offering made on the first day (after Uposatha), reflecting that "On Uposatha day, many faithful and devoted people make offerings to monks, but on the first day, monks become weary; an offering made on the first day is like an offering made during a famine, bringing great fruit, or an offering made on the second day by those whose conduct is purified by Uposatha brings great fruit."
Pāṭipadika (vật thực ngày mùng một) là bố thí được dâng vào ngày mùng một, với suy nghĩ: “Vào ngày Uposatha, nhiều người có đức tin và lòng tín mộ cúng dường đến các vị tỳ-khưu. Nhưng vào ngày mùng một, các vị tỳ-khưu bị mệt mỏi. Bố thí được dâng vào ngày mùng một có quả báo lớn, giống như bố thí trong thời kỳ đói kém; hoặc bố thí được dâng vào ngày thứ hai cho những vị có giới hạnh trong sạch nhờ hành động Uposatha có quả báo lớn”.
Tampi ubhayaṃ salākabhattagatikameva.
Both of these are also similar in nature to ticket-food.
Cả hai loại này cũng theo cách của vật thực thẻ cúng dường.
Iti imāni sattapi bhattāni piṇḍapātikānaṃ na vaṭṭanti, dhutaṅgabhedaṃ karontiyeva.
Thus, all these seven kinds of food are not permissible for those observing the piṇḍapāta dhutaṅga, as they cause a breach of the dhutaṅga.
Như vậy, bảy loại vật thực này không được phép cho những vị thực hành hạnh đầu đà khất thực (piṇḍapātika), vì chúng làm phá vỡ hạnh đầu đà.
214. Aparānipi cīvarakkhandhake (mahāva. 350) visākhāya varaṃ yācitvā dinnāni āgantukabhattaṃ gamikabhattaṃ gilānabhattaṃ gilānupaṭṭhākabhattanti cattāri bhattāni pāḷiyaṃ āgatāneva.
214. Also, the four kinds of food mentioned in the Cīvarakkhandhaka that Visākhā requested and were given—guest-food (āgantuka-bhatta), departing-monk-food (gamika-bhatta), sick-monk-food (gilāna-bhatta), and sick-attendant-food (gilānupaṭṭhāka-bhatta)—are found in the Pāḷi.
214. Bốn loại vật thực khác cũng được đề cập trong kinh Cīvarakkhandhaka (Đại Phẩm 350) khi Visākhā cầu xin và được ban cho: vật thực cho khách (āgantukabhatta), vật thực cho người đi đường (gamikabhatta), vật thực cho người bệnh (gilānabhatta), và vật thực cho người chăm sóc người bệnh (gilānupaṭṭhākabhatta).
Tattha āgantukānaṃ dinnaṃ bhattaṃ āgantukabhattaṃ.
Among these, food given to arriving guests is called guest-food.
Trong đó, vật thực được dâng cho khách là āgantukabhatta (vật thực cho khách).
Esa nayo sesesu.
The same method applies to the rest.
Nguyên tắc tương tự áp dụng cho các loại còn lại.
Sace panettha āgantukabhattānipi āgantukāpi bahū honti, sabbesaṃ ekekaṃ gāhetabbaṃ.
If there is much guest-food and many guests, each should receive one portion.
Nếu cả vật thực cho khách và số lượng khách đều nhiều, thì mỗi người phải nhận một phần.
Bhattesu appahontesu ṭhitikāya gāhetabbaṃ.
If the food is insufficient, it should be received according to a roster.
Nếu vật thực không đủ, thì phải nhận theo thứ tự.
Eko āgantuko paṭhamameva āgantvā sabbaṃ āgantukabhattaṃ attano gāhetvā nisīdati, sabbaṃ tasseva hoti.
If one arriving guest comes first and takes all the guest-food for himself, then all of it belongs to him.
Một vị khách đến trước tiên và nhận tất cả vật thực cho khách cho mình, thì tất cả đều thuộc về vị đó.
Pacchā āgatehi āgantukehi tena dinnāni paribhuñjitabbāni.
Guests who arrive later should partake of what he gives them.
Các vị khách đến sau phải thọ dụng những gì được vị đó cho.
Tenapi ekaṃ attano gahetvā sesāni dātabbāni.
He should take one portion for himself and give the rest.
Vị đó cũng nên giữ một phần cho mình và cho phần còn lại.
Ayaṃ uḷāratā.
This is generosity.
Đây là sự rộng lượng.
Sace pana paṭhamaṃ āgantvāpi attano aggahetvā tuṇhībhūto nisīdati, pacchā āgatehi saddhiṃ paṭipāṭiyā gaṇhitabbaṃ.
But if he arrives first and does not take anything for himself, but sits silently, then it should be received in turn along with those who arrive later.
Tuy nhiên, nếu vị đó đến trước mà không nhận cho mình, rồi ngồi im lặng, thì phải nhận theo thứ tự cùng với những vị đến sau.
Sace niccaṃ āgantukā āgacchanti, āgatadivaseyeva bhuñjitabbaṃ.
If guests arrive regularly, it should be partaken of on the day of arrival.
Nếu khách đến thường xuyên, thì phải thọ dụng ngay trong ngày đến.
Antarantarā ce āgacchanti, dve tīṇi divasāni bhuñjitabbaṃ.
If they arrive intermittently, it may be partaken of for two or three days.
Nếu khách đến không thường xuyên, thì có thể thọ dụng trong hai hoặc ba ngày.
Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘satta divasāni bhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
In the Mahāpaccariya, however, it is stated that "it is permissible to partake for seven days."
Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya có nói: “Được phép thọ dụng trong bảy ngày”.
Āvāsiko katthaci gantvā āgato, tenapi āgantukabhattaṃ bhuñjitabbaṃ.
If a resident monk goes somewhere and returns, he too should partake of the guest-food.
Một vị tỳ-khưu trú xứ đi đâu đó rồi quay về, vị đó cũng nên thọ dụng vật thực cho khách.
Sace pana taṃ vihāre nibandhāpitaṃ hoti, vihāre gāhetabbaṃ.
However, if it is designated for the monastery, it should be received in the monastery.
Tuy nhiên, nếu vật thực đó được thiết lập cố định tại tịnh xá, thì phải nhận tại tịnh xá.
Atha vihāro dūre hoti, āsanasālāya nibandhāpitaṃ, āsanasālāya gāhetabbaṃ.
If the monastery is far away and it is designated for the assembly hall, it should be received in the assembly hall.
Nếu tịnh xá ở xa, và vật thực được thiết lập cố định tại sảnh đường tọa cụ, thì phải nhận tại sảnh đường tọa cụ.
Sace pana dāyakā ‘‘āgantukesu asati āvāsikāpi bhuñjantū’’ti vadanti, vaṭṭati, avutte pana na vaṭṭati.
But if the donors say, "If there are no guests, the resident monks may also partake," then it is permissible. Otherwise, it is not permissible.
Tuy nhiên, nếu thí chủ nói: “Nếu không có khách, thì những vị trú xứ cũng hãy thọ dụng”, thì điều này được phép. Nếu không được nói, thì không được phép.
Gamikabhattepi ayameva kathāmaggo.
The same method of explanation applies to gamikabhatta (meal for a departing monk).
Đối với vật thực cho người đi đường (gamikabhatta) cũng là phương pháp thuyết giảng này.
Ayaṃ pana viseso – āgantuko āgantukabhattameva labhati, gamiko āgantukabhattampi gamikabhattampi.
But this is the distinction: an arriving monk receives only āgantukabhatta (meal for an arriving monk), a departing monk receives both āgantukabhatta and gamikabhatta.
Tuy nhiên, đây là điểm khác biệt: người khách đến (āgantuka) chỉ nhận được vật thực cho khách đến (āgantukabhatta), còn người đi đường (gamika) thì nhận được cả vật thực cho khách đến và vật thực cho người đi đường.
Āvāsikopi pakkamitukāmo gamiko hoti, gamikabhattaṃ labhati.
A resident monk who wishes to depart also becomes a departing monk and receives gamikabhatta.
Ngay cả một tỳ khưu trú xứ (āvāsika) nếu muốn đi đường cũng trở thành người đi đường và nhận được vật thực cho người đi đường.
Yathā pana āgantukabhattaṃ, evamidaṃ dve tīṇi vā satta vā divasāni na labhati.
However, unlike āgantukabhatta, this is not received for two, three, or seven days.
Tuy nhiên, giống như vật thực cho khách đến, vật thực này không được nhận trong hai, ba hoặc bảy ngày.
‘‘Gamissāmī’’ti bhuttopi taṃ divasaṃ kenaci kāraṇena na gato, punadivasepi bhuñjituṃ vaṭṭati saussāhattā.
Even if a monk has eaten saying, “I will depart,” but for some reason does not depart that day, he may eat again the next day, due to the intention to depart.
Nếu một vị đã dùng vật thực với ý định “Tôi sẽ đi,” nhưng vì lý do nào đó không đi trong ngày đó, thì ngày hôm sau vẫn được phép dùng vì có sự cố gắng (saussāha).
‘‘Gamissāmī’’ti bhuttassa corā vā panthaṃ rundhanti, udakaṃ vā devo vā vassati, sattho vā na gacchati, saussāhena bhuñjitabbaṃ.
If, having eaten saying, “I will depart,” robbers block the path, or a river rises, or rain falls, or the caravan does not leave, he may eat with the intention to depart.
Nếu một vị đã dùng vật thực với ý định “Tôi sẽ đi,” nhưng bị bọn cướp chặn đường, hoặc nước lũ dâng cao, hoặc trời mưa, hoặc đoàn lữ hành không đi, thì vẫn được phép dùng với sự cố gắng.
‘‘Ete upaddave olokentena dve tayo divase bhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
It is stated in the Mahāpaccariya that it is permissible to eat for two or three days while observing these impediments.
Trong Mahāpaccariya đã nói rằng: “Được phép dùng trong hai, ba ngày khi chờ đợi những trở ngại này.”
‘‘Gamissāmi gamissāmī’’ti pana lesaṃ oḍḍetvā bhuñjituṃ na labhati.
However, one should not eat by merely feigning, "I will depart, I will depart."
Tuy nhiên, không được phép dùng vật thực bằng cách viện cớ “Tôi sẽ đi, tôi sẽ đi.”
Gilānabhattampi sace sabbesaṃ gilānānaṃ pahoti, taṃ sabbesaṃ dātabbaṃ.
If gilānabhatta (meal for the sick) is sufficient for all sick monks, it should be given to all.
Vật thực cho người bệnh (gilānabhatta), nếu đủ cho tất cả người bệnh, thì nên cấp cho tất cả.
No ce, ṭhitikaṃ katvā gāhetabbaṃ.
If not, it should be given according to the established order.
Nếu không đủ, thì nên cấp theo thứ tự ưu tiên (ṭhitika).
Eko gilāno arogarūpo sakkoti antogāmaṃ gantuṃ, eko na sakkoti, ayaṃ mahāgilāno nāma, etassa gilānabhattaṃ dātabbaṃ.
If one sick monk is well enough to go into the village, and another is unable, the latter is called a seriously ill monk (mahāgilāno), and gilānabhatta should be given to him.
Nếu có một người bệnh có vẻ khỏe mạnh có thể đi vào làng, và một người không thể đi, thì người này được gọi là bệnh nặng (mahāgilāna), vật thực cho người bệnh nên cấp cho vị ấy.
Dve mahāgilānā, eko lābhī abhiññāto bahuṃ khādanīyabhojanīyaṃ labhati, eko anātho appalābhatāya antogāmaṃ pavisati, etassa gilānabhattaṃ dātabbaṃ.
If there are two seriously ill monks, and one is well-known for receiving much solid and soft food, while the other is helpless and goes into the village due to little gain, gilānabhatta should be given to the latter.
Nếu có hai người bệnh nặng, một người có nhiều lợi lộc, được biết đến là nhận được nhiều đồ ăn thức uống, còn một người không có ai giúp đỡ, vì ít lợi lộc mà phải vào làng, thì vật thực cho người bệnh nên cấp cho vị ấy.
Gilānabhatte divasaparicchedo natthi, yāva rogo na vūpasammati, sappāyabhojanaṃ abhuñjanto na yāpeti, tāva bhuñjitabbaṃ.
There is no time limit for gilānabhatta; it should be eaten as long as the illness does not subside, and one cannot subsist without suitable food.
Đối với vật thực cho người bệnh, không có giới hạn ngày, được phép dùng cho đến khi bệnh không thuyên giảm và không thể sống được nếu không dùng thức ăn phù hợp (sappāyabhojana).
Yadā pana missakayāguṃ vā missakabhattaṃ vā bhuttassapi rogo na kuppati, tato paṭṭhāya na bhuñjitabbaṃ.
But when, even after eating mixed gruel or mixed rice, the illness does not worsen, then it should no longer be eaten.
Tuy nhiên, khi dùng cháo hỗn hợp (missakayāgu) hoặc vật thực hỗn hợp (missakabhatta) mà bệnh không tái phát, thì từ đó trở đi không nên dùng nữa.
Gilānupaṭṭhākabhattampi yaṃ sabbesaṃ pahoti, taṃ sabbesaṃ dātabbaṃ.
If gilānupaṭṭhākabhatta (meal for the sick attendant) is sufficient for all sick attendants, it should be given to all.
Vật thực cho người chăm sóc bệnh nhân (gilānupaṭṭhākabhatta), nếu đủ cho tất cả, thì nên cấp cho tất cả.
No ce pahoti, ṭhitikaṃ katvā gāhetabbaṃ.
If it is not sufficient, it should be given according to the established order.
Nếu không đủ, thì nên cấp theo thứ tự ưu tiên.
Idampi dvīsu gilānesu mahāgilānupaṭṭhākassa gāhetabbaṃ, dvīsu mahāgilānesu anāthagilānupaṭṭhākassa.
This, too, should be given to the attendant of a seriously ill monk among two sick monks, and to the attendant of a helpless sick monk among two seriously ill monks.
Vật thực này cũng nên cấp cho người chăm sóc bệnh nhân nặng trong số hai người bệnh, và cho người chăm sóc bệnh nhân không có ai giúp đỡ trong số hai người bệnh nặng.
Yaṃ kulaṃ gilānabhattampi deti gilānupaṭṭhākabhattampi, tattha yassa gilānassa gilānabhattaṃ pāpuṇāti, tadupaṭṭhākassapi tattheva gāhetabbaṃ.
If a family gives both gilānabhatta and gilānupaṭṭhākabhatta, then the attendant of the sick monk who receives gilānabhatta should also receive it from the same place.
Nếu một gia đình cúng dường cả vật thực cho người bệnh và vật thực cho người chăm sóc bệnh nhân, thì người chăm sóc bệnh nhân nào có bệnh nhân được nhận vật thực cho người bệnh, người chăm sóc ấy cũng nên nhận vật thực tại đó.
Gilānupaṭṭhākabhattepi divasaparicchedo natthi, yāva gilāno labhati, tāvassa upaṭṭhākopi labhatīti.
There is also no time limit for gilānupaṭṭhākabhatta; as long as the sick monk receives it, his attendant also receives it.
Đối với vật thực cho người chăm sóc bệnh nhân, cũng không có giới hạn ngày, chừng nào người bệnh còn nhận được, thì người chăm sóc cũng nhận được.
Imāni cattāri bhattāni sace evaṃ dinnāni honti ‘‘āgantukagamikagilānagilānupaṭṭhākā mama bhikkhaṃ gaṇhantū’’ti, piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
If these four meals are given with the words, “May arriving monks, departing monks, sick monks, and sick attendants receive my alms,” then it is permissible even for piṇḍapātika monks (alms-round practitioners).
Bốn loại vật thực này, nếu được cúng dường với lời nói “Nguyện khách đến, người đi đường, người bệnh, và người chăm sóc bệnh nhân của tôi hãy thọ nhận vật thực,” thì những vị hành hạnh khất thực (piṇḍapātika) cũng được phép dùng.
Sace pana ‘‘āgantukādīnaṃ catunnaṃ bhattaṃ nibandhāpemi, mama bhattaṃ gaṇhantū’’ti evaṃ dinnāni honti, piṇḍapātikānaṃ na vaṭṭati.
But if they are given with the words, “I establish meals for the four: arriving monks, etc.; may they receive my meal,” then it is not permissible for piṇḍapātika monks.
Tuy nhiên, nếu được cúng dường với lời nói “Tôi cúng dường vật thực cố định cho bốn loại người: khách đến, v.v., nguyện họ hãy thọ nhận vật thực của tôi,” thì những vị hành hạnh khất thực không được phép dùng.
215. Aparānipi dhurabhattaṃ kuṭibhattaṃ vārakabhattanti tīṇi bhattāni.
There are three other meals: dhurabhatta, kuṭibhatta, and vārakabhatta.
215. Còn có ba loại vật thực khác: vật thực thường xuyên (dhurabhatta), vật thực tại tịnh xá (kuṭibhatta), và vật thực theo phiên (vārakabhatta).
Tattha dhurabhattanti niccabhattaṃ vuccati, taṃ duvidhaṃ saṅghikañca puggalikañca.
Among these, dhurabhatta is called a permanent meal, and it is of two kinds: Saṅghika (belonging to the Saṅgha) and Puggala (belonging to an individual).
Trong đó, dhurabhatta được gọi là vật thực thường xuyên (niccabhatta), có hai loại: của Tăng (saṅghika) và của cá nhân (puggalika).
Tattha yaṃ ‘‘saṅghassa dhurabhattaṃ demā’’ti nibandhāpitaṃ, taṃ salākabhattagatikaṃ.
That which is established with the words, “We give permanent meals to the Saṅgha,” falls under salākabhatta (ticket-meal).
Trong đó, vật thực được cúng dường với lời nói “Chúng tôi cúng dường vật thực thường xuyên cho Tăng,” thì thuộc loại vật thực theo phiếu (salākabhatta).
‘‘Mama nibaddhabhikkhaṃ gaṇhantū’’ti vatvā dinnaṃ pana piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
However, that which is given with the words, “May they regularly receive my alms,” is permissible even for piṇḍapātika monks.
Tuy nhiên, nếu được cúng dường với lời nói “Nguyện quý vị thọ nhận vật thực cố định của tôi,” thì những vị hành hạnh khất thực cũng được phép dùng.
Puggalikepi ‘‘tumhākaṃ dhurabhattaṃ dammī’’ti vutte piṇḍapātiko ce, na vaṭṭati, ‘‘mama nibaddhabhikkhaṃ gaṇhathā’’ti vutte pana vaṭṭati, sāditabbaṃ.
In the case of a Puggala (individual) meal, if it is said, “I give you a permanent meal,” and the monk is a piṇḍapātika, it is not permissible; but if it is said, “Receive my regular alms,” then it is permissible and may be accepted.
Đối với vật thực cá nhân (puggalika), nếu được nói “Tôi cúng dường vật thực thường xuyên cho quý vị,” thì nếu là vị hành hạnh khất thực, không được phép dùng; nhưng nếu được nói “Nguyện quý vị thọ nhận vật thực cố định của tôi,” thì được phép dùng, nên thọ nhận.
Sace pacchā katipāhe vītivatte ‘‘dhurabhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, mūle suṭṭhu sampaṭicchitattā vaṭṭati.
If, after a few days have passed, it is said, “Receive the permanent meal,” it is permissible because it was originally accepted well.
Nếu sau đó vài ngày, người cúng dường nói “Hãy thọ nhận vật thực thường xuyên,” thì vẫn được phép dùng vì ban đầu đã được chấp nhận tốt.
Kuṭibhattaṃ nāma yaṃ saṅghassa āvāsaṃ kāretvā ‘‘amhākaṃ senāsanavāsino amhākaṃyeva bhattaṃ gaṇhantū’’ti evaṃ nibandhāpitaṃ, taṃ salākabhattagatikameva hoti, gāhetvā bhuñjitabbaṃ.
Kuṭibhatta is that which is established by constructing a dwelling for the Saṅgha with the words, “May the residents of our monastery receive only our meal”; this also falls under salākabhatta and should be received and eaten.
Kuṭibhatta là vật thực được cúng dường bằng cách xây dựng một trú xứ cho Tăng và nói “Nguyện những vị sống trong chỗ ở của chúng tôi chỉ nhận vật thực của chúng tôi,” thì vật thực này cũng thuộc loại vật thực theo phiếu (salākabhatta), nên thọ nhận và dùng.
‘‘Amhākaṃ senāsanavāsino amhākaṃyeva bhikkhaṃ gaṇhantū’’ti vutte pana piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
However, if it is said, “May the residents of our monastery receive only our alms,” then it is permissible even for piṇḍapātika monks.
Tuy nhiên, nếu được nói “Nguyện những vị sống trong chỗ ở của chúng tôi chỉ nhận vật thực của chúng tôi,” thì những vị hành hạnh khất thực cũng được phép dùng.
Yaṃ pana puggale pasīditvā tassa āvāsaṃ katvā ‘‘tumhākaṃ demā’’ti dinnaṃ, taṃ tasseva hoti, tasmiṃ katthaci gate nissitakehi bhuñjitabbaṃ.
But that which is given to an individual, out of faith in him, by constructing a dwelling for him and saying, “We give it to you,” belongs to him alone, and if he goes somewhere, his dependants may eat it.
Còn vật thực được cúng dường cho một cá nhân (puggala) vì lòng tín kính đối với vị ấy, sau khi xây dựng chỗ ở cho vị ấy và nói “Chúng tôi cúng dường cho quý vị,” thì vật thực đó thuộc về riêng vị ấy; nếu vị ấy đi đâu đó, thì những người nương tựa vị ấy được phép dùng.
Vārakabhattaṃ nāma dubbhikkhasamaye ‘‘vārena bhikkhū jaggissāmā’’ti dhuragehato paṭṭhāya dinnaṃ, tampi bhikkhāvacanena dinnaṃ piṇḍapātikānaṃ vaṭṭati, ‘‘vārakabhatta’’nti vutte pana salākabhattagatikaṃ hoti.
Vārakabhatta is that which is given by households in rotation, starting from a permanent residence, during a famine, with the words, “We will sustain the bhikkhus in turn.” If it is given with the word "alms," it is permissible for piṇḍapātika monks; but if it is said "vārakabhatta," it falls under salākabhatta.
Vārakabhatta là vật thực được cúng dường theo phiên, bắt đầu từ nhà chính trong thời kỳ đói kém, với lời nói “Chúng tôi sẽ chăm sóc các tỳ khưu theo phiên.” Vật thực này, nếu được cúng dường với lời “vật thực” (bhikkhāvacana), thì những vị hành hạnh khất thực được phép dùng; nhưng nếu được nói “vārakabhatta,” thì thuộc loại vật thực theo phiếu (salākabhatta).
Sace taṇḍulādīni pesenti ‘‘sāmaṇerā pacitvā dentū’’ti, piṇḍapātikānaṃ vaṭṭati.
If they send rice and other grains, saying, “May the novices cook and give them,” it is permissible for piṇḍapātika monks.
Nếu họ gửi gạo, v.v., và nói “Nguyện các Sa-di nấu và cúng dường,” thì những vị hành hạnh khất thực được phép dùng.
Iti imāni ca tīṇi, āgantukabhattādīni ca cattārīti satta, tāni saṅghabhattādīhi saha cuddasa bhattāni honti.
Thus, these three, together with the four āgantukabhatta and so on, make seven, which, combined with Saṅghabhatta and the others, amount to fourteen meals.
Như vậy, ba loại này và bốn loại vật thực cho khách đến, v.v., là bảy loại; cùng với vật thực cho Tăng, v.v., là mười bốn loại vật thực.
216. Aṭṭhakathāyaṃ pana vihārabhattaṃ aṭṭhakabhattaṃ catukkabhattaṃ guḷhakabhattanti aññānipi cattāri bhattāni vuttāni.
However, in the Aṭṭhakathā, four other meals are mentioned: vihārabhatta, aṭṭhakabhatta, catukkabhatta, and guḷhakabhatta.
216. Tuy nhiên, trong Chú Giải (Aṭṭhakathā) còn đề cập bốn loại vật thực khác: vihārabhatta, aṭṭhakabhatta, catukkabhatta, và guḷhakabhatta.
Tattha vihārabhattaṃ nāma vihāre tatruppādabhattaṃ, taṃ saṅghabhattena saṅgahitaṃ.
Among these, vihārabhatta is a meal originating from within the monastery; it is included under Saṅghabhatta.
Trong đó, vihārabhatta là vật thực phát sinh tại tịnh xá, được bao gồm trong vật thực cho Tăng (saṅghabhatta).
Taṃ pana tissamahāvihāracittalapabbatādīsu paṭisambhidāppattehi khīṇāsavehi yathā piṇḍapātikānampi sakkā honti paribhuñjituṃ, tathā paṭiggahitattā tādisesu ṭhānesu piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
However, in places like Tissamahāvihāra and Cittala Pabbata, where it was received by Arahants who had attained the Analytical Knowledges (Paṭisambhidā), in such a way that it was permissible for piṇḍapātika monks to consume it, it is permissible for piṇḍapātika monks in such places.
Vật thực này, tại các nơi như Tissamahāvihāra, Cittalapabbata, v.v., do các vị A-la-hán đã đạt được Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidāppatta) thọ nhận một cách mà ngay cả các vị hành hạnh khất thực cũng có thể dùng, do đó tại những nơi như vậy, các vị hành hạnh khất thực cũng được phép dùng.
‘‘Aṭṭhannaṃ bhikkhūnaṃ dema, catunnaṃ demā’’ti evaṃ dinnaṃ pana aṭṭhakabhattañceva catukkabhattañca, tampi bhikkhāvacanena dinnaṃ piṇḍapātikānaṃ vaṭṭati.
That which is given with the words, “We give to eight bhikkhus, we give to four,” is aṭṭhakabhatta and catukkabhatta respectively; this too, if given with the word "alms," is permissible for piṇḍapātika monks.
Vật thực được cúng dường với lời nói “Chúng tôi cúng dường cho tám tỳ khưu, chúng tôi cúng dường cho bốn tỳ khưu,” thì được gọi là aṭṭhakabhatta và catukkabhatta, vật thực này nếu được cúng dường với lời “vật thực” (bhikkhāvacana), thì những vị hành hạnh khất thực được phép dùng.
Mahābhisaṅkhārena atirasakapūvena pattaṃ thaketvā dinnaṃ guḷhakabhattaṃ nāma.
That which is given by covering the bowl with a very delicious cake, prepared with great care, is called guḷhakabhatta.
Vật thực được cúng dường bằng cách đậy bát với một loại bánh ngọt rất ngon được chuẩn bị công phu (mahābhisaṅkhāra) được gọi là guḷhakabhatta.
Imāni tīṇi salākabhattagatikāneva.
These three fall under salākabhatta.
Ba loại này thuộc loại vật thực theo phiếu (salākabhatta).
Aparampi guḷhakabhattaṃ nāma atthi, idhekacce manussā mahādhammassavanañca vihārapūjañca kāretvā ‘‘sakalasaṅghassa dātuṃ na sakkoma, dve tīṇi bhikkhusatāni amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhantū’’ti bhikkhuparicchedajānanatthaṃ guḷhake denti, idaṃ piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
There is another kind of guḷhakabhatta. Here, some people, after arranging a great Dhamma discourse and a monastery offering, give molasses-cakes to determine the number of monks, saying, “We cannot give to the entire Saṅgha; may two or three hundred bhikkhus receive our alms.” This is permissible even for piṇḍapātika monks.
Cũng có một loại guḷhakabhatta khác: ở đây, một số người sau khi tổ chức đại pháp hội (mahādhammassavana) và cúng dường tịnh xá (vihārapūjā) thì nói “Chúng tôi không thể cúng dường toàn thể Tăng chúng, nguyện hai ba trăm tỳ khưu hãy thọ nhận vật thực của chúng tôi,” và họ cúng dường những viên đường thốt nốt (guḷhaka) để biết số lượng tỳ khưu; vật thực này những vị hành hạnh khất thực cũng được phép dùng.
217. Gilānapaccayabhājanīyaṃ pana evaṃ veditabbaṃ (cūḷava. aṭṭha. 325 pakkhikabhattādikathā) – sappiādīsu bhesajjesu rājarājamahāmattā sappissa tāva kumbhasatampi kumbhasahassampi vihāraṃ pesenti, ghaṇṭiṃ paharitvā therāsanato paṭṭhāya gahitabhājanaṃ pūretvā dātabbaṃ, piṇḍapātikānampi vaṭṭati.
Gilānapaccayabhājanīyaṃ (The distribution of requisites for the sick) should be understood thus: regarding medicines like ghee, kings, mahāmattas (high-ranking officials), etc., send even a hundred or a thousand jars of ghee to the monastery. A bell should be rung, and the collected bowls should be filled, starting from the seat of the elder monks; this is permissible even for piṇḍapātika monks.
217. Phần phân chia thuốc men cho người bệnh (gilānapaccayabhājanīya) nên được hiểu như sau (Cūḷava. Aṭṭha. 325, câu chuyện về vật thực theo phiên, v.v.): trong các loại thuốc như bơ sữa (sappi), các vị vua và đại thần có thể gửi hàng trăm hoặc hàng ngàn bình bơ sữa đến tịnh xá. Sau khi đánh chuông, nên đổ đầy bát đã nhận, bắt đầu từ chỗ ngồi của các vị trưởng lão; những vị hành hạnh khất thực cũng được phép dùng.
Sace alasajātikā mahātherā pacchā āgacchanti, ‘‘bhante, vīsativassānaṃ dīyati, tumhākaṃ ṭhitikā atikkantā’’ti na vattabbā, ṭhitikaṃ ṭhapetvā tesaṃ datvā pacchā ṭhitikāya dātabbaṃ.
If indolent great elder monks arrive later, it should not be said, “Venerables, it is given to those of twenty vassas (rainy seasons); your turn has passed.” Rather, the established order should be suspended, it should be given to them first, and then to those in the established order.
Nếu các vị đại trưởng lão (mahāthera) lười biếng đến sau, thì không nên nói “Bạch Đại đức, bơ sữa được cấp cho những vị có hai mươi hạ lạp, phần của Đại đức đã quá hạn.” Thay vào đó, nên giữ lại thứ tự ưu tiên (ṭhitika), cấp cho các vị ấy trước, sau đó mới cấp theo thứ tự ưu tiên.
‘‘Asukavihāre bahu sappi uppanna’’nti sutvā yojanantaravihāratopi bhikkhū āgacchanti, sampattasampattānampi ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dātabbaṃ.
If bhikkhus come even from a monastery a yojana away, having heard that “much ghee has been produced in such-and-such a monastery,” it should be given to those who arrive, starting from their place in the order of seniority.
Nghe nói “Có rất nhiều bơ sữa tại tịnh xá kia,” các tỳ khưu từ tịnh xá cách xa một do tuần cũng đến. Nên cấp cho những vị đến, bắt đầu từ vị trí mà họ đang đứng.
Asampattānampi upacārasīmaṃ paviṭṭhānaṃ antevāsikādīsu gaṇhantesu dātabbameva.
Even for those who have not arrived but have entered the upacārasīmā, if their pupils or others receive it on their behalf, it must be given.
Ngay cả đối với những vị chưa đến nhưng đã vào khu vực upacāra-sīmā (giới hạn sinh hoạt), nếu các đệ tử v.v. của họ nhận thì cũng phải cấp phát.
‘‘Bahiupacārasīmāya ṭhitānaṃ dethā’’ti vadanti, na dātabbaṃ.
If they say, "Give it to those standing outside the upacārasīmā," it should not be given.
Nếu có người nói: “Hãy cấp phát cho những vị đang ở bên ngoài upacāra-sīmā,” thì không được cấp phát.
Sace pana upacārasīmaṃ okkantehi ekābaddhā hutvā attano vihāradvāre antovihāreyeva vā honti, parisavasena vaḍḍhitā nāma sīmā hoti, tasmā dātabbā.
However, if those who have entered the upacārasīmā are connected to the monastery entrance or within the monastery itself, then the sīmā is considered to have expanded due to the assembly, therefore it should be given.
Tuy nhiên, nếu những vị đã vào upacāra-sīmā và những vị đang ở ngay cổng tu viện hoặc bên trong tu viện hợp thành một nhóm, thì sīmā (giới hạn) được xem là đã mở rộng do sự có mặt của hội chúng, do đó phải cấp phát.
Saṅghanavakassa dinnepi pacchā āgatānaṃ dātabbameva.
Even if it has been given to a junior bhikkhu of the Saṅgha, it must still be given to those who arrive later.
Ngay cả khi đã cấp phát cho một Tỳ-khưu trẻ tuổi trong Tăng đoàn, thì những vị đến sau cũng phải được cấp phát.
Dutiyabhāge pana therāsanaṃ āruḷhe āgatānaṃ paṭhamabhāgo na pāpuṇāti, dutiyabhāgato vassaggena dātabbaṃ.
But in the second division, for those who arrive after a senior bhikkhu has taken his seat, the first division does not apply; it should be given by seniority from the second division.
Tuy nhiên, ở phần thứ hai, khi các vị Trưởng lão đã an tọa, thì những vị đến sau không được nhận phần đầu tiên, mà phải được cấp phát phần thứ hai theo số năm an cư.
Antoupacārasīmaṃ pavisitvā yattha katthaci dinnaṃ hoti, sabbaṃ sannipātaṭṭhāneyeva bhājetabbaṃ.
Whatever has been given anywhere within the upacārasīmā, all of it must be distributed at the place of assembly.
Bất cứ vật gì đã được cấp phát ở bất cứ nơi nào sau khi đã vào upacāra-sīmā, tất cả đều phải được phân chia tại nơi tập trung.
Yasmiṃ vihāre dasa bhikkhū, daseva ca sappikumbhā dīyanti, ekekakumbhavasena bhājetabbaṃ.
If there are ten bhikkhus in a monastery and ten jars of ghee are given, it should be distributed one jar per bhikkhu.
Trong tu viện nào có mười Tỳ-khưu và mười vò bơ sữa được cúng dường, thì phải phân chia mỗi vị một vò.
Eko sappikumbho hoti, dasabhikkhūhi bhājetvā gahetabbaṃ.
If there is one jar of ghee, it should be divided among the ten bhikkhus and taken.
Nếu chỉ có một vò bơ sữa và mười Tỳ-khưu, thì phải chia ra rồi nhận.
Sace ‘‘yathāṭhitaṃyeva amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhanti, duggahitaṃ, taṃ gatagataṭṭhāne saṅghikameva hoti.
If they take it saying, “What is currently here is ours,” it is improperly taken, and that ghee remains Saṅghika wherever it is taken.
Nếu họ nhận mà nói rằng: “Phần của chúng tôi là như đã được đặt,” thì đó là sự nhận sai, và vật đó sẽ thuộc về Tăng đoàn ở bất cứ nơi nào họ đến.
Kumbhaṃ pana āvajjetvā thālake thokaṃ sappiṃ katvā ‘‘idaṃ mahātherassa pāpuṇāti, avasesaṃ amhākaṃ pāpuṇātī’’ti vatvā tampi kumbheyeva ākiritvā yathicchitaṃ gahetvā gantabbaṃ.
However, one may tilt the jar, place a little ghee in a bowl, say, “This belongs to the Great Elder, and the rest is ours,” then pour that back into the jar, and take what is desired and depart.
Tuy nhiên, có thể nghiêng vò, đổ một ít bơ sữa vào đĩa, nói rằng: “Phần này thuộc về Trưởng lão, phần còn lại thuộc về chúng tôi,” rồi đổ phần đó trở lại vào vò và nhận theo ý muốn rồi đi.
Sace thinaṃ sappi hoti, lekhaṃ katvā ‘‘lekhato parabhāgo mahātherassa pāpuṇāti, avasesaṃ amhāka’’nti gahitampi suggahitaṃ.
If the ghee is solid, one may make a mark and take it saying, “The portion beyond the mark belongs to the Great Elder, and the rest is ours.” This is also properly taken.
Nếu bơ sữa đặc, thì có thể vạch một đường và nói: “Phần phía trên đường vạch thuộc về Trưởng lão, phần còn lại thuộc về chúng tôi,” và việc nhận như vậy là đúng.
Vuttaparicchedato ūnādhikesu bhikkhūsu sappikumbhesu ca eteneva upāyena bhājetabbaṃ.
In cases where the number of bhikkhus or ghee jars is more or less than the stated allocation, distribution should be done by this same method.
Trong trường hợp số Tỳ-khưu hoặc số vò bơ sữa ít hơn hoặc nhiều hơn số đã nêu, cũng phải phân chia theo cách này.
Sace paneko bhikkhu, eko kumbho hoti, ghaṇṭiṃ paharitvā ‘‘ayaṃ mayhaṃ pāpuṇātī’’tipi gahetuṃ vaṭṭati.
If there is only one bhikkhu and one jar, it is permissible to strike the bell and take it, saying, “This belongs to me.”
Tuy nhiên, nếu chỉ có một Tỳ-khưu và một vò, thì cũng được phép đánh chuông và nhận rằng: “Vò này thuộc về tôi.”
‘‘Ayaṃ paṭhamabhāgo mayhaṃ pāpuṇāti, ayaṃ dutiyabhāgo’’ti evaṃ thokaṃ thokampi pāpetuṃ vaṭṭati.
It is also permissible to assign it bit by bit, saying, “This first portion is mine, and this is the second portion.”
Cũng được phép nhận từng chút một, chẳng hạn: “Đây là phần đầu tiên của tôi, đây là phần thứ hai.”
Esa nayo navanītādīsupi.
This method also applies to fresh butter and other items.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho bơ tươi v.v.
Yasmiṃ pana vippasannatilatelādimhi lekhā na santiṭṭhati, taṃ uddharitvā bhājetabbaṃ.
However, in the case of clear sesame oil or other such liquids where a mark cannot be made, it must be scooped out and divided.
Tuy nhiên, đối với các loại dầu mè tinh khiết v.v. mà không thể vạch đường, thì phải múc ra rồi phân chia.
Siṅgiveramaricādibhesajjampi avasesapattathālakādisamaṇaparikkhāropi sabbo vuttānurūpeneva nayena suṭṭhu sallakkhetvā bhājetabboti.
Medicines such as ginger and pepper, and all other requisites for recluses, such as bowls and plates, should also be carefully considered and divided according to the aforementioned method.
Các loại thuốc như gừng, tiêu v.v. và tất cả các vật dụng của Sa-môn khác như bình bát, đĩa v.v. cũng phải được xem xét kỹ lưỡng và phân chia theo nguyên tắc đã nêu.
Ayaṃ gilānapaccayabhājanīyakathā.
This concludes the section on the distribution of requisites for the sick.
Đây là câu chuyện về việc phân chia vật dụng cho người bệnh.
218. Idāni senāsanaggāhe vinicchayo veditabbo (cūḷava. aṭṭha. 318) – ayaṃ senāsanaggāho nāma duvidho hoti utukāle ca vassāvāse ca.
218. Now, the decision regarding the taking of lodgings (senāsana) should be understood (Cūḷava. aṭṭha. 318)—this taking of lodgings is of two kinds: during the fair season and during the Rains retreat.
218. Bây giờ, cần phải biết sự phân định về việc nhận chỗ ở (Cūḷava. aṭṭha. 318) – việc nhận chỗ ở này có hai loại: trong mùa thường và trong mùa an cư.
Tattha utukāle tāva keci āgantukā bhikkhū purebhattaṃ āgacchanti, keci pacchābhattaṃ paṭhamayāmaṃ majjhimayāmaṃ pacchimayāmaṃ vā.
Firstly, regarding the fair season: some visiting bhikkhus arrive before noon, some after noon, some during the first watch of the night, some during the middle watch, or some during the last watch.
Trước hết, trong mùa thường, một số Tỳ-khưu khách đến trước bữa ăn, một số đến sau bữa ăn, vào canh đầu, canh giữa hoặc canh cuối.
Ye yadā āgacchanti, tesaṃ tadāva bhikkhū uṭṭhāpetvā senāsanaṃ dātabbaṃ, akālo nāma natthi.
Whenever they arrive, lodgings should be assigned to them by making other bhikkhus get up; there is no inappropriate time.
Khi nào họ đến, thì lúc đó phải sắp xếp chỗ ở cho họ bằng cách cho các Tỳ-khưu khác nhường chỗ, không có cái gọi là không đúng lúc.
Senāsanapaññāpakena pana paṇḍitena bhavitabbaṃ, ekaṃ vā dve vā mañcaṭṭhānāni ṭhapetabbāni.
However, the one who assigns the lodgings should be discerning, and one or two bed spaces should be kept reserved.
Tuy nhiên, vị Tỳ-khưu sắp xếp chỗ ở phải là người có trí tuệ, và phải dành sẵn một hoặc hai chỗ giường.
Sace vikāle eko vā dve vā therā āgacchanti, te vattabbā ‘‘bhante, ādito paṭṭhāya vuṭṭhāpiyamāne sabbepi bhikkhū ubbhaṇḍikā bhavissanti, tumhe amhākaṃ vasanaṭṭhāne vasathā’’ti.
If one or two senior bhikkhus arrive at an improper time (late at night), they should be told, “Venerable sirs, if all bhikkhus are made to get up from the beginning, they will all become burdened with moving. Please stay in our dwelling places.”
Nếu vào lúc không thích hợp, một hoặc hai vị Trưởng lão đến, thì phải nói với họ rằng: “Bạch chư Tôn đức, nếu chúng con bắt đầu cho các Tỳ-khưu nhường chỗ, thì tất cả các Tỳ-khưu sẽ phải di chuyển hành lý, vậy xin chư Tôn đức hãy ở tại chỗ ở của chúng con.”
Bahūsu pana āgatesu vuṭṭhāpetvā paṭipāṭiyā dātabbaṃ.
However, if many arrive, they should be made to get up and given in order.
Tuy nhiên, nếu nhiều vị đến, thì phải cho các vị khác nhường chỗ và sắp xếp theo thứ tự.
Sace ekekaṃ pariveṇaṃ pahoti, ekekaṃ pariveṇaṃ dātabbaṃ.
If each pariveṇa is sufficient, one pariveṇa should be given to each.
Nếu mỗi pariveṇa (khu nhà) đủ chỗ, thì phải cấp phát mỗi vị một pariveṇa.
Tattha aggisālādīghasālāmaṇḍalamāḷādayo sabbepi tasseva pāpuṇanti.
In that case, the fire-halls, long halls, round pavilions, and all similar structures belong to that same bhikkhu.
Trong đó, tất cả các nhà như nhà lửa, sảnh dài, nhà tròn, v.v. đều thuộc về vị đó.
Evaṃ appahonte pāsādaggena dātabbaṃ, pāsādesu appahontesu ovarakaggena dātabbaṃ, ovarakesu appahontesu seyyaggena dātabbaṃ, seyyaggesu appahontesu mañcaṭṭhānena dātabbaṃ, mañcaṭṭhāne appahonte ekapīṭhakaṭṭhānavasena dātabbaṃ, bhikkhuno pana ṭhitokāsamattaṃ na gāhetabbaṃ.
If it is not sufficient in this way, it should be given by pāsāda (palace/mansion); if not sufficient by pāsāda, by ovarakaka (chamber); if not sufficient by ovarakaka, by seyya (bed); if not sufficient by seyya, by mañcaṭṭhāna (bed-space); if not sufficient by mañcaṭṭhāna, by pīṭhakaṭṭhāna (seat-space). However, a standing space for a bhikkhu should not be taken.
Nếu không đủ như vậy, thì phải cấp phát theo thứ tự ưu tiên là pāsāda (lầu), nếu không đủ pāsāda, thì cấp phát theo thứ tự ovarakaka (phòng riêng), nếu không đủ ovarakaka, thì cấp phát theo thứ tự seyya (giường), nếu không đủ seyya, thì cấp phát theo thứ tự chỗ giường, nếu không đủ chỗ giường, thì cấp phát theo thứ tự chỗ ghế. Tuy nhiên, không được chiếm chỉ một chỗ đứng của Tỳ-khưu.
Etañhi senāsanaṃ nāma na hoti.
For this is not considered a senāsana.
Vì đó không được gọi là chỗ ở.
Pīṭhakaṭṭhāne pana appahonte ekaṃ mañcaṭṭhānaṃ vā ekaṃ pīṭhaṭṭhānaṃ vā ‘‘vārena vārena, bhante, vissamathā’’ti tiṇṇaṃ janānaṃ dātabbaṃ.
But if a pīṭhakaṭṭhāna is not sufficient, one mañcaṭṭhāna or one pīṭhakaṭṭhāna should be given to three people, saying, “Venerable sirs, take turns resting.”
Nếu không đủ chỗ ghế, thì một chỗ giường hoặc một chỗ ghế phải được cấp phát cho ba vị luân phiên nhau nghỉ ngơi, nói rằng: “Bạch chư Tôn đức, xin hãy nghỉ ngơi luân phiên.”
Na hi sakkā sītasamaye sabbarattiṃ ajjhokāseva vasituṃ.
For it is not possible to stay outdoors all night in the cold season.
Vì không thể ở ngoài trời suốt đêm trong mùa lạnh.
Mahātherena paṭhamayāmaṃ vissamitvā nikkhamitvā dutiyattherassa vattabbaṃ ‘‘āvuso idha pavisāhī’’ti.
The senior bhikkhu, after resting during the first watch, should come out and say to the second bhikkhu, “Friend, please enter here.”
Vị Trưởng lão phải nghỉ ngơi trong canh đầu, rồi ra ngoài và nói với vị Trưởng lão thứ hai: “Này Hiền giả, hãy vào đây.”
Sace mahāthero niddāgaruko hoti, kālaṃ na jānāti, ukkāsitvā dvāraṃ ākoṭetvā ‘‘bhante kālo jāto, sītaṃ anudahatī’’ti vattabbaṃ.
If the senior bhikkhu is heavy with sleep and does not know the time, one should clear one’s throat, knock on the door, and say, “Venerable sir, it is time, the cold is oppressive.”
Nếu vị Trưởng lão đó nặng giấc, không biết thời gian, thì phải ho khan, gõ cửa và nói: “Bạch Tôn giả, đã đến lúc rồi, trời lạnh quá.”
Tena nikkhamitvā okāso dātabbo, adātuṃ na labhati.
He must then come out and yield the space; he is not allowed to refuse to give it.
Vị đó phải ra ngoài và nhường chỗ, không được phép không nhường.
Dutiyattherenapi majjhimayāmaṃ vissamitvā purimanayeneva itarassa dātabbaṃ.
The second bhikkhu, after resting during the middle watch, must give it to the other in the same manner as before.
Vị Trưởng lão thứ hai cũng phải nghỉ ngơi trong canh giữa, rồi nhường chỗ cho vị khác theo cách tương tự.
Niddāgaruko vuttanayeneva vuṭṭhāpetabbo.
If one is heavy with sleep, one must be roused in the manner described.
Vị nào nặng giấc thì phải được đánh thức theo cách đã nêu.
Evaṃ ekarattiṃ ekamañcaṭṭhānaṃ tiṇṇaṃ dātabbaṃ.
In this way, one mañcaṭṭhāna should be given to three people for one night.
Như vậy, một chỗ giường phải được cấp phát cho ba vị trong một đêm.
Jambudīpe pana ekacce bhikkhū ‘‘senāsanaṃ nāma mañcaṭṭhānaṃ vā pīṭhaṭṭhānaṃ vā kiñcideva kassaci sappāyaṃ hoti, kassaci asappāya’’nti āgantukā hontu vā mā vā, devasikaṃ senāsanaṃ gāhenti.
In Jambudīpa, however, some bhikkhus, thinking that “a senāsana (lodging), whether a bed-space or a seat-space or any other kind, is suitable for some but unsuitable for others,” take lodgings daily, whether they are visiting bhikkhus or not.
Tuy nhiên, ở Jambudīpa, một số Tỳ-khưu, dù là khách hay không, hàng ngày vẫn nhận chỗ ở, cho rằng: “Chỗ ở, dù là chỗ giường hay chỗ ghế, hoặc bất cứ chỗ nào khác, có thể thích hợp với người này nhưng không thích hợp với người khác.”
Ayaṃ utukāle senāsanaggāho nāma.
This is the taking of lodgings during the fair season.
Đây là việc nhận chỗ ở trong mùa thường.
219. Vassāvāse pana atthi āgantukavattaṃ, atthi āvāsikavattaṃ.
219. During the Rains retreat, however, there are duties for visiting bhikkhus (āgantuka-vatta) and duties for resident bhikkhus (āvāsika-vatta).
219. Tuy nhiên, trong mùa an cư, có phận sự của Tỳ-khưu khách và phận sự của Tỳ-khưu thường trú.
Āgantukena tāva sakaṭṭhānaṃ muñcitvā aññattha gantvā vasitukāmena vassūpanāyikadivasameva tattha na gantabbaṃ.
Firstly, a visiting bhikkhu, wishing to leave his own dwelling place and stay elsewhere, should not go there on the very day of the Rains entry.
Trước hết, vị Tỳ-khưu khách muốn rời chỗ của mình để đi ở nơi khác, không nên đi đến đó ngay vào ngày an cư.
Vasanaṭṭhānaṃ vā hi tatra sambādhaṃ bhaveyya, bhikkhācāro vā na sampajjeyya, tena na phāsukaṃ vihareyya, tasmā ‘‘idāni māsamattena vassūpanāyikā bhavissatī’’ti taṃ vihāraṃ pavisitabbaṃ.
For his dwelling place might be crowded, or alms-round might not be sufficient, and he might not live comfortably there. Therefore, he should enter that monastery when he thinks, “Now the Rains entry will occur in about a month.”
Vì chỗ ở ở đó có thể chật chội, hoặc việc khất thực có thể không thuận lợi, khiến vị ấy không thể sống an lạc. Do đó, khi nghĩ: “Chỉ trong một tháng nữa là đến ngày an cư,” vị ấy nên đến tu viện đó.
Tattha māsamattaṃ vasanto sace uddesatthiko, uddesasampattiṃ sallakkhetvā, sace kammaṭṭhāniko, kammaṭṭhānasappāyataṃ sallakkhetvā, sace paccayatthiko, paccayalābhaṃ sallakkhetvā antovasse sukhaṃ vasissati.
Staying there for about a month, if he is studying the Dhamma, he should consider the suitability for study; if he is practicing meditation, he should consider the suitability for meditation; if he is seeking requisites, he should consider the availability of requisites, and then he will dwell comfortably during the Rains retreat.
Ở đó, nếu vị ấy muốn học kinh điển, hãy xem xét sự thuận lợi của việc học; nếu vị ấy là hành giả kammaṭṭhāna, hãy xem xét sự thích hợp của kammaṭṭhāna; nếu vị ấy muốn vật dụng, hãy xem xét sự thuận lợi của việc nhận vật dụng, rồi vị ấy sẽ sống an lạc trong mùa an cư.
Sakaṭṭhānato ca tattha gacchantena na gocaragāmo ghaṭṭetabbo.
When going from his own dwelling place to that place, he should not interfere with the alms-village.
Khi đi từ chỗ của mình đến đó, không nên làm phiền làng khất thực.
Na tattha manussā vattabbā ‘‘tumhe nissāya salākabhattādīni vā yāgukhajjakādīni vā vassāvāsikaṃ vā natthi, ayaṃ cetiyassa parikkhāro, ayaṃ uposathāgārassa, idaṃ tāḷañceva sūci ca, sampaṭicchatha tumhākaṃ vihāra’’nti.
He should not say to the people there, “Because of you, we have no ticket-meals or other things like gruel and solid food, or Rains-residence requisites. This is an offering for the cetiya, this is for the Uposatha-hall, these are iron pins and needles; accept them for your monastery.”
Không nên nói với người dân ở đó rằng: “Vì các vị, chúng tôi không có salākabhatta (thức ăn theo phiếu) v.v., hoặc yāgu-khajjaka (cháo và đồ ăn nhẹ) v.v., hoặc vassāvāsika (y phục an cư). Đây là vật dụng cho bảo tháp, đây là vật dụng cho uposathāgāra (nhà uposatha), đây là lưỡi câu và kim. Xin hãy nhận lấy tu viện của các vị.”
Senāsanaṃ pana jaggitvā dārubhaṇḍamattikābhaṇḍāni paṭisāmetvā gamikavattaṃ pūretvā gantabbaṃ.
However, he should keep the senāsana in order, put away wooden and earthen wares, fulfill the duties of a traveler, and then depart.
Tuy nhiên, sau khi đã chăm sóc chỗ ở, sắp xếp đồ gỗ và đồ gốm, và hoàn thành phận sự của người đi đường, thì phải ra đi.
Evaṃ gacchantenapi daharehi pattacīvarabhaṇḍikāyo ukkhipāpetvā telanāḷikattaradaṇḍādīni gāhetvā chattaṃ paggayha attānaṃ dassentena gāmadvāreneva na gantabbaṃ, paṭicchannena aṭavimaggena gantabbaṃ.
And when going in this way, one should not go through the village gate, displaying oneself by having junior bhikkhus carry one’s bowl-and-robes bundles, taking oil flasks, walking sticks, and holding an umbrella; one should go by a concealed forest path.
Khi đi như vậy, không nên đi qua cổng làng một cách phô trương, bắt các Tỳ-khưu trẻ mang bình bát, y phục và các vật dụng, cầm ống dầu, gậy v.v., và che dù. Mà phải đi bằng con đường rừng kín đáo.
Aṭavimagge asati gumbādīni maddantena na gantabbaṃ, gamikavattaṃ pana pūretvā vitakkaṃ chinditvā suddhacittena gamanavatteneva gantabbaṃ.
If there is no forest path, one should not go trampling bushes and other plants; one should fulfill the duties of a traveler, abandon distracting thoughts, and go with a pure mind, following the proper conduct for traveling.
Nếu không có đường rừng, thì không nên đi bằng cách giẫm đạp lên bụi cây v.v. Mà phải hoàn thành phận sự của người đi đường, đoạn trừ các tà niệm, và đi với tâm thanh tịnh theo đúng phận sự của người đi đường.
Sace pana gāmadvārena maggo hoti, gacchantañca naṃ saparivāraṃ disvā manussā ‘‘amhākaṃ thero viyā’’ti upadhāvitvā ‘‘kuhiṃ, bhante, sabbaparikkhāre gahetvā gacchathā’’ti vadanti, tesu ce eko evaṃ vadati ‘‘vassūpanāyikakālo nāmāyaṃ, yattha antovassenibaddhabhikkhācāro bhaṇḍapaṭicchādanañca labbhati, tattha bhikkhū gacchantī’’ti, tassa ce sutvā te manussā ‘‘bhante, imasmimpi gāme jano bhuñjati ceva nivāseti ca, mā aññattha gacchathā’’ti vatvā mittāmacce pakkositvā sabbe sammantayitvā vihāre nibaddhavattañca salākabhattādīni ca vassāvāsikañca ṭhapetvā ‘‘idheva, bhante, vasathā’’ti yācanti, sabbesaṃ sādituṃ vaṭṭati.
If, however, there is a path through the village gate, and people, seeing him going with his retinue, rush up thinking, “Like our elder!” and say, “Venerable sir, where are you going, taking all your requisites?” and if one among them says, “This is called the Vassupanāyika period, during which regular alms-round and robe-material are obtainable during the Rains-residence, and bhikkhus go there,” and having heard his words, those people say, “Venerable sirs, in this village too, people eat and reside; please do not go elsewhere,” and having said this, they invite their friends and associates, and all consult together, and having established regular maintenance in the monastery, such as tickets for meals and other offerings, and rain-retreat requisites, they entreat, “Venerable sirs, please reside right here.” It is allowable for all to accept it.
Nếu có con đường đi qua cổng làng, và khi người dân thấy vị Tỳ-khưu cùng đoàn tùy tùng đang đi, họ liền chạy đến (nghĩ) “như là vị trưởng lão của chúng ta vậy” và nói: “Bạch ngài, ngài mang tất cả vật dụng đi đâu vậy?” Nếu một người trong số họ nói như vầy: “Đây là thời điểm an cư mùa mưa (vassūpanāyikakāla), nơi nào trong mùa mưa có thể nhận được vật thực khất thực thường xuyên và y phục, thì các Tỳ-khưu đi đến đó.” Nghe lời đó, những người ấy nói: “Bạch ngài, trong làng này người dân cũng ăn và cũng mặc, xin ngài đừng đi nơi khác.” Nói vậy, họ gọi bạn bè, người thân đến, tất cả cùng bàn bạc, rồi thiết lập các bổn phận thường xuyên trong tu viện, các loại vật thực cúng dường theo phiếu (salākabhatta) và y phục an cư, và thỉnh cầu: “Bạch ngài, xin ngài hãy ở lại đây.” Thì tất cả đều được phép chấp nhận.
Sabbañcetaṃ kappiyañceva anavajjañca.
All this is both allowable and blameless.
Tất cả những điều này đều hợp pháp và không có lỗi.
Kurundiyaṃ pana ‘‘kuhiṃ gacchathāti vutte ‘asukaṭṭhāna’nti vatvā ‘kasmā tattha gacchathā’ti vutte ‘kāraṇaṃ ācikkhitabba’’’nti vuttaṃ.
However, in the Kurundi it is stated: “When asked, ‘Where are you going?’ one should say, ‘To such-and-such a place.’ When asked, ‘Why are you going there?’ the reason should be explained.”
Tuy nhiên, trong Kurundī có nói: “Khi được hỏi ‘Đi đâu vậy?’, thì phải nói ‘Đến nơi này’; khi được hỏi ‘Tại sao đi đến đó?’, thì phải nói rõ lý do.”
Ubhayampi panetaṃ suddhacittattāva anavajjaṃ.
Both of these are blameless due to purity of mind.
Cả hai điều này đều không có lỗi vì tâm thanh tịnh.
Idaṃ āgantukavattaṃ nāma.
This is called the Rules for Arriving Bhikkhus.
Đây gọi là bổn phận của khách Tỳ-khưu (āgantukavatta).
Idaṃ pana āvāsikavattaṃ.
This, however, is the Rules for Resident Bhikkhus.
Đây là bổn phận của Tỳ-khưu thường trú (āvāsikavatta).
Paṭikacceva hi āvāsikehi vihāro jaggitabbo, khaṇḍaphullapaṭisaṅkharaṇaparibhaṇḍāni kātabbāni, rattiṭṭhānadivāṭṭhānavaccakuṭipassāvaṭṭhānāni padhānagharavihāramaggoti imāni sabbāni paṭijaggitabbāni.
Indeed, resident bhikkhus should first look after the monastery; they should repair broken parts, mend fallen things, and generally maintain all items and places such as night-lodgings, day-lodgings, toilets, urinals, meditation halls, monastery paths, and so on.
Quả thật, các Tỳ-khưu thường trú phải chăm sóc tu viện trước, phải sửa chữa những chỗ hư hỏng, chuẩn bị các vật dụng, và phải chăm sóc tất cả những nơi như chỗ nghỉ đêm, chỗ nghỉ ban ngày, nhà vệ sinh, nhà tiểu tiện, nhà thiền, tu viện và đường đi.
Cetiye sudhākammaṃ muṇḍavedikāya telamakkhanaṃ mañcapīṭhajaggananti idampi sabbaṃ kātabbaṃ ‘‘vassaṃ vasitukāmā āgantvā uddesaparipucchākammaṭṭhānānuyogādīni karontā sukhaṃ vasissantī’’ti.
Whitewashing the cetiya, oiling the low parapet around the cetiya, and maintaining beds and chairs—all this should be done with the thought, “Bhikkhus who wish to observe the Rains-residence will come and reside happily while engaging in studies, inquiries, meditation, and so forth.”
Việc trát vôi trắng cho tháp thờ, bôi dầu cho bệ đá tròn, và chăm sóc giường ghế, tất cả những điều này cũng phải được thực hiện để “các Tỳ-khưu muốn an cư mùa mưa đến và thực hành tụng đọc, hỏi đáp, thiền định, v.v., sẽ được an lạc khi ở lại”.
Kataparikammehi āsāḷhījuṇhapañcamito paṭṭhāya vassāvāsikaṃ pucchitabbaṃ.
Having made these preparations, the Rains-residence requisites should be requested starting from the fifth day of the bright half of Āsāḷha.
Sau khi đã hoàn tất các công việc chuẩn bị, từ ngày mùng năm tháng Āsāḷha, phải hỏi về y phục an cư (vassāvāsika).
Kattha pucchitabbaṃ?
Where should they be requested?
Hỏi ở đâu?
Yato pakatiyā labbhati.
From where they are customarily received.
Ở nơi mà thường ngày vẫn nhận được.
Yehi pana na dinnapubbaṃ, te pucchituṃ na vaṭṭati.
However, it is not allowable to request from those who have never offered before.
Tuy nhiên, những người chưa từng cúng dường thì không được phép hỏi.
Kasmā pucchitabbaṃ?
Why should they be requested?
Tại sao phải hỏi?
Kadāci hi manussā denti, kadāci dubbhikkhādīhi upaddutā na denti, tattha ye na dassanti, te apucchitvā vassāvāsike gāhite gāhitabhikkhūnaṃ lābhantarāyo hoti, tasmā pucchitvāva gāhetabbaṃ.
For sometimes people give, and sometimes, being afflicted by famine or other troubles, they do not give. If the Rains-residence requisites are accepted without inquiring from those who will not give, it becomes an obstacle to the gains of the bhikkhus who have accepted them. Therefore, they should be accepted only after inquiring.
Vì đôi khi người dân cúng dường, đôi khi họ không thể cúng dường do bị thiên tai, nạn đói, v.v. Trong trường hợp đó, nếu không hỏi những người sẽ không cúng dường mà lại nhận y phục an cư, thì sẽ gây trở ngại cho lợi lộc của các Tỳ-khưu đã nhận. Do đó, phải hỏi trước rồi mới nhận.
Pucchantena ‘‘tumhākaṃ vassāvāsikaṃ gāhaṇakālo upakaṭṭho’’ti vattabbaṃ.
The one asking should say, “The time for receiving your Rains-residence requisites is drawing near.”
Khi hỏi, phải nói: “Thời điểm nhận y phục an cư của quý vị đã đến gần.”
Sace vadanti ‘‘bhante, imaṃ saṃvaccharaṃ chātakādīhi upaddutamha, na sakkoma dātu’’nti vā ‘‘yaṃ pubbe dema, tato ūnataraṃ dassāmā’’ti vā ‘‘idāni kappāso sulabho, yaṃ pubbe dema, tato bahutaraṃ dassāmā’’ti vā, taṃ sallakkhetvā tadanurūpena nayena tesaṃ senāsane bhikkhūnaṃ vassāvāsikaṃ gāhetabbaṃ.
If they say, “Venerable sirs, this year we are afflicted by famine and other troubles; we are unable to give,” or “We will give less than what we usually give,” or “Cotton is easily available now; we will give more than what we usually give,” then, after considering their words, the Rains-residence requisites for the bhikkhus in their abodes should be accepted in a manner appropriate to the situation.
Nếu họ nói: “Bạch ngài, năm nay chúng con bị nạn đói, v.v., hoành hành, chúng con không thể cúng dường” hoặc “Chúng con sẽ cúng dường ít hơn những gì chúng con đã cúng dường trước đây” hoặc “Bây giờ bông vải dễ kiếm, chúng con sẽ cúng dường nhiều hơn những gì chúng con đã cúng dường trước đây”, thì phải ghi nhận điều đó và theo phương cách phù hợp, nhận y phục an cư cho các Tỳ-khưu trong trú xứ của họ.
Sace manussā vadanti ‘‘yassa amhākaṃ vassāvāsikaṃ pāpuṇāti, so temāsaṃ pānīyaṃ upaṭṭhāpetu, vihāramaggaṃ jaggatu, cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇāni jaggatu, bodhirukkhe udakaṃ āsiñcatū’’ti, yassa taṃ pāpuṇāti, tassa ācikkhitabbaṃ.
If people say, “Whoever receives our Rains-residence requisites should provide drinking water for three months, maintain the monastery path, maintain the cetiya-compound and Bodhi-tree compound, and water the Bodhi tree,” then it should be explained to the bhikkhu to whom it falls.
Nếu người dân nói: “Vị Tỳ-khưu nào được nhận y phục an cư của chúng con, vị ấy hãy lo nước uống trong ba tháng, chăm sóc đường tu viện, chăm sóc sân tháp và sân Bồ-đề, tưới nước cho cây Bồ-đề”, thì phải thông báo cho vị Tỳ-khưu nào được nhận y phục đó.
Yo pana gāmo paṭikkamma yojanadviyojanantare hoti, tatra ce kulāni upanikkhepaṃ ṭhapetvā pahāre vassāvāsikaṃ dentiyeva, tāni kulāni āpucchitvāpi tesaṃ senāsane vattaṃ katvā vasantassa vassāvāsitaṃ gāhetabbaṃ.
If, however, there is a village located one or two yojanas away from the monastery, and the families there regularly offer Rains-residence requisites by depositing them with caretakers, then even after inquiring from those families, the Rains-residence requisites may be accepted by a bhikkhu residing in their abode after fulfilling the duties (of a resident bhikkhu).
Nếu có một ngôi làng cách xa tu viện một hoặc hai dojana, và các gia đình ở đó vẫn cúng dường y phục an cư bằng cách gửi tiền đặt cọc cho người quản lý, thì dù có hỏi các gia đình đó, vị Tỳ-khưu đang ở trong trú xứ của họ sau khi đã thực hiện bổn phận vẫn được phép nhận y phục an cư.
Sace pana tesaṃ senāsane paṃsukūliko vasati, āgatañca taṃ disvā ‘‘tumhākaṃ vassāvāsikaṃ demā’’ti vadanti, tena saṅghassa ācikkhitabbaṃ.
If, however, a paṃsukūlika bhikkhu resides in their abode, and seeing him arrive, they say, “We will give you the Rains-residence requisites,” then he should inform the Saṅgha.
Tuy nhiên, nếu có một vị Tỳ-khưu mặc y phấn tảo (paṃsukūliko) đang ở trong trú xứ của họ, và khi thấy vị ấy đến, họ nói: “Chúng tôi sẽ cúng dường y phục an cư cho ngài”, thì vị ấy phải thông báo cho Tăng đoàn.
Sace tāni kulāni saṅghassa dātuṃ na icchanti, ‘‘tumhākaṃyeva demā’’ti vadanti, sabhāgo bhikkhu ‘‘vattaṃ katvā gaṇhāhī’’ti vattabbo.
If those families do not wish to give to the Saṅgha, but say, “We will give only to you,” then a bhikkhu who is a fellow member of the Saṅgha should be told, “Perform the duties and accept it.”
Nếu các gia đình đó không muốn cúng dường cho Tăng đoàn mà nói: “Chúng tôi chỉ cúng dường cho riêng ngài”, thì vị Tỳ-khưu đồng giới phải được bảo: “Hãy thực hiện bổn phận và nhận lấy.”
Paṃsukūlikassa panetaṃ na vaṭṭati.
But for a paṃsukūlika bhikkhu, this is not allowable.
Tuy nhiên, điều này không được phép đối với vị Tỳ-khưu mặc y phấn tảo.
Iti saddhādeyyadāyakamanussā pucchitabbā.
Thus, generous donors should be asked.
Như vậy, phải hỏi những người cúng dường với lòng tin.
Tatruppāde pana kappiyakārakā pucchitabbā.
However, for resources that arise in the monastery, the kappiyakārakas should be asked.
Tuy nhiên, đối với các vật phẩm phát sinh trong tu viện, phải hỏi những người quản lý vật phẩm hợp pháp (kappiyakāraka).
Kathaṃ pucchitabbā?
How should they be asked?
Hỏi như thế nào?
Kiṃ, āvuso, saṅghassa bhaṇḍapaṭicchādanaṃ bhavissatīti?
“Friends, will there be robe-material for the Saṅgha?”
“Này các đạo hữu, Tăng đoàn sẽ có y phục che thân không?”
Sace vadanti ‘‘bhavissati, bhante, ekekassa navahatthasāṭakaṃ dassāma, vassāvāsikaṃ gāhethā’’ti, gāhetabbaṃ.
If they say, “Yes, venerable sirs, there will be; we will give a nine-cubit cloth to each, please accept the Rains-residence requisites,” then they should be accepted.
Nếu họ nói: “Bạch ngài, sẽ có. Chúng con sẽ cúng dường mỗi vị một tấm vải chín thước. Xin ngài hãy nhận y phục an cư.” Thì được phép nhận.
Sacepi vadanti ‘‘sāṭakā natthi, vatthu pana atthi, gāhetha, bhante’’ti, vatthumhi santepi gāhetuṃ vaṭṭatiyeva.
Even if they say, “There are no cloths, but there is raw material, venerable sirs, please accept it,” it is allowable to accept it even if it is raw material.
Dù họ nói: “Không có vải, nhưng có vật phẩm khác, bạch ngài, xin ngài hãy nhận.” Dù có vật phẩm khác, vẫn được phép nhận.
Kappiyakārakānañhi hatthe ‘‘kappiyabhaṇḍaṃ paribhuñjathā’’ti dinnavatthuto yaṃ yaṃ kappiyaṃ, sabbaṃ paribhuñjituṃ anuññātaṃ.
For from the material given into the hands of the kappiyakārakas with the instruction, “Make use of allowable goods,” whatever is allowable, all of it is permitted to be used.
Vì bất kỳ vật phẩm hợp pháp nào từ những vật phẩm được trao cho người quản lý vật phẩm hợp pháp với lời rằng “Hãy sử dụng vật phẩm hợp pháp” đều được phép sử dụng.
Yaṃ panettha piṇḍapātatthāya gilānapaccayatthāya ca uddissa dinnaṃ, taṃ cīvare upanāmentehi saṅghasuṭṭhutāya apaloketvā upanāmetabbaṃ, senāsanatthāya pana uddissa dinnaṃ garubhaṇḍaṃ hoti.
If anything is given specifically for alms food or for sick requisites, it should be offered for robes after consulting for the welfare of the Saṅgha. However, anything given specifically for an abode is considered heavy property (garubhaṇḍa).
Tuy nhiên, những vật phẩm được cúng dường đặc biệt cho vật thực khất thực và thuốc men cho người bệnh, khi chuyển đổi thành y phục, phải được thông báo cho Tăng đoàn vì lợi ích của Tăng đoàn. Còn những vật phẩm được cúng dường đặc biệt cho trú xứ thì là vật phẩm trọng yếu (garubhaṇḍa).
Cīvaravaseneva pana catupaccayavasena vā dinnaṃ cīvare upanāmentānaṃ apalokanakammakiccaṃ natthi.
But for something given specifically as robe requisites, or as requisites for the fourfold necessities, there is no need for an apalokanakamma (formal announcement/permission) when offering it as robes.
Tuy nhiên, đối với những vật phẩm được cúng dường dưới dạng y phục hoặc dưới dạng bốn vật tư cần thiết, không cần phải thực hiện nghi thức thông báo khi chuyển đổi thành y phục.
Apalokanakammaṃ karontehi ca puggalavaseneva kātabbaṃ, saṅghavasena na kātabbaṃ.
Furthermore, when performing an apalokanakamma, it should be done on an individual basis, not on a Saṅgha basis.
Và khi thực hiện nghi thức thông báo, phải thực hiện theo cá nhân, không được thực hiện theo Tăng đoàn.
Jātarūparajatavasenapi āmakadhaññavasena vā apalokanakammaṃ na vaṭṭati, kappiyabhaṇḍavasena cīvarataṇḍulādivaseneva ca vaṭṭati.
An apalokanakamma is not allowable for gold and silver or for raw grain; it is allowable for allowable goods, such as robe-material or rice.
Nghi thức thông báo không được phép thực hiện dưới dạng vàng bạc hoặc ngũ cốc thô, mà chỉ được phép dưới dạng vật phẩm hợp pháp, như y phục, gạo, v.v.
Taṃ pana evaṃ kattabbaṃ ‘‘idāni subhikkhaṃ sulabhapiṇḍaṃ, bhikkhū cīvarena kilamanti, ettakaṃ nāma taṇḍulabhāgaṃ bhikkhūnaṃ cīvaraṃ kātuṃ ruccatī’’ti, ‘‘gilānapaccayo sulabho, gilāno vā natthi, ettakaṃ nāma taṇḍulabhāgaṃ bhikkhūnaṃ cīvaraṃ kātuṃ ruccatī’’ti.
This should be done as follows: “Now it is a time of abundance with easily obtainable alms food, and bhikkhus are suffering for robes; it is pleasing to make this amount of rice into robes for the bhikkhus.” Or, “Sick requisites are easily available, or there are no sick bhikkhus; it is pleasing to make this amount of rice into robes for the bhikkhus.”
Việc đó phải được thực hiện như sau: “Bây giờ mùa màng tốt tươi, vật thực dễ kiếm, các Tỳ-khưu đang gặp khó khăn về y phục, chúng tôi muốn dùng phần gạo này để làm y phục cho các Tỳ-khưu.” Hoặc: “Thuốc men cho người bệnh dễ kiếm, hoặc không có người bệnh, chúng tôi muốn dùng phần gạo này để làm y phục cho các Tỳ-khưu.”
Evaṃ cīvarapaccayaṃ sallakkhetvā senāsanassa kāle ghosite sannipatite saṅghe senāsanaggāhako sammannitabbo.
Having thus considered the robe requisites, when the time for allocating abodes is announced and the Saṅgha has assembled, a bhikkhu to allocate abodes should be appointed.
Sau khi đã ghi nhận vật phẩm y phục như vậy, khi đến thời điểm công bố trú xứ, Tăng đoàn tập hợp lại, và một vị Tỳ-khưu nhận trú xứ phải được cử ra.
Sammannantena ca dve sammannitabbāti vuttaṃ.
It is stated that two should be appointed by the one appointing.
Và khi cử ra, có nói rằng phải cử hai vị.
Evañhi navako vuḍḍhassa, vuḍḍho ca navakassa gāhessatīti.
For in this way, a junior bhikkhu will allocate to a senior, and a senior to a junior.
Vì như vậy, vị trẻ sẽ nhận cho vị lớn tuổi, và vị lớn tuổi sẽ nhận cho vị trẻ.
Mahante pana mahāvihārasadise vihāre tayo cattāro janā sammannitabbā.
However, in a large monastery like the Mahāvihāra, three or four persons should be appointed.
Tuy nhiên, trong một tu viện lớn như Đại Tự Viện (Mahāvihāra), ba hoặc bốn vị phải được cử ra.
Kurundiyaṃ pana ‘‘aṭṭhapi soḷasapi jane sammannituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
In the Kurundi it is stated, “It is allowable to appoint eight or even sixteen persons.”
Tuy nhiên, trong Kurundī có nói: “Được phép cử tám hoặc mười sáu vị.”
Tesaṃ sammuti kammavācāyapi apalokanenapi vaṭṭatiyeva.
Their appointment is allowable either by kammavācā (formal motion) or by apalokana (informal announcement).
Việc cử ra các vị ấy có thể được thực hiện bằng nghi thức (kammavācā) hoặc bằng cách thông báo.
Tehi sammatehi bhikkhūhi senāsanaṃ sallakkhetabbaṃ.
Those appointed bhikkhus should survey the abodes.
Các Tỳ-khưu đã được cử ra đó phải ghi nhận các trú xứ.
Cetiyagharaṃ bodhigharaṃ āsanagharaṃ sammuñjaniaṭṭo dāruaṭṭo vaccakuṭi iṭṭhakasālā vaḍḍhakisālā dvārakoṭṭhako pānīyamāḷo maggo pokkharaṇīti etāni hi asenāsanāni, vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā maṇḍapo rukkhamūlaṃ veḷugumboti imāni senāsanāni, tāni gāhetabbāni.
Indeed, a cetiya-house, Bodhi-house, assembly hall, broom-shed, firewood-shed, toilet, brick-hall, carpenter's hall, gatehouse, water-pavilion, path, and pond are not abodes; but a vihāra (dwelling), aḍḍhayoga (a dwelling with a half-gable roof), pāsāda (mansion), hammiya (long mansion), guhā (cave), maṇḍapa (pavilion), rukkhamūla (foot of a tree), and veḷugumba (bamboo clump) are abodes, and these should be accepted.
Nhà thờ tháp, nhà thờ cây Bồ-đề, nhà ngồi, chỗ để chổi, chỗ để củi, nhà vệ sinh, sảnh gạch, sảnh thợ mộc, cổng, nhà đựng nước uống, đường đi, ao sen – những thứ này không phải là trú xứ. Còn tu viện, nhà nửa mái, lâu đài, biệt thự, hang động, giảng đường, gốc cây, bụi tre – những thứ này là trú xứ. Những trú xứ đó phải được nhận.
220. Gāhentena ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, paṭhamaṃ bhikkhū gaṇetuṃ, bhikkhū gaṇetvā seyyā gaṇetuṃ, seyyā gaṇetvā seyyaggena gāhetu’’nti(cūḷava. 318) ādivacanato paṭhamaṃ vihāre bhikkhū gaṇetvā mañcaṭṭhānāni gaṇetabbāni, tato ekekaṃ mañcaṭṭhānaṃ ekekassa bhikkhuno gāhetabbaṃ.
220. The appointed bhikkhu, because of the saying, "I allow, bhikkhus, to count the bhikkhus first; having counted the bhikkhus, to count the lodgings; having counted the lodgings, to take them by turns of lodging," should first count the bhikkhus in the monastery, then the bed places should be counted. After that, each bed place should be assigned to one bhikkhu.
220. Vị tỳ khưu được ủy quyền nhận chỗ ở, do lời dạy như “Này các tỳ khưu, Ta cho phép đếm các tỳ khưu trước, sau khi đếm các tỳ khưu thì đếm các chỗ nằm, sau khi đếm các chỗ nằm thì nhận theo thứ tự chỗ nằm”, trước tiên phải đếm các tỳ khưu trong tu viện, rồi đếm các chỗ nằm. Sau đó, mỗi chỗ nằm phải được nhận cho mỗi tỳ khưu.
Sace mañcaṭṭhānāni atirekāni honti, vihāraggena gāhetabbaṃ.
If the bed places are in excess, they should be assigned by monastery turn.
Nếu các chỗ nằm còn dư, thì phải nhận theo thứ tự tu viện.
Sace vihārāpi atirekā honti, pariveṇaggena gāhetabbaṃ.
If the monasteries are also in excess, they should be assigned by enclosure turn.
Nếu các tu viện cũng còn dư, thì phải nhận theo thứ tự khu nhà (pariveṇa).
Pariveṇesupi atirekesu puna aparopi bhāgo dātabbo.
If there are still excesses in the enclosures, another portion should be given.
Ngay cả khi các khu nhà còn dư, thì phải cấp thêm một phần khác.
Atimandesu hi bhikkhūsu ekekassa bhikkhuno dve tīṇi pariveṇāni dātabbāni.
Indeed, when bhikkhus are very few, two or three enclosures should be given to each bhikkhu.
Thật vậy, nếu có quá ít tỳ khưu, thì mỗi tỳ khưu phải được cấp hai hoặc ba khu nhà.
Gahite pana dutiyabhāge añño bhikkhu āgacchati, na attano aruciyā so bhāgo tassa dātabbo.
However, if another bhikkhu comes after the second portion has been taken, that portion should not be given to him against one's wishes.
Nhưng nếu sau khi đã nhận phần thứ hai mà có một tỳ khưu khác đến, thì phần đó không được cấp cho vị ấy nếu không có sự đồng ý của mình.
Sace pana yena gahito, so attano ruciyā taṃ dutiyabhāgaṃ vā paṭhamabhāgaṃ vā deti, vaṭṭati.
But if the one who took it gives that second portion or the first portion according to his own wish, it is permissible.
Tuy nhiên, nếu vị đã nhận, do ý muốn của mình, mà trao phần thứ hai đó hoặc phần thứ nhất đó, thì được phép.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, gilānassa patirūpaṃ seyyaṃ dātu’’nti (cūḷava. 316) vacanato yo (cūḷava. aṭṭha. 316) kāsasāsabhagandarātisārādīhi gilāno hoti, kheḷamallakavaccakapālādīni ṭhapetabbāni honti, kuṭṭhī vā hoti, senāsanaṃ dūseti, evarūpassa heṭṭhāpāsādapaṇṇasālādīsu aññataraṃ ekamantaṃ senāsanaṃ dātabbaṃ.
Because of the saying, "I allow, bhikkhus, to give a suitable lodging to a sick person," if a bhikkhu is sick with cough, asthma, anal fistula, dysentery, etc., where sputum pots and excrement containers must be placed, or if he is afflicted with leprosy and spoils the lodging, such a person should be given a lodging in an isolated spot, such as beneath a tiered house or in a leaf hut.
Theo lời dạy rằng: “Này các tỳ khưu, Ta cho phép cấp chỗ ở thích hợp cho người bệnh”, thì vị nào bị bệnh ho, suyễn, trĩ, kiết lỵ, v.v., cần phải đặt ống nhổ, chậu vệ sinh, bô vệ sinh, v.v., hoặc bị bệnh phong cùi làm hư hỏng chỗ ở, thì phải cấp một chỗ ở riêng biệt ở dưới lầu, trong nhà lá, v.v., cho vị ấy.
Yasmiṃ vasante senāsanaṃ na dussati, tassa varaseyyāpi dātabbāva.
For one who does not spoil the lodging when residing there, a superior lodging should also be given.
Vị nào ở mà chỗ ở không bị hư hỏng, thì cũng phải cấp chỗ nằm tốt nhất cho vị ấy.
Yopi sinehapānavirecananatthukammādīsu yaṃ kiñci bhesajjaṃ karoti, sabbo so gilānoyeva.
Anyone who performs any medical treatment, such as drinking oil, purgatives, or nasal medication, is considered sick.
Vị nào đang dùng bất kỳ loại thuốc nào như uống dầu, xổ, xông mũi, v.v., thì tất cả đều là người bệnh.
Tassapi sallakkhetvā patirūpaṃ senāsanaṃ dātabbaṃ.
A suitable lodging should also be determined and given to such a person.
Cũng phải xem xét và cấp chỗ ở thích hợp cho vị ấy.
‘‘Na, bhikkhave, ekena dve paṭibāhetabbā, yo paṭibāheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 319) vacanato ekena dve senāsanāni na gahetabbāni.
Due to the saying, "Bhikkhus, one should not obstruct two with one; if one obstructs, there is an offense of dukkata," one bhikkhu should not take two lodgings.
Theo lời dạy rằng: “Này các tỳ khưu, một người không được ngăn cản hai người. Ai ngăn cản thì mắc tội dukkaṭa”, thì một tỳ khưu không được nhận hai chỗ ở.
Sacepi gaṇheyya, pacchimena gahaṇena purimaggahaṇaṃ paṭippassambhati.
Even if he were to take them, the prior taking is annulled by the later taking.
Ngay cả khi đã nhận, thì việc nhận sau sẽ làm mất hiệu lực của việc nhận trước.
Gahaṇena hi gahaṇaṃ paṭippassambhati, gahaṇena ālayo paṭippassambhati, ālayena gahaṇaṃ paṭippassambhati, ālayena ālayo paṭippassambhati.
Indeed, a taking is annulled by a taking, an attachment is annulled by a taking, a taking is annulled by an attachment, and an attachment is annulled by an attachment.
Thật vậy, việc nhận sau làm mất hiệu lực của việc nhận trước; việc nhận sau làm mất hiệu lực của sự chấp trước trước; sự chấp trước sau làm mất hiệu lực của việc nhận trước; sự chấp trước sau làm mất hiệu lực của sự chấp trước trước.
Idhekacco (cūḷava. aṭṭha. 319) vassūpanāyikadivase ekasmiṃ vihāre senāsanaṃ gahetvā sāmantavihāraṃ gantvā tatrāpi gaṇhāti, tassa iminā gahaṇena purimaggahaṇaṃ paṭippassambhati.
Here, on the day of entering the Rains-residence, a certain individual takes a lodging in one monastery and, going to a neighboring monastery, takes another there; in his case, the prior taking is annulled by this later taking.
Ở đây, một số vị vào ngày an cư kiết hạ, nhận chỗ ở trong một tu viện rồi đi đến một tu viện gần đó và cũng nhận chỗ ở ở đó, thì việc nhận chỗ ở sau này làm mất hiệu lực của việc nhận chỗ ở trước.
Aparo ‘‘idha vasissāmī’’ti ālayamattaṃ katvā sāmantavihāraṃ gantvā tattha senāsanaṃ gaṇhāti, tassa iminā gahaṇeneva purimo ālayo paṭippassambhati.
Another bhikkhu makes merely an attachment, saying, "I will reside here," then goes to a neighboring monastery and takes a lodging there; in his case, the prior attachment is annulled by this taking alone.
Một vị khác chỉ có ý định “Tôi sẽ ở đây”, rồi đi đến một tu viện gần đó và nhận chỗ ở ở đó, thì chính việc nhận chỗ ở sau này làm mất hiệu lực của ý định trước.
Eko ‘‘idha vasissāmī’’ti senāsanaṃ vā gahetvā ālayaṃ vā katvā sāmantavihāraṃ gantvā ‘‘idheva dāni vasissāmī’’ti ālayaṃ karoti, iccassa ālayena vā gahaṇaṃ, ālayena vā ālayo paṭippassambhati, sabbattha pacchime gahaṇe vā ālaye vā tiṭṭhati.
One bhikkhu, having either taken a lodging or made an attachment saying, "I will reside here," then goes to a neighboring monastery and makes an attachment, saying, "Now I will reside right here"; thus, his taking is annulled by an attachment, or his attachment is annulled by an attachment, and in all cases, it stands with the later taking or attachment.
Một vị đã nhận chỗ ở hoặc có ý định “Tôi sẽ ở đây”, rồi đi đến một tu viện gần đó và có ý định “Bây giờ tôi sẽ ở đây”, thì ý định sau này làm mất hiệu lực của việc nhận trước hoặc ý định trước, trong mọi trường hợp, chỉ có việc nhận sau hoặc ý định sau là có hiệu lực.
Yo pana ekasmiṃ vihāre senāsanaṃ gahetvā ‘‘aññasmiṃ vihāre vasissāmī’’ti gacchati, tassa upacārasīmātikkame senāsanaggāho paṭippassambhati.
But for one who takes a lodging in one monastery and then goes, saying, "I will reside in another monastery," the taking of the lodging is annulled upon crossing the sīmā of the precinct.
Còn vị nào đã nhận chỗ ở trong một tu viện rồi đi đến một tu viện khác với ý định “Tôi sẽ ở trong một tu viện khác”, thì khi vượt qua ranh giới (upacārasīma), việc nhận chỗ ở của vị ấy sẽ mất hiệu lực.
Yadi pana ‘‘tattha phāsu bhavissati, vasissāmi, no ce, āgamissāmī’’ti gantvā aphāsukabhāvaṃ ñatvā pacchā vā gacchati, vaṭṭati.
However, if he goes saying, "It will be comfortable there, I will reside; if not, I will return," and then, realizing the discomfort, he returns later, it is permissible.
Tuy nhiên, nếu vị ấy đi với ý định “Ở đó sẽ tiện lợi, tôi sẽ ở đó, nếu không, tôi sẽ quay lại”, và sau khi biết là không tiện lợi thì quay lại, thì được phép.
Senāsanaggāhakena ca senāsanaṃ gāhetvā vassāvāsikaṃ gāhetabbaṃ.
The bhikkhu taking charge of lodgings should assign the lodging and then assign the Rains-residence requisites.
Vị nhận chỗ ở phải nhận chỗ ở rồi nhận y an cư kiết hạ (vassāvāsika).
Gāhentena sace saṅghiko ca saddhādeyyo cāti dve cīvarapaccayā honti, tesu yaṃ bhikkhū paṭhamaṃ gahituṃ icchanti, taṃ gahetvā tassa ṭhitikato paṭṭhāya itaro gāhetabbo.
When assigning, if there are two requisites, namely, Sanghika and those given out of faith, whichever the bhikkhus wish to take first should be taken, and from the time of its establishment, the other should be assigned.
Khi nhận, nếu có hai loại vật dụng y là của Tăng (saṅghika) và của tín thí (saddhādeyya), thì các tỳ khưu muốn nhận loại nào trước, thì nhận loại đó, sau đó, từ vị trí đã nhận đó, thì nhận loại kia.
‘‘Sace bhikkhūnaṃ appatāya pariveṇaggena senāsane gāhiyamāne ekaṃ pariveṇaṃ mahālābhaṃ hoti, dasa vā dvādasa vā cīvarāni labhanti, taṃ vijaṭetvā aññesu alābhakesu āvāsesu pakkhipitvā aññesampi bhikkhūnaṃ gāhetabba’’nti mahāsumatthero āha.
Mahāsumatthera said: "If, due to the bhikkhus being few, when lodgings are assigned by enclosure, one enclosure yields great gains, receiving ten or twelve robes, it should be disbursed and allocated to other monasteries where there are no gains, and assigned to other bhikkhus as well."
Trưởng lão Mahāsumatthera nói rằng: “Nếu các tỳ khưu ít, khi nhận chỗ ở theo khu nhà (pariveṇa), một khu nhà có nhiều lợi lộc, nhận được mười hoặc mười hai tấm y, thì phải tách ra và đặt vào các nơi ở khác không có lợi lộc, và cũng phải nhận cho các tỳ khưu khác.”
Mahāpadumatthero panāha ‘‘na evaṃ kātabbaṃ.
But Mahāpadumatthera said: "It should not be done thus.
Nhưng Trưởng lão Mahāpadumatthera nói: “Không được làm như vậy.
Manussā hi attano āvāsapaṭijagganatthāya paccayaṃ denti, tasmā aññehi bhikkhūhi tattha pavisitabba’’nti.
For people give requisites for the maintenance of their own monasteries, therefore, other bhikkhus should enter that monastery."
Vì con người cúng dường vật dụng để bảo trì nơi ở của mình, do đó các tỳ khưu khác phải vào đó.”
221. Sace panettha mahāthero paṭikkosati ‘‘mā, āvuso, evaṃ gāhetha, bhagavato anusiṭṭhiṃ karotha.
221. If the Mahāthera objects here, saying, "Friends, do not assign them thus; follow the Buddha's instruction.
221. Nếu ở đây, một vị trưởng lão phản đối: “Này chư hiền, đừng nhận như vậy, hãy làm theo lời dạy của Đức Thế Tôn.
Vuttañhetaṃ bhagavatā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pariveṇaggena gāhetu’’nti (cūḷava. 318).
For it was said by the Blessed One: 'I allow, bhikkhus, to assign by enclosure turn'."
Vì Đức Thế Tôn đã dạy: ‘Này các tỳ khưu, Ta cho phép nhận theo khu nhà (pariveṇa)’.”
Tassa paṭikkosanāya aṭṭhatvā ‘‘bhante, bhikkhū bahū, paccayo mando, saṅgahaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti saññāpetvā gāhetabbameva.
Without heeding his objection, one should rather explain to him, "Venerable sir, there are many bhikkhus and few requisites; it is proper to show favor," and then proceed with the assignment.
Không đứng về phía phản đối của vị trưởng lão đó, mà phải nói: “Bạch Đại đức, các tỳ khưu đông, vật dụng ít, nên giúp đỡ là được phép”, sau khi thuyết phục vị trưởng lão đó, thì vẫn phải nhận.
Gāhentena ca sammatena bhikkhunā mahātherassa santikaṃ gantvā evaṃ vattabbaṃ ‘‘bhante, tumhākaṃ senāsanaṃ pāpuṇāti, paccayaṃ dhārethā’’ti.
The appointed bhikkhu, when assigning, should go to the Mahāthera and say, "Venerable sir, a lodging falls to you; please hold your requisite."
Và vị tỳ khưu được ủy quyền nhận chỗ ở phải đến chỗ vị trưởng lão và nói như vậy: “Bạch Đại đức, chỗ ở thuộc về ngài, xin ngài giữ vật dụng.”
Asukakulassa paccayo asukasenāsanañca mayhaṃ pāpuṇāti, āvusoti.
"Friend, do the requisites of such and such a family and such and such a lodging fall to me?"
Vật dụng của gia đình đó và chỗ ở đó thuộc về tôi, thưa hiền giả.
Pāpuṇāti bhante, gaṇhatha nanti.
"Yes, Venerable sir, they do. Please take them."
Bạch Đại đức, thuộc về ngài, xin ngài nhận.
Gaṇhāmi, āvusoti.
"I take them, friend."
Tôi nhận, thưa hiền giả.
Gahitaṃ hoti.
It is then considered taken.
Thì đã được nhận.
‘‘Sace pana ‘gahitaṃ vo, bhante’ti vutte ‘gahitaṃ me’ti vā, ‘gaṇhissatha, bhante’ti vutte ‘gaṇhissāmī’ti vā vadati, aggahitaṃ hotī’’ti mahāsumatthero āha.
Mahāsumatthera said: "However, if, when asked, 'Venerable sir, have you taken it?', he says, 'I have taken it,' or when asked, 'Venerable sir, will you take it?', he says, 'I will take it,' it is not considered taken."
Trưởng lão Mahāsumatthera nói: “Nếu sau khi nói ‘Bạch Đại đức, ngài đã nhận chưa?’ mà vị ấy nói ‘Tôi đã nhận rồi’ hoặc ‘Tôi sẽ nhận’, hoặc sau khi nói ‘Bạch Đại đức, ngài sẽ nhận chứ?’ mà vị ấy nói ‘Tôi sẽ nhận’, thì vẫn chưa được nhận.”
Mahāpadumatthero panāha ‘‘atītānāgatavacanaṃ vā hotu vattamānavacanaṃ vā, satuppādamattaṃ ālayakaraṇamattameva cettha pamāṇaṃ, tasmā gahitameva hotī’’ti.
But Mahāpadumatthera said: "Whether the expression be in the past or future tense, or in the present tense, merely the arising of the thought or merely making an attachment is the criterion here; therefore, it is considered taken."
Nhưng Trưởng lão Mahāpadumatthera nói: “Dù là lời nói về quá khứ hay tương lai, hay lời nói về hiện tại, ở đây chỉ cần có sự khởi lên của ý niệm, chỉ cần có sự chấp trước là đủ, do đó đã được nhận.”
Yopi paṃsukūliko bhikkhu senāsanaṃ gahetvā paccayaṃ vissajjeti, ayampi na aññasmiṃ āvāse pakkhipitabbo, tasmiṃyeva pariveṇe aggisālāya vā dīghasālāya vā rukkhamūle vā aññassa gāhetuṃ vaṭṭati.
Even for a paṃsukūlika bhikkhu who takes a lodging and gives up the requisites, these requisites should not be put into another monastery; it is permissible to take another lodging in the same enclosure, or in a fire-hall, or a long-hall, or at the foot of a tree.
Vị tỳ khưu mặc y phấn tảo (paṃsukūlika) nào đã nhận chỗ ở và từ bỏ vật dụng, thì vật dụng này cũng không được đặt vào một nơi ở khác, mà ở ngay trong khu nhà đó, trong nhà lửa, hoặc trong nhà dài, hoặc dưới gốc cây, thì được phép nhận cho người khác.
Paṃsukūliko ‘‘vasāmī’’ti senāsanaṃ jaggissati, itaro ‘‘paccayaṃ gaṇhāmī’’ti evaṃ dvīhi kāraṇehi senāsanaṃ sujaggitataraṃ bhavissati.
The paṃsukūlika bhikkhu will maintain the lodging with the thought, "I will reside," and the other bhikkhu with the thought, "I will receive requisites"; thus, the lodging will be even better maintained by these two reasons.
Vị mặc y phấn tảo sẽ bảo trì chỗ ở với ý nghĩ “Tôi sẽ ở”, còn vị kia sẽ bảo trì chỗ ở với ý nghĩ “Tôi sẽ nhận vật dụng”, như vậy, nhờ hai lý do này, chỗ ở sẽ được bảo trì tốt hơn.
Mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ ‘‘paṃsukūlike vāsatthāya senāsanaṃ gaṇhante senāsanaggāhakena vattabbaṃ, ‘bhante idha paccayo atthi, so kiṃ kātabbo’ti.
However, in the Mahāpaccariya, it is stated: "When a paṃsukūlika bhikkhu takes a lodging for residence, the bhikkhu in charge of assigning lodgings should say, 'Venerable sir, there are requisites here. What should be done with them?'"
Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya đã nói: “Khi vị tỳ khưu mặc y phấn tảo nhận chỗ ở để cư ngụ, vị tỳ khưu nhận chỗ ở phải nói: ‘Bạch Đại đức, ở đây có vật dụng, vật dụng này nên làm gì?’.”
Tena ‘heṭṭhā aññaṃ gāhāpehī’ti vattabbo.
That paṃsukūlika bhikkhu should be told, 'Have another one taken below.'
Vị ấy phải nói: ‘Hãy cho người khác nhận ở phía dưới.’.
Sace pana kiñci avatvāva vasati, vuṭṭhavassassa ca pādamūle ṭhapetvā sāṭakaṃ denti, vaṭṭati.
But if he resides without saying anything, and after the Rains-residence, robes are offered at his feet, it is permissible.
Nếu vị ấy cư ngụ mà không nói gì cả, và sau khi an cư kiết hạ xong, người ta đặt tấm y dưới chân vị ấy và dâng cúng, thì được phép.
Atha ‘vassāvāsikaṃ demā’ti vadanti, tasmiṃ senāsane vassaṃvuṭṭhabhikkhūnaṃ pāpuṇātī’’ti.
If they say, 'We are giving Rains-residence requisites,' then it falls to the bhikkhus who resided the Rains in that lodging."
Nếu họ nói: ‘Chúng tôi dâng cúng y an cư kiết hạ’, thì vật dụng đó thuộc về các tỳ khưu đã an cư kiết hạ trong chỗ ở đó.”
Yesaṃ pana senāsanaṃ natthi, kevalaṃ paccayameva denti, tesaṃ paccayaṃ avassāvāsikasenāsane gāhetuṃ vaṭṭati.
However, for those people who do not have a lodging but only offer requisites, it is permissible to take those requisites in a lodging not designated for Rains-residence.
Còn đối với những người không có chỗ ở, chỉ cúng dường vật dụng, thì được phép nhận vật dụng của họ trong chỗ ở không phải là chỗ ở an cư kiết hạ.
Manussā thūpaṃ katvā vassāvāsikaṃ gāhāpenti.
People erect a stūpa and have Rains-residence requisites taken.
Người ta xây tháp rồi cho nhận y an cư kiết hạ.
Thūpo nāma asenāsanaṃ, tassa samīpe rukkhe vā maṇḍape vā upanibandhitvā gāhetabbaṃ.
A stupa (thūpa) is not a dwelling (senāsana). The vassāvāsika (rain-residence requisites) should be received having associated oneself with a tree or a pavilion near it.
Tháp (Thūpa) không phải là chỗ ở. Nên nhận (chỗ ở) bằng cách gắn liền (nó) gần tháp đó, ở cây hoặc ở lều.
Tena bhikkhunā cetiyaṃ jaggitabbaṃ.
That bhikkhu should maintain the cetiya.
Tỳ khưu đó nên chăm sóc cetiya (tháp thờ).
Bodhirukkhabodhigharaāsanagharasammuñjaniaṭṭadāruaṭṭavaccakuṭidvārakoṭṭhakapānīyakuṭipānīyamāḷakadantakaṭṭhamāḷakesupi eseva nayo.
The same method applies to a Bodhi tree, a Bodhi house, a meeting hall, a sweeping-dust platform, a firewood platform, a latrine, a gatehouse, a water house, a water stand, and a toothpick stand.
Đối với cây bồ đề, nhà che cây bồ đề, nhà hội họp, kệ để chổi, kệ để củi, nhà vệ sinh, cổng, nhà nước, bệ đựng bình nước và bệ đựng tăm xỉa răng, cũng theo cách tương tự.
Bhojanasālā pana senāsanameva, tasmā taṃ ekassa vā bahūnaṃ vā paricchinditvā gāhetuṃ vaṭṭatīti sabbamidaṃ vitthārena mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
However, a refectory is indeed a dwelling; therefore, it is allowable to receive it having delimited it for one person or for many. All of this is stated in detail in the Mahāpaccariya.
Nhưng sảnh đường ăn uống (bhojanasālā) là chỗ ở (senāsana) nên được phép nhận bằng cách phân chia cho một hoặc nhiều người. Tất cả những điều này đã được giải thích chi tiết trong Mahāpaccariya.
Senāsanaggāhakena pana pāṭipadaaruṇato paṭṭhāya yāva puna aruṇaṃ na bhijjati, tāva gāhetabbaṃ.
However, the bhikkhu receiving the dwelling should take it from the dawn of the first day (of the rains retreat) until the next dawn does not break.
Tuy nhiên, người nhận chỗ ở (senāsanaggāhaka) nên nhận từ lúc bình minh của ngày đầu tiên cho đến khi bình minh của ngày tiếp theo chưa xuất hiện.
Idañhi senāsanaggāhassa khettaṃ.
For this is the field for receiving a dwelling.
Đây chính là phạm vi của việc nhận chỗ ở.
Sace pātova gābhite senāsane añño vitakkacāriko bhikkhu āgantvā senāsanaṃ yācati, ‘‘gahitaṃ, bhante, senāsanaṃ, vassūpagato saṅgho, ramaṇīyo vihāro, rukkhamūlādīsu yattha icchatha, tattha vasathā’’ti vattabbo.
If a bhikkhu, wandering with many thoughts, comes and asks for a dwelling where one has already been received early in the morning, he should be told, “Venerable Sir, this dwelling has been received, the Saṅgha has entered the rains retreat, the monastery is delightful, reside wherever you wish, at the foot of a tree or elsewhere.”
Nếu một tỳ khưu khác, đang đi đây đó với những suy nghĩ (về chỗ ở), đến và xin chỗ ở đã được nhận vào buổi sáng, thì nên nói: “Bạch Đại đức, chỗ ở đã được nhận rồi. Tăng đoàn đã an cư mùa mưa. Tinh xá rất đẹp. Đại đức muốn ở đâu thì cứ ở đó, dưới gốc cây hoặc những nơi tương tự.”
Pacchimavassūpanāyikadivase pana sace kālaṃ ghosetvā sannipatite saṅghe koci dasahatthaṃ vatthaṃ āharitvā vassāvāsikaṃ deti, āgantuko ce bhikkhu saṅghatthero hoti, tassa dātabbaṃ.
On the day of the last invitation to enter the rains retreat, if someone offers a cloth ten cubits long as vassāvāsika after the time has been announced and the Saṅgha has assembled, and the arriving bhikkhu is the senior of the Saṅgha, it should be given to him.
Tuy nhiên, vào ngày an cư mùa mưa cuối cùng, nếu ai đó mang đến một tấm y dài mười gang tay và cúng dường y an cư mùa mưa, nếu tỳ khưu khách là trưởng lão trong Tăng đoàn, thì nên cúng dường cho vị ấy.
Navako ce hoti, sammatena bhikkhunā saṅghatthero vattabbo ‘‘sace, bhante, icchatha, paṭhamabhāgaṃ muñcitvā idaṃ vatthaṃ gaṇhathā’’ti, amuñcantassa na dātabbaṃ.
If he is a newcomer, the Saṅgha's senior should be told by an appointed bhikkhu, “Venerable Sir, if you wish, release your first portion and accept this cloth.” It should not be given to one who does not release it.
Nếu vị ấy là tỳ khưu mới, thì một tỳ khưu đã được chấp thuận nên nói với trưởng lão trong Tăng đoàn: “Bạch Đại đức, nếu Đại đức muốn, xin hãy từ bỏ phần đầu tiên và nhận tấm y này.” Nếu vị ấy không từ bỏ, thì không nên cúng dường.
Sace pana pubbe gāhitaṃ muñcitvā gaṇhāti, dātabbaṃ.
However, if he releases what was previously received and accepts this, it should be given.
Tuy nhiên, nếu vị ấy từ bỏ cái đã nhận trước đó và nhận (cái này), thì nên cúng dường.
Eteneva upāyena dutiyattherato paṭṭhāya parivattetvā pattaṭṭhāneva āgantukassa dātabbaṃ.
By this same method, starting from the second senior (thera), it should be given to the arriving bhikkhu, rotating according to the portion due.
Bằng cách này, từ vị trưởng lão thứ hai trở đi, nên luân chuyển và cúng dường cho tỳ khưu khách tại chỗ của phần y an cư mùa mưa.
Sace pana paṭhamavassūpagatā dve tīṇi cattāri pañca vā vatthāni alatthuṃ, laddhaṃ laddhaṃ eteneva upāyena vissajjāpetvā yāva āgantukassa samakaṃ hoti, tāva dātabbaṃ.
However, if the bhikkhus who entered the first rains retreat received two, three, four, or five cloths, each received cloth should be distributed by this same method until the arriving bhikkhu receives an equal share.
Tuy nhiên, nếu những tỳ khưu an cư mùa mưa đầu tiên đã nhận được hai, ba, bốn hoặc năm tấm y, thì nên từ bỏ từng tấm y đã nhận theo cách này, và cúng dường cho đến khi tỳ khưu khách nhận được số lượng y ngang bằng.
Tena samake laddhe avasiṭṭho anubhāgo therāsane dātabbo.
When he has received an equal share, the remaining portion should be given to the senior of the Saṅgha.
Khi vị ấy đã nhận được số lượng ngang bằng, phần còn lại nên được cúng dường tại chỗ của trưởng lão.
Paccuppanne lābhe sati ṭhitikāya gāhetuṃ katikaṃ kātuṃ vaṭṭati.
If there are current gains, it is permissible to make an agreement to receive them in rotation.
Nếu có tài vật hiện có, thì được phép thỏa thuận để nhận theo thứ tự.
Sace dubbhikkhaṃ hoti, dvīsupi vassūpanāyikāsu vassūpagatā bhikkhū bhikkhāya kilamantā ‘‘āvuso, idha vasantā sabbeva kilamāma, sādhu vata dve bhāgā homa, yesaṃ ñātipavāritaṭṭhānāni atthi, te tattha vasitvā pavāraṇāya āgantvā attano pattaṃ vassāvāsikaṃ gaṇhantū’’ti vadanti, tesu ye tattha vasitvā pavāraṇāya āgacchanti, tesaṃ apaloketvā vassāvāsikaṃ dātabbaṃ.
If there is a famine, and the bhikkhus who have entered the rains retreat in both the first and last periods are suffering for alms, and they say, “Friends, all of us residing here are suffering; it would be good if we become two groups. Those who have places where they are invited by relatives, let them reside there and come for the Pavāraṇā to receive their own vassāvāsika,” then for those who reside there and come for the Pavāraṇā, the vassāvāsika should be given after being announced to the Saṅgha.
Nếu có nạn đói, và các tỳ khưu an cư mùa mưa trong cả hai kỳ an cư mùa mưa đều gặp khó khăn trong việc khất thực, họ nói: “Này chư hiền, khi chúng ta ở đây, tất cả đều gặp khó khăn. Thật tốt nếu chúng ta chia thành hai nhóm. Những ai có nơi thân thích đã được mời, hãy ở đó và đến vào ngày mãn hạ để nhận y an cư mùa mưa của mình.” Khi đó, những ai ở đó và đến vào ngày mãn hạ, thì nên cúng dường y an cư mùa mưa cho họ sau khi đã thông báo.
Sādiyantāpi hi teneva vassāvāsikassa sāmino, khīyantāpi ca āvāsikā neva adātuṃ labhanti.
For even if they accept it, they are not owners of the vassāvāsika, and even if they grumble, the resident bhikkhus cannot withhold it.
Vì những tỳ khưu đó, dù có chấp nhận y an cư mùa mưa, cũng không phải là chủ sở hữu của y an cư mùa mưa; và dù có bất mãn, những tỳ khưu cư trú cũng không thể không cúng dường.
Kurundiyaṃ pana vuttaṃ ‘‘katikavattaṃ kātabbaṃ ‘sabbesaṃ no idha yāgubhattaṃ nappahoti, sabhāgaṭṭhāne vasitvā āgacchatha, tumhākaṃ pattaṃ vassāvāsikaṃ labhissathā’ti.
However, in the Kurundi it is stated: “An agreement (katikavatta) should be made: ‘Gruel and food are not enough for all of us here. Reside in suitable places and come; you will receive your due vassāvāsika.’
Tuy nhiên, trong Kurundi đã nói: “Nên lập một thỏa thuận (katikavatta): ‘Cháo và cơm ở đây không đủ cho tất cả chúng ta. Hãy đến ở những nơi thích hợp, rồi đến đây và sẽ nhận được y an cư mùa mưa của quý vị.’”
Tañce eko paṭibāhati, supaṭibāhitaṃ.
If one person objects to that, it is well objected to.
Nếu một người phản đối điều đó, thì đã bị phản đối đúng.
No ce paṭibāhati, katikā sukatā.
If no one objects, the agreement is well made.
Nếu không ai phản đối, thì thỏa thuận đã được lập tốt.
Pacchā tesaṃ tattha vasitvā āgatānaṃ apaloketvā dātabbaṃ, apalokanakāle paṭibāhituṃ na labbhatī’’ti.
Afterwards, for those who resided elsewhere and returned, it should be given after being announced, and it is not permissible to object at the time of announcement.”
Sau đó, những ai đã ở đó và trở về, nên cúng dường cho họ sau khi đã thông báo. Vào lúc thông báo, không được phép phản đối.”
Punapi vuttaṃ ‘‘sace vassūpagatesu ekaccānaṃ vassāvāsike apāpuṇante bhikkhū katikaṃ karonti ‘chinnavassānaṃ vassāvāsikañca idāni uppajjanakavassāvāsikañca imesaṃ dātuṃ ruccatī’ti, evaṃ katikāya katāya gāhitasadisameva hoti, uppannuppannaṃ tesameva dātabba’’nti.
It is also stated again: “If among the bhikkhus who have entered the rains retreat, some do not receive their vassāvāsika, and the bhikkhus make an agreement, ‘It is agreeable to give the vassāvāsika of those who broke their rains retreat, and the vassāvāsika that will arise now, to these bhikkhus,’ then when such an agreement is made, it is as if it has been received, and whatever arises should be given to them.”
Lại nữa, đã nói: “Nếu trong số các tỳ khưu an cư mùa mưa, y an cư mùa mưa không đến kịp cho một số vị, và các tỳ khưu lập thỏa thuận: ‘Chúng tôi đồng ý cúng dường y an cư mùa mưa của những người đã mãn hạ và y an cư mùa mưa sẽ phát sinh bây giờ cho những vị này,’ thì khi thỏa thuận như vậy được lập, nó giống như đã được nhận. Bất cứ khi nào phát sinh, nên cúng dường cho chính những vị đó.”
Temāsaṃ pānīyaṃ upaṭṭhāpetvā vihāramaggacetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇāni jaggitvā bodhirukkhe udakaṃ siñcitvā pakkantopi vibbhantopi vassāvāsikaṃ labhatiyeva.
Even if one has provided water for three months, maintained the monastery paths, the cetiya courtyards, and the Bodhi tree courtyards, and watered the Bodhi tree, and then left or disrobed, he still receives the vassāvāsika.
Dù đã rời đi hoặc đã hoàn tục, vị tỳ khưu đã cung cấp nước uống trong ba tháng, đã chăm sóc các con đường trong tinh xá, sân cetiya, sân bồ đề, và đã tưới nước cho cây bồ đề, vẫn nhận được y an cư mùa mưa.
Bhatiniviṭṭhañhi tena kataṃ, saṅghikaṃ pana apalokanakammaṃ katvā gāhitaṃ antovasse vibbhantopi labhateva, paccayavasena gāhitaṃ pana na labhatīti vadanti.
For he has performed a service. However, if it is a Saṅghika vassāvāsika received after an announcement (apalokanakamma), he receives it even if he disrobes within the rains retreat. But they say that if it was received by way of requisites (from a donor), he does not receive it.
Vì vị ấy đã thực hiện công việc được thuê, nên vẫn nhận được. Tuy nhiên, nếu là vật thuộc Tăng đoàn được nhận sau khi đã làm lễ thông báo, thì dù có hoàn tục trong mùa mưa, vị ấy vẫn nhận được. Nhưng nếu là vật được nhận dựa trên sự cúng dường (paccaya), thì họ nói rằng vị ấy không nhận được.
Sace vuṭṭhavasso disaṃgamiko bhikkhu āvāsikassa hatthato kiñcideva kappiyabhaṇḍaṃ gahetvā ‘‘asukakule mayhaṃ vassāvāsikaṃ pattaṃ, taṃ gaṇhathā’’ti vatvā gataṭṭhāne vibbhamati, vassāvāsikaṃ saṅghikaṃ hoti.
If a bhikkhu who has completed the rains retreat and intends to travel takes some allowable item from a resident bhikkhu, says, “My vassāvāsika is due from such-and-such a family, please receive it,” and then disrobes at the place he went to, that vassāvāsika belongs to the Saṅgha.
Nếu một tỳ khưu đã mãn hạ, muốn đi đến một phương khác, nhận một vật phẩm hợp pháp nào đó từ tay vị tỳ khưu cư trú và nói: “Y an cư mùa mưa của tôi đã đến ở gia đình đó, xin hãy nhận lấy,” rồi hoàn tục ở nơi đã đến, thì y an cư mùa mưa đó trở thành của Tăng đoàn.
Sace pana manusse sammukhā sampaṭicchāpetvā gacchati, labhati.
However, if he has the people acknowledge it in person before leaving, he receives it.
Tuy nhiên, nếu vị ấy đã khiến mọi người chấp nhận trực tiếp rồi mới đi, thì vị ấy sẽ nhận được.
‘‘Idaṃ vassāvāsikaṃ amhākaṃ senāsane vutthabhikkhuno demā’’ti vutte yassa gāhitaṃ, tasseva hoti.
If it is said, “We give this vassāvāsika to the bhikkhu who resided in our dwelling,” then it belongs to the one for whom it was received.
Khi nói: “Chúng tôi cúng dường y an cư mùa mưa này cho tỳ khưu đã an cư tại chỗ ở của chúng tôi,” thì nó thuộc về vị đã được nhận (chỗ ở).
Sace pana senāsanasāmikassa piyakamyatāya puttadhītādayo bahūni vatthāni āharitvā ‘‘amhākaṃ senāsane demā’’ti denti, tattha vassūpagatassa ekameva vatthaṃ dātabbaṃ, sesāni saṅghikāni honti.
However, if, out of affection for the owner of the dwelling, many cloths are brought by sons, daughters, and others, saying, “We give them to the dwelling,” then only one cloth should be given to the bhikkhu who observed the rains retreat there, and the rest belong to the Saṅgha.
Tuy nhiên, nếu con cái và những người khác, vì muốn làm hài lòng chủ chỗ ở, mang đến nhiều tấm y và nói: “Chúng tôi cúng dường cho chỗ ở của chúng tôi,” thì chỉ nên cúng dường một tấm y cho tỳ khưu đã an cư mùa mưa tại đó, những tấm còn lại thuộc về Tăng đoàn.
Vassāvāsikaṭhitikāya gāhetabbāni, ṭhitikāya asati therāsanato paṭṭhāya gāhetabbāni.
They should be received according to the rotation for vassāvāsika; if there is no rotation, they should be received starting from the senior's seat.
Chúng nên được nhận theo thứ tự y an cư mùa mưa. Nếu không có thứ tự, chúng nên được nhận từ chỗ của trưởng lão trở đi.
Senāsane vassūpagataṃ bhikkhuṃ nissāya uppannena cittappasādena bahūni vatthāni āharitvā ‘‘senāsanassa demā’’ti dinnesupi eseva nayo.
The same method applies even if many cloths are brought with mental joy that arose owing to the bhikkhu who observed the rains retreat in the dwelling, and given with the intention, “We give them to the dwelling.”
Tương tự như vậy, nếu nhiều tấm y được mang đến và cúng dường với tâm hoan hỷ phát sinh nhờ tỳ khưu đã an cư mùa mưa tại chỗ ở, và nói: “Chúng tôi cúng dường cho chỗ ở,” thì cũng theo cách tương tự.
Sace pana pādamūle ṭhapetvā ‘‘etassa bhikkhuno demā’’ti vadanti, tasseva honti.
However, if they place them at his feet and say, “We give them to this bhikkhu,” then they belong to him alone.
Tuy nhiên, nếu họ đặt dưới chân và nói: “Chúng tôi cúng dường cho tỳ khưu này,” thì chúng thuộc về chính vị ấy.
Ekassa gehe dve vassāvāsikāni, paṭhamabhāgo sāmaṇerassa gāhito hoti, dutiyo therāsane.
In one house, there are two vassāvāsikas; the first portion was received for a novice, the second for the senior's seat.
Trong một gia đình có hai y an cư mùa mưa: phần đầu tiên được nhận cho sa-di, phần thứ hai tại chỗ của trưởng lão.
So ekaṃ dasahatthaṃ, ekaṃ aṭṭhahatthaṃ sāṭakaṃ peseti ‘‘vassāvāsikaṃ pattabhikkhūnaṃ dethā’’ti, vicinitvā varabhāgaṃ sāmaṇerassa datvā anubhāgo therāsane dātabbo.
The donor sends one ten-cubit and one eight-cubit cloth, saying, “Give the vassāvāsikas to the bhikkhus who are due them.” Having sorted them, the better portion should be given to the novice, and the inferior portion should be given to the senior's seat.
Người đó gửi một tấm y dài mười gang tay và một tấm y dài tám gang tay, nói: “Hãy cúng dường y an cư mùa mưa cho các tỳ khưu có phần.” Sau khi chọn lựa, nên cúng dường phần tốt hơn cho sa-di, và phần còn lại nên được cúng dường tại chỗ của trưởng lão.
Sace pana ubhopi gharaṃ netvā bhojetvā sayameva pādamūle ṭhapeti, yaṃ yassa dinnaṃ, tadeva tassa hoti.
However, if the donor himself takes both to his house, feeds them, and then places the cloths at their feet, whatever was given to whom, that alone belongs to him.
Tuy nhiên, nếu người thí chủ tự mình mang cả hai về nhà, cúng dường thức ăn và đặt dưới chân (các vị), thì cái nào được cúng dường cho ai, cái đó thuộc về người ấy.
Ito paraṃ mahāpaccariyaṃ āgatanayo hoti – ekassa ghare daharasāmaṇerassa vassāvāsikaṃ pāpuṇāti, so ce pucchati ‘‘amhākaṃ vassāvāsikaṃ kassa patta’’nti, ‘‘sāmaṇerassā’’ti avatvā ‘‘dānakāle jānissasī’’ti vatvā dānadivase ekaṃ mahātheraṃ pesetvā nīharāpetabbaṃ.
From here onwards, the method stated in the Mahāpaccariya is as follows: If a vassāvāsika is due to a young novice in someone's house, and that person asks, “To whom is our vassāvāsika due?” without saying, “It is for the novice,” they should be told, “You will know at the time of the offering.” Then, on the day of the offering, a great thera should be sent to bring it out.
Từ đây trở đi, là cách thức được đề cập trong Mahāpaccariya: nếu y an cư mùa mưa đến lượt một sa-di trẻ trong một gia đình, và người thí chủ hỏi: “Y an cư mùa mưa của chúng tôi thuộc về ai?”, thì không nên nói: “Thuộc về sa-di,” mà nên nói: “Ông sẽ biết vào ngày cúng dường,” rồi vào ngày cúng dường, nên sai một vị Đại trưởng lão đến để mang y ra.
Sace yassa vassāvāsikaṃ pattaṃ, so vibbhamati vā kālaṃ vā karoti, manussā ce pucchanti ‘‘kassa amhākaṃ vassāvāsikaṃ patta’’nti, tesaṃ yathābhūtaṃ ācikkhitabbaṃ.
If the one for whom the vassāvāsika is due disrobes or dies, and the people ask, “To whom is our vassāvāsika due?” they should be truthfully informed.
Nếu vị mà y an cư mùa mưa thuộc về, hoàn tục hoặc qua đời, và mọi người hỏi: “Y an cư mùa mưa của chúng tôi thuộc về ai?”, thì nên nói cho họ biết sự thật.
Sace te vadanti ‘‘tumhākaṃ demā’’ti, tassa bhikkhuno pāpuṇāti.
If they say, “We give it to you,” it goes to that bhikkhu.
Nếu họ nói: “Chúng tôi cúng dường cho quý vị,” thì nó thuộc về tỳ khưu đó.
Atha saṅghassa vā gaṇassa vā denti, saṅghassa vā gaṇassa vā pāpuṇāti.
But if they give it to the Saṅgha or to a group, it goes to the Saṅgha or to the group.
Nếu họ cúng dường cho Tăng đoàn hoặc một nhóm, thì nó thuộc về Tăng đoàn hoặc nhóm đó.
Sace vassūpagatā suddhapaṃsukūlikāyeva honti, ānetvā dinnaṃ vassāvāsikaṃ senāsanaparikkhāraṃ vā katvā ṭhapetabbaṃ, bimbohanādīni vā kātabbānīti.
If the bhikkhus who have entered the rains retreat are all pure paṃsukūlikas (wearers of robes made from discarded rags), the received vassāvāsika should be kept as monastery requisites, or made into pillows, etc.
Nếu các tỳ khưu an cư mùa mưa chỉ là những vị tu hạnh phấn tảo y (paṃsukūlika) thanh tịnh, thì y an cư mùa mưa đã được mang đến và cúng dường nên được giữ làm vật dụng cho chỗ ở, hoặc nên làm gối và những vật dụng tương tự.
Etesu (cūḷava. aṭṭha. 318) tīsu senāsanaggāhesu purimako pacchimako cāti ime dve gāhā thāvarā, antarāmuttako pana senāsanapaṭijagganatthaṃ bhagavatā anuññāto.
Among these three ways of taking a lodging, these two ways, the prior and the latter, are fixed, but the antarāmuttaka was permitted by the Blessed One for the purpose of repairing the lodging.
Trong ba loại nhận chỗ ở này, hai loại nhận chỗ ở đầu tiên và cuối cùng là cố định, nhưng loại giữa mùa an cư được Đức Thế Tôn cho phép để bảo trì chỗ ở.
Tathā hi ekasmiṃ vihāre mahālābhaṃ senāsanaṃ hoti, senāsanasāmikā vassūpagataṃ bhikkhuṃ sabbapaccayehi sakkaccaṃ upaṭṭhahitvā pavāretvā gamanakāle bahuṃ samaṇaparikkhāraṃ denti, mahātherā dūratova āgantvā vassūpanāyikadivase taṃ gahetvā phāsuṃ vasitvā vuṭṭhavassā lābhaṃ gaṇhitvā pakkamanti.
Indeed, if there is a lodging that brings great gain in a monastery, the lodging-donors reverently attend to the bhikkhu who has entered the vassa with all requisites, and after the Pavāraṇā, when it is time to depart, they give many requisites for recluses. Great theras come from afar and take it on the day of entering the vassa, reside comfortably, and after completing the vassa, they take the gains and depart.
Thật vậy, trong một trú xứ có chỗ ở mang lại nhiều lợi lộc; các thí chủ của chỗ ở đó đã cung cấp đầy đủ mọi vật dụng cho vị Tỳ-khưu an cư một cách cẩn trọng, sau khi làm lễ Pavāraṇā, khi đến lúc ra đi, họ lại cúng dường nhiều vật dụng của Sa-môn; các Đại Trưởng lão từ xa đến, vào ngày bắt đầu an cư, nhận lấy chỗ ở đó, sống an ổn, và sau khi mãn hạ thì nhận lợi lộc rồi ra đi.
Āvāsikā ‘‘mayaṃ etthuppannaṃ lābhaṃ na labhāma, niccaṃ āgantukamahātherāva labhanti, teyeva naṃ āgantvā paṭijaggissantī’’ti palujjantampi na olokenti.
The resident bhikkhus say, “We do not receive the gains produced here; it is always the visiting great theras who receive them. They alone will come and repair it,” and they do not even look at it when it is decaying.
Các vị Tỳ-khưu thường trú nói: “Chúng tôi không nhận được lợi lộc phát sinh ở đây, mà luôn luôn các Đại Trưởng lão khách tăng mới nhận được; chính họ sẽ đến và bảo trì chỗ ở đó,” rồi họ không để ý đến chỗ ở đó dù nó có hư hoại.
Bhagavā tassa paṭijagganatthaṃ ‘‘aparajjugatāya pavāraṇāya āyatiṃ vassāvāsatthāya antarāmuttako gāhetabbo’’ti āha.
To maintain such (a lodging), the Blessed One said, “On the day after the Pavāraṇā, the antarāmuttaka should be taken for the purpose of residence in the future vassa.”
Đức Thế Tôn, vì mục đích bảo trì chỗ ở đó, đã nói: “Chỗ ở giữa mùa an cư nên được nhận vào ngày sau lễ Pavāraṇā để an cư trú trong những năm sau.”
Taṃ gāhentena saṅghatthero vattabbo ‘‘bhante, antarāmuttakasenāsanaṃ gaṇhathā’’ti.
The bhikkhu who takes it should address the Sangha-thera, saying, “Venerable sir, please take the antarāmuttaka lodging.”
Vị Tỳ-khưu nhận chỗ ở đó phải thưa với vị Trưởng lão của Tăng-già: “Bạch Đại đức, xin Đại đức nhận chỗ ở giữa mùa an cư này.”
Sace gaṇhāti, dātabbaṃ.
If he takes it, it should be given.
Nếu vị ấy nhận, thì nên dâng.
No ce, eteneva upāyena anutheraṃ ādiṃ katvā yo gaṇhāti, tassa antamaso sāmaṇerassapi dātabbaṃ.
If not, then by this very method, starting with an anu-thera, it should be given to whoever takes it, even to a sāmaṇera, as a last resort.
Nếu không, thì theo cách đó, bắt đầu từ vị Trưởng lão kế tiếp trở xuống, cho đến Sa-môn, ai nhận thì nên dâng cho người đó.
Tena taṃ senāsanaṃ aṭṭha māse paṭijaggitabbaṃ, chadanabhittibhūmīsu yaṃ kiñci khaṇḍaṃ vā phullaṃ vā hoti, taṃ sabbaṃ paṭisaṅkharitabbaṃ.
That bhikkhu should maintain that lodging for eight months; whatever is broken or worn out in the roof, walls, or ground, all of it should be repaired.
Vị ấy phải bảo trì chỗ ở đó trong tám tháng; bất cứ phần nào bị hư hỏng hoặc mục nát ở mái, tường, hoặc nền, tất cả đều phải được sửa chữa.
Uddesaparipucchādīhi divasaṃ khepetvā rattiṃ tattha vasituṃ vaṭṭati, rattiṃ pariveṇe vasitvā tattha divasaṃ khepetumpi vaṭṭati, rattindivaṃ tattheva vasitumpi vaṭṭati, utukāle āgatānaṃ vuḍḍhānaṃ na paṭibāhitabbaṃ.
It is permissible to spend the day with recitation, inquiry, and so forth, and to reside there at night; it is also permissible to reside in the pariveṇa at night and spend the day there; it is also permissible to reside there day and night; and senior bhikkhus who arrive during the season should not be prevented.
Sau khi trải qua ban ngày với việc học hỏi và vấn đáp, có thể ở đó vào ban đêm; cũng có thể ở trong pariveṇa vào ban đêm và trải qua ban ngày ở đó; cũng có thể ở đó cả ngày lẫn đêm; không được từ chối các vị Trưởng lão đến vào mùa thích hợp.
Vassūpanāyikadivase pana sampatte sace saṅghatthero ‘‘mayhaṃ idaṃ pana senāsanaṃ dethā’’ti vadati, na labhati.
However, when the day of entering the vassa arrives, if the Sangha-thera says, “Venerable sir, please give me this lodging,” he does not receive it.
Tuy nhiên, khi ngày bắt đầu an cư đến, nếu vị Trưởng lão của Tăng-già nói: “Xin hãy dâng chỗ ở này cho tôi,” thì vị ấy không được nhận.
‘‘Bhante, idaṃ antarāmuttakaṃ gahetvā ekena bhikkhunā paṭijaggita’’nti vatvā na dātabbaṃ, aṭṭha māse paṭijaggitabhikkhusseva gāhitaṃ hoti.
It should not be given, by saying, “Venerable sir, this antarāmuttaka was taken and maintained by a certain bhikkhu,” as it is considered to have been taken by the bhikkhu who maintained it for eight months.
Không nên dâng, mà phải nói: “Bạch Đại đức, chỗ ở giữa mùa an cư này đã được một vị Tỳ-khưu bảo trì trong tám tháng,” vì chỗ ở đó đã được vị Tỳ-khưu bảo trì trong tám tháng nhận.
Yasmiṃ pana senāsane ekasaṃvacchare dvikkhattuṃ paccaye denti chamāsaccayena chamāsaccayena, taṃ antarāmuttakaṃ na gāhetabbaṃ.
However, if in a lodging, requisites are given twice a year, that is, every six months, such an antarāmuttaka should not be taken.
Tuy nhiên, chỗ ở nào mà các vật dụng được cúng dường hai lần trong một năm, mỗi lần cách nhau sáu tháng, thì không nên nhận làm chỗ ở giữa mùa an cư.
Yasmiṃ vā tikkhattuṃ denti catumāsaccayena catumāsaccayena, yasmiṃ vā catukkhattuṃ denti temāsaccayena temāsaccayena, taṃ antarāmuttakaṃ na gāhetabbaṃ.
Or if they give it three times a year, that is, every four months; or if they give it four times a year, that is, every three months, such an antarāmuttaka should not be taken.
Hoặc chỗ nào được cúng dường ba lần, mỗi lần cách nhau bốn tháng, hoặc chỗ nào được cúng dường bốn lần, mỗi lần cách nhau ba tháng, thì không nên nhận làm chỗ ở giữa mùa an cư.
Paccayeneva hi taṃ paṭijagganaṃ labhissati.
For that (lodging) will receive maintenance from its own requisites.
Vì việc bảo trì đó sẽ được thực hiện bằng các vật dụng.
Yasmiṃ pana ekasaṃvacchare sakideva bahū paccaye denti, etaṃ antarāmuttakaṃ gāhetabbanti.
However, if in a lodging, many requisites are given only once a year, this antarāmuttaka should be taken.
Tuy nhiên, chỗ ở nào mà nhiều vật dụng được cúng dường chỉ một lần trong một năm, thì nên nhận làm chỗ ở giữa mùa an cư.
223. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, akataṃ vā vihāraṃ vippakataṃ vā navakammaṃ dātuṃ, khuddake vihāre kammaṃ oloketvā chappañcavassikaṃ navakammaṃ dātuṃ, aḍḍhayoge kammaṃ oloketvā sattaṭṭhavassikaṃ navakammaṃ dātuṃ, mahallake vihāre pāsāde vā kammaṃ oloketvā dasadvādasavassikaṃ navakammaṃ dātu’’nti (cūḷava. 323) vacanato akataṃ vippakataṃ vā senāsanaṃ ekassa bhikkhuno apalokanena vā kammavācāya vā sāvetvā navakammaṃ katvā vasituṃ yathāvuttakālaparicchedavasena dātabbaṃ.
By the statement, “Monks, I allow to give for new construction a dwelling that is unbuilt or incomplete, to give for new construction a small dwelling for five or six years after examining the work, to give for new construction a semi-detached dwelling for seven or eight years after examining the work, and to give for new construction a large dwelling or a palace for ten or twelve years after examining the work,” an unbuilt or incomplete lodging, after being announced by either a public announcement or a formal act (kammavācā) to a bhikkhu, should be given for him to carry out new construction and reside there for the aforementioned period.
Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dâng công việc xây dựng mới cho một trú xứ chưa xây xong hoặc đang xây dở; cho phép dâng công việc xây dựng mới cho một trú xứ nhỏ trong năm hoặc sáu năm, sau khi xem xét công việc; cho phép dâng công việc xây dựng mới cho một aḍḍhayoga trong bảy hoặc tám năm, sau khi xem xét công việc; cho phép dâng công việc xây dựng mới cho một trú xứ lớn hoặc một pāsāda trong mười hoặc mười hai năm, sau khi xem xét công việc,” thì chỗ ở chưa xây xong hoặc đang xây dở nên được dâng cho một vị Tỳ-khưu để xây dựng mới và ở, bằng cách thông báo hoặc bằng kammavācā, theo thời hạn đã nêu.
Navakammiko bhikkhu antovasse taṃ āvāsaṃ labhati, utukāle paṭibāhituṃ na labhati.
The bhikkhu who undertakes new construction receives that residence within the vassa; he is not permitted to obstruct (others) during the season.
Vị Tỳ-khưu làm công việc xây dựng mới được nhận trú xứ đó trong mùa an cư, và không được từ chối vào mùa khác.
Laddhanavakammena pana bhikkhunā vāsipharasunikhādanādīni gahetvā sayaṃ na kātabbaṃ, katākataṃ jānitabbaṃ.
However, the bhikkhu who has received new construction should not personally carry out the work with adzes, axes, chisels, etc., but should know what has been done and what has not.
Tuy nhiên, vị Tỳ-khưu đã nhận công việc xây dựng mới không nên tự mình cầm rìu, búa, đục, v.v., mà phải biết việc đã làm và chưa làm.
Sace so āvāso jīrati, āvāsasāmikassa vā tassa vaṃse uppannassa vā kassaci kathetabbaṃ ‘‘āvāso te nassati, jaggatha etaṃ āvāsa’’nti.
If that residence falls into disrepair, it should be reported to the resident’s owner, or to anyone born in his lineage, saying, “Your residence is deteriorating; please take care of this residence.”
Nếu trú xứ đó bị hư hoại, thì phải báo cho thí chủ của trú xứ đó hoặc bất kỳ ai thuộc dòng dõi của họ: “Trú xứ của ông đang bị hư hoại, hãy bảo trì trú xứ này.”
Sace so na sakkoti, bhikkhūhi ñātīhi vā upaṭṭhākehi vā samādāpetvā jaggitabbo.
If he is unable, it should be taken care of by the bhikkhus, or by relatives, or by supporters, by having them undertake the responsibility.
Nếu người đó không thể, thì phải được các Tỳ-khưu, thân quyến, hoặc cận sự nam giúp đỡ bảo trì.
Sace tepi na sakkonti, saṅghikena paccayena jaggitabbo, tasmimpi asati ekaṃ āvāsaṃ vissajjetvā avasesā jaggitabbā, bahū vissajjetvā ekaṃ saṇṭhapetumpi vaṭṭatiyeva.
If they too are unable, it should be taken care of with Sangha property; if that is also not available, one residence should be given up and the remaining ones maintained, or it is permissible to give up many and restore one.
Nếu họ cũng không thể, thì phải được bảo trì bằng các vật dụng của Tăng-già; nếu không có vật dụng của Tăng-già, thì nên từ bỏ một trú xứ và bảo trì các trú xứ còn lại; cũng có thể từ bỏ nhiều trú xứ để sửa sang một trú xứ.
Kurundiyaṃ pana vuttaṃ ‘‘saṅghike paccaye asati eko bhikkhu ‘tuyhaṃ ekamañcaṭṭhānaṃ gahetvā jaggāhī’ti vattabbo.
However, in the Kurundī it is stated, “If there are no Sangha requisites, one bhikkhu should be told, ‘Take one couch-place for yourself and maintain it.’
Tuy nhiên, trong Kurundī có nói: “Nếu không có vật dụng của Tăng-già, thì một vị Tỳ-khưu nên được nói: ‘Ông hãy nhận một chỗ nằm và bảo trì nó.’
Sace bahutaraṃ icchati, tibhāgaṃ vā upaḍḍhabhāgaṃ vā datvāpi jaggāpetabbaṃ.
If he desires more, it should be maintained by giving him one-third or one-half of it.
Nếu vị ấy muốn nhiều hơn, thì có thể cho một phần ba hoặc một nửa để bảo trì.
Atha thambhamattamevettha avasiṭṭhaṃ, bahukammaṃ kātabbanti na icchati, ‘tuyhaṃ puggalikameva katvā jaggāhī’ti dātabbaṃ.
If only a pillar remains there, and he does not wish to undertake much work, it should be given to him, saying, ‘Make it your personal property and maintain it.’
Nếu chỉ còn lại một cây cột và vị ấy không muốn làm nhiều việc, thì nên dâng cho vị ấy nói: ‘Hãy làm nó thành tài sản cá nhân của ông và bảo trì nó.’
Evampi hi ‘saṅghassa bhaṇḍakaṭhapanaṭṭhānañca navakānañca vasanaṭṭhānaṃ labhissatī’ti jaggāpetabbo.
Even so, it should be maintained with the thought that ‘the Sangha will gain a place for storing goods and new bhikkhus will have a place to reside.’
Vì ngay cả như vậy, việc bảo trì sẽ được thực hiện với suy nghĩ: ‘Tăng-già sẽ có chỗ để cất giữ vật dụng và các Tỳ-khưu mới sẽ có chỗ để ở.’
Evaṃ jaggito pana tasmiṃ jīvante puggaliko hoti, mate saṅghikova.
Such a residence, when maintained, remains personal property as long as that person lives, but upon his death, it becomes Sangha property.
Chỗ ở được bảo trì như vậy sẽ là tài sản cá nhân khi người đó còn sống, nhưng khi người đó chết thì trở thành tài sản của Tăng-già.
Sace saddhivihārikānaṃ dātukāmo hoti, kammaṃ oloketvā tibhāgaṃ vā upaḍḍhaṃ vā puggalikaṃ katvā jaggāpetabbo.
If he wishes to give it to his pupils, after examining the work, it should be maintained by making one-third or one-half of it personal property.
Nếu vị ấy muốn dâng cho các đệ tử của mình, thì sau khi xem xét công việc, nên cho một phần ba hoặc một nửa làm tài sản cá nhân để bảo trì.
Evañhi saddhivihārikānaṃ dātuṃ labhati.
In this way, he is able to give it to his pupils.
Như vậy, vị ấy có thể dâng cho các đệ tử của mình.
Evaṃ jagganake pana asati ekaṃ āvāsaṃ vissajjetvātiādinā nayena jaggāpetabbo’’ti vuttaṃ.
If there is no such maintainer, it should be maintained in the manner beginning with ‘by giving up one residence,’ and so on.”
Nếu không có người bảo trì như vậy, thì nên bảo trì theo cách đã nói ở trên, tức là từ bỏ một trú xứ, v.v.”
Idampi ca aññaṃ tattheva vuttaṃ.
This other statement is also found in the same (Kurundī).
Lời dạy này cũng được nói ở cùng chỗ đó.
Dve bhikkhū saṅghikabhūmiṃ gahetvā sodhetvā saṅghikasenāsanaṃ karonti, yena sā bhūmi paṭhamaṃ gahitā, so sāmī.
If two bhikkhus take Sangha land, clear it, and build a Sangha lodging, the one who took the land first is the owner.
Hai vị Tỳ-khưu nhận đất của Tăng-già, dọn dẹp và xây dựng chỗ ở của Tăng-già; vị nào nhận đất đó trước thì là chủ.
Ubhopi puggalikaṃ karonti, soyeva sāmī.
If both make it personal property, he (the first) is still the owner.
Nếu cả hai đều làm thành tài sản cá nhân, thì vị đó vẫn là chủ.
So saṅghikaṃ karoti, itaro puggalikaṃ karoti, aññaṃ ce bahu senāsanaṭṭhānaṃ atthi, puggalikaṃ karontopi na vāretabbo.
If he makes it Sangha property, and the other makes it personal property, and if there are many other suitable lodging places, he (the one making it personal) should not be prevented.
Nếu vị ấy xây dựng của Tăng-già, và vị kia xây dựng của cá nhân, nếu có nhiều chỗ ở thích hợp khác, thì không nên ngăn cản vị xây dựng của cá nhân.
Aññasmiṃ pana tādise patirūpe ṭhāne asati taṃ paṭibāhitvā saṅghikaṃ karonteneva kātabbaṃ.
But if there is no other suitable place of that kind, he should be prevented, and it should be built by the one who makes it Sangha property.
Tuy nhiên, nếu không có chỗ thích hợp tương tự khác, thì nên ngăn cản vị đó và để vị xây dựng của Tăng-già thực hiện.
Yaṃ pana tassa tattha vayakammaṃ kataṃ, taṃ dātabbaṃ.
However, the value of the work he had done there should be given to him.
Và khoản chi phí mà vị ấy đã bỏ ra ở đó thì nên được hoàn trả.
Sace pana katāvāse vā āvāsakaraṇaṭṭhāne vā chāyūpagaphalūpagā rukkhā honti, apaloketvā hāretabbā.
If, in a built residence or a place for building a residence, there are trees providing shade or fruit, they should be removed after informing the Sangha.
Tuy nhiên, nếu trong trú xứ đã xây hoặc chỗ đang xây có cây cối cho bóng mát hoặc cho quả, thì nên báo cho Tăng-già và chặt bỏ.
Puggalikā ce honti, sāmikā āpucchitabbā.
If they are personal property, the owners should be asked for permission.
Nếu là cây của cá nhân, thì phải hỏi ý kiến chủ.
No ce denti, yāvatatiyakaṃ āpucchitvā ‘‘rukkhaagghanakamūlaṃ dassāmā’’ti hāretabbā.
If they do not give permission, after asking up to three times, they should be removed, saying, “We will give the value of the trees.”
Nếu họ không cho phép, thì sau khi hỏi ý kiến ba lần, nên chặt bỏ và nói: “Chúng tôi sẽ trả giá trị của cây.”
224. Yo pana saṅghikaṃ vallimattampi aggahetvā āharimena upakaraṇena saṅghikāya bhūmiyā puggalikavihāraṃ kāreti, upaḍḍhaṃ saṅghikaṃ hoti, upaḍḍhaṃ puggalikaṃ.
224. If a bhikkhu, without taking even a creeper belonging to the Sangha, builds a personal dwelling on Sangha land with materials he brought, half of it belongs to the Sangha, and half is personal property.
224. Vị Tỳ-khưu nào, không lấy một cọng dây leo nào của Tăng-già, mà dùng vật liệu do mình mang đến để xây dựng một trú xứ cá nhân trên đất của Tăng-già, thì một nửa là của Tăng-già, và một nửa là của cá nhân.
Pāsādo ce hoti, heṭṭhāpāsādo saṅghiko, upari puggaliko.
If it is a palace, the lower palace belongs to the Sangha, and the upper one is personal property.
Nếu đó là một pāsāda, thì tầng dưới là của Tăng-già, tầng trên là của cá nhân.
Sace yo heṭṭhāpāsādaṃ icchati, heṭṭhāpāsādaṃ tassa hoti.
If a bhikkhu desires the lower storey, the lower storey belongs to him.
Nếu vị ấy muốn tầng dưới, thì tầng dưới sẽ thuộc về vị ấy.
Atha heṭṭhā ca upari ca icchati, ubhayattha upaḍḍhaṃ labhati.
If he desires both the lower and the upper storeys, he receives half in both places.
Nếu vị ấy muốn cả tầng dưới và tầng trên, thì sẽ nhận được một nửa ở cả hai nơi.
Dve senāsanāni kāreti, ekaṃ saṅghikaṃ, ekaṃ puggalikaṃ.
If he has two dwellings built, one is for the Saṅgha, and one is for the individual.
Nếu xây hai chỗ ở, một cái là của Tăng, một cái là của cá nhân.
Sace vihāre uṭṭhitena dabbasambhārena kāreti, tibhāgaṃ labhati.
If he has it built with materials acquired from the vihāra, he receives a third share.
Nếu xây bằng vật liệu thu được từ trú xứ của Tăng, thì sẽ nhận được một phần ba.
Sace akataṭṭhāne cayaṃ vā pamukhaṃ vā karoti bahikuṭṭe, upaḍḍhaṃ saṅghassa, upaḍḍhaṃ tassa.
If he constructs an accumulation or a projection in an unmade place, outside the wall, half is for the Saṅgha, and half is for him.
Nếu ở nơi chưa xây dựng, vị ấy xây nền hoặc mặt tiền bên ngoài bức tường, thì một nửa thuộc về Tăng, một nửa thuộc về vị ấy.
Atha mahantaṃ visamaṃ pūretvā apade padaṃ dassetvā kataṃ hoti, anissaro tattha saṅgho.
If, however, a large uneven plot is filled, or a dwelling-site is made in a place where there was none, the Saṅgha has no authority over it.
Nếu san lấp một chỗ đất rộng lớn không bằng phẳng, và xây dựng một chỗ ở trên một nền đất không phải là chỗ ở, thì Tăng không có quyền sở hữu ở đó.
Sace bhikkhu saṅghikavihārato gopānasiādīni gahetvā aññasmiṃ saṅghikāvāse yojeti, suyojitāni.
If a bhikkhu takes rafters and other items from a ruined Saṅgha-vihāra and uses them in another Saṅgha-residence, they are well-used.
Nếu một tỳ khưu lấy các vật liệu như xà gồ từ một trú xứ của Tăng đã hư hỏng và lắp đặt chúng vào một trú xứ của Tăng khác, thì việc lắp đặt đó là hợp lệ.
Puggalikāvāse yojentehi pana mūlaṃ vā dātabbaṃ, paṭipākatikaṃ vā kātabbaṃ.
However, if they are used in a personal residence, the value must be paid, or a replacement must be provided.
Tuy nhiên, những người lắp đặt chúng vào một trú xứ cá nhân thì phải trả tiền hoặc làm cho chúng trở lại trạng thái ban đầu.
Chaḍḍitavihārato mañcapīṭhādīni theyyacittena gaṇhanto uddhāreyeva bhaṇḍagghena kāretabbo.
A bhikkhu who takes beds, chairs, and other items from an abandoned vihāra with the intention of theft must be made to pay for them at their full value, right from the act of taking.
Một người lấy giường, ghế, v.v., từ một trú xứ bị bỏ hoang với ý định trộm cắp, phải bị bắt trả lại giá trị của tài sản ngay lập tức.
‘‘Puna āvāsikakāle dassāmī’’ti gahetvā saṅghikaparibhogena paribhuñjantassa naṭṭhaṃ sunaṭṭhaṃ, jiṇṇaṃ sujiṇṇaṃ.
If, having taken them thinking, “I will return them when it is time to reside (here) again,” he uses them for the Saṅgha's benefit, what is damaged is well-damaged, and what is worn out is well-worn out.
Nếu một người lấy và sử dụng chúng cho mục đích của Tăng, với ý nghĩ “Tôi sẽ trả lại khi trú xứ được sửa chữa,” thì nếu chúng bị hư hỏng, đó là một sự hư hỏng tốt; nếu chúng bị cũ nát, đó là một sự cũ nát tốt.
Arogaṃ ce, pākatikaṃ kātabbaṃ, puggalikaparibhogena paribhuñjantassa naṭṭhaṃ vā jiṇṇaṃ vā gīvā hoti.
If it is undamaged, it should be made good (returned to its original state). If he uses it for personal benefit, what is damaged or worn out is his responsibility.
Nếu chúng không bị hư hỏng nặng, thì phải làm cho chúng trở lại trạng thái ban đầu. Nếu một người sử dụng chúng cho mục đích cá nhân và chúng bị hư hỏng hoặc cũ nát, thì đó là lỗi của người đó.
Tato dvāravātapānādīni saṅghikāvāse vā puggalikāvāse vā yojitāni, paṭidātabbāniyeva.
Therefore, if doors, windows, and other items from an abandoned vihāra are installed in a Saṅgha-residence or a personal residence, they must be returned.
Do đó, các vật như cửa ra vào và cửa sổ được lắp đặt trong trú xứ của Tăng hoặc trú xứ cá nhân đều phải được trả lại.
Sace koci saṅghiko vihāro undriyati, yaṃ tattha mañcapīṭhādikaṃ, taṃ guttatthāya aññatra harituṃ vaṭṭati.
If any Saṅgha-vihāra collapses, it is permissible to move the beds, chairs, and other items in it elsewhere for their safety.
Nếu một trú xứ của Tăng bị hư hỏng, thì được phép di chuyển giường, ghế, v.v., ở đó đến một nơi khác để bảo quản.
Tasmā aññatra haritvā saṅghikaparibhogena paribhuñjantassa naṭṭhaṃ sunaṭṭhaṃ, jiṇṇaṃ sujiṇṇaṃ.
Therefore, if one moves them elsewhere and uses them for the Saṅgha’s benefit, what is damaged is well-damaged, and what is worn out is well-worn out.
Vì vậy, nếu một người di chuyển chúng đến một nơi khác và sử dụng cho mục đích của Tăng, thì nếu chúng bị hư hỏng, đó là một sự hư hỏng tốt; nếu chúng bị cũ nát, đó là một sự cũ nát tốt.
Sace arogaṃ, tasmiṃ vihāre paṭisaṅkhate puna pākatikaṃ kātabbaṃ.
If it is undamaged, it must be restored to its original state when that vihāra is repaired.
Nếu chúng không bị hư hỏng nặng, thì khi trú xứ đó được sửa chữa, phải làm cho chúng trở lại trạng thái ban đầu.
Puggalikaparibhogena paribhuñjato naṭṭhaṃ vā jiṇṇaṃ vā gīvā hoti, tasmiṃ paṭisaṅkhate dātabbameva.
If a bhikkhu uses it for personal benefit, what is damaged or worn out is his responsibility; it must be returned when that dwelling is repaired.
Nếu một người sử dụng chúng cho mục đích cá nhân và chúng bị hư hỏng hoặc cũ nát, thì đó là lỗi của người đó, và khi trú xứ đó được sửa chữa, chúng phải được trả lại.
Ayaṃ senāsanaggāhakathā.
This is the account of acquiring dwellings.
Đây là câu chuyện về việc nhận chỗ ở.
225. Ayaṃ panettha catupaccayasādhāraṇakathā (cūḷava. aṭṭha. 325 pakkhikabhattādikathā) – sammatena appamattakavissajjakena bhikkhunā cīvarakammaṃ karontassa ‘‘sūciṃ dehī’’ti vadato ekā dīghā, ekā rassāti dve sūciyo dātabbā.
225. Now, this is the discussion on the common use of the four requisites: To a bhikkhu who is making a robe and says “Give me a needle” to an appointed dispenser of small requisites, two needles should be given: one long and one short.
225. Đây là câu chuyện về sự phân chia bốn vật dụng chung (Cūḷava. aṭṭha. 325, câu chuyện về bữa ăn theo từng phần, v.v.): Một tỳ khưu được Tăng cử làm người phân phát các vật dụng nhỏ, khi có người xin kim để may y, phải đưa hai cây kim, một cây dài và một cây ngắn.
‘‘Avibhattaṃ saṅghikabhaṇḍa’’nti pucchitabbakiccaṃ natthi.
There is no need to ask, “Is this Saṅgha property undivided?”
Không cần phải hỏi: “Tài sản của Tăng này chưa được phân chia phải không?”
Pipphalatthikassa eko pipphalako, kantāraṃ paṭipajjitukāmassa upāhanayugaḷaṃ, kāyabandhanatthikassa kāyabandhanaṃ, ‘‘aṃsabaddhako me jiṇṇo’’ti āgatassa aṃsabaddhako, parissāvanatthikassa parissāvanaṃ dātabbaṃ, dhammakaraṇatthikassa dhammakaraṇo.
To one who desires a small knife, one small knife should be given; to one who wishes to travel through a forest, a pair of sandals; to one who desires a waistband, a waistband; to one who comes saying, “My shoulder-strap is worn out,” a shoulder-strap; to one who desires a water-strainer, a water-strainer cloth should be given; to one who desires a water-pot (dhammakaraṇo), a water-pot.
Người nào muốn dao nhỏ thì đưa một con dao nhỏ; người nào muốn đi đường xa thì đưa một đôi dép; người nào muốn dây lưng thì đưa một cái dây lưng; người nào đến nói “dây bát của tôi đã cũ” thì đưa một cái dây bát; người nào muốn đồ lọc nước thì đưa một cái đồ lọc nước; người nào muốn đồ dùng để làm pháp (dhammakaraṇa) thì đưa một cái dhammakaraṇa.
Sace paṭṭako na hoti, dhammakaraṇo paṭṭakena saddhiṃ dātabbo.
If there is no cloth-cover, the water-pot should be given along with a cloth-cover.
Nếu không có vải, thì phải đưa dhammakaraṇa kèm theo vải.
‘‘Āgantukapattaṃ āropessāmī’’ti yācantassa kusiyā ca aḍḍhakusiyā ca pahonakaṃ dātabbaṃ.
To one who asks, “I will mount a bowl for a visiting bhikkhu,” enough material for the length and width of the bowl should be given.
Người nào xin để gắn bát cho khách (āgantukapatta) thì phải đưa đủ vải cho cả chiều dài và chiều rộng của bát.
‘‘Maṇḍalaṃ nappahotī’’ti āgatassa maṇḍalaṃ ekaṃ dātabbaṃ, aḍḍhamaṇḍalāni dve dātabbāni, dve maṇḍalāni yācantassa na dātabbāni.
To one who comes saying, “There is not enough for a round patch,” one round patch should be given; two half-round patches should be given; if one asks for two round patches, they should not be given.
Người nào đến nói “không đủ vải tròn” thì đưa một mảnh vải tròn; đưa hai mảnh vải nửa tròn; không được đưa hai mảnh vải tròn cho người xin.
Anuvātaparibhaṇḍatthikassa ekassa cīvarassa pahonakaṃ dātabbaṃ, sappinavanītādiatthikassa gilānassa ekaṃ bhesajjaṃ nāḷimattaṃ katvā tato tatiyakoṭṭhāso dātabbo.
To one who desires a side-binding cloth, enough for one robe should be given; to a sick bhikkhu who desires ghee, fresh butter, or other such items, one medicine should be given as one nāḷi measure, of which a third portion is given.
Người nào muốn vải viền y (anuvātaparibhaṇḍa) thì đưa đủ cho một chiếc y; người bệnh nào muốn bơ, dầu, v.v., thì phải đưa một phần ba của một nāḷi (đơn vị đo lường) thuốc.
Evaṃ tīṇi divasāni datvā nāḷiyā paripuṇṇāya catutthadivasato paṭṭhāya saṅghaṃ āpucchitvā dātabbaṃ, guḷapiṇḍepi ekadivasaṃ tatiyabhāgo dātabbo.
Having given it thus for three days, when the nāḷi is full, from the fourth day onwards, it should be given after consulting the Saṅgha. For a lump of jaggery, a third portion should be given for one day.
Sau khi đã đưa như vậy trong ba ngày, nếu đã đủ một nāḷi, thì từ ngày thứ tư trở đi, phải hỏi ý kiến Tăng rồi mới đưa. Đối với kẹo đường, cũng phải đưa một phần ba trong một ngày.
Evaṃ tīhi divasehi niṭṭhite piṇḍe tato paraṃ saṅghaṃ āpucchitvā dātabbaṃ.
When the lump (of jaggery) is finished in three days, thereafter it should be given after consulting the Saṅgha.
Sau khi đã đưa hết kẹo đường trong ba ngày như vậy, từ đó trở đi, phải hỏi ý kiến Tăng rồi mới đưa.
Sammannitvā ṭhapitayāgubhājakādīhi ca bhājanīyaṭṭhānaṃ āgatamanussānaṃ anāpucchitvāva upaḍḍhabhāgo dātabbo.
For people who come to the place of distribution by those appointed to distribute gruel and other items, half a portion should be given without consulting (the Saṅgha).
Những người được Tăng cử làm người phân phát cháo, v.v., phải đưa một nửa phần cho những người đến nơi phân phát mà không cần hỏi ý kiến.
Asammatehi pana apaloketvā dātabboti.
However, by those not appointed, it should be given after informing (the Saṅgha).
Tuy nhiên, những người không được cử thì phải thưa với Tăng rồi mới đưa.
Saṅghassa santakaṃ sammatena vā āṇattehi vā ārāmikādīhi dīyamānaṃ, gihīnañca santakaṃ sāmikena vā āṇattena vā dīyamānaṃ ‘‘aparassa bhāgaṃ dehī’’ti asantaṃ puggalaṃ vatvā gaṇhato bhaṇḍādeyyaṃ.
If one takes Saṅgha property given by an appointed bhikkhu or by appointed temple-attendants etc., or lay property given by the owner or by an authorized person, by saying to a non-existent person, “Give a share to this other person,” it is a consumable article (bhaṇḍādeyya).
Nếu một người nhận tài sản của Tăng được phân phát bởi một tỳ khưu đã được Tăng cử, hoặc bởi những người giữ vườn, v.v., được lệnh, hoặc tài sản của gia chủ được phân phát bởi chủ sở hữu hoặc người được lệnh, bằng cách nói với một người không có mặt rằng: “Hãy đưa phần của người khác,” thì đó là tài sản phải trả lại.
Aññena dīyamānaṃ gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo.
If one takes what is given by another, one must be made to pay its value.
Người nào nhận tài sản được phân phát bởi người khác thì phải bị bắt trả lại giá trị của tài sản.
Asammatena vā anāṇattena vā dīyamāne ‘‘aparampi bhāgaṃ dehī’’ti vatvā vā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhanto uddhāreyeva bhaṇḍagghena kāretabbo.
If one takes what is given by an unappointed person or an unauthorized person, by saying “Give another share,” or by counting fraudulent vassa-years, one must be made to pay its value right from the act of taking.
Nếu một người nhận tài sản được phân phát bởi một người không được cử hoặc không được lệnh, bằng cách nói: “Hãy đưa thêm phần nữa,” hoặc bằng cách tính toán số năm an cư sai trái, thì phải bị bắt trả lại giá trị của tài sản ngay lập tức.
Itarehi dīyamānaṃ evaṃ gaṇhato bhaṇḍādeyyaṃ sāmikena pana ‘‘imassa dehī’’ti dāpitaṃ vā sayaṃ dinnaṃ vā sudinnanti ayaṃ sabbaṭṭhakathāvinicchayato sāro.
If one takes what is given by others in this manner, it is a consumable article; however, what is caused to be given by the owner by saying, “Give this to him,” or what is given by the owner himself, is well given. This is the essence of the determination from all the Aṭṭhakathās.
Nếu một người nhận tài sản được phân phát bởi những người khác theo cách đó, thì đó là tài sản phải trả lại. Tuy nhiên, nếu chủ sở hữu đã cho phép hoặc tự mình cho, thì đó là sự cho đúng đắn. Đây là cốt lõi từ các quyết định trong tất cả các Chú giải.
226. Kathinanti ettha (mahāva. aṭṭha. 306) pana kathinaṃ attharituṃ ke labhanti, ke na labhanti?
226. In this context of Kathina (Mahāva. Aṭṭha. 306), who is eligible to lay out the Kathina robe, and who is not?
226. Ở đây, về y Kathina (Mahāva. aṭṭha. 306), ai được phép trải y Kathina, ai không được phép?
Gaṇanavasena tāva pacchimakoṭiyā pañca janā labhanti, uddhaṃ satasahassampi, pañcannaṃ heṭṭhā na labhanti.
By number, at the lowest limit, five individuals are eligible; upwards, even a hundred thousand (are eligible); below five, they are not eligible.
Về số lượng, ít nhất năm vị được phép, và có thể lên đến một trăm nghìn vị, nhưng dưới năm vị thì không được phép.
Vuṭṭhavassavasena purimikāya vassaṃ upagantvā paṭhamapavāraṇāya pavāritā labhanti.
By having completed the vassa, those who have undertaken the first vassa and performed the first pavāraṇā are eligible.
Về việc an cư mùa mưa, những vị đã an cư mùa mưa đầu tiên và đã tự tứ vào kỳ tự tứ đầu tiên thì được phép.
Chinnavassā vā pacchimikāya upagatā vā na labhanti.
Those whose vassa was broken or who undertook the second vassa are not eligible.
Những vị đã phá giới an cư hoặc đã an cư mùa mưa sau thì không được phép.
‘‘Aññasmiṃ vihāre vuṭṭhavassāpi na labhantī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
It is stated in the Mahāpaccariya that “even those who completed vassa in another vihāra are not eligible.”
Trong Mahāpaccariya có nói: “Ngay cả những vị đã an cư mùa mưa ở trú xứ khác cũng không được phép.”
Purimikāya upagatānaṃ pana sabbe gaṇapūrakā honti, ānisaṃsaṃ na labhanti, ānisaṃso itaresaṃyeva hoti.
All who undertook the first vassa are counted as part of the quorum, but they do not receive the benefits; the benefits are only for the others.
Tuy nhiên, tất cả những vị đã an cư mùa mưa đầu tiên đều là người bổ sung số lượng cho Tăng, nhưng họ không nhận được lợi ích; lợi ích chỉ thuộc về những vị khác.
Sace purimikāya upagatā cattāro vā honti tayo vā dve vā eko vā, itare gaṇapūrake katvā kathinaṃ attharitabbaṃ.
If there are four, three, two, or one bhikkhu who undertook the first vassa, the Kathina robe should be laid out by making the other bhikkhus (whose vassa was broken or who undertook the second vassa) form the quorum.
Nếu những vị đã an cư mùa mưa đầu tiên chỉ có bốn, ba, hai hoặc một vị, thì phải mời những vị khác làm người bổ sung số lượng để trải y Kathina.
Atha cattāro bhikkhū upagatā, eko paripuṇṇavasso sāmaṇero, so ce pacchimikāya upasampajjati, gaṇapūrako ceva hoti ānisaṃsañca labhati.
If four bhikkhus undertook vassa and there is one novice who completed vassa, if he receives upasampadā in the second vassa, he becomes part of the quorum and also receives the benefits.
Nếu có bốn tỳ khưu đã an cư mùa mưa và một sa-di đã đủ tuổi an cư, nếu sa-di đó xuất gia vào mùa mưa sau, thì vị ấy vừa là người bổ sung số lượng vừa nhận được lợi ích.
Tayo bhikkhū dve sāmaṇerā, dve bhikkhū tayo sāmaṇerā, eko bhikkhu cattāro sāmaṇerāti etthāpi eseva nayo.
The same principle applies where there are three bhikkhus and two novices, two bhikkhus and three novices, or one bhikkhu and four novices.
Tương tự như vậy đối với trường hợp ba tỳ khưu và hai sa-di, hai tỳ khưu và ba sa-di, một tỳ khưu và bốn sa-di.
Sace purimikāya upagatā kathinatthārakusalā na honti, atthārakusalā khandhakabhāṇakattherā pariyesitvā ānetabbā.
If the bhikkhus who undertook the first vassa are not skilled in laying out the Kathina robe, skilled Theras who are reciters of the Khandhaka should be sought and brought.
Nếu những vị đã an cư mùa mưa đầu tiên không khéo léo trong việc trải y Kathina, thì phải tìm và mời các Trưởng lão thông thạo Khandhaka và khéo léo trong việc trải y.
Kammavācaṃ sāvetvā kathinaṃ attharāpetvā dānañca bhuñjitvā gamissanti, ānisaṃso pana itaresaṃyeva hoti.
They will recite the Kammavācā, have the Kathina robe laid out, consume the offerings, and then depart; however, the benefits are only for the others.
Sau khi tuyên bố nghi thức (kammavācā) và cho trải y Kathina, họ sẽ thọ dụng vật cúng dường rồi ra đi, nhưng lợi ích chỉ thuộc về những vị khác.
Kathinaṃ kena dinnaṃ vaṭṭati?
By whom is it permissible for the Kathina robe to be given?
Y Kathina được nhận từ ai thì hợp lệ?
Yena kenaci devena vā manussena vā pañcannaṃ vā sahadhammikānaṃ aññatarena dinnaṃ vaṭṭati.
It is permissible for it to be given by any deva, human, or by any one of the five co-Dhamma practitioners.
Y Kathina được nhận từ bất kỳ vị trời nào, hoặc con người nào, hoặc một trong năm vị đồng Phạm hạnh nào thì đều hợp lệ.
Kathinadāyakassa vattaṃ atthi, sace so taṃ ajānanto pucchati – ‘‘bhante, kathaṃ kathinaṃ dātabba’’nti, tassa evaṃ ācikkhitabbaṃ ‘‘tiṇṇaṃ cīvarānaṃ aññatarappahonakaṃ sūriyuggamanasamaye vatthaṃ ‘kathinacīvaraṃ demā’ti dātuṃ vaṭṭati.
There is a duty for the kathina donor. If, not knowing it, he asks, “Venerable sir, how is the kathina to be given?”, it should be explained to him thus: “At sunrise, it is proper to give cloth sufficient for one of the three robes, saying, ‘We give the kathina robe-cloth.’
Có bổn phận của người dâng y Kathina. Nếu người ấy không biết mà hỏi: “Bạch Đại đức, y Kathina nên được dâng như thế nào?”, thì nên chỉ dẫn cho người ấy như sau: “Nên dâng một tấm y đủ cho một trong ba y vào lúc mặt trời mọc, với lời nói ‘Chúng con dâng y Kathina’.”
Tassa parikammatthaṃ ettakā nāma sūciyo, ettakaṃ suttaṃ, ettakaṃ rajanaṃ, parikammaṃ karontānaṃ ettakānaṃ bhikkhūnaṃ yāgubhattañca dātuṃ vaṭṭatī’’ti.
For its preparation, it is proper to give so many needles, so much thread, so much dye, and gruel and food for the bhikkhus who are doing the preparation work.”
Để chuẩn bị cho y Kathina, nên dâng số kim này, số chỉ này, số thuốc nhuộm này, và cũng nên dâng cháo và cơm cho số tỳ khưu này đang làm công việc may y.”
Kathinatthārakenapi dhammena samena uppannaṃ kathinaṃ attharantena vattaṃ jānitabbaṃ.
The one spreading the kathina, too, when spreading a kathina that has arisen lawfully and equitably, should know the duty.
Tỳ khưu thọ y Kathina cũng phải biết bổn phận khi thọ y Kathina được phát sinh đúng pháp và đúng lúc.
Tantavāyagehato hi ābhatasantāneneva khalimakkhitasāṭako na vaṭṭati, malīnasāṭakopi na vaṭṭati, tasmā kathinatthārasāṭakaṃ labhitvā suṭṭhu dhovitvā sūciādīni cīvarakammūpakaraṇāni sajjetvā bahūhi bhikkhūhi saddhiṃ tadaheva sibbitvā niṭṭhitasūcikammaṃ rajitvā kappabinduṃ datvā kathinaṃ attharitabbaṃ.
Indeed, a cloth smeared with starch, just as it was brought from the weaver’s house, is not allowable; a dirty cloth is also not allowable. Therefore, having received the kathina-spreading cloth, it should be washed well, the robe-making equipment such as needles should be prepared, and together with many bhikkhus, it should be sewn on that very day. Once the needlework is finished, it should be dyed, the kappabindu mark applied, and the kathina spread.
Vì y vải vừa mang từ nhà thợ dệt về, còn dính hồ, không được phép dùng; y vải bị dơ cũng không được phép dùng. Do đó, sau khi nhận y vải để thọ y Kathina, phải giặt sạch sẽ, chuẩn bị các dụng cụ may y như kim, v.v., cùng với nhiều tỳ khưu khác, may ngay trong ngày đó, nhuộm tấm y đã may xong, chấm kappabindu, rồi thọ y Kathina.
Sace tasmiṃ anatthateyeva aññaṃ kathinasāṭakaṃ āharati, aññāni ca bahūni kathinānisaṃsavatthāni deti, yo ānisaṃsaṃ bahuṃ deti, tassa santakena attharitabbaṃ.
If, while that one is not yet spread, another brings a kathina cloth and gives many other cloths as kathina benefits, it should be spread with the property of the one who gives many benefits.
Nếu trước khi y đó được thọ, có người mang đến một tấm y Kathina khác và dâng nhiều vật phẩm lợi ích khác của Kathina, thì nên thọ y của người dâng nhiều vật phẩm lợi ích hơn.
Itaro tathā tathā ovaditvā saññāpetabbo.
The other donor should be instructed and informed accordingly.
Người kia nên được khuyên bảo như vậy.
Kathinaṃ pana kena attharitabbaṃ?
By whom, then, should the kathina be spread?
Vậy y Kathina nên được thọ bởi ai?
Yassa saṅgho kathinacīvaraṃ deti.
By the bhikkhu to whom the Saṅgha gives the kathina robe-cloth.
Bởi vị tỳ khưu mà Tăng chúng đã trao y Kathina.
Saṅghena pana kassa dātabbaṃ?
And to whom should the Saṅgha give it?
Vậy Tăng chúng nên trao cho ai?
Yo jiṇṇacīvaro hoti.
To one who has a worn-out robe.
Cho vị tỳ khưu có y cũ rách.
Sace bahū jiṇṇacīvarā, vuḍḍhassa dātabbaṃ.
If there are many with worn-out robes, it should be given to the eldest.
Nếu có nhiều vị có y cũ rách, thì nên trao cho vị trưởng lão.
Vuḍḍhesupi yo mahāpariso tadaheva cīvaraṃ katvā attharituṃ sakkoti, tassa dātabbaṃ.
Even among the eldest, it should be given to the one who has a large following and is able to make and spread the robe on that very day.
Trong số các vị trưởng lão, nếu vị nào có đông chúng và có thể may y và thọ ngay trong ngày đó, thì nên trao cho vị ấy.
Sace vuḍḍho na sakkoti, navakataro sakkoti, tassa dātabbaṃ.
If the eldest is not able, but a more junior one is able, it should be given to him.
Nếu vị trưởng lão không thể làm được, mà vị tỳ khưu trẻ hơn có thể làm được, thì nên trao cho vị ấy.
Apica saṅghena mahātherassa saṅgahaṃ kātuṃ vaṭṭati, tasmā ‘‘tumhe, bhante, gaṇhatha, mayaṃ katvā dassāmā’’ti vattabbaṃ.
Moreover, it is proper for the Saṅgha to show support for a great elder; therefore, it should be said, “Venerable sir, you accept it; we will make it and give it to you.”
Hơn nữa, Tăng chúng nên giúp đỡ vị Trưởng lão. Do đó, nên nói: “Bạch Đại đức, xin Đại đức thọ nhận, chúng con sẽ may xong rồi dâng.”
Tīsu cīvaresu yaṃ jiṇṇaṃ hoti, tadatthāya dātabbaṃ.
It should be given for whichever of the three robes is worn out.
Trong ba y, y nào cũ rách thì nên dâng cho mục đích đó.
Pakatiyā dupaṭṭacīvarassa dupaṭṭatthāyeva dātabbaṃ.
Normally, for one who wears a double-layered robe, it should be given for the purpose of a double-layered robe.
Thông thường, đối với y hai lớp (dupaṭṭacīvara), chỉ nên dâng đủ để may y hai lớp.
Sacepissa ekapaṭṭacīvaraṃ ghanaṃ hoti, kathinasāṭakā ca pelavā, sāruppatthāya dupaṭṭappahonakameva dātabbaṃ, ‘‘ahaṃ alabhanto ekapaṭṭaṃ pārupāmī’’ti vadantassapi dupaṭṭaṃ dātuṃ vaṭṭati.
Even if his single-layered robe is thick and the kathina cloths are thin, for the sake of suitability, one sufficient for a double-layered robe should be given. Even to one who says, “Not receiving one, I will wear a single-layered one,” it is proper to give a double-layered one.
Nếu y một lớp của vị ấy dày, còn y Kathina mỏng, thì nên dâng một tấm đủ để may y hai lớp cho phù hợp, ngay cả khi vị ấy nói: “Nếu không có, tôi sẽ đắp y một lớp.” Vẫn nên dâng y hai lớp.
Yo pana lobhapakatiko hoti, tassa na dātabbaṃ.
But to one who is of a greedy nature, it should not be given.
Tuy nhiên, đối với vị có bản tính tham lam, thì không nên dâng.
Tenapi ‘‘kathinaṃ attharitvā pacchā visibbitvā dve cīvarāni karissāmī’’ti na gahetabbaṃ.
He, too, should not accept it thinking, “After spreading the kathina, I will later un-sew it and make two robes.”
Vị ấy cũng không nên nhận với ý định: “Sau khi thọ y Kathina, tôi sẽ tháo ra để làm hai y.”
Yassa pana dīyati, tassa –
To the one to whom it is given, for him—
Tuy nhiên, đối với vị được trao y, thì –
Evaṃ dinne pana kathine sace taṃ kathinadussaṃ niṭṭhitaparikammameva hoti, iccetaṃ kusalaṃ.
When the kathina has been given thus, if that kathina cloth already has its preparation work finished, this is excellent.
Khi y Kathina đã được trao như vậy, nếu tấm y Kathina đó đã hoàn tất công đoạn chuẩn bị, thì điều đó thật tốt lành.
No ce niṭṭhitaparikammaṃ hoti, ‘‘ahaṃ thero’’ti vā ‘‘bahussuto’’ti vā ekenapi akātuṃ na labbhati, sabbeheva sannipatitvā dhovanasibbanarajanāni niṭṭhāpetabbāni.
If its preparation work is not finished, it is not permissible for even a single one to not make it, thinking, “I am an elder,” or “I am learned.” All must assemble and complete the washing, sewing, and dyeing.
Nếu chưa hoàn tất công đoạn chuẩn bị, thì không được phép một vị nào, dù là “trưởng lão” hay “đa văn”, không làm. Tất cả phải cùng tập hợp lại để hoàn tất việc giặt, may và nhuộm.
Idañhi kathinavattaṃ nāma buddhappasatthaṃ.
For this practice of the kathina is praised by the Buddhas.
Thật vậy, bổn phận Kathina này được chư Phật tán thán.
Atīte padumuttaropi bhagavā kathinavattaṃ akāsi.
In the past, the Blessed One Padumuttara also performed the kathina practice.
Trong quá khứ, Đức Padumuttara Bhagavā cũng đã thực hiện bổn phận Kathina.
Tassa kira aggasāvako sujātatthero nāma kathinaṃ gaṇhi.
It is said that his chief disciple, the elder Sujāta, received the kathina.
Đại đệ tử của Ngài, Đại đức Sujāta, đã thọ y Kathina.
Taṃ satthā aṭṭhasaṭṭhiyā bhikkhusatasahassehi saddhiṃ nisīditvā akāsi.
The Teacher, sitting together with sixty-eight hundred thousand bhikkhus, made it.
Đức Bổn Sư đã cùng với sáu mươi tám vạn tỳ khưu ngồi lại và thực hiện việc đó.
Katapariyositaṃ pana kathinaṃ gahetvā atthārakena bhikkhunā sace saṅghāṭiyā kathinaṃ attharitukāmo hoti, porāṇikā saṅghāṭi paccuddharitabbā, navā saṅghāṭi adhiṭṭhātabbā, ‘‘imāya saṅghāṭiyā kathinaṃ attharāmī’’ti vācā bhinditabbā.
When the kathina work is completed, the bhikkhu who is to spread it, having taken the robe, if he wishes to spread the kathina with the saṅghāṭi, should relinquish the old saṅghāṭi, should determine the new saṅghāṭi, and should utter the words, “I spread the kathina with this saṅghāṭi.”
Sau khi đã hoàn tất việc thọ y Kathina, nếu vị tỳ khưu thọ y muốn thọ y Kathina bằng y saṅghāṭi (y kép), thì y saṅghāṭi cũ phải được xả bỏ, y saṅghāṭi mới phải được adhiṭṭhāna (tuyên bố sử dụng), và phải nói lời: “Con thọ y Kathina bằng y saṅghāṭi này.”
Sace uttarāsaṅgena kathinaṃ attharitukāmo hoti, porāṇako uttarāsaṅgo paccuddharitabbo, navo uttarāsaṅgo adhiṭṭhātabbo, ‘‘iminā uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmī’’ti vācā bhinditabbā.
If he wishes to spread the kathina with the uttarāsaṅga, he should relinquish the old uttarāsaṅga, should determine the new uttarāsaṅga, and should utter the words, “I spread the kathina with this uttarāsaṅga.”
Nếu vị ấy muốn thọ y Kathina bằng y uttarāsaṅga (y vai), thì y uttarāsaṅga cũ phải được xả bỏ, y uttarāsaṅga mới phải được adhiṭṭhāna, và phải nói lời: “Con thọ y Kathina bằng y uttarāsaṅga này.”
Sace antaravāsakena kathinaṃ attharitukāmo hoti, porāṇako antaravāsako paccuddharitabbo, navo antaravāsako adhiṭṭhātabbo, ‘‘iminā antaravāsakena kathinaṃ attharāmī’’ti vācā bhinditabbā.
If he wishes to spread the kathina with the antaravāsaka, he should relinquish the old antaravāsaka, should determine the new antaravāsaka, and should utter the words, “I spread the kathina with this antaravāsaka.”
Nếu vị ấy muốn thọ y Kathina bằng y antaravāsaka (y nội), thì y antaravāsaka cũ phải được xả bỏ, y antaravāsaka mới phải được adhiṭṭhāna, và phải nói lời: “Con thọ y Kathina bằng y antaravāsaka này.”
Tena (pari. 413) kathinatthārakena bhikkhunā saṅghaṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, bhante, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodathā’’ti.
That bhikkhu who has spread the kathina should approach the Saṅgha, arrange his upper robe over one shoulder, raise his joined hands, and should say this: “Venerable sirs, the Saṅgha’s kathina has been spread. The spreading of the kathina is lawful. Please express your approval.”
Vị tỳ khưu đã thọ y Kathina đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, đến gần Tăng chúng và nên nói như sau: “Bạch chư Đại đức, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Xin chư Đại đức tùy hỷ.”
Tehi anumodakehi bhikkhūhi ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, āvuso, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodāmā’’ti.
Those bhikkhus who are to express approval should arrange their upper robes over one shoulder, raise their joined hands, and should say this: “Friend, the Saṅgha’s kathina has been spread. The spreading of the kathina is lawful. We express our approval.”
Chư tỳ khưu tùy hỷ đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, nên nói với vị ấy: “Này Hiền giả, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Chúng tôi tùy hỷ.”
Tena kathinatthārakena bhikkhunā sambahule bhikkhū upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, bhante, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodathā’’ti.
That bhikkhu who has spread the kathina should approach a group of many bhikkhus, arrange his upper robe over one shoulder, raise his joined hands, and should say this: “Venerable sirs, the Saṅgha’s kathina has been spread. The spreading of the kathina is lawful. Please express your approval.”
Vị tỳ khưu đã thọ y Kathina đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, đến gần nhiều tỳ khưu và nên nói như sau: “Bạch chư Đại đức, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Xin chư Đại đức tùy hỷ.”
Tehi anumodakehi bhikkhūhi ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, āvuso, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodāmā’’ti.
Those monks expressing agreement, having arranged their upper robes over one shoulder and raised their hands in añjali, should speak thus: “Friend, the Saṅgha's kathina has been spread. The spreading of the kathina is in accordance with the Dhamma. We express our agreement.”
Chư tỳ khưu tùy hỷ đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, nên nói với vị ấy: “Này Hiền giả, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Chúng tôi tùy hỷ.”
Tena kathinatthārakena bhikkhunā ekaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, āvuso, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodāhī’’ti.
That monk who spread the kathina, having approached a single bhikkhu, arranged his upper robe over one shoulder, and raised his hands in añjali, should speak thus: “Friend, the Saṅgha's kathina has been spread. The spreading of the kathina is in accordance with the Dhamma. Please express your agreement.”
Vị tỳ khưu đã thọ y Kathina đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, đến gần một tỳ khưu và nên nói như sau: “Này Hiền giả, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Xin Hiền giả tùy hỷ.”
Tena anumodakena bhikkhunā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘atthataṃ, āvuso, saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodāmī’’ti.
That monk expressing agreement, having arranged his upper robe over one shoulder and raised his hands in añjali, should speak thus: “Friend, the Saṅgha's kathina has been spread. The spreading of the kathina is in accordance with the Dhamma. I express my agreement.”
Vị tỳ khưu tùy hỷ đó, sau khi đắp y vai trái, chắp tay, nên nói với vị ấy: “Này Hiền giả, y Kathina của Tăng chúng đã được thọ, việc thọ y Kathina là đúng pháp. Tôi tùy hỷ.”
Evaṃ sabbesaṃ atthataṃ hoti kathinaṃ.
In this way, the kathina is spread for all.
Như vậy, y Kathina đã được thọ cho tất cả.
Vuttañhetaṃ parivāre ‘‘dvinnaṃ puggalānaṃ atthataṃ hoti kathinaṃ atthārakassa ca anumodakassa cā’’ti (pari. 403).
This is stated in the Parivāra: “The kathina is spread for two individuals: for the spreader and for the one who expresses agreement.”
Điều này đã được nói trong Parivāra: “Y Kathina đã được thọ cho hai người: người thọ y và người tùy hỷ.”
Punapi vuttaṃ ‘‘na saṅgho kathinaṃ attharati, na gaṇo kathinaṃ attharati, puggalo kathinaṃ attharati, saṅghassa anumodanāya gaṇassa anumodanāya puggalassa attharāya saṅghassa atthataṃ hoti kathinaṃ, gaṇassa atthataṃ hoti kathinaṃ, puggalassa atthataṃ hoti kathina’’nti (pari. 414).
Furthermore, it is stated: “The Saṅgha does not spread the Kathina, a group does not spread the Kathina, an individual spreads the Kathina. By the Saṅgha's approval, by the group's approval, by the individual's spreading, the Kathina is spread for the Saṅgha, the Kathina is spread for the group, the Kathina is spread for the individual.”
Lại nữa, đã nói rằng: “Tăng không trải y kathina, chúng không trải y kathina, một cá nhân trải y kathina. Với sự tùy hỷ của Tăng, với sự tùy hỷ của chúng, và do sự trải của một cá nhân, y kathina được xem là đã trải cho Tăng, đã trải cho chúng, đã trải cho cá nhân.”
Evaṃ atthate pana kathine sace kathinacīvarena saddhiṃ ābhataṃ ānisaṃsaṃ dāyakā ‘‘yena amhākaṃ kathinaṃ gahitaṃ, tasseva demā’’ti denti, bhikkhusaṅgho anissaro.
However, if, after the Kathina is spread, the donors give the accompanying benefits along with the Kathina robe, saying: “We give it to him by whom our Kathina has been accepted,” then the community of bhikkhus has no authority over it.
Tuy nhiên, khi y kathina đã được trải như vậy, nếu các thí chủ mang đến những vật phẩm lợi ích kèm theo y kathina và nói: “Chúng tôi xin dâng cho vị Tỳ-khưu đã thọ nhận kathina của chúng tôi,” thì Tăng-đoàn không có quyền sở hữu.
Atha avicāretvāva datvā gacchanti, bhikkhusaṅgho issaro.
But if they give without consideration and depart, then the community of bhikkhus has authority over it.
Nếu họ dâng xong rồi đi mà không phân định gì, thì Tăng-đoàn có quyền sở hữu.
Tasmā sace kathinatthārakassa sesacīvarānipi dubbalāni honti, saṅghena apaloketvā tesampi atthāya vatthāni dātabbāni, kammavācā pana ekāyeva vaṭṭati.
Therefore, if the other robes of the bhikkhu who spread the Kathina are also worn out, the Saṅgha, after announcing it, should give cloths for their benefit as well, but only one Kammavācā is valid.
Vì vậy, nếu những y phục còn lại của vị Tỳ-khưu trải kathina cũng đã cũ nát, thì Tăng-đoàn nên thông báo và trao y phục cho vị ấy để sử dụng, nhưng chỉ một kammavācā (lời tác pháp) là đủ.
Avasesakathinānisaṃse balavavatthāni vassāvāsikaṭhitikāya dātabbāni, ṭhitikāya abhāve therāsanato paṭṭhāya dātabbāni, garubhaṇḍaṃ na bhājetabbaṃ.
The remaining Kathina benefits, the valuable cloths, should be given according to the seniority of those who observed vassa; in the absence of such seniority, they should be given starting from the most senior bhikkhu. Garubhaṇḍa should not be divided.
Đối với những vật phẩm lợi ích kathina còn lại là những y phục tốt, chúng nên được trao theo thứ tự thâm niên an cư mùa mưa (vassāvāsikaṭṭhitikāya); nếu không có thứ tự thâm niên, thì nên trao theo thứ tự từ vị trưởng lão ngồi đầu tiên, không nên chia garubhaṇḍa (tài sản nặng).
Sace pana ekasīmāya bahū vihārā honti, sabbehi bhikkhūhi sannipātāpetvā ekattha kathinaṃ attharitabbaṃ, visuṃ visuṃ attharituṃ na vaṭṭati.
However, if there are many monasteries within one sīmā, all bhikkhus should assemble and spread the Kathina in one place; spreading it separately in each monastery is not permissible.
Tuy nhiên, nếu có nhiều trú xứ trong cùng một khu vực giới hạn (sīmā), tất cả các Tỳ-khưu nên tập hợp lại và trải kathina tại một nơi; không được phép trải riêng lẻ.
‘‘Atthatakathinānaṃ vo, bhikkhave, pañca kappissanti, anāmantacāro asamādānacāro gaṇabhojanaṃ yāvadatthacīvaraṃ yo ca tattha cīvaruppādo.
According to the saying: “Bhikkhus, five benefits are granted to those for whom the Kathina has been spread: going without invitation, going without carrying the robe, group eating, having robes as needed, and any robe material that arises there.
Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, năm điều lợi ích sẽ được ban cho những vị đã trải y kathina: đi lại không cần báo trước, đi lại không mang y, ăn nhóm, y phục tùy ý, và bất kỳ y phục nào phát sinh tại đó.
So nesaṃ bhavissatī’’ti (mahāva. 306) vacanato atthatakathinānaṃ bhikkhūnaṃ anāmantacārādayo pana pañcānisaṃsā labbhanti.
That will be theirs,” five benefits such as going without invitation are obtained by bhikkhus for whom the Kathina has been spread.
Những điều đó sẽ thuộc về họ,” năm điều lợi ích như đi lại không cần báo trước được ban cho các Tỳ-khưu đã trải y kathina.
Tattha anāmantacāroti anāmantetvā caraṇaṃ, yāva kathinaṃ na uddharīyati, tāva cārittasikkhāpadena anāpattīti vuttaṃ hoti.
Among these, anāmantacāro means going without invitation, which means that as long as the Kathina is not taken up, there is no offense under the cāritta training rule.
Trong đó, anāmantacāro (đi lại không cần báo trước) nghĩa là đi lại mà không báo trước. Điều này có nghĩa là không phạm lỗi theo giới bổn về hành vi (cārittasikkhāpada) cho đến khi y kathina được thâu lại.
Asamādānacāroti cīvaraṃ asamādāya caraṇaṃ, cīvaravippavāsoti attho.
Asamādānacāro means going without carrying the robe, which is a temporary separation from one's robes.
Asamādānacāro (đi lại không mang y) nghĩa là đi lại mà không mang theo y phục. Điều này có nghĩa là sự xa rời y phục (cīvaravippavāsa).
Gaṇabhojananti gaṇabhojanasikkhāpadena anāpatti vuttā.
Gaṇabhojanaṃ states that there is no offense under the gaṇabhojana training rule.
Gaṇabhojanaṃ (ăn nhóm) nghĩa là không phạm lỗi theo giới bổn về ăn nhóm (gaṇabhojanasikkhāpada).
Yāvadatthacīvaranti yāvatā cīvarena attho, tāvatakaṃ anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ vaṭṭatīti attho.
Yāvadatthacīvaraṃ means that robes not determined or deliberated upon are permissible as much as needed.
Yāvadatthacīvaraṃ (y phục tùy ý) nghĩa là được phép có bao nhiêu y phục tùy thích mà không cần adhiṭṭhāna (kiên cố) hoặc vikappana (phân định).
Yo ca tattha cīvaruppādoti tattha kathinatthatasīmāya matakacīvaraṃ vā hotu saṅghaṃ uddissa dinnaṃ vā saṅghikena tatruppādena ābhataṃ vā, yena kenaci ākārena yaṃ saṅghikaṃ cīvaraṃ uppajjati, taṃ tesaṃ bhavissatīti attho.
Yo ca tattha cīvaruppādo means that whatever communal robe material arises in that sīmā where the Kathina was spread, whether it is a robe of a deceased bhikkhu, or given for the Saṅgha, or brought from an income belonging to the Saṅgha in that place, or by any other means, that will belong to them.
Yo ca tattha cīvaruppādo (và bất kỳ y phục nào phát sinh tại đó) nghĩa là bất kỳ y phục nào thuộc về Tăng-đoàn phát sinh trong khu vực giới hạn đã trải kathina, dù là y phục của Tỳ-khưu đã viên tịch, y phục được dâng cho Tăng, hay y phục được mang đến từ tài sản phát sinh của Tăng trong đó, tất cả sẽ thuộc về các vị ấy.
227. Garubhaṇḍānīti ettha ‘‘pañcimāni, bhikkhave, avissajjiyāni na vissajjetabbāni saṅghena vā gaṇena vā puggalena vā, vissajjitānipi avissajjitāni honti, yo vissajjeyya, āpatti thullaccayassā’’tiādinā (cūḷava. 321) nayena dassitāni ārāmo ārāmavatthu, vihāro vihāravatthu, mañco pīṭhaṃ bhisi bimbohanaṃ, lohakumbhī lohabhāṇakaṃ lohavārako lohakaṭāhaṃ vāsi pharasu kuṭhārī kudālo nikhādanaṃ, valli veḷu muñjaṃ pabbajaṃ tiṇaṃ mattikā dārubhaṇḍaṃ mattikābhaṇḍanti imāni pañca garubhaṇḍāni nāma.
In this context, Garubhaṇḍa (heavy property) refers to these five types of heavy property, as shown in the section beginning with “Bhikkhus, these five are not to be given away, they should not be disposed of by the Saṅgha, by a group, or by an individual. Even if disposed of, they are considered not disposed of. Whoever disposes of them incurs an offense of thullaccaya”: ārāma (monastery park/garden), ārāmavatthu (site of a monastery park), vihāra (monastery building), vihāravatthu (site of a monastery building), mañca (beds), pīṭha (chairs), bhisi (cushions), bimbohana (pillows), lohakumbhī (bronze pot), lohabhāṇaka (bronze jar), lohavāraka (bronze pitcher), lohakaṭāha (bronze bowl), vāsi (adze), pharasu (axe), kuṭhārī (hatchet), kudālo (spade), nikhādanaṃ (pickaxe), valli (creeper), veḷu (bamboo), muñja (muñja grass), pabbaja (pabbaja grass), tiṇa (ordinary grass), mattikā (clay), dārubhaṇḍa (wooden articles), and mattikābhaṇḍa (earthenware articles).
227. Ở đây, Garubhaṇḍānī (các tài sản nặng) là năm loại tài sản nặng được trình bày theo cách thức như: “Này các Tỳ-khưu, có năm thứ không được phép từ bỏ, không được phép từ bỏ bởi Tăng, bởi chúng, hay bởi một cá nhân. Dù đã từ bỏ, chúng vẫn không được xem là đã từ bỏ. Ai từ bỏ sẽ phạm tội thullaccaya.” Đó là: khu vườn (ārāma), đất vườn (ārāmavatthu), trú xứ (vihāra), đất trú xứ (vihāravatthu), giường (mañca), ghế (pīṭha), nệm (bhisi), gối (bimbohana), nồi đồng (lohakumbhī), bình đồng (lohabhāṇakaṃ), thùng đồng (lohavārako), chảo đồng (lohakaṭāhaṃ), đục (vāsi), rìu (pharasu), búa (kuṭhārī), cuốc (kudālo), xẻng (nikhādanaṃ), dây leo (valli), tre (veḷu), cỏ muñja (muñjaṃ), cỏ pabbaja (pabbajaṃ), cỏ (tiṇaṃ), đất sét (mattikā), đồ gỗ (dārubhaṇḍaṃ), đồ đất sét (mattikābhaṇḍaṃ).
Tattha (cūḷava. aṭṭha. 321) ārāmo nāma pupphārāmo vā phalārāmo vā.
Among these, ārāma means a flower garden or a fruit orchard.
Trong đó, ārāmo (khu vườn) là vườn hoa hoặc vườn cây ăn trái.
Ārāmavatthu nāma tesaṃyeva ārāmānaṃ atthāya paricchinditvā ṭhapitokāso, tesu vā ārāmesu vinaṭṭhesu tesaṃ porāṇakabhūmibhāgo.
Ārāmavatthu means a designated area for these same gardens, or the old ground of those gardens if they are destroyed.
Ārāmavatthu (đất vườn) là khu đất được phân định để làm vườn, hoặc là phần đất cũ của những khu vườn đã bị hư hoại.
Vihāro nāma yaṃ kiñci pāsādādi senāsanaṃ.
Vihāra means any kind of dwelling such as a palace, etc.
Vihāro (trú xứ) là bất kỳ chỗ ở nào như cung điện, v.v.
Vihāravatthu nāma tassa patiṭṭhānokāso.
Vihāravatthu means the site where it is established.
Vihāravatthu (đất trú xứ) là nơi để xây dựng trú xứ đó.
Mañco nāma masārako bundikābaddho kuḷīrapādako āhaccapādakoti imesaṃ catunnaṃ mañcānaṃ aññataro.
Mañca means any one of these four types of beds: masāraka (with legs attached to a frame), bundikābaddha (with woven straps), kuḷīrapādaka (with curved legs), or āhaccapādaka (with detachable legs).
Mañco (giường) là một trong bốn loại giường: masāraka, bundikābaddha, kuḷīrapādaka, hoặc āhaccapādaka.
Pīṭhaṃ nāma masārakādīnaṃyeva catunnaṃ pīṭhānaṃ aññataraṃ.
Pīṭhaṃ means any one of the four types of chairs, similar to the masāraka, etc.
Pīṭhaṃ (ghế) là một trong bốn loại ghế tương tự như các loại giường masāraka, v.v.
Bhisi nāma uṇṇabhisiādīnaṃ pañcannaṃ aññatarā.
Bhisi means any one of the five types of cushions, such as wool cushions.
Bhisi (nệm) là một trong năm loại nệm như nệm len, v.v.
Bimbohanaṃ nāma rukkhatūlalatātūlapoṭakītūlānaṃ aññataraṃ.
Bimbohanaṃ means any one of the types of pillows made from tree cotton, creeper cotton, or silk cotton.
Bimbohanaṃ (gối) là một trong các loại gối làm từ bông cây, bông dây leo, hoặc bông poṭakī.
Lohakumbhī nāma kāḷalohena vā tambalohena vā yena kenaci lohena katakumbhī.
Lohakumbhī means a pot made of any metal, whether black iron or copper.
Lohakumbhī (nồi đồng) là nồi làm từ bất kỳ loại đồng nào, dù là đồng đen hay đồng đỏ.
Lohabhāṇakādīsupi eseva nayo.
The same applies to lohabhāṇaka and others.
Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho lohabhāṇakādīsu (bình đồng, v.v.).
Ettha pana bhāṇakanti arañjaro vuccati.
Here, bhāṇaka is said to be a large jar for holding water.
Tuy nhiên, ở đây, bhāṇakaṃ được gọi là arañjara (bình chứa nước lớn).
Vārakoti ghaṭo.
Vārako is a pitcher.
Vārako là ghaṭa (thùng).
Kaṭāhaṃ kaṭāhameva.
Kaṭāhaṃ is a bowl.
Kaṭāhaṃ là chảo.
Vāsiādīsu valliādīsu ca duviññeyyaṃ nāma natthi.
There is nothing difficult to understand in vāsi and others, or in valli and others.
Trong vāsiādīsu (đục, v.v.) và valliādīsu (dây leo, v.v.) không có từ nào khó hiểu.
Pañcāti ca rāsivasena vuttaṃ, sarūpavasena panetāni pañcavīsatividhāni honti.
And pañca is stated by way of aggregation, but in terms of their nature, there are twenty-five types.
Và pañca (năm) được nói theo nghĩa tổng hợp; nhưng về bản chất, chúng có hai mươi lăm loại.
Vuttañhetaṃ –
It is stated thus:
Điều này đã được nói:
228. Tatrāyaṃ anupubbikathā – idaṃ tāva pañcavidhampi cīvarapiṇḍapātabhesajjatthāya upanetuṃ na vaṭṭati, thāvarena ca thāvaraṃ, garubhaṇḍena ca garubhaṇḍaṃ parivattetuṃ vaṭṭati.
Here is the progressive explanation: These five types of heavy property are not to be converted for the purpose of robes, almsfood, or medicine. However, fixed property may be exchanged for fixed property, and heavy property for heavy property.
228. Đây là lời giải thích tuần tự: Năm loại tài sản nặng này trước hết không được phép mang đi để đổi lấy y phục, vật thực, thuốc men. Tuy nhiên, được phép hoán đổi tài sản bất động lấy tài sản bất động, và tài sản nặng lấy tài sản nặng.
Thāvare pana khettaṃ vatthu taḷākaṃ mātikāti evarūpaṃ bhikkhusaṅghassa vicāretuṃ vā sampaṭicchituṃ vā adhivāsetuṃ vā na vaṭṭati, kappiyakārakeheva vicāritato kappiyabhaṇḍaṃ vaṭṭati.
But as for fixed property like fields, land, ponds, and watercourses, the community of bhikkhus is not permitted to manage them, accept them, or assent to them; only lay stewards are permitted to manage them, and such consumable property is permissible.
Đối với tài sản bất động như ruộng đất, đất đai, ao hồ, kênh mương, Tăng-đoàn không được phép tự mình quản lý, thọ nhận hoặc chấp thuận. Chỉ những người quản lý tài sản thích nghi (kappiyakāraka) mới được phép quản lý, và tài sản thích nghi (kappiyabhaṇḍa) là được phép.
Ārāmena pana ārāmaṃ ārāmavatthuṃ vihāraṃ vihāravatthunti imāni cattāripi parivattetuṃ vaṭṭati.
However, it is permissible to exchange ārāma for ārāma, ārāmavatthu, vihāra, or vihāravatthu—all four of these.
Tuy nhiên, được phép hoán đổi khu vườn (ārāma) lấy khu vườn, đất vườn (ārāmavatthu), trú xứ (vihāra), và đất trú xứ (vihāravatthu) — cả bốn loại này.
Tatrāyaṃ parivattananayo – saṅghassa nāḷikerārāmo dūre hoti, kappiyakārakā bahutaraṃ khādanti, yampi na khādanti, tato sakaṭavetanaṃ datvā appameva āharanti, aññesaṃ pana tassa ārāmassa avidūre gāmavāsīnaṃ manussānaṃ vihārassa samīpe ārāmo hoti, te saṅghaṃ upasaṅkamitvā sakena ārāmena taṃ ārāmaṃ yācanti, saṅghena ‘‘ruccati saṅghassā’’ti apaloketvā sampaṭicchitabbo.
Here is the method of exchange: If the Saṅgha's coconut grove is far away, the kappiyakārakas consume most of it, and even what they don't consume, they bring back only a small amount after paying cartage. But some village-dwelling people, whose monastery is near the coconut grove, approach the Saṅgha and request to exchange their grove for that grove. The Saṅgha should accept it after announcing, "Does the Saṅgha agree?"
Đây là cách thức hoán đổi: Nếu khu vườn dừa của Tăng-đoàn ở xa, những người quản lý tài sản thích nghi ăn phần lớn, và ngay cả những thứ họ không ăn, họ cũng phải trả tiền xe ngựa để mang về một lượng nhỏ. Nhưng có một khu vườn gần trú xứ của những người dân làng sống không xa khu vườn đó. Họ đến gặp Tăng-đoàn và xin đổi khu vườn của họ lấy khu vườn của Tăng-đoàn. Tăng-đoàn nên chấp thuận sau khi thông báo: “Tăng-đoàn có đồng ý không?”
Sacepi bhikkhūnaṃ rukkhasahassaṃ hoti, manussānaṃ pañca satāni, ‘‘tumhākaṃ ārāmo khuddako’’ti na vattabbaṃ.
Even if the bhikkhus have a thousand trees and the people have five hundred, it should not be said, "Your grove is small."
Ngay cả khi Tỳ-khưu có một ngàn cây, còn người dân có năm trăm cây, cũng không nên nói: “Khu vườn của quý vị nhỏ quá.”
Kiñcāpi hi ayaṃ khuddako, atha kho itarato bahutaraṃ āyaṃ deti.
For although this one is small, it yields more income than the other.
Mặc dù khu vườn này nhỏ, nhưng nó mang lại nhiều lợi tức hơn khu vườn kia.
Sacepi samakameva deti, evampi icchiticchitakkhaṇe paribhuñjituṃ sakkāti gahetabbameva.
Even if it yields an equal amount, it is still permissible to accept it, as it can be utilized at the moment desired by the Saṅgha.
Ngay cả khi người ta cho ngang bằng, thì cũng nên nhận vì có thể sử dụng vào lúc Tăng-già muốn.
Sace pana manussānaṃ bahutarā rukkhā honti, ‘‘nanu tumhākaṃ bahutarā rukkhā’’ti vattabbaṃ.
If, however, the people have more trees, it should be said, "Do you not have more trees?"
Nhưng nếu cây cối của loài người nhiều hơn, thì nên nói rằng: “Chẳng phải cây cối của quý vị nhiều hơn sao?”
Sace ‘‘atirekaṃ amhākaṃ puññaṃ hotu, saṅghassa demā’’ti vadanti, jānāpetvā sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
If they say, "Let our merit be abundant; we give it to the Saṅgha," it is permissible to accept after informing the Saṅgha.
Nếu họ nói: “Nguyện cho phước báu của chúng tôi được tăng thêm, chúng tôi dâng cúng cho Tăng-già”, thì nên cho Tăng-già biết rồi thọ nhận là hợp pháp.
Bhikkhūnaṃ rukkhā phaladhārino, manussānaṃ rukkhā na tāva phalaṃ gaṇhanti, kiñcāpi na gaṇhanti, ‘‘na cirena gaṇhissantī’’ti sampaṭicchitabbameva.
If the monks' trees are fruit-bearing, but the people's trees are not yet bearing fruit, even if they are not bearing fruit, it is still permissible to accept, thinking, "They will bear fruit before long."
Nếu cây cối của các Tỳ-khưu đang có quả, còn cây cối của loài người chưa có quả, thì ngay cả khi chưa có quả, cũng nên nhận vì “chẳng bao lâu nữa chúng sẽ có quả”.
Manussānaṃ rukkhā phaladhārino, bhikkhūnaṃ rukkhā na tāva phalaṃ gaṇhanti, ‘‘nanu tumhākaṃ rukkhā phaladhārino’’ti vattabbaṃ.
If the people's trees are fruit-bearing, but the monks' trees are not yet bearing fruit, it should be said, "Are your trees not fruit-bearing?"
Nếu cây cối của loài người đang có quả, còn cây cối của các Tỳ-khưu chưa có quả, thì nên nói rằng: “Chẳng phải cây cối của quý vị đang có quả sao?”
Sace ‘‘gaṇhatha, bhante, amhākaṃ puññaṃ bhavissatī’’ti denti, jānāpetvā sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
If they give, saying, "Venerable sirs, please take them; it will be a merit for us," it is permissible to accept after informing the Saṅgha.
Nếu họ nói: “Bạch chư Tôn đức, xin hãy nhận lấy, phước báu sẽ đến với chúng tôi”, thì nên cho Tăng-già biết rồi thọ nhận là hợp pháp.
Evaṃ ārāmena ārāmo parivattetabbo.
Thus, one arama should be exchanged for another arama.
Như vậy, một khu vườn có thể được đổi lấy một khu vườn khác.
Eteneva nayena ārāmavatthupi vihāropi vihāravatthupi ārāmena parivattetabbaṃ, ārāmavatthunā ca mahantena vā khuddakena vā ārāmaārāmavatthuvihāravihāravatthūni.
In the same way, an arama-site, a vihāra, or a vihāra-site should be exchanged for an arama; and aramas, arama-sites, vihāras, and vihāra-sites, whether large or small, should be exchanged for an arama-site.
Theo cách này, đất của khu vườn, Tu viện, và đất của Tu viện cũng có thể được đổi lấy một khu vườn, và đất của khu vườn, Tu viện, và đất của Tu viện, dù lớn hay nhỏ, cũng có thể được đổi lấy bằng đất của khu vườn.
Kathaṃ vihārena vihāro parivattetabbo?
How should one vihāra be exchanged for another vihāra?
Làm sao một Tu viện có thể được đổi lấy một Tu viện khác?
Saṅghassa antogāme gehaṃ hoti, manussānaṃ vihāramajjhe pāsādo hoti, ubhopi agghena samakā, sace manussā tena pāsādena taṃ gehaṃ yācanti, sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
If the Saṅgha has a house within the village, and the people have a palace in the middle of a vihāra, and both are of equal value, it is permissible to accept if the people ask for that house in exchange for that palace.
Nếu Tăng-già có một ngôi nhà trong làng, và loài người có một ngôi tháp trong khuôn viên Tu viện, cả hai đều có giá trị ngang nhau, nếu loài người xin đổi ngôi tháp đó lấy ngôi nhà kia, thì việc thọ nhận là hợp pháp.
Bhikkhūnaṃ ce mahagghataraṃ gehaṃ hoti, ‘‘mahagghataraṃ amhākaṃ geha’’nti vutte ca ‘‘kiñcāpi mahagghataraṃ pabbajitānaṃ asāruppaṃ, na sakkā tattha pabbajitehi vasituṃ, idaṃ pana sāruppaṃ, gaṇhathā’’ti vadanti, evampi sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
If the monks have a more valuable house, and when it is said, "Our house is more valuable," they reply, "Even though it is more valuable, it is unsuitable for renunciants; renunciants cannot live there. This palace, however, is suitable; please take it," even then it is permissible to accept.
Nếu ngôi nhà của các Tỳ-khưu có giá trị cao hơn, và khi được nói rằng “ngôi nhà của chúng tôi có giá trị cao hơn”, họ nói: “Mặc dù nó có giá trị cao hơn, nhưng nó không phù hợp cho những người xuất gia, không thể sống ở đó được. Ngôi tháp này thì phù hợp, xin hãy nhận lấy”, thì ngay cả như vậy, việc thọ nhận cũng là hợp pháp.
Sace pana manussānaṃ mahagghaṃ hoti, ‘‘nanu tumhākaṃ gehaṃ mahaggha’’nti vattabbaṃ.
If, however, the people's house is more valuable, it should be said, "Is your house not more valuable?"
Nhưng nếu ngôi nhà của loài người có giá trị cao hơn, thì nên nói rằng: “Chẳng phải ngôi nhà của quý vị có giá trị cao hơn sao?”
‘‘Hotu, bhante, amhākaṃ puññaṃ bhavissati, gaṇhathā’’ti vutte pana sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
But if they say, "Let it be, Venerable Sirs; it will be a merit for us; please take it," it is permissible to accept.
Nếu họ nói: “Bạch chư Tôn đức, không sao, phước báu sẽ đến với chúng tôi, xin hãy nhận lấy”, thì việc thọ nhận là hợp pháp.
Evampi vihārena vihāro parivattetabbo.
Thus, one vihāra should be exchanged for another vihāra.
Như vậy, một Tu viện có thể được đổi lấy một Tu viện khác.
Eteneva nayena vihāravatthupi ārāmopi ārāmavatthupi vihārena parivattetabbaṃ, vihāravatthunā ca mahagghena vā appagghena vā vihāravihāravatthuārāmaārāmavatthūni.
In the same way, a vihāra-site, an arama, or an arama-site should be exchanged for a vihāra; and vihāras, vihāra-sites, aramas, and arama-sites, whether expensive or inexpensive, should be exchanged for a vihāra-site.
Theo cách này, đất của Tu viện, khu vườn, và đất của khu vườn cũng có thể được đổi lấy một Tu viện, và Tu viện, đất của Tu viện, khu vườn, và đất của khu vườn, dù có giá trị cao hay thấp, cũng có thể được đổi lấy bằng đất của Tu viện.
Evaṃ thāvarena thāvaraparivattanaṃ veditabbaṃ.
Thus, the exchange of fixed assets for fixed assets should be understood.
Như vậy, việc đổi tài sản cố định lấy tài sản cố định nên được hiểu.
Garubhaṇḍena garubhaṇḍaparivattane pana mañcapīṭhaṃ mahantaṃ vā hotu khuddakaṃ vā, antamaso caturaṅgulapādakaṃ gāmadārakehi paṃsvāgārakesu kīḷantehi katampi saṅghassa dinnakālato paṭṭhāya garubhaṇḍaṃ hoti.
In the exchange of heavy articles for heavy articles, whether a bed or chair is large or small, even one made by village children playing in dusty places with legs only four finger-breadths high, it becomes a heavy article from the time it is given to the Saṅgha.
Trong việc đổi vật nặng lấy vật nặng, dù ghế dài hay ghế đẩu lớn hay nhỏ, thậm chí là loại có bốn chân cao bốn ngón tay do trẻ con trong làng làm khi chơi trong nhà đất, thì kể từ khi được dâng cúng cho Tăng-già, nó trở thành vật nặng.
Sacepi rājarājamahāmattādayo ekappahāreneva mañcasataṃ vā mañcasahassaṃ vā denti, sabbe kappiyamañcā sampaṭicchitabbā, sampaṭicchitvā ‘‘vuḍḍhapaṭipāṭiyā saṅghikaparibhogena paribhuñjathā’’ti dātabbā, puggalikavasena na dātabbā.
Even if kings, chief ministers, and others give a hundred beds or a thousand beds at once, all permissible beds should be accepted. Having accepted them, they should be given out with the instruction, "Use them for the Saṅgha's communal use according to seniority"; they should not be given for personal use.
Ngay cả khi các vị vua, đại thần, v.v., dâng cúng một trăm hay một ngàn chiếc ghế dài cùng một lúc, tất cả các ghế dài hợp pháp đều phải được thọ nhận, và sau khi thọ nhận, chúng phải được trao để sử dụng chung cho Tăng-già theo thứ tự tuổi tác, không được trao cho cá nhân.
Atirekamañce bhaṇḍāgārādīsu paññapetvā pattacīvaraṃ nikkhipitumpi vaṭṭati.
It is also permissible to arrange extra beds in storerooms and so forth and place bowls and robes on them.
Các ghế dài dư thừa có thể được đặt trong kho hoặc những nơi tương tự để cất giữ y bát.
Bahisīmāya ‘‘saṅghassa demā’’ti dinnamañco saṅghattherassa vasanaṭṭhāne dātabbo.
A bed given outside the sīmā (boundary) with the intention, "We give it to the Saṅgha," should be given for the dwelling place of the Saṅgha's elder.
Chiếc ghế dài được dâng cúng cho Tăng-già bên ngoài sīmā phải được trao cho vị Tăng-trưởng để sử dụng tại chỗ ở của ngài.
Tattha ce bahū mañcā honti, mañcena kammaṃ natthi.
If there are many beds there, there is no need for a bed.
Nếu có nhiều ghế dài ở đó, thì không có việc gì phải làm với ghế dài.
Yassa vasanaṭṭhāne kammaṃ atthi, tattha ‘‘saṅghikaparibhogena paribhuñjathā’’ti dātabbo.
If there is need for a bed in someone's dwelling place, it should be given with the instruction, "Use it for the Saṅgha's communal use."
Ở nơi nào có việc cần làm tại chỗ ở của một vị Tỳ-khưu, thì nó phải được trao để sử dụng chung cho Tăng-già.
Mahagghena satagghanakena vā sahassagghanakena vā mañcena aññaṃ mañcasataṃ labhati, parivattetvā gahetabbaṃ.
If one obtains a hundred other beds in exchange for an expensive bed worth a hundred or a thousand, it should be taken through exchange.
Nếu đổi một chiếc ghế dài có giá trị cao, trị giá một trăm hay một ngàn, lấy một trăm chiếc ghế dài khác, thì việc đổi lấy là hợp pháp.
Na kevalaṃ mañcena mañcoyeva, ārāmaārāmavatthuvihāravihāravatthupīṭhabhisibimbohanānipi parivattetuṃ vaṭṭanti.
Not only beds for beds, but aramas, arama-sites, vihāras, vihāra-sites, seats, cushions, and pillows may also be exchanged.
Không chỉ ghế dài đổi lấy ghế dài, mà khu vườn, đất của khu vườn, Tu viện, đất của Tu viện, ghế đẩu, nệm và gối cũng có thể được đổi lấy.
Esa nayo pīṭhabhisibimbohanesupi.
This same principle applies to seats, cushions, and pillows.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho ghế đẩu, nệm và gối.
Etesu pana akappiyaṃ na paribhuñjitabbaṃ, kappiyaṃ saṅghikaparibhogena paribhuñjitabbaṃ.
Among these, what is not allowable should not be used, but what is allowable should be used for the Saṅgha's communal use.
Tuy nhiên, trong số này, vật không hợp pháp không được sử dụng, vật hợp pháp phải được sử dụng chung cho Tăng-già.
Akappiyaṃ vā mahagghaṃ kappiyaṃ vā parivattetvā vuttavatthūni gahetabbāni.
Whether unallowable or allowable but expensive, the aforementioned articles should be taken by way of exchange.
Vật không hợp pháp hoặc vật có giá trị cao, hoặc vật hợp pháp, sau khi đổi, những vật đã nói trên phải được nhận.
Agarubhaṇḍupagaṃ pana bhisibimbohanaṃ nāma natthi.
However, there is no such thing as a cushion or pillow that is not a heavy article.
Tuy nhiên, không có nệm và gối nào không thuộc loại vật nặng.
229. Lohakumbhī lohabhāṇakaṃ lohakaṭāhanti imāni tīṇi mahantāni vā hontu khuddakāni vā, antamaso pasatamattaudakagaṇhanakānipi garubhaṇḍāniyeva.
229. These three — a copper pot (lohakumbhī), a copper vessel (lohabhāṇakaṃ), and a copper cauldron (lohakaṭāhaṃ) — whether large or small, are all heavy articles, even if they hold only a palmful of water.
229. Nồi đồng, chậu đồng, chảo đồng — ba vật này, dù lớn hay nhỏ, thậm chí chỉ chứa được một nắm nước, đều là vật nặng.
Lohavārako pana kāḷalohatambalohavaṭṭalohakaṃsalohānaṃ yena kenaci kato sīhaḷadīpe pādagaṇhanako bhājetabbo.
As for a copper drinking cup (lohavārako), one made of any kind of iron, copper, bell metal, or bronze, which can hold a pāda in Sri Lanka, is divisible.
Còn bình đồng (lohavārako), dù làm bằng đồng đen, đồng đỏ, đồng thau, hay đồng hợp kim, nếu chứa được một pāda (đơn vị đo lường) thì phải được chia.
Pādo ca nāma magadhanāḷiyā pañcanāḷimattaṃ gaṇhāti, tato atirekagaṇhanako garubhaṇḍaṃ.
A pāda holds five nāḷī by the Magadha nāḷī; any vessel holding more than that is a heavy article.
Một pāda có thể chứa năm nāḷī theo nāḷī của Magadha; nếu chứa nhiều hơn thế thì là vật nặng.
Imāni tāva pāḷiyaṃ āgatāni lohabhājanāni.
These are the copper vessels mentioned in the Pāḷi.
Đây là những đồ đồng được đề cập trong Pāḷi.
Pāḷiyaṃ pana anāgatāni bhiṅgārapaṭiggahauḷauṅkadabbikaṭacchupātitaṭṭakasarakasamuggaaṅgārakapalladhūmakaṭacchuādīni khuddakāni vā mahantāni vā sabbāni garubhaṇḍāni.
However, other small or large copper articles not mentioned in the Pāḷi, such as toilet pots, spittoons, ladles, spoons, bowls, dishes, small cups, small boxes, fire-pans, and incense spoons, are all heavy articles.
Còn những đồ đồng không được đề cập trong Pāḷi như bình hoa (bhiṅgāra), khay đựng (paṭiggaha), vá múc (uḷuṅka), muỗng (dabbi), vá (kaṭacchu), chén (pāti), đĩa (taṭṭaka), chén nhỏ (saraka), hộp (samugga), xẻng than (aṅgārakapalla), vá xông hương (dhūmakaṭacchu), v.v., dù lớn hay nhỏ, tất cả đều là vật nặng.
Patto ayathālakaṃ tambalohathālakanti imāni pana bhājanīyāni.
However, a bowl, an iron dish, or a copper dish are divisible.
Bát (patto), đĩa sắt (ayathālakaṃ), và đĩa đồng đỏ (tambalohathālakaṃ) thì phải được chia.
Kaṃsalohavaṭṭalohabhājanavikati saṅghikaparibhogena vā gihivikaṭā vā vaṭṭati, puggalikaparibhogena na vaṭṭati.
A vessel modification made of bronze or bell metal is permissible for communal use by the Saṅgha or as lay property; it is not permissible for personal use.
Các vật dụng làm từ đồng thau hoặc đồng hợp kim, hoặc là đồ dùng của Tăng-già hoặc là đồ dùng của gia chủ, thì hợp pháp; nhưng nếu dùng cho cá nhân thì không hợp pháp.
Kaṃsalohādibhājanaṃ saṅghassa dinnampi hi pārihāriyaṃ na vaṭṭati, gihivikaṭanīhāreneva paribhuñjitabbanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Indeed, even a bronze or other metal vessel given to the Saṅgha is not permissible to be carried around; it is said in the Mahāpaccariya that it should be used only by considering it as lay property.
Thật vậy, dù đồ dùng bằng đồng thau, v.v., được dâng cúng cho Tăng-già, cũng không hợp pháp để mang theo; phải sử dụng như đồ dùng của gia chủ, như đã nói trong Mahāpaccariya.
Ṭhapetvā pana bhājanavikatiṃ aññasmimpi kappiyalohabhaṇḍe añjanī añjanisalākā kaṇṇamalaharaṇī sūci paṇṇasūci khuddako pipphalako khuddakaṃ ārakaṇṭakaṃ kuñcikā tāḷaṃ kattarayaṭṭhi vedhako natthudānaṃ bhiṇḍivālo lohakūṭo lohakutti lohaguḷo lohapiṇḍi lohacakkalikaṃ aññampi vippakatalohabhaṇḍaṃ bhājanīyaṃ.
Excluding vessel modifications, other permissible metal articles include: an eye-ointment pot, an eye-ointment stick, an ear-wax remover, a needle, a writing stylus, a small knife, a small thorn-remover, a key, a lock, a knife-handle, a gimlet, a snuff-tube, a fork, an iron hammer, an iron chisel, an iron ball, an iron lump, an iron ring, and any other unfinished metal article are divisible.
Ngoài các vật dụng đặc biệt, các đồ đồng hợp pháp khác như hộp đựng thuốc mắt (añjanī), que thuốc mắt (añjanisalākā), dụng cụ lấy ráy tai (kaṇṇamalaharaṇī), kim (sūci), kim lá (paṇṇasūci), dao nhỏ (khuddako pipphalako), dụng cụ móc gai nhỏ (khuddakaṃ ārakaṇṭakaṃ), chìa khóa (kuñcikā), ổ khóa (tāḷaṃ), gậy cắt (kattarayaṭṭhi), dùi (vedhako), dụng cụ nhỏ mũi (natthudānaṃ), nĩa (bhiṇḍivālo), búa sắt (lohakūṭo), đục sắt (lohakutti), bi sắt (lohaguḷo), cục sắt (lohapiṇḍi), vòng sắt (lohacakkalikaṃ) và các đồ đồng chưa hoàn thiện khác đều phải được chia.
Dhūmanettaphāladīparukkhadīpakapallakaolambakadīpaitthipurisatiracchānagatarūpakāni pana aññāni vā bhitticchadanakavāṭādīsu upanetabbāni antamaso lohakhilakaṃ upādāya sabbāni lohabhaṇḍāni garubhaṇḍāniyeva honti, attanā laddhānipi pariharitvā puggalikaparibhogena na paribhuñjitabbāni, saṅghikaparibhogena vā gihivikaṭāni vā vaṭṭanti.
However, smoking pipes, ploughshares, oil lamps, small oil lamp saucers, hanging lamps, and figures of men, women, or animals, or any other items to be affixed to walls, ceilings, doors, etc., down to an iron peg, are all heavy articles; even if obtained personally, they should not be used for personal enjoyment by carrying them around, but are permissible for communal use by the Saṅgha or as lay property.
Còn các vật như ống hút thuốc (dhūmanetta), lưỡi cày (phāla), đèn cây (dīparukkha), đèn chậu (dīpakapallaka), đèn treo (olambakadīpa), tượng hình người nam, người nữ, hay động vật, hoặc các vật khác dùng để trang trí trên tường, mái nhà, cửa ra vào, v.v., cho đến cái chốt sắt nhỏ nhất, tất cả các đồ đồng đều là vật nặng; ngay cả khi tự mình nhận được, cũng không được mang theo và sử dụng cho cá nhân; chỉ hợp pháp nếu sử dụng chung cho Tăng-già hoặc như đồ dùng của gia chủ.
Tipubhaṇḍepi eseva nayo.
The same principle applies to lead articles.
Nguyên tắc này cũng áp dụng cho đồ thiếc.
Khīrapāsāṇamayāni taṭṭakasarakādīni garubhaṇḍāniyeva.
Dishes, cups, and so forth made of marble are also heavy articles.
Các đĩa, chén, v.v., làm bằng đá sữa đều là vật nặng.
Vāsiādīsu yāya vāsiyā ṭhapetvā dantakaṭṭhacchedanaṃ vā ucchutacchanaṃ vā aññaṃ mahākammaṃ kātuṃ na sakkā, ayaṃ bhājanīyā.
Among adzes (vāsi) and so forth, an adze with which no major work can be done, apart from cutting tooth-sticks or peeling sugarcane, is divisible.
Trong số các dụng cụ như rìu nhỏ (vāsi), cái rìu nhỏ nào không thể dùng để làm công việc lớn nào khác ngoài việc cắt cành cây để làm tăm xỉa răng hoặc gọt mía, thì cái đó phải được chia.
Tato mahantatarā yena kenaci ākārena katā vāsi garubhaṇḍameva.
An adze made in any way that is larger than that is a heavy article.
Cái rìu nhỏ lớn hơn thế, được làm bằng bất kỳ cách nào, đều là vật nặng.
Pharasu pana antamaso vejjānaṃ sirāvedhanapharasupi garubhaṇḍameva.
As for an axe (pharasu), even a small axe used by physicians for venesection is a heavy article.
Còn cái rìu (pharasu), thậm chí là cái rìu nhỏ dùng để chích tĩnh mạch của các thầy thuốc, cũng là vật nặng.
Kuṭhāriyaṃ pharasusadisoyeva vinicchayo.
Regarding an adze, the decision is the same as for an axe.
Đối với dao rựa, sự phân định cũng giống như đối với rìu.
Yā pana āvudhasaṅkhepena katā, ayaṃ anāmāsā.
But an adze that is made in the form of a weapon is not to be touched.
Còn dao rựa nào được làm như một loại vũ khí, thì đó là vật không thể chạm đến.
Kudālo antamaso caturaṅgulamattopi garubhaṇḍameva.
A spade, even if it is only four fingerbreadths, is indeed heavy property (garubhaṇḍa).
Cái cuốc, dù chỉ bằng bốn ngón tay, cũng là vật nặng.
Nikhādanaṃ caturassamukhaṃ vā hotu doṇimukhaṃ vā vaṅkaṃ vā ujukaṃ vā, antamaso sammuñjanīdaṇḍakavedhanampi daṇḍabaddhaṃ ce, garubhaṇḍameva.
A chisel, whether it has a square mouth, a trough-like mouth, is crooked or straight, even a small chisel for piercing a broomstick, if it has a handle, is indeed heavy property (garubhaṇḍa).
Cái đục, dù có đầu vuông hay đầu lòng máng, cong hay thẳng, thậm chí là cái đục dùng để đục lỗ cán chổi, nếu có cán, thì đó là vật nặng.
Sammuñjanīdaṇḍakhaṇanakaṃ pana adaṇḍakaṃ phalamattameva.
But a small chisel for piercing a broomstick that has no handle and is merely a blade (blade-only) is not heavy property.
Còn cái đục nhỏ dùng để đục lỗ cán chổi, nếu không có cán mà chỉ có lưỡi.
Yaṃ sakkā sipāṭikāya pakkhipitvā pariharituṃ, taṃ bhājanīyaṃ.
That which can be kept and carried in a pouch is divisible (bhājanīya).
Cái đục nào có thể bỏ vào túi và mang đi, thì đó là vật có thể chia.
Sikharampi nikhādaneneva saṅgahitaṃ.
A drill is also included as a chisel.
Cái dùi cũng được bao gồm trong loại đục.
Yehi manussehi vihāre vāsiādīni dinnāni honti, te ce ghare daḍḍhe vā corehi vā vilutte ‘‘detha no, bhante, upakaraṇe, puna pākatike karissāmā’’ti vadanti, dātabbā.
If people who have given axes and so on to the monastery have their houses burnt or robbed by thieves and say, “Venerables, give us the implements; we will replace them,” they should be given.
Nếu những người đã dâng các vật dụng như rìu, v.v. cho tu viện, mà nhà của họ bị cháy hoặc bị trộm cướp, và họ nói: “Bạch chư Tăng, xin hãy trả lại các vật dụng cho chúng con, chúng con sẽ làm lại như cũ,” thì nên trả lại.
Sace āharanti, na vāretabbā, anāharantāpi na codetabbā.
If they bring them back, they should not be stopped; even if they do not bring them back, they should not be urged.
Nếu họ mang đến, không nên ngăn cản; nếu họ không mang đến, cũng không nên thúc giục.
Kammāratacchakāracundakāranaḷakāramaṇikārapattabandhakānaṃ adhikaraṇimuṭṭhikasaṇḍāsatulādīni sabbāni lohamayaupakaraṇāni saṅghe dinnakālato paṭṭhāya garubhaṇḍāni.
All iron implements such as anvils, hammers, pincers, and scales belonging to blacksmiths, carpenters, turners, bamboo workers, jewelers, and bowl-repairers, from the time they are given to the Saṅgha, are heavy property (garubhaṇḍa).
Tất cả các vật dụng bằng kim loại như đe, búa, kìm, cân, v.v. của thợ rèn, thợ mộc, thợ tiện, thợ đan tre, thợ kim hoàn, thợ sửa bát, kể từ khi được dâng cho Tăng đoàn, đều là vật nặng.
Tipukoṭṭakasuvaṇṇakāracammakāraupakaraṇesupi eseva nayo.
The same rule applies to the implements of pewterers, goldsmiths, and leatherworkers.
Đối với các vật dụng của thợ thiếc, thợ vàng, thợ da cũng áp dụng nguyên tắc tương tự.
Ayaṃ pana viseso – tipukoṭṭakaupakaraṇesupi tipucchedanakasatthakaṃ, suvaṇṇakāraupakaraṇesu suvaṇṇacchedanakasatthakaṃ, cammakāraupakaraṇesu kataparikammacammacchedanakakhuddakasatthakanti imāni bhājanīyabhaṇḍāni.
This, however, is the distinction: among the pewterer's implements, a small knife for cutting pewter; among the goldsmith's implements, a small knife for cutting gold; and among the leatherworker's implements, a small knife for cutting processed leather—these are divisible property (bhājanīya).
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt: dao cắt thiếc trong các vật dụng của thợ thiếc, dao cắt vàng trong các vật dụng của thợ vàng, và dao nhỏ cắt da đã được xử lý trong các vật dụng của thợ da, những thứ này là vật có thể chia.
Nahāpitatunnakāraupakaraṇesupi ṭhapetvā mahākattariṃ mahāsaṇḍāsaṃ mahāpipphalikañca sabbaṃ bhājanīyaṃ, mahākattariādīni garubhaṇḍāni.
Among the barber's and tailor's implements, everything except large scissors, large pincers, and large tweezers is divisible; large scissors and so on are heavy property (garubhaṇḍa).
Đối với các vật dụng của thợ cắt tóc và thợ may, ngoại trừ kéo lớn, kìm lớn và kẹp lớn, tất cả đều là vật có thể chia; kéo lớn, v.v. là vật nặng.
Valliādīsu vettavalliādikā yā kāci aḍḍhabāhuppamāṇā valli saṅghassa dinnā vā tatthajātakā vā rakkhitagopitā garubhaṇḍaṃ hoti, sā saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate sace atirekā hoti, puggalikakammepi upanetuṃ vaṭṭati.
Among creepers and so on, any rattan creeper or similar creeper, half an arm's length, that is given to the Saṅgha or originates there and is protected and kept safe, is heavy property (garubhaṇḍa); if there is a surplus after Saṅgha work and cetiya work are done, it is permissible to use it for personal work.
Trong số các loại dây leo, bất kỳ loại dây leo nào như dây mây, v.v., có chiều dài khoảng nửa cánh tay, nếu được dâng cho Tăng đoàn hoặc mọc tại đó và được bảo vệ cẩn thận, thì đó là vật nặng; sau khi công việc của Tăng đoàn và công việc xây dựng bảo tháp đã hoàn thành, nếu còn thừa, thì có thể dùng cho công việc cá nhân.
Arakkhitā pana garubhaṇḍameva na hoti.
However, if it is not protected, it is not heavy property.
Còn nếu không được bảo vệ, thì không phải là vật nặng.
Suttamakacivākanāḷikerahīracammamayā rajjukā vā yottāni vā vāke ca nāḷikerahīre ca vaṭṭetvā katā ekavaṭṭā vā dvivaṭṭā vā saṅghassa dinnakālato paṭṭhāya garubhaṇḍaṃ.
Ropes made of thread, fiber, coir, or leather, or reins, or those made by twisting bast fibers and coir, whether single-stranded or double-stranded, are heavy property (garubhaṇḍa) from the time they are given to the Saṅgha.
Dây thừng bằng chỉ, dây thừng bằng sợi cây makacivāka, dây thừng bằng xơ dừa, dây thừng bằng da, hoặc dây thừng được bện từ sợi cây vāka và xơ dừa, một sợi hoặc hai sợi, kể từ khi được dâng cho Tăng đoàn, đều là vật nặng.
Suttaṃ pana avaṭṭetvā dinnaṃ makacivākanāḷikerahīrā ca bhājanīyā.
However, thread given untwisted, as well as bast fibers and coir, are divisible (bhājanīya).
Còn chỉ được dâng mà không bện, và sợi cây makacivāka cùng xơ dừa thì là vật có thể chia.
Yehi panetāni rajjukayottādīni dinnāni honti, te attano karaṇīyena harantā na vāretabbā.
If people who have given these ropes, reins, and so on take them for their own use, they should not be stopped.
Nếu những người đã dâng các loại dây thừng, dây buộc, v.v. này, họ mang đi để làm công việc của mình, thì không nên ngăn cản.
Yo koci antamaso aṭṭhaṅgulasūcidaṇḍakamattopi veḷu saṅghassa dinno vā tatthajātako vā rakkhitagopito garubhaṇḍaṃ, sopi saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate atireko puggalikakamme ca dātuṃ vaṭṭati.
Any bamboo, even if it is only the size of an eight-finger-long stylus handle, given to the Saṅgha or originating there and protected and kept safe, is heavy property (garubhaṇḍa); if there is a surplus after Saṅgha work and cetiya work are done, it is permissible to give it for personal work.
Bất kỳ cây tre nào, dù chỉ dài bằng cán kim tám ngón tay, nếu được dâng cho Tăng đoàn hoặc mọc tại đó và được bảo vệ cẩn thận, thì đó là vật nặng; sau khi công việc của Tăng đoàn và công việc xây dựng bảo tháp đã hoàn thành, nếu còn thừa, thì cũng có thể dùng cho công việc cá nhân.
Pādagaṇhanakatelanāḷi pana kattarayaṭṭhi upāhanadaṇḍako chattadaṇḍako chattasalākāti idamettha bhājanīyabhaṇḍaṃ.
However, an oil container for rubbing the feet, a walking stick, a sandal strap, a parasol handle, and parasol ribs are divisible property (bhājanīya) here.
Còn ống đựng dầu để rửa chân, gậy chống, cán dép, cán dù, nan dù – những thứ này là vật có thể chia.
Daḍḍhagehamanussā gaṇhitvā gacchantā na vāretabbā.
People whose houses have burned down should not be prevented from taking them.
Những người có nhà bị cháy mang đi thì không nên ngăn cản.
Rakkhitagopitaṃ veḷuṃ gaṇhantena samakaṃ vā atirekaṃ vā thāvaraṃ antamaso taṃagghanakavallikāyapi phātikammaṃ katvā gahetabbo, phātikammaṃ akatvā gaṇhantena tattheva vaḷañjetabbo.
When taking protected and kept bamboo, one should compensate for it with an equal or greater amount of something durable, or even with a creeper of equal value; if one takes it without compensating, it should be used right there.
Khi lấy tre đã được bảo vệ cẩn thận, phải làm phātikamma (bồi thường) bằng cách trả lại một lượng tương đương hoặc nhiều hơn, hoặc ít nhất là một loại dây leo có giá trị tương đương; nếu không làm phātikamma mà lấy đi, thì phải sử dụng ngay tại đó.
Gamanakāle saṅghike āvāse ṭhapetvā gantabbaṃ, asatiyā gahetvā gatena pahiṇitvā dātabbo.
When leaving, it should be left in a Saṅghic dwelling; if, due to forgetfulness, one takes it away, it should be sent back.
Khi đi xa, phải để lại trong tu viện của Tăng đoàn; nếu lỡ mang đi, thì phải gửi trả lại.
Desantaragatena sampattavihāro saṅghikāvāse ṭhapetabbo.
One who has gone to another country should leave it in a Saṅghic dwelling upon arrival at the monastery.
Người đi đến một vùng đất khác, khi đến tu viện, phải để lại trong tu viện của Tăng đoàn.
Tiṇanti muñjañca pabbajañca ṭhapetvā avasesaṃ yaṃ kiñci tiṇaṃ.
Grass means any grass other than muñja grass and pabbaja grass.
Cỏ là bất kỳ loại cỏ nào khác ngoài cỏ muñja và cỏ pabbaja.
Yattha pana tiṇaṃ natthi, tattha paṇṇehi chādenti, tasmā paṇṇampi tiṇeneva saṅgahitaṃ.
Where there is no grass, people cover with leaves, therefore leaves are also included as grass.
Ở nơi không có cỏ, người ta dùng lá để lợp, vì vậy lá cũng được bao gồm trong loại cỏ.
Iti muñjādīsu yaṃ kiñci muṭṭhippamāṇaṃ tiṇaṃ tālapaṇṇādīsu ca ekapaṇṇampi saṅghassa dinnaṃ vā tatthajātakaṃ vā bahārāme saṅghassa tiṇavatthuto jātatiṇaṃ vā rakkhitagopitaṃ garubhaṇḍaṃ hoti, tampi saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate atirekaṃ puggalikakamme dātuṃ vaṭṭati, daḍḍhagehamanussā gahetvā gacchantā na vāretabbā.
Thus, any grass, even a handful, among muñja grass and so on, or even a single leaf among palm leaves and so on, that is given to the Saṅgha, or originates there, or is grass grown from a Saṅghic grass-field in an outer monastery, and is protected and kept safe, is heavy property (garubhaṇḍa); if there is a surplus after Saṅgha work and cetiya work are done, it is permissible to give it for personal work; people whose houses have burned down should not be prevented from taking it.
Như vậy, bất kỳ loại cỏ nào trong số cỏ muñja, v.v. có kích thước bằng một nắm tay, hoặc một chiếc lá trong số lá cọ, v.v., nếu được dâng cho Tăng đoàn hoặc mọc tại đó, hoặc cỏ mọc từ đất cỏ được dâng cho Tăng đoàn ở ngoại vi tu viện, và được bảo vệ cẩn thận, thì đó là vật nặng; sau khi công việc của Tăng đoàn và công việc xây dựng bảo tháp đã hoàn thành, nếu còn thừa, thì có thể dùng cho công việc cá nhân; những người có nhà bị cháy mang đi thì không nên ngăn cản.
Aṭṭhaṅgulappamāṇopi rittapotthako garubhaṇḍameva.
Even an empty book eight fingerbreadths long is heavy property (garubhaṇḍa).
Ngay cả một quyển sách trống rỗng có chiều dài tám ngón tay cũng là vật nặng.
Dārubhaṇḍe ‘‘yo koci aṭṭhaṅgulasūcidaṇḍamattopi dārubhaṇḍako dārudullabhaṭṭhāne saṅghassa dinno vā tatthajātako vā rakkhitagopito, ayaṃ garubhaṇḍaṃ hotī’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Regarding wooden articles, it is stated in the Kurundī Commentary: "Any wooden article, even if it is only the size of an eight-finger-long stylus handle, if given to the Saṅgha in a place where wood is scarce, or originating there, and protected and kept safe, is heavy property (garubhaṇḍa)."
Trong vật dụng bằng gỗ, trong Kurundī có nói: “Bất kỳ vật dụng bằng gỗ nào, dù chỉ dài bằng cán kim tám ngón tay, nếu được dâng cho Tăng đoàn ở nơi khan hiếm gỗ, hoặc mọc tại đó và được bảo vệ cẩn thận, thì đó là vật nặng.”
Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana sabbampi dāruveḷucammapāsāṇādivikatiṃ dārubhaṇḍena saṅgaṇhitvā āsandikato paṭṭhāya dārubhaṇḍe vinicchayo vutto.
However, in the Mahā-aṭṭhakathā, all modifications of wood, bamboo, leather, stone, and so on, are included under wooden articles, and the decision regarding wooden articles is given starting from the āsandika (long-legged bench).
Còn trong Mahāaṭṭhakathā thì tất cả các loại biến thể từ gỗ, tre, da, đá, v.v. đều được gom vào loại vật dụng bằng gỗ, và sự phân định về vật dụng bằng gỗ được nói đến bắt đầu từ ghế dài.
Tatrāyaṃ nayo – āsandiko sattaṅgo bhaddapīṭhaṃ pīṭhikā ekapādakapīṭhaṃ āmaṇḍakavaṇṭakapīṭhaṃ phalakaṃ kocchaṃ palālapīṭhanti imesu tāva yaṃ kiñci khuddakaṃ vā hotu mahantaṃ vā, saṅghassa dinnaṃ garubhaṇḍaṃ hoti.
The rule here is this: among the āsandika, the seven-limbed bhaddapīṭha (auspicious bench), the pīṭhikā (small bench), the single-legged stool, the āmanda-vaṇṭaka bench, the plank, the couch, and the straw stool—whatever is small or large, if given to the Saṅgha, is heavy property (garubhaṇḍa).
Theo nguyên tắc này: trong số các loại ghế dài, ghế bảy chi, ghế tốt, ghế đẩu, ghế một chân, ghế hình quả xoài, ván, ghế đệm, ghế rơm – bất kỳ loại nào, dù nhỏ hay lớn, nếu được dâng cho Tăng đoàn, đều là vật nặng.
Palālapīṭhena cettha kadalipattādipīṭhānipi saṅgahitāni.
Here, benches made of banana leaves and so on are also included with the straw stool.
Ở đây, ghế rơm cũng bao gồm các loại ghế làm từ lá chuối, v.v.
Byagghacammaonaddhampi vāḷarūpaparikkhittaṃ ratanaparisibbitaṃ kocchaṃ garubhaṇḍameva, vaṅkaphalakaṃ dīghaphalakaṃ cīvaradhovanaphalakaṃ ghaṭṭanaphalakaṃ ghaṭṭanamuggaro dantakaṭṭhacchedanagaṇṭhikā daṇḍamuggaro ambaṇaṃ rajanadoṇi udakapaṭicchako dārumayo vā dantamayo vā veḷumayo vā sapādakopi apādakopi samuggo mañjūsā pādagaṇhanakato atirekappamāṇo karaṇḍo udakadoṇi udakakaṭāhaṃ uḷuṅko kaṭacchu pānīyasarāvaṃ pānīyasaṅkhoti etesupi yaṃ kiñci saṅghe dinnaṃ garubhaṇḍaṃ.
A couch covered with a tiger skin, adorned with figures of wild animals, or embroidered with gems, is also heavy property (garubhaṇḍa); a curved plank, a long plank, a plank for washing robes, a rubbing plank, a rubbing pestle, a knot-for-cutting-tooth-sticks, a pestle, a water tub, a dye vat, a water strainer (whether wooden, ivory, or bamboo, with or without legs), a small box, a large box exceeding the size of a foot-washing basin, a water trough, a water basin, a ladle, a spoon, a drinking bowl, and a conch shell for drinking water—whatever among these is given to the Saṅgha is heavy property (garubhaṇḍa).
Ghế đệm được bọc da hổ, được trang trí bằng hình thú dữ, được khâu bằng đá quý cũng là vật nặng; ván cong, ván dài, ván giặt y, ván chà y, chày chà y, chày đập khi cắt tăm xỉa răng, chày, chậu, thùng nhuộm, đồ hứng nước bằng gỗ, ngà voi hoặc tre, có chân hoặc không chân, hộp nhỏ, rương, giỏ lớn hơn kích thước dùng để rửa chân, thùng nước, chậu nước, muỗng múc, vá, chén uống nước, vỏ ốc uống nước – bất kỳ thứ gì trong số này được dâng cho Tăng đoàn đều là vật nặng.
Saṅkhathālakaṃ pana bhājanīyaṃ, tathā dārumayo udakatumbo.
However, a conch shell plate is divisible (bhājanīya), as is a wooden water pot.
Còn chén vỏ ốc thì là vật có thể chia, cũng như gáo nước bằng gỗ.
Pādakathalikamaṇḍalaṃ dārumayaṃ vā hotu coḷapaṇṇādimayaṃ vā, sabbaṃ garubhaṇḍaṃ.
A foot-wiping mat, whether made of wood or cloth, leaves, etc., is all heavy property (garubhaṇḍa).
Thảm chùi chân, dù bằng gỗ hay bằng vải, lá, v.v., tất cả đều là vật nặng.
Ādhārako pattapidhānaṃ tālavaṇṭaṃ bījanī caṅkoṭakaṃ pacchi yaṭṭhisammuñjanī muṭṭhisammuñjanīti etesupi yaṃ kiñci khuddakaṃ vā hotu mahantaṃ vā, dāruveḷupaṇṇacammādīsu yena kenaci kataṃ garubhaṇḍameva.
Among a bowl stand, a bowl cover, a palm-leaf fan, a hand fan, a small basket, a large basket, a stick broom, and a hand broom—whatever is small or large, if made of wood, bamboo, leaves, leather, etc., is indeed heavy property (garubhaṇḍa).
Đế bát, nắp bát, quạt lá cọ, quạt, hộp đựng, giỏ, chổi có cán, chổi cầm tay – bất kỳ thứ gì trong số này, dù nhỏ hay lớn, được làm bằng gỗ, tre, lá, da, v.v. đều là vật nặng.
Thambhatulāsopānaphalakādīsu dārumayaṃ vā pāsāṇamayaṃ vā yaṃ kiñci gehasambhārarūpaṃ yo koci kaṭasārako yaṃ kiñci bhūmattharaṇaṃ yaṃ kiñci akappiyacammaṃ, sabbaṃ saṅghe dinnaṃ garubhaṇḍaṃ, bhūmattharaṇaṃ kātuṃ vaṭṭati.
Any house-building material such as wooden or stone pillars, beams, stairs, and planks; any kind of mat; any kind of floor covering; any kind of unsuitable hide, all if given to the Saṅgha, is heavy property (garubhaṇḍa), and it is permissible to make floor coverings from them.
Trong số cột, xà, ván cầu thang, v.v., bất kỳ loại vật liệu xây dựng nhà nào bằng gỗ hoặc đá, bất kỳ loại chiếu cói nào, bất kỳ loại thảm trải sàn nào, bất kỳ loại da không phù hợp nào, tất cả khi được dâng cho Tăng đoàn đều là vật nặng, có thể dùng làm thảm trải sàn.
Eḷakacammaṃ pana paccattharaṇagatikaṃ hoti, tampi garubhaṇḍameva.
However, sheepskin or goatskin that is meant for a bed-cover is also heavy property.
Da cừu là vật dùng để trải (làm giường), đó cũng là vật nặng.
Kappiyacammāni bhājanīyāni.
Proper skins are distributable.
Các loại da hợp pháp thì được phép chia.
Kurundiyaṃ pana ‘‘sabbaṃ mañcappamāṇaṃ cammaṃ garubhaṇḍa’’nti vuttaṃ.
However, in the Kurundiya, it is said, ‘‘All skin the size of a bed/couch is heavy property.’’
Tuy nhiên, trong Kurundī, có nói: “Tất cả da có kích thước bằng giường đều là vật nặng.”
Udukkhalaṃ musalaṃ suppaṃ nisadaṃ nisadapoto pāsāṇadoṇi pāsāṇakaṭāhaṃ turivemabhastādi sabbaṃ pesakārādibhaṇḍaṃ sabbaṃ kasibhaṇḍaṃ sabbaṃ cakkayuttakaṃ yānaṃ garubhaṇḍameva.
A mortar, a pestle, a winnowing basket, a grinding stone, a grinder’s tool, a stone trough, a stone basin, a shuttle, a loom-sword, a bellows, and all such implements of weavers, all farming implements, and all wheeled vehicles are heavy property.
Cối, chày, nia, đá mài, đá mài nhỏ, máng đá, chậu đá, khung cửi, thoi, ống thổi, và tất cả các vật dụng của thợ dệt, v.v., tất cả các vật dụng nông nghiệp, tất cả các loại xe có bánh xe đều là vật nặng.
Mañcapādo mañcaaṭanī pīṭhapādo pīṭhaaṭanī vāsipharasuādīnaṃ daṇḍāti etesu yaṃ kiñci vippakatatacchanakammaṃ aniṭṭhitameva bhājanīyaṃ, tacchitamaṭṭhaṃ pana garubhaṇḍaṃ hoti.
Among these, a bed-leg, a bed-stretcher, a stool-leg, a stool-stretcher, and handles for chisels, axes, and so forth, are distributable only if the carving work is incomplete and unfinished. However, if they are carved and finished, they are heavy property.
Chân giường, thanh ngang giường, chân ghế, thanh ngang ghế, cán dao rựa, rìu, v.v., bất cứ vật gì chưa hoàn thành việc đẽo gọt thì được phép chia; nhưng nếu đã đẽo gọt xong thì là vật nặng.
Anuññātavāsiyā pana daṇḍo chattamuṭṭhipaṇṇaṃ kattarayaṭṭhi upāhanā araṇisahitaṃ dhammakaraṇo pādagaṇhanakato anatirittaṃ āmalakatumbaṃ āmalakaghaṭo lābukatumbaṃ lābughaṭo visāṇakatumbanti sabbamevetaṃ bhājanīyaṃ, tato mahantataraṃ garubhaṇḍaṃ.
However, the handle of an allowable chisel/adze, a palm leaf for an umbrella, a walking stick, footwear, a fire-drill with its base, a water-strainer, an emblic myrobalan gourd, an emblic myrobalan pot, a bottle gourd, a bottle gourd pot, and a horn gourd, all of these, provided they do not exceed the size of a foothold, are distributable. Anything larger than that is heavy property.
Đối với cái rìu được phép, thì cán rìu, lá cọ làm dù, gậy, dép, bộ dụng cụ tạo lửa (araṇi), lọc nước (dhammakaraṇa), và những thứ không vượt quá một pāda như bầu đựng trái amala (āmalakatumba), bình đựng trái amala (āmalakaghaṭo), bầu đựng trái bầu (lābukatumba), bình đựng trái bầu (lābughaṭo), hộp đựng sừng (visāṇakatumba) – tất cả những thứ này đều là vật có thể phân chia được (bhājanīya). Vật gì lớn hơn thế thì là vật nặng (garubhaṇḍa).
Hatthidanto vā yaṃ kiñci visāṇaṃ vā atacchitaṃ yathāgatameva bhājanīyaṃ.
An elephant tusk or any horn, if uncarved and as-is, is distributable.
Ngà voi hoặc bất kỳ loại sừng nào chưa được đẽo gọt, nguyên trạng, đều là vật có thể phân chia được.
Tehi katamañcapādādīsu purimasadisoyeva vinicchayo.
Regarding bed-legs and similar items made from these, the decision is the same as before.
Đối với những vật được làm từ chúng như chân ghế giường, v.v., thì sự phân định cũng giống như trước.
Tacchitaniṭṭhitopi hiṅgukaraṇḍako gaṇṭhikā vidho añjanī añjanīsalākā udakapuñchanīti idaṃ sabbaṃ bhājanīyameva.
Even if carved and finished, a asafoetida box, a knot, a belt, an eye-ointment stick, and a water-wiper, all of these are distributable.
Hộp đựng a-ngùy đã được đẽo gọt xong, dây buộc, dây lưng, lọ thuốc mắt, que thuốc mắt, khăn lau nước – tất cả những thứ này đều là vật có thể phân chia được.
Mattikābhaṇḍe sabbaṃ manussānaṃ upabhogaparibhogaṃ ghaṭapīṭharādikulālabhājanaṃ pattakaṭāhaṃ aṅgārakaṭāhaṃ dhūmadānaṃ dīparukkhako dīpakapallikā cayaniṭṭhakā chadaniṭṭhakā thūpikāti saṅghassa dinnakālato paṭṭhāya garubhaṇḍaṃ, pādagaṇhanakato anatirittappamāṇo pana ghaṭako pattaṃ thālakaṃ kañcanako kuṇḍikāti idamettha bhājanīyabhaṇḍaṃ.
Among earthenware, all pottery for human use and consumption such as pots, jars, etc., the potter's vessels, a pot for firing bowls, a charcoal brazier, an incense burner, a lampstand, an oil lamp, bricks for construction, roofing tiles, and stupikas become heavy property from the time they are given to the Saṅgha. However, a small pot, a bowl, a plate, a cup, and a water-pot, provided they do not exceed the size of a foothold, are distributable property here.
Trong số đồ gốm, tất cả những vật dụng sinh hoạt và tiêu dùng của con người như nồi, chậu, v.v., đồ dùng của thợ gốm, nồi nấu bát, chậu than, lò xông hương, cây đèn, đĩa đèn, gạch xây, gạch lợp, chóp tháp – tất cả những thứ này, kể từ khi được dâng cho Tăng đoàn, đều là vật nặng (garubhaṇḍa). Tuy nhiên, những thứ không vượt quá một pāda như bình nhỏ, bát, đĩa, chén uống nước, bình nước (kuṇḍikā) – đây là những vật có thể phân chia được (bhājanīyabhaṇḍa) trong trường hợp này.
Yathā ca mattikābhaṇḍe, evaṃ lohabhaṇḍepi kuṇḍikā bhājanīyakoṭṭhāsameva bhajatīti ayamettha anupubbikathā.
And just as with earthenware, so too with metalware, a water-pot falls into the category of distributable items; this is the progressive explanation here.
Và giống như đồ gốm, bình nước (kuṇḍikā) trong đồ đồng cũng thuộc loại vật có thể phân chia được. Đây là câu chuyện theo thứ tự ở đây.
230. Codanādivinicchayoti ettha (pārā. aṭṭha. 2.385-6) pana codetuṃ ko labhati, ko na labhati?
Now, in this Decision on Accusation and so forth, who is allowed to accuse and who is not?
230. Trong phân định sự khiển trách, v.v. ở đây, ai được phép khiển trách, ai không được phép?
Dubbalacodakavacanaṃ tāva gahetvā koci na labhati.
Firstly, no one is allowed to accuse based on the words of a weak accuser.
Trước hết, không ai được phép khiển trách dựa trên lời nói của một người khiển trách yếu kém.
Dubbalacodako nāma sambahulesu kathāsallāpena nisinnesu eko ekaṃ ārabbha anodissakaṃ katvā pārājikavatthuṃ katheti, añño taṃ sutvā itarassa gantvā āroceti, so taṃ upasaṅkamitvā ‘‘tvaṃ kira maṃ idañcidañca vadasī’’ti bhaṇati, so ‘‘nāhaṃ evarūpaṃ jānāmi, kathāpavattiyaṃ pana mayā anodissakaṃ katvā vuttamatthi.
A weak accuser is one who, when many bhikkhus are gathered in conversation, talks about a pārājika offence without naming anyone in particular, concerning one bhikkhu. Another bhikkhu hears this and reports it to the first bhikkhu. The first bhikkhu approaches the speaker and asks, ‘‘Is it true that you said such and such about me?’’ The speaker replies, ‘‘I do not know of any such thing; however, during the course of conversation, I did say something without naming anyone. If I had known that this would cause you distress, I would not have said even that much.’’
Một người khiển trách yếu kém là khi nhiều Tỳ-khưu đang ngồi đàm đạo, một người nói về một sự việc pārajika mà không chỉ đích danh ai, rồi một người khác nghe được điều đó, đi nói lại cho người kia, người kia đến gặp người nói và hỏi: “Nghe nói ông nói tôi điều này điều nọ?” Người nói đáp: “Tôi không biết điều như vậy, nhưng trong lúc đàm đạo, tôi đã nói một điều gì đó mà không chỉ đích danh ai.
Sace ahaṃ tava imaṃ dukkhuppattiṃ jāneyyaṃ, ettakampi na katheyya’’nti.
This is a weak accuser.
Nếu tôi biết điều đau khổ này của ông, tôi đã không nói dù chỉ một chút.”
Ayaṃ dubbalacodako.
This is a weak accuser.
Người này là một người khiển trách yếu kém.
Tassetaṃ kathāsallāpaṃ gahetvā taṃ bhikkhuṃ koci codetuṃ na labhati, etaṃ pana aggahetvā sīlasampanno bhikkhu bhikkhuṃ vā bhikkhuniṃ vā, sīlasampannā ca bhikkhunī bhikkhunīmeva codetuṃ labhatīti mahāpadumatthero āha.
No one is allowed to accuse that bhikkhu based on the weak accuser's conversation. However, leaving that aside, a bhikkhu endowed with sīla may accuse a bhikkhu or a bhikkhunī; and a bhikkhunī endowed with sīla may accuse only another bhikkhunī, so said Mahāpadumatthera.
Không ai được phép khiển trách Tỳ-khưu đó dựa trên cuộc đàm đạo này của người ấy. Tuy nhiên, Trưởng lão Mahāpaduma nói rằng, không dựa vào điều này, một Tỳ-khưu có giới hạnh có thể khiển trách một Tỳ-khưu hoặc một Tỳ-khưu-ni, và một Tỳ-khưu-ni có giới hạnh chỉ có thể khiển trách một Tỳ-khưu-ni.
Mahāsumatthero pana ‘‘pañcapi sahadhammikā labhantī’’ti āha.
Mahāsumatthera, however, said, ‘‘All five fellow-Dhamma practitioners are allowed to accuse.’’
Trưởng lão Mahāsuma lại nói: “Năm vị đồng phạm hạnh đều được phép.”
Godattatthero ‘‘na koci na labhatī’’ti vatvā ‘‘bhikkhussa sutvā codeti, bhikkhuniyā sutvā…pe… titthiyasāvakānaṃ sutvā codetī’’ti idaṃ suttaṃ āhari.
Godattatthera said, ‘‘No one is not allowed to accuse,’’ and he cited the Sutta that says, ‘‘One accuses after hearing from a bhikkhu, ...from a bhikkhunī... from disciples of other sects.’’
Trưởng lão Godatta nói: “Không ai là không được phép,” rồi dẫn kinh: “Nghe Tỳ-khưu nói thì khiển trách, nghe Tỳ-khưu-ni nói… v.v… nghe đệ tử ngoại đạo nói thì khiển trách.”
Tiṇṇampi therānaṃ vāde cuditakasseva paṭiññāya kāretabbo.
In the views of all three Elders, the accused person should be dealt with only according to his own confession.
Trong quan điểm của cả ba vị trưởng lão, người bị khiển trách phải được yêu cầu chấp nhận lời thú tội của mình.
Aparāpi catubbidhā hoti vatthusandassanā āpattisandassanā saṃvāsapaṭikkhepo sāmīcipaṭikkhepoti.
There are also four other kinds: pointing out the basis, pointing out the offence, rejection of communion, and rejection of respectful conduct.
Ngoài ra, còn có bốn loại: chỉ ra sự việc (vatthusandassanā), chỉ ra tội (āpattisandassanā), từ chối chung sống (saṃvāsapaṭikkhepo), và từ chối lễ nghi (sāmīcipaṭikkhepo).
Tattha vatthusandassanā nāma ‘‘tvaṃ methunaṃ dhammaṃ paṭisevi, adinnaṃ ādiyi, manussaṃ ghātayittha, abhūtaṃ ārocayitthā’’ti evaṃ pavattā.
Among these, pointing out the basis is, for example, saying, ‘‘You engaged in sexual intercourse, you took what was not given, you killed a human being, you falsely claimed superhuman attainments.’’
Trong đó, chỉ ra sự việc là những lời nói như: “Ông đã hành dâm, ông đã lấy của không cho, ông đã giết người, ông đã nói điều không thật.”
Āpattisandassanā nāma ‘‘tvaṃ methunadhammapārājikāpattiṃ āpanno’’tievamādinayappavattā.
Pointing out the offence is, for example, saying, ‘‘You have incurred the pārājika offence of sexual intercourse.’’
Chỉ ra tội là những lời nói bắt đầu như: “Ông đã phạm tội pārajika về hành dâm.”
Saṃvāsapaṭikkhepo nāma ‘‘natthi tayā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā saṅghakammaṃ vā’’ti evaṃ pavatto.
Rejection of communion is, for example, saying, ‘‘There is no uposatha, no pavāraṇā, no Saṅgha-kamma with you.’’
Từ chối chung sống là những lời nói như: “Không có lễ Bố-tát (Uposatha), lễ Tự-tứ (Pavāraṇā), hay Tăng-sự (Saṅghakamma) nào với ông.”
Sāmīcipaṭikkhepo nāma abhivādanapaccuṭṭhānaañjalīkammabījanādikammānaṃ akaraṇaṃ.
Rejection of respectful conduct is the non-performance of acts such as salutation, rising to greet, respectful gestures (añjalī-kamma), and fanning.
Từ chối lễ nghi là việc không thực hiện các hành động như chào hỏi, đứng dậy đón tiếp, chắp tay, quạt, v.v.
Taṃ paṭipāṭiyā vandanādīni karonto ekassa akatvā sesānaṃ karaṇakāle veditabbaṃ.
This should be understood as occurring when, while performing acts of respect such as salutations in due order for others, one does not perform them for a particular individual.
Điều đó cần được hiểu là khi một người đang thực hiện các hành động như đảnh lễ theo thứ tự, nhưng không làm cho một người nào đó mà lại làm cho những người còn lại.
Ettāvatāpi codanā nāma hoti.
Even by this much, it constitutes an accusation.
Ngay cả như vậy cũng được gọi là khiển trách.
Yāgubhattādinā pana yaṃ icchati, taṃ āpucchati, na tāvatā codanā hoti.
However, merely asking for whatever one desires, such as gruel or rice, does not by itself constitute an accusation.
Tuy nhiên, việc hỏi xin cháo, cơm, v.v., những gì mình muốn, thì chưa phải là khiển trách.
Aparā pātimokkhaṭṭhapanakkhandhake (cūḷava. 387) ‘‘ekaṃ, bhikkhave, adhammikaṃ pātimokkhaṭṭhapanaṃ, ekaṃ dhammika’’ntiādiṃ katvā yāva dasa adhammikāni pātimokkhaṭṭhapanāni, dasa dhammikānīti evaṃ adhammikā pañcapaññāsa, dhammikā pañcapaññāsāti dasuttarasataṃ codanā vuttā.
Furthermore, in the Chapter on Suspension of the Pātimokkha (Cūḷava. 387), starting with ‘‘Bhikkhus, there is one unrighteous suspension of the Pātimokkha, and one righteous,’’ up to ‘‘ten unrighteous suspensions of the Pātimokkha and ten righteous,’’ thus are described fifty-five unrighteous and fifty-five righteous accusations, totalling one hundred and ten accusations.
Ngoài ra, trong phần về đình chỉ Pātimokkha có đề cập đến một trăm mười sự khiển trách, bắt đầu bằng: “Này các Tỳ-khưu, có một sự đình chỉ Pātimokkha không hợp pháp, có một sự đình chỉ hợp pháp,” cho đến mười sự đình chỉ Pātimokkha không hợp pháp và mười sự đình chỉ hợp pháp, như vậy có năm mươi lăm sự không hợp pháp và năm mươi lăm sự hợp pháp.
Tā diṭṭhena codentassa dasuttarasataṃ, sutena codentassa dasuttarasataṃ, parisaṅkāya codentassa dasuttarasatanti tiṃsādhikāni tīṇi satāni honti.
These are one hundred and ten for one who accuses by sight, one hundred and ten for one who accuses by hearing, and one hundred and ten for one who accuses by suspicion, making a total of three hundred and thirty.
Đối với người khiển trách bằng mắt thấy, có một trăm mười sự; đối với người khiển trách bằng tai nghe, có một trăm mười sự; đối với người khiển trách bằng sự nghi ngờ, có một trăm mười sự; như vậy tổng cộng là ba trăm ba mươi sự.
Tāni kāyena codentassa, vācāya codentassa, kāyavācāya codentassāti tiguṇāni katāni navutādhikāni nava satāni honti.
These, when multiplied by three for one who accuses by body, one who accuses by speech, and one who accuses by body and speech, become nine hundred and ninety.
Khi nhân ba số đó lên theo việc khiển trách bằng thân, bằng lời, hoặc bằng cả thân và lời, thì sẽ có chín trăm chín mươi sự.
Tāni attanā codentassapi parena codāpentassapi tattakānevāti vīsatiūnāni dve sahassāni honti.
These are also the same number whether one accuses oneself or causes another to accuse, thus making one thousand nine hundred and eighty.
Khi tự mình khiển trách hoặc để người khác khiển trách, số lượng cũng tương tự, tổng cộng là một ngàn chín trăm tám mươi sự.
Puna diṭṭhādibhede samūlikāmūlikavasena anekasahassā codanā hontīti veditabbā.
Moreover, it should be understood that there are many thousands of accusations based on categories such as seen, etc., and whether they are with or without a basis.
Hơn nữa, cần phải hiểu rằng có hàng ngàn sự khiển trách khác nhau dựa trên các loại như thấy, v.v., và dựa trên việc có căn cứ hay không có căn cứ.
231. Vuttappabhedāsu pana imāsu codanāsu yāya kāyaci codanāya vasena saṅghamajjhe osaṭe vatthusmiṃ cuditakacodakā vattabbā ‘‘tumhe amhākaṃ vinicchayena tuṭṭhā bhavissathā’’ti.
231. However, among these various types of accusations, when a matter is brought into the Saṅgha through any accusation, the accused and the accuser should be asked, ‘‘Will you be satisfied with our decision?’’
231. Tuy nhiên, trong số các loại khiển trách đã nêu, khi một sự việc được đưa ra giữa Tăng đoàn theo bất kỳ loại khiển trách nào, thì người bị khiển trách và người khiển trách phải được hỏi: “Các ông có hài lòng với phán quyết của chúng tôi không?”
Sace ‘‘bhavissāmā’’ti vadanti, saṅghena taṃ adhikaraṇaṃ sampaṭicchitabbaṃ.
If they say, ‘‘We will be satisfied,’’ the Saṅgha should accept that legal issue.
Nếu họ nói: “Chúng tôi sẽ hài lòng,” thì Tăng đoàn phải chấp nhận vụ việc đó.
Atha pana ‘‘vinicchinatha tāva, bhante, sace amhākaṃ khamissati, gaṇhissāmā’’ti vadanti, ‘‘cetiyaṃ tāva vandathā’’tiādīni vatvā dīghasuttaṃ katvā vissajjitabbaṃ.
But if they say, ‘‘Venerables, please make a decision first; if it is agreeable to us, we will accept it,’’ then after saying things like ‘‘First pay homage to the cetiya,’’ the matter should be dismissed by prolonging the discussion.
Nếu họ nói: “Thưa Tôn giả, xin hãy phán quyết trước, nếu chúng tôi chấp nhận được thì chúng tôi sẽ nhận,” thì nên nói: “Trước hết hãy đảnh lễ tháp,” v.v., rồi kéo dài thời gian và giải tán.
Te ce cirarattaṃ kilantā pakkantaparisā upacchinnapakkhā hutvā puna yācanti, yāvatatiyaṃ paṭikkhipitvā yadā nimmadā honti, tadā nesaṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ.
If they, having become exhausted after a long time, or with the assembly dispersed, or with their faction broken, request again, the legal issue should be decided for them after rejecting their request up to three times, when they have become subdued.
Nếu họ, sau một thời gian dài mệt mỏi, với hội chúng đã rời đi và phe phái bị chia cắt, lại cầu xin, thì sau khi từ chối đến lần thứ ba và khi họ đã không còn kiêu ngạo, thì vụ việc của họ nên được phán quyết.
Vinicchinantehi ca sace alajjussannā hoti parisā, ubbāhikāya taṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ.
And if the assembly is numerous with shameless ones, that legal question should be settled by a vote (ubbāhikā).
Và khi những vị xét xử, nếu hội chúng có nhiều người vô liêm sỉ (alajjī), thì việc tranh chấp đó phải được xét xử bằng cách bỏ phiếu (ubbāhikā).
Sace bālussannā hoti parisā, ‘‘tumhākaṃ sabhāge vinayadhare pariyesathā’’ti vinayadhare pariyesāpetvā yena dhammena yena vinayena yena satthusāsanena taṃ adhikaraṇaṃ vūpasammati, tathā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ.
If the assembly is numerous with fools, one should have Vinaya-experts sought out, saying, “Seek out Vinaya-experts who are of your own kind.” Then, that legal question should be settled in the way it is settled by the Dhamma, by the Vinaya, by the Teacher’s Dispensation.
Nếu hội chúng có nhiều người ngu si (bāla), thì sau khi nói: “Các ông hãy tìm những bậc trì luật (vinayadhara) cùng đẳng cấp với mình,” và cho tìm các bậc trì luật, thì việc tranh chấp đó phải được giải quyết bằng Pháp (Dhamma), bằng Luật (Vinaya), bằng Giáo huấn của Đức Bổn Sư (Satthusāsana) nào mà việc tranh chấp đó được lắng dịu.
Tattha ca dhammoti bhūtaṃ vatthu.
Here, Dhamma refers to the factual matter.
Ở đây, Pháp (Dhamma) là sự việc có thật.
Vinayoti codanā ceva sāraṇā ca.
Vinaya refers to both admonition (codanā) and reminding (sāraṇā).
Luật (Vinaya) là cả sự khiển trách (codanā) và sự nhắc nhở (sāraṇā).
Satthusāsananti ñattisampadā ca anussāvanasampadā ca.
Teacher’s Dispensation refers to both the perfection of the motion (ñattisampadā) and the perfection of the announcement (anussāvanasampadā).
Giáo huấn của Đức Bổn Sư (Satthusāsana) là sự viên mãn của yết-ma (ñattisampadā) và sự viên mãn của ba lần tuyên bố (anussāvanasampadā).
Tasmā codakena vatthusmiṃ ārocite cuditako pucchitabbo ‘‘santametaṃ, no’’ti.
Therefore, when the accuser has reported the matter, the accused should be asked, “Is this true, or not?”
Do đó, khi người tố cáo trình bày sự việc, người bị tố cáo phải được hỏi: “Điều này có thật không, hay không?”
Evaṃ vatthuṃ upaparikkhitvā bhūtena vatthunā codetvā sāretvā ñattisampadāya ca anussāvanasampadāya ca taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ.
Having thus examined the matter, and having admonished and reminded with the factual matter, and with the perfection of the motion and the perfection of the announcement, that legal question should be settled.
Sau khi điều tra sự việc như vậy, và sau khi khiển trách và nhắc nhở bằng sự việc có thật, và bằng sự viên mãn của yết-ma và sự viên mãn của ba lần tuyên bố, việc tranh chấp đó phải được giải quyết.
Tatra ce alajjī lajjiṃ codeti, so ca alajjī bālo hoti abyatto, nāssa nayo dātabbo, evaṃ pana vattabbo ‘‘kimhi naṃ codesī’’ti.
If, in that situation, a shameless one (alajjī) accuses a conscientious one (lajjī), and that shameless one is foolish and unskilled, no guidance should be given to him. He should simply be told, “Of what do you accuse him?”
Và nếu ở đó, một người vô liêm sỉ (alajjī) tố cáo một người có liêm sỉ (lajjī), và người vô liêm sỉ đó là người ngu si (bāla), không có kinh nghiệm (abyatta), thì không nên chỉ dẫn cho người đó, mà chỉ nên nói như thế này: “Ông tố cáo người đó về điều gì?”
Addhā so vakkhati ‘‘kimidaṃ, bhante, kimhi naṃ nāmā’’ti.
Certainly, he will say, “Venerable Sir, what is this ‘of what’?”
Chắc chắn người đó sẽ nói: “Bạch Đại đức, ‘về điều gì’ này là gì?”
‘‘Tvaṃ kimhi nampi na jānāsi, na yuttaṃ tayā evarūpena bālena paraṃ codetu’’nti uyyojetabbo, nāssa anuyogo dātabbo.
He should be dismissed with the words, “You do not even know ‘of what’; it is not proper for a fool like you to accuse another.” No further inquiry should be given to him.
Người đó phải bị đuổi đi, nói rằng: “Ông không biết ngay cả ‘về điều gì’ ư? Một người ngu si như ông không thích hợp để tố cáo người khác,” và không nên cho phép người đó chất vấn.
Sace pana so alajjī paṇḍito hoti byatto, diṭṭhena vā sutena vā ajjhottharitvā sampādetuṃ sakkoti, etassa anuyogaṃ datvā lajjisseva paṭiññāya kammaṃ kātabbaṃ.
But if that shameless one is wise and skilled, and is able to overpower and demonstrate by what he has seen or heard, then, having given him an inquiry, the action should be performed according to the admission of the conscientious one.
Tuy nhiên, nếu người vô liêm sỉ đó là người thông thái (paṇḍita), có kinh nghiệm (byatta), có thể chứng minh bằng những gì đã thấy hoặc đã nghe, thì sau khi cho phép người đó chất vấn, việc xét xử phải được thực hiện theo sự thú nhận của chính người có liêm sỉ.
Sace lajjī alajjiṃ codeti, so ca lajjī bālo hoti abyatto, na sakkoti anuyogaṃ dātuṃ, tassa nayo dātabbo ‘‘kimhi naṃ codesi sīlavipattiyā vā ācāravipattiādīsu vā ekissā’’ti.
If a conscientious one accuses a shameless one, and that conscientious one is foolish and unskilled, and unable to give an inquiry, guidance should be given to him: “Of what do you accuse him? Of an offense against morality (sīlavipatti), or one of the offenses against conduct (ācāravipatti), and so on?”
Nếu người có liêm sỉ (lajjī) tố cáo một người vô liêm sỉ (alajjī), và người có liêm sỉ đó là người ngu si (bāla), không có kinh nghiệm (abyatta), không thể chất vấn, thì phải chỉ dẫn cho người đó: “Ông tố cáo người đó về điều gì? Về sự sa đọa giới hạnh (sīlavipatti) hay một trong các sự sa đọa về oai nghi (ācāravipatti) v.v.?”
Kasmā pana imasseva evaṃ nayo dātabbo, na itarassāti, nanu na yuttaṃ vinayadharānaṃ agatigamananti?
Why should guidance be given only to him in this way, and not to the other? Is it not improper for Vinaya-experts to act with partiality?
Tại sao chỉ nên chỉ dẫn cho người này như vậy, mà không phải cho người kia? Chẳng phải là không thích hợp cho các bậc trì luật (vinayadhara) hành xử thiên vị sao?
Na yuttameva.
It is indeed improper.
Thật sự là không thích hợp.
Idaṃ pana agatigamanaṃ na hoti, dhammānuggaho nāma eso.
But this is not partiality; this is called support for the Dhamma.
Tuy nhiên, điều này không phải là hành xử thiên vị; đây được gọi là sự ủng hộ Pháp (Dhamma).
Alajjiniggahatthāya hi lajjipaggahatthāya ca sikkhāpadaṃ paññattaṃ.
For the training rule was laid down for the suppression of the shameless and for the exaltation of the conscientious.
Giới luật đã được ban hành để trừng phạt người vô liêm sỉ (alajjī) và để nâng đỡ người có liêm sỉ (lajjī).
Tatra alajjī nayaṃ labhitvā ajjhottharanto ehiti, lajjī pana nayaṃ labhitvā diṭṭhe diṭṭhasantānena sute sutasantānena patiṭṭhāya kathessati, tasmā tassa dhammānuggaho vaṭṭati.
In that case, the shameless one, having received guidance, will come to overpower (the conscientious one). However, the conscientious one, having received guidance, will stand firm and speak of what was seen as seen, and what was heard as heard. Therefore, support for the Dhamma is appropriate for him.
Ở đó, người vô liêm sỉ (alajjī) sau khi nhận được sự chỉ dẫn sẽ đến và áp đảo; còn người có liêm sỉ (lajjī) sau khi nhận được sự chỉ dẫn sẽ nói ra sự thật dựa trên những gì đã thấy bằng chuỗi sự kiện đã thấy, và những gì đã nghe bằng chuỗi sự kiện đã nghe. Do đó, sự ủng hộ Pháp (Dhamma) là thích hợp cho người đó.
Sace pana so lajjī paṇḍito hoti byatto, patiṭṭhāya katheti, alajjī ca ‘‘etampi natthi, etampi natthī’’ti paṭiññaṃ na deti, alajjissa paṭiññāya eva kātabbaṃ.
But if that conscientious one is wise and skilled, and speaks, standing firm, and the shameless one gives no admission, saying, “This is not so, this is not so,” then the action should be performed according to the admission of the shameless one.
Tuy nhiên, nếu người có liêm sỉ (lajjī) đó là người thông thái (paṇḍita), có kinh nghiệm (byatta), và trình bày sự thật một cách vững chắc, còn người vô liêm sỉ (alajjī) không thú nhận, nói rằng: “Điều này cũng không có, điều kia cũng không có,” thì việc xét xử phải được thực hiện theo sự thú nhận của chính người vô liêm sỉ.
Tadatthadīpanatthañca idaṃ vatthu veditabbaṃ – tipiṭakacūḷābhayatthero kira lohapāsādassa heṭṭhā bhikkhūnaṃ vinayaṃ kathetvā sāyanhasamaye vuṭṭhāti, tassa vuṭṭhānasamaye dve attapaccatthikā kathaṃ pavattesuṃ.
And for the purpose of clarifying this matter, the following story should be known: It is said that the Elder Tipiṭakacūḷābhayatthera, after teaching the Vinaya to bhikkhus below the Lohapāsāda, rose up in the evening. At the time of his rising, two opposing parties started a discussion.
Và để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, câu chuyện này cần được biết: Nghe nói, Đại Trưởng lão Cūḷābhaya, vị thông thạo Tam tạng, sau khi giảng Luật cho các Tỳ-khưu dưới Loha Pāsāda (Lâu đài Đồng) vào buổi chiều, đã đứng dậy. Vào lúc Ngài đứng dậy, hai vị Tỳ-khưu đối địch đã bắt đầu tranh cãi.
Eko ‘‘etampi natthi, etampi natthī’’ti paṭiññaṃ na deti, atha appāvasese paṭhamayāme therassa tasmiṃ puggale ‘‘ayaṃ patiṭṭhāya katheti, ayaṃ pana paṭiññaṃ na deti, bahūni ca vatthūni osaṭāni, addhā etaṃ kataṃ bhavissatī’’ti asuddhaladdhi uppannā.
One of them gave no admission, saying, “This is not so, this is not so.” Then, when the first watch of the night was almost over, an impure notion arose in the mind of the Elder regarding that person: “This one speaks, standing firm, but this one gives no admission, and many matters have been brought forward. This (offense) must have been committed.”
Một vị không thú nhận, nói: “Điều này cũng không có, điều kia cũng không có.” Rồi vào cuối canh đầu, một quan điểm không trong sạch đã nảy sinh trong tâm của Trưởng lão đối với người đó: “Người này nói một cách vững chắc, nhưng người kia không thú nhận, và nhiều sự việc đã được đưa ra. Chắc chắn điều này đã được thực hiện.”
Tato bījanīdaṇḍakena pādakathalikāya saññaṃ datvā ‘‘ahaṃ, āvuso, vinicchinituṃ ananucchaviko, aññena vinicchināpehī’’ti āha.
Thereupon, giving a signal with a fan handle at the base of the foot, he said, “Friends, I am unfit to settle this; have someone else settle it.”
Sau đó, Ngài dùng cán quạt ra hiệu vào bàn chân và nói: “Này các hiền giả, tôi không thích hợp để xét xử. Hãy để người khác xét xử.”
‘‘Kasmā, bhante’’ti?
“Why, Venerable Sir?”
“Bạch Đại đức, tại sao?”
Thero tamatthaṃ ārocesi.
The Elder reported the reason.
Trưởng lão đã trình bày lý do đó.
Cuditakapuggalassa kāye ḍāho uṭṭhito, tato so theraṃ vanditvā ‘‘bhante, vinicchinituṃ anurūpena vinayadharena nāma tumhādiseneva bhavituṃ vaṭṭati, codakena ca īdiseneva bhavituṃ vaṭṭatī’’ti vatvā setakāni nivāsetvā ‘‘ciraṃ kilamitāttha mayā’’ti khamāpetvā pakkāmi.
A burning sensation arose in the body of the accused person. Then he bowed to the Elder and, saying, “Venerable Sir, a Vinaya-expert fit to settle such matters should indeed be like your venerable self, and an accuser should also be like this bhikkhu,” he put on white clothes, and saying, “I have troubled you for a long time,” he sought forgiveness and departed.
Một cảm giác nóng rát đã nổi lên trong thân của người bị tố cáo. Rồi người đó đảnh lễ Trưởng lão và nói: “Bạch Đại đức, một vị trì luật thích hợp để xét xử phải là một người như Ngài. Và một người tố cáo cũng phải là một người như vị Tỳ-khưu này.” Sau khi nói vậy, người đó mặc y trắng và nói: “Tôi đã làm Ngài mệt mỏi lâu rồi,” rồi xin Ngài tha thứ và rời đi.
Evaṃ lajjinā codiyamāno alajjī bahūsupi vatthūsu uppannesu paṭiññaṃ na deti, so neva ‘‘suddho’’ti vattabbo, na ‘‘asuddho’’ti, jīvamatako nāma āmakapūtiko nāma cesa.
Thus, when a shameless one, being accused by a conscientious one, gives no admission even when many matters arise, he should not be declared “pure” nor “impure.” Such a one is called a living dead man or an unripe rotten one.
Như vậy, một người vô liêm sỉ (alajjī) bị người có liêm sỉ (lajjī) tố cáo, dù nhiều sự việc đã xảy ra, nhưng không thú nhận, thì người đó không nên được gọi là “thanh tịnh” cũng không nên được gọi là “không thanh tịnh”; người đó được gọi là “người chết sống” hay “người thối rữa còn tươi”.
Sace panassa aññampi tādisaṃ vatthu uppajjati, na vinicchinitabbaṃ, tathā nāsitako bhavissati.
If another such matter arises for him, it should not be settled; he will thus be undone.
Tuy nhiên, nếu một sự việc tương tự khác xảy ra với người đó, thì không nên xét xử, và người đó sẽ bị coi là đã bị hủy hoại như vậy.
Sace pana alajjīyeva alajjiṃ codeti, so vattabbo ‘‘āvuso, tava vacanenāyaṃ kiṃ sakkā vattu’’nti.
But if a shameless one accuses another shameless one, the accused should be told, “Friend, by your word, what can be said of this one?”
Tuy nhiên, nếu chính người vô liêm sỉ (alajjī) tố cáo một người vô liêm sỉ (alajjī) khác, thì người đó phải được nói: “Này hiền giả, dựa vào lời nói của ông, người này có thể nói gì?”
Itarampi tatheva vatvā ‘‘ubhopi ekasambhogaparibhogā hutvā jīvathā’’ti uyyojetabbā.
The other, too, having been told the same, both should be dismissed with the words, “Live having equal use and enjoyment.”
Người kia cũng phải được nói tương tự, rồi cả hai phải được đuổi đi, nói: “Cả hai ông hãy sống chung hưởng thụ và sử dụng.”
Sīlatthāya nesaṃ vinicchayo na kātabbo, pattacīvarapariveṇādiatthāya pana patirūpaṃ sakkhiṃ labhitvā kātabboti.
No settlement should be made for them concerning morality (sīla). However, for matters concerning bowls, robes, monasteries, and so on, it should be made after finding a suitable witness.
Không nên xét xử họ vì lợi ích của giới hạnh (sīla), nhưng vì lợi ích của bát, y, tu viện, v.v., thì phải tìm một nhân chứng thích hợp rồi xét xử.
Atha lajjī lajjiṃ codeti, vivādo ca nesaṃ kismiñcideva appamattako hoti, saññāpetvā ‘‘mā evaṃ karothā’’ti accayaṃ desāpetvā uyyojetabbā.
Now, if a conscientious one accuses another conscientious one, and their dispute is a trivial one, they should be made to understand, told, “Do not act in this way,” made to confess their transgression, and then dismissed.
Nếu một người có liêm sỉ (lajjī) tố cáo một người có liêm sỉ (lajjī) khác, và sự tranh cãi của họ chỉ là nhỏ nhặt, thì sau khi khuyên nhủ: “Đừng làm như vậy,” và bảo họ thú tội, thì họ phải được đuổi đi.
Atha panettha cuditakena sahasā viraddhaṃ hoti, ādito paṭṭhāya alajjī nāma natthi.
But if the accused here has quickly erred, from the very beginning he is not a shameless one.
Tuy nhiên, nếu ở đây người bị tố cáo đã phạm lỗi một cách vội vàng, thì ngay từ đầu không có người vô liêm sỉ (alajjī) nào cả.
So ca pakkhānurakkhaṇatthāya paṭiññaṃ na deti, ‘‘mayaṃ saddahāma, mayaṃ saddahāmā’’ti bahū uṭṭhahanti, so tesaṃ paṭiññāya ekavāraṃ dvevāraṃ suddho hotu, atha pana viraddhakālato paṭṭhāya ṭhāne na tiṭṭhati, vinicchayo na dātabbo.
And if he gives no admission to protect his faction, and many rise up saying, “We believe, we believe,” he may be pure once or twice by their admission, but thereafter, from the time of the error, if he does not remain in his position (as a conscientious one), no settlement should be given.
Và người đó không thú nhận để bảo vệ phe cánh của mình, nhiều người đứng lên nói: “Chúng tôi tin, chúng tôi tin.” Người đó có thể được coi là thanh tịnh một hoặc hai lần theo lời thú nhận của những người đó, nhưng nếu sau đó người đó không giữ vững vị trí của mình kể từ khi phạm lỗi, thì không nên xét xử.
Tattha vatthunti bhaṇḍaṃ.
Here, object refers to the stolen item.
Ở đây, vật (vatthu) là món đồ.
Avahārakena hi ‘‘mayā idaṃ nāma avahaṭa’’nti vuttepi āpattiṃ anāropetvāva taṃ bhaṇḍaṃ ‘‘sasāmikaṃ vā asāmikaṃ vā’’ti upaparikkhitabbaṃ.
Even when the thief says, “I stole this item,” no offense should be immediately imputed. Instead, that item should be examined to see if it is “owned or unowned.”
Ngay cả khi người trộm cắp nói: “Tôi đã trộm món đồ này,” thì không nên vội vàng buộc tội, mà phải điều tra món đồ đó là “có chủ hay không có chủ”.
Sasāmikepi sāmikānaṃ sālayabhāvo vā nirālayabhāvo vā upaparikkhitabbo.
Even if it is owned, the owners’ attachment or detachment should be examined.
Ngay cả khi có chủ, thì phải điều tra xem chủ nhân có sự gắn bó hay không có sự gắn bó với món đồ đó.
Sace tesaṃ sālayakāle avahaṭaṃ, bhaṇḍaṃ agghāpetvā āpatti kātabbā.
If it was stolen at a time when they were attached, the item should be valued and an offense imputed.
Nếu món đồ bị trộm vào lúc chủ nhân có sự gắn bó, thì phải định giá món đồ và buộc tội.
Sace nirālayakāle, pārājikena na kātabbā.
If it was stolen at a time when they were detached, a Pārājika offense should not be imputed.
Nếu vào lúc không có sự gắn bó, thì không nên buộc tội Pārājika.
Bhaṇḍasāmikesu pana bhaṇḍaṃ āharāpentesu bhaṇḍaṃ dātabbaṃ.
However, if the owners of the item demand the item, it should be given to them.
Tuy nhiên, khi chủ nhân của món đồ yêu cầu trả lại món đồ, thì món đồ phải được trả lại.
Ayamettha sāmīci.
This is the proper procedure here.
Đây là lẽ phải trong trường hợp này.
Imassa panatthassa dīpanatthamidaṃ vatthu – bhātiyarājakāle kira mahācetiyapūjāya dakkhiṇadisato eko bhikkhu sattahatthaṃ paṇḍukāsāvaṃ aṃse karitvā cetiyaṅgaṇaṃ pāvisi.
And to illustrate this matter, the following story should be known: During the time of King Bhātiya, a bhikkhu from the south, carrying a yellowish-brown robe seven cubits long on his shoulder, entered the cetiya compound for the great cetiya offering.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, câu chuyện sau đây cần được biết: Vào thời vua Bhātiya, một vị Tỳ-khưu từ phía nam, mang một tấm y màu vàng nhạt dài bảy cánh tay trên vai, đã bước vào sân đại tháp để cúng dường đại tháp.
Taṅkhaṇameva ca rājāpi cetiyavandanatthaṃ āgato.
At that very moment, the king also arrived to venerate the cetiya.
Ngay lúc đó, nhà vua cũng đến để đảnh lễ tháp.
Tato ussāraṇāya vattamānāya mahājanasammaddo ahosi.
Then, as the crowd was being dispersed, there was a great multitude of people.
Vì vậy, khi lễ hội đang diễn ra, có một đám đông lớn.
Atha so bhikkhu janasammaddapīḷito aṃsato patantaṃ kāsāvaṃ adisvāva nikkhanto, nikkhamitvā kāsāvaṃ apassanto ‘‘ko īdise janasammadde kāsāvaṃ lacchati, na dāni taṃ mayha’’nti dhuranikkhepaṃ katvā gato.
That bhikkhu, crushed by the crowd, departed without seeing his robe fall from his shoulder. Having departed and not seeing his robe, he resolved, “Who will find a robe in such a crowd? It is no longer mine,” and he went away.
Rồi vị Tỳ-khưu đó, bị đám đông chen lấn, đã đi ra mà không nhìn thấy tấm y rơi khỏi vai mình. Sau khi đi ra và không thấy tấm y, Ngài nghĩ: “Ai có thể lấy được tấm y trong một đám đông như vậy? Giờ thì nó không còn là của tôi nữa,” rồi Ngài từ bỏ ý định tìm kiếm và rời đi.
Athañño bhikkhu pacchā āgacchanto taṃ kāsāvaṃ disvā theyyacittena gahetvā puna vippaṭisārī hutvā ‘‘assamaṇo dānimhi, vibbhamissāmī’’ti citte uppanne ‘‘vinayadhare pucchitvā ñassāmī’’ti cintesi.
Then another bhikkhu, arriving later, saw that robe, took it with a thieving intention, and later, feeling remorse, thought, “Now I am no longer a recluse, I shall fall away.” When this thought arose, he considered, “I will ask those who are learned in the Vinaya and find out.”
Sau đó, một tỳ khưu khác đến sau, thấy tấm y đó, với ý nghĩ trộm cắp, đã lấy nó. Sau đó, vị ấy hối hận, nghĩ rằng: “Bây giờ ta không còn là Sa-môn nữa, ta sẽ thoái hóa!” Khi ý nghĩ đó khởi lên, vị ấy suy nghĩ: “Ta sẽ hỏi các vị trì luật để biết.”
Tena samayena cūḷasumanatthero nāma sabbapariyattidharo vinayācariyapāmokkho mahāvihāre paṭivasati.
At that time, a thera named Cūḷasumana, who mastered the entire canon and was pre-eminent among Vinaya teachers, resided in the Mahāvihāra.
Vào thời đó, trưởng lão Cūḷasumanatthera, bậc thông suốt tất cả kinh điển, vị đứng đầu các vị thầy Vinaya, đang trú tại Đại Tự viện.
So bhikkhu theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā okāsaṃ kāretvā attano kukkuccaṃ pucchi.
That bhikkhu approached the thera, paid homage, sought permission, and asked about his misdeed.
Vị tỳ khưu ấy đến gần vị Trưởng lão, đảnh lễ, xin phép rồi hỏi về sự hối hận của mình.
Thero tena bhaṭṭhe janakāye pacchā āgantvā gahitabhāvaṃ ñatvā ‘‘atthi dāni ettha okāso’’ti cintetvā āha ‘‘sace kāsāvasāmikaṃ bhikkhuṃ āneyyāsi, sakkā bhaveyya tava patiṭṭhā kātu’’nti.
The thera, knowing that the robe had been taken by that bhikkhu after the crowd had dispersed, thought, “There is now an opportunity here,” and said, “If you can bring the bhikkhu who owns the robe, it might be possible to re-establish your standing.”
Vị Trưởng lão biết rằng vị tỳ khưu kia đã đến sau khi đám đông tan rã và nhặt được tấm y, bèn nghĩ: “Bây giờ có cơ hội rồi,” rồi nói: “Nếu con có thể đưa vị tỳ khưu chủ nhân của tấm y đến đây, thì có thể thiết lập lại sự vững chắc cho con.”
Kathāhaṃ, bhante, taṃ dakkhissāmīti.
“How, Venerable Sir, shall I see him?”
“Bạch Ngài, làm sao con có thể gặp được vị ấy?”
Tahiṃ tahiṃ gantvā olokehīti.
“Go to various places and look for him,” he said.
“Hãy đi khắp nơi mà tìm kiếm!”
So pañcapi mahāvihāre oloketvā neva addakkhi.
He searched all five great monasteries but did not see him.
Vị ấy đã tìm kiếm khắp năm Đại Tự viện nhưng không thấy.
Tato naṃ thero pucchi ‘‘katarāya disāya bahū bhikkhū āgacchantī’’ti?
Thereupon, the thera asked him, “From which direction do many bhikkhus come?”
Sau đó, vị Trưởng lão hỏi vị ấy: “Có nhiều tỳ khưu từ hướng nào đến?”
‘‘Dakkhiṇadisāya, bhante’’ti.
“From the southern direction, Venerable Sir,” he replied.
“Bạch Ngài, từ hướng Nam.”
Tena hi kāsāvaṃ dīghato ca tiriyañca minitvā ṭhapehi, ṭhapetvā dakkhiṇadisāya vihārapaṭipāṭiyā vicinitvā taṃ bhikkhuṃ ānehīti.
“Then measure that robe lengthwise and breadthwise, put it aside, and search for that bhikkhu in the sequence of monasteries in the southern direction, and bring him here,” he said.
“Vậy thì hãy đo chiều dài và chiều rộng của tấm y rồi đặt nó xuống, sau đó đi tìm vị tỳ khưu ấy theo thứ tự các tự viện từ hướng Nam và đưa vị ấy đến đây.”
So tathā katvā taṃ bhikkhuṃ disvā therassa santikaṃ ānesi.
He did so, found that bhikkhu, and brought him to the thera.
Vị ấy làm theo lời, thấy vị tỳ khưu kia và đưa đến chỗ vị Trưởng lão.
Thero pucchi ‘‘tavedaṃ kāsāva’’nti?
The thera asked, “Is this robe yours?”
Vị Trưởng lão hỏi: “Tấm y này là của Ngài phải không?”
‘‘Āma, bhante’’ti.
“Yes, Venerable Sir,” he replied.
“Vâng, bạch Ngài.”
Kuhiṃ te pātitanti?
“Where did you drop it?”
“Nó đã rơi ở đâu?”
So sabbaṃ ācikkhi.
He explained everything.
Vị ấy kể lại tất cả.
Thero tena kataṃ dhuranikkhepaṃ sutvā itaraṃ pucchi ‘‘tayā idaṃ kuhiṃ disvā gahita’’nti?
The thera, having heard about his relinquishment of responsibility, asked the other bhikkhu, “Where did you see and take this?”
Vị Trưởng lão nghe vị ấy từ bỏ trách nhiệm (không còn tìm y nữa), bèn hỏi vị tỳ khưu kia (người nhặt y): “Ngài đã thấy và nhặt tấm y này ở đâu?”
Sopi sabbaṃ ārocesi.
He also reported everything.
Vị ấy cũng kể lại tất cả.
Tato taṃ thero āha ‘‘sace te suddhacittena gahitaṃ abhavissa, anāpattiyeva te assa, theyyacittena pana gahitattā dukkaṭaṃ āpannosi, taṃ desetvā anāpattiko hoti, idañca kāsāvaṃ attano santakaṃ katvā etasseva bhikkhuno dehī’’ti.
Then the thera said to him, “If you had taken it with a pure mind, there would have been no offense for you. But since you took it with a thieving intention, you have incurred a dukkaṭa offense. Confess that, and you will be free from offense. And make this robe your own property and give it to that very bhikkhu.”
Sau đó, vị Trưởng lão nói với vị tỳ khưu (nhặt y) ấy: “Nếu con nhặt nó với tâm trong sạch thì con sẽ không phạm tội, nhưng vì con đã nhặt nó với tâm trộm cắp nên con đã phạm tội dukkaṭa. Con hãy sám hối tội ấy thì sẽ không còn phạm tội nữa. Còn tấm y này, con hãy xem nó là của mình rồi trao lại cho chính vị tỳ khưu này.”
So bhikkhu amateneva abhisitto varamassāsappatto ahosi.
That bhikkhu felt as if he had been sprinkled with nectar and attained supreme reassurance.
Vị tỳ khưu ấy (người nhặt y) như được rưới nước cam lồ, đạt được sự an ủi lớn lao.
Evaṃ vatthu oloketabbaṃ.
Thus, the item must be considered.
Sự việc cần được xem xét như vậy.
Imassapi ca atthassa dīpanatthamidaṃ vatthu – antarasamudde kira eko bhikkhu susaṇṭhānaṃ nāḷikeraṃ labhitvā bhamaṃ āropetvā saṅkhathālakasadisaṃ manoramaṃ pānīyathālakaṃ katvā tattheva ṭhapetvā cetiyagiriṃ agamāsi.
To elucidate this point further, there is this story: Once, a bhikkhu in the midst of the ocean obtained a well-formed coconut, placed it on a potter’s wheel, and made a beautiful drinking cup resembling a conch shell, which he left there before going to Cetiyagiri.
Để giải thích ý nghĩa này, có một câu chuyện như sau: Có một tỳ khưu ở giữa biển, nhặt được một trái dừa có hình dáng đẹp, đặt lên bàn xoay, làm thành một cái chén uống nước xinh xắn như chén vỏ ốc, rồi để ở đó và đi đến Cetiyagiri. Một tỳ khưu khác đến giữa biển, trú tại tịnh xá đó, thấy cái chén liền với ý nghĩ trộm cắp, lấy nó và đến Cetiyagiri.
Añño bhikkhu antarasamuddaṃ gantvā tasmiṃ vihāre paṭivasanto taṃ thālakaṃ disvā theyyacittena gahetvā cetiyagirimeva āgato.
Another bhikkhu went to the midst of the ocean, resided in that monastery, saw the cup, took it with a thieving intention, and came to Cetiyagiri.
Khi vị tỳ khưu ấy đang uống cháo ở đó, vị tỳ khưu chủ nhân của cái chén thấy nó liền hỏi: “Ngài có được cái này từ đâu?”
Tassa tattha yāguṃ pivantassa taṃ thālakaṃ disvā thālakasāmiko bhikkhu āha ‘‘kuto te idaṃ laddha’’nti.
While he was drinking gruel there, the owner of the cup saw it and asked, “Where did you get this?”
“Tôi mang từ giữa biển về.”
Antarasamuddato me ānītanti.
“I brought it from the midst of the ocean,” he replied.
Vị ấy (chủ nhân cái chén) nói: “Cái này không phải của Ngài, Ngài đã lấy trộm nó,” rồi kéo vị tỳ khưu kia đến giữa Tăng đoàn.
So taṃ ‘‘netaṃ tava santakaṃ, theyyāya te gahita’’nti saṅghamajjhaṃ ākaḍḍhi.
The cup-owner then dragged that bhikkhu to the midst of the Saṅgha, saying, “This cup is not yours; you took it by theft.”
Ở đó, không thể phân xử được, họ bèn đến Đại Tự viện, ở đó họ cho đánh trống tập hợp Tăng chúng gần Đại Tháp, rồi bắt đầu phân xử.
Tattha ca vinicchayaṃ alabhitvā mahāvihāraṃ agamiṃsu, tattha ca bheriṃ paharāpetvā mahācetiyasamīpe sannipātaṃ katvā vinicchayaṃ ārabhiṃsu.
As they could not reach a decision there, they went to the Mahāvihāra, where they had a drum beaten, convened an assembly near the Mahācetiya, and began the deliberation.
Các vị Trưởng lão trì luật đã xác định đó là hành vi trộm cắp.
Vinayadharattherā avahāraṃ saññāpesuṃ.
The Vinaya-holding theras declared it an act of theft.
Trong cuộc họp đó, có một vị Trưởng lão tên là Ābhidhammika Godattatthera, rất tinh thông Vinaya. Vị ấy nói: “Cái chén này đã bị vị tỳ khưu này trộm ở đâu?”
Tasmiñca sannipāte ābhidhammikagodattatthero nāma vinayakusalo hoti, so evamāha ‘‘iminā idaṃ thālakaṃ kuhiṃ avahaṭa’’nti?
In that assembly, a thera named Abhidhammika Godatta, skilled in Vinaya, said, “Where did this bhikkhu take this cup?”
“Đã bị trộm ở giữa biển.”
‘‘Antarasamudde avahaṭa’’nti.
“It was taken in the midst of the ocean.”
“Ở đó nó đáng giá bao nhiêu?”
Tattha taṃ kiṃ agghatīti.
“What is its value there?”
“Không đáng giá gì cả.”
Na kiñci agghati.
“It is worth nothing.”
“Ở đó, người ta đập dừa ăn cùi rồi vứt vỏ đi, nhưng nó có thể dùng làm củi.”
Tatra hi nāḷikeraṃ bhinditvā miñjaṃ khāditvā kapālaṃ chaḍḍeti, dāruatthaṃ pana pharatīti.
“There, people break open coconuts, eat the kernel, and discard the shell. But it serves as firewood.”
“Vậy thì công sức làm ra cái chén này của vị tỳ khưu ấy đáng giá bao nhiêu?”
Imassa bhikkhuno ettha hatthakammaṃ kiṃ agghatīti?
“What is the value of this bhikkhu’s craftsmanship here?”
“Một māsaka hoặc ít hơn một māsaka.”
Māsakaṃ vā ūnamāsakaṃ vāti.
“A māsaka or less than a māsaka.”
“Nhưng có chỗ nào Đức Chánh Đẳng Giác đã quy định tội pārājika đối với một māsaka hoặc ít hơn một māsaka không?”
Atthi pana katthaci sammāsambuddhena māsake vā ūnamāsake vā pārājikaṃ paññattanti.
“But has the Perfectly Enlightened One ever laid down a pārājika offense for a māsaka or less than a māsaka?”
Khi nói như vậy, có một tiếng vỗ tay đồng thanh: “Lành thay, lành thay, nói hay lắm, phân xử đúng lắm!”
Evaṃ vutte ‘‘sādhu sādhu, sukathitaṃ suvinicchita’’nti ekasādhukāro ahosi.
When this was said, there was a unanimous exclamation of “Excellent! Excellent! Well-spoken, well-judged!”
Vào thời đó, vua Bhātiya cũng rời thành phố để đảnh lễ tháp, nghe tiếng đó liền hỏi: “Chuyện gì vậy?” Sau khi nghe mọi chuyện theo thứ tự, nhà vua cho đánh trống khắp thành phố rằng: “Khi ta còn tại vị, mọi tranh chấp của các tỳ khưu, tỳ khưu ni và cư sĩ đều được Ābhidhammika Godattatthera phân xử đúng đắn. Ai không tuân theo phán quyết của vị ấy, ta sẽ xử theo lệnh vua.”
Tena ca samayena bhātiyarājāpi cetiyavandanatthaṃ nagarato nikkhanto taṃ saddaṃ sutvā ‘‘kiṃ ida’’nti pucchitvā sabbaṃ paṭipāṭiyā sutvā nagare bheriṃ carāpesi ‘‘mayi sante bhikkhūnampi bhikkhunīnampi gihīnampi adhikaraṇaṃ ābhidhammikagodattattherena vinicchitaṃ suvinicchitaṃ, tassa vinicchaye atiṭṭhamānaṃ rājāṇāya ṭhapemī’’ti.
At that time, King Bhātiya, who had also left the city to pay homage to the cetiya, heard that sound, asked, “What is this?” and having heard everything in detail, had a drum beaten in the city, proclaiming: “While I am present, any legal dispute concerning bhikkhus, bhikkhunīs, or laypeople, decided by the Abhidhammika Godatta Thera, is well-judged. Whoever does not abide by his judgment, I shall punish by royal decree.”
Địa điểm cần được xem xét như vậy.
Evaṃ deso oloketabbo.
Thus, the place must be considered.
Giá trị (Aggha) là giá trị của món đồ.
Paribhogoti bhaṇḍaparibhogo.
Use means the use of the object.
Do sự sử dụng, giá trị của các món đồ như dao rựa cũng giảm đi.
Paribhogenapi hi vāsiādibhaṇḍassa aggho parihāyati.
Even by use, the value of an object like an axe, etc., diminishes.
Do đó, cần phải xem xét kỹ lưỡng như sau: Nếu có ai đó trộm một cây dao rựa trị giá một pāda của người khác, thì phải hỏi chủ nhân của cây dao rựa đó: “Ngài đã mua cây dao rựa này với giá bao nhiêu?”
Tasmā evaṃ upaparikkhitabbaṃ – sace koci kassaci pādagghanakaṃ vāsiṃ harati, tatra vāsisāmiko pucchitabbo ‘‘tayā ayaṃ vāsi kittakena kītā’’ti?
Therefore, it must be examined thus: If someone steals an axe worth a quarter, the owner of the axe should be asked, “How much did you pay for this axe?”
“Bạch Ngài, một pāda.”
‘‘Pādena, bhante’’ti.
“A quarter, Venerable Sir,” he replies.
“Ngài đã mua rồi để đó, hay đã dùng nó?”
Kiṃ pana te kiṇitvāva ṭhapitā, udāhu naṃ vaḷañjesīti?
“But did you just buy it and keep it, or have you used it?”
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã dùng nó một ngày để chặt cành cây đánh răng, hoặc vỏ cây nhuộm y, hoặc củi để nấu bát, hoặc đã mài dũa nó,” thì phải biết rằng giá trị ban đầu của nó đã giảm.
Sace vadati ‘‘ekadivasaṃ me dantakaṭṭhaṃ vā rajanachalli vā pattapacanakadāru vā chinnaṃ, ghaṃsitvā vā nisitā’’ti, athassa porāṇako aggho bhaṭṭhoti veditabbo.
If he says, “I once cut a tooth-stick, or dye-bark, or firewood for cooking rice, or sharpened it,” then it should be understood that its original value has decreased.
Cũng như dao rựa, giá trị của hộp thuốc mắt, que thuốc mắt, chìa khóa, hoặc rơm, trấu, bột gạch cũng giảm đi chỉ sau một lần chà xát và rửa sạch.
Yathā ca vāsiyā, evaṃ añjaniyā vā añjanisalākāya vā kuñcikāya vā palālena vā thusehi vā iṭṭhakacuṇṇena vā ekavāraṃ ghaṃsitvā dhovitamattenapi aggho bhassati.
Just as with an axe, so too with an ointment box, an eye-salve stick, a key, or even by merely rubbing once with straw, husks, or brick powder and washing it, the value diminishes.
Giá trị của một miếng thiếc tròn cũng giảm đi chỉ sau một lần cắt bằng răng cá mập hoặc chỉ cần lau chùi. Giá trị của áo tắm cũng giảm đi chỉ sau một lần mặc hoặc choàng, hoặc chỉ cần đặt lên vai hoặc đầu do sự sử dụng. Giá trị của gạo và các loại hạt khác cũng giảm đi chỉ sau một lần sàng sảy hoặc chỉ cần lấy đi một hoặc hai hạt. Thậm chí, chỉ cần nhặt một viên sỏi nhỏ lên rồi vứt đi, giá trị cũng giảm. Giá trị của dầu bơ và các loại dầu khác cũng giảm đi chỉ sau một lần đổ từ bình này sang bình khác, hoặc chỉ cần nhặt một con ruồi hay một con kiến ra rồi vứt đi. Giá trị của một cục đường thốt nốt cũng giảm đi chỉ sau một lần dùng móng tay chọc vào và lấy một chút để biết vị ngọt.
Tipumaṇḍalassa makaradantacchedanenapi parimajjanamattenapi, udakasāṭakassa sakiṃ nivāsanapārupanenapi paribhogasīsena aṃse vā sīse vā ṭhapanamattenapi, taṇḍulādīnaṃ papphoṭanenapi tato ekaṃ vā dve vā apanayanenapi antamaso ekaṃ pāsāṇasakkharaṃ uddharitvā chaḍḍitamattenapi, sappitelādīnaṃ bhājanantarapaavattanenapi antamaso tato makkhikaṃ vā kipillikaṃ vā uddharitvā chaḍḍitamattenapi, guḷapiṇḍakassa madhurabhāvajānanatthaṃ nakhena vijjhitvā aṇumattaṃ gahitamattenapi aggho bhassati.
With a tin plate, even by merely cutting a design of a sea-monster’s tooth or by merely polishing it, the value diminishes. With a bathing cloth, even by merely wearing or wrapping it once, or by merely placing it on the shoulder or head as a form of use, the value diminishes. With rice, etc., even by merely blowing away dust or by removing one or two grains from it, or at least by merely picking up and discarding one small stone or pebble, the value diminishes. With ghee, oil, etc., even by merely transferring it to another container, or at least by merely picking out and discarding a fly or an ant from it, the value diminishes. With a lump of jaggery, even by merely piercing it with a fingernail to test its sweetness and taking a tiny bit, the value diminishes.
Do đó, bất cứ món đồ nào trị giá một pāda mà chủ nhân đã làm giảm giá trị bằng cách sử dụng theo cách đã nói, thì vị tỳ khưu trộm cắp món đồ đó không bị định tội pārājika.
Tasmā yaṃ kiñci pādagghanakaṃ vuttanayeneva sāmikehi paribhogena ūnaṃ kataṃ hoti, na taṃ avahaṭo bhikkhu pārājikena kātabboti.
Therefore, if any object worth a quarter has been diminished in value by its owners through use in the manner described, the bhikkhu who stole it should not be considered to have committed a pārājika offense.
Giá trị cần được xem xét như vậy.
Evaṃ aggho oloketabbo.
Thus, the value must be considered.
Giá trị phải được xem xét như vậy.
233. Uttarimanussadhammārocanaṃ vinicchinantena (pārā. aṭṭha. 2.197) pana ‘‘kiṃ te adhigataṃ.
However, when investigating a declaration of a superhuman state, these six points should be purified: “What have you attained? How have you attained it? When have you attained it? Where have you attained it? Which defilements have you abandoned? Of which phenomena are you a recipient?”
Còn khi phán xét lời tuyên bố về pháp thượng nhân, sáu điều sau đây phải được thanh lọc:
Kinti te adhigataṃ, kadā te adhigataṃ, kattha te adhigataṃ, katame te kilesā pahīnā, katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti imāni cha ṭhānāni visodhetabbāni.
For if any bhikkhu declares the attainment of a superhuman state, he should not be honored merely for that; but in order to purify these six points, he should be asked thus: “What have you attained? Is it jhāna, or one of the liberations and so forth?”
“Ông đã chứng đắc điều gì? Ông đã chứng đắc như thế nào? Ông đã chứng đắc khi nào? Ông đã chứng đắc ở đâu? Những phiền não nào của ông đã được đoạn trừ? Ông là người đạt được những pháp nào?”
Sace hi koci bhikkhu uttarimanussadhammādhigamaṃ byākareyya, na so ettāvatā sakkāro kātabbo, imesaṃ pana channaṃ ṭhānānaṃ sodhanatthaṃ evaṃ vattabbo ‘‘kiṃ te adhigataṃ, kiṃ jhānaṃ udāhu vimokkhādīsu aññatara’’nti.
For the dhamma that one has attained is manifest to oneself.
Nếu có một tỳ-khưu nào đó tuyên bố đã chứng đắc pháp thượng nhân, thì không nên tôn kính vị ấy ngay lập tức; mà để thanh lọc sáu điều này, nên hỏi như sau: “Ông đã chứng đắc điều gì? Đó là thiền định hay một trong các giải thoát, v.v.?”
Yo hi yena adhigato dhammo, so tassa pākaṭo hoti.
If he says, “I have attained such and such,” then he should be asked, “How have you attained it?” that is, “Which characteristic, impermanence and so forth, did you make primary, or which of the thirty-eight objects, or which of the dhammas distinguished as internal, external, material, immaterial and so forth, did you penetrate by what method?”
Bởi vì pháp mà một người đã chứng đắc thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘idaṃ nāma me adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kinti te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘aniccalakkhaṇādīsu kiṃ dhuraṃ katvā aṭṭhatiṃsāya vā ārammaṇesu rūpārūpaajjhattabahiddhādibhedesu vā dhammesu kena mukhena abhinivisitvā’’ti.
For the method of penetration is manifest to oneself.
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã chứng đắc pháp này,” thì nên hỏi: “Ông đã chứng đắc như thế nào?” Tức là: “Ông đã nhập vào pháp bằng cách nào, lấy gì làm trọng tâm trong các đặc tính vô thường, v.v., hoặc trong 38 đối tượng thiền định, hoặc trong các pháp được phân loại thành sắc, vô sắc, nội, ngoại, v.v.?”
Yo hi yassābhiniveso, so tassa pākaṭo hoti.
If he says, “This is my method of penetration; I have attained it thus,” then he should be asked, “When have you attained it?” that is, “In the forenoon, or at midday, or at any other time?”
Bởi vì cách nhập vào pháp của một người thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘ayaṃ nāma me abhiniveso, evaṃ mayā adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kadā te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘kiṃ pubbaṇhe, udāhu majjhanhikādīsu aññatarasmiṃ kāle’’ti.
For the time of one’s attainment is manifest to everyone.
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã nhập vào pháp này, tôi đã chứng đắc như thế này,” thì nên hỏi: “Ông đã chứng đắc khi nào? Có phải vào buổi sáng, hay vào buổi trưa, v.v.?”
Sabbesañhi attanā adhigatakālo pākaṭo hoti.
If he says, “I attained it at such and such a time,” then he should be asked, “Where have you attained it?” that is, “In the daytime abode, or in any other place, such as a night abode?”
Bởi vì thời điểm chứng đắc của mỗi người thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘amukasmiṃ nāma kāle adhigaka’’nti vadati, tato ‘‘kattha te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘kiṃ divāṭṭhāne, udāhu rattiṭṭhānādīsu aññatarasmiṃ okāse’’ti.
For the place of one’s attainment is manifest to everyone.
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã chứng đắc vào thời điểm này,” thì nên hỏi: “Ông đã chứng đắc ở đâu? Có phải ở nơi trú ngụ ban ngày, hay ở nơi trú ngụ ban đêm, v.v.?”
Sabbesañhi attanā adhigatokāso pākaṭo hoti.
If he says, “I attained it in such and such a place,” then he should be asked, “Which defilements have you abandoned?” that is, “Are they those abandoned by the first path, or by the second and higher paths?”
Bởi vì địa điểm chứng đắc của mỗi người thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘amukasmiṃ nāma me okāse adhigata’’nti vadati, tato ‘‘katame te kilesā pahīnā’’ti pucchitabbo, ‘‘kiṃ paṭhamamaggavajjhā, udāhu dutiyādimaggavajjhā’’ti.
For the defilements abandoned by the path one has attained are manifest to everyone.
Nếu vị ấy nói: “Tôi đã chứng đắc ở nơi này,” thì nên hỏi: “Những phiền não nào của ông đã được đoạn trừ? Có phải những phiền não bị đoạn trừ bởi Đạo thứ nhất, hay bởi Đạo thứ hai, v.v.?”
Sabbesañhi attanā adhigatamaggena pahīnā kilesā pākaṭā honti.
If he says, “I have abandoned these defilements,” then he should be asked, “Of which phenomena are you a recipient?” that is, “Are you a recipient of the Stream-entry path, or of one of the Once-return path and so forth?”
Bởi vì những phiền não bị đoạn trừ bởi Đạo mà một người đã chứng đắc thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘ime nāma me kilesā pahīnā’’ti vadati, tato ‘‘katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti pucchitabbo, ‘‘kiṃ sotāpattimaggassa, udāhu sakadāgāmimaggādīsu aññatarassā’’ti.
For the dhamma one has attained is manifest to oneself.
Nếu vị ấy nói: “Những phiền não này của tôi đã được đoạn trừ,” thì nên hỏi: “Ông là người đạt được những pháp nào? Có phải là Đạo Nhập Lưu, hay một trong các Đạo Nhất Lai, v.v.?”
Sabbesañhi attanā adhigatadhammo pākaṭo hoti.
If he says, “I am a recipient of these phenomena,” even then his statement should not be trusted.
Bởi vì pháp mà một người đã chứng đắc thì hiển nhiên đối với người ấy.
Sace ‘‘imesaṃ nāmāhaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti vadati, ettāvatāpissa vacanaṃ na saddhātabbaṃ.
For bhikkhus who are learned and skilled in comprehension and inquiry are able to purify these six points.
Nếu vị ấy nói: “Tôi là người đạt được những pháp này,” thì lời nói của vị ấy vẫn không nên tin ngay.
Bahussutā hi uggahaparipucchākusalā bhikkhū imāni cha ṭhānāni sodhetuṃ sakkonti, imassa pana bhikkhuno āgamanapaṭipadā sodhetabbā.
But the course of practice of this bhikkhu should be purified.
Bởi vì chỉ những tỳ-khưu đa văn, thiện xảo trong việc học hỏi và vấn đáp mới có thể thanh lọc sáu điều này; còn đối với tỳ-khưu này, con đường thực hành (paṭipadā) của vị ấy phải được thanh lọc.
Yadi āgamanapaṭipadā na sujjhati, ‘‘imāya paṭipadāya lokuttaradhammo nāma na labbhatī’’ti apanetabbo.
If his course of practice is not purified, he should be dismissed with the statement, “The supra-mundane dhamma is not attained by this practice.”
Nếu con đường thực hành không trong sạch, thì nên loại bỏ vị ấy bằng cách nói: “Với con đường thực hành này, pháp siêu thế không thể đạt được.”
Yadi panassa āgamanapaṭipadā sujjhati, dīgharattaṃ tīsu sikkhāsu appamatto jāgariyamanuyutto catūsu paccayesu alaggo ākāse pāṇisamena cetasā viharatīti paññāyati, tassa bhikkhuno byākaraṇaṃ paṭipadāya saddhiṃ saṃsandati.
But if his course of practice is purified, it should be recognized that he lives diligently, devoted to wakefulness in the three trainings for a long time, unattached to the four requisites, with a mind like a hand in the sky; then the bhikkhu’s declaration corresponds with his practice.
Nhưng nếu con đường thực hành của vị ấy trong sạch, và rõ ràng là vị ấy đã sống không xao lãng trong ba học pháp trong một thời gian dài, tinh tấn giữ sự tỉnh thức, không chấp trước vào bốn vật dụng thiết yếu, sống với tâm bình thản như bàn tay giữa hư không, thì lời tuyên bố của tỳ-khưu ấy sẽ phù hợp với con đường thực hành.
‘‘Seyyathāpi nāma gaṅgodakaṃ yamunodakena saṃsandati sameti, evameva supaññattā tena bhagavatā sāvakānaṃ nibbānagāminī paṭipadā, saṃsandati nibbānañca paṭipadā cā’’ti (dī. ni. 2.296) vuttasadisaṃ hoti.
It becomes like what is said: “Just as the water of the Gaṅgā mingles and meets with the water of the Yamunā, so too, the practice leading to Nibbāna, well-proclaimed by the Blessed One for his disciples, mingles and meets with Nibbāna and the practice.”
Điều này giống như lời đã nói: “Như nước sông Hằng hòa lẫn và đồng nhất với nước sông Yamunā, cũng vậy, con đường thực hành đưa đến Nibbāna đã được Đức Thế Tôn khéo tuyên bố cho các đệ tử, Nibbāna và con đường thực hành hòa hợp với nhau.”
Apica kho na ettakenapi sakkāro kātabbo.
Moreover, he should not be honored even for this.
Tuy nhiên, ngay cả với điều này, cũng không nên tôn kính vị ấy.
Ekaccassa hi puthujjanassapi sato khīṇāsavassa paṭipattisadisā paṭipatti hoti, tasmā so bhikkhu tehi tehi upāyehi uttāsetabbo.
Because the practice of some ordinary people is similar to that of one whose taints are destroyed; therefore, that bhikkhu should be tested by various means.
Bởi vì, ngay cả một phàm nhân cũng có thể có con đường thực hành tương tự như một vị A-la-hán; do đó, vị tỳ-khưu ấy nên được thử thách bằng nhiều cách khác nhau.
Khīṇāsavassa nāma asaniyāpi matthake patamānāya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā na hoti, puthujjanassa appamattakenapi hoti.
For an Arahant, even if a thunderbolt strikes his head, there is no fear, agitation, or horripilation; for an ordinary person, there is, even at a slight cause.
Một vị A-la-hán, ngay cả khi sét đánh vào đầu, cũng không có sợ hãi, bối rối hay dựng tóc gáy; còn một phàm nhân thì chỉ một chút thôi cũng có thể bị như vậy.
Candamukhatissarājakāle pana mahāvihāre saṅghatthero khīṇāsavo dubbalacakkhuko vihāreyeva acchati.
During the reign of King Candamukhatissa, the Saṅghatthera in the Great Monastery, who was an Arahant with poor eyesight, stayed only in the monastery.
Vào thời vua Candamukhatissa, vị Trưởng lão của Tăng đoàn ở Đại Tự viện là một vị A-la-hán, nhưng mắt yếu nên chỉ ở trong tự viện.
Rājā ‘‘theraṃ pariggaṇhissāmī’’ti bhikkhūsu bhikkhācāraṃ gatesu appasaddo upasaṅkamitvā sappo viya pāde aggahesi.
The king, wishing to test the elder, approached silently when the bhikkhus had gone for alms and, like a snake, grabbed his feet.
Nhà vua muốn thử thách vị Trưởng lão, nên khi các tỳ-khưu đi khất thực, ngài lặng lẽ đến gần và nắm lấy chân vị ấy như một con rắn.
Thero silāthambho viya niccalo hutvā ‘‘ko etthā’’ti āha.
The elder remained motionless like a stone pillar and said, “Who is here?”
Vị Trưởng lão bất động như một cột đá và hỏi: “Ai đó?”
‘‘Ahaṃ, bhante, tisso’’ti?
“It is I, Bhante, Tissa,” (said the king).
“Bạch Ngài, con là Tissa.”
‘‘Sugandhaṃ vāyasi no tissā’’ti.
“You are indeed very playful, Tissa,” (said the elder).
“Tissa, con có mùi thơm đó sao?”
Evaṃ khīṇāsavassa bhayaṃ nāma natthi.
Thus, an Arahant has no fear.
Như vậy, một vị A-la-hán không có sự sợ hãi.
Ekacco pana puthujjanopi atisūro hoti nibbhayo.
However, some ordinary people are also very brave and fearless.
Tuy nhiên, đôi khi một phàm nhân cũng rất dũng cảm và không sợ hãi.
So rajanīyena ārammaṇena pariggaṇhitabbo.
Such a one should be tested with an attractive object.
Vị ấy nên được thử thách bằng một đối tượng gây ham muốn.
Vasabharājāpi ekaṃ theraṃ pariggaṇhamāno ghare nisīdāpetvā tassa santike badarasāḷavaṃ maddamāno nisīdi.
King Vasabha also, wishing to test a certain elder, had him sit in his palace and sat before him, mashing jujube fruit.
Vua Vasabha cũng muốn thử thách một vị Trưởng lão, nên mời vị ấy ngồi trong cung và ngồi trước mặt vị ấy, nghiền nát quả táo tàu.
Mahātherassa kheḷo calito, therassa puthujjanabhāvo āvibhūto.
The elder’s saliva flowed, and the fact that he was an ordinary person was revealed.
Nước bọt của Đại Trưởng lão chảy ra, và tính chất phàm nhân của vị Trưởng lão đã hiển lộ.
Khīṇāsavassa hi rasataṇhā nāma suppahīnā, dibbesupi rasesu nikanti nāma na hoti, tasmā imehi upāyehi pariggahetvā sacassa bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā rasataṇhā vā uppajjati, ‘‘na ca tvaṃ arahā’’ti apanetabbo.
For an Arahant, craving for taste is completely abandoned; there is no delight even in divine tastes. Therefore, having tested him with these means, if he experiences fear, agitation, or craving for taste, he should be dismissed with the statement, “You are not an Arahant.”
Đối với một vị A-la-hán, tham ái vị giác đã được đoạn trừ hoàn toàn, không có sự ham muốn đối với ngay cả những vị ngon của chư thiên; do đó, sau khi thử thách bằng những phương pháp này, nếu vị ấy có sự sợ hãi, bối rối, hoặc tham ái vị giác phát sinh, thì nên loại bỏ vị ấy bằng cách nói: “Ngươi không phải là A-la-hán.”
Sace pana abhīru acchambhī anutrāsī hutvā sīho viya nisīdati, dibbārammaṇepi nikantiṃ na janeti, ayaṃ bhikkhu sampannaveyyākaraṇo samantā rājarājamahāmattādīhi pesitaṃ sakkāraṃ arahatīti veditabbo.
However, if he sits like a lion, fearless, unagitated, and unafraid, and generates no delight even in divine objects, then this bhikkhu should be known as one whose declaration is complete and worthy of honor sent by kings, great ministers, and so forth from all directions.
Nhưng nếu vị ấy ngồi như một con sư tử, không sợ hãi, không bối rối, không run sợ, và không phát sinh ham muốn ngay cả đối với đối tượng của chư thiên, thì tỳ-khưu này được biết là có lời tuyên bố hoàn hảo và xứng đáng nhận sự cúng dường do các vua chúa, đại thần, v.v., từ mọi phía gửi đến.
Evaṃ tāva uttarimanussadhammārocanaṃ vinicchinitabbaṃ.
Thus, a declaration of a superhuman state should be investigated.
Như vậy, lời tuyên bố về pháp thượng nhân nên được phán xét.
Katamaṃ catubbidhaṃ?
What is this fourfold (Vinaya)?
Tứ phần đó là gì?
Suttaṃ suttānulomaṃ ācariyavādaṃ attanomatinti.
It is Sutta, Suttānuloma, Ācariyavāda, and Attanomati.
Sutta (Kinh), Suttānuloma (Tùy thuận Kinh), Ācariyavāda (Lời dạy của các vị Thầy), và Attanomati (Ý kiến riêng).
Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘āhaccapadena kho, mahārāja, rasena ācariyavaṃsena adhippāyā’’ti (mi. pa. 4.2.3).
It is with reference to this that it was said, “By direct statement, O great king, by meaning, by the tradition of teachers, by one’s own opinion.”
Liên quan đến điều này, đã có lời dạy rằng: “Thưa Đại vương, với từ ngữ trực tiếp (āhaccapada), với hương vị (rasa), với truyền thống của các vị Thầy (ācariyavaṃsa), và với ý kiến riêng (adhippāya).”
Ettha hi āhaccapadanti suttaṃ adhippetaṃ.
Here, āhaccapada means the Sutta.
Ở đây, āhaccapada được hiểu là Sutta.
Rasoti suttānulomaṃ.
Rasa means Suttānuloma.
Rasa là Suttānuloma.
Ācariyavaṃsoti ācariyavādo.
Ācariyavaṃsa means Ācariyavāda.
Ācariyavaṃsa là Ācariyavāda.
Adhippāyoti attanomati.
Adhippāya means Attanomati.
Adhippāya là Attanomati.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, tañce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappati.
“Monks, that which has not been prohibited by me as ‘this is not allowable,’ if it accords with what is not allowable and rejects what is allowable, that is not allowable for you.
“Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cấm ‘điều này không hợp lệ’, nếu điều đó tương ứng với điều không hợp lệ và loại bỏ điều hợp lệ, thì điều đó không hợp lệ đối với các ông.
Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, tañce kappiyaṃ anulometi, akappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo kappati.
Monks, that which has not been prohibited by me as ‘this is not allowable,’ if it accords with what is allowable and rejects what is not allowable, that is allowable for you.
Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cấm ‘điều này không hợp lệ’, nếu điều đó tương ứng với điều hợp lệ và loại bỏ điều không hợp lệ, thì điều đó hợp lệ đối với các ông.
Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, taṃ ce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappati.
Monks, that which has not been permitted by me as ‘this is allowable,’ if it accords with what is not allowable and rejects what is allowable, that is not allowable for you.
Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cho phép ‘điều này hợp lệ’, nếu điều đó tương ứng với điều không hợp lệ và loại bỏ điều hợp lệ, thì điều đó không hợp lệ đối với các ông.
Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, tañce kappiyaṃ anulometi, akappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo kappatī’’ti (mahāva. 305).
Monks, that which has not been permitted by me as ‘this is allowable,’ if it accords with what is allowable and rejects what is not allowable, that is allowable for you.”
Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cho phép ‘điều này hợp lệ’, nếu điều đó tương ứng với điều hợp lệ và loại bỏ điều không hợp lệ, thì điều đó hợp lệ đối với các ông.”
Apica suttantābhidhammavinayaṭṭhakathāsu āgato sabbopi theravādo attanomati nāma.
Furthermore, all the Theravāda teachings found in the Suttanta, Abhidhamma, and Vinaya Aṭṭhakathās are called Attanomati.
Hơn nữa, tất cả các lời dạy của các Trưởng lão (Theravāda) có trong các chú giải Suttanta, Abhidhamma và Vinaya đều được gọi là Attanomati.
Taṃ pana attanomatiṃ gahetvā kathentena na daḷhaggāhaṃ gahetvā voharitabbaṃ, kāraṇaṃ sallakkhetvā atthena pāḷiṃ, pāḷiyā ca atthaṃ saṃsanditvā kathetabbaṃ, attanomati ācariyavāde otāretabbā.
However, when one speaks, taking this Attanomati, one should not speak with a firm grasp, but should consider the reason, compare the meaning with the Pāli and the Pāli with the meaning, and apply Attanomati to Ācariyavāda.
Tuy nhiên, khi nói dựa trên Attanomati, không nên nói với sự cố chấp, mà phải suy xét nguyên nhân, so sánh ý nghĩa với Pāḷi và Pāḷi với ý nghĩa, rồi trình bày, và Attanomati phải được đưa vào Ācariyavāda.
Sace tattha otarati ceva sameti ca, gahetabbā.
If it descends there and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng với Ācariyavāda, thì nên chấp nhận.
Sace neva otarati na sameti, na gahetabbā.
If it neither descends nor corresponds, it should not be taken.
Nếu không phù hợp và không tương ứng, thì không nên chấp nhận.
Ayañhi attanomati nāma sabbadubbalā, attanomatito ācariyavādo balavataro.
For this Attanomati is the weakest of all; Ācariyavāda is stronger than Attanomati.
Attanomati này là yếu kém nhất, Ācariyavāda mạnh hơn Attanomati.
Suttānulomampi sutte otāretabbaṃ.
Suttānuloma should also be applied to Sutta.
Suttānuloma cũng phải được đưa vào Sutta.
Tattha otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ.
If it descends there and corresponds, it should be taken; otherwise, it should not be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng với Sutta, thì nên chấp nhận, nếu không thì không nên chấp nhận.
Suttānulomato hi suttameva balavataraṃ.
For Sutta is stronger than Suttānuloma.
Sutta mạnh hơn Suttānuloma.
Suttañhi appaṭivattiyaṃ kārakasaṅghasadisaṃ buddhānaṃ ṭhitakālasadisaṃ.
Sutta is unalterable, like the Sangha performing a Vinaya act, like the time when the Buddhas were established.
Sutta là bất khả nghịch, giống như Tăng đoàn đã kiết tập, giống như thời kỳ Đức Phật còn tại thế.
Tasmā yadā dve bhikkhū sākacchanti, sakavādī suttaṃ gahetvā katheti, paravādī suttānulomaṃ.
Therefore, when two bhikkhus discuss, if one's side speaks, taking the Sutta, and the other's side speaks, taking the Suttānuloma,
Do đó, khi hai Tỳ-khưu tranh luận, người nói theo quan điểm của mình dựa vào Sutta, còn người khác dựa vào Suttānuloma.
Tehi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā suttānulomaṃ sutte otāretabbaṃ.
they should, without blaming or censuring each other, apply the Suttānuloma to the Sutta.
Họ không nên chỉ trích hay khiển trách lẫn nhau, mà Suttānuloma phải được đưa vào Sutta.
Sace otarati sameti, gahetabbaṃ, no ce, na gahetabbaṃ, suttasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken; if not, it should not be taken, and one should remain with the Sutta.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận, nếu không thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Sutta.
Athāyaṃ suttaṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ.
If one speaks, taking the Sutta, and the other speaks, taking the Ācariyavāda,
Nếu người này nói dựa vào Sutta, còn người kia nói dựa vào Ācariyavāda.
Tehipi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā ācariyavādo sutte otāretabbo.
they too, without blaming or censuring each other, should apply the Ācariyavāda to the Sutta.
Họ cũng không nên chỉ trích hay khiển trách lẫn nhau, mà Ācariyavāda phải được đưa vào Sutta.
Sace otarati sameti, gahetabbo.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
Anotaranto asamento ca gārayhācariyavādo na gahetabbo, suttasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
If it does not descend or correspond, the blameworthy Ācariyavāda should not be taken, and one should remain with the Sutta.
Nếu không phù hợp và không tương ứng, thì Ācariyavāda đáng bị khiển trách không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Sutta.
Athāyaṃ suttaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ.
If one speaks, taking the Sutta, and the other speaks, taking the Attanomati,
Nếu người này nói dựa vào Sutta, còn người kia nói dựa vào Attanomati.
Tehipi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā attanomati sutte otāretabbā.
they too, without blaming or censuring each other, should apply the Attanomati to the Sutta.
Họ cũng không nên chỉ trích hay khiển trách lẫn nhau, mà Attanomati phải được đưa vào Sutta.
Sace otarati sameti, gahetabbā, no ce, na gahetabbā, suttasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken; if not, it should not be taken, and one should remain with the Sutta.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận, nếu không thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Sutta.
Athāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ, suttānulome otāretabbaṃ.
If one speaks, taking the Suttānuloma, and the other speaks, taking the Sutta, the Sutta should be applied to the Suttānuloma.
Nếu người này nói dựa vào Suttānuloma, còn người kia nói dựa vào Sutta, thì Sutta phải được đưa vào Suttānuloma.
Sace otarati sameti, tisso saṅgītiyo āruḷhaṃ pāḷiāgataṃ paññāyati, gahetabbaṃ, no ce tathā paññāyati, na otarati na sameti, bāhirakasuttaṃ vā hoti siloko vā aññaṃ vā gārayhasuttaṃ guḷhavessantaraguḷhavinayavedallādīnaṃ aññatarato ābhataṃ, na gahetabbaṃ, suttānulomasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
If it descends and corresponds, and is recognized as Pāli found in the three recitations (saṅgītiyo), it should be taken; if it is not so recognized, does not descend, and does not correspond, or if it is an external Sutta, or a verse, or another blameworthy Sutta brought from sources such as Guḷhavessantara, Guḷhavinaya, Vedalla, etc., it should not be taken, and one should remain with the Suttānuloma.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, và được biết là Pāḷi đã được kiết tập trong ba kỳ kiết tập, thì nên chấp nhận. Nếu không được biết như vậy, không phù hợp và không tương ứng, hoặc là một Sutta bên ngoài, hoặc một bài kệ, hoặc một Sutta đáng bị khiển trách khác được lấy từ Guḷhavessantara, Guḷhavinaya, Vedalla, v.v., thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Suttānuloma.
Athāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ.
If one speaks, taking the Suttānuloma, and the other speaks, taking the Ācariyavāda,
Nếu người này nói dựa vào Suttānuloma, còn người kia nói dựa vào Ācariyavāda.
Ācariyavādo suttānulome otāretabbo.
the Ācariyavāda should be applied to the Suttānuloma.
Ācariyavāda phải được đưa vào Suttānuloma.
Sace otarati sameti, gahetabbo.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
No ce, na gahetabbo, suttānulomeyeva ṭhātabbaṃ.
If not, it should not be taken, and one should remain with the Suttānuloma.
Nếu không, thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Suttānuloma.
Athāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ.
If one speaks, taking the Suttānuloma, and the other speaks, taking the Attanomati,
Nếu người này nói dựa vào Suttānuloma, còn người kia nói dựa vào Attanomati.
Attanomati suttānulome otāretabbā.
the Attanomati should be applied to the Suttānuloma.
Attanomati phải được đưa vào Suttānuloma.
Sace otarati sameti, gahetabbā.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
No ce, na gahetabbā, suttānulomeyeva ṭhātabbaṃ.
If not, it should not be taken, and one should remain with the Suttānuloma.
Nếu không, thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Suttānuloma.
Athāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ.
If one speaks, taking the Ācariyavāda, and the other speaks, taking the Sutta,
Nếu người này nói dựa vào Ācariyavāda, còn người kia nói dựa vào Sutta.
Suttaṃ ācariyavāde otāretabbaṃ.
the Sutta should be applied to the Ācariyavāda.
Sutta phải được đưa vào Ācariyavāda.
Sace otarati sameti, gahetabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
Itaraṃ gārayhasuttaṃ na gahetabbaṃ, ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
Otherwise, the blameworthy Sutta should not be taken, and one should remain with the Ācariyavāda.
Sutta đáng bị khiển trách khác không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Ācariyavāda.
Athāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro suttānulomaṃ.
If one speaks, taking the Ācariyavāda, and the other speaks, taking the Suttānuloma,
Nếu người này nói dựa vào Ācariyavāda, còn người kia nói dựa vào Suttānuloma.
Suttānulomaṃ ācariyavāde otāretabbaṃ.
the Suttānuloma should be applied to the Ācariyavāda.
Suttānuloma phải được đưa vào Ācariyavāda.
Otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ, ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken; otherwise, it should not be taken, and one should remain with the Ācariyavāda.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận, nếu không thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Ācariyavāda.
Athāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ.
If one speaks, taking the Ācariyavāda, and the other speaks, taking the Attanomati,
Nếu người này nói dựa vào Ācariyavāda, còn người kia nói dựa vào Attanomati.
Attanomati ācariyavāde otāretabbā.
the Attanomati should be applied to the Ācariyavāda.
Attanomati phải được đưa vào Ācariyavāda.
Sace otarati sameti, gahetabbā.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
No ce, na gahetabbā, ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
If not, it should not be taken, and one should remain with the Ācariyavāda.
Nếu không, thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Ācariyavāda.
Atha panāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ.
If one speaks, taking the Attanomati, and the other speaks, taking the Sutta,
Nếu người này nói dựa vào Attanomati, còn người kia nói dựa vào Sutta.
Suttaṃ attanomatiyaṃ otāretabbaṃ.
the Sutta should be applied to the Attanomati.
Sutta phải được đưa vào Attanomati.
Sace otarati sameti, gahetabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
Itaraṃ gārayhasuttaṃ na gahetabbaṃ, attanomatiyameva ṭhātabbaṃ.
Otherwise, the blameworthy Sutta should not be taken, and one should remain with the Attanomati.
Sutta đáng bị khiển trách khác không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Attanomati.
Athāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro suttānulomaṃ.
If one speaks, taking the Attanomati, and the other speaks, taking the Suttānuloma,
Nếu người này nói dựa vào Attanomati, còn người kia nói dựa vào Suttānuloma.
Suttānulomaṃ attanomatiyaṃ otāretabbaṃ.
the Suttānuloma should be applied to the Attanomati.
Suttānuloma phải được đưa vào Attanomati.
Otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ, attanomatiyameva ṭhātabbaṃ.
If it descends and corresponds, it should be taken; otherwise, it should not be taken, and one should remain with the Attanomati.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận, nếu không thì không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Attanomati.
Athāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ.
If one speaks, taking the Attanomati, and the other speaks, taking the Ācariyavāda,
Nếu người này nói dựa vào Attanomati, còn người kia nói dựa vào Ācariyavāda.
Ācariyavādo attanomatiyaṃ otāretabbo.
the Ācariyavāda should be applied to the Attanomati.
Ācariyavāda phải được đưa vào Attanomati.
Sace otarati sameti, gahetabbo.
If it descends and corresponds, it should be taken.
Nếu nó phù hợp và tương ứng, thì nên chấp nhận.
Itaro gārayhācariyavādo na gahetabbo, attanomatiyameva ṭhātabbaṃ, attano gahaṇameva baliyaṃ kātabbaṃ.
Otherwise, the blameworthy Ācariyavāda should not be taken, and one should remain with the Attanomati, and one’s own acceptance should be made firm.
Ācariyavāda đáng bị khiển trách khác không nên chấp nhận, mà phải giữ vững Attanomati, và phải xem sự chấp nhận của chính mình là mạnh mẽ.
Sabbaṭṭhānesu ca khepo vā garahā vā na kātabbāti.
And in all cases, neither blame nor censure should be made.
Và ở tất cả các trường hợp, không nên chỉ trích hay khiển trách.
Atha panāyaṃ kappiyanti gahetvā katheti, paro akappiyanti, sutte ca suttānulome ca otāretabbaṃ.
If one speaks, taking something as allowable, and the other as not allowable, it should be applied to the Sutta and Suttānuloma.
Hơn nữa, nếu người này nói dựa vào điều hợp lệ, còn người kia nói dựa vào điều không hợp lệ, thì phải đưa vào Sutta và Suttānuloma.
Sace kappiyaṃ hoti, kappiye ṭhātabbaṃ.
If it is allowable, one should remain with what is allowable.
Nếu là điều hợp lệ, thì phải giữ vững điều hợp lệ.
Sace akappiyaṃ, akappiye ṭhātabbaṃ.
If it is not allowable, one should remain with what is not allowable.
Nếu là điều không hợp lệ, thì phải giữ vững điều không hợp lệ.
Athāyaṃ tassa kappiyabhāvasādhakaṃ suttato bahuṃ kāraṇañca vinicchayañca dasseti, paro kāraṇaṃ na vindati, kappiyeva ṭhātabbaṃ.
If one presents many reasons and judgments from the Sutta that prove its allowability, and the other cannot find any reason, then one should remain with what is allowable.
Nếu người này trình bày nhiều lý do và phán quyết từ Sutta để chứng minh tính hợp lệ của điều đó, còn người kia không tìm được lý do, thì phải giữ vững điều hợp lệ.
Atha paro tassa akappiyabhāvasādhakaṃ suttato bahuṃ kāraṇañca vinicchayañca dasseti, anena attano gahaṇanti katvā daḷhaṃ ādāya na ṭhātabbaṃ, ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā akappiye eva ṭhātabbaṃ.
Then another shows from the Sutta much reason and decision establishing its unallowable nature; one should not, thinking “this is my view,” hold to it firmly, but having accepted it with “Good,” one should stand on the side of the unallowable.
Nếu người kia trình bày nhiều lý do và phán quyết từ kinh điển chứng minh tính không hợp pháp của điều đó, thì không nên kiên quyết giữ lấy quan điểm của mình, cho rằng đó là sự chấp thủ của mình, mà nên chấp nhận: “Lành thay,” và giữ vững quan điểm không hợp pháp.
Atha dvinnampi kāraṇacchāyā dissati, paṭikkhittabhāvoyeva sādhu, akappiye ṭhātabbaṃ.
If for both a shadow of a reason appears, the state of being rejected is better; one should stand on the side of the unallowable.
Nếu cả hai bên đều có vẻ hợp lý, thì việc bác bỏ là tốt nhất, nên giữ vững quan điểm không hợp pháp.
Vinayañhi patvā kappiyākappiyavicāraṇaṃ āgamma rundhitabbaṃ, gāḷhaṃ kattabbaṃ, sotaṃ pacchinditabbaṃ, garukabhāveyeva ṭhātabbaṃ.
For when it comes to the Vinaya, with regard to investigating what is allowable and unallowable, one should restrain, one should be strict, the stream should be cut off; one should stand on the side of what is weighty.
Vì khi đối mặt với Vinaya, dựa vào sự xem xét hợp pháp hay không hợp pháp, phải ngăn chặn, phải kiên quyết, phải cắt đứt dòng chảy, và phải giữ vững quan điểm nghiêm trọng.
Atha panāyaṃ akappiyanti gahetvā katheti, paro kappiyanti, sutte ca suttānulome ca otāretabbaṃ.
Furthermore, if one, taking it to be unallowable, speaks, and another, taking it to be allowable, speaks, it should be brought down to the Sutta and what is in conformity with the Sutta.
Hơn nữa, nếu vị này cho là không hợp pháp (akappiya) và nói, còn vị kia cho là hợp pháp (kappiya) và nói, thì phải đưa vào kinh (sutta) và các điều phù hợp với kinh (suttānuloma) để xem xét.
Sace kappiyaṃ hoti, kappiye ṭhātabbaṃ.
If it is allowable, one should stand on the side of the allowable.
Nếu là hợp pháp, thì phải giữ theo điều hợp pháp.
Sace akappiyaṃ, akappiye ṭhātabbaṃ.
If it is unallowable, one should stand on the side of the unallowable.
Nếu là không hợp pháp, thì phải giữ theo điều không hợp pháp.
Athāyaṃ bahūhi suttavinicchayakāraṇehi akappiyabhāvaṃ dasseti, paro kāraṇaṃ na vindati, akappiye ṭhātabbaṃ.
If one demonstrates its unallowable nature with many reasons from the Sutta and its judgments, and the other does not find a reason, one should stand on the side of the unallowable.
Nếu vị này trình bày tính không hợp pháp bằng nhiều lý lẽ quyết định từ kinh, mà vị kia không tìm thấy lý lẽ (để phản bác), thì phải giữ theo điều không hợp pháp.
Atha paro bahūhi suttavinicchayakāraṇehi kappiyabhāvaṃ dasseti, ayaṃ kāraṇaṃ na vindati, kappiye ṭhātabbaṃ.
If the other demonstrates its allowable nature with many reasons from the Sutta and its judgments, and one does not find a reason, one should stand on the side of the allowable.
Nếu vị kia trình bày tính hợp pháp bằng nhiều lý lẽ quyết định từ kinh, mà vị này không tìm thấy lý lẽ (để phản bác), thì phải giữ theo điều hợp pháp.
Atha dvinnampi kāraṇacchāyā dissati, attano gahaṇaṃ na vissajjetabbaṃ.
If for both a shadow of a reason appears, one's own view should not be abandoned.
Nếu cả hai bên đều có vẻ có lý lẽ, thì không nên từ bỏ quan điểm của mình.
Yathā cāyaṃ kappiyākappiye akappiyakappiye ca vinicchayo vutto, evaṃ anāpattiāpattivāde āpattānāpattivāde ca, lahukagarukāpattivāde garukalahukāpattivāde cāpi vinicchayo veditabbo.
And just as this method of judgment has been stated for allowable and unallowable, and for unallowable and allowable, so too should the judgment be understood in debates about no-offense and offense, offense and no-offense, and in debates about light and grave offenses, and grave and light offenses.
Như sự quyết định này được nói về điều hợp pháp và không hợp pháp, điều không hợp pháp và hợp pháp, thì sự quyết định cũng phải được hiểu tương tự đối với tranh luận về không phạm và có phạm, có phạm và không phạm, và tranh luận về tội nhẹ và tội nặng, tội nặng và tội nhẹ.
Nāmamatteyeva hi ettha nānaṃ, yojanānaye nānaṃ natthi, tasmā na vitthāritaṃ.
For here the difference is in name only; there is no difference in the method of application, therefore it is not elaborated upon.
Vì ở đây chỉ khác nhau về tên gọi, không khác nhau về cách áp dụng, nên không cần giải thích thêm.
Imañca pana catubbidhaṃ vinayaṃ ñatvāpi vinayadharena puggalena tilakkhaṇasamannāgatena bhavitabbaṃ.
But even having known this fourfold Vinaya, a person who is a Vinayadhara should be endowed with three characteristics.
Sau khi đã biết bốn loại Vinaya này, người giữ Vinaya phải là một cá nhân có ba đặc điểm.
Tīṇi hi vinayadharassa lakkhaṇāni icchitabbāni.
Three indeed are the desired characteristics of a Vinayadhara.
Thật vậy, ba đặc điểm của người giữ Vinaya là những điều mong muốn.
Katamāni tīṇi?
What are the three?
Ba điều đó là gì?
Suttañcassa svāgataṃ hoti suppavatti suvinicchitaṃ suttato anubyañjanasoti idamekaṃ lakkhaṇaṃ.
The Sutta has been well-received by him, is well-practiced, well-judged according to the text and according to the secondary details—this is the first characteristic.
Kinh điển đối với vị ấy được tiếp thu tốt, được truyền tụng tốt, được quyết định rõ ràng từ văn bản và từ các chi tiết – đây là một đặc điểm.
Vinaye kho pana ṭhito hoti asaṃhīroti idaṃ dutiyaṃ.
Furthermore, he is established in the Vinaya, unshakeable—this is the second.
Vị ấy vững vàng trong Vinaya, không bị lung lay – đây là đặc điểm thứ hai.
Ācariyaparamparā kho panassa suggahitā hoti sumanasikatā sūpadhāritāti idaṃ tatiyaṃ.
And the lineage of teachers has been well-grasped by him, well-reflected upon, well-considered—this is the third.
Truyền thống của các vị thầy đối với vị ấy được nắm giữ tốt, được chú tâm tốt, được ghi nhớ kỹ lưỡng – đây là đặc điểm thứ ba.
Tattha suttaṃ nāma sakalaṃ vinayapiṭakaṃ.
Therein, Sutta means the entire Vinaya Piṭaka.
Trong đó, kinh (sutta) là toàn bộ Tạng Luật (Vinayapiṭaka).
Tadassa svāgataṃ hotīti suṭṭhu āgataṃ.
That it has been well-received by him means it has come down to him well.
“Được tiếp thu tốt” (svāgataṃ hoti) nghĩa là được tiếp thu một cách hoàn hảo.
Suppavattīti suṭṭhu pavattaṃ paguṇaṃ vācuggataṃ.
Well-practiced means well-versed, proficient, committed to memory.
“Được truyền tụng tốt” (suppavattī) nghĩa là được truyền tụng một cách hoàn hảo, được thông thạo, nằm lòng.
Suvinicchitaṃ suttaso anubyañjanasoti pāḷito ca paripucchato ca aṭṭhakathāto ca suvinicchitaṃ hoti kaṅkhāchedanaṃ katvā uggahitaṃ.
Well-judged according to the text and according to the secondary details means that it is well-judged from the Pāḷi and from the commentary that has been inquired into, having been grasped after cutting off doubt.
“Được quyết định rõ ràng từ văn bản và từ các chi tiết” (suvinicchitaṃ suttaso anubyañjanaso) nghĩa là được quyết định rõ ràng từ Pāḷi, từ các câu hỏi và từ các chú giải, được học thuộc lòng sau khi đã giải tỏa mọi nghi ngờ.
Vinaye kho pana ṭhito hotīti vinaye lajjibhāvena patiṭṭhito hoti.
Furthermore, he is established in the Vinaya means he is established in the Vinaya through the state of being conscientious.
“Vững vàng trong Vinaya” (vinaye kho pana ṭhito hoti) nghĩa là vững vàng trong Vinaya với tâm hổ thẹn (lajjībhāva).
Alajjī hi bahussutopi samāno lābhagarukatāya tantiṃ visaṃvādetvā uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ dīpetvā sāsane mahantaṃ upaddavaṃ karoti, saṅghabhedampi saṅgharājimpi uppādeti.
For a shameless one, even though learned, out of regard for gain, misrepresents the textual tradition, and by expounding non-Dhamma and non-Vinaya as the Teacher’s Dispensation, he causes a great disturbance in the Dispensation; he can even cause a schism in the Saṅgha or a crisis in the Saṅgha.
Thật vậy, người không có tâm hổ thẹn (alajjī), dù có học rộng, vì quá coi trọng lợi lộc mà xuyên tạc giáo pháp (tantiṃ visaṃvādetvā), giảng dạy những điều phi pháp (uddhamma), phi luật (ubbinaya) trái với lời dạy của Đức Phật, gây ra tai họa lớn cho giáo pháp, thậm chí còn gây chia rẽ Tăng đoàn (saṅghabheda) và tranh chấp trong Tăng đoàn (saṅgharāja).
Lajjī pana kukkuccako sikkhākāmo jīvitahetupi tantiṃ avisaṃvādetvā dhammameva vinayameva dīpeti, satthusāsanaṃ garukaṃ katvā ṭhapeti.
But a conscientious one, being scrupulous and eager to train, does not misrepresent the textual tradition even for the sake of his life, but expounds only the Dhamma, only the Vinaya; he establishes the Teacher’s Dispensation, holding it in high esteem.
Còn người có tâm hổ thẹn (lajjī), có lòng hối hận, khao khát học hỏi, dù vì mạng sống cũng không xuyên tạc giáo pháp, chỉ giảng dạy đúng Pháp và đúng Luật, giữ gìn lời dạy của Đức Phật một cách trân trọng.
Tathā hi pubbe mahātherā tikkhattuṃ vācaṃ nicchāresuṃ ‘‘anāgate lajjī rakkhissati, lajjī rakkhissati, lajjī rakkhissatī’’ti (pārā. aṭṭha. 1.45).
Indeed, thus the great elders of the past uttered the words three times: “In the future, the conscientious one will protect it, the conscientious one will protect it, the conscientious one will protect it.”
Thật vậy, các vị Đại Trưởng lão xưa kia đã ba lần thốt lên: “Trong tương lai, người có tâm hổ thẹn sẽ bảo vệ, người có tâm hổ thẹn sẽ bảo vệ, người có tâm hổ thẹn sẽ bảo vệ!”
Evaṃ yo lajjī, so vinayaṃ avijahanto avokkamanto lajjibhāveneva vinaye ṭhito hoti suppatiṭṭhitoti.
Thus, whoever is conscientious, not abandoning the Vinaya, not departing from it, is established, well-established in the Vinaya precisely through the state of being conscientious.
Như vậy, người có tâm hổ thẹn, không từ bỏ, không vi phạm Vinaya, chỉ bằng tâm hổ thẹn mà vững vàng trong Vinaya, tức là được an lập vững chắc.
Asaṃhīroti saṃhīro nāma yo pāḷiyaṃ vā aṭṭhakathāyaṃ vā heṭṭhato vā uparito vā padapaṭipāṭiyā vā pucchiyamāno vitthunati vipphandati santiṭṭhituṃ na sakkoti, yaṃ yaṃ parena vuccati, taṃ taṃ anujānāti, sakavādaṃ chaḍḍetvā paravādaṃ gaṇhāti.
Unshakeable: ‘Shakeable’ is one who, when questioned on the Pāḷi or the commentary, from the bottom or the top, or on the order of the words, falters, wavers, and is unable to stand firm; whatever is said by others, he agrees to it, and abandoning his own position, he accepts the position of others.
“Không bị lung lay” (asaṃhīro) nghĩa là người bị lung lay (saṃhīro) là người khi được hỏi về Pāḷi hay Chú giải, từ trên xuống dưới hay theo thứ tự từng từ, thì ấp úng, lúng túng, không thể đứng vững (trong một nghĩa), chấp nhận bất cứ điều gì người khác nói, từ bỏ quan điểm của mình và chấp nhận quan điểm của người khác.
Yo pana pāḷiyaṃ vā aṭṭhakathāyaṃ vā heṭṭhupariyena vā padapaṭipāṭiyā vā pucchiyamāno na vitthunati na vipphandati, ekekalomaṃ saṇḍāsena gaṇhanto viya ‘‘evaṃ mayaṃ vadāma, evaṃ no ācariyā vadantī’’ti vissajjeti, yamhi pāḷi ca pāḷivinicchayo ca suvaṇṇabhājane pakkhittasīhavasā viya parikkhayaṃ pariyādānaṃ agacchanto tiṭṭhati, ayaṃ vuccati ‘‘asaṃhīro’’ti.
But one who, when questioned on the Pāḷi or the commentary, from top to bottom, or on the order of the words, does not falter, does not waver, but replies as if seizing each and every hair with tweezers, saying, “Thus we say, thus our teachers say”; in whom the Pāḷi and the judgment on the Pāḷi stand without reaching exhaustion or depletion, like lion’s fat placed in a golden bowl—this one is called “unshakeable.”
Còn người khi được hỏi về Pāḷi hay Chú giải, từ trên xuống dưới hay theo thứ tự từng từ, thì không ấp úng, không lúng túng, mà giải thích như thể đang nhổ từng sợi lông bằng nhíp, nói rằng: “Chúng tôi nói như vậy, các vị thầy của chúng tôi nói như vậy,” và nơi vị ấy, Pāḷi và sự quyết định Pāḷi tồn tại mà không bị hao mòn hay cạn kiệt, như mỡ sư tử được đặt trong chén vàng. Người như vậy được gọi là “không bị lung lay” (asaṃhīro).
Ācariyaparamparā kho panassa suggahitā hotīti theraparamparā vaṃsaparamparā assa suṭṭhu gahitā hoti.
And the lineage of teachers has been well-grasped by him means that the succession of elders, the succession of the lineage, has been well-grasped by him.
“Truyền thống của các vị thầy đối với vị ấy được nắm giữ tốt” (ācariyaparamparā kho panassa suggahitā hoti) nghĩa là truyền thống của các vị Trưởng lão, truyền thống dòng dõi, đối với vị ấy được nắm giữ một cách hoàn hảo.
Sumanasikatāti suṭṭhu manasikatā, āvajjitamatte ujjalitapadīpo viya hoti.
Well-reflected upon means it is so well-attended to that it is like a lamp lit up at the very moment of adverting to it.
“Được chú tâm tốt” (sumanasikatā) nghĩa là được chú tâm một cách hoàn hảo; như ngọn đèn bừng sáng ngay khi được thắp lên.
Sūpadhāritāti suṭṭhu upadhāritā pubbāparānusandhito atthato kāraṇato ca upadhāritā.
Well-considered means it is well-borne in mind from the connection of what comes before and after, considered in terms of meaning and reason.
“Được ghi nhớ kỹ lưỡng” (sūpadhāritā) nghĩa là được ghi nhớ một cách hoàn hảo, được ghi nhớ từ sự liên kết trước sau, từ ý nghĩa và từ lý do.
Attanomatiṃ pahāya ācariyasuddhiyā vattā hoti, ‘‘mayhaṃ ācariyo asukācariyassa santike uggaṇhi, so asukassā’’ti evaṃ sabbaṃ ācariyaparamparaṃ theravādaṅgaṃ haritvā yāva upālitthero sammāsambuddhassa santike uggaṇhīti pāpetvā ṭhapeti, tatopi āharitvā upālitthero sammāsambuddhassa santike uggaṇhi, dāsakatthero attano upajjhāyassa upālittherassa, soṇatthero attano upajjhāyassa dāsakattherassa, siggavatthero attano upajjhāyassa soṇattherassa, moggaliputtatissatthero attano upajjhāyassa siggavattherassa caṇḍavajjittherassa cāti evaṃ sabbaṃ ācariyaparamparaṃ theravādaṅgaṃ āharitvā attano ācariyaṃ pāpetvā ṭhapeti.
Having abandoned his own opinion, he is one who speaks with the purity of his teachers. He establishes the entire lineage of teachers, the Theravāda tradition, by tracing it back: “My teacher learned from such-and-such a teacher, and he from such-and-such,” until it reaches, “The Elder Upāli learned in the presence of the Perfectly Enlightened One.” Then, tracing it forward from there, he establishes it: “The Elder Upāli learned in the presence of the Perfectly Enlightened One; the Elder Dāsaka from his own preceptor, the Elder Upāli; the Elder Soṇa from his own preceptor, the Elder Dāsaka; the Elder Siggava from his own preceptor, the Elder Soṇa; the Elder Moggaliputtatissa from his own preceptors, the Elder Siggava and the Elder Caṇḍavajji,” and in this way, tracing the entire lineage of teachers, the Theravāda tradition, he brings it up to his own teacher.
Vị ấy từ bỏ ý kiến riêng của mình và nói theo sự thanh tịnh của các vị thầy, nói: “Thầy của tôi đã học từ vị thầy kia, vị ấy học từ vị thầy kia,” như vậy, vị ấy truyền lại toàn bộ truyền thống của các vị thầy, tức là dòng Theravāda, cho đến khi Trưởng lão Upāli học từ Đức Chánh Đẳng Giác. Từ đó, vị ấy cũng truyền lại rằng Trưởng lão Upāli học từ Đức Chánh Đẳng Giác, Trưởng lão Dāsaka học từ thầy mình là Trưởng lão Upāli, Trưởng lão Soṇa học từ thầy mình là Trưởng lão Dāsaka, Trưởng lão Siggava học từ thầy mình là Trưởng lão Soṇa, Trưởng lão Moggaliputtatissa học từ thầy mình là Trưởng lão Siggava và Trưởng lão Caṇḍavajjī. Như vậy, vị ấy truyền lại toàn bộ truyền thống của các vị thầy, tức là dòng Theravāda, cho đến thầy của mình.
Evaṃ uggahitā hi ācariyaparamparā suggahitā hoti.
For a lineage of teachers grasped in this way is well-grasped.
Một truyền thống của các vị thầy được học như vậy mới là được nắm giữ tốt.
Evaṃ asakkontena pana avassaṃ dve tayo parivaṭṭā uggahetabbā.
But one who is unable to do so should definitely learn from two or three successive teachers.
Tuy nhiên, nếu không thể làm được như vậy, thì nhất định phải học hai hoặc ba thế hệ (thầy).
Sabbapacchimena hi nayena yathā ācariyo ācariyācariyo ca pāḷiñca paripucchañca vadanti, tathā ñātuṃ vaṭṭati.
Indeed, at the very least, it is proper to know it in the way that one's teacher and one's teacher's teacher recite both the Pāḷi and the inquiry.
Thật vậy, theo phương pháp cuối cùng, cần phải biết Pāḷi và các câu hỏi như vị thầy và thầy của thầy đã nói.
Yo hi bhikkhu catubbidhavinayakovido tilakkhaṇasampanno imāni cha ṭhānāni oloketvā adhikaraṇaṃ vūpasamessati, tassa vinicchayo appaṭivattiyo buddhena sayaṃ nisīditvā vinicchitasadiso hoti.
Indeed, if a bhikkhu who is skilled in the fourfold Vinaya, endowed with the three characteristics, examines these six sources and settles a legal issue, his judgment is unalterable, being like one decided by the Buddha himself.
Quả thật, một tỳ khưu thông thạo Tứ Phần Vinaya, đầy đủ Tam Pháp Ấn, khi xem xét sáu căn cứ này để dàn xếp adhikaraṇa, thì phán quyết của vị ấy không thể bị bác bỏ, giống như được chính Đức Phật phán quyết.
Taṃ ce evaṃ vinicchayakusalaṃ bhikkhuṃ koci katasikkhāpadavītikkamo bhikkhu upasaṅkamitvā attano kukkuccaṃ puccheyya, tena sādhukaṃ sallakkhetvā sace anāpatti hoti, ‘‘anāpattī’’ti vattabbaṃ.
If a bhikkhu who has transgressed a training rule were to approach such a bhikkhu, skilled in judgment, and ask about his remorse (kukkucca), that bhikkhu should consider it carefully. If it is a non-offence, he should say, "It is a non-offence."
Nếu có một tỳ khưu nào đó đã phạm giới đến hỏi vị tỳ khưu thiện xảo trong việc phán quyết như vậy về sự hối hận của mình, thì vị ấy phải xem xét kỹ lưỡng. Nếu là anāpatti, phải nói: “Không phạm lỗi.”
Sace pana āpatti hoti, sā desanāgāminī ce, ‘‘desanāgāminī’’ti vattabbaṃ.
But if it is an offence, and it is curable by declaration, he should say, "It is curable by declaration."
Nếu là āpatti mà có thể sám hối được, phải nói: “Có thể sám hối được.”
Vuṭṭhānagāminī ce, ‘‘vuṭṭhānagāminī’’ti vattabbaṃ.
If it is curable by rehabilitation, he should say, "It is curable by rehabilitation."
Nếu có thể phục hồi được, phải nói: “Có thể phục hồi được.”
Athassa pārājikacchāyā dissati, ‘‘pārājikāpattī’’ti na vattabbaṃ.
But if there appears to be a hint of pārājika for him, he should not say, "It is a pārājika offence."
Còn nếu thấy có dấu hiệu của pārājika, thì không được nói: “Phạm āpatti pārājika.”
Methunadhammavītikkamo hi uttarimanussadhammavītikkamo ca oḷāriko, adinnādānamanaussaviggahavītikkamā pana sukhumā cittalahukā.
For sexual intercourse (methunadhamma) and transgression of a superhuman state (uttarimanussadhamma) are gross, whereas transgressions of taking what is not given (adinnādāna) and killing a human being (manussaviggaha) are subtle and light in mind.
Vì lỗi vi phạm hành vi tà dâm và lỗi vi phạm pháp thượng nhân là những lỗi thô thiển, còn lỗi trộm cắp và lỗi giết người là những lỗi vi tế, tâm nhẹ nhàng.
Te sukhumeneva āpajjati, sukhumena rakkhati, tasmā visesena taṃvatthukaṃ kukkuccaṃ pucchiyamāno ‘‘āpattī’’ti avatvā sacassa ācariyo dharati, tato tena so bhikkhu ‘‘amhākaṃ ācariyaṃ pucchā’’ti pesetabbo.
They are committed subtly and guarded subtly. Therefore, specifically, when asked about remorse concerning such an act, without saying "It is an offence," if his teacher is alive, that bhikkhu should send him, saying, "Go and ask our teacher."
Những lỗi vi tế đó dễ phạm và dễ giữ gìn; do đó, khi được hỏi về sự hối hận liên quan đến những lỗi đó, không nên nói “phạm lỗi” mà nếu vị ấy có một vị ācariya (thầy) còn tại thế, thì vị tỳ khưu đó nên được gửi đến với lời dặn: “Hãy hỏi ācariya của chúng tôi.”
Sace so puna āgantvā ‘‘tumhākaṃ ācariyo suttato nayato oloketvā ‘satekiccho’ti maṃ āhā’’ti vadati, tato tena so ‘‘sādhu suṭṭhu yaṃ ācariyo bhaṇati, taṃ karohī’’ti vattabbo.
If that bhikkhu returns again and says, "Your teacher, having examined it by Sutta and by principle, told me it is redeemable (satekiccho)," then he should say to that bhikkhu, "Good, excellent! Do what the teacher says."
Nếu vị ấy trở lại và nói: “Ācariya của quý vị đã xem xét theo Sutta và Nayā (phương pháp) và bảo tôi là ‘có thể sửa chữa’,” thì vị ấy phải được nói: “Tốt lắm, hãy làm đúng như ācariya đã dạy.”
Atha panassa ācariyo natthi, saddhiṃ uggahitatthero pana atthi, tassa santikaṃ pesetabbo ‘‘amhehi saha uggahitatthero gaṇapāmokkho, taṃ gantvā pucchā’’ti.
But if he has no teacher, but there is an elder with whom he studied, he should be sent to that elder, saying, "Go and ask the elder who studied with us, the leader of the group."
Nếu vị ấy không có ācariya, nhưng có một vị trưởng lão cùng học, thì vị ấy nên được gửi đến vị đó với lời dặn: “Vị trưởng lão cùng học của chúng tôi là vị đứng đầu hội chúng, hãy đến hỏi vị đó.”
Tenapi ‘‘satekiccho’’ti vinicchite ‘‘sādhu suṭṭhu tassa vacanaṃ karohī’’ti vattabbo.
If he too judges it to be redeemable, he should be told, "Good, excellent! Do as that elder says."
Nếu vị đó cũng phán quyết là “có thể sửa chữa,” thì phải nói: “Tốt lắm, hãy làm đúng theo lời của vị đó.”
Atha tassa saddhiṃ uggahitattheropi natthi, antevāsiko paṇḍito atthi, tassa santikaṃ pesetabbo ‘‘asukadaharaṃ gantvā pucchā’’ti.
But if he has no elder with whom he studied, but there is a wise pupil (antevāsika), he should be sent to him, saying, "Go and ask such-and-such a junior bhikkhu."
Nếu vị ấy không có cả vị trưởng lão cùng học, nhưng có một đệ tử thông thái, thì vị ấy nên được gửi đến vị đó với lời dặn: “Hãy đến hỏi vị tỳ khưu trẻ tuổi tên là A.”
Tenapi ‘‘satekiccho’’ti vinicchite ‘‘sādhu suṭṭhu tassa vacanaṃ karohī’’ti vattabbo.
If he too judges it to be redeemable, he should be told, "Good, excellent! Do as that junior bhikkhu says."
Nếu vị đó cũng phán quyết là “có thể sửa chữa,” thì phải nói: “Tốt lắm, hãy làm đúng theo lời của vị đó.”
Atha daharassapi pārājikacchāyāva upaṭṭhāti, tenapi ‘‘pārājikosī’’ti na vattabbo.
But if even for the junior bhikkhu, a hint of pārājika arises, he should also not say, "You are a pārājika."
Nếu ngay cả đối với vị tỳ khưu trẻ tuổi đó cũng chỉ thấy dấu hiệu của pārājika, thì cũng không được nói: “Ngươi đã phạm pārājika.”
Dullabho hi buddhuppādo, tato dullabhatarā pabbajjā ca upasampadā ca.
For the arising of a Buddha is rare, and even rarer are going forth (pabbajjā) and full ordination (upasampadā).
Vì sự xuất hiện của một vị Phật là hiếm có, và sự xuất gia cùng thọ giới tỳ khưu còn hiếm có hơn.
Evaṃ pana vattabbo ‘‘vivittaṃ okāsaṃ sammajjitvā divāvihāraṃ nisīditvā sīlāni visodhetvā dvattiṃsākāraṃ tāva manasikarohī’’ti.
Rather, he should be told, "Sweep a secluded place, sit for your daytime meditation, purify your virtues, and first attend to the thirty-two bodily parts."
Thay vào đó, phải nói: “Hãy quét dọn một nơi thanh vắng, ngồi thiền tịnh vào ban ngày, thanh lọc giới hạnh, và hãy tác ý ba mươi hai thể trược trước đã.”
Sace tassa arogaṃ sīlaṃ, kammaṭṭhānaṃ ghaṭayati, saṅkhārā pākaṭā hutvā upaṭṭhahanti, upacārappanāppattaṃ viya cittaṃ ekaggaṃ hoti, divasaṃ atikkantampi na jānāti, so divasātikkame upaṭṭhānaṃ āgato evaṃ vattabbo ‘‘kīdisā te cittappavattī’’ti.
If his virtue is faultless, and the meditation object takes hold, and formations (saṅkhārā) become manifest and present themselves, and his mind becomes one-pointed as if having attained access or absorption, and he does not even know that the day has passed, then when he comes for his attendance at the end of the day, he should be asked, "How is the course of your mind?"
Nếu giới hạnh của vị ấy không bị tổn hại, đề mục thiền sẽ phù hợp, các hành sẽ hiện rõ và an trú, tâm sẽ trở nên nhất tâm như đã đạt đến cận định và an chỉ định, vị ấy sẽ không biết cả thời gian đã trôi qua. Khi vị ấy đến vào buổi chiều, phải hỏi: “Tâm hành của ngươi thế nào?”
Ārocitāya ca cittapavattiyā vattabbo ‘‘pabbajjā nāma cittavisuddhatthāya, appamatto samaṇadhammaṃ karohī’’ti.
And when the course of his mind has been reported, he should be told, "Going forth is for the purification of mind. Be diligent and fulfill the duties of a recluse."
Sau khi nghe tâm hành của vị ấy, phải nói: “Sự xuất gia là để thanh lọc tâm, hãy tinh tấn thực hành pháp Sa-môn.”
Yassa pana sīlaṃ bhinnaṃ hoti, tassa kammaṭṭhānaṃ na ghaṭayati, patodābhitunnaṃ viya cittaṃ vikampati, vippaṭisāragginā ḍayhati, tattapāsāṇe nisinno viya taṅkhaṇeyeva vuṭṭhāti.
But for whom virtue is broken, the meditation object does not take hold, his mind trembles as if struck by a goad, he is burned by the fire of remorse, and he rises immediately as if sitting on a hot stone.
Còn nếu giới hạnh của vị ấy bị phá vỡ, đề mục thiền sẽ không phù hợp, tâm sẽ dao động như bị đâm bằng mũi nhọn, bị thiêu đốt bởi ngọn lửa hối hận, và vị ấy sẽ đứng dậy ngay lập tức như ngồi trên tảng đá nóng.
So āgato ‘‘kā te cittapavattī’’ti pucchitabbo.
When he arrives, he should be asked, "What is the course of your mind?"
Khi vị ấy đến, phải hỏi: “Tâm hành của ngươi thế nào?”
Ārocitāya cittapavattiyā ‘‘natthi loke raho nāma pāpakammaṃ pakubbato.
And when the course of his mind has been reported, he should be told, "There is no secret place in the world for one who commits evil deeds.
Sau khi nghe tâm hành của vị ấy, phải nói: “Không có nơi nào bí mật trên thế gian này đối với người đang làm điều ác.
Sabbapaṭhamañhi pāpaṃ karonto attanā jānāti.
Indeed, when one first commits an evil deed, one knows it oneself.
Vì trước hết, khi làm điều ác, chính mình biết.
Athassa ārakkhadevatā paracittavidū samaṇabrāhmaṇā aññā ca devatā jānanti, tvaṃyeva dāni tava sotthiṃ pariyesāhī’’ti vattabbo.
Then his guardian deities, recluses and brahmins who know the minds of others, and other deities know it. Now you yourself should seek your own welfare."
Sau đó, các vị thiên thần hộ mệnh, các vị Sa-môn, Bà-la-môn biết tâm người khác, và các vị chư thiên khác đều biết. Bây giờ, chính ngươi hãy tự tìm kiếm sự an lành cho mình.”
Evaṃ katavītikkameneva bhikkhunā sayameva āgantvā ārocite paṭipajjitabbaṃ.
Thus, when the bhikkhu himself, having committed a transgression, comes and reports it, he should be dealt with accordingly.
Như vậy, một tỳ khưu đã phạm lỗi phải tự mình đến trình bày và hành xử theo đó.
235. Idāni yā sā pubbe vuttappabhedā codanā, tassāyeva sampattivipattijānanatthaṃ ādimajjhapariyosānādīnaṃ vasena vinicchayo veditabbo.
Now, in order to know the success or failure of the aforementioned kinds of accusation (codanā), its determination should be understood in terms of its beginning, middle, and end, and so forth.
235. Bây giờ, để biết sự thành tựu và thất bại của sự khiển trách (codanā) đã được nói đến trước đây, cần phải hiểu rõ sự phán quyết theo các khía cạnh như ban đầu, giữa và cuối.
Seyyathidaṃ, codanāya ko ādi, kiṃ majjhe, kiṃ pariyosānaṃ?
That is to say, what is the beginning of an accusation, what is its middle, and what is its end?
Cụ thể là, đâu là khởi đầu của sự khiển trách, đâu là phần giữa, và đâu là phần kết thúc?
Codanāya ‘‘ahaṃ taṃ vattukāmo, karotu me āyasmā okāsa’’nti evaṃ okāsakammaṃ ādi.
The beginning of an accusation is the act of asking for permission (okāsakamma), such as, "I want to speak to you, Venerable Sir, please grant me permission."
Khởi đầu của sự khiển trách là việc xin phép, như: “Tôi muốn nói với Tôn giả, xin Tôn giả cho phép tôi.”
Otiṇṇena vatthunā codetvā sāretvā vinicchayo majjhe.
The middle is the determination after accusing and reminding with the matter that has arisen.
Phần giữa là sự phán quyết sau khi khiển trách và nhắc nhở về sự việc đã xảy ra.
Āpattiyaṃ vā anāpattiyaṃ vā patiṭṭhāpanena samatho pariyosānaṃ.
The end is the settlement (samatha) by establishing whether there is an offence or a non-offence.
Phần kết thúc là sự dàn xếp bằng cách xác định là phạm lỗi (āpatti) hay không phạm lỗi (anāpatti).
Codanāya kati mūlāni, kati vatthūni, kati bhūmiyo?
How many roots does an accusation have? How many grounds? How many bases?
Sự khiển trách có bao nhiêu căn nguyên (mūla), bao nhiêu sự việc (vatthu), bao nhiêu căn cứ (bhūmi)?
Codanāya dve mūlāni samūlikā vā amūlikā vā.
An accusation has two roots: with root (samūlikā) or without root (amūlikā).
Sự khiển trách có hai căn nguyên: có căn nguyên hoặc không có căn nguyên.
Tīṇi vatthūni diṭṭhaṃ sutaṃ parisaṅkitaṃ.
It has three grounds: seen, heard, and suspected.
Ba sự việc: đã thấy, đã nghe, đã nghi ngờ.
Pañca bhūmiyo kālena vakkhāmi, no akālena, bhūtena vakkhāmi, no abhūtena, saṇhena vakkhāmi, no pharusena, atthasaṃhitena vakkhāmi, no anatthasaṃhitena, mettacitto vakkhāmi, no dosantaroti.
It has five bases: 'I will speak at the right time, not at the wrong time; I will speak what is factual, not what is not factual; I will speak gently, not harshly; I will speak what is beneficial, not what is unbeneficial; I will speak with a mind of loving-kindness, not with a mind of ill-will.'
Năm căn cứ: Tôi sẽ nói đúng lúc, không nói sai lúc; tôi sẽ nói sự thật, không nói điều không thật; tôi sẽ nói nhẹ nhàng, không nói thô bạo; tôi sẽ nói điều có lợi ích, không nói điều vô ích; tôi sẽ nói với tâm từ, không với tâm sân hận.
Imāya ca pana codanāya codakena puggalena ‘‘parisuddhakāyasamācāro nu khomhī’’tiādinā (pari. 436) nayena upālipañcakesu vuttesu pannarasasu dhammesu patiṭṭhātabbaṃ.
And in this accusation, the accuser (codaka) should be established in the fifteen qualities mentioned in the Upāli-pañcaka, such as, "Am I of pure bodily conduct?"
Tuy nhiên, với sự cáo buộc này, người cáo buộc (codaka) phải an trú trong mười lăm pháp đã được nói đến trong Upālipañcaka, bắt đầu bằng câu: "Phải chăng ta có thân hành thanh tịnh?".
Cuditakena dvīsu dhammesu patiṭṭhātabbaṃ sacce ca akuppe cāti.
The accused (cuditaka) should be established in two qualities: in truthfulness and in not being angry.
Người bị cáo buộc (cuditaka) phải an trú trong hai pháp: sự thật (sacca) và không giận dữ (akuppa).
Anuvijjakena (pari. 360) ca codako pucchitabbo ‘‘yaṃ kho tvaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ codesi, kimhi naṃ codesi, sīlavipattiyā codesi, ācāravipattiyā codesi, diṭṭhivipattiyā codesī’’ti.
And the examiner (anuvijjaka) should question the accuser: "Friend, regarding this monk you are accusing, for what are you accusing him? Are you accusing him of a transgression of sīla, a transgression of conduct, or a transgression of view?"
Và người điều tra (anuvijjaka) phải hỏi người cáo buộc: "Này hiền giả, hiền giả đã cáo buộc Tỳ-khưu này về điều gì? Hiền giả đã cáo buộc vị ấy về sự suy đồi giới hạnh (sīlavipatti), sự suy đồi oai nghi (ācāravipatti), hay sự suy đồi tà kiến (diṭṭhivipatti)?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘sīlavipattiyā vā codemi, ācāravipattiyā vā codemi, diṭṭhivipattiyā vā codemī’’ti.
If he should say this: "I am accusing him of a transgression of sīla, or a transgression of conduct, or a transgression of view."
Nếu người ấy nói: "Tôi cáo buộc về sự suy đồi giới hạnh, hoặc tôi cáo buộc về sự suy đồi oai nghi, hoặc tôi cáo buộc về sự suy đồi tà kiến."
So evamassa vacanīyo ‘‘jānāsi panāyasmā sīlavipattiṃ, jānāsi ācāravipattiṃ, jānāsi diṭṭhivipatti’’nti.
He should then be told this: "Does the venerable one know what a transgression of sīla is, does he know what a transgression of conduct is, does he know what a transgression of view is?"
Người ấy phải được hỏi: "Này Tôn giả, hiền giả có biết sự suy đồi giới hạnh không? Hiền giả có biết sự suy đồi oai nghi không? Hiền giả có biết sự suy đồi tà kiến không?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘jānāmi kho ahaṃ, āvuso, sīlavipattiṃ, jānāmi ācāravipattiṃ, jānāmi diṭṭhivipatti’’nti.
If he should say this: "Indeed, friend, I know what a transgression of sīla is, I know what a transgression of conduct is, I know what a transgression of view is."
Nếu người ấy nói: "Này hiền giả, tôi biết sự suy đồi giới hạnh, tôi biết sự suy đồi oai nghi, tôi biết sự suy đồi tà kiến."
So evamassa vacanīyo ‘‘katamā panāvuso, sīlavipatti, katamā ācāravipatti, katamā diṭṭhivipattī’’ti?
He should then be told this: "But, friend, what is a transgression of sīla? What is a transgression of conduct? What is a transgression of view?"
Người ấy phải được hỏi: "Này hiền giả, sự suy đồi giới hạnh là gì? Sự suy đồi oai nghi là gì? Sự suy đồi tà kiến là gì?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘cattāri pārājikāni terasa saṅghādisesā, ayaṃ sīlavipatti.
If he should say this: "The four Pārājikas and the thirteen Saṅghādisesas — this is a transgression of sīla.
Nếu người ấy nói: "Bốn Ba-la-di (pārājika), mười ba Tăng-già-bà-thi-sa (saṅghādisesa), đây là sự suy đồi giới hạnh.
Thullaccayaṃ pācittiyaṃ pāṭidesanīyaṃ dukkaṭaṃ dubbhāsitaṃ, ayaṃ ācāravipatti.
A Thullaccaya, Pācittiya, Pāṭidesanīya, Dukkaṭa, Dubbhāsita — this is a transgression of conduct.
Thô-la-chi (thullaccaya), Ba-dật-đề (pācittiya), Ba-la-đề-đề-tát-ni (pāṭidesanīya), Đột-cát-la (dukkaṭa), Ác-thuyết (dubbhāsita), đây là sự suy đồi oai nghi.
Micchādiṭṭhi antaggāhikā diṭṭhi, ayaṃ diṭṭhivipattī’’ti.
Wrong view, grasping at extremes (antaggāhika diṭṭhi) — this is a transgression of view."
Tà kiến (micchādiṭṭhi), kiến chấp cực đoan (antaggāhikā diṭṭhi), đây là sự suy đồi tà kiến."
So evamassa vacanīyo ‘‘yaṃ kho tvaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ codesi, diṭṭhena vā codesi, sutena vā codesi, parisaṅkāya vā codesī’’ti.
He should then be told this: "Friend, are you accusing this monk based on what you have seen, or on what you have heard, or on suspicion?"
Người ấy phải được hỏi: "Này hiền giả, hiền giả cáo buộc Tỳ-khưu này là do thấy, hay do nghe, hay do nghi ngờ?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘diṭṭhena vā codemi, sutena vā codemi, parisaṅkāya vā codemī’’ti.
If he should say this: "I am accusing him based on what I have seen, or on what I have heard, or on suspicion."
Nếu người ấy nói: "Tôi cáo buộc là do thấy, hoặc do nghe, hoặc do nghi ngờ."
So evamassa vacanīyo ‘‘yaṃ kho tvaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ diṭṭhena codesi, kiṃ te diṭṭhaṃ, kinti te diṭṭhaṃ, kadā te diṭṭhaṃ, kattha te diṭṭhaṃ, pārājikaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho, saṅghādisesaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho, thullaccayaṃ pācittiyaṃ pāṭidesanīyaṃ dukkaṭaṃ dubbhāsitaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho, kattha cāyaṃ bhikkhu ahosi, kattha ca tvaṃ karosi, kiñca tvaṃ karosi, kiṃ ayaṃ bhikkhu karotī’’ti?
He should then be told this: "Friend, if you are accusing this monk based on what you have seen, what have you seen? How have you seen it? When have you seen it? Where have you seen it? Was he seen committing a Pārājika? Was he seen committing a Saṅghādisesa? Was he seen committing a Thullaccaya, Pācittiya, Pāṭidesanīya, Dukkaṭa, or Dubbhāsita? Where was this monk, and where were you, and what were you doing, and what was this monk doing?"
Người ấy phải được hỏi: "Này hiền giả, hiền giả cáo buộc Tỳ-khưu này là do thấy, hiền giả đã thấy gì? Hiền giả đã thấy như thế nào? Hiền giả đã thấy khi nào? Hiền giả đã thấy ở đâu? Hiền giả có thấy vị ấy đang phạm Ba-la-di không? Có thấy đang phạm Tăng-già-bà-thi-sa không? Có thấy đang phạm Thô-la-chi, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-tát-ni, Đột-cát-la, Ác-thuyết không? Vị Tỳ-khưu này ở đâu? Hiền giả đang làm gì? Vị Tỳ-khưu này đang làm gì?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘na kho ahaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ diṭṭhena codemi, apica sutena codemī’’ti.
If he should say this: "Indeed, friend, I am not accusing this monk based on what I have seen, but rather based on what I have heard."
Nếu người ấy nói: "Này hiền giả, tôi không cáo buộc Tỳ-khưu này là do thấy, nhưng tôi cáo buộc là do nghe."
So evamassa vacanīyo ‘‘yaṃ kho tvaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ sutena codesi, kiṃ te sutaṃ, kinti te sutaṃ, kadā te sutaṃ, kattha te sutaṃ, pārājikaṃ ajjhāpannoti sutaṃ, saṅghādisesaṃ ajjhāpannoti sutaṃ, thullaccayaṃ pācittiyaṃ pāṭidesanīyaṃ dukkaṭaṃ dubbhāsitaṃ ajjhāpannoti sutaṃ, bhikkhussa sutaṃ, bhikkhuniyā sutaṃ, sikkhamānāya sutaṃ, sāmaṇerassa sutaṃ, sāmaṇeriyā sutaṃ, upāsakassa sutaṃ, upāsikāya sutaṃ, rājūnaṃ sutaṃ, rājamahāmattānaṃ sutaṃ, titthiyānaṃ sutaṃ, titthiyasāvakānaṃ suta’’nti.
He should then be told this: "Friend, if you are accusing this monk based on what you have heard, what have you heard? How have you heard it? When have you heard it? Where have you heard it? Have you heard that he committed a Pārājika? Have you heard that he committed a Saṅghādisesa? Have you heard that he committed a Thullaccaya, Pācittiya, Pāṭidesanīya, Dukkaṭa, or Dubbhāsita? Did you hear it from a bhikkhu, from a bhikkhunī, from a sikkhamānā, from a sāmaṇera, from a sāmaṇerī, from a lay follower (upāsaka), from a laywoman (upāsikā), from kings, from royal ministers, from sectarians (titthiya), or from disciples of sectarians?"
Người ấy phải được hỏi: "Này hiền giả, hiền giả cáo buộc Tỳ-khưu này là do nghe, hiền giả đã nghe gì? Hiền giả đã nghe như thế nào? Hiền giả đã nghe khi nào? Hiền giả đã nghe ở đâu? Hiền giả có nghe nói vị ấy đã phạm Ba-la-di không? Có nghe nói đã phạm Tăng-già-bà-thi-sa không? Có nghe nói đã phạm Thô-la-chi, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-tát-ni, Đột-cát-la, Ác-thuyết không? Nghe từ Tỳ-khưu nào? Nghe từ Tỳ-khưu-ni nào? Nghe từ Thức-xoa-ma-na nào? Nghe từ Sa-di nào? Nghe từ Sa-di-ni nào? Nghe từ cư sĩ nam nào? Nghe từ cư sĩ nữ nào? Nghe từ các vị vua nào? Nghe từ các vị đại thần vương gia nào? Nghe từ các ngoại đạo nào? Nghe từ các đệ tử ngoại đạo nào?"
So ce evaṃ vadeyya ‘‘na kho ahaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ sutena codemi, apica parisaṅkāya codemī’’ti.
If he should say this: "Indeed, friend, I am not accusing this monk based on what I have heard, but rather based on suspicion."
Nếu người ấy nói: "Này hiền giả, tôi không cáo buộc Tỳ-khưu này là do nghe, nhưng tôi cáo buộc là do nghi ngờ."
So evamassa vacanīyo ‘‘yaṃ kho tvaṃ, āvuso, imaṃ bhikkhuṃ parisaṅkāya codesi, kiṃ parisaṅkasi, kinti parisaṅkasi, kadā parisaṅkasi, kattha parisaṅkasi?
He should then be told this: "Friend, if you are accusing this monk based on suspicion, what do you suspect? How do you suspect? When do you suspect? Where do you suspect?
Người ấy phải được hỏi: "Này hiền giả, hiền giả cáo buộc Tỳ-khưu này là do nghi ngờ, hiền giả nghi ngờ gì? Hiền giả nghi ngờ như thế nào? Hiền giả nghi ngờ khi nào? Hiền giả nghi ngờ ở đâu?
Pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannoti parisaṅkasi, saṅghādisesaṃ thullaccayaṃ pācittiyaṃ pāṭidesanīyaṃ dukkaṭaṃ dubbhāsitaṃ ajjhāpannoti parisaṅkasi, bhikkhussa sutvā parisaṅkasi, bhikkhuniyā sutvā…pe… titthiyasāvakānaṃ sutvā parisaṅkasī’’ti.
Do you suspect that he has committed a Pārājika offense? Do you suspect that he has committed a Saṅghādisesa, Thullaccaya, Pācittiya, Pāṭidesanīya, Dukkaṭa, or Dubbhāsita? Do you suspect after hearing it from a bhikkhu, from a bhikkhunī...from disciples of sectarians?"
Hiền giả nghi ngờ vị ấy đã phạm pháp Ba-la-di không? Nghi ngờ đã phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Thô-la-chi, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-tát-ni, Đột-cát-la, Ác-thuyết không? Hiền giả nghi ngờ sau khi nghe từ Tỳ-khưu nào? Sau khi nghe từ Tỳ-khưu-ni nào?... Sau khi nghe từ các đệ tử ngoại đạo nào?"
Saṅghena anumatena puggalena anuvijjakena anuvijjitukāmena na upajjhāyo pucchitabbo, na ācariyo pucchitabbo, na saddhivihāriko pucchitabbo, na antevāsiko pucchitabbo, na samānupajjhāyako pucchitabbo, na samānācariyako pucchitabbo, na jāti pucchitabbā, na nāmaṃ pucchitabbaṃ, na gottaṃ pucchitabbaṃ, na āgamo pucchitabbo, na kulapadeso pucchitabbo, na jātibhūmi pucchitabbā.
A person, authorized by the Saṅgha, desiring to examine as an examiner (anuvijjaka), should not question the upajjhāya, should not question the ācariya, should not question the saddhivihārika, should not question the antevāsika, should not question one with the same upajjhāya, should not question one with the same ācariya, should not question about birth, should not question about name, should not question about clan, should not question about learning (āgama), should not question about family lineage, should not question about birthplace.
Người được Tăng-già cho phép làm người điều tra, khi muốn điều tra, không được hỏi vị Upajjhāya (Thầy bổn sư), không được hỏi vị Ācariya (Thầy giáo thọ), không được hỏi Saddhivihārika (đồng học), không được hỏi Antevāsika (đệ tử), không được hỏi người có cùng Upajjhāya, không được hỏi người có cùng Ācariya, không được hỏi về dòng tộc, không được hỏi về tên, không được hỏi về họ, không được hỏi về truyền thống, không được hỏi về xuất xứ gia đình, không được hỏi về nơi sinh.
Taṃ kiṃkāraṇā?
For what reason?
Tại sao vậy?
Atrassa pemaṃ vā doso vā, peme vā sati dose vā chandāpi gaccheyya dosāpi gaccheyya mohāpi gaccheyya bhayāpi gaccheyyāti.
Because there might be affection or aversion in him; and if there is affection or aversion, he might go astray due to partiality (chanda), due to aversion (dosa), due to delusion (moha), or due to fear (bhaya).
Vì khi đó có thể có tình cảm hoặc ác cảm, và khi có tình cảm hoặc ác cảm, người ấy có thể hành động theo dục vọng, theo ác cảm, theo si mê, hoặc theo sợ hãi.
Saṅghena anumatena puggalena anuvijjakena anuvijjitukāmena saṅghagarukena bhavitabbaṃ, no puggalagarukena, saddhammagarukena bhavitabbaṃ, no āmisagarukena, atthavasikena bhavitabbaṃ, no parisakappikena, kālena anuvijjitabbaṃ, no akālena, bhūtena anuvijjitabbaṃ, no abhūtena, saṇhena anuvijjitabbaṃ, no pharusena, atthasaṃhitena anuvijjitabbaṃ, no anatthasaṃhitena, mettacittena anuvijjitabbaṃ, no dosantarena, na upakaṇṇakajappinā bhavitabbaṃ, na jimhaṃ pekkhitabbaṃ, na akkhi nikhaṇitabbaṃ, na bhamukaṃ ukkhipitabbaṃ, na sīsaṃ ukkhipitabbaṃ, na hatthavikāro kātabbo, na hatthamuddā dassetabbā.
A person, authorized by the Saṅgha, desiring to examine as an examiner, should be respectful of the Saṅgha, not respectful of individuals; should be respectful of the Saddhamma, not respectful of material gain (āmisa); should be devoted to the aim (attha-vasika), not calculating (parisakappika); should examine at the proper time, not at an improper time; should examine with what is true, not with what is untrue; should examine gently, not harshly; should examine with what is beneficial, not with what is unbeneficial; should examine with a mind of loving-kindness, not with a mind of ill-will; should not be a whisperer in the ear, should not look askance, should not wink, should not raise the eyebrows, should not raise the head, should not make hand gestures, should not show closed fists.
Người được Tăng-già cho phép làm người điều tra, khi muốn điều tra, phải tôn trọng Tăng-già, không tôn trọng cá nhân; phải tôn trọng Chánh pháp, không tôn trọng vật chất; phải dựa trên ý nghĩa, không dựa trên sự suy đoán của hội chúng; phải điều tra đúng lúc, không sai lúc; phải điều tra bằng sự thật, không bằng điều không thật; phải điều tra bằng lời lẽ nhẹ nhàng, không bằng lời lẽ thô lỗ; phải điều tra bằng điều có lợi ích, không bằng điều không có lợi ích; phải điều tra với tâm từ ái, không với tâm thù hận; không được thì thầm vào tai, không được nhìn nghiêng, không được nháy mắt, không được nhíu mày, không được ngẩng đầu, không được làm cử chỉ bằng tay, không được ra hiệu bằng tay.
Āsanakusalena bhavitabbaṃ nisajjakusalena, yugamattaṃ pekkhantena atthaṃ anuvidhiyantena sake āsane nisīditabbaṃ, na ca āsanā vuṭṭhātabbaṃ, na vītihātabbaṃ, na kummaggo sevitabbo, na bāhāvikkhepakaṃ bhaṇitabbaṃ, aturitena bhavitabbaṃ asāhasikena, acaṇḍikatena bhavitabbaṃ vacanakkhamena, mettacittena bhavitabbaṃ hitānukampinā, kāruṇikena bhavitabbaṃ hitaparisakkinā, asamphappalāpinā bhavitabbaṃ pariyantabhāṇinā, averavasikena bhavitabbaṃ anasuruttena, attā pariggahetabbo, paro pariggahetabbo, codako pariggahetabbo, cuditako pariggahetabbo, adhammacodako pariggahetabbo, adhammacuditako pariggahetabbo, dhammacodako pariggahetabbo, dhammacuditako pariggahetabbo, vuttaṃ ahāpentena avuttaṃ appakāsentena otiṇṇāni padabyañjanāni sādhukaṃ uggahetvā paro paripucchitvā yathāpaṭiññāya kāretabbo, mando hāsetabbo, bhīru assāsetabbo, caṇḍo nisedhetabbo, asuci vibhāvetabbo, ujumaddavena na chandāgati gantabbā, na dosāgati gantabbā, na mohāgati gantabbā, na bhayāgati gantabbā, majjhattena bhavitabbaṃ dhammesu ca puggalesu ca, evañca pana anuvijjako anuvijjamāno satthu ceva sāsanakaro hoti, viññūnañca sabrahmacārīnaṃ piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo cāti.
One should be skilled in seating, skilled in sitting. Looking just a yoke-length, discerning the meaning, one should sit in one's own seat. One should not rise from the seat, nor diminish the resolution, nor resort to a wrong path, nor speak with flailing arms. One should be unhurried and not reckless. One should be unaggressive and patient in speech. One should be endowed with a mind of loving-kindness and be concerned for welfare. One should be compassionate and seek for benefit. One should be free from idle talk and speak concisely. One should be free from following hatred and be not quarrelsome. One's self should be thoroughly examined, another should be thoroughly examined, the accuser should be thoroughly examined, the accused should be thoroughly examined, the accuser in accordance with unrighteousness should be thoroughly examined, the accused in accordance with unrighteousness should be thoroughly examined, the accuser in accordance with righteousness should be thoroughly examined, the accused in accordance with righteousness should be thoroughly examined. Without diminishing what has been said, without revealing what has not been said, having properly grasped the words and phrases that have come up, one should question another and proceed according to the acknowledgment. The dull-witted should be made to rejoice, the timid should be comforted, the fierce should be restrained, the impure should be exposed. With straightforwardness and gentleness, one should not go according to desire, not go according to hatred, not go according to delusion, not go according to fear. One should be impartial regarding both the Dhamma and individuals. And thus, the interrogator, when investigating, becomes one who acts according to the Teacher's dispensation, and is dear, pleasing, respected, and esteemed by wise fellow monks.
Phải khéo léo trong việc ngồi, khéo léo trong việc sắp xếp chỗ ngồi. Phải ngồi vào chỗ ngồi của mình, nhìn xa khoảng một ách xe, ghi nhớ ý nghĩa đã được quyết định hoặc cân nhắc hoặc giữ trong tâm. Không được đứng dậy khỏi chỗ ngồi, không được làm giảm bớt quyết định, không được đi sai đường, không được nói lời vung tay múa chân. Phải không vội vã, không hành động hấp tấp, không thô bạo, phải kiên nhẫn với lời nói không hay. Phải có tâm từ, có lòng trắc ẩn vì lợi ích, có lòng bi mẫn, tìm kiếm lợi ích. Phải không nói lời phù phiếm, phải nói lời có giới hạn. Phải không theo ý muốn của kẻ thù, không nói lời tranh cãi hoặc không có lời nói gây tranh cãi hoặc không có lời nói xấu gây tranh cãi. Phải tự xét mình, xét người khác, xét người cáo buộc, xét người bị cáo buộc, xét người cáo buộc phi pháp, xét người bị cáo buộc phi pháp, xét người cáo buộc đúng pháp, xét người bị cáo buộc đúng pháp. Không làm giảm bớt lời đã nói, không tiết lộ lời chưa nói, phải khéo léo nắm vững các từ ngữ và câu văn đã được trình bày, hỏi lại người khác và hành động đúng như lời đã hứa. Phải làm cho người ngu si vui vẻ hoặc khuyến khích, phải an ủi người nhút nhát hoặc làm cho họ được yên ổn, phải ngăn cản người hung bạo hoặc quở trách, phải làm rõ người bất tịnh hoặc làm cho họ sám hối. Phải đối xử với người ngay thẳng, mềm mỏng, không được đi theo thiên vị do dục vọng, không được đi theo thiên vị do sân hận, không được đi theo thiên vị do si mê, không được đi theo thiên vị do sợ hãi. Phải giữ thái độ trung lập đối với pháp và đối với các cá nhân. Và như vậy, người thẩm tra khi thẩm tra sẽ là người vâng lời bậc Đạo Sư, và sẽ được các bậc đồng Phạm hạnh trí tuệ yêu mến, hài lòng, đáng kính và đáng tu tập.