Table of Contents

Jātaka-aṭṭhakathā-6

Edit
2368
Evañca pana vatvā mahāsatto āha – ‘‘mahārāja, sace puttato pitā seyyo, mama pitaraṃ gaṇhatha.
Having said this, the Great Being said, "Great king, if the father is superior to the son, take my father.
Sau khi nói như vậy, Đại Bồ Tát nói: “Đại vương, nếu cha cao quý hơn con, hãy giữ cha tôi.
Sace pitito putto seyyo, maṃ gaṇhatha tumhākaṃ atthāyā’’ti.
If the son is superior to the father, take me for your benefit."
Nếu con cao quý hơn cha, hãy giữ tôi cho mục đích của bệ hạ.”
Rājā somanassappatto ahosi.
The king was delighted.
Nhà vua vui mừng khôn xiết.
Sabbā rājaparisāpi ‘‘sukathito paṇḍitena pañho’’ti unnadantā sādhukārasahassāni adaṃsu, aṅguliphoṭā ceva celukkhepā ca pavattiṃsu.
All the royal assembly also shouted, "The problem has been well-explained by the wise one!" and gave thousands of acclamations; finger snaps and waving of clothes occurred.
Toàn thể hội đồng hoàng gia cũng hô vang “Vị hiền giả đã giải quyết vấn đề thật khéo léo!” và vỗ tay tán thưởng hàng ngàn lần, tiếng búng ngón tay và vẫy khăn áo vang lên.
Cattāro paṇḍitāpi dummukhā pajjhāyantāva ahesuṃ.
The four wise men remained displeased and brooding.
Bốn vị hiền giả thì buồn bã và chìm trong suy tư.
Nanu mātāpitūnaṃ guṇaṃ jānanto bodhisattena sadiso nāma natthi, atha so kasmā evamakāsīti?
Is there no one like the Bodhisatta who knows the virtues of parents, then why did he act thus?
Chẳng phải không có ai sánh bằng Bồ Tát trong việc hiểu biết công đức của cha mẹ sao? Vậy tại sao ông ấy lại làm như vậy?
Na so pitu avamānanatthāya, raññā pana ‘‘assataraṃ vā pesetu seṭṭhataraṃ vā’’ti pesitaṃ, tasmā tasseva pañhassa āvibhāvatthaṃ attano ca paṇḍitabhāvassa ñāpanatthaṃ catunnañca paṇḍitānaṃ appaṭibhānakaraṇatthaṃ evamakāsīti.
He did not do it to disrespect his father. But the king had sent word, "Send either a mule or a superior one." Therefore, to reveal that very problem, and to make known his own wisdom, and to render the four wise men speechless, he did so.
Ngài làm vậy không phải để khinh thường cha, mà vì nhà vua đã sai người đến nói: “Hãy cử một người kém hơn hoặc một người giỏi hơn,” cho nên để làm sáng tỏ vấn đề đó, để cho thấy sự thông thái của mình, và để làm cho bốn vị học giả kia không thể ứng đối.
2369
Gadrabhapañho niṭṭhito.
The Ass's Problem is finished.
Vấn đề con lừa đã kết thúc.
2370
Ekūnavīsatimapañho
The Nineteenth Problem
Vấn đề thứ mười chín
2371
Rājā tussitvā gandhodakapuṇṇaṃ suvaṇṇabhiṅkāraṃ ādāya ‘‘pācīnayavamajjhakagāmaṃ rājabhogena paribhuñjatū’’ti seṭṭhissa hatthe udakaṃ pātetvā ‘‘sesaseṭṭhino etasseva upaṭṭhākā hontū’’ti vatvā bodhisattassa mātu ca sabbālaṅkāre pesetvā gadrabhapañhe pasanno bodhisattaṃ puttaṃ katvā gaṇhituṃ seṭṭhiṃ avoca – ‘‘gahapati, mahosadhapaṇḍitaṃ mama puttaṃ katvā dehī’’ti.
The king, being pleased, took a golden ewer full of perfumed water and, pouring water onto the head of the chief, said, "May he enjoy the village of Pācīnayavamajjhaka as a royal grant," and then, saying, "May the other chiefs be attendants to him," and sending all ornaments to the Bodhisatta's mother, and being delighted with the Ass's Problem, he spoke to the chief to adopt the Bodhisatta as his son: "Householder, give Mahosadha the wise one to me as my son."
Nhà vua hoan hỷ, cầm bình vàng chứa đầy nước thơm, đổ nước vào tay trưởng giả và nói: “Hãy hưởng thụ làng Pācīnayavamajjhaka như tài sản của vua.” Rồi vua nói: “Các trưởng giả còn lại hãy là người hầu cận của vị này.” Sau khi gửi tất cả trang sức cho mẹ của Bồ Tát, nhà vua, vì hài lòng với vấn đề con lừa, đã nói với trưởng giả để nhận Bồ Tát làm con: “Gia chủ, hãy trao học giả Mahosadha cho ta làm con.”
‘‘Deva, atitaruṇo ayaṃ, ajjāpissa mukhe khīragandho vāyati, mahallakakāle tumhākaṃ santike bhavissatī’’ti.
"Deva, this one is too young; even today, the smell of milk wafts from his mouth. He will be with you when he is older."
Trưởng giả đáp: “Tâu Đại vương, đứa bé này còn quá nhỏ, mùi sữa vẫn còn vương trên miệng nó. Khi nó lớn hơn, nó sẽ ở bên Đại vương.”
‘‘Gahapati, tvaṃ ito paṭṭhāya etasmiṃ nirālayo hohi, ayaṃ ajjatagge mama putto, ahaṃ mama puttaṃ posetuṃ sakkhissāmi, gaccha tva’’nti taṃ uyyojesi.
"Householder, from now on, be unattached to him. From today onwards, he is my son. I will be able to raise my son. You may go," thus he dismissed him.
“Gia chủ, từ nay trở đi, ông đừng bận tâm về nó nữa. Từ hôm nay, nó là con của ta. Ta sẽ có thể nuôi dưỡng con trai của ta. Ông hãy đi đi,” nhà vua tiễn ông về.
So rājānaṃ vanditvā paṇḍitaṃ āliṅgitvā ure nipajjāpetvā sīse cumbitvā ‘‘tāta, appamatto hohī’’ti ovādamassa adāsi.
He bowed to the king, embraced the wise one, made him lie on his chest, kissed his head, and gave him this advice: "My son, be diligent."
Ông trưởng giả vái chào nhà vua, ôm lấy vị học giả, đặt lên ngực mình, hôn lên đầu và khuyên nhủ: “Con trai, hãy cẩn trọng!”
Sopi pitaraṃ vanditvā ‘‘tāta, mā cintayitthā’’ti assāsetvā pitaraṃ uyyojesi.
He too bowed to his father, reassured him saying, "Father, do not worry," and then sent his father away.
Vị ấy cũng vái chào cha, an ủi: “Thưa cha, xin đừng lo lắng,” rồi tiễn cha về.
Rājā paṇḍitaṃ pucchi ‘‘tāta, antobhattiko bhavissasi, udāhu bahibhattiko’’ti.
The king asked the wise one, "My son, will you be an internal resident, or an external resident?"
Nhà vua hỏi vị học giả: “Con trai, con sẽ ở trong cung hay ở ngoài cung?”
So ‘‘mahā me parivāro, tasmā bahibhattikena mayā bhavituṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā ‘‘bahibhattiko bhavissāmi, devā’’ti āha.
He thought, "My retinue is large, therefore it is proper for me to be an external resident," and said, "I will be an external resident, Deva."
Vị ấy nghĩ: “Ta có đoàn tùy tùng lớn, vậy nên ta cần phải ở ngoài cung,” rồi thưa: “Tâu Đại vương, con sẽ ở ngoài cung.”
Athassa rājā anurūpaṃ gehaṃ dāpetvā dārakasahassaṃ ādiṃ katvā paribbayaṃ dāpetvā sabbaparibhoge dāpesi.
Then the king had a suitable house given to him, and starting with a thousand boys, he had expenses given and all necessities provided.
Sau đó, nhà vua ban cho ngài một ngôi nhà phù hợp, cấp một ngàn người hầu và tất cả các vật dụng cần thiết.
So tato paṭṭhāya rājānaṃ upaṭṭhāsi.
From then on, he attended to the king.
Từ đó trở đi, ngài phụng sự nhà vua.
2372
Rājāpi naṃ vīmaṃsitukāmo ahosi.
The king also wished to test him.
Nhà vua cũng muốn thử tài ngài.
Tadā ca nagarassa dakkhiṇadvārato avidūre pokkharaṇitīre ekasmiṃ tālarukkhe kākakulāvake maṇiratanaṃ ahosi.
At that time, not far from the southern gate of the city, on the bank of a pond, in a crow's nest on a certain palm tree, there was a jewel.
Lúc đó, không xa cổng phía nam của thành phố, bên bờ một cái ao, trên một cây cọ có tổ quạ chứa một viên ngọc quý.
Tassa chāyā pokkharaṇiyaṃ paññāyi.
Its shadow appeared in the pond.
Bóng của viên ngọc hiện rõ trong ao.
Mahājano ‘‘pokkharaṇiyaṃ maṇi atthī’’ti rañño ārocesi.
The great multitude reported to the king, "There is a jewel in the pond."
Đông đảo người dân báo với nhà vua rằng: “Có một viên ngọc trong ao.”
So senakaṃ āmantetvā ‘‘pokkharaṇiyaṃ kira maṇiratanaṃ paññāyati, kathaṃ taṃ gaṇhāpessāmā’’ti pucchitvā ‘‘mahārāja, udakaṃ nīharāpetvā gaṇhituṃ vaṭṭatī’’ti vutte ‘‘tena hi, ācariya, evaṃ karohī’’ti tasseva bhāramakāsi.
He summoned Senaka and asked, "It is said that a jewel appears in the pond. How shall we have it taken?" When it was said, "Mahārāja, it is proper to drain the water and take it," he said, "Then, teacher, do so," and entrusted the matter to him.
Nhà vua gọi Senaka đến hỏi: “Nghe nói có một viên ngọc quý hiện rõ trong ao, làm sao chúng ta có thể lấy được nó?” Khi Senaka đáp: “Tâu Đại vương, nên rút nước ra rồi lấy,” nhà vua nói: “Vậy thì, thưa thầy, hãy làm như vậy,” và giao việc đó cho ông ta.
So bahū manusse sannipātāpetvā udakañca kaddamañca nīharāpetvā bhūmiṃ bhinditvāpi maṇiṃ nāddasa.
He gathered many people, had the water and mud removed, and even after digging the ground, he did not find the jewel.
Ông ta tập hợp nhiều người, rút hết nước và bùn, đào cả đất nhưng không tìm thấy viên ngọc.
Puna puṇṇāya pokkharaṇiyā maṇicchāyā paññāyi.
Again, when the pond was full, the jewel's shadow appeared.
Khi ao đầy nước trở lại, bóng viên ngọc lại hiện rõ.
So punapi tathā katvā na ca addasa.
He did so again but did not find it.
Ông ta lại làm như vậy nhưng vẫn không tìm thấy.
Tato rājā paṇḍitaṃ āmantetvā ‘‘tāta, pokkharaṇiyaṃ eko maṇi paññāyati, senako udakañca kaddamañca nīharāpetvā bhūmiṃ bhinditvāpi nāddasa, puna puṇṇāya pokkharaṇiyā paññāyati, sakkhissasi taṃ maṇiṃ gaṇhāpetu’’nti pucchi.
Then the king summoned the wise one and asked, "My son, a jewel appears in the pond. Senaka had the water and mud removed and even after digging the ground, did not find it. Again, when the pond is full, it appears. Will you be able to have that jewel taken?"
Sau đó, nhà vua gọi vị học giả đến hỏi: “Con trai, có một viên ngọc hiện rõ trong ao. Senaka đã rút hết nước và bùn, đào cả đất nhưng không tìm thấy. Khi ao đầy nước trở lại, nó lại hiện rõ. Con có thể lấy được viên ngọc đó không?”
So ‘‘netaṃ, mahārāja, garu, etha dassessāmī’’ti āha.
He said, "This is not difficult, Mahārāja. Come, I will show you."
Vị ấy thưa: “Tâu Đại vương, việc này không khó. Xin hãy đến đây, con sẽ chỉ cho.”
Rājā tassa vacanaṃ tussitvā ‘‘passissāmi ajja paṇḍitassa ñāṇabala’’nti mahājanaparivuto pokkharaṇitīraṃ gato.
The king was pleased with his words and, saying, "Today I shall see the power of the wise one's knowledge," went to the pond's edge surrounded by a great multitude.
Nhà vua hoan hỷ với lời nói của ngài và nói: “Hôm nay ta sẽ chứng kiến trí tuệ của vị học giả,” rồi cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến bờ ao.
2373
Mahāsatto tīre ṭhatvā maṇiṃ olokento ‘‘nāyaṃ maṇi pokkharaṇiyaṃ, tālarukkhe kākakulāvake maṇinā bhavitabba’’nti ñatvā ‘‘natthi, deva, pokkharaṇiyaṃ maṇī’’ti vatvā ‘‘nanu udake paññāyatī’’ti vutte ‘‘tena hi udakapātiṃ āharā’’ti udakapātiṃ āharāpetvā ‘‘passatha, deva, nāyaṃ maṇi pokkharaṇiyaṃyeva paññāyati, pātiyampi paññāyatī’’ti vatvā ‘‘paṇḍita, kattha pana maṇinā bhavitabba’’nti vutte ‘‘deva, pokkharaṇiyampi pātiyampi chāyāva paññāyati, na maṇi, maṇi pana tālarukkhe kākakulāvake atthi, purisaṃ āṇāpetvā āharāpehī’’ti āha.
The Great Being stood on the bank, looking at the jewel, and knowing, "This jewel is not in the pond; it must be a jewel in the crow's nest on the palm tree," he said, "Deva, there is no jewel in the pond." When it was said, "Does it not appear in the water?" he said, "Then bring a water-bowl." He had a water-bowl brought and said, "See, Deva, this jewel does not appear only in the pond; it appears in the bowl too." When it was asked, "Wise one, where then must the jewel be?" he said, "Deva, in both the pond and the bowl, only a shadow appears, not the jewel. The jewel is in the crow's nest on the palm tree. Command a man and have him bring it."
Đại Bồ Tát đứng trên bờ, nhìn viên ngọc và biết rằng: “Viên ngọc này không ở trong ao, chắc chắn nó ở trong tổ quạ trên cây cọ.” Ngài thưa: “Tâu Đại vương, không có ngọc trong ao.” Khi nhà vua hỏi: “Chẳng phải nó hiện rõ trong nước sao?” Ngài đáp: “Vậy thì, hãy mang một cái bát nước đến.” Khi cái bát nước được mang đến, ngài nói: “Xin Đại vương hãy xem, viên ngọc này không chỉ hiện rõ trong ao mà còn hiện rõ trong bát nước.” Khi nhà vua hỏi: “Thưa học giả, vậy viên ngọc đó ở đâu?” Ngài thưa: “Tâu Đại vương, trong ao và trong bát chỉ là bóng của viên ngọc, chứ không phải viên ngọc thật. Viên ngọc đang ở trong tổ quạ trên cây cọ. Xin hãy sai người đi lấy về.”
Rājā tathā katvā maṇiṃ āharāpesi.
The king did so and had the jewel brought.
Nhà vua làm theo và sai người đi lấy viên ngọc.
So āharitvā paṇḍitassa adāsi.
He brought it and gave it to the wise one.
Người đó mang về và trao cho vị học giả.
Paṇḍito taṃ gahetvā rañño hatthe ṭhapesi.
The wise one took it and placed it in the king's hand.
Vị học giả cầm lấy và đặt vào tay nhà vua.
Taṃ disvā mahājano paṇḍitassa sādhukāraṃ datvā senakaṃ paribhāsanto ‘‘maṇiratanaṃ tālarukkhe kākakulāvake atthi, senakabālo bahū manusse pokkharaṇimeva bhindāpesi, paṇḍitena nāma mahosadhasadisena bhavitabba’’nti mahāsattassa thutimakāsi.
Seeing that, the great multitude applauded the wise one and, criticizing Senaka, praised the Great Being, saying, "The jewel is in the crow's nest on the palm tree. The foolish Senaka had many people dig up the pond itself. A wise one should be like Mahosadha."
Thấy vậy, đông đảo người dân tán thán vị học giả, chỉ trích Senaka: “Viên ngọc quý ở trong tổ quạ trên cây cọ, mà tên Senaka ngu ngốc lại sai nhiều người đào ao. Một học giả phải như Mahosadha!” Họ ca ngợi Đại Bồ Tát.
Rājāpissa tuṭṭho attano gīvāya piḷandhanaṃ muttāhāraṃ datvā dārakasahassānampi muttāvaliyo dāpesi.
The king, pleased with him, gave him the pearl necklace from his own neck and also gave pearl necklaces to the thousand boys.
Nhà vua cũng rất hài lòng, ban cho ngài chuỗi ngọc trai đeo ở cổ của mình, và ban cho một ngàn người hầu chuỗi ngọc trai.
Bodhisattassa ca parivārassa ca iminā parihārena upaṭṭhānaṃ anujānīti.
He authorized the provision of support to the Bodhisatta and his retinue in this manner.
Và nhà vua cho phép cung cấp các vật dụng cần thiết cho Bồ Tát và đoàn tùy tùng của ngài bằng cách này.
2374
Ekūnavīsatimapañho niṭṭhito.
The Nineteenth Question is finished.
Vấn đề thứ mười chín đã kết thúc.
2375
Kakaṇṭakapañho
The Question of the Kakaṇṭaka
Vấn đề con thằn lằn
2376
Punekadivasaṃ rājā paṇḍitena saddhiṃ uyyānaṃ agamāsi.
One day again, the king went to the pleasure garden with the wise one.
Một ngày nọ, nhà vua cùng với vị học giả đi đến khu vườn.
Tadā eko kakaṇṭako toraṇagge vasati.
At that time, a kakaṇṭaka dwelt at the top of the archway.
Lúc đó, một con thằn lằn sống trên cổng vòm.
So rājānaṃ āgacchantaṃ disvā otaritvā bhūmiyaṃ nipajji.
Seeing the king approaching, he descended and lay down on the ground.
Thấy nhà vua đến, nó bò xuống và nằm trên mặt đất.
Rājā tassa taṃ kiriyaṃ oloketvā ‘‘paṇḍita, ayaṃ kakaṇṭako kiṃ karotī’’ti pucchi.
The king, observing his action, asked, "Sage, what is this crow doing?"
Nhà vua quan sát hành động của nó và hỏi: “Thưa học giả, con thằn lằn này đang làm gì?”
Mahāsatto ‘‘mahārāja, tumhe sevatī’’ti āha.
The Great Being said, "Great King, he serves you."
Đại Bồ Tát thưa: “Tâu Đại vương, nó đang phục vụ Đại vương.”
‘‘Sace evaṃ amhākaṃ sevati, etassa mā nipphalo hotu, bhogamassa dāpehī’’ti.
"If he serves us in this way, let it not be fruitless for him; have provisions given to him."
“Nếu nó phục vụ chúng ta như vậy, thì nó không nên vô ích. Hãy ban cho nó một phần tài sản.”
‘‘Deva, tassa bhogena kiccaṃ natthi, khādanīyamattaṃ alametassā’’ti.
"Deva, he has no need for provisions; just enough food is sufficient for him."
“Tâu Đại vương, nó không cần tài sản, chỉ cần một ít thức ăn là đủ cho nó.”
‘‘Kiṃ panesa, khādatī’’ti?
"What does he eat?"
“Vậy nó ăn gì?”
‘‘Maṃsaṃ devā’’ti.
"Meat, Deva."
“Tâu Đại vương, nó ăn thịt.”
‘‘Kittakaṃ laddhuṃ vaṭṭatī’’ti?
"How much should he receive?"
“Nó nên nhận bao nhiêu?”
‘‘Kākaṇikamattagghanakaṃ devā’’ti.
"Worth a kākaṇika, Deva."
“Tâu Đại vương, chỉ một kākaṇika giá trị là đủ.”
Rājā ekaṃ purisaṃ āṇāpesi ‘‘rājadāyo nāma kākaṇikamattaṃ na vaṭṭati, imassa nibaddhaṃ aḍḍhamāsagghanakaṃ maṃsaṃ āharitvā dehī’’ti.
The king ordered a man, "A royal gift should not be merely worth a kākaṇika; bring and give him meat worth half a māsaka regularly."
Nhà vua ra lệnh cho một người: “Một món quà của vua không thể chỉ là một kākaṇika. Hãy mang cho nó một nửa đồng māsaka thịt cố định.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tato paṭṭhāya tathā akāsi.
He assented, saying "So be it," and from then on, he did so.
Người đó vâng lời và từ đó trở đi làm theo như vậy.
So ekadivasaṃ uposathe māghāte maṃsaṃ alabhitvā tameva aḍḍhamāsakaṃ vijjhitvā suttena āvunitvā tassa gīvāyaṃ piḷandhi.
One day, on an Uposatha day, when meat was unavailable, he pierced that very half-māsaka, strung it with a thread, and tied it around its neck.
Một ngày nọ, vào ngày Uposatha, khi không tìm được thịt, người đó đã đâm một nửa đồng māsaka, xỏ dây và đeo vào cổ con thằn lằn.
Athassa taṃ nissāya māno uppajji.
Then, due to that, conceit arose in it.
Do đó, một sự kiêu ngạo đã nảy sinh trong nó.
Taṃ divasameva rājā puna mahosadhena saddhiṃ uyyānaṃ agamāsi.
That very day, the king again went to the park with Mahosadha.
Cùng ngày đó, nhà vua lại cùng Mahosadha đi đến khu vườn.
So rājānaṃ āgacchantaṃ disvāpi dhanaṃ nissāya uppannamānavasena ‘‘vedeha, tvaṃ nu kho mahaddhano, ahaṃ nu kho’’ti raññā saddhiṃ attānaṃ samaṃ karonto anotaritvā toraṇaggeyeva sīsaṃ cālento nipajji.
Seeing the king approaching, but due to the conceit that had arisen from its wealth, it did not descend, but lay at the top of the archway, shaking its head, comparing itself to the king, thinking, "Vedeha, are you wealthy, or am I?"
Thấy nhà vua đến, nhưng do sự kiêu ngạo nảy sinh từ tài sản, nó không bò xuống mà nằm trên cổng vòm, lắc đầu, tự coi mình ngang hàng với nhà vua, như thể nói: “Này Vedeha, ngươi giàu có hay ta giàu có?”
Rājā tassa taṃ kiriyaṃ oloketvā ‘‘paṇḍita, esa pubbe viya ajja na otarati, kiṃ nu kho kāraṇa’’nti pucchanto imaṃ gāthamāha –
The king, observing its action, asked, "Sage, today it does not descend as before; what could be the reason?" and spoke this verse:
Nhà vua quan sát hành động của nó và hỏi: “Thưa học giả, hôm nay nó không bò xuống như trước. Nguyên nhân là gì?” rồi ngài đọc bài kệ này:
2377
‘‘Nāyaṃ pure unnamati, toraṇagge kakaṇṭako;
"This crow does not rise up as before, at the top of the archway;
“Con thằn lằn trên cổng vòm,
2378
Mahosadha vijānāhi, kena thaddho kakaṇṭako’’ti.(jā. 1.2.39);
Mahosadha, understand, by what is the crow stiff?"
Trước đây không ngẩng cao như vậy. Này Mahosadha, hãy cho biết, vì điều gì mà con thằn lằn trở nên kiêu ngạo?”
2379
Tattha unnamatīti yathā ajja anotaritvā toraṇaggeyeva sīsaṃ cālento unnamati, evaṃ pure na unnamati.
Therein, unnamati: it does not rise up as before, just as today it does not descend but rises up, shaking its head at the top of the archway.
Trong đó, unnamatīti có nghĩa là như hôm nay nó không bò xuống mà chỉ lắc đầu trên cổng vòm, trước đây nó không ngẩng cao như vậy.
Kena thaddhoti kena kāraṇena thaddhabhāvaṃ āpannoti.
Kena thaddho: by what reason has it become stiff?
Kena thaddhoti có nghĩa là vì nguyên nhân gì mà nó trở nên kiêu ngạo.
2380
Paṇḍito tassa vacanaṃ sutvā ‘‘mahārāja, uposathe māghāte maṃsaṃ alabhantena rājapurisena gīvāya baddhaṃ aḍḍhamāsakaṃ nissāya tassa mānena bhavitabba’’nti ñatvā imaṃ gāthamāha –
The Sage, hearing his words, knew, "Great King, it must be due to the conceit of the half-māsaka tied around its neck by the royal attendant who could not obtain meat on an Uposatha day," and spoke this verse:
Vị học giả nghe lời nhà vua, biết rằng: “Tâu Đại vương, chắc hẳn là do sự kiêu ngạo của con thằn lằn, vì người hầu của vua đã đeo một nửa đồng māsaka vào cổ nó khi không tìm được thịt vào ngày Uposatha,” rồi ngài đọc bài kệ này:
2381
‘‘Aladdhapubbaṃ laddhāna, aḍḍhamāsaṃ kakaṇṭako;
"Having received a half-māsaka, which it had never received before, the crow
“Được một nửa đồng māsaka,
2382
Atimaññati rājānaṃ, vedehaṃ mithilaggaha’’nti.(jā. 1.2.40);
Disrespects the king, Vedeha, the lord of Mithilā."
Con thằn lằn chưa từng có, khinh thường Vedeha, vua của Mithilā.”
2383
Rājā tassa vacanaṃ sutvā taṃ purisaṃ pakkosāpetvā pucchi.
The king, hearing his words, sent for that man and questioned him.
Nhà vua nghe lời ngài, cho gọi người đó đến hỏi.
So yathābhūtaṃ rañño ārocesi.
He reported the truth to the king.
Người đó kể lại sự thật cho nhà vua.
Rājā taṃ kathaṃ sutvā ‘‘kañci apucchitvāva sabbaññubuddhena viya paṇḍitena kakaṇṭakassa ajjhāsayo ñāto’’ti ativiya pasīditvā paṇḍitassa catūsu dvāresu suṅkaṃ dāpesi.
The king, hearing that story, was exceedingly pleased, thinking, "The Sage has known the crow's disposition as if he were a Perfectly Enlightened Buddha, without asking anyone," and had the customs duties at the four gates given to the Sage.
Nhà vua nghe câu chuyện đó, vô cùng hài lòng và nói: “Vị học giả đã biết được tâm tư của con thằn lằn mà không cần hỏi ai, giống như một vị Phật Toàn Giác,” rồi ngài ban cho vị học giả quyền thu thuế ở bốn cổng thành.
Kakaṇṭakassa pana kujjhitvā vattaṃ hāretuṃ ārabhi.
However, he became angry with the crow and began to stop its allowance.
Nhưng nhà vua nổi giận với con thằn lằn và bắt đầu hủy bỏ chế độ cấp dưỡng cho nó.
Paṇḍito pana ‘‘mā hārehi mahārājā’’ti taṃ nivāresi.
But the Sage restrained him, saying, "Do not stop it, Great King."
Tuy nhiên, vị học giả đã ngăn cản ngài: “Tâu Đại vương, xin đừng hủy bỏ.”
2384
Kakaṇṭakapañho niṭṭhito.
The Problem of the Crow is concluded.
Vấn đề con thằn lằn đã kết thúc.
2385
Sirikāḷakaṇṇipañho
The Problem of Sirī and Kāḷakaṇṇī
Vấn đề Sirikāḷakaṇṇī
2386
Atheko mithilavāsī piṅguttaro nāma māṇavo takkasilaṃ gantvā disāpāmokkhācariyassa santike sippaṃ sikkhanto khippameva sikkhi.
Then a young man named Piṅguttara, a resident of Mithilā, went to Takkasilā and quickly learned the crafts from the world-renowned teacher.
Sau đó, một thanh niên tên là Piṅguttara, cư dân của Mithilā, đã đến Takkasilā và học nghề từ vị thầy danh tiếng, và nhanh chóng thành thạo.
So anuyogaṃ datvā ‘‘gacchāmaha’’nti ācariyaṃ āpucchi.
Having applied himself, he asked the teacher's permission, saying, "I wish to go."
Sau khi siêng năng học hỏi, anh ta xin phép thầy để ra đi: “Con xin phép về.”
Tasmiṃ pana kule ‘‘sace vayappattā dhītā hoti, jeṭṭhantevāsikassa dātabbā’’ti vattaṃva, tasmā tassa ācariyassa vayappattā ekā dhītā atthi, sā abhirūpā devaccharāpaṭibhāgā.
In that family, it was a custom that "if there is a daughter of marriageable age, she should be given to the eldest disciple"; therefore, that teacher had a daughter of marriageable age, who was beautiful, resembling a celestial nymph.
Trong gia đình đó có tục lệ rằng: “Nếu có con gái đến tuổi trưởng thành thì sẽ gả cho đệ tử lớn nhất.” Do đó, vị đạo sư ấy có một người con gái đã đến tuổi trưởng thành, cô ấy rất xinh đẹp, tựa như tiên nữ.
Atha naṃ ācariyo ‘‘dhītaraṃ te, tāta, dassāmi, taṃ ādāya gamissasī’’ti āha.
Then the teacher said to him, "My dear, I will give you my daughter; you shall take her and go."
Sau đó, vị đạo sư nói với anh ta: “Này con, ta sẽ gả con gái cho con, con hãy dẫn nó về đi.”
So pana māṇavo dubbhago kāḷakaṇṇī, kumārikā pana mahāpuññā.
However, that young man was unlucky, a Kāḷakaṇṇī, but the maiden was very meritorious.
Nhưng người thanh niên đó là kẻ bất hạnh, có vận rủi, còn cô gái thì có phước báu lớn.
Tassa taṃ disvā cittaṃ na allīyati.
Seeing her, his mind was not attached.
Khi nhìn thấy cô ấy, tâm anh ta không hề quyến luyến.
So taṃ arocentopi ‘‘ācariyassa vacanaṃ na bhindissāmī’’ti sampaṭicchi.
Even though he did not wish to say so, he assented, thinking, "I will not break the teacher's word."
Mặc dù không muốn, anh ta vẫn chấp nhận, nghĩ rằng “mình sẽ không làm trái lời đạo sư.”
Ācariyo dhītaraṃ tassa adāsi.
The teacher gave his daughter to him.
Vị đạo sư gả con gái cho anh ta.
So rattibhāge alaṅkatasirisayane nipanno tāya āgantvā sayanaṃ abhiruḷhamattāya aṭṭīyamāno harāyamāno jigucchamāno pakampamāno otaritvā bhūmiyaṃ nipajji.
At night, as he lay on the adorned, splendid couch, as soon as she came and ascended the couch, he, feeling disgusted, ashamed, repulsed, and trembling, descended and lay down on the ground.
Vào ban đêm, khi cô gái đã trang điểm lộng lẫy bước lên giường ngủ, anh ta nằm trên giường danh dự nhưng cảm thấy chán ghét, xấu hổ, ghê tởm, run rẩy, liền bước xuống và nằm trên đất.
Sāpi otaritvā tassa santikaṃ gantvā nipajji, so uṭṭhāya sayanaṃ abhiruhi.
She also descended, went near him, and lay down, whereupon he got up and ascended the couch.
Cô gái cũng bước xuống, đến gần anh ta và nằm xuống, anh ta liền đứng dậy và bước lên giường.
Sāpi puna sayanaṃ abhiruhi, so puna sayanā otaritvā bhūmiyaṃ nipajji.
She, too, again ascended the bed, and he, again descending from the bed, lay on the ground.
Cô gái cũng lại bước lên giường, anh ta lại bước xuống giường và nằm trên đất.
Kāḷakaṇṇī nāma siriyā saddhiṃ na sameti.
Ill-luck (Kāḷakaṇṇī) does not associate with good fortune (sirī).
Kẻ vận rủi (Kāḷakaṇṇī) không bao giờ hòa hợp với sự may mắn (Sirī).
Kumārikā sayaneyeva nipajji, so bhūmiyaṃ sayi.
The maiden lay on the bed itself, and he slept on the ground.
Cô gái nằm trên giường, còn anh ta ngủ dưới đất.
2387
Evaṃ sattāhaṃ vītināmetvā taṃ ādāya ācariyaṃ vanditvā nikkhami, antarāmagge ālāpasallāpamattampi natthi.
Having spent seven days thus, he took her, paid homage to the teacher, and departed. On the way, there was not even a word of conversation.
Cứ như vậy, sau khi trải qua bảy ngày, anh ta dẫn cô gái đi, đảnh lễ vị đạo sư rồi rời đi, trên đường đi không hề nói chuyện với nhau.
Anicchamānāva ubhopi mithilaṃ sampattā.
Both, unwilling, arrived in Mithilā.
Cả hai đều không mong muốn mà đến được Mithilā.
Atha piṅguttaro nagarā avidūre phalasampannaṃ udumbararukkhaṃ disvā khudāya pīḷito taṃ abhiruhitvā phalāni khādi.
Then Piṅguttara, seeing a fig tree (udumbararukkha) laden with fruit not far from the city, and afflicted by hunger, climbed it and ate the fruits.
Sau đó, Piṅguttara nhìn thấy một cây sung (udumbara) đầy quả gần thành phố, vì đói bụng, anh ta trèo lên và ăn quả.
Sāpi chātajjhattā rukkhamūlaṃ gantvā ‘‘sāmi, mayhampi phalāni pātethā’’ti āha.
She, too, being hungry, went to the foot of the tree and said, "Lord, please drop some fruits for me too."
Cô gái cũng đói bụng, đi đến gốc cây và nói: “Này chủ nhân, xin hãy hái quả cho tôi nữa.”
Kiṃ tava hatthapādā natthi, sayaṃ abhiruhitvā khādāti.
"Do you not have hands and feet? Climb up yourself and eat," he said.
Anh ta nói: “Tay chân cô không có sao? Tự mình trèo lên mà ăn đi.”
Sā abhiruhitvā khādi.
She climbed up and ate.
Cô ấy trèo lên và ăn.
So tassā abhiruḷhabhāvaṃ ñatvā khippaṃ otaritvā rukkhaṃ kaṇṭakehi parikkhipitvā ‘‘muttomhi kāḷakaṇṇiyā’’ti vatvā palāyi.
He, knowing that she had climbed up, quickly descended, surrounded the tree with thorns, and saying, "I am free from ill-luck (Kāḷakaṇṇī)," fled.
Khi biết cô ấy đã trèo lên, anh ta nhanh chóng trèo xuống, bao quanh gốc cây bằng gai nhọn, rồi nói: “Ta đã thoát khỏi kẻ vận rủi (kāḷakaṇṇī) rồi!” và bỏ chạy.
Sāpi otarituṃ asakkontī tattheva nisīdi.
She, being unable to descend, remained seated there.
Cô gái không thể trèo xuống, nên cứ ngồi yên ở đó.
Atha rājā uyyāne kīḷitvā hatthikkhandhe nisinno sāyanhasamaye nagaraṃ pavisanto taṃ disvā paṭibaddhacitto hutvā ‘‘sapariggahā, apariggahā’’ti pucchāpesi.
Then the king, having enjoyed himself in the park, entered the city at dusk seated on the back of an elephant, and seeing her, became enamored, and had someone ask, "Is she taken or untaken?"
Sau đó, nhà vua dạo chơi trong vườn, cưỡi trên lưng voi, vào thành phố vào buổi chiều, nhìn thấy cô ấy liền động lòng, sai người hỏi: “Cô ấy đã có chủ hay chưa?”
Sāpi ‘‘atthi me, sāmi, kuladattiko pati, so pana maṃ idha nisīdāpetvā chaḍḍetvā palāto’’ti āha.
She replied, "Lord, I have a husband given by my family, but he abandoned me here and fled."
Cô ấy nói: “Thưa bệ hạ, tôi có một người chồng được gia đình gả cho, nhưng anh ta đã để tôi ngồi đây và bỏ rơi tôi rồi.”
Amacco taṃ kāraṇaṃ rañño ārocesi.
The minister reported the matter to the king.
Vị quan đại thần trình bày sự việc đó lên nhà vua.
Rājā ‘‘asāmikabhaṇḍaṃ nāma rañño pāpuṇātī’’ti taṃ otāretvā hatthikkhandhaṃ āropetvā nivesanaṃ netvā abhisiñcitvā aggamahesiṭṭhāne ṭhapesi.
The king, thinking, "Unclaimed property belongs to the king," had her brought down, placed on the elephant's back, taken to the palace, consecrated, and established as the chief queen.
Nhà vua nói: “Vật vô chủ thì thuộc về nhà vua,” liền cho người đưa cô ấy xuống, đặt lên lưng voi, đưa về cung điện, làm lễ đăng quang và đặt vào vị trí hoàng hậu.
Sā tassa piyā ahosi manāpā.
She was dear and pleasing to him.
Cô ấy trở thành người được nhà vua yêu quý và hài lòng.
Udumbararukkhe laddhattā ‘‘udumbaradevī’’tvevassā nāmaṃ sañjāniṃsu.
Because she was found at a fig tree (udumbararukkha), they named her "Udumbaradevī."
Vì được tìm thấy ở cây sung (udumbara), nên họ đặt tên cô là “Udumbaradevī” (Nữ thần Sung).
2388
Athekadivasaṃ rañño uyyānagamanatthāya dvāragāmavāsikehi maggaṃ paṭijaggāpesuṃ.
Then one day, for the king's visit to the park, the residents of the gate-village were made to clear the path.
Sau đó, một ngày nọ, nhà vua cho người dân làng ở cổng chuẩn bị đường đi để đến vườn thượng uyển.
Piṅguttaropi bhatiṃ karonto kacchaṃ bandhitvā kuddālena maggaṃ tacchi.
Piṅguttara, too, working for hire, tied up his loincloth and cleared the path with a hoe.
Piṅguttara cũng đang làm công việc được thuê, thắt lưng và dùng cuốc để dọn đường.
Magge aniṭṭhiteyeva rājā udumbaradeviyā saddhiṃ rathe nisīditvā nikkhami.
Before the path was finished, the king departed, seated in a carriage with Udumbaradevī.
Khi con đường chưa hoàn thành, nhà vua đã ngồi trên xe cùng Udumbaradevī và rời đi.
Udumbaradevī kāḷakaṇṇiṃ maggaṃ tacchantaṃ disvā ‘‘evarūpaṃ siriṃ dhāretuṃ nāsakkhi ayaṃ kāḷakaṇṇī’’ti taṃ olokentī hasi.
Udumbaradevī saw Kāḷakaṇṇī clearing the path and, looking at him, smiled, thinking, "This Kāḷakaṇṇī could not maintain such fortune."
Udumbaradevī nhìn thấy kẻ vận rủi đang dọn đường, liền nhìn anh ta và cười, nghĩ: “Kẻ vận rủi này không thể giữ được sự may mắn như thế này.”
Rājā hasamānaṃ disvā kujjhitvā ‘‘kasmā hasī’’ti pucchi.
The king, seeing her smile, became angry and asked, "Why do you smile?"
Nhà vua thấy cô ấy cười liền nổi giận hỏi: “Tại sao nàng cười?”
Deva, ayaṃ maggatacchako puriso mayhaṃ porāṇakasāmiko, esa maṃ udumbararukkhaṃ āropetvā kaṇṭakehi parikkhipitvā gato, imāhaṃ oloketvā ‘‘evarūpaṃ siriṃ dhāretuṃ nāsakkhi kāḷakaṇṇī aya’’nti cintetvā hasinti.
"Your Majesty, this man clearing the path is my former husband. He made me climb a fig tree, surrounded it with thorns, and left. I looked at him and smiled, thinking, 'This Kāḷakaṇṇī could not maintain such fortune.'"
“Tâu bệ hạ, người dọn đường này là chồng cũ của thiếp. Anh ta đã đưa thiếp lên cây sung, bao quanh bằng gai nhọn rồi bỏ đi. Thiếp nhìn anh ta và nghĩ: ‘Kẻ vận rủi này không thể giữ được sự may mắn như thế này,’ nên thiếp cười.”
Rājā ‘‘tvaṃ musāvādaṃ kathesi, aññaṃ kañci purisaṃ disvā tayā hasitaṃ bhavissati, taṃ māressāmī’’ti asiṃ aggahesi.
The king said, "You are lying; you must have smiled at some other man. I will kill him," and grasped his sword.
Nhà vua nói: “Nàng nói dối rồi, chắc nàng đã nhìn thấy một người đàn ông khác rồi cười, ta sẽ giết nàng!” và rút gươm.
Sā bhayappattā ‘‘deva, paṇḍite tāva pucchathā’’ti āha.
She, being terrified, said, "Your Majesty, please ask the wise men first."
Cô ấy sợ hãi nói: “Tâu bệ hạ, xin hãy hỏi các vị hiền triết trước đã.”
Rājā senakaṃ pucchi ‘‘senaka, imissā vacanaṃ tvaṃ saddahasī’’ti.
The king asked Senaka, "Senaka, do you believe her words?"
Nhà vua hỏi Senaka: “Này Senaka, ngươi có tin lời cô ấy không?”
‘‘Na saddahāmi, deva, ko nāma evarūpaṃ itthiratanaṃ pahāya gamissatī’’ti.
"I do not believe it, Your Majesty. Who would abandon such a jewel of a woman?"
“Không tin, tâu bệ hạ. Ai lại bỏ rơi một người phụ nữ quý báu như thế này mà đi chứ?”
Sā tassa kathaṃ sutvā atirekataraṃ bhītā ahosi.
Hearing his words, she became even more frightened.
Nghe lời anh ta nói, cô ấy càng thêm sợ hãi.
Atha rājā ‘‘senako kiṃ jānāti, paṇḍitaṃ pucchissāmī’’ti cintetvā taṃ pucchanto imaṃ gāthamāha –
Then the king, thinking, "What does Senaka know? I will ask the wise one," asked him, uttering this verse:
Sau đó, nhà vua nghĩ: “Senaka biết gì chứ, ta sẽ hỏi vị hiền triết,” rồi hỏi và đọc bài kệ này –
2389
‘‘Itthī siyā rūpavatī, sā ca sīlavatī siyā;
"If a woman be beautiful, and also virtuous;
“Một người phụ nữ có thể xinh đẹp, và có thể có giới hạnh;
2390
Puriso taṃ na iccheyya, saddahāsi mahosadhā’’ti.(jā. 1.2.83);
Would a man not desire her? Do you believe this, Mahosadha?"
Nhưng người đàn ông lại không muốn cô ấy, Mahosadha, ngươi có tin không?”
2391
Tattha sīlavatīti ācāraguṇasampannā.
Therein, sīlavatī means endowed with virtuous conduct.
Ở đây, sīlavatī có nghĩa là người đầy đủ phẩm chất đạo đức.
2392
Taṃ sutvā paṇḍito gāthamāha –
Hearing that, the wise one uttered the verse:
Nghe vậy, vị hiền triết đọc bài kệ –
2393
‘‘Saddahāmi mahārāja, puriso dubbhago siyā;
"I believe it, great king, a man may be unlucky;
“Tâu đại vương, tôi tin, một người đàn ông có thể là kẻ bất hạnh;
2394
Sirī ca kāḷakaṇṇī ca, na samenti kudācana’’nti.(jā. 1.2.84);
Good fortune (sirī) and ill-luck (Kāḷakaṇṇī) never meet."
May mắn (Sirī) và vận rủi (Kāḷakaṇṇī) không bao giờ hòa hợp với nhau.”
2395
Tattha na samentīti samuddassa orimatīrapārimatīrāni viya ca gaganatalapathavitalāni viya ca na samāgacchanti.
Therein, na samenti means they do not meet, like the near and far banks of the ocean, or like the sky and the earth.
Ở đây, na samentī có nghĩa là không hòa hợp, giống như hai bờ bên này và bên kia của đại dương, hoặc như bầu trời và mặt đất không gặp nhau.
2396
Rājā tassa vacanena taṃ kāraṇaṃ sutvā tassā na kujjhi, hadayamassa nibbāyi.
The king, hearing that matter from his words, was not angry with her; his heart was appeased.
Nhà vua nghe lời giải thích đó, không còn tức giận cô ấy nữa, lòng ông nguôi đi.
So tassa tussitvā ‘‘sace paṇḍito nābhavissa, ajjāhaṃ bālasenakassa kathāya evarūpaṃ itthiratanaṃ hīno assaṃ, taṃ nissāya mayā esā laddhā’’ti satasahassena pūjaṃ kāresi.
Pleased with him, he thought, "If the wise one had not been here, today I would have lost such a jewel of a woman because of foolish Senaka's words. Through him, I obtained her," and made an offering of a hundred thousand.
Ông hài lòng với vị hiền triết và nói: “Nếu không có vị hiền triết, hôm nay ta đã bị mất đi một người phụ nữ quý báu như thế này vì lời nói của Senaka ngu ngốc. Nhờ vào ông ấy mà ta có được cô ấy,” và ban thưởng một trăm ngàn (đồng tiền).
Devīpi rājānaṃ vanditvā ‘‘deva, paṇḍitaṃ nissāya mayā jīvitaṃ laddhaṃ, imāhaṃ kaniṭṭhabhātikaṭṭhāne ṭhapetuṃ varaṃ yācāmī’’ti āha.
The queen also, having saluted the king, said, "Your Majesty, I have gained my life thanks to the wise one; I ask for a boon to place him in the position of a younger brother."
Hoàng hậu cũng đảnh lễ nhà vua và nói: “Tâu bệ hạ, nhờ có vị hiền triết mà thiếp được sống, thiếp xin bệ hạ ban cho thiếp ân huệ được đặt ông ấy vào vị trí em trai.”
‘‘Sādhu, devi, gaṇhāhi, dammi te vara’’nti.
"Very well, queen, take it, I grant you the boon."
“Tốt lắm, hoàng hậu, hãy nhận lấy đi, ta ban cho nàng ân huệ đó.”
‘‘Deva, ajja paṭṭhāya mama kaniṭṭhaṃ vinā kiñci madhurarasaṃ na khādissāmi, ito paṭṭhāya velāya vā avelāya vā dvāraṃ vivarāpetvā imassa madhurarasaṃ pesetuṃ labhanakavaraṃ gaṇhāmī’’ti.
"Your Majesty, from today onwards, I will not eat any sweet food without my younger brother. From now on, I take the boon of being able to have sweet food sent to him, whether it is the right time or not, by having the door opened."
“Tâu bệ hạ, từ hôm nay trở đi, thiếp sẽ không ăn bất cứ món ngọt nào mà không có em trai thiếp. Từ bây giờ, thiếp xin nhận ân huệ được mở cửa và gửi món ngọt cho em trai thiếp, dù đúng giờ hay không đúng giờ.”
‘‘Sādhu, bhadde, imañca varaṃ gaṇhāhī’’ti.
"Very well, good lady, take this boon too."
“Tốt lắm, hiền thê, hãy nhận lấy ân huệ này đi.”
2397
Sirikāḷakaṇṇipañho niṭṭhito.
The Question of Sirikāḷakaṇṇī is concluded.
Vấn đề về May mắn (Sirī) và Vận rủi (Kāḷakaṇṇī) đã kết thúc.
2398
Meṇḍakapañho
The Question of the Ram
Vấn đề về Cừu (Meṇḍaka)
2399
Aparasmiṃ divase rājā katapātarāso pāsādassa dīghantare caṅkamanto vātapānantarena olokento ekaṃ eḷakañca sunakhañca mittasanthavaṃ karontaṃ addasa.
On another day, the king, having finished his breakfast, was walking in the long corridor of the palace and, looking through a window, saw a ram and a dog making friends.
Một ngày khác, sau khi ăn sáng xong, nhà vua đi dạo trong hành lang dài của cung điện, nhìn qua cửa sổ và thấy một con cừu và một con chó đang kết bạn với nhau.
So kira eḷako hatthisālaṃ gantvā hatthissa purato khittaṃ anāmaṭṭhatiṇaṃ khādi.
It is said that this ram went to the elephant stable and ate the untouched grass thrown before the elephants.
Con cừu đó đã đi đến chuồng voi và ăn cỏ chưa được chạm đến mà người ta ném trước mặt con voi.
Atha naṃ hatthigopakā pothetvā nīhariṃsu.
Then the elephant-keepers beat it and drove it out.
Sau đó, những người chăn voi đã đánh đập và đuổi nó đi.
So viravitvā palāyi.
It cried out and fled.
Nó kêu la và bỏ chạy.
Atha naṃ eko puriso vegenāgantvā piṭṭhiyaṃ daṇḍena tiriyaṃ pahari.
Then a man came quickly and struck it sideways on the back with a stick.
Sau đó, một người đàn ông nhanh chóng chạy đến và dùng gậy đánh ngang vào lưng nó.
So piṭṭhiṃ onāmetvā vedanāppatto hutvā gantvā rājagehassa mahābhittiṃ nissāya piṭṭhikāya nipajji.
It bent its back, became afflicted with pain, and went to lie down against the great wall of the royal palace.
Nó khom lưng xuống, đau đớn, rồi đi đến dựa vào bức tường lớn của cung điện và nằm xuống.
Taṃ divasameva rañño mahānase aṭṭhicammādīni khāditvā vaḍḍhitasunakho bhattakārake bhattaṃ sampādetvā bahi ṭhatvā sarīre sedaṃ nibbāpente macchamaṃsagandhaṃ ghāyitvā taṇhaṃ adhivāsetuṃ asakkonto mahānasaṃ pavisitvā bhājanapidhānaṃ pātetvā maṃsaṃ khādi.
On that very day, a dog, raised by eating bones, hides, and so forth in the king's royal kitchen, having prepared food, stood outside, cooling its body from sweat, and smelling the scent of fish and meat, unable to suppress its craving, entered the kitchen, knocked over a pot lid, and ate the meat.
Cũng trong ngày hôm đó, một con chó lớn lên nhờ ăn xương, da, v.v., trong nhà bếp của nhà vua, khi những người nấu ăn đã chuẩn bị xong thức ăn và đang đứng bên ngoài để làm mát cơ thể, nó ngửi thấy mùi cá thịt, không thể chịu đựng được cơn thèm, liền xông vào nhà bếp, làm rơi nắp nồi và ăn thịt.
Atha bhattakārako bhājanasaddena pavisitvā taṃ disvā dvāraṃ pidahitvā taṃ leḍḍudaṇḍādīhi pothesi.
Then the cook, hearing the sound of the pot, entered, saw it, closed the door, and beat it with clods of earth and sticks.
Sau đó, người nấu ăn nghe tiếng nồi rơi, liền đi vào, thấy nó, đóng cửa lại và dùng gạch đá, gậy gộc đánh đập nó.
So khāditamaṃsaṃ mukheneva chaḍḍetvā viravitvā nikkhami.
It spat out the eaten meat from its mouth, cried out, and exited.
Nó nhả thịt đã ăn ra khỏi miệng, kêu la và chạy ra ngoài.
Bhattakārakopi tassa nikkhantabhāvaṃ ñatvā anubandhitvā piṭṭhiyaṃ daṇḍena tiriyaṃ pahari.
The cook, knowing that it had exited, pursued it and struck it sideways on the back with a stick.
Người nấu ăn cũng biết nó đã chạy ra ngoài, liền đuổi theo và dùng gậy đánh ngang vào lưng nó.
So vedanāppatto piṭṭhiṃ onāmetvā ekaṃ pādaṃ ukkhipitvā eḷakassa nipannaṭṭhānameva pāvisi.
Afflicted with pain, it bent its back, lifted one leg, and entered the very place where the ram was lying.
Nó đau đớn, khom lưng xuống, nhấc một chân lên và đi vào đúng chỗ con cừu đang nằm.
Atha naṃ eḷako ‘‘samma, kiṃ piṭṭhiṃ onāmetvā āgacchasi, kiṃ te vāto vijjhatī’’ti pucchi.
Then the ram asked it, "Friend, why do you come with your back bent? Is the wind afflicting you?"
Sau đó, con cừu hỏi nó: “Này bạn, sao bạn lại khom lưng mà đến vậy? Bạn có bị gió đánh không?”
Sunakhopi ‘‘tvampi piṭṭhiṃ onāmetvā nipannosi, kiṃ te vāto vijjhatī’’ti pucchi.
The dog also asked, "You too are lying with your back bent, is the wind afflicting you?"
Con chó cũng hỏi: “Bạn cũng đang khom lưng nằm đó, bạn có bị gió đánh không?”
Te aññamaññaṃ attano pavattiṃ ārocesuṃ.
They told each other their respective stories.
Chúng kể cho nhau nghe chuyện của mình.
2400
Atha naṃ eḷako pucchi ‘‘kiṃ pana tvaṃ puna bhattagehaṃ gantuṃ sakkhissasi sammā’’ti?
Then the ram asked it, "Friend, will you be able to go to the food house again?"
Sau đó, con cừu hỏi: “Này bạn, bạn có thể trở lại nhà bếp nữa không?”
‘‘Na sakkhissāmi, samma, gatassa me jīvitaṃ natthī’’ti.
"I will not be able, friend; if I go, my life will not remain."
“Không thể được, bạn ơi, nếu tôi đi thì tôi sẽ mất mạng.”
‘‘Tvaṃ pana puna hatthisālaṃ gantuṃ sakkhissasī’’ti.
"And will you be able to go to the elephant stable again?"
“Thế bạn có thể trở lại chuồng voi nữa không?”
‘‘Mayāpi tattha gantuṃ na sakkā, gatassa me jīvitaṃ natthī’’ti.
"I also cannot go there; if I go, my life will not remain."
“Tôi cũng không thể đến đó được, nếu tôi đi thì tôi sẽ mất mạng.”
Te ‘‘kathaṃ nu kho mayaṃ idāni jīvissāmā’’ti upāyaṃ cintesuṃ.
They pondered a plan, thinking, "How will we live now?"
Chúng nghĩ: “Làm thế nào bây giờ chúng ta có thể sống sót?”
Atha naṃ eḷako āha – ‘‘sace mayaṃ samaggavāsaṃ vasituṃ sakkoma, attheko upāyo’’ti.
Then the ram said to it, "If we can live together in harmony, there is a way."
Sau đó, con cừu nói: “Nếu chúng ta có thể sống hòa hợp với nhau, thì có một cách.”
‘‘Tena hi kathehī’’ti.
"Then tell it!"
“Vậy thì hãy nói đi.”
‘‘Samma, tvaṃ ito paṭṭhāya hatthisālaṃ yāhi, ‘‘nāyaṃ tiṇaṃ khādatī’’ti tayi hatthigopakā āsaṅkaṃ na karissanti, tvaṃ mama tiṇaṃ āhareyyāsi.
"Friend, from now on, you go to the elephant stable. The elephant-keepers will not suspect you, thinking, 'This one does not eat grass.' You should bring grass for me.
“Này bạn, từ bây giờ bạn hãy đi đến chuồng voi, những người chăn voi sẽ không nghi ngờ bạn rằng ‘con này không ăn cỏ,’ bạn hãy mang cỏ về cho tôi.
Ahampi bhattagehaṃ pavisissāmi, ‘‘nāyaṃ maṃsakhādako’’ti bhattakārako mayi āsaṅkaṃ na karissati, ahaṃ te maṃsaṃ āharissāmī’’ti.
And I will enter the food house. The cook will not suspect me, thinking, 'This one is not a meat-eater.' I will bring meat for you."
Tôi cũng sẽ vào nhà bếp, người nấu ăn sẽ không nghi ngờ tôi rằng ‘con này không ăn thịt,’ tôi sẽ mang thịt về cho bạn.”
Te ‘‘sundaro upāyo’’ti ubhopi sampaṭicchiṃsu.
They both agreed, saying, "A good plan!"
Cả hai đều chấp nhận, (nói rằng) “Đó là một phương cách hay.”
Sunakho hatthisālaṃ gantvā tiṇakalāpaṃ ḍaṃsitvā āgantvā mahābhittipiṭṭhikāya ṭhapesi.
The dog went to the elephant stable, bit off a bundle of grass, came back, and placed it against the great wall.
Con chó đi đến chuồng voi, ngoạm một bó cỏ mang về đặt ở phía sau bức tường lớn.
Itaropi bhattagehaṃ gantvā maṃsakhaṇḍaṃ mukhapūraṃ ḍaṃsitvā ānetvā tattheva ṭhapesi.
The other also went to the food house, bit off a mouth-full piece of meat, brought it, and placed it there.
Con dê cũng đi đến nhà bếp, ngoạm đầy miệng một miếng thịt mang về đặt ở chính chỗ đó.
Sunakho maṃsaṃ khādi, eḷako tiṇaṃ khādi.
The dog ate the meat, and the ram ate the grass.
Con chó ăn thịt, con dê ăn cỏ.
Te iminā upāyena samaggā sammodamānā mahābhittipiṭṭhikāya vasanti.
By this method, they lived together in harmony, delighting, against the great wall.
Bằng phương cách này, chúng sống hòa thuận, vui vẻ ở phía sau bức tường lớn.
Rājā tesaṃ mittasanthavaṃ disvā cintesi ‘‘adiṭṭhapubbaṃ vata me kāraṇaṃ diṭṭhaṃ, ime paccāmittā hutvāpi samaggavāsaṃ vasanti.
The king, seeing their friendship, thought, "Indeed, I have seen an unprecedented thing. These, though enemies, live together in harmony.
Vua thấy tình bạn của chúng liền suy nghĩ: “Quả thật ta đã thấy một điều chưa từng thấy trước đây. Chúng là kẻ thù của nhau mà lại sống hòa thuận.
Idaṃ kāraṇaṃ gahetvā pañhaṃ katvā pañca paṇḍite pucchissāmi, imaṃ pañhaṃ ajānantaṃ raṭṭhā pabbājessāmi, taṃ jānantassa ‘evarūpo paṇḍito natthī’ti mahāsakkāraṃ karissāmi.
Taking this matter, I will formulate a question and ask the five wise men. I will banish from the country whoever does not know this question, and I will show great honor to whoever knows it, saying, 'There is no such wise person.'"
Ta sẽ lấy sự việc này để đặt một câu hỏi và hỏi năm vị hiền giả. Ai không biết câu hỏi này, ta sẽ trục xuất khỏi đất nước; ai biết câu hỏi này, ta sẽ ban đại trọng đãi, (nói rằng) ‘Không có vị hiền giả nào như thế này.’
Ajja tāva avelā, sve upaṭṭhānaṃ āgatakāle pucchissāmī’’ti.
"Today is not the time; tomorrow, when you come for attendance, I will ask."
Hôm nay thì đã muộn rồi, ngày mai khi đến triều kiến ta sẽ hỏi.”
So punadivase paṇḍitesu āgantvā nisinnesu pañhaṃ pucchanto imaṃ gāthamāha –
On the next day, when the wise men had come and were seated, asking the question, he spoke this verse –
Ngày hôm sau, khi các vị hiền giả đã đến và ngồi xuống, nhà vua hỏi câu hỏi này, và nói lên bài kệ sau:
2401
‘‘Yesaṃ na kadāci bhūtapubbaṃ, sakhyaṃ sattapadampimasmi loke;
"Those who never had friendship before, not even for seven steps in this world;
“Những ai chưa từng có tình bạn, mối quan hệ bảy bước trong thế gian này,
2402
Jātā amittā duve sahāyā, paṭisandhāya caranti kissa hetū’’ti.(jā. 1.12.94);
two enemies have become friends, why do they associate closely?"
Hai kẻ thù đã trở thành bạn, vì lý do gì mà chúng sống hòa thuận?”
2403
Tattha paṭisandhāyāti saddahitvā ghaṭitā hutvā.
There, paṭisandhāya means having trusted, having become united.
Trong đó, paṭisandhāya có nghĩa là đã tin tưởng, đã gắn bó.
2404
Idañca pana vatvā puna evamāha –
And having said this, he then spoke thus –
Và sau khi nói điều này, vua lại nói như sau:
2405
‘‘Yadi me ajja pātarāsakāle, pañhaṃ na sakkuṇeyyātha vattumetaṃ;
"If today, at breakfast time, you cannot answer this question for me;
“Nếu sáng nay, vào giờ điểm tâm, các ngươi không thể trả lời câu hỏi này cho ta,
2406
Raṭṭhā pabbājayissāmi vo sabbe, na hi mattho duppaññajātikehī’’ti.(jā. 1.12.95);
I will banish all of you from the kingdom, for there is no purpose with the foolish."
Ta sẽ trục xuất tất cả các ngươi khỏi đất nước, vì không có lợi ích gì với những kẻ ngu dốt.”
2407
Tadā pana senako aggāsane nisinno ahosi, paṇḍito pana pariyante nisinno.
At that time, Senaka was seated in the chief seat, while the Paṇḍita was seated at the end.
Lúc đó, Senaka đang ngồi ở ghế cao nhất, còn vị hiền giả (Mahosadha) thì ngồi ở cuối hàng.
So taṃ pañhaṃ upadhārento tamatthaṃ adisvā cintesi ‘‘ayaṃ rājā dandhadhātuko imaṃ pañhaṃ cintetvā saṅkharituṃ asamattho, kiñcideva, tena diṭṭhaṃ bhavissati, ekadivasaṃ okāsaṃ labhanto imaṃ pañhaṃ nīharissāmi, senako kenaci upāyena ajjekadivasamattaṃ adhivāsāpetū’’ti.
As he pondered that question, not seeing the meaning, he thought: "This king is of dull intellect and incapable of conceiving and formulating this question; he must have seen something. If I get one day's opportunity, I will bring forth this question. Senaka, by some means, should make him grant a day's delay."
Ông ta (Mahosadha) suy xét câu hỏi đó nhưng không thấy được ý nghĩa, liền nghĩ: “Vị vua này có trí tuệ chậm chạp, không thể tự mình suy nghĩ và sắp đặt câu hỏi này. Chắc chắn ông ta đã thấy điều gì đó. Nếu có được một ngày để suy nghĩ, ta sẽ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này. Senaka bằng cách nào đó hãy xin nhà vua cho thêm một ngày.”
Itarepi cattāro paṇḍitā andhakāragabbhaṃ paviṭṭhā viya na kiñci passiṃsu.
The other four wise men, like those who had entered a dark chamber, saw nothing.
Bốn vị hiền giả còn lại cũng như bước vào căn phòng tối tăm, không thấy được gì.
Senako ‘‘kā nu kho mahosadhassa pavattī’’ti bodhisattaṃ olokesi.
Senaka looked at the Bodhisatta, thinking, "What is Mahosadha's intention?"
Senaka nhìn Bồ Tát (Mahosadha) (nghĩ rằng) “Mahosadha có tin tức gì không?”
Sopi taṃ olokesi.
He also looked at Senaka.
Ông ta (Mahosadha) cũng nhìn lại Senaka.
Senako bodhisattassa olokitākāreneva tassa adhippāyaṃ ñatvā ‘‘paṇḍitassapi na upaṭṭhāti, tenekadivasaṃ okāsaṃ icchati, pūressāmissa manoratha’’nti cintetvā raññā saddhiṃ vissāsena mahāhasitaṃ hasitvā ‘‘kiṃ, mahārāja, sabbeva amhe pañhaṃ kathetuṃ asakkonte raṭṭhā pabbājessasi, etampi ‘eko gaṇṭhipañho’ti tvaṃ sallakkhesi, na mayaṃ etaṃ kathetuṃ na sakkoma, apica kho thokaṃ adhivāsehi.
Senaka, understanding his intention merely from the Bodhisatta's glance, thought: "Even the Paṇḍita does not grasp it; therefore, he desires one day's opportunity. I will fulfill his wish." Then, laughing heartily with the king in familiarity, he said: "Why, great king, will you banish all of us from the kingdom if we cannot answer the question? You consider this as 'a knotty problem.' It is not that we cannot answer it, but please grant a little delay.
Senaka hiểu ý Bồ Tát chỉ qua ánh mắt nhìn, liền nghĩ: “Ngay cả vị hiền giả (Mahosadha) cũng không hiểu, nên ông ấy muốn có một ngày. Ta sẽ hoàn thành ước nguyện của ông ấy.” Rồi ông ta cười lớn một cách thân mật với nhà vua và nói: “Thưa Đại vương, ngài sẽ trục xuất tất cả chúng thần khỏi đất nước nếu chúng thần không thể trả lời câu hỏi sao? Ngài nghĩ đây là một ‘câu hỏi hóc búa’ ư? Không phải là chúng thần không thể trả lời, nhưng xin ngài hãy hoãn lại một chút.
Gaṇṭhipañho esa, na sakkoma mahājanamajjhe kathetuṃ, ekamante cintetvā pacchā tumhākaṃ kathessāma, okāsaṃ no dehī’’ti mahāsattaṃ oloketvā imaṃ gāthādvayamāha –
This is a knotty problem, and we cannot discuss it in the midst of a large assembly. We will ponder it in private and then tell you." Looking at the Great Being, he spoke these two verses –
Đây là một câu hỏi hóc búa, chúng thần không thể nói giữa đám đông. Sau khi suy nghĩ riêng, chúng thần sẽ trình bày với ngài. Xin ngài ban cho chúng thần thời gian.” Rồi ông ta nhìn Đại Trưởng Lão (Mahosadha) và nói hai bài kệ này:
2408
‘‘Mahājanasamāgamamhi ghore, janakolāhalasaṅgamamhi jāte;
"In a dreadful assembly of many people, where a clamor of humans arises;
“Giữa đại chúng tụ họp ồn ào, trong sự huyên náo của mọi người,
2409
Vikkhittamanā anekacittā, pañhaṃ na sakkuṇoma vattumetaṃ.
with minds distracted and scattered, we cannot answer this question.
Tâm trí phân tán, với nhiều ý nghĩ, chúng tôi không thể trả lời câu hỏi này.
2410
‘‘Ekaggacittāva ekamekā, rahasi gatā atthaṃ nicintayitvā;
"With minds focused, each one, having gone to a secluded place and pondered the meaning;
“Với tâm trí tập trung, mỗi người một mình, đi đến nơi vắng vẻ để suy xét ý nghĩa;
2411
Paviveke sammasitvāna dhīrā, atha vakkhanti janinda etamattha’’nti.(jā. 1.12.96-97);
the wise, having reflected in solitude, will then declare this matter, O king."
Sau khi đã suy tư kỹ lưỡng trong sự cô tịch, các bậc trí giả sẽ trình bày ý nghĩa đó, thưa Đại vương.”
2412
Tattha sammasitvānāti kāyacittaviveke ṭhitā ime dhīrā imaṃ pañhaṃ sammasitvā atha vo etaṃ atthaṃ vakkhanti.
There, sammasitvāna means that these wise ones, having established themselves in physical and mental solitude, will ponder this question and then declare this matter to you.
Trong đó, sammasitvānā có nghĩa là, những bậc trí giả này, sau khi đã an trú trong sự thanh tịnh của thân và tâm, đã suy xét câu hỏi này, rồi sau đó sẽ trình bày ý nghĩa đó cho ngài.
2413
Rājā tassa kathaṃ sutvā anattamano hutvāpi ‘‘sādhu cintetvā kathetha, akathente pana vo pabbājessāmī’’ti tajjesiyeva.
The king, hearing his words, though displeased, threatened, saying, "Very well, ponder and speak; but if you do not speak, I will banish you."
Vua nghe lời ông ta nói, dù không vui, nhưng vẫn đe dọa: “Được rồi, hãy suy nghĩ rồi trình bày. Nhưng nếu không trình bày được, ta sẽ trục xuất các ngươi.”
Cattāro paṇḍitā pāsādā otariṃsu.
The four wise men descended from the palace.
Bốn vị hiền giả xuống khỏi cung điện.
Senako itare āha – ‘‘sammā, rājā sukhumapañhaṃ pucchi, akathite mahantaṃ bhayaṃ bhavissati, sappāyabhojanaṃ bhuñjitvā sammā upadhārethā’’ti.
Senaka said to the others, "Friends, the king has asked a subtle question; if it is not answered, there will be great danger. Eat suitable food and ponder it well."
Senaka nói với những người kia: “Này các bạn, nhà vua đã hỏi một câu hỏi tinh tế. Nếu không trả lời được, sẽ có nguy hiểm lớn. Hãy dùng bữa ăn thích hợp rồi suy xét kỹ lưỡng.”
Te attano attano gehaṃ gatā.
They went to their respective homes.
Họ về nhà riêng của mình.
Paṇḍitopi uṭṭhāya udumbaradeviyā santikaṃ gantvā ‘‘devi, ajja vā hiyyo vā rājā kattha ciraṃ aṭṭhāsī’’ti pucchi.
The Paṇḍita also arose, went to Udumbaradevī, and asked, "Mother, where did the king stay long, today or yesterday?"
Vị hiền giả (Mahosadha) cũng đứng dậy đi đến chỗ hoàng hậu Udumbara và hỏi: “Mẫu hậu, hôm nay hay hôm qua, nhà vua đã ở đâu lâu vậy?”
‘‘Tāta, dīghantare vātapānena olokento caṅkamatī’’ti.
"My son, he was walking, looking out of the window in the long passage."
“Con trai, ngài đi dạo và nhìn ra ngoài qua cửa sổ ở một khoảng cách xa.”
Tato paṇḍito cintesi ‘‘raññā iminā passena kiñci diṭṭhaṃ bhavissatī’’ti.
Then the Paṇḍita thought, "The king must have seen something on that side."
Rồi vị hiền giả (Mahosadha) nghĩ: “Chắc chắn nhà vua đã thấy điều gì đó ở phía đó.”
So tattha gantvā bahi olokento eḷakasunakhānaṃ kiriyaṃ disvā ‘‘ime disvā raññā pañho abhisaṅkhato’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā gehaṃ gato.
He went there, looked outside, and seeing the action of the ram and the dog, concluded, "The king formulated the question after seeing these," and went home.
Ông ta đến đó, nhìn ra ngoài và thấy hành động của con dê và con chó, liền kết luận: “Nhà vua đã đặt câu hỏi này sau khi thấy chúng.” Rồi ông ta về nhà.
Itarepi tayo cintetvā kiñci adisvā senakassa santikaṃ agamaṃsu.
The other three, having pondered and seen nothing, went to Senaka.
Ba vị hiền giả còn lại, sau khi suy nghĩ mà không thấy gì, liền đi đến chỗ Senaka.
So te pucchi ‘‘diṭṭho vo pañho’’ti.
He asked them, "Have you seen the question?"
Ông ta hỏi họ: “Các bạn đã tìm ra câu hỏi chưa?”
‘‘Na diṭṭho ācariyā’’ti.
"No, teacher, we have not seen it."
“Thưa thầy, chưa tìm ra ạ.”
‘‘Yadi evaṃ rājā vo pabbājessati, kiṃ karissathā’’ti?
"If so, the king will banish you. What will you do?"
“Nếu vậy, nhà vua sẽ trục xuất các bạn. Các bạn sẽ làm gì?”
‘‘Tumhehi pana diṭṭho’’ti?
"But have you seen it?"
“Vậy thầy đã tìm ra chưa?”
‘‘Ahampi na passāmī’’ti.
"I also do not see it."
“Ta cũng không thấy.”
‘‘Tumhesu apassantesu mayaṃ kiṃ passāma, rañño pana santike ‘cintetvā kathessāmā’ti sīhanādaṃ naditvā āgatamhā, akathite amhe rājā kujjhissati, kiṃ karoma, ayaṃ pañho na sakkā amhehi daṭṭhuṃ, paṇḍitena pana sataguṇaṃ sahassaguṇaṃ satasahassaguṇaṃ katvā cintito bhavissati, etha tassa santikaṃ gacchāmā’’ti te cattāro paṇḍitā bodhisattassa gharadvāraṃ āgatabhāvaṃ ārocāpetvā ‘‘pavisantu paṇḍitā’’ti vutte gehaṃ pavisitvā paṭisanthāraṃ katvā ekamantaṃ ṭhitā mahāsattaṃ pucchiṃsu ‘‘kiṃ pana, paṇḍita, cintito pañho’’ti?
"If you cannot see it, what can we see? We came after roaring a lion's roar before the king, saying, 'We will think about it and tell you.' If we do not tell him, the king will be angry. What shall we do? This problem cannot be seen by us, but a wise one will have thought about it a hundred, a thousand, a hundred thousand times. Come, let us go to him." So, those four wise men, having announced their arrival at the Bodhisatta's house door, and when told, "Let the wise men enter," entered the house, exchanged greetings, and standing aside, asked the Great Being, "Well, wise one, has the problem been thought of?"
“Nếu thầy không thấy, thì chúng tôi làm sao thấy được? Nhưng chúng tôi đã đến trước nhà vua và nói với giọng sư tử rống rằng ‘chúng tôi sẽ suy nghĩ rồi trình bày.’ Nếu không trình bày được, nhà vua sẽ nổi giận với chúng tôi. Chúng tôi phải làm gì? Câu hỏi này chúng tôi không thể thấy được. Chắc chắn vị hiền giả (Mahosadha) đã suy nghĩ kỹ lưỡng gấp trăm, ngàn, trăm ngàn lần. Hãy đến chỗ ông ấy.” Bốn vị hiền giả đó đã đến cửa nhà Bồ Tát (Mahosadha), sau khi được báo tin và được cho phép “Xin mời các vị hiền giả vào,” họ liền vào nhà, chào hỏi rồi đứng sang một bên, hỏi Đại Trưởng Lão (Mahosadha): “Này hiền giả, câu hỏi đã được suy nghĩ chưa?”
‘‘Āma, cintito, mayi acintente añño ko cintayissatī’’ti.
"Yes, it has been thought of. Who else would think of it if I do not?"
“Vâng, đã suy nghĩ rồi. Nếu tôi không suy nghĩ, ai khác sẽ suy nghĩ?”
‘‘Tena hi paṇḍita amhākampi kathethā’’ti.
"In that case, wise one, tell us too."
“Vậy thì, thưa hiền giả, xin hãy nói cho chúng tôi biết.”
2414
Paṇḍito ‘‘sacāhaṃ etesaṃ na kathessāmi, rājā te raṭṭhā pabbājessati, maṃ pana sattahi ratanehi pūjessati, ime andhabālā mā vinassantu, kathessāmi tesa’’nti cintetvā te cattāropi nīcāsane nisīdāpetvā añjaliṃ paggaṇhāpetvā raññā diṭṭhataṃ ajānāpetvā ‘‘raññā pucchitakāle evaṃ katheyyāthā’’ti catunnampi catasso gāthāyo bandhitvā pāḷimeva uggaṇhāpetvā uyyojesi.
The wise one, thinking, "If I do not tell them, the king will banish them from the country, but he will honor me with seven jewels. Let these foolish ones not perish; I will tell them," seated all four of them on low seats, had them raise their clasped hands, and without letting them know that the king had seen it, dismissed them, saying, "When the king asks, you should speak thus," having composed four stanzas for all four of them and made them memorize the Pali text itself.
Vị hiền giả (Mahosadha) nghĩ: “Nếu ta không nói cho họ, nhà vua sẽ trục xuất họ khỏi đất nước, còn ta sẽ được ban tặng bảy viên ngọc quý. Những kẻ ngu dốt này đừng để bị hủy hoại. Ta sẽ nói cho họ biết.” Rồi ông ta cho cả bốn người ngồi xuống ghế thấp, bảo họ chắp tay, và không cho họ biết rằng nhà vua đã thấy sự việc đó, ông ta nói: “Khi nhà vua hỏi, các ngươi hãy nói như thế này.” Ông ta đã sắp xếp bốn bài kệ cho cả bốn người, dạy họ học thuộc lòng chính bài Pali đó, rồi cho họ ra về.
Te dutiyadivase rājupaṭṭhānaṃ gantvā paññattāsane nisīdiṃsu.
The next day, they went to the king's court and sat on the seats provided.
Ngày hôm sau, họ đến triều kiến nhà vua và ngồi xuống những chỗ đã được sắp đặt.
Rājā senakaṃ pucchi ‘‘ñāto te, senaka, pañho’’ti?
The king asked Senaka, "Senaka, do you know the problem?"
Vua hỏi Senaka: “Này Senaka, ngươi đã biết câu hỏi chưa?”
‘‘Mahārāja, mayi ajānante añño ko jānissatī’’ti.
"Great King, who else would know it if I do not?"
“Thưa Đại vương, nếu thần không biết, ai khác sẽ biết?”
‘‘Tena hi kathehī’’ti.
"Then tell me."
“Vậy thì hãy nói đi.”
‘‘Suṇātha devā’’ti so uggahitaniyāmeneva gāthamāha –
"Listen, O Deva," he said, and recited the stanza exactly as he had learned it—
“Xin nghe, thưa chư thiên.” Rồi ông ta nói bài kệ đúng theo những gì đã học:
2415
‘‘Uggaputtarājaputtiyānaṃ, urabbhassa maṃsaṃ piyaṃ manāpaṃ;
"To sons of nobles and of kings, the ram's flesh is dear and pleasing;
“Thịt cừu rất được các hoàng tử và con trai quan lại ưa thích;
2416
Na sunakhassa te adenti maṃsaṃ, atha meṇḍassa suṇena sakhyamassā’’ti.(jā. 1.12.98);
They do not give that flesh to a dog, yet the ram has friendship with the dog."
Họ không cho chó ăn thịt đó, vậy thì làm sao chó có thể kết bạn với cừu?”
2417
Tattha uggaputtarājaputtiyānanti uggatānaṃ amaccaputtānañceva rājaputtānañca.
There, uggaputtarājaputtiyānaṃ means to the sons of prominent ministers and the sons of kings.
Trong đó, uggaputtarājaputtiyānaṃ có nghĩa là của các con trai của các quan lại cấp cao và các hoàng tử.
2418
Gāthaṃ vatvāpi senako atthaṃ na jānāti.
Even after reciting the stanza, Senaka did not know the meaning.
Mặc dù đã nói bài kệ, Senaka vẫn không hiểu ý nghĩa.
Rājā pana attano diṭṭhabhāvena pajānāti, tasmā ‘‘senakena tāva ñāto’’ti pukkusaṃ pucchi.
But the king knew it because he had seen it himself. Therefore, thinking, "Senaka has indeed known it," he asked Pukkusa.
Nhưng nhà vua hiểu vì ngài đã thấy sự việc đó, do đó, (nghĩ rằng) “Senaka đã biết rồi,” ngài hỏi Pukkusa.
Sopissa ‘‘kiṃ ahampi apaṇḍito’’ti vatvā uggahitaniyāmeneva gāthamāha –
He too, saying, "Am I also not wise?" recited the stanza exactly as he had learned it—
Ông ta cũng nói: “Chẳng lẽ thần cũng là kẻ ngu dốt sao?” rồi nói bài kệ đúng theo những gì đã học:
2419
‘‘Cammaṃ vihananti eḷakassa, assapiṭṭhattharassukhassa hetu;
"They beat the skin of a sheep, for the sake of a horse's saddle-cloth;
“Da cừu được dùng để làm yên ngựa quý giá;
2420
Na ca te sunakhassa attharanti, atha meṇḍassa suṇena sakhyamassā’’ti.(jā. 1.12.99);
But they do not spread it for a dog, yet the ram has friendship with the dog."
Họ không dùng da chó để làm yên, vậy thì làm sao chó có thể kết bạn với cừu?”
2421
Tassapi attho apākaṭoyeva.
Its meaning was also not clear to him.
Ý nghĩa của bài kệ đó cũng không rõ ràng.
Rājā pana attano pākaṭattā ‘‘imināpi pukkusena ñāto’’ti kāmindaṃ pucchi.
But the king, because it was clear to him, thinking, "Pukkusa also knows it," asked Kāminda.
Nhưng nhà vua, vì đã biết rõ sự việc, (nghĩ rằng) “Pukkusa này cũng đã biết rồi,” ngài hỏi Kāminda.
Sopi uggahitaniyāmeneva gāthamāha –
He too recited the stanza exactly as he had learned it—
Ông ta cũng nói bài kệ đúng theo những gì đã học:
2422
‘‘Āvellitasiṅgiko hi meṇḍo, na ca sunakhassa visāṇakāni atthi;
"Indeed, the ram has twisted horns, but the dog has no horns;
“Cừu có sừng cong, còn chó thì không có sừng;
2423
Tiṇabhakkho maṃsabhojano ca, atha meṇḍassa suṇena sakhyamassā’’ti.(jā. 1.12.100);
One eats grass, the other eats flesh, yet the ram has friendship with the dog."
Một con ăn cỏ, một con ăn thịt, vậy thì làm sao chó có thể kết bạn với cừu?”
2424
Rājā ‘‘imināpi ñāto’’ti devindaṃ pucchi.
The king, thinking, "He too knows it," asked Devinda.
Vua (nghĩ rằng) “Người này cũng đã biết rồi,” ngài hỏi Devinda.
Sopi uggahitaniyāmeneva gāthamāha –
He too recited the stanza exactly as he had learned it—
Ông ta cũng nói bài kệ đúng theo những gì đã học:
2425
‘‘Tiṇamāsi palāsamāsi meṇḍo, na ca sunakho tiṇamāsi no palāsaṃ;
"The ram ate grass and leaves, but the dog ate neither grass nor leaves;
“Cừu ăn cỏ và lá cây, còn chó không ăn cỏ cũng không ăn lá cây;
2426
Gaṇheyya suṇo sasaṃ biḷāraṃ, atha meṇḍassa suṇena sakhyamassā’’ti.(jā. 1.12.101);
The dog might catch a hare or a cat, yet the ram has friendship with the dog."
Chó bắt thỏ và mèo, vậy thì làm sao chó có thể kết bạn với cừu?”
2427
Tattha tiṇamāsi palāsamāsīti tiṇakhādako ceva paṇṇakhādako ca.
There, tiṇamāsi palāsamāsī means both a grass-eater and a leaf-eater.
Trong đó, tiṇamāsi palāsamāsī có nghĩa là kẻ ăn cỏ và ăn lá cây.
No palāsanti paṇṇampi na khādati.
No palāsaṃ means it does not eat leaves either.
No palāsa có nghĩa là không ăn cả lá cây.
2428
Atha rājā paṇḍitaṃ pucchi – ‘‘tāta, tvampi imaṃ pañhaṃ jānāsī’’ti?
Then the king asked the wise one, "My son, do you also know this problem?"
Rồi nhà vua hỏi vị hiền giả (Mahosadha): “Này con, con cũng biết câu hỏi này sao?”
‘‘Mahārāja, avīcito yāva bhavaggā maṃ ṭhapetvā ko añño etaṃ jānissatī’’ti.
"Great King, who else would know this, apart from me, from Avīci up to Bhavagga?"
“Thưa Đại vương, từ địa ngục Avīci cho đến cõi trời Hữu Đỉnh, trừ thần ra, ai khác sẽ biết điều này?”
‘‘Tena hi kathehī’’ti.
"Then tell me."
“Vậy thì hãy nói đi.”
‘‘Suṇa mahārājā’’ti tassa pañhassa attano pākaṭabhāvaṃ pakāsento gāthādvayamāha –
"Listen, Great King," he said, and declaring the clarity of that problem to himself, he spoke two stanzas—
"Thưa đại vương, hãy nghe!" Để bày tỏ sự rõ ràng của câu hỏi đó,* đã nói hai bài kệ:
2429
‘‘Aṭṭhaḍḍhapado catuppadassa, meṇḍo aṭṭhanakho adissamāno;
"The eight-and-a-half-footed one of the four-footed one, the ram, unseen with eight claws;
"Con cừu tám nửa chân, tám móng không nhìn thấy,
2430
Chādiyamāharatī ayaṃ imassa, maṃsaṃ āharatī ayaṃ amussa.
This one brings covering to that one, this one brings flesh to that one.
Nó mang mái che cho cái này, con kia mang thịt cho cái nọ.
2431
‘‘Pāsādavaragato videhaseṭṭho, vītihāraṃ aññamaññabhojanānaṃ;
"The chief of Videha, standing on the excellent palace, saw, O lord of men,
Vua của Videha, đứng trên lầu cao, thấy sự trao đổi thức ăn của nhau,
2432
Addakkhi kira sakkhikaṃ janindo, bubhukkassa puṇṇaṃmukhassa ceta’’nti.(jā. 1.12.102-103);
The exchange of food between each other, of the hungry one and the full-mouthed one."
Quả thật, vị vua đã đích thân chứng kiến cảnh một kẻ đói bụng và một kẻ no miệng."
2433
Tattha aṭṭhaḍḍhapadoti byañjanakusalatāya eḷakassa catuppādaṃ sandhāyāha.
There, aṭṭhaḍḍhapado refers to the four feet of the sheep, due to skill in expression.
Trong đó, aṭṭhaḍḍhapado (tám nửa chân) được nói đến để chỉ con cừu có bốn chân, do sự khéo léo trong cách diễn đạt.
Meṇḍoti eḷako.
Meṇḍo means a sheep.
Meṇḍo là con cừu.
Aṭṭhanakhoti ekekasmiṃ pāde dvinnaṃ dvinnaṃ khurānaṃ vasenetaṃ vuttaṃ.
Aṭṭhanakho: This is said with reference to two hooves on each foot.
Aṭṭhanakho (tám móng) được nói đến dựa trên việc mỗi chân có hai móng.
Adissamānoti maṃsaṃ āharaṇakāle apaññāyamāno.
Adissamāno: Not appearing at the time of bringing the meat.
Adissamāno (không nhìn thấy) có nghĩa là không bị phát hiện khi mang thịt.
Chādiyanti gehacchadanaṃ.
Chādiya: A house covering.
Chādiyaṃ là mái che nhà.
Tiṇanti attho.
The meaning is "grass".
Có nghĩa là cỏ.
Ayaṃ imassāti sunakho eḷakassa.
Ayaṃ imassā: The dog for the ram.
Ayaṃ imassā (cái này của cái kia) là con chó của con cừu.
Vītihāranti vītiharaṇaṃ.
Vītihāra: Mutual exchange.
Vītihāraṃ là sự trao đổi.
Aññamaññabhojanānanti aññamaññassa bhojanānaṃ.
Aññamaññabhojanāna: Of each other's food.
Aññamaññabhojanānaṃ (thức ăn của nhau) là thức ăn của người này và người kia.
Meṇḍo hi sunakhassa bhojanaṃ harati, so tassa vītiharati, sunakhopi tassa harati, itaro vītiharati.
For the ram takes the dog's food, and the dog takes it back from him; and the dog takes the ram's food, and the other takes it back.
Thật vậy, con cừu mang thức ăn cho con chó, con chó trao đổi với nó; con chó cũng mang cho con cừu, con cừu lại trao đổi với nó.
Addakkhīti taṃ tesaṃ aññamaññabhojanānaṃ vītiharaṇaṃ sakkhikaṃ attano paccakkhaṃ katvā addasa.
Addakkhī: He saw that mutual exchange of food, making it a direct personal experience.
Addakkhī (đã thấy) có nghĩa là đã đích thân chứng kiến sự trao đổi thức ăn của chúng.
Bubhukkassāti bhubhūti saddakaraṇasunakhassa.
Bubhukkassā: Of the dog that makes a "bhu-bhu" sound.
Bubhukkassā (của kẻ đói bụng) là của con chó đang kêu "bhu bhu".
Puṇṇaṃmukhassāti meṇḍassa.
Puṇṇaṃmukhassā: Of the ram.
Puṇṇaṃmukhassā (của kẻ no miệng) là của con cừu.
Imesaṃ etaṃ mittasanthavaṃ rājā sayaṃ passīti.
The king himself saw this friendship of theirs.
Vua đã tự mình thấy mối quan hệ thân thiết này của chúng.
2434
Rājā itarehi bodhisattaṃ nissāya ñātabhāvaṃ ajānanto ‘‘pañca paṇḍitā attano attano ñāṇabalena jāniṃsū’’ti maññamāno somanassappatto hutvā imaṃ gāthamāha –
The king, not knowing that the others had understood the matter by relying on the Bodhisatta, and thinking "the five wise men understood by the power of their own wisdom," became delighted and spoke this verse:
Vị vua, không biết rằng những người khác biết câu hỏi nhờ Bồ Tát, mà nghĩ rằng "năm vị hiền triết đã biết nhờ sức mạnh trí tuệ của riêng mình", cảm thấy vui mừng và nói bài kệ này:
2435
‘‘Lābhā vata me anapparūpā, yassa medisā paṇḍitā kulamhi;
"Truly, my gains are not insignificant, for I have such wise men in my family;
"Quả thật, ta có những lợi lộc không nhỏ,
2436
Pañhassa gambhīragataṃ nipuṇamatthaṃ, paṭivijjhanti subhāsitena dhīrā’’ti.(jā. 1.12.104);
The wise penetrate the profound meaning of the problem with well-spoken words."
Vì có những vị hiền triết như thế trong dòng tộc ta,
2437
Tattha paṭivijjhantīti subhāsitena te viditvā kathenti.
Therein, paṭivijjhanti: They know and explain it with well-spoken words.
Trong đó, paṭivijjhanti (thấu hiểu) có nghĩa là họ biết và nói ra điều đó bằng lời lẽ khéo léo.
2438
Atha nesaṃ ‘‘tuṭṭhena nāma tuṭṭhākāro kattabbo’’ti taṃ karonto imaṃ gāthamāha –
Then, thinking "one who is pleased should show signs of pleasure," he spoke this verse:
Sau đó, nghĩ rằng "khi vui mừng thì phải thể hiện sự vui mừng", ông đã làm điều đó và nói bài kệ này:
2439
‘‘Assatarirathañca ekamekaṃ, phītaṃ gāmavarañca ekamekaṃ;
"One mule-chariot each, and one prosperous chief village each;
"Ta ban cho mỗi vị hiền triết một cỗ xe la,
2440
Sabbesaṃ vo dammi paṇḍitānaṃ, paramappatītamano subhāsitenā’’ti.(jā. 1.12.105);
All these I give to you, O wise ones, with a greatly pleased mind for your well-spoken words."
Và mỗi vị một làng thịnh vượng,
2441
Iti vatvā tesaṃ taṃ sabbaṃ dāpesi.
Having said this, he had all that given to them.
Nói xong, ông đã ban tất cả những thứ đó cho họ.
2442
Dvādasanipāte meṇḍakapañho niṭṭhito.
The Problem of the Ram in the Dvādasanipāta is finished.
Câu hỏi về con cừu trong tập mười hai đã kết thúc.
2443
Sirimantapañho
The Problem of Sirimanta
Câu hỏi về người có uy quyền
2444
Udumbaradevī pana itarehi paṇḍitaṃ nissāya pañhassa ñātabhāvaṃ ñatvā ‘‘raññā muggaṃ māsena nibbisesakaṃ karontena viya pañcannaṃ samakova sakkāro kato, nanu mayhaṃ kaniṭṭhassa visesaṃ sakkāraṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā rañño santikaṃ gantvā pucchi ‘‘deva, kena vo pañho kathito’’ti?
However, Queen Udumbara, knowing that the others had understood the problem by relying on the wise man, thought, "The king has given equal honor to the five, as if making a measure of mung beans without distinction. Is it not proper to give special honor to my younger brother?" So she went to the king and asked, "Deva, by whom was the problem explained to you?"
Tuy nhiên, hoàng hậu Udumbara, biết rằng những vị hiền triết khác đã biết câu hỏi nhờ vị hiền triết*, đã suy nghĩ: "Vua đã ban thưởng ngang bằng cho cả năm người, như thể làm cho đậu xanh và đậu đen không khác biệt. Chẳng lẽ không nên ban thưởng đặc biệt cho em trai ta sao?" Rồi bà đến gặp vua và hỏi: "Tâu bệ hạ, ai đã giải đáp câu hỏi cho ngài?"
‘‘Pañcahi paṇḍitehi, bhadde’’ti.
"By the five wise men, Bhadde."
"Năm vị hiền triết, thưa ái khanh."
‘‘Deva, cattāro janā taṃ pañhaṃ kaṃ nissāya jāniṃsū’’ti?
"Deva, on whom did the four people rely to understand that problem?"
"Tâu bệ hạ, bốn người kia biết câu hỏi nhờ ai?"
‘‘Na jānāmi, bhadde’’ti.
"I do not know, Bhadde."
"Ta không biết, thưa ái khanh."
‘‘Mahārāja, kiṃ te jānanti, paṇḍito pana ‘mā nassantu ime bālā’ti pañhaṃ uggaṇhāpesi, tumhe sabbesaṃ samakaṃ sakkāraṃ karotha, ayuttametaṃ, paṇḍitassa visesakaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti.
"Mahārāja, what do they know? The wise man taught the problem, thinking, 'May these fools not perish.' Yet you give equal honor to all. This is improper. It is fitting to give special honor to the wise man."
"Đại vương, họ biết gì đâu? Chính vị hiền triết* đã dạy câu hỏi cho họ để 'những kẻ ngu ngốc này không bị diệt vong'. Ngài lại ban thưởng ngang bằng cho tất cả, điều này không đúng. Nên ban thưởng đặc biệt cho vị hiền triết."
Rājā ‘‘attānaṃ nissāya ñātabhāvaṃ na kathesī’’ti paṇḍitassa tussitvā atirekataraṃ sakkāraṃ kātukāmo cintesi ‘‘hotu mama puttaṃ ekaṃ pañhaṃ pucchitvā kathitakāle mahantaṃ sakkāraṃ karissāmī’’ti.
The king, pleased with the wise man for not saying that he understood by relying on himself, and wishing to give him even greater honor, thought, "Let me ask my son a problem, and when he explains it, I will give him a great honor."
Vua, hài lòng với vị hiền triết vì đã không nói rằng mình đã biết câu hỏi nhờ chính mình, muốn ban thưởng đặc biệt hơn và suy nghĩ: "Được rồi, ta sẽ hỏi con trai ta một câu hỏi, và khi nó trả lời, ta sẽ ban thưởng lớn."
So pañhaṃ cintento sirimantapañhaṃ cintetvā ekadivasaṃ pañcannaṃ paṇḍitānaṃ upaṭṭhānaṃ āgantvā sukhanisinnakāle senakaṃ āha – ‘‘senaka, pañhaṃ pucchissāmī’’ti.
Thinking of a problem, he thought of the Sirimanta problem. One day, when the five wise men were present and comfortably seated, he said to Senaka, "Senaka, I will ask you a problem."
Ông suy nghĩ về câu hỏi và nghĩ ra câu hỏi về người có uy quyền. Một ngày nọ, khi năm vị hiền triết đang ngồi thoải mái tại chỗ của mình, ông nói với Senaka: "Senaka, ta sẽ hỏi một câu hỏi."
‘‘Puccha devā’’ti.
"Ask, Deva."
"Xin bệ hạ cứ hỏi," Senaka đáp.
Rājā sirimantapañhe paṭhamaṃ gāthamāha –
The king then spoke the first verse of the Sirimanta problem:
Vua nói bài kệ đầu tiên trong câu hỏi về người có uy quyền:
2445
‘‘Paññāyupetaṃ siriyā vihīnaṃ, yasassinaṃ vāpi apetapaññaṃ;
"One endowed with wisdom but lacking fortune, or one renowned but lacking wisdom;
"Ta hỏi ngươi, Senaka, về điều này:
2446
Pucchāmi taṃ senaka etamatthaṃ, kamettha seyyo kusalā vadantī’’ti.(jā. 1.15.83);
I ask you, Senaka, this matter: which of these do the skillful declare to be superior?"
Trong hai người, một người có trí tuệ nhưng thiếu uy quyền, và một người có uy quyền nhưng thiếu trí tuệ, các bậc thiện xảo nói ai là người tốt hơn?"
2447
Tattha kamettha seyyoti imesu dvīsu kataraṃ paṇḍitā seyyoti vadanti.
Therein, kamettha seyyo: Which of these two do the wise declare to be superior?
Trong đó, kamettha seyyo (ai là người tốt hơn trong hai người này) có nghĩa là các vị hiền triết nói ai là người tốt hơn.
2448
Ayañca kira pañho senakassa vaṃsānugato, tena naṃ khippameva kathesi –
This problem, it is said, was hereditary in Senaka's family, so he quickly answered:
Câu hỏi này vốn thuộc về dòng dõi của Senaka, nên ông đã nhanh chóng trả lời:
2449
‘‘Dhīrā ca bālā ca have janinda, sippūpapannā ca asippino ca;
"Indeed, O king, the wise and the foolish, those skilled in crafts and those unskilled;
"Tâu đại vương, những người thông minh và ngu dốt,
2450
Sujātimantopi ajātimassa, yasassino pesakarā bhavanti;
Even those of noble birth become servants to the ignoble but renowned;
Những người có nghề và không có nghề,
2451
Etampi disvāna ahaṃ vadāmi, pañño nihīno sirīmāva seyyo’’ti.(jā. 1.15.84);
Seeing this, I declare that one lacking wisdom but endowed with fortune is superior."
Ngay cả những người có dòng dõi cao quý cũng trở thành người hầu của kẻ có uy quyền nhưng không có dòng dõi.
2452
Tattha pañño nihīnoti paññavā nihīno, issarova uttamoti attho.
Therein, pañño nihīno: A wise person is inferior; the meaning is that the powerful one is supreme.
Trong đó, pañño nihīno (người trí tuệ thấp kém) có nghĩa là người có trí tuệ thì thấp kém, còn người có uy quyền thì tối thượng.
2453
Rājā tassa vacanaṃ sutvā itare tayo apucchitvā saṅghanavakaṃ hutvā nisinnaṃ mahosadhapaṇḍitaṃ āha –
The king, having heard his words, without asking the other three, spoke to Mahosadha Paṇḍita, who was seated as the youngest monk:
Nghe lời của ông ta, vua không hỏi ba người kia mà nói với vị hiền triết Mahosadha, người đang ngồi như một tỳ kheo mới vào Hạ:
2454
‘‘Tuvampi pucchāmi anomapañña, mahosadha kevaladhammadassi;
"I also ask you, O Mahosadha, of incomparable wisdom, who sees the whole Dhamma;
"Ta cũng hỏi ngươi, hỡi Mahosadha, người có trí tuệ vô thượng, người thấy tất cả Pháp:
2455
Bālaṃ yasassiṃ paṇḍitaṃ appabhogaṃ, kamettha seyyo kusalā vadantī’’ti.(jā. 1.15.85);
"Which of these is superior, the foolish and glorious, or the wise and poor, say the skillful ones?"
Giữa một kẻ ngu dốt có uy quyền và một vị hiền triết ít của cải, các bậc thiện xảo nói ai là người tốt hơn?"
2456
Tattha kevaladhammadassīti sabbadhammadassi.
Therein, kevaladhammadassī means one who sees all phenomena.
Trong đó, kevaladhammadassī (người thấy tất cả Pháp) có nghĩa là người thấy tất cả các pháp.
2457
Athassa mahāsatto ‘‘suṇa, mahārājā’’ti vatvā kathesi –
Then the Great Being, saying, "Listen, great king," spoke:
Sau đó, Đại Bồ Tát nói: "Thưa đại vương, hãy nghe!" và trả lời:
2458
‘‘Pāpāni kammāni karoti bālo, idhameva seyyo iti maññamāno;
"The fool performs evil deeds, thinking, 'This is superior here';
"Kẻ ngu dốt làm những nghiệp ác, nghĩ rằng 'chỉ có điều này là tốt hơn' (ở đời này).
2459
Idhalokadassī paralokamadassī, ubhayattha bālo kalimaggahesi;
Seeing only this world, not seeing the other world, the fool incurs misfortune in both;
Kẻ ngu dốt chỉ thấy đời này mà không thấy đời sau, nên ở cả hai nơi đều gặt hái sự thất bại.
2460
Etampi disvāna ahaṃ vadāmi, paññova seyyo na yasassi bālo’’ti.(jā. 1.15.86);
Seeing this too, I say, wisdom is superior, not a glorious fool."
Thấy điều này, ta nói rằng: Trí tuệ là tối thượng, chứ không phải kẻ ngu dốt có uy quyền."
2461
Tattha idhameva seyyoti idhaloke issariyameva mayhaṃ seṭṭhanti maññamāno.
Therein, idhameva seyyo means thinking, "Sovereignty in this world is superior for me."
Trong đó, idhameva seyyo (chỉ có điều này là tốt hơn) có nghĩa là kẻ ngu dốt nghĩ rằng "chỉ có uy quyền ở đời này là tối thượng đối với ta".
Kalimaggahesīti bālo issariyamānena pāpakammaṃ katvā nirayādiṃ upapajjanto paraloke ca puna tato āgantvā nīcakule dukkhabhāvaṃ patvā nibbattamāno idhaloke cāti ubhayattha parājayameva gaṇhāti.
Kalimaggahesī means that the fool, having performed evil deeds due to the pride of sovereignty, is reborn in hell and other miserable states in the other world, and then returning from there, experiences suffering in a low family in this world; thus, he incurs defeat in both.
Kalimaggahesī (gặt hái sự thất bại) có nghĩa là kẻ ngu dốt, do kiêu mạn vì uy quyền mà làm nghiệp ác, khi tái sinh vào địa ngục và các cảnh khổ khác ở đời sau, rồi từ đó tái sinh vào dòng dõi thấp kém, chịu khổ đau ở đời này, nên ở cả hai nơi đều gặt hái sự thất bại.
Etampi kāraṇaṃ ahaṃ disvā paññāsampannova uttamo, issaro pana bālo na uttamoti vadāmi.
Seeing this reason too, I say that one endowed with wisdom is supreme, but a foolish ruler is not supreme.
Thấy lý do này, ta nói rằng người có trí tuệ là tối thượng, còn kẻ ngu dốt có uy quyền thì không phải là tối thượng.
2462
Evaṃ vutte rājā senakaṃ oloketvā ‘‘nanu mahosadho paññavantameva uttamoti vadatī’’ti āha.
When this was said, the king looked at Senaka and said, "Does not Mahosadha say that the wise one is supreme?"
Khi được nói như vậy, vua nhìn Senaka và nói: "Chẳng phải Mahosadha nói rằng người có trí tuệ là tối thượng sao?"
Senako ‘‘mahārāja, mahosadho daharo, ajjāpissa mukhe khīragandho vāyati, kimesa jānātī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Senaka, saying, "Great king, Mahosadha is young; the smell of milk still emanates from his mouth; what does he know?" spoke this verse:
Senaka nói: "Đại vương, Mahosadha còn trẻ, sữa còn thơm mùi ở miệng nó, nó biết gì đâu?" và nói bài kệ này:
2463
‘‘Nisippametaṃ vidadhāti bhogaṃ, na bandhuvā na sarīravaṇṇo yo;
"Neither skill nor relatives nor bodily beauty bestows wealth;
"Nghề nghiệp không tạo ra tài sản, cũng không phải họ hàng hay sắc đẹp cơ thể.
2464
Passeḷamūgaṃ sukhamedhamānaṃ, sirī hi naṃ bhajate goravindaṃ;
Behold the drooling mute, prospering happily; indeed, good fortune attends him, Goravinda;
Hãy nhìn Goravinda, người ngu dốt, câm lặng, nhưng vẫn sống sung sướng,
2465
Etampi disvāna ahaṃ vadāmi, pañño nihīno sirīmāva seyyo’’ti.
Seeing this too, I say, the glorious one is superior, not the humble wise one."
Vì uy quyền đã đến với ông ta. Thấy điều này, ta nói rằng: Người có trí tuệ thì thấp kém, người có uy quyền mới là tối thượng."
2466
Tattha eḷamūganti paggharitalālamukhaṃ.
Therein, eḷamūga means one with a drooling mouth.
Trong đó, eḷamūgaṃ (ngu dốt, câm lặng) có nghĩa là miệng chảy dãi.
Goravindanti so kira tasmiṃyeva nagare asītikoṭivibhavo seṭṭhi virūpo.
Goravinda refers to a wealthy man in that very city, a householder with eighty crores of wealth, who was ugly.
Goravinda là một phú hộ có tài sản tám mươi triệu trong thành phố đó, nhưng ông ta xấu xí.
Nāssa putto na ca dhītā, na kiñci sippaṃ jānāti.
He had neither a son nor a daughter, and knew no skill whatsoever.
Ông ta không có con trai hay con gái, và không biết bất kỳ nghề nghiệp nào.
Kathentassapissa hanukassa ubhohipi passehi lālādhārā paggharati.
When he spoke, streams of saliva flowed from both sides of his jaw.
Khi ông ta nói, nước dãi chảy ra từ cả hai bên hàm.
Devaccharā viya dve itthiyo sabbālaṅkārehi vibhūsitā supupphitāni nīluppalāni gahetvā ubhosu passesu ṭhitā taṃ lālaṃ nīluppalehi sampaṭicchitvā nīluppalāni vātapānena chaḍḍenti.
Two women, like celestial nymphs, adorned with all ornaments, stood on both sides holding fully bloomed blue water lilies, catching the saliva with the blue water lilies and then discarding the blue water lilies through a window.
Hai người phụ nữ, được trang điểm lộng lẫy như các thiên nữ, cầm những bông sen xanh tươi nở rộ, đứng hai bên và hứng nước dãi đó bằng những bông sen xanh, rồi ném những bông sen xanh đó ra ngoài qua cửa sổ.
Surāsoṇḍāpi pānāgāraṃ pavisantā nīluppalehi atthe sati tassa gehadvāraṃ gantvā ‘‘sāmi goravinda, seṭṭhī’’ti vadanti.
Even drunkards, entering a tavern, if they needed blue water lilies, would go to his house door and say, "Master Goravinda, householder!"
Ngay cả những người say rượu, khi vào quán rượu, nếu có việc gì liên quan đến những bông sen xanh, họ sẽ đến cửa nhà ông ta và nói: "Thưa chủ Goravinda, phú hộ!"
So tesaṃ saddaṃ sutvā vātapāne ṭhatvā ‘‘kiṃ, tātā’’ti vadati.
Hearing their voice, he would stand at the window and say, "What, my dear?"
Ông ta nghe tiếng họ, đứng ở cửa sổ và nói: "Gì vậy, các con?"
Athassa lālādhārā paggharati.
Then streams of saliva would flow from him.
Rồi nước dãi lại chảy ra.
Tā itthiyo taṃ nīluppalehi sampaṭicchitvā nīluppalāni antaravīthiyaṃ khipanti.
Those women would catch it with blue water lilies and throw the blue water lilies into the street.
Những người phụ nữ đó hứng nước dãi bằng những bông sen xanh và ném những bông sen xanh đó ra giữa đường.
Surādhuttā tāni gahetvā udakena vikkhāletvā piḷandhitvā pānāgāraṃ pavisanti.
The drunkards would pick them up, wash them with water, adorn themselves with them, and enter the tavern.
Những kẻ say rượu nhặt chúng lên, rửa sạch bằng nước, đeo vào và vào quán rượu.
Evaṃ sirisampanno ahosi.
Thus, he was endowed with good fortune.
Ông ta giàu sang như vậy đó.
Senako taṃ udāharaṇaṃ katvā dassento evamāha.
Senaka spoke thus, giving him as an example.
Senaka đã dùng ví dụ đó để minh họa.
2467
Taṃ sutvā rājā ‘‘kīdisaṃ, tāta, mahosadhapaṇḍitā’’ti āha.
Hearing that, the king said, "What do you say, my dear, Mahosadha the wise?"
Nghe vậy, vua nói: "Thế thì thế nào, này Mahosadha, vị hiền triết?"
Paṇḍito ‘‘deva, kiṃ senako jānāti, odanasitthaṭṭhāne kāko viya dadhiṃ pātuṃ āraddhasunakho viya ca yasameva passati, sīse patantaṃ mahāmuggaraṃ na passati, suṇa, devā’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
The wise one said, "Deva, what does Senaka know? He sees only glory, like a crow at a rice-gruel pot or a dog about to drink curds, but he does not see the great club falling on his head. Listen, Deva!" and spoke this verse:
Vị hiền triết nói: "Tâu bệ hạ, Senaka biết gì đâu? Ông ta chỉ thấy uy quyền, như con quạ ở chỗ cơm thừa, như con chó bắt đầu uống sữa chua, mà không thấy cây chùy lớn đang rơi xuống đầu. Thưa bệ hạ, hãy nghe!" và nói bài kệ này:
2468
‘‘Laddhā sukhaṃ majjati appapañño, dukkhena phuṭṭhopi pamohameti;
"The unwise one, having gained happiness, becomes intoxicated, and even when afflicted by suffering, falls into delusion;
"Kẻ ngu dốt khi được hạnh phúc thì kiêu mạn, khi gặp khổ đau thì mê muội.
2469
Āgantunā dukkhasukhena phuṭṭho, pavedhati vāricarova ghamme;
Afflicted by adventitious suffering and happiness, he trembles like a water creature in the heat;
Khi bị khổ và vui từ bên ngoài tác động, nó run rẩy như loài cá trong nắng nóng.
2470
Etampi disvāna ahaṃ vadāmi, paññova seyyo na yasassi bālo’’ti.(jā. 1.15.88);
Seeing this too, I say, wisdom is superior, not a glorious fool."
Thấy điều này, ta nói rằng: Trí tuệ là tối thượng, chứ không phải kẻ ngu dốt có uy quyền."
2471
Tattha sukhanti issariyasukhaṃ labhitvā bālo pamajjati, pamatto samāno pāpaṃ karoti.
Therein, sukha means that the fool, having obtained the happiness of sovereignty, becomes intoxicated; being intoxicated, he performs evil deeds.
Trong đó, sukhaṃ (hạnh phúc) có nghĩa là kẻ ngu dốt khi có được hạnh phúc uy quyền thì kiêu mạn, và khi kiêu mạn thì làm điều ác.
Dukkhenāti kāyikacetasikadukkhena.
Dukkhena means by physical and mental suffering.
Dukkhenā (bằng khổ đau) có nghĩa là bằng khổ đau về thể chất và tinh thần.
Āgantunāti na ajjhattikena.
Āgantunā means not inherent.
Āgantunā (từ bên ngoài) có nghĩa là không phải từ bên trong.
Sattānañhi sukhampi dukkhampi āgantukameva, na niccapavattaṃ.
For beings, both happiness and suffering are adventitious, not constantly existing.
Thật vậy, hạnh phúc và khổ đau của chúng sinh đều là khách đến, không phải là thường hằng.
Ghammeti udakā uddharitvā ātape khittamaccho viya.
Ghamme means like a fish pulled out of water and thrown into the sun.
Ghamme có nghĩa là như con cá bị kéo ra khỏi nước và vứt ra nắng.
2472
Taṃ sutvā rājā ‘‘kīdisaṃ ācariyā’’ti āha.
Hearing that, the king said, "What do you say, teacher?"
Nghe vậy, nhà vua hỏi: ‘‘Thưa các đạo sư, như thế nào?’’
Senako ‘‘deva, kimesa jānāti, tiṭṭhantu tāva manussā, araññe jātarukkhesupi phalasampannameva bahū vihaṅgamā bhajantī’’ti vatvā imaṃ gāthamāha –
Senaka said, "Deva, what does he know? Let alone humans, even fruit-bearing trees in the forest are resorted to by many birds." and spoke this verse:
Senaka nói: ‘‘Thưa Thiên vương, người này biết gì chứ? Hãy tạm gác lại con người. Ngay cả những cây mọc trong rừng, khi sai quả, cũng có nhiều loài chim đến nương tựa,’’ rồi nói bài kệ này –
Next Page →