Bodhisatto pana pātova gandhodakena nhatvā satasahassagghanakaṃ kāsikavatthaṃ nivāsetvā sabbālaṅkārapaṭimaṇḍito nānaggarasabhojanaṃ bhuñjitvā mahantena parivārena rājadvāraṃ gantvā ‘‘pavisatu me putto’’ti vutte pavisitvā rājānaṃ vanditvā ekamantaṃ ṭhatvā ‘‘kuhiṃ gamissasi, tātā’’ti vutte ‘‘dhammayuddhamaṇḍalaṃ gamissāmī’’ti āha.
But the Bodhisatta, having bathed with scented water early in the morning, dressed in Kāsika cloth worth one hundred thousand, adorned with all ornaments, having eaten various excellent foods, went to the royal gate with a large retinue. When it was said, "Let my son enter," he entered, bowed to the king, and stood aside. When asked, "Where will you go, my dear?" he replied, "I will go to the Dhammayuddha arena."
Còn Bồ tát, sáng sớm đã tắm gội bằng nước thơm, mặc y phục Kāsi trị giá một trăm ngàn, trang hoàng đầy đủ mọi đồ trang sức, dùng bữa với các món ăn ngon và quý giá, rồi cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến cổng hoàng cung. Khi được nói: “Con trai ta hãy vào,” Ngài bước vào, cúi lạy nhà vua, đứng sang một bên. Khi được hỏi: “Con sẽ đi đâu, con trai?”, Ngài đáp: “Con sẽ đi đến đài chiến pháp.”
‘‘Kiṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
"What is proper to obtain?"
“Con muốn nhận gì?”
‘‘Deva, kevaṭṭabrāhmaṇaṃ maṇiratanena vañcetukāmomhi, aṭṭhavaṅkaṃ maṇiratanaṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Your Majesty, I wish to deceive Kevaṭṭa Brahmin with a jewel. It is proper to obtain a jewel with eight facets."
“Tâu Đại vương, con muốn lừa Bà la môn Kevaṭṭa bằng một viên ngọc quý. Con cần một viên ngọc quý có tám góc.”
‘‘Gaṇha, tātā’’ti.
"Take it, my dear."
“Hãy lấy đi, con trai!”
So taṃ gahetvā rājānaṃ vanditvā rājanivesanā otiṇṇo sahajātehi yodhasahassehi parivuto navutikahāpaṇasahassagghanakaṃ setasindhavayuttaṃ rathavaramāruyha pātarāsavelāya dvārasamīpaṃ pāpuṇi.
He took it, bowed to the king, descended from the royal residence, surrounded by thousands of his born-together warriors, mounted an excellent chariot yoked with white Sindhu horses worth ninety thousand Kahāpaṇas, and reached near the gate at breakfast time.
Ngài cầm lấy viên ngọc đó, cúi lạy nhà vua, rời khỏi hoàng cung, được bao quanh bởi hàng ngàn chiến sĩ đồng hương, Ngài lên chiếc xe ngựa tốt nhất được kéo bởi những con ngựa Sindhu trắng trị giá chín mươi ngàn đồng kahāpaṇa, và đến gần cổng vào giờ ăn sáng.
Kevaṭṭo pana ‘‘idāni āgamissati, idāni āgamissatī’’ti tassāgamanaṃ olokentoyeva aṭṭhāsi, olokanena dīghagīvataṃ patto viya ahosi, sūriyatejena sedā muccanti.
Kevaṭṭa, however, stood there looking out for his arrival, thinking, "Now he will come, now he will come." By looking out, he became as if long-necked, and sweat was released by the sun's heat.
Còn Kevaṭṭa, đứng chờ Ngài đến, nói: “Bây giờ ông ấy sẽ đến, bây giờ ông ấy sẽ đến,” dường như cổ đã dài ra vì ngóng trông, mồ hôi tuôn ra vì sức nóng của mặt trời.
Mahāsattopi mahāparivāratāya mahāsamuddo viya ajjhottharanto kesarasīho viya achambhito vigatalomahaṃso dvāraṃ vivarāpetvā nagarā nikkhamma rathā oruyha sīho viya vijambhamāno pāyāsi.
The Great Being, too, with his great retinue, overwhelming like a great ocean, fearless like a lion with a mane, without a thrill of fear, had the gate opened, exited the city, dismounted from the chariot, and proceeded, stretching himself like a lion.
Bậc Đại Sĩ, với đoàn tùy tùng đông đảo như biển lớn tràn ngập, không hề run sợ như sư tử chúa, không một sợi lông nào dựng đứng, cho mở cổng thành, rời khỏi thành phố, xuống xe ngựa, vươn vai như sư tử và bước đi.
Ekasatarājānopi tassa rūpasiriṃ disvā ‘‘esa kira sirivaḍḍhanaseṭṭhiputto mahosadhapaṇḍito paññāya sakalajambudīpe adutiyo’’ti ukkuṭṭhisahassāni pavattayiṃsu.
Even the hundred and one kings, seeing his splendid appearance, raised thousands of shouts of acclamation, saying, "This is indeed Mahosadha Paṇḍita, the son of Sirivaḍḍhana the merchant, unrivalled in wisdom throughout the entire Jambudīpa!"
Một trăm vị vua kia, thấy vẻ đẹp và sự uy nghi của Ngài, đã reo hò hàng ngàn tiếng khen ngợi: “Đây chính là Đại Dược Sĩ, con trai của trưởng giả Sirivaḍḍhana, người không có đối thủ về trí tuệ trên toàn cõi Jambudīpa!”
Sopi marugaṇaparivuto viya sakko anomena sirivibhavena taṃ maṇiratanaṃ hatthena gahetvā kevaṭṭābhimukho agamāsi.
He, too, like Sakka surrounded by a host of devas, with immense glory and splendor, took that jewel in his hand and approached Kevaṭṭa.
Ngài, được bao quanh như Sakka (Thích Ca) bởi đoàn tùy tùng của các vị thần gió, với sự uy nghi và lộng lẫy vô song, cầm viên ngọc quý đó trên tay và đi về phía Kevaṭṭa.
Kevaṭṭopi taṃ disvāva sakabhāvena saṇṭhātuṃ asakkonto paccuggamanaṃ katvā evamāha – ‘‘paṇḍita mahosadha, mayaṃ dve paṇḍitā, amhākaṃ tumhe nissāya ettakaṃ kālaṃ vasantānaṃ tumhehi paṇṇākāramattampi na pesitapubbaṃ, kasmā evamakatthā’’ti?
Kevaṭṭa, seeing him, unable to remain in his normal state, went forth to meet him and said, "O Paṇḍita Mahosadha, we are two wise men. While we have been residing here for so long relying on you, you have never sent even a small present. Why did you do this?"
Kevaṭṭa, vừa thấy Ngài, không thể giữ được vẻ tự nhiên của mình, liền đi ra đón và nói: “Hiền trí Đại Dược Sĩ, chúng ta là hai bậc hiền trí, chúng tôi đã ở đây lâu như vậy nhờ vào ngài, nhưng ngài chưa bao giờ gửi cho chúng tôi dù chỉ một món quà. Tại sao ngài lại làm như vậy?”
Atha naṃ mahāsatto ‘‘paṇḍita, tumhākaṃ anucchavikaṃ paṇṇākāraṃ olokentā ajja mayaṃ imaṃ maṇiratanaṃ labhimhā, handa, imaṃ maṇiratanaṃ gaṇhatha, evarūpaṃ nāma aññaṃ maṇiratanaṃ natthī’’ti āha.
Then the Great Being said to him, "O Paṇḍita, while looking for a suitable present for you, today we obtained this jewel. Here, take this jewel; there is no other jewel like this."
Bấy giờ, bậc Đại Sĩ nói với ông ta: “Thưa hiền trí, chúng tôi đã tìm kiếm một món quà xứng đáng với ngài, và hôm nay chúng tôi đã tìm được viên ngọc quý này. Này, hãy nhận lấy viên ngọc quý này, không có viên ngọc quý nào khác như vậy đâu.”
So tassa hatthe jalamānaṃ maṇiratanaṃ disvā ‘‘dātukāmo me bhavissatī’’ti cintetvā ‘‘tena hi, paṇḍita, dehī’’ti hatthaṃ pasāresi.
Seeing the shining jewel in his hand, he thought, "He will want to give it to me," and stretching out his hand, he said, "Then, O Paṇḍita, give it."
Ông ta thấy viên ngọc quý lấp lánh trong tay Ngài, nghĩ: “Ông ấy sẽ cho mình,” rồi nói: “Vậy thì, hiền trí, hãy đưa cho tôi,” và đưa tay ra.
Mahāsatto ‘‘gaṇhāhi, ācariyā’’ti khipitvā pasāritahatthassa aṅgulīsu pātesi.
The Great Being, saying, "Take it, teacher," threw it and dropped it onto the fingers of his outstretched hand.
Bậc Đại Sĩ nói: “Hãy lấy đi, thưa đạo sư,” rồi ném viên ngọc vào các ngón tay của bàn tay đang duỗi ra.
Brāhmaṇo garuṃ maṇiratanaṃ aṅgulīhi dhāretuṃ nāsakkhi.
The brahmin could not hold the heavy jewel with his fingers.
Bà la môn không thể giữ được viên ngọc quý nặng bằng các ngón tay.
Maṇiratanaṃ parigaḷitvā mahāsattassa pādamūle pati.
The jewel slipped and fell at the Great Being's feet.
Viên ngọc quý rơi xuống chân bậc Đại Sĩ.
Brāhmaṇo lobhena ‘‘gaṇhissāmi na’’nti tassa pādamūle oṇato ahosi.
Out of greed, the brahmin bent down at his feet, thinking, "I will take it."
Bà la môn vì lòng tham, cúi xuống chân Ngài, nghĩ: “Mình sẽ lấy nó.”
Athassa mahāsatto uṭṭhātuṃ adatvā ekena hatthena khandhaṭṭhike, ekena piṭṭhikacchāyaṃ gahetvā ‘‘uṭṭhetha ācariya, uṭṭhetha ācariya, ahaṃ atidaharo tumhākaṃ nattumatto, mā maṃ vandathā’’ti vadanto aparāparaṃ katvā mukhaṃ bhūmiyaṃ ghaṃsitvā lohitamakkhitaṃ katvā ‘‘andhabāla, tvaṃ mama santikā vandanaṃ paccāsīsasī’’ti gīvāyaṃ gahetvā khipi.
Then the Great Being, not allowing him to rise, held him by the shoulder bone with one hand and by the back of his neck with the other, and saying, "Rise, teacher, rise, teacher, I am too young, merely your grandson, do not bow to me," he pushed him back and forth, rubbed his face on the ground until it was smeared with blood, and saying, "You blind fool, do you expect a bow from me?" he grabbed him by the neck and threw him.
Bấy giờ, bậc Đại Sĩ không cho ông ta đứng dậy, một tay nắm lấy vai, một tay nắm lấy thắt lưng, nói: “Hãy đứng dậy, thưa đạo sư, hãy đứng dậy, thưa đạo sư, tôi còn quá trẻ, chỉ đáng tuổi cháu của ngài, đừng cúi lạy tôi,” vừa nói vừa đẩy ông ta qua lại, chà mặt ông ta xuống đất khiến máu chảy đầy mặt, rồi nói: “Tên ngu xuẩn mù quáng kia, ngươi mong đợi sự cúi lạy từ ta sao?” rồi nắm lấy cổ ông ta và ném đi.
So usabhamatte ṭhāne patitvā uṭṭhāya palāyi.
He fell about an ox's length away, got up, and fled.
Ông ta ngã xuống một khoảng bằng một con bò đực, rồi đứng dậy và bỏ chạy.
Maṇiratanaṃ pana mahāsattassa manussāyeva gaṇhiṃsu.
The jewel, however, was picked up by the Great Being's men.
Còn viên ngọc quý thì được người của bậc Đại Sĩ nhặt lấy.
Bodhisattassa pana ‘‘uṭṭhetha ācariya, uṭṭhetha ācariya, mā maṃ vandathā’’ti vacīghoso sakalaparisaṃ chādetvā aṭṭhāsi.
The sound of the Bodhisatta's words, "Rise, teacher, rise, teacher, do not bow to me," filled the entire assembly.
Tiếng nói của Bồ tát: “Hãy đứng dậy, thưa đạo sư, hãy đứng dậy, thưa đạo sư, đừng cúi lạy tôi,” đã bao trùm toàn bộ hội chúng.
‘‘Kevaṭṭabrāhmaṇo mahosadhassa pāde vandatī’’ti purisāpissa ekappahāreneva unnādādīni akaṃsu.
The men immediately raised shouts and other noises, saying, "Kevaṭṭa brahmin bows at Mahosadha's feet!"
Những người đàn ông cũng đồng thanh reo hò, v.v., nói: “Bà la môn Kevaṭṭa đang cúi lạy chân Đại Dược Sĩ!”
Brahmadattaṃ ādiṃ katvā sabbepi te rājāno kevaṭṭaṃ mahāsattassa pādamūle oṇataṃ addasaṃsuyeva.
All those kings, beginning with Brahmadatta, indeed saw Kevaṭṭa bowing at the Great Being's feet.
Tất cả các vị vua, bắt đầu từ Brahmadatta, đều thấy Kevaṭṭa cúi xuống chân bậc Đại Sĩ.
Te ‘‘amhākaṃ paṇḍitena mahosadho vandito, idāni parājitamhā, na no jīvitaṃ dassatī’’ti attano attano asse abhiruhitvā uttarapañcālābhimukhā palāyituṃ ārabhiṃsu.
They thought, "Our wise man has bowed to Mahosadha; now we are defeated, he will not spare our lives," and mounting their respective horses, they began to flee towards Uttarapañcāla.
Họ nghĩ: “Vị hiền trí của chúng ta đã cúi lạy Đại Dược Sĩ, bây giờ chúng ta đã thất bại, ông ấy sẽ không tha mạng cho chúng ta,” rồi họ lên ngựa của mình và bắt đầu bỏ chạy về phía Uttarapañcāla.
Te palāyante disvā bodhisattassa purisā ‘‘cūḷanibrahmadatto ekasatakhattiye gahetvā palāyatī’’ti puna ukkuṭṭhimakaṃsu.
Seeing them flee, the Bodhisatta's men again raised a shout, saying, "Cūḷanibrahmadatta is fleeing, taking the hundred and one khattiyas!"
Thấy họ bỏ chạy, những người của Bồ tát lại reo hò: “Tiểu Nibbrahmadatta đang bỏ chạy cùng với một trăm vị Sát đế lỵ!”
Taṃ sutvā te rājāno maraṇabhayabhītā bhiyyosomattāya palāyantā senaṅgaṃ bhindiṃsu.
Hearing that, those kings, terrified by the fear of death, fled even more, breaking up their army.
Nghe vậy, các vị vua đó, sợ hãi cái chết, càng bỏ chạy nhanh hơn, làm tan rã quân đội của mình.
Bodhisattassa purisāpi nadantā vaggantā suṭṭhutaraṃ kolāhalamakaṃsu.
The Bodhisatta's men also roared and shouted, making a great clamor.
Những người của Bồ tát cũng gầm thét, hò reo, tạo ra một sự hỗn loạn lớn hơn nữa.
Mahāsatto senaṅgaparivuto nagarameva pāvisi.
The Great Being, surrounded by his army, entered the city.
Bậc Đại Sĩ, được bao quanh bởi quân đội, tiến vào thành phố.
Cūḷanibrahmadattassa senāpi tiyojanamattaṃ pakkhandi.
Cūḷanibrahmadatta's army also scattered for three yojanas.
Quân đội của Tiểu Nibbrahmadatta cũng đã tản ra xa ba dojana.
Kevaṭṭo assaṃ abhiruyha nalāṭe lohitaṃ puñchamāno senaṃ patvā assapiṭṭhiyaṃ nisinnova ‘‘bhonto mā palāyatha, bhonto mā palāyatha, nāhaṃ gahapatiputtaṃ vandāmi, tiṭṭhatha tiṭṭhathā’’ti āha.
Kevaṭṭa, mounting his horse, wiping the blood from his forehead, reached the army and, while seated on the horse's back, said, "Sirs, do not flee, sirs, do not flee! I did not bow to the householder's son! Stop, stop!"
Kevaṭṭa lên ngựa, lau máu trên trán, đến chỗ quân đội, ngồi trên lưng ngựa và nói: “Thưa quý vị, đừng bỏ chạy! Thưa quý vị, đừng bỏ chạy! Tôi không cúi lạy con trai của gia chủ đó đâu! Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!”
Senā asaddahantā aṭṭhatvā āgacchantaṃ kevaṭṭaṃ akkosantā paribhāsantā ‘‘pāpadhamma duṭṭhabrāhmaṇa, ‘dhammayuddhaṃ nāma karissāmī’ti vatvā nattumattaṃ appahontampi vandati, natthi tava kattabba’’nti kathaṃ asuṇantā viya gacchanteva.
The army, not believing, stood there, reviling and abusing the fisherman who was approaching, saying, "Evil-natured, wicked brahmin, saying, 'I will wage a righteous war,' you bow down to one who is not even a grandson; you have nothing to do here!" They went on as if not hearing his words.
Quân đội không tin, không dừng lại, mà còn mắng nhiếc, chửi rủa Kevaṭṭa đang đến: “Tên Bà la môn độc ác, xấu xa kia, ngươi nói sẽ thực hiện ‘chiến pháp’, nhưng lại cúi lạy một kẻ còn đáng tuổi cháu! Ngươi chẳng có việc gì để làm sao?” Họ cứ thế bỏ đi như không nghe thấy lời ông ta.
So vegena gantvā senaṃ pāpuṇitvā ‘‘bhonto vacanaṃ saddahatha mayhaṃ, nāhaṃ taṃ vandāmi, maṇiratanena maṃ vañcesī’’ti sabbepi te rājāno nānākāraṇehi sambodhetvā attano kathaṃ gaṇhāpetvā tathā bhinnaṃ senaṃ paṭinivattesi.
He went quickly, reached the army, and said, "Sirs, believe my words; I did not bow to him; he tricked me with a jewel!" Having thus convinced all those kings with various reasons and made them accept his words, he turned back the army that had thus broken ranks.
Ông ta nhanh chóng đuổi theo, đến chỗ quân đội, nói: “Thưa quý vị, hãy tin lời tôi! Tôi không cúi lạy ông ta đâu! Ông ta đã lừa tôi bằng viên ngọc quý!” Ông ta thuyết phục tất cả các vị vua đó bằng nhiều lý lẽ khác nhau, khiến họ chấp nhận lời ông ta, rồi cho quân đội đã tan rã quay trở lại.
Sā pana tāva mahatī senā sace ekekapaṃsumuṭṭhiṃ vā ekekaleḍḍuṃ vā gahetvā nagarābhimukhā khipeyya, parikhaṃ pūretvā pākārappamāṇā rāsi bhaveyya.
That great army, if each person were to take a handful of dust or a clod of earth and throw it towards the city, it would fill the moat and become a pile as high as the city wall.
Nếu mỗi người trong đội quân khổng lồ đó cầm một nắm đất hoặc một cục đất sét ném về phía thành phố, thì sẽ lấp đầy hào và tạo thành một đống cao bằng tường thành.
Bodhisattānaṃ pana adhippāyo nāma samijjhatiyeva, tasmā ekopi paṃsumuṭṭhiṃ vā leḍḍuṃ vā nagarābhimukhaṃ khipanto nāma nāhosi.
However, the intention of Bodhisattas always succeeds. Therefore, not a single person threw a handful of dust or a clod of earth towards the city.
Ý nguyện của các vị Bồ tát luôn thành tựu, do đó không một ai ném dù chỉ một nắm đất hay một cục đất về phía thành phố.
Sabbepi te nivattitvā attano attano khandhāvāraṭṭhānameva paccāgamiṃsu.
All of them turned back and returned to their respective encampments.
Tất cả bọn họ đều quay trở lại doanh trại của mình.
Rājā kevaṭṭaṃ pucchi ‘‘kiṃ karoma, ācariyā’’ti.
The king asked the fisherman, "What shall we do, teacher?"
Vua hỏi Kevaṭṭa: “Thưa thầy, chúng ta nên làm gì?”
‘‘Deva, kassaci cūḷadvārena nikkhamituṃ adatvā sañcāraṃ chindāma, manussā nikkhamituṃ alabhantā ukkaṇṭhitvā dvāraṃ vivarissanti, atha mayaṃ paccāmittaṃ gaṇhissāmā’’ti.
"Your Majesty, we will cut off traffic, not allowing anyone to exit through the small gate. The people, unable to exit, will become restless and open the gate. Then we will capture the enemy."
“Tâu Đại vương, chúng ta hãy cắt đứt mọi lối đi lại, không cho ai ra vào bằng các cổng nhỏ. Khi không thể ra ngoài, người dân sẽ chán nản và mở cổng. Lúc đó chúng ta sẽ bắt kẻ thù.”
Paṇḍito taṃ pavattiṃ purimanayeneva ñatvā cintesi ‘‘imesu ciraṃ idheva vasantesu phāsukaṃ nāma natthi.
The wise one, knowing that situation in the same way as before, thought, "It is not comfortable for them to stay here for a long time.
Vị hiền triết, biết được sự việc ấy theo cách cũ, suy nghĩ: “Nếu bọn chúng cứ ở đây lâu như vậy thì không có lợi gì cả.
Upāyeneva te palāpetuṃ vaṭṭatī’’ti.
It is proper to make them flee by stratagem."
Nên dùng mưu kế để khiến chúng bỏ đi.”
So ‘‘mantena te palāpessāmī’’ti ekaṃ mantakusalaṃ upadhārento anukevaṭṭaṃ nāma brāhmaṇaṃ disvā taṃ pakkosāpetvā ‘‘ācariya, amhākaṃ ekaṃ kammaṃ niddharituṃ vaṭṭatī’’ti āha.
So, thinking, "I will make them flee by a charm," he looked for an expert in charms, found a brahmin named Anukevaṭṭa, had him called, and said, "Teacher, it is proper for us to accomplish a certain task."
Ngài nghĩ: “Ta sẽ dùng thần chú để khiến chúng bỏ đi,” và tìm kiếm một người giỏi về thần chú. Ngài thấy một Bà la môn tên là Anukevaṭṭa, cho người gọi ông ta đến và nói: “Thưa thầy, chúng ta có một việc cần làm.”
‘‘Kiṃ karoma, paṇḍita, vadehī’’ti.
"What shall I do, wise one? Tell me."
“Thưa hiền triết, chúng ta nên làm gì, xin hãy nói.”
‘‘Ācariya, tumhe anupākāre ṭhatvā amhākaṃ manussānaṃ pamādaṃ oloketvā antarantarā brahmadattassa manussānaṃ pūvamacchamaṃsādīni khipitvā ‘‘ambho, idañcidañca khādatha mā ukkaṇṭhatha, aññaṃ katipāhaṃ vasituṃ vāyamatha, nagaravāsino pañjare baddhakukkuṭā viya ukkaṇṭhitā nacirasseva vo dvāraṃ vivarissanti.
"Teacher, you should stand near the city wall, observe the carelessness of our people, and occasionally throw cakes, fish, and meat to the people of Brahmadatta, saying, 'Hey, eat this and that, do not be restless. Try to stay a few more days. The city dwellers, like cocks confined in a cage, will become restless and soon open the gate for you.
“Thưa thầy, thầy hãy đứng bên ngoài thành lũy, quan sát sự lơ là của người của chúng ta. Thỉnh thoảng, hãy ném bánh, cá, thịt, v.v., cho người của Brahmadatta và nói: ‘Này các ông, hãy ăn cái này cái kia, đừng chán nản. Hãy cố gắng ở lại thêm vài ngày nữa. Dân thành sẽ chán nản như những con gà bị nhốt trong lồng và sẽ sớm mở cổng cho các ông.
Atha tumhe vedehañca duṭṭhagahapatiputtañca gaṇhissathā’’ti vadeyyātha.
Then you will capture Vedeha and the wicked householder's son.'"
Lúc đó các ông sẽ bắt được Vedeha và con trai của gia chủ độc ác.’”
Amhākaṃ manussā taṃ kathaṃ sutvā tumhe akkositvā tajjetvā brahmadattassa manussānaṃ passantānaññeva tumhe hatthapādesu gahetvā veḷupesikādīhi paharantā viya hutvā kese ohāretvā pañca cūḷā gāhāpetvā iṭṭhakacuṇṇena okirāpetvā kaṇavīramālaṃ kaṇṇe katvā katipayapahāre datvā piṭṭhiyaṃ rājiyo dassetvā pākāraṃ āropetvā sikkāya pakkhipitvā yottena otāretvā ‘‘gaccha mantabhedaka, corā’’ti cūḷanibrahmadattassa manussānaṃ dassanti.
"Our people, hearing those words, will revile and threaten you. Then, while Brahmadatta's people are watching, they will seize you by your hands and feet, pretend to beat you with bamboo strips and other things, pull out your hair, make you wear five topknots, sprinkle you with brick dust, place a garland of oleander in your ears, give you a few blows, show stripes on your back, lift you onto the city wall, put you in a basket, lower you with a rope, and say, 'Go, charlatan, thief!' They will show you to the people of Brahmadatta, who are at the small gate."
Người của chúng ta, nghe những lời đó, sẽ mắng chửi và đe dọa thầy. Sau đó, trước mặt người của Brahmadatta, họ sẽ giả vờ nắm tay chân thầy, đánh thầy bằng gậy tre và những thứ tương tự, cạo tóc, làm năm chỏm tóc, rắc bột gạch lên người, đeo vòng hoa cây trúc đào vào tai, đánh vài roi vào lưng để tạo vết sẹo, rồi đẩy thầy lên thành lũy, bỏ vào giỏ, dùng dây thả xuống và nói: “Cút đi, kẻ phá hoại thần chú, lũ trộm cắp!” và cho người của Brahmadatta ở cổng nhỏ thấy.
Te taṃ rañño santikaṃ ānessanti.
"They will bring you to the king."
Họ sẽ đưa thầy đến trước mặt nhà vua.
Rājā taṃ disvā ‘‘ko te aparādho’’ti pucchissati.
"The king, seeing you, will ask, 'What is your offense?'"
Nhà vua thấy thầy sẽ hỏi: “Ông đã phạm tội gì?”
Athassa evaṃ vadeyyātha ‘‘mahārāja, mayhaṃ pubbe yaso mahanto, gahapatiputto mantabhedako’’ti maṃ kujjhitvā rañño kathetvā sabbaṃ me vibhavaṃ acchindi, ‘‘ahaṃ mama yasabhedakassa gahapatiputtassa sīsaṃ gaṇhāpessāmī’’ti tumhākaṃ manussānaṃ ukkaṇṭhitamocanena etesaṃ ṭhitānaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā demi.
"Then you should say to him, 'Great King, formerly my fame was great. The householder's son, that charlatan, being angry with me, told the king and confiscated all my property. I give food and drink to your people, who are stationed here, to relieve their restlessness, so that I may have the head of that householder's son, who ruined my fame.
Lúc đó thầy hãy nói với ngài rằng: “Đại vương, trước đây tôi có danh tiếng lớn. Con trai của gia chủ đã phá hoại thần chú, tức giận nói với nhà vua và cướp hết tài sản của tôi. Tôi muốn lấy đầu của con trai gia chủ, kẻ đã phá hoại danh tiếng của tôi, nên tôi đã cho người của ngài đồ ăn thức uống để giải tỏa sự chán nản của họ khi họ ở đây.
Ettakena maṃ porāṇaveraṃ hadaye katvā imaṃ byasanaṃ pāpesi.
For this, he, holding old enmity in his heart, brought me to this calamity."
Vì vậy, nó đã mang mối thù cũ trong lòng và gây ra tai họa này cho tôi.
‘‘Taṃ sabbaṃ tumhākaṃ manussā jānanti, mahārājā’’ti nānappakārehi taṃ saddahāpetvā vissāse uppanne vadeyyātha ‘‘mahārāja, tumhe mamaṃ laddhakālato paṭṭhāya mā cintayittha.
"'Your Majesty, all your people know this.' Having thus made him believe you in various ways and gaining his trust, you should say, 'Great King, from the time you obtained me, do not worry.
Đại vương, tất cả người của ngài đều biết điều đó.” Sau khi khiến nhà vua tin tưởng bằng nhiều cách và tạo được lòng tin, thầy hãy nói: “Đại vương, từ khi ngài có tôi, xin đừng lo lắng.
Idāni vedehassa ca gahapatiputtassa ca jīvitaṃ natthi, ahaṃ imasmiṃ nagare pākārassa thiraṭṭhānadubbalaṭṭhānañca parikhāyaṃ kumbhīlādīnaṃ atthiṭṭhānañca natthiṭṭhānañca jānāmi, na cirasseva vo nagaraṃ gahetvā dassāmī’’ti.
Now, Vedeha and the householder's son have no life left. I know the strong and weak points of the city wall in this city, and the places where crocodiles and other creatures are present or absent in the moat. I will capture the city for you very soon.'"
Bây giờ, Vedeha và con trai của gia chủ không còn sống nữa. Tôi biết những nơi vững chắc và yếu kém của thành lũy trong thành phố này, và những nơi có cá sấu, v.v., trong hào nước. Tôi sẽ sớm chiếm được thành phố cho ngài.”
Atha so rājā saddahitvā tumhākaṃ sakkāraṃ karissati, senāvāhanañca paṭicchāpessati.
Then that king, believing, will show you honor and will send back his army and vehicles.
Lúc đó, nhà vua sẽ tin tưởng và ban thưởng cho thầy, cũng như giao phó binh lính và phương tiện chiến tranh cho thầy.
Athassa senaṃ vāḷakumbhīlaṭṭhānesuyeva otāreyyātha.
Then you should make his army descend into the places where there are ferocious crocodiles.
Sau đó, thầy hãy đưa quân của ngài xuống những nơi có cá sấu và thú dữ.
Tassa senā kumbhīlabhayena na otarissati, tadā tumhe rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘tumhākaṃ senāya, deva, gahapatiputtena lañjo dinno, sabbe rājāno ca ācariyakevaṭṭañca ādiṃ katvā na kenaci lañjo aggahito nāma atthi.
His army will not descend due to fear of crocodiles. At that time, you should approach the king and say, ‘‘Deva, the son of the householder has given a bribe to your army. There is no one, starting from all the kings and the chief fisherman, who has not taken a bribe.
Quân của ngài sẽ không xuống vì sợ cá sấu. Lúc đó, thầy hãy đến gặp nhà vua và nói: “Tâu Đại vương, con trai của gia chủ đã hối lộ quân đội của ngài. Không có vị vua hay thầy Kevaṭṭa nào mà không nhận hối lộ.
Kevalaṃ ete tumhe parivāretvā caranti, sabbe pana gahapatiputtassa santakāva, ahamekova tumhākaṃ puriso.
These merely follow you, but all of them belong to the householder’s son. I alone am your man.
Chỉ có họ vây quanh ngài, nhưng tất cả đều thuộc về con trai của gia chủ. Chỉ có một mình tôi là người của ngài.
Sace me na saddahatha, sabbe rājāno alaṅkaritvā maṃ dassanāya āgacchantū’’ti pesetha.
If you do not believe me, send word that all the kings should adorn themselves and come to see me.’’
Nếu ngài không tin tôi, hãy cho tất cả các vị vua trang điểm và đến gặp tôi.”
‘‘Atha nesaṃ gahapatiputtena attano nāmarūpaṃ likhitvā dinnesu vatthālaṅkārakhaggādīsu akkharāni disvā niṭṭhaṃ gaccheyyāthā’’ti vadeyyātha.
You should say, ‘‘Then, seeing the inscriptions on the clothes, ornaments, swords, and other items given to them by the householder’s son, you will reach a conclusion.’’
Thầy hãy nói: “Lúc đó, ngài sẽ thấy những chữ cái được viết trên quần áo, trang sức, kiếm, v.v., mà con trai của gia chủ đã trao cho họ, có tên và hình dáng của hắn, và ngài sẽ tin tưởng.”
So tathā katvā tāni disvā niṭṭhaṃ gantvā bhītatasito te rājāno uyyojetvā ‘‘idāni kiṃ karoma paṇḍitā’’ti tumhe pucchissati.
Having done so, and having seen them, he will reach a conclusion, and being terrified and thirsty (for safety), he will dismiss those kings and ask you, ‘‘Now, what should we do, O wise ones?’’
Nhà vua làm theo, thấy những thứ đó, tin tưởng, sợ hãi và run rẩy, cho các vị vua đó đi, rồi hỏi thầy: “Thưa hiền triết, bây giờ chúng ta nên làm gì?”
Tamenaṃ tumhe evaṃ vadeyyātha ‘‘mahārāja, gahapatiputto bahumāyo.
You should then say to him, ‘‘Great King, the householder’s son is full of trickery.
Lúc đó thầy hãy nói với ngài rằng: “Đại vương, con trai của gia chủ rất xảo quyệt.
Sace aññāni katipayadivasāni vasissatha, sabbaṃ vo senaṃ attano hatthagataṃ katvā tumhe gaṇhissati.
If you stay for a few more days, he will take possession of your entire army and capture you.
Nếu ngài ở lại thêm vài ngày nữa, nó sẽ chiếm đoạt toàn bộ quân đội của ngài và bắt ngài.
Tasmā papañcaṃ akatvā ajjeva majjhimayāmānantare assapiṭṭhiyaṃ nisīditvā palāyissāma, mā no parahatthe maraṇaṃ hotū’’ti.
Therefore, without delay, let us mount horses immediately after the middle watch today and flee. May death not befall us at the hands of others.’’
Vì vậy, đừng chần chừ, hãy lên ngựa và bỏ trốn ngay sau nửa đêm hôm nay, đừng để chúng ta chết dưới tay kẻ khác.”
So tumhākaṃ vacanaṃ sutvā tathā karissati.
He will listen to your words and act accordingly.
Ngài sẽ nghe lời thầy và làm theo.
Tumhe tassa palāyanavelāya nivattitvā amhākaṃ manusse jānāpeyyāthāti.
At the time of his flight, you should turn back and inform our men.
Lúc nhà vua bỏ trốn, thầy hãy quay lại và báo cho người của chúng ta biết.
Taṃ sutvā anukevaṭṭabrāhmaṇo ‘‘sādhu paṇḍita, karissāmi te vacana’’nti āha.
Hearing that, the subordinate fisherman-brahmin said, ‘‘Very well, O wise one, I will do as you say.’’
Nghe vậy, Bà la môn Anukevaṭṭa nói: “Tốt lắm, hiền triết, tôi sẽ làm theo lời thầy.”
‘‘Tena hi katipayapahāre sahituṃ vaṭṭatī’’ti.
‘‘Then it is necessary to endure a few blows.’’
“Vậy thì thầy phải chịu vài roi.”
‘‘Paṇḍita, mama jīvitañca hatthapāde ca ṭhapetvā sesaṃ attano rucivasena karohī’’ti.
‘‘O wise one, excepting my life and my hands and feet, do as you please with the rest.’’
“Thưa hiền triết, trừ mạng sống và tay chân của tôi, phần còn lại thầy cứ làm theo ý muốn.”
So tassa gehe manussānaṃ sakkāraṃ kāretvā anukevaṭṭaṃ vuttanayena vippakāraṃ pāpetvā yottena otāretvā brahmadattamanussānaṃ dāpesi.
So, having arranged for the men in his house to be honored, he subjected the subordinate fisherman to mistreatment as described, lowered him with a rope, and handed him over to King Brahmadatta’s men.
Vị hiền triết đã cho người nhà của Anukevaṭṭa ban thưởng, sau đó gây tai họa cho Anukevaṭṭa theo cách đã nói, dùng dây thả xuống và giao cho người của Brahmadatta.
Atha te taṃ gahetvā tassa dassesuṃ.
Then they took him and showed him to the king.
Sau đó, họ bắt ông ta và đưa cho nhà vua xem.
Rājā taṃ vīmaṃsitvā saddahitvā sakkāramassa katvā senaṃ paṭicchāpesi.
The king examined him, believed him, honored him, and sent back his army.
Nhà vua thẩm vấn ông ta, tin tưởng, ban thưởng và giao phó quân đội cho ông ta.
Sopi taṃ vāḷakumbhīlaṭṭhānesuyeva otāreti.
He also made them descend into the places where there were ferocious crocodiles.
Ông ta cũng đưa quân xuống những nơi có cá sấu và thú dữ.
Manussā kumbhīlehi khajjamānā aṭṭālakaṭṭhitehi manussehi ususattitomarehi vijjhiyamānā mahāvināsaṃ pāpuṇanti.
The men, being devoured by crocodiles and pierced by arrows, spears, and javelins from men stationed on watchtowers, suffered great destruction.
Người dân bị cá sấu ăn thịt, bị người trên tháp canh bắn tên, giáo, lao, và gặp phải sự hủy diệt lớn.
Tato paṭṭhāya koci bhayena upagantuṃ na sakkoti.
From then on, no one could approach due to fear.
Từ đó trở đi, không ai dám đến gần vì sợ hãi.
Anukevaṭṭo rājānaṃ upasaṅkamitvā ‘‘tumhākaṃ atthāya yujjhanakā nāma natthi, sabbehi lañjo gahito, asaddahanto pakkosāpetvā nivatthavatthādīsu akkharāni olokethā’’ti āha.
The subordinate fisherman approached the king and said, ‘‘There is no one who fights for your sake; all have taken bribes. If you disbelieve, summon them and examine the inscriptions on their clothes and other items.’’
Anukevaṭṭa đến gặp nhà vua và nói: “Không có ai chiến đấu vì ngài cả, tất cả đều đã nhận hối lộ. Nếu không tin, ngài hãy cho gọi họ đến và xem những chữ cái trên quần áo, v.v. của họ.”
Rājā tathā katvā sabbesaṃ vatthādīsu akkharāni disvā ‘‘addhā imehi lañjo gahito’’ti niṭṭhaṃ gantvā ‘‘ācariya, idāni kiṃ kattabba’’nti pucchitvā ‘‘deva, aññaṃ kātabbaṃ natthi.
The king did so, and seeing the inscriptions on everyone’s clothes and other items, he concluded, ‘‘Indeed, these have taken bribes.’’ He then asked, ‘‘Teacher, what should be done now?’’ and was told, ‘‘Deva, nothing else needs to be done.
Nhà vua làm theo, thấy những chữ cái trên quần áo, v.v. của tất cả mọi người, và tin chắc rằng: “Quả thật, bọn chúng đã nhận hối lộ.” Sau đó, ngài hỏi: “Thưa thầy, bây giờ chúng ta nên làm gì?” và được trả lời: “Tâu Đại vương, không còn gì để làm nữa.
Sace papañcaṃ karissatha, gahapatiputto vo gaṇhissati, ācariyakevaṭṭopi kevalaṃ nalāṭe vaṇaṃ katvā carati, lañjo pana etenapi gahito.
If you delay, the householder’s son will capture you. Even the chief fisherman merely has a wound on his forehead, but he too has taken a bribe.
Nếu ngài chần chừ, con trai của gia chủ sẽ bắt được ngài. Thầy Kevaṭṭa cũng chỉ giả vờ bị thương ở trán, nhưng ông ta cũng đã nhận hối lộ.
Ayañhi maṇiratanaṃ gahetvā tumhe tiyojanaṃ palāpesi, puna saddahāpetvā nivattesi, ayampi paribhindakova.
He took the jewel and made you flee three leagues, then made you believe and return; he too is a traitor.
Ông ta đã lấy viên ngọc quý và khiến ngài chạy trốn ba dojana, rồi lại khiến ngài tin tưởng và quay lại. Ông ta cũng là kẻ phản bội.
Ekarattivāsopi mayhaṃ na ruccati, ajjeva majjhimayāmasamanantare palāyituṃ vaṭṭati, maṃ ṭhapetvā añño tava suhadayo nāma natthī’’ti vutte ‘‘tena hi ācariya tumheyeva me assaṃ kappetvā yānasajjaṃ karothā’’ti āha.
Even a single night’s stay does not please me. It is necessary to flee today, immediately after the middle watch. Apart from me, you have no other true friend.’’ When this was said, the king replied, ‘‘Then, teacher, you yourself should prepare my horse and make it ready for travel.’’
Tôi không muốn ở lại dù chỉ một đêm. Chúng ta nên bỏ trốn ngay sau nửa đêm hôm nay. Ngoài tôi ra, ngài không có người bạn thân nào khác.” Khi được nói như vậy, nhà vua nói: “Vậy thì thưa thầy, thầy hãy chuẩn bị ngựa và phương tiện di chuyển cho tôi.”
Brāhmaṇo tassa nicchayena palāyanabhāvaṃ ñatvā ‘‘mā bhāyi, mahārājā’’ti assāsetvā bahi nikkhamitvā upanikkhittakapurisānaṃ ‘‘ajja rājā palāyissati, mā niddāyitthā’’ti ovādaṃ datvā rañño asso yathā ākaḍḍhito suṭṭhutaraṃ palāyati, evaṃ avakappanāya kappetvā majjhimayāmasamanantare ‘‘kappito, deva, asso, velaṃ jānāhī’’ti āha.
The brahmin, knowing for certain that the king would flee, reassured him, ‘‘Do not fear, Great King!’’ Then he went outside and instructed the appointed men, ‘‘The king will flee today; do not fall asleep!’’ He prepared the king’s horse in such a way that it would run very swiftly when urged, and immediately after the middle watch, he said, ‘‘Deva, the horse is ready; know the time.’’
Bà la môn biết chắc chắn nhà vua sẽ bỏ trốn, bèn trấn an: “Đại vương, đừng sợ hãi!” Sau đó, ông ta đi ra ngoài, dặn dò những người được bố trí sẵn: “Hôm nay nhà vua sẽ bỏ trốn, đừng ngủ gật!” Rồi ông ta chuẩn bị ngựa của nhà vua sao cho nó chạy nhanh hơn khi bị kéo, và sau nửa đêm, ông ta nói: “Tâu Đại vương, ngựa đã chuẩn bị xong, xin ngài hãy biết thời điểm.”
Rājā assaṃ abhiruhitvā palāyi.
The king mounted the horse and fled.
Nhà vua lên ngựa và bỏ trốn.
Anukevaṭṭopi assaṃ abhiruhitvā tena saddhiṃ gacchanto viya thokaṃ gantvā nivatto.
Anukevaṭṭa, too, mounted a horse and, as if going with him, went a short distance and returned.
Anukevaṭṭa cũng lên ngựa, giả vờ đi cùng một đoạn rồi quay lại.
Avakappanāya kappitaasso ākaḍḍhiyamānopi rājānaṃ gahetvā palāyi.
The horse, prepared for the deception, even while being pulled, took the king and fled.
Con ngựa đã được chuẩn bị sẵn, dù bị kéo, vẫn mang nhà vua bỏ trốn.
Anukevaṭṭo senāya antaraṃ pavisitvā ‘‘cūḷanibrahmadatto palāto’’ti ukkuṭṭhimakāsi.
Anukevaṭṭa entered the midst of the army and cried out, "Cūḷanibrahmadatta has fled!"
Anukevaṭṭa đi vào giữa quân đội và hô lớn: “Cūḷanibrahmadatta đã bỏ trốn!”
Upanikkhittakapurisāpi attano manussehi saddhiṃ upaghosiṃsu.
The secretly placed men also shouted along with their own people.
Những người được bố trí sẵn cũng cùng với người của mình hô vang.
Sesarājāno taṃ sutvā ‘‘mahosadhapaṇḍito dvāraṃ vivaritvā nikkhanto bhavissati, na no dāni jīvitaṃ dassatī’’ti bhītatasitā upabhogaparibhogabhaṇḍānipi anoloketvā ito cito ca palāyiṃsu.
The remaining kings, hearing that, became terrified and frightened, thinking, "Mahosadha Paṇḍita must have opened the gate and come out; he will not grant us our lives now," and without even looking at their possessions and belongings, they fled here and there.
Các vị vua còn lại nghe vậy, sợ hãi và run rẩy nghĩ: “Hiền triết Mahosadha chắc đã mở cổng và đi ra rồi, bây giờ ông ta sẽ không để chúng ta sống sót,” nên họ không thèm nhìn đến đồ dùng cá nhân mà bỏ chạy tán loạn.
Manussā ‘‘rājāno palāyantī’’ti suṭṭhutaraṃ upaghosiṃsu.
The people shouted even louder, "The kings are fleeing!"
Người dân hô vang hơn nữa: “Các vị vua đang bỏ trốn!”
Taṃ sutvā dvāraṭṭālakādīsu ṭhitāpi unnādiṃsu apphoṭayiṃsu.
Hearing that, even those standing at the gates and watchtowers roared and clapped their hands.
Nghe vậy, những người đứng trên cổng và tháp canh cũng hò reo và vỗ tay.
Iti tasmiṃ khaṇe pathavī viya bhijjamānā samuddo viya saṅkhubhito sakalanagaraṃ anto ca bahi ca ekaninnādaṃ ahosi.
Thus, at that moment, the entire city, both inside and out, became a single uproar, as if the earth were breaking apart and the ocean were agitated.
Vào khoảnh khắc đó, toàn bộ thành phố, cả bên trong lẫn bên ngoài, trở nên ồn ào như đất vỡ và biển dậy sóng.
Aṭṭhārasaakkhobhaṇisaṅkhā manussā ‘‘mahosadhapaṇḍitena kira brahmadatto ekasatarājāno ca gahitā’’ti maraṇabhayabhītā attano attano udarabaddhasāṭakampi chaḍḍetvā palāyiṃsu.
Eighteen akkhoṇī of people, terrified by the fear of death, thinking, "Brahmadatta and the one hundred kings have been captured by Mahosadha Paṇḍita," threw away even the cloths tied around their waists and fled.
Mười tám đội quân người, khi nghe rằng “Đại Hiền giả Mahosadha đã bắt được vua Brahmadatta và một trăm vị vua khác”, đã sợ hãi cái chết, vứt bỏ cả tấm vải quấn quanh bụng và bỏ chạy.
Khandhāvāraṭṭhānaṃ tucchaṃ ahosi.
The encampment became empty.
Nơi đóng quân trở nên trống rỗng.
Cūḷanibrahmadatto ekasate khattiye gahetvā attano nagarameva gato.
Cūḷanibrahmadatta, having captured the one hundred kings, went to his own city.
Vua Cūḷanī Brahmadatta đã bắt giữ một trăm vị vua Sát-đế-lợi và trở về thành phố của mình.
Punadivase pana pātova nagaradvārāni vivaritvā balakāyā nagarā nikkhamitvā mahāvilopaṃ disvā ‘‘kiṃ karoma, paṇḍitā’’ti mahāsattassa ārocayiṃsu.
Then, on the next day, early in the morning, the city gates were opened, and the armed forces left the city, saw the great plunder, and reported to the Great Being, "What shall we do, Paṇḍita?"
Vào sáng ngày hôm sau, sau khi mở cổng thành, các đội quân đã ra khỏi thành phố, nhìn thấy sự cướp bóc lớn và báo cáo với Đại Bồ Tát: “Thưa Hiền giả, chúng tôi phải làm gì?”
So āha – ‘‘etehi chaḍḍitaṃ dhanaṃ amhākaṃ pāpuṇāti, sabbesaṃ rājūnaṃ santakaṃ amhākaṃ rañño, detha, seṭṭhīnañca kevaṭṭabrāhmaṇassa ca santakaṃ amhākaṃ āharatha, avasesaṃ pana nagaravāsino gaṇhantū’’ti.
He said, "The wealth they abandoned belongs to us. All the kings' property belongs to our king. Give it to him. Bring us the property of the merchants and the Kevatta brahmin. As for the rest, let the city dwellers take it."
Ngài nói: “Tài sản mà những người này vứt bỏ thuộc về chúng ta. Tài sản của tất cả các vị vua thuộc về vua của chúng ta, hãy dâng lên. Tài sản của các trưởng giả và Bà-la-môn Kevaṭṭa hãy mang về cho chúng ta. Phần còn lại, hãy để cư dân thành phố lấy.”
Tesaṃ mahaggharatanabhaṇḍameva āharantānaṃ aḍḍhamāso vītivatto.
Half a month passed while they were bringing only the valuable jeweled treasures.
Họ đã mất nửa tháng để mang về những món đồ trang sức quý giá.
Sesaṃ pana catūhi māsehi āhariṃsu.
The rest was brought in four months.
Phần còn lại thì họ mang về trong bốn tháng.
Mahāsatto anukevaṭṭassa mahantaṃ sakkāramakāsi.
The Great Being showed great honor to Anukevaṭṭa.
Đại Bồ Tát đã ban tặng sự kính trọng lớn lao cho Anukevaṭṭa.
Tato paṭṭhāya ca kira mithilavāsino bahū hiraññasuvaṇṇā jātā.
From that time onwards, it is said, many people in Mithilā became wealthy with gold and silver.
Từ đó trở đi, cư dân Mithilā trở nên giàu có với vàng bạc.
Brahmadattassapi tehi rājūhi saddhiṃ uttarapañcālanagare vasantassa ekavassaṃ atītaṃ.
One year had passed for Brahmadatta, too, while he was living in the city of Uttarapañcāla with those kings.
Một năm đã trôi qua khi vua Brahmadatta sống ở thành Uttara Pañcāla cùng với các vị vua đó.
Athekadivasaṃ kevaṭṭo ādāse mukhaṃ olokento nalāṭe vaṇaṃ disvā ‘‘idaṃ gahapatiputtassa kammaṃ, tenāhaṃ ettakānaṃ rājūnaṃ antare lajjāpito’’ti cintetvā samuppannakodho hutvā ‘‘kadā nu khvassa piṭṭhiṃ passituṃ samattho bhavissāmī’’ti cintento ‘‘attheso upāyo, amhākaṃ rañño dhītā pañcālacandī nāma uttamarūpadharā devaccharāpaṭibhāgā, taṃ videharañño dassāmā’’ti vatvā ‘‘vedehaṃ kāmena palobhetvā gilitabaḷisaṃ viya macchaṃ saddhiṃ mahosadhena ānetvā ubho te māretvā jayapānaṃ pivissāmā’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā rājānaṃ upasaṅkamitvā āha – ‘‘deva, eko manto atthī’’ti.
Then, one day, Kevatta, looking at his face in a mirror, saw a wound on his forehead and thought, "This is the work of the householder's son; because of him, I was put to shame among so many kings." Filled with anger, he thought, "When will I be able to see his back?" Then, thinking, "There is a way: our king's daughter, named Pañcālacandī, possesses supreme beauty, like a divine nymph; we shall give her to the king of Videha." He resolved, "By enticing Videha with desire, like a fish with a swallowed hook, we will bring him here along with Mahosadha, kill both of them, and drink the victory drink." He then approached the king and said, "Deva, there is a plan."
Một ngày nọ, Kevaṭṭa nhìn vào gương, thấy một vết sẹo trên trán và nghĩ: “Đây là việc làm của con trai gia chủ, vì hắn mà ta bị xấu hổ giữa chừng ấy các vị vua.” Nổi cơn giận, ông ta nghĩ: “Khi nào ta mới có thể nhìn thấy lưng hắn đây?” Ông ta lại nghĩ: “Có một cách này, con gái của vua chúng ta tên là Pañcālacandī, nàng có dung mạo tuyệt vời, giống như một nữ thần. Chúng ta sẽ gả nàng cho vua Videha.” Sau khi quyết định: “Chúng ta sẽ dụ dỗ vua Videha bằng dục vọng, rồi như con cá nuốt mồi, ta sẽ đưa hắn và Mahosadha đến đây, giết cả hai và uống rượu chiến thắng,” ông ta đến gặp nhà vua và nói: “Tâu Đại vương, thần có một kế.”
‘‘Ācariya, tava mantaṃ nissāya udarabaddhasāṭakassapi assāmino jātamhā, idāni kiṃ karissasi, tuṇhī hohī’’ti.
"Teacher, relying on your plan, we have become devoid of even the cloth tied around our waists. What will you do now? Be silent!"
“Thưa sư phụ, nhờ kế của ngài mà chúng ta đã mất cả tấm vải quấn quanh bụng. Giờ ngài sẽ làm gì? Hãy im lặng đi!”
‘‘Mahārāja, iminā upāyena sadiso añño natthī’’ti.
"Mahārāja, there is no other method equal to this one."
“Tâu Đại vương, không có kế nào tốt hơn kế này.”
‘‘Tena hi bhaṇāhī’’ti.
"Then speak!"
“Vậy thì hãy nói đi!”
‘‘Mahārāja, amhehi dvīhiyeva ekato bhavituṃ vaṭṭatī’’ti.
"Mahārāja, it is proper for only the two of us to be together."
“Tâu Đại vương, chỉ có hai chúng ta mới nên ở cùng nhau.”
‘‘Evaṃ hotū’’ti.
"So be it."
“Được thôi.”
Atha naṃ brāhmaṇo uparipāsādatalaṃ āropetvā āha – ‘‘mahārāja, videharājānaṃ kilesena palobhetvā idhānetvā saddhiṃ gahapatiputtena māressāmā’’ti.
Then the brahmin led him to the upper terrace of the palace and said, "Mahārāja, we will entice the king of Videha with passion, bring him here, and kill him along with the householder's son."
Sau đó, vị Bà-la-môn đưa nhà vua lên tầng trên cung điện và nói: “Tâu Đại vương, chúng ta sẽ dụ dỗ vua Videha bằng dục vọng, đưa hắn đến đây và giết hắn cùng với con trai gia chủ.”
‘‘Sundaro, ācariya, upāyo, kathaṃ pana taṃ palobhetvā ānessāmā’’ti?
"Excellent, Teacher, a good plan! But how shall we entice him and bring him here?"
“Tốt lắm, thưa sư phụ, kế hay đấy! Nhưng làm sao chúng ta có thể dụ dỗ hắn đến đây?”
‘‘Mahārāja, dhītā vo pañchālacandī uttamarūpadharā, tassā rūpasampattiṃ cāturiyavilāsena kavīhi gītaṃ bandhāpetvā tāni kabbāni mithilāyaṃ gāyāpetvā ‘evarūpaṃ itthiratanaṃ alabhantassa videhanarindassa kiṃ rajjenā’ti tassa savanasaṃsaggeneva paṭibaddhabhāvaṃ ñatvā ahaṃ tattha gantvā divasaṃ vavatthapessāmi.
"Mahārāja, your daughter, Pañcālacandī, possesses supreme beauty. We will have poets compose songs about her beauty and charm, and have those poems sung in Mithilā, saying, 'What is kingship to the king of Videha if he cannot obtain such a jewel of a woman?' When we know that he has become infatuated just by hearing about her, I will go there and arrange a day."
“Tâu Đại vương, con gái của ngài, Pañcālacandī, có dung mạo tuyệt vời. Chúng ta sẽ cho các thi sĩ sáng tác những bài ca ngợi vẻ đẹp của nàng bằng những lời lẽ khéo léo, rồi cho hát những bài ca đó ở Mithilā, nói rằng: ‘Vua Videha mà không có một người phụ nữ quý giá như vậy thì làm vua có ích gì?’ Khi biết rằng hắn đã bị mê hoặc bởi những lời ca đó, thần sẽ đến đó và định ngày.”
So mayi divasaṃ vavatthapetvā āgate gilitabaḷiso viya maccho gahapatiputtaṃ gahetvā āgamissati, atha ne māressāmā’’ti.
"When he comes to me after having fixed the day, he will bring the householder's son, like a fish that has swallowed the hook, and then we will kill them."
“Sau khi thần định ngày và trở về, hắn sẽ như con cá nuốt mồi, mang theo con trai gia chủ đến. Bấy giờ, chúng ta sẽ giết cả hai.”
Rājā tassa vacanaṃ sutvā tussitvā ‘‘sundaro upāyo, ācariya, evaṃ karissāmā’’ti sampaṭicchi.
The king, having heard his words, was pleased and agreed, saying, "Excellent plan, teacher, we shall do so."
Vua nghe lời ông ta, vui mừng và đồng ý: “Kế hay lắm, thưa sư phụ, chúng ta sẽ làm như vậy.”
Taṃ pana mantaṃ cūḷanibrahmadattassa sayanapālikā sāḷikā sutvā paccakkhamakāsi.
But a mynah bird, the bed-chamber attendant of Cūḷanibrahmadatta, having heard that secret plan, disapproved of it.
Nhưng con vẹt cái, chim giữ phòng ngủ của vua Cūḷanī Brahmadatta, đã nghe được kế hoạch đó.
Rājā nipuṇe kabbakāre pakkosāpetvā bahuṃ dhanaṃ datvā dhītaraṃ tesaṃ dassetvā ‘‘tātā, etissā rūpasampattiṃ nissāya kabbaṃ karothā’’ti āha.
The king summoned skilled poets, gave them much wealth, showed them his daughter, and said, "My dear ones, compose verses based on her beauty."
Nhà vua cho gọi các thi sĩ tài năng, ban cho họ nhiều tiền, rồi cho họ xem con gái mình và nói: “Các con, hãy sáng tác bài ca ngợi vẻ đẹp của nàng.”
Te atimanoharāni gītāni bandhitvā rājānaṃ sāvayiṃsu.
They composed extremely charming songs and recited them to the king.
Họ đã sáng tác những bài hát vô cùng quyến rũ và hát cho nhà vua nghe.
Rājā tussitvā bahuṃ dhanaṃ tesaṃ adāsi.
The king, pleased, gave them much wealth.
Vua vui mừng và ban cho họ nhiều tiền.
Kavīnaṃ santikā naṭā sikkhitvā samajjamaṇḍale gāyiṃsu.
Performers learned from the poets and sang in the assembly hall.
Các vũ công học từ các thi sĩ và hát trong các buổi hội hè.
Iti tāni vitthāritāni ahesuṃ.
Thus, those songs became widely known.
Cứ thế, những bài ca đó được lan truyền rộng rãi.
Tesu manussānaṃ antare vitthāritattaṃ gatesu rājā gāyake pakkosāpetvā āha – ‘‘tātā, tumhe mahāsakuṇe gahetvā rattibhāge rukkhaṃ abhiruyha tattha nisinnā gāyitvā paccūsakāle tesaṃ gīvāsu kaṃsatāle bandhitvā te uppātetvā otarathā’’ti.
When they became widely known among people, the king summoned the singers and said, "My dear ones, take large birds, climb a tree at night, sit there and sing, and at dawn, tie bronze cymbals to their necks, make them fly, and then descend."
Khi những bài ca đó được lan truyền rộng rãi trong dân chúng, nhà vua cho gọi các ca sĩ và nói: “Các con, hãy bắt những con chim lớn, ban đêm leo lên cây, ngồi đó mà hát, rồi vào lúc rạng đông, hãy buộc những cái chiêng đồng vào cổ chúng, thả chúng bay đi rồi xuống.”
So kira ‘‘pañcālarañño dhītu sarīravaṇṇaṃ devatāpi gāyantī’’ti pākaṭabhāvakaraṇatthaṃ tathā kāresi.
He did this to make it known that "even deities sing of the bodily beauty of the daughter of the Pañcāla king."
Ông ta làm như vậy để làm cho mọi người biết rằng “ngay cả các vị thần cũng ca ngợi vẻ đẹp của con gái vua Pañcāla.”
Puna rājā kavī pakkosāpetvā ‘‘tātā, idāni tumhe ‘evarūpā kumārikā jambudīpatale aññassa rañño nānucchavikā, mithilāyaṃ vedeharañño anucchavikā’ti rañño ca issariyaṃ imāya ca rūpaṃ vaṇṇetvā gītāni bandhathā’’ti āha.
Again, the king summoned the poets and said, "My dear ones, now compose songs describing the king's sovereignty and her beauty, saying, 'Such a princess is not suitable for any other king on the Jambudīpa, but is suitable for the king of Videha in Mithilā.'"
Sau đó, nhà vua lại cho gọi các thi sĩ và nói: “Các con, bây giờ hãy sáng tác những bài ca ngợi quyền lực của nhà vua và vẻ đẹp của nàng, nói rằng: ‘Một công chúa có dung mạo tuyệt vời như vậy không phù hợp với bất kỳ vị vua nào khác trên cõi Diêm-phù-đề, mà chỉ phù hợp với vua Videha ở Mithilā.’”
Te tathā katvā rañño ārocayiṃsu.
They did so and reported it to the king.
Họ đã làm như vậy và báo cáo với nhà vua.
Rājā tesaṃ dhanaṃ datvā puna gāyake pakkosāpetvā ‘‘tātā, mithilaṃ gantvā tattha imināva upāyena gāyathā’’ti pesesi.
The king gave them wealth, then again summoned the singers and sent them, saying, "My dear ones, go to Mithilā and sing there using the same method."
Nhà vua ban tiền cho họ, rồi lại cho gọi các ca sĩ và sai họ: “Các con, hãy đến Mithilā và hát ở đó bằng cách tương tự.”
Te tāni gāyantā anupubbena mithilaṃ gantvā samajjamaṇḍale gāyiṃsu.
Singing those songs, they gradually went to Mithilā and sang in the assembly hall.
Họ vừa hát vừa dần dần đến Mithilā và hát trong các buổi hội hè.
Tāni sutvā mahājano ukkuṭṭhisahassāni pavattetvā tesaṃ bahuṃ dhanaṃ adāsi.
Having heard them, the great multitude uttered thousands of cheers and gave them much wealth.
Nghe những bài hát đó, đông đảo quần chúng đã reo hò hàng ngàn tiếng và ban cho họ nhiều tiền.
Te rattisamaye rukkhesupi gāyitvā paccūsakāle sakuṇānaṃ gīvāsu kaṃsatāle bandhitvā otaranti.
At night, they also sang in the trees, and at dawn, they tied bronze cymbals to the birds' necks and descended.
Ban đêm, họ cũng hát trên cây, rồi vào lúc rạng đông, họ buộc những cái chiêng đồng vào cổ chim và xuống.
Ākāse kaṃsatālasaddaṃ sutvā ‘‘pañcālarājadhītu sarīravaṇṇaṃ devatāpi gāyantī’’ti sakalanagare ekakolāhalaṃ ahosi.
Hearing the sound of bronze cymbals in the sky, there was a great uproar throughout the city, "Even deities sing of the bodily beauty of the Pañcāla king's daughter!"
Nghe tiếng chiêng đồng trên không, toàn bộ thành phố trở nên ồn ào, nói rằng “ngay cả các vị thần cũng ca ngợi vẻ đẹp của con gái vua Pañcāla.”
Rājā sutvā gāyake pakkosāpetvā antonivesane samajjaṃ kāretvā ‘‘evarūpaṃ kira uttamarūpadharaṃ dhītaraṃ cūḷanirājā mayhaṃ dātukāmo’’ti tussitvā tesaṃ bahuṃ dhanaṃ adāsi.
The king heard it, summoned the singers, held an assembly within the palace, and pleased, thinking, "King Cūḷani intends to give me such a princess possessing supreme beauty," he gave them much wealth.
Vua nghe vậy, cho gọi các ca sĩ, tổ chức hội hè trong cung điện và vui mừng nói: “Nghe nói vua Cūḷanī muốn gả cô con gái có dung mạo tuyệt vời như vậy cho ta.” Ngài ban cho họ nhiều tiền.
Te āgantvā brahmadattassa ārocesuṃ.
They came and reported to Brahmadatta.
Họ trở về và báo cáo với vua Brahmadatta.
Atha naṃ kevaṭṭo āha – ‘‘idāni, mahārāja, divasaṃ vavatthapanatthāya gamissāmī’’ti.
Then the fisherman said to him, "Now, Your Majesty, I shall go to fix the day."
Bấy giờ, Kevaṭṭa nói với ngài: “Tâu Đại vương, bây giờ thần sẽ đi để định ngày.”
‘‘Sādhu, ācariya, kiṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
"Very well, teacher, what is needed?"
“Tốt lắm, thưa sư phụ, cần phải nhận được gì?”
‘‘Thokaṃ paṇṇākāra’’nti.
"A small gift."
“Một ít lễ vật.”
‘‘Tena hi gaṇhā’’ti dāpesi.
"Then take it," he had it given.
“Vậy thì hãy nhận đi,” ngài đã cho ban.
So taṃ ādāya mahantena parivārena vedeharaṭṭhaṃ pāpuṇi.
He took it and, with a large retinue, reached the Videha kingdom.
Ông ta mang theo lễ vật và cùng đoàn tùy tùng lớn đến xứ Videha.
Tassāgamanaṃ sutvā nagare ekakolāhalaṃ jātaṃ ‘‘cūḷanirājā kira vedeho ca mittasanthavaṃ karissanti, cūḷanirājā attano dhītaraṃ amhākaṃ rañño dassati, kevaṭṭo divasaṃ vavatthapetuṃ etī’’ti.
Having heard of his arrival, a great uproar arose in the city: "King Cūḷani and the Videha king will establish friendship, King Cūḷani will give his daughter to our king, and the fisherman is coming to fix the day."
Nghe tin ông ta đến, cả thành phố trở nên ồn ào: “Nghe nói vua Cūḷanī và vua Videha sẽ kết giao tình hữu nghị. Vua Cūḷanī sẽ gả con gái mình cho vua của chúng ta. Kevaṭṭa đến để định ngày.”
Vedeharājāpi suṇi, mahāsattopi, sutvāna panassa etadahosi ‘‘tassāgamanaṃ mayhaṃ na ruccati, tathato naṃ jānissāmī’’ti.
The Videha king also heard it, and so did the Great Being. Having heard it, he thought, "His arrival does not please me; I shall ascertain the truth of it."
Vua Videha cũng nghe thấy, và Đại Bồ Tát cũng vậy. Nghe xong, ngài nghĩ: “Sự đến của ông ta không làm ta hài lòng. Ta sẽ tìm hiểu sự thật.”
So cūḷanisantike upanikkhittakapurisānaṃ sāsanaṃ pesesi ‘‘imamatthaṃ tathato jānitvā pesentū’’ti.
He sent a message to the men he had placed with Cūḷani, "Ascertain the truth of this matter and send word."
Ngài sai sứ giả đến những người đã được bố trí ở gần vua Cūḷanī, nói rằng: “Hãy tìm hiểu sự việc này một cách chính xác và báo cáo lại.”
Atha te ‘‘mayametaṃ tathato na jānāma, rājā ca kevaṭṭo ca sayanagabbhe nisīditvā mantenti, rañño pana sayanapālikā sāḷikā sakuṇikā etamatthaṃ jāneyyā’’ti paṭipesayiṃsu.
Then they sent back word, "We do not know the truth of this. The king and the fisherman are consulting in the bed-chamber, but the king's bed-chamber attendant, a mynah bird, would know this matter."
Sau đó, họ báo cáo lại: “Chúng thần không biết sự việc này một cách chính xác. Nhà vua và Kevaṭṭa đang bàn bạc trong phòng ngủ. Nhưng con vẹt cái, chim giữ phòng ngủ của nhà vua, có thể biết sự việc này.”
Evañca pana vatvā ‘‘mahārāja, amhākaṃ rājā aññaṃ mahāmattaṃ pesetukāmo hutvāpi ‘añño manāpaṃ katvā sāsanaṃ ārocetuṃ na sakkhissatī’ti maṃ pesesi ‘ācariya, tumhe rājānaṃ sādhukaṃ pabodhetvā ādāya āgacchathā’ti, gacchatha rājaseṭṭha abhirūpañca kumārikaṃ labhissatha, amhākañca raññā saddhiṃ mittabhāvo patiṭṭhahissatī’’ti āha.
Having said this, he further said, "Great king, our king, though wishing to send another minister, sent me, thinking, 'No one else will be able to convey the message so pleasingly.' He said, 'Teacher, you should thoroughly enlighten the king and bring him.' Go, O best of kings, and you will obtain a beautiful princess, and friendship with our king will be established."
Và sau khi nói như vậy, ông ta nói: “Thưa Đại vương, vua của chúng tôi tuy muốn cử một vị đại thần khác, nhưng lại nghĩ rằng ‘Không ai khác có thể truyền đạt thông điệp một cách dễ chịu như vậy’, nên đã cử tôi đi và nói ‘Thưa thầy, thầy hãy khéo léo thuyết phục và đưa đức vua về đây.’ Thưa bậc vua chúa tối thượng, ngài hãy đi, ngài sẽ có được một công chúa xinh đẹp, và tình hữu nghị với vua của chúng tôi sẽ được thiết lập.”
So tassa vacanaṃ sutvā tuṭṭhamānaso ‘‘uttamarūpadharaṃ kira kumārikaṃ labhissāmī’’ti savanasaṃsaggena bajjhitvā ‘‘ācariya, tumhākañca kira mahosadhapaṇḍitassa ca dhammayuddhe vivādo ahosi, gacchatha puttaṃ me passatha, ubhopi paṇḍitā aññamaññaṃ khamāpetvā mantetvā ethā’’ti āha.
Hearing his words, the king, delighted in mind, was captivated by the prospect of obtaining a princess of supreme beauty, and said, "Teacher, there was indeed a dispute between you and the wise Mahosadha in a dharma-war. Go, see my son. Both of you wise ones should forgive each other, consult, and then return."
Nghe lời ấy, tâm ông ta hoan hỷ, bị cuốn hút bởi ý nghĩ “Ta sẽ có được một công chúa có dung mạo tuyệt mỹ”, ông ta nói: “Thưa thầy, thầy và Đại Trí Mahosadha đã có một cuộc tranh luận trong cuộc chiến pháp. Thầy hãy đi gặp con trai ta, cả hai vị hiền trí hãy tha thứ cho nhau, bàn bạc rồi trở về.”
Taṃ sutvā kevaṭṭo ‘‘passissāmi paṇḍita’’nti taṃ passituṃ agamāsi.
Hearing that, Kevaṭṭa went to see the Bodhisatta, thinking, "I will see the wise one."
Nghe vậy, Kevaṭṭa nói: “Ta sẽ gặp vị hiền trí,” rồi đi gặp Ngài.
Mahāsattopi taṃ divasaṃ ‘‘tena me pāpadhammena saddhiṃ sallāpo mā hotū’’ti pātova thokaṃ sappiṃ pivi, gehampissa bahalena allagomayena lepāpesi, thambhe telena makkhesi, tassa nipannamañcakaṃ ṭhapetvā sesāni mañcapīṭhādīni nīharāpesi.
That day, the Great Being, wishing, "May there be no conversation between me and that evil person," drank a little sharp ghee early in the morning, had his house smeared thickly with fresh cow dung, anointed the pillars with oil, and had all beds, chairs, and other furniture removed, except for the couch where he lay.
Đức Đại Sĩ cũng vào sáng hôm đó, nghĩ rằng “Đừng để ta nói chuyện với kẻ ác đó,” liền uống một ít bơ lỏng, sai người trát phân bò tươi dày đặc khắp nhà, bôi dầu vào các cột, và dọn tất cả giường ghế khác ra ngoài, chỉ để lại chiếc giường Ngài nằm.
So manussānaṃ saññamadāsi ‘‘tātā, brāhmaṇe kathetuṃ āraddhe evaṃ vadeyyātha ‘brāhmaṇa, mā paṇḍitena saddhiṃ kathayittha, ajja tena tikhiṇasappi pivita’nti.
He gave instructions to the people: "My dear ones, when the brahmin begins to speak, say this: 'Brahmin, do not speak with the wise one. Today he has drunk sharp ghee.'"
Ngài ra hiệu cho mọi người: “Này các con, khi vị Bà la môn bắt đầu nói, các con hãy nói thế này: ‘Này Bà la môn, đừng nói chuyện với vị hiền trí, hôm nay Ngài ấy đã uống bơ lỏng sắc bén.’”
Mayi ca tena saddhiṃ kathanākāraṃ karontepi ‘deva tikhiṇasappi te pivitaṃ, mā kathethā’ti maṃ nivārethā’’ti.
"And even if I try to converse with him, restrain me, saying, 'Your Majesty, you have drunk sharp ghee, do not speak.'"
“Và khi ta có vẻ nói chuyện với ông ta, các con hãy ngăn ta lại mà nói: ‘Thưa Ngài, Ngài đã uống bơ lỏng sắc bén, xin đừng nói chuyện.’”
Evaṃ vicāretvā mahāsatto rattapaṭaṃ nivāsetvā sattasu dvārakoṭṭhakesu manusse ṭhapetvā sattame dvārakoṭṭhake paṭamañcake nipajji.
Having thus arranged, the Great Being put on a red cloth, placed men at the seven gatehouses, and lay down on the first couch in the seventh gatehouse.
Sau khi sắp đặt như vậy, Đức Đại Sĩ mặc tấm vải đỏ, đặt người canh gác ở bảy cổng, và nằm trên chiếc giường đầu tiên ở cổng thứ bảy.
Kevaṭṭopissa paṭhamadvārakoṭṭhake ṭhatvā ‘‘kahaṃ paṇḍito’’ti pucchi.
Kevaṭṭa, standing at the first gatehouse, asked, "Where is the wise one?"
Kevaṭṭa đứng ở cổng thứ nhất và hỏi: “Vị hiền trí ở đâu?”
Atha naṃ te manussā ‘‘brāhmaṇa, mā saddamakari, sacepi āgacchitukāmo, tuṇhī hutvā ehi, ajja paṇḍitena tikhiṇasappi pītaṃ, mahāsaddaṃ kātuṃ na labbhatī’’ti āhaṃsu.
Then those men said to him, "Brahmin, do not make noise. Even if you wish to come, come silently. Today the wise one has drunk sharp ghee, so no loud noise is allowed."
Những người đó liền nói với ông ta: “Này Bà la môn, đừng làm ồn, nếu muốn vào thì hãy im lặng mà vào, hôm nay vị hiền trí đã uống bơ lỏng sắc bén, không được làm ồn lớn.”
Sesadvārakoṭṭhakesupi naṃ tatheva āhaṃsu.
At the other gatehouses, they spoke to him in the same way.
Ở các cổng còn lại, họ cũng nói với ông ta như vậy.
So sattamadvārakoṭṭhakaṃ atikkamitvā paṇḍitassa santikaṃ agamāsi.
He passed the seventh gatehouse and went to the wise one.
Ông ta vượt qua cổng thứ bảy và đi đến chỗ vị hiền trí.
Paṇḍito kathanākāraṃ dassesi.
The wise one made a show of conversing.
Vị hiền trí ra vẻ muốn nói chuyện.
Atha naṃ manussā ‘‘deva, mā kathayittha, tikhiṇasappi te pītaṃ, kiṃ te iminā duṭṭhabrāhmaṇena saddhiṃ kathitenā’’ti vatvā vārayiṃsu.
Then the men restrained him, saying, "Your Majesty, do not speak. You have drunk sharp ghee. What is the use of speaking with this wicked brahmin?"
Những người đó liền nói: “Thưa Ngài, xin đừng nói chuyện, Ngài đã uống bơ lỏng sắc bén rồi, Ngài nói chuyện với vị Bà la môn xấu xa này làm gì?” rồi ngăn Ngài lại.
Iti so tassa santikaṃ gantvā neva nisīdituṃ, na āsanaṃ nissāya ṭhitaṭṭhānaṃ labhi, allagomayaṃ akkamitvā aṭṭhāsi.
Thus, having gone to his presence, he could neither sit nor find a place to stand leaning on a seat; he stood treading on wet cow dung.
Thế là, ông ta đến chỗ Ngài, không tìm được chỗ để ngồi, cũng không tìm được chỗ để đứng dựa vào ghế, mà phải đứng trên phân bò tươi.
Atha naṃ oloketvā eko akkhīni nimīli, eko bhamukaṃ ukkhipi, eko kapparaṃ kaṇḍūyi.
Then, looking at him, one closed his eyes, one raised his eyebrows, one scratched his elbow.
Sau đó, một người nhìn ông ta rồi nhắm mắt lại, một người nhướn mày, một người gãi cùi chỏ.
So tesaṃ kiriyaṃ oloketvā maṅkubhūto ‘‘gacchāmahaṃ paṇḍitā’’ti vatvā aparena ‘‘are duṭṭhabrāhmaṇa, ‘mā saddamakāsī’ti vutto saddameva karosi, aṭṭhīni te bhindissāmī’’ti vutte bhītatasito hutvā nivattitvā olokesi.
He, observing their actions, became ashamed, and saying, "I am going, sirs," when another said, "Hey, wicked brahmin, though told 'don't make noise,' you are making noise; I will break your bones," he became terrified, turned back, and looked.
Ông ta nhìn hành động của họ, cảm thấy bối rối, nói: “Thưa vị hiền trí, tôi xin đi,” rồi quay lại nhìn khi một người khác nói: “Này Bà la môn xấu xa, đã bảo ‘đừng làm ồn’ mà ngươi vẫn làm ồn, ta sẽ đập nát xương ngươi.” Ông ta sợ hãi run rẩy.
Atha naṃ añño veḷupesikāya piṭṭhiyaṃ tālesi, añño gīvāyaṃ gahetvā khipi, añño piṭṭhiyaṃ hatthatalena pahari.
Then another struck him on the back with a bamboo stick, another grabbed him by the neck and threw him, another hit him on the back with the palm of his hand.
Sau đó, một người khác dùng thanh tre đánh vào lưng ông ta, một người túm cổ ném đi, một người khác vỗ mạnh vào lưng bằng lòng bàn tay.
So dīpimukhā muttamigo viya bhītatasito nikkhamitvā rājagehaṃ gato.
He, terrified like a deer escaped from a leopard's mouth, went out and reached the royal palace.
Ông ta sợ hãi run rẩy như một con nai thoát khỏi miệng báo, rồi chạy ra khỏi nhà và đến cung vua.
Rājā cintesi ‘‘ajja mama putto imaṃ pavattiṃ sutvā tuṭṭho bhavissati, dvinnaṃ paṇḍitānaṃ mahatiyā dhammasākacchāya bhavitabbaṃ, ajja ubho aññamaññaṃ khamāpessanti, lābhā vata me’’ti.
The king thought, "Today my son will be pleased to hear this news; there must have been a great discussion on Dhamma between the two wise men; today both will forgive each other. What a gain for me!"
Đức vua nghĩ: “Hôm nay con trai ta chắc sẽ vui mừng khi nghe tin này. Chắc hẳn hai vị hiền trí đã có một cuộc đàm luận pháp vĩ đại, hôm nay cả hai sẽ tha thứ cho nhau. Quả là lợi lộc cho ta!”
So kevaṭṭaṃ disvā paṇḍitena saddhiṃ saṃsandanākāraṃ pucchanto gāthamāha –
Seeing Kevatta, he asked about the nature of his meeting with the wise man, and spoke this verse:
Nhìn thấy Kevaṭṭa, đức vua hỏi về cuộc gặp gỡ với vị hiền trí, rồi nói lên bài kệ:
‘‘Mama puttena brāhmaṇassa āgamane doso diṭṭho bhavissati.
"My son must have seen fault in the brahmin's arrival.
“Con trai ta chắc hẳn đã thấy một mối nguy hiểm trong việc Bà la môn đến đây.
Ayañhi āgacchanto na mittasanthavatthāya āgamissati, maṃ pana kāmena palobhetvā nagaraṃ netvā gaṇhanatthāya āgatena bhavitabbaṃ.
For this one did not come for the sake of friendship, but must have come to entice me with desire, take me to his city, and seize me.
Người này đến không phải để kết giao bạn bè, mà chắc hẳn đã đến để dụ dỗ ta bằng dục vọng, đưa ta về thành rồi bắt giữ.
Taṃ anāgatabhayaṃ diṭṭhaṃ bhavissati paṇḍitenā’’ti tassa tamatthaṃ āvajjetvā bhītatasitassa nisinnakāle cattāro paṇḍitā āgamiṃsu.
That future danger must have been seen by the wise man." While he was reflecting on that matter, terrified, the four wise men arrived.
Vị hiền trí chắc hẳn đã thấy trước mối nguy hiểm đó.” Khi đức vua đang suy nghĩ về điều đó và ngồi trong sợ hãi run rẩy, bốn vị hiền trí khác đến.
Rājā senakaṃ pucchi ‘‘senaka, ruccati te uttarapañcālanagaraṃ gantvā cūḷanirājassa dhītu ānayana’’nti?
The king asked Senaka, "Senaka, do you approve of going to the city of Uttarapañcāla to bring the daughter of Cūḷanirāja?"
Đức vua hỏi Senaka: “Senaka, ngươi có muốn đi đến thành Uttara Pañcāla để đón con gái của vua Cūḷanī không?”
Kiṃ kathetha mahārāja, na hi siriṃ āgacchantiṃ daṇḍena paharitvā palāpetuṃ vaṭṭati.
"What are you saying, great king? It is not proper to strike and drive away prosperity when it comes.
“Thưa Đại vương, ngài nói gì vậy? Không nên dùng gậy đánh đuổi sự thịnh vượng đang đến.
Sace tumhe tattha gantvā taṃ gaṇhissatha, ṭhapetvā cūḷanibrahmadattaṃ añño tumhehi samo jambudīpatale na bhavissati.
If you go there and seize her, no one on the Jambudīpa continent will be equal to you, except Cūḷanibrahmādatta.
Nếu ngài đến đó và lấy được nàng, thì trừ Cūḷanībrahmadatta ra, không ai trên cõi Diêm Phù Đề này sánh bằng ngài.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì ư?
Jeṭṭharājadhītāya gahitattā.
Because the eldest princess has been seized."
Vì ngài đã lấy được con gái của vị vua lớn nhất.
So hi ‘‘sesarājāno mama manussā, vedeho ekova mayā sadiso’’ti sakalajambudīpe uttamarūpadharaṃ dhītaraṃ tumhākaṃ dātukāmo jāto, karothassa vacanaṃ.
Indeed, he, thinking, ‘All other kings are my subjects; only the King of Videha is equal to me,’ wishes to give you his daughter, who possesses the most excellent beauty in the entire Jambudīpa. Do his bidding.
Ông ta nghĩ rằng ‘Các vị vua khác là thần dân của ta, chỉ có Vedeha là ngang hàng với ta,’ nên ông ta muốn gả con gái có dung mạo tuyệt mỹ nhất trên toàn cõi Diêm Phù Đề cho ngài. Xin ngài hãy làm theo lời ông ta.
Mayampi tumhe nissāya vatthālaṅkāre labhissāmāti.
“We too, relying on you, will obtain clothes and ornaments.”
Chúng tôi cũng sẽ nhận được y phục và trang sức nhờ ngài.”
Rājā sesepi pucchi.
The king asked the others as well.
Đức vua cũng hỏi những người khác.
Tepi tatheva kathesuṃ.
They too spoke in the same way.
Họ cũng nói tương tự.
Tassa tehi saddhiṃ kathentasseva kevaṭṭabrāhmaṇo attano nivāsagehā nikkhamitvā ‘‘rājānaṃ āmantetvā gamissāmī’’ti āgantvā ‘‘mahārāja, na sakkā amhehi papañcaṃ kātuṃ, gamissāma mayaṃ narindā’’ti āha.
While he was speaking with them, the Kevaṭṭa brahmin, having left his dwelling, came, thinking, “I will bid farewell to the king and depart,” and said, “Great King, it is not possible for us to engage in further delay; we, O King, shall depart.”
Khi đức vua đang nói chuyện với họ, Bà la môn Kevaṭṭa rời khỏi chỗ ở của mình, đến nói: “Thưa Đại vương, chúng tôi không thể chần chừ được nữa, chúng tôi xin đi, thưa chúa tể loài người.”
Rājā tassa sakkāraṃ katvā taṃ uyyojesi.
The king honored him and sent him off.
Đức vua làm lễ trọng thị rồi tiễn ông ta đi.
Mahāsatto tassa gamanabhāvaṃ ñatvā nhatvā alaṅkaritvā rājupaṭṭhānaṃ āgantvā rājānaṃ vanditvā ekamantaṃ nisīdi.
The Great Being, knowing of his departure, bathed, adorned himself, came to the king’s presence, bowed to the king, and sat down to one side.
Đức Đại Sĩ biết ông ta đã đi, liền tắm rửa, trang điểm, rồi đến hầu vua, đảnh lễ vua và ngồi sang một bên.
Rājā cintesi ‘‘putto me mahosadhapaṇḍito mahāmantī mantapāraṅgato atītānāgatapaccuppannaṃ atthaṃ jānāti.
The king thought, “My son, the wise Mahosadha, the great minister, is skilled in counsel and knows matters of the past, future, and present.
Đức vua nghĩ: “Con trai ta, vị hiền trí Mahosadha, là một đại thần thông thái, tinh thông mưu lược, biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai.
Amhākaṃ tattha gantuṃ yuttabhāvaṃ vā ayuttabhāvaṃ vā paṇḍito jānissatī’’ti.
The wise one will know whether it is proper or improper for us to go there.”
Vị hiền trí sẽ biết việc chúng ta đi đến đó là thích hợp hay không thích hợp.”
So attanā paṭhamaṃ cintitaṃ avatvā rāgaratto mohamūḷho hutvā taṃ pucchanto gāthamāha –
Without stating what he had first thought, he, overcome by lust and deluded by ignorance, asked him, speaking a verse:
Đức vua không nói ra điều mình đã nghĩ trước đó, mà vì tham ái và mê muội, liền hỏi Ngài bằng bài kệ:
Tattha rājāti videhaṃ ālapati.
Here, rājā addresses the King of Videha.
Ở đây, rājā (Đại vương) là gọi Videha.
Mahānubhāvoti mahāyaso.
Mahānubhāvo means greatly glorious.
Mahānubhāvoti (có uy lực lớn) là có danh tiếng lớn.
Mahabbaloti aṭṭharasaakkhobhaṇisaṅkhena balena samannāgato.
Mahabbalo means endowed with a force of eighteen akkhoṇī divisions.
Mahabbaloti (có đại quân hùng mạnh) là có quân đội gồm mười tám đạo binh.
Māraṇatthanti māraṇassa atthāya.
Māraṇattha means for the purpose of killing.
Māraṇatthanti (muốn giết) là vì mục đích giết hại.
Okacarenāti okacārikāya migiyā.
Okacarenā means by a decoy doe.
Okacarenāti (bằng cách dùng mồi nhử) là bằng một con nai cái làm mồi nhử.
Luddo hi ekaṃ migiṃ sikkhāpetvā rajjukena bandhitvā araññaṃ netvā migānaṃ gocaraṭṭhāne ṭhapesi.
Indeed, a hunter trains a doe, ties it with a rope, takes it to the forest, and places it in a grazing area for deer.
Kẻ săn mồi huấn luyện một con nai cái, buộc dây vào nó, dẫn vào rừng và đặt ở nơi nai thường kiếm ăn.
Sā bālamigaṃ attano santikaṃ ānetukāmā sakasaññāya rāgaṃ janentī viravati.
Wishing to draw a foolish deer to itself, it cries out, creating desire with its own call.
Con nai cái đó, muốn dụ một con nai non đến gần mình, đã rống lên để khơi dậy dục vọng bằng tín hiệu của loài mình.
Tassā saddaṃ sutvā bālamigo migagaṇaparivuto vanagumbe nipanno sesamigīsu saññaṃ akatvā tassā saddassavanasaṃsaggena baddho vuṭṭhāya nikkhamitvā gīvaṃ ukkhipitvā kilesavasena taṃ migiṃ upagantvā luddassa passaṃ datvā tiṭṭhati.
Hearing its sound, a foolish deer, surrounded by a herd of deer, lying in a thicket, without paying attention to the other does, bound by the desire of hearing its sound, gets up, comes out, raises its neck, and, due to defilement, approaches that doe and stands giving the hunter a side view.
Nghe tiếng nó, con nai non đang nằm trong bụi cây cùng bầy nai, không chú ý đến những con nai cái khác, bị thu hút bởi tiếng gọi đó, đứng dậy, đi ra, ngẩng cổ lên và do dục vọng mà tiến đến gần con nai cái đó, để lộ mình cho kẻ săn mồi.
Tamenaṃ so tikhiṇāya sattiyā vijjhitvā jīvitakkhayaṃ pāpeti.
The hunter then pierces it with a sharp spear and brings about the end of its life.
Kẻ săn mồi liền dùng giáo sắc nhọn đâm chết nó.
Tattha luddo viya cūḷanirājā, okacārikā viya assa dhītā, luddassa hatthe āvudhaṃ viya kevaṭṭabrāhmaṇo.
Here, the Cūḷanī king is like the hunter, his daughter is like the decoy doe, and the Kevaṭṭa brahmin is like the weapon in the hunter’s hand.
Ở đây, vua Cūḷanī ví như kẻ săn mồi, con gái của ông ta ví như con nai cái làm mồi nhử, và Bà-la-môn Kevatta ví như vũ khí trong tay kẻ săn mồi.
Iti yathā okacarena luddo migaṃ māraṇatthāya icchati, evaṃ sopi rājā taṃ icchatīti attho.
Thus, the meaning is that just as a hunter desires to kill a deer with a decoy doe, so too that king desires him.
Như vậy, kẻ săn mồi dùng nai cái để dụ giết nai, thì vị vua kia cũng muốn ngài như vậy, đó là ý nghĩa.
So rañño kuddhabhāvaṃ ñatvā ‘‘sace kho pana maṃ koci rañño vacanaṃ gahetvā hatthe vā gīvāya vā parāmaseyya, taṃ me alaṃ assa yāvajīvaṃ lajjituṃ, tasmā sayameva nikkhamissāmī’’ti cintetvā rājānaṃ vanditvā attano gehaṃ gato.
Knowing the king's anger, he thought, "If anyone were to take the king's word and touch me by the hand or neck, that would be enough for me to be ashamed for life. Therefore, I will leave by myself." Having thought this, he saluted the king and went to his own house.
Biết được sự tức giận của nhà vua, ngài suy nghĩ: “Nếu có ai đó theo lời vua mà chạm vào tay hay cổ ta, thì ta sẽ phải hổ thẹn suốt đời. Vì vậy, ta sẽ tự mình rời đi.” Rồi ngài đảnh lễ nhà vua và trở về nhà mình.
Rājāpi kevalaṃ kodhavaseneva vadati, bodhisatte pana garucittatāya na kañci tathā kātuṃ āṇāpesi.
The king, too, spoke merely out of anger; but out of respect for the Bodhisatta, he did not order anyone to do such a thing.
Nhà vua chỉ nói trong cơn giận, nhưng vì lòng tôn kính Đại Bồ Tát, ngài không ra lệnh cho ai làm gì như vậy.
Atha mahāsatto ‘‘ayaṃ rājā bālo attano hitāhitaṃ na jānāti, kāmagiddho hutvā ‘tassa dhītaraṃ labhissāmiyevā’ti anāgatabhayaṃ ajānitvā gacchanto mahāvināsaṃ pāpuṇissati.
Then the Great Being thought, "This king is foolish; he does not know what is beneficial or harmful to himself. Being greedy for sensual pleasure, he thinks, 'I will surely obtain his daughter,' and without knowing the future danger, he will go and meet with great destruction.
Sau đó, Đại Bồ Tát suy nghĩ: “Vị vua này thật ngu dại, không biết điều lợi hại cho mình. Vì quá tham dục, ngài nghĩ ‘ta nhất định sẽ có được con gái của ông ta’ mà không biết nguy hiểm sắp tới, rồi sẽ gặp đại họa.
Nāssa kathaṃ hadaye kātuṃ vaṭṭati, bahupakāro me esa mahāyasadāyako, imassa mayā paccayena bhavituṃ vaṭṭati.
It is not right to take his words to heart; he is very helpful to me and a giver of great glory. I ought to be a support for him.
Không nên để lời nói của ngài vào lòng. Ngài là người đã giúp ta rất nhiều, ban cho ta danh tiếng lớn. Ta phải là chỗ dựa cho ngài.
Paṭhamaṃ kho pana suvapotakaṃ pesetvā tathato ñatvā pacchā ahaṃ gamissāmī’’ti cintetvā suvapotakaṃ pesesi.
First, I will send the parrot chick, ascertain the situation from it, and then I will go." Having thought this, he sent the parrot chick.
Trước hết, ta sẽ sai con vẹt con đi, sau khi biết rõ tình hình, ta sẽ đi.” Rồi ngài sai con vẹt con đi.
Tamatthaṃ pakāsento satthā āha –
The Teacher, revealing that matter, said:
Để làm sáng tỏ điều đó, Đức Đạo Sư nói:
‘‘Kiṃ karomi, devā’’ti vutte ‘‘samma, kevaṭṭabrāhmaṇassa dūteyyenāgatakāraṇaṃ ṭhapetvā rājānañca kevaṭṭañca aññe na jānanti, ubhova rañño sayanagabbhe nisinnā mantayiṃsu.
When it was asked, "What shall I do, my lord?" it was said, "Friend, apart from the reason for coming as a messenger from the fisherman-brahmin, the king and the fisherman do not know; they both sat and consulted in the king's sleeping chamber.
Khi được hỏi: “Tôi phải làm gì, thưa ngài?” nó đáp: “Này bạn, ngoài việc Bà-la-môn Kevatta đến làm sứ giả, không ai khác ngoài nhà vua và Kevatta biết được. Cả hai đã ngồi trong phòng ngủ của nhà vua và bàn bạc.
Tassa pana atthi pañcālarājassa sāḷikā sayanapālikā.
But the king of Pañcāla has a mynah bird, a chamber attendant.
Vua Pañcāla có một con sáo cái, người giữ phòng ngủ của ngài.”
Sā kira taṃ rahassaṃ jānāti, tvaṃ tattha gantvā tāya saddhiṃ methunapaṭisaṃyuttaṃ vissāsaṃ katvā tesaṃ taṃ rahassaṃ bandhanena pucchassu.
She knows that secret, so you go there, make intimate conversation related to sexual intercourse with her, and ask her that secret by binding her.
Nàng ta biết bí mật đó, ngươi hãy đến đó, tạo sự thân mật liên quan đến tình dục với nàng, rồi dùng sự ràng buộc đó để hỏi nàng về bí mật đó.
Taṃ sāḷikaṃ paṭicchanne padese yathā taṃ koci na jānāti, evaṃ puccha.
Ask that mynah bird in a secluded place so that no one knows.
Hãy hỏi con sáo đó ở một nơi kín đáo, sao cho không ai biết được.
Sace hi te koci saddaṃ suṇāti, jīvitaṃ te natthi, tasmā paṭicchanne ṭhāne saṇikaṃ pucchā’’ti.
For if anyone hears your voice, your life is lost; therefore, ask softly in a secluded place."
Bởi vì nếu có ai nghe thấy tiếng của ngươi, ngươi sẽ không còn mạng sống, vậy nên hãy hỏi nhỏ nhẹ ở một nơi kín đáo.”
Sā tesaṃ sabbanti sā tesaṃ rañño ca kosiyagottassa ca kevaṭṭassāti dvinnampi janānaṃ sabbaṃ rahassaṃ jānāti.
Sā tesaṃ sabbaṃ means she knows all the secrets of both those people, the king and the fisherman of Kosiyagotta.
Sā tesaṃ sabba (nàng biết tất cả của họ) nghĩa là nàng biết tất cả bí mật của hai người đó, tức là của nhà vua và của người đánh cá Kosiyagotta.
Āmotīti bhikkhave, so suvapotako paṇḍitena purimanayeneva sakkāraṃ katvā pesito ‘‘āmo’’ti tassa paṭissutvā mahāsattaṃ vanditvā padakkhiṇaṃ katvā vivaṭasīhapañjarena nikkhamitvā vātavegena siviraṭṭhe ariṭṭhapuraṃ nāma gantvā tattha pavattiṃ sallakkhetvā sāḷikāya santikaṃ gato.
Āmoti means, bhikkhus, that parrot chick, sent by the wise one in the same manner as before, assented to him with "Yes," saluted the Great Being, circumambulated him, exited through the open lion's cage, and swiftly went to a city called Ariṭṭhapura in the Sivi kingdom, observed the situation there, and went to the mynah bird.
Thưa các Tỳ-khưu, Āmotī (Vâng, thưa Ngài) nghĩa là con vẹt non đó, được vị hiền nhân (Đại Bồ-tát) ban tặng sự tôn kính theo cách cũ và phái đi, đã đáp lời “Vâng, thưa Ngài”, đảnh lễ Đại Bồ-tát, đi nhiễu hữu và rời khỏi lồng sư tử mở rộng. Nó bay nhanh như gió đến thành Ariṭṭhapura thuộc xứ Sivi, tìm hiểu tình hình ở đó rồi đến chỗ con sáo.
Kathaṃ?
How?
Bằng cách nào?
So hi rājanivesanassa kañcanathupikāya nisīditvā rāganissitaṃ madhuraravaṃ ravi.
Indeed, he sat on the golden pinnacle of the royal palace and sang a sweet, passionate song.
Nó đậu trên chóp tháp vàng của hoàng cung và hót một tiếng du dương đầy dục vọng.
Kiṃ kāraṇā?
For what reason?
Vì lý do gì?
Imaṃ saddaṃ sutvā sāḷikā paṭiravissati, tāya saññāya tassā santikaṃ gamissāmīti.
"Having heard this sound, the mynah bird will respond, and with that signal, I will go to her."
Để con sáo sẽ hót đáp lại khi nghe tiếng này, và nó sẽ đến chỗ con sáo theo tín hiệu đó.
Sāpi tassa saddaṃ sutvā rājasayanassa santike suvaṇṇapañjare nisinnā rāgarattacittā hutvā tikkhattuṃ paṭiravi.
She, too, hearing his sound, sitting in a golden cage near the king's bedchamber, with a mind inflamed by passion, responded three times.
Con sáo cũng nghe tiếng của nó, đang đậu trong lồng vàng gần giường ngủ của nhà vua, với tâm đầy dục ái, đã hót đáp lại ba lần.
So thokaṃ gantvā punappunaṃ saddaṃ katvā tāya katasaddānusārena kamena sīhapañjaraummāre ṭhatvā parissayābhāvaṃ oloketvā tassā santikaṃ gato.
He went a little further, made sounds again and again, and following the sounds she made, he gradually stood at the threshold of the lion's cage, looked for any danger, and went to her.
Con vẹt bay một đoạn ngắn, rồi hót đi hót lại nhiều lần, và theo tiếng hót đáp lại của con sáo, nó dần dần đến đậu trên ngưỡng cửa lồng sư tử, quan sát thấy không có nguy hiểm, rồi đến chỗ con sáo.
Atha naṃ sā ‘‘ehi, samma, suvaṇṇapañjare nisīdā’’ti āha.
Then she said to him, "Come, friend, sit in the golden cage."
Rồi con sáo nói với nó: “Này bạn, hãy đến đây, ngồi vào lồng vàng đi.”
So gantvā nisīdi.
He went and sat down.
Nó đi đến và ngồi vào.
Āmantayīti evaṃ so gantvā methunapaṭisaṃyuttaṃ vissāsaṃ kattukāmo hutvā taṃ āmantesi.
Āmantayī means, having gone thus, wishing to make intimate conversation related to sexual intercourse, he addressed her.
Āmantayī (nó chào hỏi) nghĩa là nó đến đó, muốn tạo sự thân mật liên quan đến tình dục, nên đã chào hỏi con sáo.
Sugharanti kañcanapañjare vasanatāya sundaragharaṃ.
Sughara means "beautiful house" due to dwelling in a golden cage.
Sughara (ngôi nhà đẹp) nghĩa là một ngôi nhà đẹp vì được ở trong lồng vàng.
Vesseti vessike vessajātike.
Vesse means "O merchant-class, born of the merchant caste."
Vesse (người thuộc giai cấp Vessa) nghĩa là những người thuộc giai cấp Vessa.
Sāḷikā kira sakuṇesu vessajātikā nāma, tena taṃ evaṃ ālapati.
Indeed, the mynah bird is said to be of the merchant caste among birds, so he addressed her thus.
Con sáo được gọi là loài chim thuộc giai cấp Vessa, vì vậy nó được gọi như vậy.
Tuvanti sughare taṃ pucchāmi ‘‘kacci te madhunā saddhiṃ lājā labbhatī’’ti.
Tuvaṃ means, "O Sughara, I ask you, 'Are you obtaining puffed rice with honey?'"
Tuva (ngươi) nghĩa là ta hỏi ngươi trong ngôi nhà đẹp này: “Ngươi có được cốm với mật ong không?”
Āgammāti samma, kuto āgantvā idha paviṭṭhoti pucchati.
Āgammā means, "Friend, from where have you come and entered here?" he asks.
Āgammā (ngươi từ đâu đến) nghĩa là nó hỏi: “Này bạn, ngươi từ đâu đến mà lại vào đây?”
Kassa vāti kena vā pesito tvaṃ idhāgatoti.
Kassa vā means, "By whom were you sent and came here?"
Kassa vā (hoặc do ai) nghĩa là: “Ngươi do ai phái đến đây?”