‘‘Ādayo titālīsa vaṇṇā’’ ‘‘titālīsādayo vaṇṇā’’ti vā vattabbanti na tathā sati sandiddhaṃ suttaṃ siyāti, nanu satthādo maṅgalavacanena bhavitabbaṃ, akāro paṭisedhatthopi hotīti (na) satthādo siddhasaddassopahitattā, atha hotva pubbā jhālādi saññā, saddasādhanamattappayojanattā pana sabbavidhānassa pubbācariya saññāvālametthāti kiṃ punāpi vaṇṇādisaññāvidhānena ganthagārava karaṇenāti saccametaṃ, pubbācariyesu pana gāravaṃ tadanugamanañca dīpetuṃ kāci saññāyopyanvākhyāyante, yajjevaṃ saṃyogasabbanāmalopādayopi saññā pubbācariyehi vuttā vattabbāti nanu bho vuttamevāmhehi’kāci saññāyo ākhyāyante’ti, kintadākhyānadvārena bhavatā tāpi viññātuṃ na sakkāti, kesañci sātthakattopi pativaṇṇamatthānupaladdhito vaṇṇānamadiṭṭhānamakārādīnamanukatiyo ihopadiṭṭhāityanukāriyenātthenātthavantatāya hotevākārādito vibhatti, lopena niddiṭṭhattā panassā assavanaṃ sannikaṃsavacanicchābhāvā saṃhitāyāniddeso, anukkamoti ādonissayā sarāvuttā, tato nissitā byañjanā, saresupi ekaṭṭhāniyā akārādayo bahuttā paṭhamaṃ vuttā ṭhānānukkamena, tato dvijā ṭhānānukkamena, tesupi rassāva lahuttā paṭhamaṃ vuttā, tato dīghā, byañjanesupi vaggā bahuttā ṭhānappaṭipāṭiyā paṭhamaṃ vuttā, tato yakārādayo, vaggesu ca aghosā paṭhamaṃ vuttā, tato ghosā, tesu ca sithilā paṭhamaṃ vuttā, tato dhanitā, tatthāpi appakattā dvijā pañcamā vuttā, tato yaralavā ghosabhūtā ṭhānānukkamena, tato dhanitā sakāraha kārā, tesupihakāro kesañci orasopi hotīti dvijattā pacchā vutto, kehici ‘‘laḷānamaviseso’’ti dvinnamavisese vuccamānepi lipibhedena ṭhānabhedena ca bhinnattā ḷakāro visuṃ akkharabhāvena gahito, sopi ghosabhāvena ṭhānānukkamenaca hakārato paraṃ vutto niggahītaṃ pana sarattādisabbavinimmuttattā sabbapacchā vuttanti akārādīnamayamanukkamo, imassevānukkamassa manasi vipassa vattamānattā titālīsāti gaṇanāparicchedassa dassitattā ca ‘niggahītantā’ti vuttiyaṃ vuttaṃ, pakataṃ sādhusaddānvākhyānaṃ, na vaṇṇīyate, ti saddasaṅkharaṇa saṅkhāta mukhyappayojanābhāvā, kiñcāpi na vaṇṇīyate, amhehi pana kathamakārādīnamayamanukkamo uppannoti sissānaṃ kaṅkhā vicchedappayojanampati anukkamasaddassa atthakathanabyājena vaṇṇito yevāti, karīyante uccārīyante etenāti karaṇaṃ, tattha jivhāmajjhaṃ tālujānaṃ, jivhopaggaṃ muddhajānaṃ, jivhaggaṃ, dantajānaṃ sesānaṃ sakaṭṭhānaṃ karaṇaṃ, payatti payatanaṃ, tampana vaṇṇuccāraṇato abbhantaro bāhiyo ca ussāho, tattha abbhantarapayatanaṃ-saṃvutattamakārassa, vivaṭattaṃ sarānaṃ sakārahakārānañca phuṭṭhattaṃ vaggānaṃ, īsaṃphuṭṭhattaṃ yaralavānaṃ, bāhiyapayatanantu saṃvutakaṇṭhatādi, ṭhānato paccāsattiyā vidhīyamānakāriyasambhavena payojanasambhavā āha-‘ṭhānampanā’tiādi, tiṭṭhanti ettha uppattivasena vaṇṇāti ṭhānaṃ, ‘‘e onama vaṇṇe’’ti (1-37) sutte vaṇṇeti kathanameva vaṇṇasaññākaraṇe payojanaṃ, yathāvuttamatthamaññatra byāpadisati’ eva’miccādinā, tasmā ‘‘dasādo sarā’’iccādo ‘tenā’tiādīsu ‘tena saraiccanena kvattho kasmiṃ sutte payojanaṃ taṃ dasseti ‘‘sarolopo sare’’ccādī’ti evamādinā attho daṭṭhabbo, ñāpeti vaṇṇalopanti ñāpakaṃ, kasmā pana’so cemināva ñāpakena siddho’ti vuccati nanu ‘tadaminādīni’’ti (1-47) suttaṃ dissatīti, (saccaṃ) tathāpi pakārantaroyampi vaṇṇalope dassitoti viññātabbaṃ, evasaddo pana ‘yadi ñāpakena vaṇṇalopo siyā so imināva ñāpakena siddho, nāññenā’ti avadhāreti.
It is said, "‘Forty-three sounds, etc.’ or ‘sounds, etc., forty-three’"; if it were so, the Sutta would be ambiguous. But surely the beginning of a treatise should be with an auspicious word. The letter 'a' can also be a prohibitive particle (but) not here, because it is preceded by the word 'siddha' (established). And then, there were the earlier designations like 'jhāla'. Since all the rules are merely for the purpose of linguistic derivation, the designation of earlier teachers is sufficient here. So why again provide designations like 'vaṇṇa' (sound) and create prolixity in the text? This is true. However, to show reverence for the former teachers and to follow them, some designations are also expounded. If that is the case, then designations such as 'saṃyoga' (conjunct), 'sabbanāma' (pronoun), and 'lopa' (elision), which were stated by earlier teachers, should also be mentioned, shouldn't they? Indeed, we have said, 'some designations are expounded.' But can you not understand them through that exposition? Since some are meaningful, and no meaning is found in each letter, the imitations of the unseen letters such as 'a' are taught here; thus, by the imitative meaning, there is a vibhatti (inflection) from 'a' etc. due to their having meaning. But because it is indicated by 'lopa', there is its non-audition due to the absence of a desire for proximate utterance, and non-mention in sandhi. Regarding the sequence: first, the independent vowels are stated; then, the dependent consonants. Among vowels, the 'a' group, being of a single place of articulation and numerous, are stated first, in order of articulation. Then the 'dvija' (diphthongs) in order of articulation. Among these, the short ones are stated first due to their brevity, then the long ones. Among consonants, the 'vaggas' (stops), being numerous, are stated first in the order of articulation; then the 'y' group. In the 'vaggas', the voiceless are stated first, then the voiced. Among these, the aspirated are stated first, then the unaspirated. Even there, the 'dvija' (nasals of the fifth group), being fewer, are stated fifth. Then 'y, r, l, v', being voiced, are stated in order of articulation. Then the unaspirated 's' and 'h'. Among these, 'h' is said by some to be articulated in the chest, so it is stated later due to its being 'dvija'. Although some say "no distinction between 'l' and 'ḷ'", 'ḷ' is taken as a separate letter due to distinction in script and place of articulation. It is stated after 'h' due to its voiced nature and order of articulation. 'Niggahīta', however, being free from all distinctions such as being a vowel, is stated last. This is the sequence of 'a' etc. Because this very sequence is present in the mind, and the definite number 'forty-three' is shown, it is said in the commentary: "ending with niggahīta." The exposition of proper sounds is well-made and is not described, because there is no main purpose such as creating sounds. Although it is not described, we have indeed described how this sequence of 'a' etc. arose, by way of explaining the meaning of the word 'anukkama', for the purpose of removing the students' doubts. A 'karaṇa' is that by which sounds are made or pronounced. In this regard, the middle of the tongue is the 'karaṇa' for the palatal sounds, the front of the tongue for the cerebral sounds, the tip of the tongue for the dental sounds, and their own place of articulation for the others. 'Payatti' is effort. This is the inner and outer exertion for pronouncing sounds. The inner effort is: 'saṃvutatta' (closed) for 'a'; 'vivaṭatta' (open) for vowels, 's' and 'h'; 'phuṭṭhatta' (touched) for the 'vaggas'; 'īsaṃphuṭṭhatta' (slightly touched) for 'y, r, l, v'. The outer effort is 'saṃvutakaṇṭhatā' (constriction of the throat), etc. Since the desired action is possible due to proximity to the place of articulation, and thus the purpose is possible, he says, "And 'ṭhāna' (place of articulation)," etc. 'Ṭhāna' is where sounds originate. In the Sutta "e onama vaṇṇe", merely stating 'vaṇṇa' is the purpose of designating 'vaṇṇa'. He explains the meaning just stated elsewhere with "evaṃ," etc. Therefore, in phrases like "dasādo sarā" (ten vowels first), and "tena" etc., the meaning should be understood thus: "By 'tena sara' (by that vowel), what is the purpose in which Sutta? He shows it with 'sarolopo sare' (elision of vowel before a vowel), etc." 'Ñāpaka' is that which makes known the elision of sounds. Why is it said, "It is established by this 'ñāpaka' alone"? Does the Sutta "tadaminādīni" (1-47) not exist? (True), yet this is another way to show the elision of sounds, so it should be understood. The word 'eva' emphasizes, "If the elision of sounds were by a 'ñāpaka', it would be established by this 'ñāpaka' alone, and not by another."
Nếu nói rằng: "Bốn mươi ba vaṇṇa (chữ cái) là ādi (khởi đầu)" hoặc "Bốn mươi ba vaṇṇa là ādi", thì kinh sẽ trở nên mơ hồ. Há chẳng phải khởi đầu của giáo pháp phải là một lời cát tường sao? Chữ "a" cũng có thể mang nghĩa phủ định (không). (Không phải vậy), vì ở khởi đầu của giáo pháp, từ "siddha" đã được đặt vào. Hoặc giả, trước đây đã có những định danh như "jhāla" v.v. Nhưng vì toàn bộ quy tắc chỉ nhằm mục đích tạo lập từ ngữ, nên ở đây chỉ cần những định danh của các bậc đạo sư tiền bối là đủ. Vậy tại sao lại phải làm cho văn bản trở nên nặng nề bằng cách quy định lại các định danh vaṇṇa v.v. nữa? Điều này là đúng. Tuy nhiên, để thể hiện sự tôn kính và noi theo các bậc đạo sư tiền bối, một số định danh cũng được giải thích. Nếu vậy, các định danh như saṃyoga (phụ âm kép), sabbanāma (đại danh từ), lopa (lược bỏ) v.v. cũng đã được các bậc đạo sư tiền bối nói đến, vậy có cần phải nói lại không? Này quý vị, chúng tôi đã nói rằng: "Một số định danh được giải thích." Vậy thì, thông qua cách giải thích đó, quý vị không thể hiểu được chúng sao? Đối với một số người, mặc dù có ý nghĩa, nhưng vì không tìm thấy ý nghĩa trong từng vaṇṇa, nên các chữ cái ā, kārādi (khởi đầu bằng a) không được thấy, các sự mô phỏng chúng được chỉ ra ở đây. Do đó, với ý nghĩa của sự mô phỏng, các vibhatti (biến cách) từ ā, kārādi có ý nghĩa. Tuy nhiên, vì chúng được chỉ định bằng sự lược bỏ (lopa), nên chúng không được nghe thấy. Do không có ý muốn nói gần nhau, nên chúng không được chỉ định trong saṃhitā (sự nối âm). Về thứ tự (anukkamo): trước hết, các nguyên âm (sarā) không phụ thuộc được nói đến. Sau đó là các phụ âm (byañjanā) phụ thuộc. Trong các nguyên âm, các chữ cái ā, kārādi có cùng vị trí phát âm, vì số lượng nhiều nên được nói đến trước theo thứ tự vị trí. Sau đó là các nguyên âm kép (dvijā) theo thứ tự vị trí. Trong số đó, các nguyên âm ngắn (rassā) vì nhẹ hơn nên được nói đến trước. Sau đó là các nguyên âm dài (dīghā). Trong các phụ âm, các varga (nhóm phụ âm) vì số lượng nhiều nên được nói đến trước theo thứ tự vị trí. Sau đó là các chữ cái ya, rā, lā, vā. Trong các varga, các phụ âm vô thanh (aghosa) được nói đến trước. Sau đó là các phụ âm hữu thanh (ghosa). Trong số đó, các phụ âm mềm (sithilā) được nói đến trước. Sau đó là các phụ âm mạnh (dhanitā). Trong đó, các phụ âm kép (dvijā) vì ít hơn nên được nói đến thứ năm. Sau đó là ya, ra, la, va là các phụ âm hữu thanh theo thứ tự vị trí. Sau đó là các phụ âm mạnh sa, kāra, ha, kāra. Trong số đó, ha, kāra đối với một số người cũng là âm ngực (orasa), vì là âm kép nên được nói sau. Mặc dù một số người nói "laḷānaṃ aviseso" (không có sự khác biệt giữa la và ḷa) khi nói về sự không khác biệt giữa hai âm này, nhưng vì sự khác biệt về chữ viết và vị trí phát âm, ḷakāra được coi là một chữ cái riêng biệt. Nó cũng được nói đến sau hakāra theo thứ tự vị trí và là âm hữu thanh. Niggahīta (ṃ) thì vì không thuộc về nguyên âm v.v. nên được nói đến cuối cùng. Đây là thứ tự của các chữ cái ā, kārādi. Vì thứ tự này đang hiện hữu trong tâm trí và vì sự phân định số lượng là "bốn mươi ba" đã được chỉ ra, nên trong lời nói có câu "niggahītantā" (kết thúc bằng niggahīta). Việc giải thích từ "sādhu" đã được hoàn thành, không cần phải giải thích thêm, vì không có mục đích chính là tập hợp các âm. Mặc dù không được giải thích, nhưng để giải tỏa nghi ngờ của các học trò về việc "thứ tự của các chữ cái ā, kārādi này xuất hiện như thế nào?", chúng tôi đã giải thích nó dưới danh nghĩa giải thích ý nghĩa của từ "anukkama". Karaṇa (công cụ) là cái mà nhờ đó các âm được phát ra, được đọc. Ở đó, giữa lưỡi là karaṇa cho các âm vòm (tālujānaṃ), đầu lưỡi là karaṇa cho các âm đỉnh lưỡi (muddhajānaṃ), đầu lưỡi là karaṇa cho các âm răng (dantajānaṃ), vị trí riêng của các âm còn lại là karaṇa. Payatti (sự cố gắng) là sự nỗ lực, đó là sự cố gắng bên trong và bên ngoài để phát âm các chữ cái. Trong đó, sự cố gắng bên trong là: sự đóng lại của âm a (saṃvutattaṃ akārassa), sự mở ra của các nguyên âm (vivaṭattaṃ sarānaṃ), sự chạm nhẹ của sa, kāra, ha, kāra, sự chạm của các varga (phuṭṭhattaṃ vaggānaṃ), sự chạm rất nhẹ của ya, ra, la, va (īsaṃphuṭṭhattaṃ yaralavānaṃ). Sự cố gắng bên ngoài thì là sự đóng cổ họng v.v. Vì có thể xảy ra các hành động được quy định bởi sự gần gũi với vị trí phát âm, nên có thể có mục đích. Do đó, câu nói "ṭhānampanā" v.v. đã được đưa ra. Ṭhāna (vị trí phát âm) là nơi các chữ cái phát sinh. Trong kinh "e onama vaṇṇe" (1-37), việc nói "vaṇṇe" chính là mục đích của việc tạo định danh vaṇṇa. Ý nghĩa đã nói ở trên được chỉ ra ở nơi khác bằng cách nói "evaṃ" v.v. Do đó, trong các câu như "dasādo sarā" v.v. và "tenā" v.v., ý nghĩa phải được hiểu như sau: "Cái gì là mục đích của 'tena sara' trong kinh nào? Điều đó được chỉ ra bằng 'sarolopo sare' v.v." Ñāpaka (cái chỉ ra) là cái làm cho sự lược bỏ vaṇṇa được biết đến. Tại sao lại nói rằng "nó được chứng minh chỉ bằng cái ñāpaka này"? Há chẳng phải kinh "tadaminādīni" (1-47) đã được thấy sao? (Đúng vậy), tuy nhiên, điều này cũng được biết đến là một cách khác để chỉ ra sự lược bỏ vaṇṇa. Còn từ "eva" thì xác định rằng: "Nếu sự lược bỏ vaṇṇa xảy ra do ñāpaka, thì nó được chứng minh chỉ bằng ñāpaka này, không phải bằng ñāpaka nào khác."