Vedeharājāpi sattavassaccayena ‘‘cattāro paṇḍitā ‘amhe abhibhavitvā pañcamo paṇḍito uppajjissatī’ti me kathayiṃsu, kattha so etarahī’’ti saritvā ‘‘tassa vasanaṭṭhānaṃ jānāthā’’ti catūhi dvārehi cattāro amacce pesesi.
After seven years, King Vedeha remembered, "The four wise men told me that a fifth wise man would arise and surpass us. Where is he now?" and he dispatched four ministers through the four gates to find out his dwelling place.
Sau bảy năm, vua Vedeha nhớ lại: “Bốn học giả đã nói với ta rằng ‘một học giả thứ năm sẽ xuất hiện, vượt qua chúng tôi’. Bây giờ vị ấy đang ở đâu?” Ngài sai bốn vị đại thần đến bốn cổng để tìm hiểu: “Hãy tìm biết nơi ở của vị ấy.”
Sesadvārehi nikkhantā amaccā mahāsattaṃ na passiṃsu.
The ministers who left through the other gates did not see the Great Being.
Các đại thần đi ra từ các cổng khác đã không tìm thấy Đại Bồ Tát.
Pācīnadvārena nikkhanto amacco pana sālādīni disvā ‘‘paṇḍitena nāma imissā sālāya kārakena vā kārāpakena vā bhavitabba’’nti cintetvā manusse pucchi ‘‘ayaṃ sālā kataravaḍḍhakinā katā’’ti?
However, the minister who left through the eastern gate, seeing the hall and other structures, thought, "A wise man must have built or caused to be built this hall," and he asked the people, "By which carpenter was this hall made?"
Vị quan đại thần đi ra từ cổng phía đông, nhìn thấy hội trường và những thứ khác, nghĩ: "Hội trường này chắc chắn do một người hiền trí xây dựng hoặc cho xây dựng," rồi hỏi mọi người: "Hội trường này do thợ mộc nào làm?"
Manussā ‘‘nāyaṃ vaḍḍhakinā katā, sirivaḍḍhanaseṭṭhiputtena mahosadhapaṇḍitena attano paññābalena vicāretvā katā’’ti vadiṃsu.
The people replied, "This was not made by a carpenter; it was designed and made by the son of the wealthy merchant Sirivaḍḍhana, the wise man Mahosadha, through his own power of wisdom."
Mọi người đáp: "Cái này không phải do thợ mộc làm, mà do hiền giả Mahosadha, con trai của trưởng giả Sirivaḍḍhana, đã suy xét và làm bằng sức mạnh trí tuệ của mình."
‘‘Kativasso pana paṇḍito’’ti?
"And how old is the wise man?"
"Vậy hiền giả bao nhiêu tuổi?"
‘‘Paripuṇṇasattavasso’’ti.
"He is exactly seven years old."
"Đã tròn bảy tuổi."
Amacco raññā diṭṭhasupinadivasato paṭṭhāya vassaṃ gaṇetvā ‘‘rañño diṭṭhasupinena sameti, ayameva so paṇḍito’’ti rañño dūtaṃ pesesi ‘‘deva, pācīnayavamajjhakagāme sirivaḍḍhanaseṭṭhiputto mahosadhapaṇḍito nāma sattavassikova samāno evarūpaṃ nāma sālaṃ vicāresi, pokkharaṇiṃ uyyānañca kāresi, imaṃ paṇḍitaṃ gahetvā ānemī’’ti.
The minister counted the years from the day the king had his dream and thought, "This matches the king's dream; this is indeed that wise man." He then sent a messenger to the king, saying, "Your Majesty, in the eastern village of Yavamajjhaka, the son of the wealthy merchant Sirivaḍḍhana, named Mahosadha, though only seven years old, has designed such a hall and built a pond and a garden. I will bring this wise man."
Vị quan đại thần đếm số năm kể từ ngày nhà vua nằm mộng, rồi nghĩ: "Phù hợp với giấc mộng của nhà vua, đây chính là vị hiền giả đó," liền sai sứ giả đến báo với vua: "Tâu Đại vương, ở làng Pācīnayavamajjhaka có một hiền giả tên là Mahosadha, con trai của trưởng giả Sirivaḍḍhana, mới bảy tuổi mà đã suy xét và xây dựng một hội trường như thế này, còn làm cả hồ nước và khu vườn. Con sẽ đưa vị hiền giả này về."
Rājā taṃ kathaṃ sutvāva tuṭṭhacitto hutvā senakaṃ pakkosāpetvā tamatthaṃ ārocetvā ‘‘kiṃ, ācariya, ānema paṇḍita’’nti pucchi.
Upon hearing this, the king was delighted and, summoning Senaka, informed him of the matter and asked, "Teacher, shall we bring the wise man?"
Nhà vua vừa nghe câu chuyện đó liền hoan hỷ, cho gọi Senaka đến, kể lại sự việc và hỏi: "Này đạo sư, chúng ta có nên đưa vị hiền giả đó về không?"
So lābhaṃ maccharāyanto ‘‘mahārāja, sālādīnaṃ kārāpitamattena paṇḍito nāma na hoti, yo koci etāni kāreti, appamattakaṃ eta’’nti āha.
He, being jealous of the gain, said, "Your Majesty, one is not a wise man merely by having built a hall and other structures; anyone can build these things. This is a small matter."
Ông ta vì ganh tỵ với lợi lộc nên nói: "Tâu Đại vương, chỉ vì đã xây dựng hội trường và những thứ khác thì chưa phải là hiền giả. Bất cứ ai cũng có thể làm những thứ này, việc này chẳng đáng kể gì."
So tassa kathaṃ sutvā ‘‘bhavitabbamettha kāraṇenā’’ti tuṇhī hutvā ‘‘tattheva vasanto paṇḍitaṃ vīmaṃsatū’’ti amaccassa dūtaṃ paṭipesesi.
Hearing his words, the king, thinking, "There must be a reason for this," remained silent and sent the messenger back to the minister with instructions to remain there and investigate the wise man.
Nhà vua nghe lời ông ta nói, nghĩ: "Chắc hẳn có lý do ở đây," liền im lặng và sai sứ giả trở lại vị quan đại thần: "Hãy ở lại đó và khảo nghiệm vị hiền giả."
Taṃ sutvā amacco tattheva vasanto paṇḍitaṃ vīmaṃsi.
Having heard that, the minister, residing right there, tested the wise man.
Nghe vậy, vị quan đại thần ở lại đó và khảo nghiệm vị hiền giả.
Tattha maṃsanti ekadivasaṃ bodhisatte kīḷāmaṇḍalaṃ gacchante eko seno sūnaphalakato maṃsapesiṃ gahetvā ākāsaṃ pakkhandi.
Therein, meat: One day, as the Bodhisatta was going to the playground, a hawk seized a piece of meat from a butcher's block and soared into the sky.
Ở đó, thịt là một hôm, khi Bồ Tát đang đi đến sân chơi, một con chim ưng từ quầy hàng thịt cắp một miếng thịt bay lên trời.
Taṃ disvā dārakā ‘‘maṃsapesiṃ chaḍḍāpessāmā’’ti senaṃ anubandhiṃsu.
Seeing that, the children, thinking, “We will make it drop the piece of meat,” pursued the hawk.
Thấy vậy, lũ trẻ đuổi theo con chim ưng, nói: "Chúng ta sẽ làm cho nó thả miếng thịt xuống!"
Seno ito cito ca dhāvati.
The hawk flew hither and thither.
Con chim ưng bay lượn khắp nơi.
Te uddhaṃ oloketvā tassa pacchato pacchato gacchantā pāsāṇādīsu upakkhalitvā kilamanti.
They, looking up and following behind it, stumbled over rocks and other things and became exhausted.
Chúng ngước lên nhìn, đuổi theo nó, vấp phải đá và những thứ khác, rồi mệt mỏi.
Atha ne paṇḍito āha ‘‘chaḍḍāpessāmi na’’nti.
Then the wise man said to them, “Shall I make it drop it?”
Bấy giờ, vị hiền giả nói với chúng: "Ta sẽ làm cho nó thả xuống."
‘‘Chaḍḍāpehi sāmī’’ti.
“Make it drop it, master!”
"Xin hãy làm đi, thưa chủ!"
‘‘Tena hi passathā’’ti so uddhaṃ anoloketvāva vātavegena dhāvitvā senassa chāyaṃ akkamitvā pāṇiṃ paharitvā mahāravaṃ ravi.
“Then observe!” So, without looking up, he ran with the speed of the wind, stepped on the hawk’s shadow, struck his hand, and made a loud roar.
"Vậy thì hãy xem!" Nói xong, ngài không ngước lên nhìn, mà chạy nhanh như gió, giẫm lên bóng của con chim ưng, vỗ tay và gầm lên một tiếng lớn.
Tassa tejena so saddo senassa kucchiyaṃ vinivijjhitvā nicchārito viya ahosi.
By his power, that sound seemed to pierce through the hawk’s belly and escape.
Do uy lực của ngài, âm thanh đó xuyên qua bụng con chim ưng như thể bị đẩy ra ngoài.
So bhīto maṃsaṃ chaḍḍesi.
Terrified, it dropped the meat.
Nó sợ hãi và thả miếng thịt xuống.
Mahāsatto chaḍḍitabhāvaṃ ñatvā chāyaṃ olokentova bhūmiyaṃ patituṃ adatvā ākāseyeva sampaṭicchi.
The Great Being, knowing that it had been dropped, caught it in the air, without letting it fall to the ground, while still looking at the shadow.
Đại Bồ Tát biết miếng thịt đã rơi, chỉ nhìn bóng, không cho nó rơi xuống đất mà đón lấy ngay trên không.
Taṃ acchariyaṃ disvā mahājano nadanto vagganto apphoṭento mahāsaddaṃ akāsi.
Seeing that wonder, the crowd roared, cheered, clapped, and made a great noise.
Thấy sự kỳ diệu đó, đại chúng reo hò, vỗ tay, tạo ra một tiếng động lớn.
Amacco taṃ pavattiṃ ñatvā rañño dūtaṃ pesesi ‘‘paṇḍito iminā upāyena maṃsapesiṃ chaḍḍāpesi, idaṃ devo jānātū’’ti.
The minister, knowing that event, sent a messenger to the king, saying, “The wise man made the piece of meat drop by this method; may Your Majesty know this.”
Vị quan đại thần biết được sự việc đó, liền sai sứ giả đến báo với vua: "Vị hiền giả đã dùng cách này để làm cho miếng thịt rơi xuống. Xin Đại vương biết điều này."
Taṃ sutvā rājā senakaṃ pucchi ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti?
Having heard that, the king asked Senaka, “Senaka, shall we bring the wise man?”
Nghe vậy, nhà vua hỏi Senaka: "Này Senaka, chúng ta có nên đưa vị hiền giả đó về không?"
So cintesi ‘‘tassa idhāgatakālato paṭṭhāya mayaṃ nippabhā bhavissāma, atthibhāvampi no rājā na jānissati, na taṃ ānetuṃ vaṭṭatī’’ti.
He thought, “From the time he comes here, we will lose our influence; the king will not even know of our existence. It is not proper to bring him.”
Ông ta nghĩ: "Từ khi ông ấy đến đây, chúng ta sẽ mất hết uy tín, nhà vua sẽ không còn biết đến sự tồn tại của chúng ta nữa. Không nên đưa ông ấy về."
So balavalābhamacchariyatāya ‘‘mahārāja, ettakena paṇḍito nāma na hoti, appamattakaṃ kiñci eta’’nti āha.
So, out of jealousy for his own power and gain, he said, “Great King, one is not a wise man for so little; this is a trifling matter.”
Ông ta vì ganh tỵ với lợi lộc và quyền lực nên nói: "Tâu Đại vương, chỉ chừng đó thì chưa phải là hiền giả. Việc này chẳng đáng kể gì."
Rājā majjhattova hutvā ‘‘tattheva naṃ vīmaṃsatū’’ti puna pesesi.
The king, remaining neutral, sent word again, saying, “Let him be tested right there.”
Nhà vua giữ thái độ trung lập, lại sai sứ giả đi: "Hãy khảo nghiệm ông ấy ở đó."
Goṇoti eko pācīnayavamajjhakagāmavāsī puriso ‘‘vasse patite kasissāmī’’ti gāmantarato goṇe kiṇitvā ānetvā gehe vasāpetvā punadivase gocaratthāya tiṇabhūmiṃ ānetvā goṇapiṭṭhe nisinno kilantarūpo otaritvā rukkhamūle nipannova niddaṃ okkami.
Ox: A man living in a village in the eastern middle country, thinking, “I will plough when the rain falls,” bought oxen from another village, brought them home, kept them, and the next day, brought them to a grassy field for grazing, then, being tired, dismounted from the ox’s back, lay down at the foot of a tree, and fell asleep.
Bò là một người đàn ông sống ở làng Pācīnayavamajjhaka, nghĩ: "Khi trời mưa, ta sẽ cày ruộng," liền mua bò từ một làng khác, đưa về nhà nuôi, rồi hôm sau dẫn chúng ra đồng cỏ. Ông ta mệt mỏi, xuống khỏi lưng bò, nằm dưới gốc cây và ngủ thiếp đi.
Tasmiṃ khaṇe eko coro goṇe gahetvā palāyi.
At that moment, a thief took the oxen and fled.
Lúc đó, một tên trộm bắt bò và bỏ chạy.
So pabujjhitvā goṇe apassanto ito cito ca oloketvā goṇe gahetvā palāyantaṃ coraṃ disvā vegena pakkhanditvā ‘‘kuhiṃ me goṇe nesī’’ti āha.
The man, waking up and not seeing the oxen, looked hither and thither, then saw the thief fleeing with the oxen, quickly rushed forward, and said, “Where are you taking my oxen?”
Ông ta tỉnh dậy, không thấy bò đâu, nhìn quanh rồi thấy tên trộm đang bắt bò bỏ chạy, liền nhanh chóng đuổi theo và nói: "Ngươi đưa bò của ta đi đâu?"
‘‘Mama goṇe attano icchitaṭṭhānaṃ nemī’’ti.
“I am taking my oxen to the place I wish.”
"Ta đưa bò của ta đến nơi ta muốn."
Tesaṃ vivādaṃ sutvā mahājano sannipati.
Hearing their dispute, a large crowd gathered.
Nghe cuộc tranh cãi của họ, mọi người tụ tập lại.
Paṇḍito tesaṃ sālādvārena gacchantānaṃ saddaṃ sutvā ubhopi pakkosāpetvā tesaṃ kiriyaṃ disvāva ‘‘ayaṃ coro, ayaṃ goṇasāmiko’’ti jānāti.
The wise man, hearing the noise as they passed by the hall door, summoned both of them, and just by observing their actions, he knew, “This is the thief, this is the owner of the oxen.”
Vị hiền giả nghe tiếng họ đi ngang qua cửa hội trường, liền cho gọi cả hai đến. Chỉ cần nhìn hành động của họ là ngài biết: "Đây là tên trộm, đây là chủ bò."
Jānantopi ‘‘kasmā vivadathā’’ti pucchi.
Even though he knew, he asked, “Why are you disputing?”
Dù đã biết, ngài vẫn hỏi: "Tại sao các ngươi lại tranh cãi?"
Goṇasāmiko āha – ‘‘sāmi, ime ahaṃ asukagāmato asukassa nāma hatthato kiṇitvā ānetvā gehe vasāpetvā gocaratthāya tiṇabhūmiṃ nesiṃ, tattha mama pamādaṃ disvā ayaṃ goṇe gahetvā palāyi.
The owner of the oxen said, “Master, I bought these from so-and-so in such-and-such a village, brought them home, kept them, and then took them to a grassy field for grazing. Seeing my carelessness there, this man took the oxen and fled.
Chủ bò nói: "Thưa chủ, tôi đã mua những con bò này từ tay ông X ở làng Y, đưa về nhà nuôi, rồi dẫn ra đồng cỏ. Ở đó, thấy tôi sơ suất, tên này đã bắt bò và bỏ chạy.
Svāhaṃ ito cito ca olokento imaṃ disvā anubandhitvā gaṇhiṃ, asukagāmavāsino mayā etesaṃ kiṇitvā gahitabhāvaṃ jānantī’’ti.
So I, looking hither and thither, saw him, pursued him, and caught him. The residents of such-and-such a village know that I bought and took these.”
Tôi nhìn quanh rồi thấy hắn, liền đuổi theo và bắt được. Những người ở làng Y đều biết tôi đã mua những con bò này."
Coro pana ‘‘mamete gharajātikā, ayaṃ musā bhaṇatī’’ti āha.
But the thief said, “These are my home-bred oxen; this man is lying.”
Còn tên trộm thì nói: "Những con bò này là của gia đình tôi, người này nói dối."
Atha ne paṇḍito ‘‘ahaṃ vo aḍḍaṃ dhammena vinicchinissāmi, ṭhassatha me vinicchaye’’ti pucchitvā ‘‘āma, sāmi, ṭhassāmā’’ti vutte ‘‘mahājanassa manaṃ gaṇhituṃ vaṭṭatī’’ti paṭhamaṃ coraṃ pucchi ‘‘tayā ime goṇā kiṃ khādāpitā kiṃ pāyitā’’ti?
Then the wise man asked them, “I will judge your case righteously; will you abide by my judgment?” When they said, “Yes, master, we will abide,” he thought, “It is proper to win the hearts of the people,” and first asked the thief, “What have you fed and given these oxen to drink?”
Bấy giờ, vị hiền giả hỏi họ: "Ta sẽ phân xử công bằng cho các ngươi. Các ngươi có chấp nhận phán quyết của ta không?" Khi họ đáp: "Vâng, chúng tôi sẽ chấp nhận, thưa chủ," ngài nghĩ: "Cần phải chiếm được lòng dân," liền hỏi tên trộm trước: "Ngươi đã cho những con bò này ăn gì, uống gì?"
‘‘Yāguṃ pāyitā tilapiṭṭhañca māse ca khādāpitā’’ti.
“They were given gruel to drink and sesame cake and beans to eat.”
"Chúng đã uống cháo, ăn bã mè và đậu."
Tato goṇasāmikaṃ pucchi.
Then he asked the owner of the oxen.
Sau đó, ngài hỏi chủ bò.
So āha – ‘‘sāmi, kuto me duggatassa yāguādīni laddhāni, tiṇameva khādāpitā’’ti.
He said, “Master, how could a poor man like me obtain gruel and so on? They were only fed grass.”
Ông ta nói: "Thưa chủ, tôi là người nghèo khó, làm sao có cháo và những thứ khác? Tôi chỉ cho chúng ăn cỏ thôi."
Paṇḍito tesaṃ kathaṃ parisaṃ gāhāpetvā piyaṅgupattāni āharāpetvā koṭṭāpetvā udakena maddāpetvā goṇe pāyesi.
The wise man, having made the assembly accept their statement, had millet leaves brought, pounded them, crushed them with water, and made the oxen drink.
Vị hiền giả cho mọi người nghe câu chuyện của họ, rồi sai mang lá cây piyaṅgu đến, giã nát, trộn với nước và cho bò uống.
Goṇā tiṇameva chaḍḍayiṃsu.
The oxen rejected only the grass.
Những con bò chỉ thải ra cỏ.
Paṇḍito ‘‘passatheta’’nti mahājanassa dassetvā coraṃ pucchi ‘‘tvaṃ corosi, na corosī’’ti?
The wise man, showing this to the crowd, asked the thief, "Are you a thief, or not a thief?"
Vị hiền giả cho mọi người xem, rồi hỏi tên trộm: "Ngươi có phải là trộm không, hay không phải là trộm?"
So ‘‘coromhī’’ti āha.
He said, "I am a thief."
Hắn đáp: "Tôi là trộm."
‘‘Tena hi tvaṃ ito paṭṭhāya mā evarūpamakāsī’’ti ovadi.
"Therefore, from now on, do not do such a thing," he advised.
"Vậy thì từ nay trở đi, đừng làm những việc như thế nữa," ngài khuyên răn.
Bodhisattassa parisā pana taṃ hatthapādehi koṭṭetvā dubbalamakāsi.
But the Bodhisatta's assembly beat him with their hands and feet, making him weak.
Còn đám đông của Bồ Tát thì đánh đập hắn bằng tay chân, làm cho hắn suy yếu.
Atha naṃ paṇḍito ‘‘diṭṭhadhammeyeva tāva imaṃ dukkhaṃ labhasi, samparāye pana nirayādīsu mahādukkhaṃ anubhavissasi, samma, tvaṃ ito paṭṭhāya pajahetaṃ kamma’’nti vatvā tassa pañca sīlāni adāsi.
Then the wise man said to him, "You are experiencing this suffering in this very life; in the future, however, you will experience great suffering in hell and so forth. Friend, from now on, abandon this action," and he gave him the five precepts.
Bấy giờ, vị hiền giả nói với hắn: "Ngươi đã chịu khổ ngay trong đời này rồi, còn ở đời sau, ngươi sẽ phải chịu khổ lớn trong các cõi địa ngục và những nơi khác. Này bạn, từ nay trở đi, hãy từ bỏ hành động này," rồi ban cho hắn năm giới.
Amacco taṃ pavattiṃ yathābhūtaṃ rañño ārocāpesi.
The minister reported the matter as it was to the king.
Vị quan đại thần báo cáo sự việc đó cho nhà vua đúng như thật.
Rājā senakaṃ pucchi ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti.
The king asked Senaka, "Senaka, should we bring the wise man?"
Nhà vua hỏi Senaka: "Này Senaka, chúng ta có nên đưa vị hiền giả đó về không?"
‘‘Goṇaaḍḍaṃ nāma, mahārāja, ye keci vinicchinanti, āgamehi tāvā’’ti vutte rājā majjhatto hutvā puna tatheva sāsanaṃ pesesi.
When it was said, "Mahārāja, whoever judges the case of the oxen, let him come," the king became impartial and sent the message again in the same way.
Khi ông ta nói: "Việc phân xử bò, tâu Đại vương, bất cứ ai cũng có thể làm. Hãy đợi đã," nhà vua giữ thái độ trung lập và lại sai sứ giả đi như trước.
Sabbaṭṭhānesupi evaṃ veditabbaṃ.
This should be understood in all places.
Ở tất cả các trường hợp cũng nên hiểu như vậy.
Ito paraṃ pana uddānamattameva vibhajitvā dassayissāmāti.
From now on, we will only explain the summary.
Từ đây trở đi, chúng tôi sẽ chỉ trình bày bản tóm tắt phân loại.
Ganthīti ekā duggatitthī nānāvaṇṇehi suttehi ganthike bandhitvā kataṃ suttaganthitapiḷandhanaṃ gīvato mocetvā sāṭakassa upari ṭhapetvā nhāyituṃ paṇḍitena kāritapokkharaṇiṃ otari.
Ganthī: A poor woman, having tied a string ornament made of threads of various colors, took it off her neck and placed it on her outer garment, then descended into the pond built by the wise man to bathe.
Nút thắt là một phụ nữ nghèo khó tháo chiếc vòng cổ được làm bằng những sợi chỉ nhiều màu sắc, đặt lên áo choàng và đi xuống hồ nước do vị hiền giả xây để tắm.
Aparā taruṇitthī taṃ disvā lobhaṃ uppādetvā ukkhipitvā ‘‘amma, ativiya sobhanaṃ idaṃ kittakena te kataṃ, ahampi attano evarūpaṃ karissāmi, gīvāya piḷandhitvā pamāṇaṃ tāvassa upadhāremī’’ti vatvā tāya ujucittatāya ‘‘upadhārehī’’ti vutte gīvāya piḷandhitvā pakkāmi.
Another young woman, seeing it, developed greed, picked it up, and said, "Mother, this is exceedingly beautiful! How much did it cost you? I will also make one like this for myself. Let me wear it around my neck to measure it now." When the first woman, being simple-hearted, said, "Measure it," she put it around her neck and ran away.
Một phụ nữ trẻ khác thấy vậy, nổi lòng tham, nhặt nó lên và nói: "Mẹ ơi, cái này đẹp quá, mẹ làm hết bao nhiêu tiền? Con cũng sẽ làm một cái như thế cho mình. Con đeo vào cổ để ước lượng thử xem." Khi người phụ nữ kia vì lòng ngay thẳng mà nói: "Cứ ước lượng đi," cô ta liền đeo vào cổ và bỏ đi.
Itarā taṃ disvā sīghaṃ uttaritvā sāṭakaṃ nivāsetvā upadhāvitvā ‘‘kahaṃ me piḷandhanaṃ gahetvā palāyissasī’’ti sāṭake gaṇhi.
The other woman, seeing this, quickly emerged, put on her outer garment, ran after her, and grabbed her outer garment, saying, "Where are you running off to with my ornament?"
Người phụ nữ kia thấy vậy, nhanh chóng lên bờ, mặc áo choàng vào, đuổi theo và nắm lấy áo choàng của cô ta, nói: "Ngươi lấy đồ trang sức của ta đi đâu?"
Itarā ‘‘nāhaṃ tava santakaṃ gaṇhāmi, mama gīvāyameva piḷandhana’’nti āha.
The other replied, "I am not taking what belongs to you; the ornament is on my own neck."
Người kia đáp: "Ta không lấy đồ của ngươi, đồ trang sức này ở trên cổ ta."
Mahājano taṃ sutvā sannipati.
The crowd, hearing this, gathered.
Đại chúng nghe vậy liền tụ tập lại.
Paṇḍito dārakehi saddhiṃ kīḷanto tāsaṃ kalahaṃ katvā sālādvārena gacchantīnaṃ saddaṃ sutvā ‘‘kiṃ saddo eso’’ti pucchitvā ubhinnaṃ kalahakāraṇaṃ sutvā pakkosāpetvā ākāreneva coriñca acoriñca ñatvāpi tamatthaṃ pucchitvā ‘‘ahaṃ vo dhammena vinicchinissāmi, mama vinicchaye ṭhassathā’’ti vatvā ‘‘āma, ṭhassāma, sāmī’’ti vutte paṭhamaṃ coriṃ pucchi ‘‘tvaṃ imaṃ piḷandhanaṃ piḷandhantī kataragandhaṃ vilimpasī’’ti?
The wise man, playing with children, heard the sound of their quarrel as they passed by the hall door, asked, "What is that sound?" and upon hearing the cause of the quarrel between the two, had them summoned. Although he knew who was the thief and who was not by their demeanor, he still asked about the matter and said, "I will judge your case according to the Dhamma. Will you abide by my judgment?" When they said, "Yes, we will abide, master," he first asked the thief, "When you wear this ornament, what perfume do you apply?"
Vị hiền giả đang chơi với lũ trẻ, nghe tiếng họ cãi nhau khi đi ngang qua cửa hội trường, liền hỏi: "Tiếng ồn gì vậy?" Nghe xong lý do tranh cãi của hai người, ngài cho gọi họ đến. Dù đã biết ai là kẻ trộm và ai không phải là kẻ trộm qua vẻ ngoài, ngài vẫn hỏi về sự việc đó và nói: "Ta sẽ phân xử công bằng cho các ngươi. Các ngươi có chấp nhận phán quyết của ta không?" Khi họ đáp: "Vâng, chúng tôi sẽ chấp nhận, thưa chủ," ngài liền hỏi kẻ trộm trước: "Khi ngươi đeo đồ trang sức này, ngươi bôi loại nước hoa nào?"
‘‘Ahaṃ niccaṃ sabbasaṃhārakaṃ vilimpāmī’’ti.
"I always apply a mixed perfume."
"Tôi luôn bôi nước hoa tổng hợp."
Sabbasaṃhārako nāma sabbagandhehi yojetvā katagandho.
A mixed perfume means a perfume made by combining all fragrances.
Sabbasaṃhāraka là một loại hương được chế tạo bằng cách kết hợp tất cả các loại hương liệu.
Tato itaraṃ pucchi.
Then he asked the other woman.
Rồi ngài hỏi người kia.
Sā āha ‘‘kuto, sāmi, laddho duggatāya mayhaṃ sabbasaṃhārako, ahaṃ niccaṃ piyaṅgupupphagandhameva vilimpāmī’’ti.
She said, "Master, how could a poor woman like me obtain a mixed perfume? I always apply only the fragrance of millet flowers."
Nàng ấy nói: “Thưa Tôn chủ, một kẻ nghèo hèn như con làm sao có được hương sabbasaṃhāraka? Con chỉ luôn xức hương hoa piyaṅgu mà thôi.”
Paṇḍito udakapātiṃ āharāpetvā taṃ piḷandhanaṃ tattha pakkhipāpetvā gandhikaṃ pakkosāpetvā ‘‘etaṃ gandhaṃ upasiṅghitvā asukagandhabhāvaṃ jānāhī’’ti āha.
The wise man had a water pot brought, had the ornament placed in it, summoned the perfumer, and said, "Smell this fragrance and identify what kind of fragrance it is."
Vị hiền giả cho mang một chậu nước đến, cho đặt vật trang sức đó vào, rồi cho gọi người bán hương đến và nói: “Hãy ngửi mùi hương này và cho biết đây là loại hương gì.”
So upasiṅghanto piyaṅgupupphabhāvaṃ ñatvā imaṃ ekakanipāte gāthamāha –
He, smelling it, recognized it as millet flower fragrance and spoke this verse in the Ekakanipāta –
Người đó ngửi và nhận ra đó là hương hoa piyaṅgu, rồi đọc bài kệ này trong Ekakanipāta –
Suttanti ekā kappāsakkhettarakkhikā itthī kappāsakkhettaṃ rakkhantī tattheva parisuddhaṃ kappāsaṃ gahetvā sukhumasuttaṃ kantitvā guḷaṃ katvā ucchaṅge ṭhapetvā gāmaṃ āgacchantī ‘‘paṇḍitassa pokkharaṇiyaṃ nhāyissāmī’’ti tīraṃ gantvā sāṭakaṃ muñcitvā sāṭakassa upari suttaguḷaṃ ṭhapetvā otaritvā pokkharaṇiyaṃ nhāyati.
Regarding Thread: A woman guarding a cotton field, while guarding it, took pure cotton from there, spun fine thread, made it into a ball, placed it in her lap, and came to the village. Thinking, "I will bathe in the wise man's pond," she went to the bank, removed her outer garment, placed the ball of thread on top of her outer garment, descended, and bathed in the pond.
Sutta (chỉ sợi chỉ): Một người phụ nữ trông nom ruộng bông, khi đang trông nom ruộng bông, đã lấy bông tinh khiết ở đó, kéo thành sợi chỉ mịn, cuộn thành một cuộn, đặt vào vạt áo và đi về làng. Nàng nghĩ: “Mình sẽ tắm ở hồ của vị hiền giả,” rồi đi đến bờ, cởi tấm áo ngoài ra, đặt cuộn chỉ lên trên tấm áo, rồi xuống hồ tắm.
Aparā taṃ disvā luddhacittatāya taṃ gahetvā ‘‘aho manāpaṃ suttaṃ, amma, tayā kata’’nti accharaṃ paharitvā olokentī viya ucchaṅge katvā pakkāmi.
Another woman, seeing her, out of greed, took it, saying, "Oh, what lovely thread you have made, mother!" and, as if admiring it by snapping her fingers, she put it in her lap and departed.
Một người phụ nữ khác nhìn thấy, với lòng tham lam, đã lấy cuộn chỉ đó và nói: “Ồ, sợi chỉ này đẹp quá, thưa cô, cô đã làm nó,” rồi vỗ tay như thể đang xem xét, đặt vào vạt áo và bỏ đi.
Sesaṃ purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
The rest should be elaborated in the same manner as before.
Phần còn lại nên được kể chi tiết theo cách thức trước đây.
Paṇḍito paṭhamaṃ coriṃ pucchi ‘‘tvaṃ guḷaṃ karontī anto kiṃ pakkhipitvā akāsī’’ti?
First, the wise man asked the thief, "What did you put inside when you made the ball?"
Vị hiền giả trước tiên hỏi kẻ trộm: “Khi cô cuộn chỉ, cô đã bỏ gì vào bên trong?”
‘‘Kappāsaphalaṭṭhimeva sāmī’’ti.
"Just a cotton seed, Venerable Sir."
“Chỉ có hạt bông thôi, thưa Tôn chủ.”
Tato itaraṃ pucchi.
Then he asked the other woman.
Rồi ngài hỏi người kia.
Sā ‘‘sāmi timbaruaṭṭhi’’nti āha.
She said, "A timbaru seed, Venerable Sir."
Nàng ấy nói: “Thưa Tôn chủ, hạt timbaru.”
So ubhinnaṃ vacanaṃ parisaṃ gāhāpetvā suttaguḷaṃ nibbeṭhāpetvā timbaruaṭṭhiṃ disvā taṃ coribhāvaṃ saṃpaṭicchāpesi.
He made the assembly listen to the statements of both, then had the ball of thread unwound, and seeing the timbaru seed, he made her confess her thievery.
Ngài cho hội chúng nghe lời nói của cả hai, rồi cho tháo cuộn chỉ ra, nhìn thấy hạt timbaru, và khiến nàng kia thú nhận tội trộm cắp.
Mahājano haṭṭhatuṭṭho ‘‘suvinicchito aḍḍo’’ti sādhukārasahassāni pavattesi.
The great multitude, delighted and pleased, raised thousands of shouts of approval, saying, "The case has been well-decided!"
Đại chúng vui mừng phấn khởi, hô vang ngàn tiếng tán thán: “Vụ án đã được phân xử thật khéo!”
Puttoti ekadivasaṃ ekā itthī puttaṃ ādāya mukhadhovanatthāya paṇḍitassa pokkharaṇiṃ gantvā puttaṃ nhāpetvā attano sāṭake nisīdāpetvā attano mukhaṃ dhovituṃ otari.
Regarding Son: One day, a woman took her son and went to the wise man's pond to wash her face. She bathed her son, seated him on her outer garment, and descended to wash her own face.
Putta (chỉ đứa con): Một ngày nọ, một phụ nữ mang con đến hồ của vị hiền giả để rửa mặt. Nàng tắm cho con, đặt con ngồi trên tấm áo của mình, rồi xuống hồ để rửa mặt cho mình.
Tasmiṃ khaṇe ekā yakkhinī taṃ dārakaṃ disvā khāditukāmā hutvā itthivesaṃ gahetvā ‘‘sahāyike, sobhati vatāyaṃ dārako, taveso putto’’ti pucchitvā ‘‘āmā’’ti vutte ‘‘pāyemi na’’nti vatvā ‘‘pāyehī’’ti vuttā taṃ gahetvā thokaṃ kīḷāpetvā ādāya palāyi.
At that moment, a female yakkha, seeing the child and wishing to eat him, took on the guise of a woman. She asked, "Friend, this child is beautiful. Is this your son?" When the woman said, "Yes," the yakkha said, "Shall I nurse him?" When the woman said, "Nurse him," the yakkha took him, played with him for a while, and then ran away with him.
Lúc đó, một nữ dạ xoa nhìn thấy đứa bé, muốn ăn thịt nó, bèn biến thành hình dạng một phụ nữ, hỏi: “Này bạn, đứa bé này dễ thương quá, đây là con của bạn à?” Khi được trả lời “Vâng,” nàng nói: “Để tôi cho bú nhé?” Khi được bảo “Cứ cho bú đi,” nàng bèn bế đứa bé, chơi đùa một lát rồi ôm đứa bé bỏ chạy.
Itarā taṃ disvā dhāvitvā ‘‘kuhiṃ me puttaṃ nesī’’ti gaṇhi.
The other woman, seeing her, ran and seized her, saying, "Where are you taking my son?"
Người phụ nữ kia nhìn thấy, bèn đuổi theo và giữ lại, nói: “Ngươi mang con ta đi đâu?”
Yakkhinī ‘‘kuto tayā putto laddho, mameso putto’’ti āha.
The yakkha said, "Where did you get a son? This is my son."
Nữ dạ xoa nói: “Ngươi có con từ đâu? Đây là con của ta.”
Tā kalahaṃ karontiyo sālādvārena gacchanti.
They, quarreling, passed by the hall's doorway.
Họ cãi nhau và đi ngang qua cửa sảnh.
Paṇḍito taṃ kalahasaddaṃ sutvā pakkosāpetvā ‘‘kimeta’’nti pucchi.
The wise man, hearing the sound of their quarrel, had them called and asked, "What is this?"
Vị hiền giả nghe tiếng cãi vã, bèn cho gọi họ đến và hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Tā tassa etamatthaṃ ārocesuṃ.
They reported the matter to him.
Họ kể lại sự việc cho ngài.
Taṃ sutvā mahāsatto akkhīnaṃ animisatāya ceva rattatāya ca nirāsaṅkatāya ca chāyāya abhāvatāya ca ‘‘ayaṃ yakkhinī’’ti ñatvāpi ‘‘mama vinicchaye ṭhassathā’’ti vatvā ‘‘āma, ṭhassāmā’’ti vutte bhūmiyaṃ lekhaṃ kaḍḍhayitvā lekhāmajjhe dārakaṃ nipajjāpetvā yakkhiniṃ hatthesu, mātaraṃ pādesu gāhāpetvā ‘‘dvepi kaḍḍhitvā gaṇhatha, kaḍḍhituṃ sakkontiyā eva putto’’ti āha.
Having heard it, the Great Being, knowing her to be a yakkha by her unblinking eyes, their redness, her fearlessness, and the absence of her shadow, said, "Will you abide by my judgment?" When they said, "Yes, we will abide," he drew a line on the ground, laid the child in the middle of the line, made the yakkha hold the child by the hands and the mother by the feet, and said, "Both of you pull and take him. The child belongs to whoever can pull him away."
Nghe vậy, Đại Bồ Tát, nhờ đôi mắt không chớp, đỏ ngầu, không lo lắng, và không có bóng, biết rằng “Đây là nữ dạ xoa,” nhưng vẫn nói: “Các ngươi có chấp nhận phán quyết của ta không?” Khi họ nói “Vâng, chúng tôi sẽ chấp nhận,” ngài bèn vạch một đường trên đất, đặt đứa bé nằm giữa đường, cho nữ dạ xoa nắm tay và người mẹ nắm chân, rồi nói: “Cả hai hãy kéo và giành lấy, đứa bé sẽ thuộc về người nào kéo được.”
Tā ubhopi kaḍḍhiṃsu.
Both of them pulled.
Cả hai đều kéo.
Dārako kaḍḍhiyamāno dukkhappatto hutvā viravi.
The child, being pulled, suffered pain and cried out.
Đứa bé bị kéo, đau đớn mà kêu khóc.
Mātā hadayena phalitena viya hutvā puttaṃ muñcitvā rodamānā aṭṭhāsi.
The mother, as if her heart had burst, released the child and stood weeping.
Người mẹ như thể tim mình bị vỡ, bèn buông con ra và đứng khóc.
Paṇḍito mahājanaṃ pucchi ‘‘ambho, dārake, mātu hadayaṃ mudukaṃ hoti, udāhu amātū’’ti.
The wise man asked the multitude, "Friends, is a mother's heart tender, or that of a non-mother?"
Vị hiền giả hỏi đại chúng: “Này chư vị, trái tim người mẹ mềm yếu hơn, hay trái tim của người không phải mẹ mềm yếu hơn?”
‘‘Mātu hadayaṃ mudukaṃ hotī’’ti.
"A mother's heart is tender."
“Trái tim người mẹ mềm yếu hơn.”
‘‘Kiṃ dāni dārakaṃ gahetvā ṭhitā mātā hoti, udāhu vissajjetvā ṭhitā’’ti?
"Now, is the one holding the child the mother, or the one who released him?"
“Vậy thì, người đang giữ đứa bé là mẹ, hay người đã buông đứa bé ra là mẹ?”
‘‘Vissajjetvā ṭhitā paṇḍitā’’ti.
"The one who released him, O wise one."
“Người đã buông đứa bé ra là mẹ, thưa hiền giả.”
‘‘Imaṃ pana dārakacoriṃ tumhe jānāthā’’ti?
"And do you know this child-thief?"
“Còn kẻ trộm đứa bé này, các vị có biết không?”
‘‘Na jānāma, paṇḍitā’’ti.
"We do not know, O wise one."
“Chúng tôi không biết, thưa hiền giả.”
Atha ne paṇḍito āha – ‘‘yakkhinī esā, etaṃ khādituṃ gaṇhī’’ti.
Then the wise man said to them, "This is a yakkha; she took him to eat him."
Rồi vị hiền giả nói với họ: “Đây là nữ dạ xoa, nó bắt đứa bé này để ăn thịt.”
‘‘Kathaṃ jānāsi, paṇḍitā’’ti.
"How do you know, O wise one?"
“Làm sao ngài biết, thưa hiền giả?”
‘‘Akkhīnaṃ animisatāya ceva rattatāya ca nirāsaṅkatāya ca chāyāya abhāvena ca nikkaruṇatāya cā’’ti.
"By her unblinking eyes, their redness, her fearlessness, the absence of her shadow, and her mercilessness."
“Nhờ đôi mắt không chớp, đỏ ngầu, không lo lắng, không có bóng, và không có lòng từ bi.”
Atha naṃ pucchi ‘‘kāsi tva’’nti?
Then he asked her, "Who are you?"
Rồi ngài hỏi nàng: “Ngươi là ai?”
‘‘Yakkhinīmhi sāmī’’ti.
"I am a yakkha, Venerable Sir."
“Tôi là nữ dạ xoa, thưa Tôn chủ.”
‘‘Kasmā imaṃ dārakaṃ gaṇhī’’ti?
"Why did you take this child?"
“Tại sao ngươi bắt đứa bé này?”
‘‘Khādituṃ gaṇhāmi, sāmī’’ti.
"I took him to eat him, Venerable Sir."
“Tôi bắt để ăn thịt, thưa Tôn chủ.”
‘‘Andhabāle, tvaṃ pubbepi pāpakammaṃ katvā yakkhinī jātāsi, idāni punapi pāpaṃ karosi, aho andhabālāsī’’ti vatvā taṃ pañcasīlesu patiṭṭhāpetvā ‘‘ito paṭṭhāya evarūpaṃ pāpakammaṃ mā akāsī’’ti vatvā taṃ uyyojesi.
"O foolish one, you committed evil deeds before and were born a yakkha; now you are committing evil again. Oh, how foolish you are!" Having said this, he established her in the Five Precepts and, saying, "From now on, do not commit such evil deeds," he sent her away.
“Này kẻ ngu xuẩn mù quáng, ngươi đã tạo nghiệp ác từ trước nên đã trở thành nữ dạ xoa, bây giờ ngươi lại tiếp tục tạo nghiệp ác nữa, thật là kẻ ngu xuẩn mù quáng!” Nói xong, ngài đặt nàng vào Ngũ giới và nói: “Từ nay trở đi, chớ làm những nghiệp ác như vậy nữa,” rồi tiễn nàng đi.
Dārakamātāpi dārakaṃ labhitvā ‘‘ciraṃ jīvatu sāmī’’ti paṇḍitaṃ thometvā puttaṃ ādāya pakkāmi.
The child's mother, having received her child, praised the wise man, saying, "May you live long, Venerable Sir!" and departed with her son.
Người mẹ của đứa bé cũng nhận lại con mình, tán thán vị hiền giả: “Xin Tôn chủ sống lâu!” rồi ôm con bỏ đi.
Gototi eko kira lakuṇḍakattā goto, kāḷavaṇṇatā ca kāḷoti gotakāḷo nāma puriso sattasaṃvaccharāni kammaṃ katvā bhariyaṃ labhi.
Goto—It is said that a man named Gotakāḷa, being a dwarf (lakuṇḍaka) was called Goto, and due to his dark complexion (kāḷavaṇṇatā) was called Kāḷa, thus Gotakāḷa. He worked for seven years and obtained a wife.
Goto (chỉ Gotakaḷa): Có một người đàn ông tên là Gotakaḷa, vì thấp bé nên gọi là Goto, và vì da đen nên gọi là Kaḷo. Sau bảy năm làm việc, anh ta cưới được vợ.
Sā nāmena dīghatālā nāma.
Her name was Dīghatālā.
Nàng tên là Dīghatālā.
So ekadivasaṃ taṃ āmantetvā ‘‘bhadde, pūvakhādanīyaṃ pacāhi, mātāpitaro daṭṭhuṃ gamissāmā’’ti vatvā ‘‘kiṃ te mātāpitūhī’’ti tāya paṭikkhittopi yāvatatiyaṃ vatvā pūvakhādanīyaṃ pacāpetvā pātheyyañceva paṇṇākārañca ādāya tāya saddhiṃ maggaṃ paṭipanno antarāmagge uttānavāhiniṃ ekaṃ nadiṃ addasa.
One day, he called her and said, ‘‘My dear, prepare some cakes and food, we will go to see my parents.’’ Although she refused, saying, ‘‘What are your parents to me?’’ he repeated it a third time, had her prepare the cakes and food, and taking provisions and gifts, he set out on the road with her, and along the way, he saw a shallow river.
Một ngày nọ, anh ta gọi nàng và nói: “Này em, hãy nướng bánh ngọt đi, chúng ta sẽ về thăm cha mẹ.” Mặc dù nàng từ chối: “Cha mẹ anh thì có gì đâu?” nhưng anh ta vẫn nói đến lần thứ ba, rồi cho nàng nướng bánh ngọt, mang theo lương thực và quà biếu, cùng nàng lên đường. Giữa đường, anh ta nhìn thấy một con sông chảy cạn.
Te pana dvepi udakabhīrukajātikāva, tasmā taṃ uttarituṃ avisahantā tīre aṭṭhaṃsu.
Both of them were naturally afraid of water, so, unable to cross it, they stood on the bank.
Cả hai đều là những người sợ nước, vì vậy họ không dám vượt sông và đứng lại ở bờ.
Tadā dīghapiṭṭhi nāmeko duggatapuriso anuvicaranto taṃ ṭhānaṃ pāpuṇi.
At that time, a poor man named Dīghapiṭṭhi, wandering about, arrived at that place.
Lúc đó, một người đàn ông nghèo tên là Dīghapiṭṭhi đang đi lang thang thì đến chỗ đó.
Atha naṃ te disvā pucchiṃsu ‘‘samma, ayaṃ nadī gambhīrā uttānā’’ti.
Then, seeing him, they asked, ‘‘Friend, is this river deep or shallow?’’
Thấy anh ta, họ hỏi: “Này bạn, con sông này sâu hay cạn?”
So tesaṃ kathaṃ sutvā udakabhīrukabhāvaṃ ñatvā ‘‘samma, ayaṃ nadī gambhīrā bahucaṇḍamacchākiṇṇā’’ti āha.
Hearing their words, and knowing their fear of water, he said, ‘‘Friend, this river is deep and full of many fierce fish.’’
Nghe họ nói, anh ta biết họ sợ nước, bèn nói: “Này bạn, con sông này sâu và có nhiều cá sấu hung dữ.”
‘‘Samma, kathaṃ tvaṃ gamissasī’’ti?
‘‘Friend, how will you cross?’’
“Này bạn, làm sao bạn sẽ đi qua?”
So āha – ‘‘saṃsumāramakarānaṃ amhehi paricayo atthi, tena te amhe na viheṭhentī’’ti.
He said, ‘‘We have a familiarity with crocodiles and alligators, so they do not harm us.’’
Anh ta nói: “Chúng tôi có quen biết với cá sấu và cá sấu hoa, nên chúng không làm hại chúng tôi.”
‘‘Tena hi, samma, amhepi nehī’’ti.
‘‘In that case, friend, take us too.’’
“Vậy thì, này bạn, hãy đưa chúng tôi đi cùng!”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchi.
He agreed, saying, ‘‘Very well.’’
Anh ta nói “Được thôi” và đồng ý.
Athassa te khajjabhojanaṃ adaṃsu.
Then they gave him food and snacks.
Rồi họ đưa thức ăn cho anh ta.
So katabhattakicco ‘‘samma, kaṃ paṭhamaṃ nemī’’ti pucchi.
After he had eaten, he asked, ‘‘Friend, whom shall I take first?’’
Sau khi ăn xong, anh ta hỏi: “Này bạn, tôi sẽ đưa ai đi trước?”
So āha – ‘‘tava sahāyikaṃ paṭhamaṃ nehi, maṃ pacchā nehī’’ti.
He said, ‘‘Take your companion first, and take me afterwards.’’
Anh ta nói: “Hãy đưa bạn của anh đi trước, rồi đưa tôi sau.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā taṃ khandhe katvā pātheyyañceva paṇṇākārañca gahetvā nadiṃ otaritvā thokaṃ gantvā ukkuṭiko nisīditvā pakkāmi.
He agreed, saying, ‘‘Very well,’’ and taking her on his shoulder, and taking the provisions and gifts, he entered the river, went a short distance, sat down in a squatting position, and departed.
Anh ta nói “Được thôi” và đồng ý, rồi cõng nàng lên vai, mang theo lương thực và quà biếu, xuống sông. Đi được một đoạn, anh ta ngồi xổm xuống và bỏ đi.
Gotakāḷo tīre ṭhitova ‘‘gambhīrāvatāyaṃ nadī, evaṃ dīghassapi nāma evarūpā, mayhaṃ pana apasayhāva bhavissatī’’ti cintesi.
Gotakāḷa, standing on the bank, thought, ‘‘This river is deep; if it is like this for someone so tall, it will surely be unmanageable for me.’’
Gotakaḷa đứng ở bờ và nghĩ: “Con sông này sâu thật, ngay cả một người cao lớn như vậy còn phải như thế, huống hồ mình thì không thể nào vượt qua được.”
Itaropi taṃ nadīmajjhaṃ netvā ‘‘bhadde, ahaṃ taṃ posessāmi, sampannavatthālaṅkārā dāsidāsaparivutā vicarissasi, kiṃ te ayaṃ lakuṇḍakavāmanako karissati, mama vacanaṃ karohī’’ti āha.
The other man, having taken her to the middle of the river, said, ‘‘My dear, I will support you; you will go about adorned with fine clothes and ornaments, attended by male and female servants. What can this dwarfish cripple do for you? Do as I say.’’
Người kia đưa nàng đến giữa sông và nói: “Này em, anh sẽ nuôi em, em sẽ được đi lại với quần áo và trang sức đầy đủ, có người hầu hạ. Kẻ lùn thấp bé đó có thể làm gì cho em? Hãy nghe lời anh.”
Sā tassa vacanaṃ sutvāva attano sāmike sinehaṃ bhinditvā taṃkhaṇaññeva tasmiṃ paṭibaddhacittā hutvā ‘‘sāmi, sace maṃ na chaḍḍessasi, karissāmi te vacana’’nti sampaṭicchi.
As soon as she heard his words, she broke her affection for her husband and immediately became attached to him, agreeing, ‘‘Master, if you do not abandon me, I will do as you say.’’
Nghe lời anh ta, nàng liền từ bỏ tình yêu với chồng mình, ngay lập tức tâm trí bị ràng buộc bởi anh ta, và đồng ý: “Thưa Tôn chủ, nếu ngài không bỏ rơi tôi, tôi sẽ làm theo lời ngài.”
‘‘Bhadde, kiṃ vadesi, ahaṃ taṃ posessāmī’’ti.
‘‘My dear, what are you saying? I will support you.’’
“Này em, em nói gì vậy, anh sẽ nuôi em mà.”
Te paratīraṃ gantvā ubhopi samaggā sammodamānā ‘‘gotakāḷaṃ pahāya tiṭṭha tva’’nti vatvā tassa passantasseva khādanīyaṃ khādantā pakkamiṃsu.
They went to the other bank, both united and rejoicing, saying, ‘‘Leave Gotakāḷa and stay,’’ and eating the food in his sight, they went away.
Họ đến bờ bên kia, cả hai hòa thuận vui vẻ, nói: “Hãy bỏ Gotakaḷa lại đó!” rồi ăn thức ăn trước mặt anh ta và bỏ đi.
So disvā ‘‘ime ekato hutvā maṃ chaḍḍetvā palāyanti maññe’’ti aparāparaṃ dhāvanto thokaṃ otaritvā bhayena nivattitvā puna tesu kopena ‘‘jīvāmi vā marāmi vā’’ti ullaṅghitvā nadiyaṃ patito uttānabhāvaṃ ñatvā nadiṃ uttaritvā vegena taṃ pāpuṇitvā ‘‘ambho duṭṭhacora, kuhiṃ me bhariyaṃ nesī’’ti āha.
Seeing this, he thought, ‘‘I suppose they have joined together, abandoned me, and fled,’’ and running back and forth, he entered a little way, then turned back in fear, and then, in anger at them, thinking, ‘‘Whether I live or die,’’ he leaped into the river, and realizing its shallowness, he crossed the river, quickly reached them, and said, ‘‘Hey, you wicked thief, where are you taking my wife?’’
Anh ta nhìn thấy và nghĩ: “Có lẽ chúng đã hợp sức bỏ rơi mình và bỏ trốn,” bèn chạy tới chạy lui, xuống sông một đoạn, rồi sợ hãi quay lại. Sau đó, vì tức giận chúng, anh ta nghĩ: “Sống chết mặc bay,” bèn nhảy xuống sông. Nhận ra sông cạn, anh ta vượt qua sông và nhanh chóng đuổi kịp chúng, nói: “Này kẻ trộm độc ác, ngươi mang vợ ta đi đâu?”
Itaropi taṃ ‘‘are duṭṭhavāmanaka, kuto tava bhariyā, mamesā bhariyā’’ti vatvā gīvāyaṃ gahetvā khipi.
The other man, saying to him, ‘‘Hey, you wicked dwarf, where is your wife? This is my wife,’’ seized him by the neck and threw him.
Người kia nói: “Này kẻ lùn độc ác, vợ ngươi từ đâu ra? Đây là vợ của ta,” rồi nắm cổ anh ta và ném đi.
So dīghatālaṃ hatthe gahetvā’’tiṭṭha tvaṃ kuhiṃ gacchasi, satta saṃvaccharāni kammaṃ katvā laddhabhariyā mesī’’ti vatvā tena saddhiṃ kalahaṃ karonto sālāya santikaṃ pāpuṇi.
He seized Dīghatālā by the hand and said, ‘‘Stop! Where are you going? This is my wife, whom I obtained after working for seven years,’’ and quarreling with him, he reached the courthouse.
Ông ta nắm tay Dīghatālā nói: “Dừng lại! Cô đi đâu? Cô là vợ của tôi, người mà tôi đã có được sau khi làm việc bảy năm,” rồi cãi cọ với cô ta, ông ta đi đến hội trường.
Mahājano sannipati.
A large crowd gathered.
Đại chúng tụ họp.
Paṇḍito ‘‘kiṃ saddo nāmeso’’ti pucchitvā te ubhopi pakkosāpetvā vacanappaṭivacanaṃ sutvā ‘‘mama vinicchaye ṭhassathā’’ti vatvā ‘‘āma, ṭhassāmā’’ti vutte paṭhamaṃ dīghapiṭṭhiṃ pakkosāpetvā ‘‘tvaṃ konāmosī’’ti pucchi.
The wise judge asked, ‘‘What is this noise?’’ and having summoned both of them and heard their statements, he said, ‘‘Will you abide by my judgment?’’ When they said, ‘‘Yes, we will abide,’’ he first summoned Dīghapiṭṭhi and asked, ‘‘What is your name?’’
Vị hiền giả hỏi: “Tiếng ồn này là gì?”, rồi cho gọi cả hai người đến, lắng nghe lời qua tiếng lại của họ, và nói: “Các ngươi sẽ tuân theo phán quyết của ta chứ?” Khi họ đáp: “Vâng, chúng tôi sẽ tuân theo,” ông ta liền cho gọi Dīghapiṭṭhi trước và hỏi: “Ngươi tên gì?”
‘‘Dīghapiṭṭhiko nāma, sāmī’’ti.
‘‘My name is Dīghapiṭṭhiko, master.’’
“Bạch ngài, tôi tên Dīghapiṭṭhika.”
‘‘Bhariyā te kā nāmā’’ti?
‘‘What is your wife’s name?’’
“Vợ ngươi tên gì?”
So tassā nāmaṃ ajānanto aññaṃ kathesi.
Not knowing her name, he gave another name.
Ông ta không biết tên cô ta nên nói một tên khác.
‘‘Mātāpitaro te ke nāmā’’ti?
‘‘What are your parents’ names?’’
“Cha mẹ ngươi tên gì?”
‘‘Asukā nāmā’’ti.
‘‘Such and such names.’’
“Tên là người này, người kia.”
‘‘Bhariyāya pana te mātāpitaro ke nāmā’’ti?
‘‘And what are your wife’s parents’ names?’’
“Còn cha mẹ của vợ ngươi tên gì?”
So ajānitvā aññaṃ kathesi.
Not knowing, he gave another name.
Ông ta không biết nên nói một tên khác.
Tassa kathaṃ parisaṃ gāhāpetvā taṃ apanetvā itaraṃ pakkosāpetvā purimanayeneva sabbesaṃ nāmāni pucchi.
After having the assembly gather, he dismissed him, called the other, and asked everyone's names in the same manner as before.
Sau khi để hội chúng ghi nhớ lời của ông ta, vị hiền giả cho ông ta ra ngoài, rồi cho gọi người kia vào và hỏi tên của tất cả mọi người theo cách tương tự như trước.
So yathābhūtaṃ jānanto avirajjhitvā kathesi.
Knowing the truth, he spoke without error.
Ông ta biết rõ sự thật nên đã nói mà không sai sót.
Tampi apanetvā dīghatālaṃ pakkosāpetvā ‘‘tvaṃ kā nāmā’’ti pucchi.
After dismissing him too, he had Dīghatālā called and asked, "What is your name?"
Sau khi cho ông ta ra ngoài, vị hiền giả cho gọi Dīghatālā vào và hỏi: “Cô tên gì?”
‘‘Dīghatālā nāma sāmī’’ti.
"My name is Dīghatālā, master."
“Bạch ngài, tôi tên Dīghatālā.”
‘‘Sāmiko te konāmo’’ti?
"What is your husband's name?"
“Chồng cô tên gì?”
Sā ajānantī aññaṃ kathesi.
Not knowing, she said something else.
Cô ta không biết nên nói một tên khác.
‘‘Mātāpitaro te ke nāmā’’ti.
"What are your parents' names?"
“Cha mẹ cô tên gì?”
‘‘Asukā nāma sāmī’’ti.
"Such-and-such, master."
“Bạch ngài, tên là người này, người kia.”
‘‘Sāmikassa pana te mātāpitaro ke nāmā’’ti?
"And what are your husband's parents' names?"
“Còn cha mẹ của chồng cô tên gì?”
Sāpi vilapantī aññaṃ kathesi.
She too, wailing, said something else.
Cô ta cũng than vãn và nói một tên khác.
Itare dve pakkosāpetvā mahājanaṃ pucchi ‘‘kiṃ imissā dīghapiṭṭhissa vacanena sameti, udāhu gotakāḷassā’’ti.
He had the other two called and asked the great assembly, "Does this woman's statement match that of Dīghapiṭṭha, or that of Gotakāḷa?"
Vị hiền giả cho gọi hai người kia vào và hỏi đại chúng: “Lời của Dīghatālā này có khớp với lời của Dīghapiṭṭhi, hay của Gotakāḷa?”
‘‘Gotakāḷassa paṇḍitā’’ti.
"That of Gotakāḷa, O wise one."
“Bạch hiền giả, khớp với lời của Gotakāḷa.”
‘‘Ayaṃ etissā sāmiko, itaro coro’’ti.
"This one is her husband, the other is a thief."
“Người này là chồng của cô ta, còn người kia là kẻ trộm.”
Atha naṃ ‘‘corosi, na corosī’’ti pucchi.
Then he asked him, "Are you a thief, or are you not a thief?"
Rồi ông ta hỏi người đó: “Ngươi là kẻ trộm, có phải không?”
‘‘Āma, sāmi, coromhī’’ti corabhāvaṃ sampaṭicchi.
"Yes, master, I am a thief," he admitted to being a thief.
“Vâng, bạch ngài, tôi là kẻ trộm.” Ông ta thừa nhận mình là kẻ trộm.
Paṇḍitassa vinicchayena gotakāḷo attano bhariyaṃ labhitvā mahāsattaṃ thometvā taṃ ādāya pakkāmi.
By the wise one's judgment, Gotakāḷa obtained his wife, praised the Great Being, and departed with her.
Theo phán quyết của vị hiền giả, Gotakāḷa đã nhận lại vợ mình, tán dương Đại Sĩ, rồi đưa vợ đi.
Paṇḍito dīghapiṭṭhimāha ‘‘mā puna evamakāsī’’ti.
The wise one said to Dīghapiṭṭha, "Do not do such a thing again."
Vị hiền giả nói với Dīghapiṭṭhi: “Đừng làm như vậy nữa.”
Rathena cāti ekadivasaṃ eko pana puriso rathe nisīditvā mukhadhovanatthāya nikkhami.
And with a chariot—one day, a certain man, seated in a chariot, went out to wash his face.
Với chiếc xe. Một ngày nọ, một người đàn ông ngồi trên xe ngựa đi ra để rửa mặt.
Tasmiṃ khaṇe sakko āvajjento paṇḍitaṃ disvā ‘‘mahosadhabuddhaṅkurassa paññānubhāvaṃ pākaṭaṃ karissāmī’’ti cintetvā manussavesenāgantvā rathassa pacchābhāgaṃ gahetvā pāyāsi.
At that moment, Sakka, reflecting, saw the wise one and thought, "I will reveal the power of Mahosadha, the Buddha-to-be's wisdom," and coming in human form, he grasped the rear part of the chariot and drove it.
Vào lúc đó, Sakka, khi quán sát và thấy vị hiền giả, đã nghĩ: “Ta sẽ làm cho trí tuệ của Mahosadha, vị Phật tương lai, được hiển lộ,” rồi hóa thành hình người đến, nắm lấy phần sau của chiếc xe và đi theo.
Rathe nisinno puriso ‘‘tāta, kenatthenāgatosī’’ti pucchitvā ‘‘tumhe upaṭṭhātu’’nti vutte ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā yānā oruyha sarīrakiccatthāya gato.
The man seated in the chariot asked, "My good man, for what purpose have you come?" and when told, "To attend to you," he assented with "Good," dismounted from the vehicle, and went to attend to his bodily needs.
Người đàn ông ngồi trên xe hỏi: “Này con, con đến đây làm gì?” Khi được đáp: “Để phục vụ ngài,” ông ta nói: “Tốt lắm,” rồi xuống xe đi làm việc riêng.
Tasmiṃ khaṇe sakko rathaṃ abhiruhitvā vegena pājesi.
At that moment, Sakka ascended the chariot and drove it away swiftly.
Vào lúc đó, Sakka leo lên xe và phóng đi thật nhanh.
Rathasāmiko pana sarīrakiccaṃ katvā nikkhanto sakkaṃ rathaṃ gahetvā palāyantaṃ disvā vegena gantvā ‘‘tiṭṭha tiṭṭha, kuhiṃ me rathaṃ nesī’’ti vatvā ‘‘tava ratho añño bhavissati, ayaṃ pana mama ratho’’ti vutte tena saddhiṃ kalahaṃ karonto sālādvāraṃ patto.
The owner of the chariot, having performed his bodily needs and come out, saw Sakka taking the chariot and fleeing, and going swiftly, he said, "Stop, stop! Where are you taking my chariot?" and when told, "Your chariot must be another; this is my chariot," he quarreled with him and arrived at the gate of the hall.
Chủ xe sau khi làm việc riêng xong đi ra, thấy Sakka đang lái xe bỏ chạy, liền nhanh chóng đuổi theo và nói: “Dừng lại, dừng lại! Ngươi đưa xe của ta đi đâu?” Khi Sakka đáp: “Xe của ngươi sẽ là một chiếc khác, còn đây là xe của ta,” ông ta liền cãi cọ với Sakka và đến cửa hội trường.
Paṇḍito ‘‘kiṃ nāmeta’’nti pucchitvā te pakkosāpetvā āgacchante disvā nibbhayatāya ceva akkhīnaṃ animisatāya ca ‘‘ayaṃ sakko, ayaṃ rathasāmiko’’ti aññāsi, evaṃ santepi vivādakāraṇaṃ pucchitvā ‘‘mama vinicchaye ṭhassathā’’ti vatvā ‘‘āma, ṭhassāmā’’ti vutte ‘‘ahaṃ rathaṃ pājessāmi, tumhe dvepi rathaṃ pacchato gahetvā gacchatha, rathasāmiko na vissajjessati, itaro vissajjessatī’’ti vatvā purisaṃ āṇāpesi ‘‘rathaṃ pājehī’’ti.
The wise one asked, "What is this about?" and seeing them approaching after having them called, he knew, by their fearlessness and their unblinking eyes, "This is Sakka, this is the chariot owner." Even so, he asked the cause of the dispute and said, "Will you stand by my judgment?" When they said, "Yes, we will stand by it," he said, "I will drive the chariot; you two follow the chariot from behind. The chariot owner will not let go, the other will," and he commanded the man, "Drive the chariot!"
Vị hiền giả hỏi: “Chuyện gì vậy?”, rồi cho gọi họ đến. Khi thấy họ đang đến, vị hiền giả nhận ra: “Người này là Sakka, người kia là chủ xe,” nhờ sự không sợ hãi và đôi mắt không chớp của Sakka. Mặc dù vậy, ông ta vẫn hỏi nguyên nhân tranh chấp, và nói: “Các ngươi sẽ tuân theo phán quyết của ta chứ?” Khi họ đáp: “Vâng, chúng tôi sẽ tuân theo,” ông ta nói: “Ta sẽ lái xe, hai ngươi hãy nắm lấy phía sau xe mà đi theo. Chủ xe sẽ không buông, còn người kia sẽ buông,” rồi ra lệnh cho người hầu: “Hãy lái xe đi.”
So tathā akāsi.
He did so.
Người đó đã làm như vậy.
Itarepi dve pacchato gahetvā gacchanti.
The other two also followed from behind.
Hai người kia cũng nắm lấy phía sau xe và đi theo.
Rathasāmiko thokaṃ gantvā vissajjetvā ṭhito, sakko pana rathena saddhiṃ gantvā ratheneva saddhiṃ nivatti.
The chariot owner went a short distance, then let go and stopped, but Sakka went with the chariot and returned with the chariot.
Chủ xe đi được một đoạn ngắn thì buông tay và dừng lại, còn Sakka thì chạy theo chiếc xe và quay lại cùng với chiếc xe.
Paṇḍito manusse ācikkhi ‘‘ayaṃ puriso thokaṃ gantvā rathaṃ vissajjetvā ṭhito, ayaṃ pana rathena saddhiṃ dhāvitvā ratheneva saddhiṃ nivatti, nevassa sarīre sedabindumattampi atthi, assāsapassāsopi natthi, abhīto animisanetto, esa sakko devarājā’’ti.
The wise one pointed out to the people, "This man went a short distance and let go of the chariot and stopped, but this one ran with the chariot and returned with the chariot. There is not even a drop of sweat on his body, nor is there any breathing; he is fearless, with unblinking eyes. This is Sakka, the king of devas."
Vị hiền giả chỉ cho mọi người thấy: “Người đàn ông này đi được một đoạn ngắn thì buông xe và dừng lại, còn người kia thì chạy theo chiếc xe và quay lại cùng với chiếc xe. Trên người ông ta không có dù chỉ một giọt mồ hôi, cũng không có hơi thở, ông ta không sợ hãi, mắt không chớp. Người này chính là Sakka, vua chư thiên.”
Atha naṃ ‘‘sakko devarājāsī’’ti pucchitvā ‘‘āma, paṇḍitā’’ti vutte ‘‘kasmā āgatosī’’ti vatvā ‘‘taveva paññāpakāsanatthaṃ paṇḍitā’’ti vutte ‘‘tena hi mā puna evamakāsī’’ti ovadati.
Then he asked him, "Are you Sakka, the king of devas?" When he said, "Yes, O wise one," he asked, "Why have you come?" When told, "To reveal your wisdom, O wise one," he advised him, "Then do not do such a thing again."
Rồi ông ta hỏi Sakka: “Ngài là Sakka, vua chư thiên phải không?” Khi Sakka đáp: “Vâng, bạch hiền giả,” ông ta hỏi: “Vì sao ngài đến đây?” Khi Sakka đáp: “Bạch hiền giả, để làm hiển lộ trí tuệ của ngài,” ông ta khuyên: “Vậy thì, đừng làm như vậy nữa.”
Sakkopi sakkānubhāvaṃ dassento ākāse ṭhatvā ‘‘suvinicchito paṇḍitena aḍḍo’’ti paṇḍitassa thutiṃ katvā sakaṭṭhānameva gato.
Sakka, too, showing his divine power, stood in the sky and praised the wise one, saying, "The wise one has judged the chariot dispute very well," and then returned to his own abode.
Sakka cũng hiển lộ thần thông của mình, đứng trên không trung và tán dương vị hiền giả: “Vị hiền giả đã phán quyết vụ án chiếc xe thật tài tình,” rồi trở về chỗ của mình.
Tadā so amacco sayameva rañño santikaṃ gantvā ‘‘mahārāja, paṇḍitena evaṃ rathaaḍḍo suvinicchito, sakkopi tena parājito, kasmā purisavisesaṃ na jānāsi, devā’’ti āha.
At that time, the minister himself went to the king and said, "Your Majesty, the wise one has judged this chariot dispute so well; even Sakka was defeated by him. Why do you not recognize this exceptional man, O king?"
Lúc đó, vị đại thần đó tự mình đến gặp nhà vua và nói: “Đại vương, vị hiền giả đã phán quyết vụ án chiếc xe tài tình như vậy, ngay cả Sakka cũng bị ông ấy đánh bại. Vì sao ngài không biết đến một người đặc biệt như vậy, thưa bệ hạ?”
Rājā senakaṃ pucchi ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti.
The king asked Senaka, "Senaka, shall we bring the wise one?"
Nhà vua hỏi Senaka: “Này Senaka, chúng ta có nên mời vị hiền giả đến không?”
So lābhamaccharena ‘‘mahārāja, ettakena paṇḍito nāma na hoti, āgametha tāva vīmaṃsitvā jānissāmā’’ti āha.
Out of avarice for gain, he said, "Your Majesty, one is not a wise one merely for this; let us wait and we shall know after testing him."
Vì lòng tham lam, ông ta nói: “Đại vương, chỉ với chừng đó thì chưa thể gọi là hiền giả được. Xin bệ hạ hãy chờ đợi, chúng ta sẽ khảo sát rồi mới biết.”
Daṇḍoti athekadivasaṃ rājā ‘‘paṇḍitaṃ vīmaṃsissāmā’’ti khadiradaṇḍaṃ āharāpetvā tato vidatthiṃ gahetvā cundakāre pakkosāpetvā suṭṭhu likhāpetvā pācīnayavamajjhakagāmaṃ pesesi ‘‘pācīnayavamajjhakagāmavāsino kira paṇḍitā, ‘imassa khadiradaṇḍassa idaṃ aggaṃ, idaṃ mūla’nti jānantu, ajānantānaṃ sahassadaṇḍo’’ti.
The Stick Then one day, the king, thinking, “We shall test the wise one,” had a khadira stick brought, took a span from it, had the carpenters summoned and had it well planed, then sent it to the village of Pācīnayavamajjhaka, saying, “Indeed, the residents of Pācīnayavamajjhaka village are wise ones; let them know, ‘This is the top of this khadira stick, this is the root.’ For those who do not know, there is a fine of a thousand.”
Cây gậy. Một ngày nọ, nhà vua muốn “khảo sát vị hiền giả” nên cho mang một cây gậy gỗ khadirā đến, rồi lấy một đoạn dài một gang tay từ đó, cho gọi thợ tiện đến gọt giũa cẩn thận, rồi sai người mang đến làng Pācīnayavamajjhaka và nói: “Nghe nói dân làng Pācīnayavamajjhaka là những người thông thái. Hãy để họ biết đâu là ngọn, đâu là gốc của cây gậy gỗ khadirā này. Nếu không biết thì sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Gāmavāsino sannipatitvā jānituṃ asakkontā seṭṭhino kathayiṃsu ‘‘kadāci mahosadhapaṇḍito jāneyya, pakkosāpetvā taṃ pucchathā’’ti.
The villagers assembled and, unable to know, told the headman, “Perhaps the wise Mahosadha might know; summon him and ask him.”
Dân làng tụ họp lại nhưng không thể biết được, liền nói với vị trưởng giả: “Có lẽ Mahosadha Paṇḍita sẽ biết. Hãy cho gọi cậu ấy đến mà hỏi.”
Seṭṭhi paṇḍitaṃ kīḷāmaṇḍalā pakkosāpetvā tamatthaṃ ārocetvā ‘‘tāta, mayaṃ jānituṃ na sakkoma, api nu tvaṃ sakkhissasī’’ti pucchi.
The headman summoned the wise one from the playground, informed him of the matter, and asked, “Dear son, we cannot know; will you be able to?”
Vị trưởng giả cho gọi vị hiền giả từ sân chơi đến, báo cho cậu ấy biết sự việc và hỏi: “Này con, chúng ta không thể biết được. Con có thể biết không?”
Taṃ sutvā paṇḍito cintesi ‘‘rañño imassa aggena vā mūlena vā payojanaṃ natthi, mama vīmaṃsanatthāya pesitaṃ bhavissatī’’ti.
Hearing that, the wise one thought, “The king has no use for its top or root; it must have been sent to test me.”
Nghe vậy, vị hiền giả nghĩ: “Nhà vua không có mục đích gì với ngọn hay gốc của cây gậy này. Chắc là được gửi đến để khảo sát ta.”
Cintetvā ca pana ‘‘āharatha, tāta, jānissāmī’’ti āharāpetvā hatthena gahetvāva ‘‘idaṃ aggaṃ idaṃ mūla’’nti ñatvāpi mahājanassa hadayaggahaṇatthaṃ udakapātiṃ āharāpetvā khadiradaṇḍakassa majjhe suttena bandhitvā suttakoṭiyaṃ gahetvā khadiradaṇḍakaṃ udakapiṭṭhe ṭhapesi.
Having thought, he said, “Bring it, dear son, I will know.” Having had it brought, even though he knew “This is the top, this is the root” by holding it in his hand, for the sake of winning the hearts of the people, he had a water pot brought, tied a string around the middle of the khadira stick, held it by the end of the string, and placed the khadira stick on the surface of the water.
Sau khi suy nghĩ, cậu ấy nói: “Này con, hãy mang đến đây, ta sẽ biết.” Khi cây gậy được mang đến, dù đã biết “đây là ngọn, đây là gốc” chỉ bằng cách cầm trên tay, nhưng để thuyết phục đại chúng, cậu ấy cho mang một chậu nước đến, dùng dây cột vào giữa cây gậy gỗ khadirā, rồi cầm đầu dây thả cây gậy gỗ khadirā xuống mặt nước.
Mūlaṃ bhāriyatāya paṭhamaṃ udake nimujji.
The root, being heavier, sank first into the water.
Vì gốc nặng hơn nên nó chìm xuống nước trước.
Tato mahājanaṃ pucchi ‘‘rukkhassa nāma mūlaṃ bhāriyaṃ hoti, udāhu agga’’nti?
Then he asked the people, “Is the root of a tree heavy, or the top?”
Rồi cậu ấy hỏi đại chúng: “Gốc của cây nặng hơn, hay ngọn nặng hơn?”
‘‘Mūlaṃ paṇḍitā’’ti.
“The root, wise one,” they replied.
“Bạch hiền giả, gốc nặng hơn.”
Tena hi imassa paṭhamaṃ nimuggaṃ passatha, etaṃ mūlanti imāya saññāya aggañca mūlañca ācikkhi.
“Therefore, observe what sank first; this is the root.” With this understanding, he pointed out the top and the root.
“Vậy thì, hãy nhìn cái phần chìm xuống trước này, đây là gốc.” Với dấu hiệu này, cậu ấy đã chỉ ra ngọn và gốc.
Gāmavāsino ‘‘idaṃ aggaṃ idaṃ mūla’’nti rañño pahiṇiṃsu.
The villagers sent word to the king, “This is the top, this is the root.”
Dân làng đã gửi lời đến nhà vua: “Đây là ngọn, đây là gốc.”
Rājā ‘‘ko imaṃ jānātī’’ti pucchitvā ‘‘sirivaḍḍhanaseṭṭhino putto mahosadhapaṇḍito’’ti sutvā ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti pucchi.
The king asked, “Who knows this?” and hearing, “Mahosadha, the son of the headman Sirivaḍḍhana,” he asked, “Senaka, shall we bring the wise one?”
Nhà vua hỏi: “Ai biết điều này?” Khi được biết: “Là Mahosadha Paṇḍita, con trai của trưởng giả Sirivaḍḍhana,” nhà vua hỏi: “Này Senaka, chúng ta có nên mời vị hiền giả đến không?”
Adhivāsehi, deva, aññenapi upāyena naṃ vīmaṃsissāmāti.
“Bear with it, Your Majesty; we shall test him by another means.”
Senaka đáp: “Xin bệ hạ hãy khoan, chúng ta sẽ khảo sát cậu ấy bằng một cách khác.”
Sīsanti athekadivasaṃ itthiyā ca purisassa cāti dve sīsāni āharāpetvā ‘‘idaṃ itthisīsaṃ, idaṃ purisasīsanti jānantu, ajānantānaṃ sahassadaṇḍo’’ti pahiṇiṃsu.
The Head Then one day, they had two heads brought, one of a woman and one of a man, and sent them, saying, “Let them know, ‘This is a woman’s head, this is a man’s head.’ For those who do not know, there is a fine of a thousand.”
Đầu. Một ngày nọ, nhà vua cho mang hai cái đầu, một của phụ nữ và một của đàn ông, rồi sai người mang đến và nói: “Hãy để họ biết đây là đầu phụ nữ, đây là đầu đàn ông. Nếu không biết thì sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Gāmavāsino ajānantā paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
The villagers, not knowing, asked the wise one.
Dân làng không biết, liền hỏi vị hiền giả.
So disvāva aññāsi.
He knew it as soon as he saw it.
Cậu ấy vừa nhìn đã biết ngay.
Kathaṃ jānāti?
How did he know?
Làm sao cậu ấy biết?
Purisasīse kira sibbinī ujukāva hoti, itthisīse sibbinī vaṅkā hoti, parivattitvā gacchati.
Indeed, on a man’s head, the suture is straight, but on a woman’s head, the suture is curved, turning as it goes.
Đầu của đàn ông thì đường nối xương sọ thẳng, còn đầu của phụ nữ thì đường nối xương sọ cong, uốn lượn.
So iminā abhiññāṇena ‘‘idaṃ itthiyā sīsaṃ, idaṃ purisassa sīsa’’nti ācikkhi.
By this distinguishing mark, he pointed out, “This is a woman’s head, this is a man’s head.”
Với dấu hiệu này, cậu ấy đã chỉ ra: “Đây là đầu của phụ nữ, đây là đầu của đàn ông.”
Gāmavāsinopi rañño pahiṇiṃsu.
The villagers also sent word to the king.
Dân làng cũng gửi lời đến nhà vua.
Sesaṃ purimasadisameva.
The rest is the same as before.
Phần còn lại tương tự như trước.
Ahīti athekadivasaṃ sappañca sappiniñca āharāpetvā ‘‘ayaṃ sappo, ayaṃ sappinīti jānantu, ajānantānaṃ sahassadaṇḍo’’ti vatvā gāmavāsīnaṃ pesesuṃ.
The Snake Then one day, they had a male snake and a female snake brought, and saying, “Let them know, ‘This is a male snake, this is a female snake.’ For those who do not know, there is a fine of a thousand,” they sent them to the villagers.
Rắn. Một ngày nọ, nhà vua cho mang một con rắn đực và một con rắn cái đến, rồi nói: “Hãy để họ biết đây là rắn đực, đây là rắn cái. Nếu không biết thì sẽ bị phạt một ngàn đồng,” rồi sai người mang đến cho dân làng.
Gāmavāsino ajānantā paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
The villagers, not knowing, asked the wise one.
Dân làng không biết, liền hỏi vị hiền giả.
So disvāva jānāti.
He knew it as soon as he saw it.
Cậu ấy vừa nhìn đã biết ngay.
Sappassa hi naṅguṭṭhaṃ thūlaṃ hoti, sappiniyā tanukaṃ hoti, sappassa sīsaṃ puthulaṃ hoti, sappiniyā tanukaṃ hoti, sappassa akkhīni mahantāni, sappiniyā khuddakāni, sappassa sovattiko parābaddho hoti, sappiniyā vicchinnako.
Indeed, the tail of a male snake is thick, while that of a female snake is slender; the head of a male snake is broad, while that of a female snake is slender; the eyes of a male snake are large, while those of a female snake are small; the scales of a male snake are connected, while those of a female snake are disconnected.
Đuôi của rắn đực thì to, đuôi của rắn cái thì nhỏ. Đầu của rắn đực thì rộng, đầu của rắn cái thì nhỏ. Mắt của rắn đực thì lớn, mắt của rắn cái thì nhỏ. Vảy của rắn đực thì dính liền nhau, vảy của rắn cái thì rời rạc.
So imehi abhiññāṇehi ‘‘ayaṃ sappo, ayaṃ sappinī’’ti ācikkhi.
By these distinguishing marks, he pointed out, “This is a male snake, this is a female snake.”
Vị ấy, với những dấu hiệu đặc biệt này, đã chỉ ra rằng: “Đây là rắn đực, đây là rắn cái.”
Sesaṃ vuttanayameva.
The rest is as stated.
Phần còn lại cũng theo cách đã nói.
Kukkuṭoti athekadivasaṃ ‘‘pācīnayavamajjhakagāmavāsino amhākaṃ sabbasetaṃ pādavisāṇaṃ sīsakakudhaṃ tayo kāle anatikkamitvā nadantaṃ usabhaṃ pesentu, no ce pesenti, sahassadaṇḍo’’ti pahiṇiṃsu.
The Rooster Then one day, they sent word, “Let the residents of Pācīnayavamajjhaka village send us a bull that is entirely white, with horn-like feet and a crest-like head, and that crows without fail at three times. If they do not send it, there is a fine of a thousand.”
Gà trống Một ngày nọ, họ gửi thông điệp: “Hỡi những người dân làng Pācīnayavamajjhaka, hãy gửi cho chúng tôi một con bò đực hoàn toàn trắng, có sừng ở chân, có bướu trên đầu, và gáy không quá ba thời điểm. Nếu không gửi, sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Te ajānantā paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
They, not knowing, asked the wise one.
Họ không biết, bèn hỏi vị hiền trí.
So āha – ‘‘rājā vo sabbasetaṃ kukkuṭaṃ āharāpesi, so hi pādanakhasikhatāya pādavisāṇo nāma, sīsacūḷatāya sīsakakudho nāma, tikkhattuṃ vassanato tayo kāle anatikkamitvā nadati nāma, tasmā evarūpaṃ kukkuḷaṃ pesethā’’ti āha.
He said, “The king has had you bring an entirely white rooster. For it is called ‘horn-like feet’ because of its toenails, and ‘crest-like head’ because of its head-comb. It crows three times without fail, meaning it crows at three specific times. Therefore, send such a rooster.”
Vị ấy nói: “Đức vua đã sai các ngươi mang đến một con gà trống hoàn toàn trắng. Bởi vì nó có móng vuốt nhọn ở chân nên gọi là có sừng ở chân, có mào trên đầu nên gọi là có bướu trên đầu, và gáy ba lần không quá ba thời điểm. Vì vậy, hãy gửi một con gà trống như thế.”
Te pesayiṃsu.
They sent it.
Họ đã gửi đi.
Maṇīti sakkena kusarañño dinno maṇikkhandho aṭṭhasu ṭhānesu vaṅko hoti.
The Gem The gem-cluster given by Sakka to King Kusara was crooked in eight places.
Ngọc báu Một chuỗi ngọc báu do Sakka tặng vua Kusara bị cong ở tám chỗ.
Tassa purāṇasuttaṃ chinnaṃ, koci purāṇasuttaṃ nīharitvā navasuttaṃ pavesetuṃ na sakkoti, tasmā ekadivasaṃ ‘‘imasmā maṇikkhandhā purāṇasuttaṃ nīharitvā navasuttaṃ pavesentū’’ti pesayiṃsu.
Its old thread was broken, and no one could pull out the old thread and insert a new one. Therefore, one day they sent a message saying, "Let them pull out the old thread from this jewel and insert a new thread."
Sợi dây cũ của nó đã đứt, không ai có thể rút sợi dây cũ ra và luồn sợi dây mới vào. Vì vậy, một ngày nọ, họ gửi thông điệp: “Hãy rút sợi dây cũ ra khỏi chuỗi ngọc này và luồn sợi dây mới vào.”
Gāmavāsino purāṇasuttaṃ nīharitvā navasuttaṃ pavesetuṃ asakkontā paṇḍitassa ācikkhiṃsu.
The villagers, unable to pull out the old thread and insert a new one, informed the wise man.
Những người dân làng không thể rút sợi dây cũ ra và luồn sợi dây mới vào, bèn báo cho vị hiền trí.
So ‘‘mā cintayittha, madhuṃ āharathā’’ti āharāpetvā maṇino dvīsu passesu madhunā chiddaṃ makkhetvā kambalasuttaṃ vaṭṭetvā koṭiyaṃ madhunā makkhetvā thokaṃ chidde pavesetvā kipillikānaṃ nikkhamanaṭṭhāne ṭhapesi.
He said, "Do not worry, bring honey!" and had honey brought. He then smeared honey on the holes on both sides of the jewel, twisted a woolen thread, smeared its end with honey, inserted a little of it into the hole, and placed it at the exit point for ants.
Vị ấy nói: “Đừng lo lắng, hãy mang mật ong đến.” Sau khi mật ong được mang đến, vị ấy bôi mật ong vào lỗ ở hai bên viên ngọc, cuộn một sợi chỉ len, bôi mật ong vào đầu sợi chỉ, rồi luồn một ít vào lỗ và đặt ở nơi kiến có thể ra vào.
Kipillikā madhugandhena nikkhamitvā maṇimhi purāṇasuttaṃ khādamānā gantvā kambalasuttakoṭiyaṃ ḍaṃsitvā kaḍḍhantā ekena passena nīhariṃsu.
The ants, emerging because of the smell of honey, went and chewed the old thread in the jewel, then bit the end of the woolen thread and, pulling it, drew it out through one side.
Những con kiến ngửi thấy mùi mật ong, bò ra, ăn sợi dây cũ trong viên ngọc, rồi bò đến cắn đầu sợi chỉ len và kéo nó ra từ một phía.
Paṇḍito pavesitabhāvaṃ ñatvā ‘‘rañño dethā’’ti gāmavāsīnaṃ adāsi.
The wise man, knowing it had been inserted, gave it to the villagers, saying, "Give it to the king."
Vị hiền trí biết rằng sợi dây đã được luồn vào, bèn giao lại cho dân làng và nói: “Hãy dâng lên đức vua.”
Te rañño pesayiṃsu.
They sent it to the king.
Họ đã gửi lên đức vua.
So pavesitaupāyaṃ sutvā tussi.
He was pleased upon hearing the method of insertion.
Đức vua nghe về cách thức luồn dây, rất hài lòng.
Vijāyananti athekadivasaṃ rañño maṅgalausabhaṃ bahū māse khādāpetvā mahodaraṃ katvā visāṇāni dhovitvā telena makkhetvā haliddiyā nhāpetvā gāmavāsīnaṃ pahiṇiṃsu ‘‘tumhe kira paṇḍitā, ayañca rañño maṅgalausabho patiṭṭhitagabbho, etaṃ vijāyāpetvā savacchakaṃ pesetha, apesentānaṃ sahassadaṇḍo’’ti.
Giving Birth: Then one day, after feeding the king's auspicious bull for many months, making it big-bellied, washing its horns, smearing them with oil, bathing it with turmeric, they sent it to the villagers with the message, "You are said to be wise. This is the king's auspicious bull, which is pregnant. Have it give birth and send it back with its calf. Those who fail to send it will incur a fine of a thousand."
Sinh nở Rồi một ngày nọ, đức vua đã cho con bò đực may mắn của mình ăn nhiều tháng, làm cho nó bụng to, rửa sừng, bôi dầu, tắm bằng nghệ, rồi gửi đến dân làng thông điệp: “Các ngươi được cho là những người hiền trí. Con bò đực may mắn này của đức vua đang mang thai, hãy làm cho nó sinh nở và gửi cả bò mẹ lẫn bò con đến. Những ai không gửi sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Gāmavāsino ‘‘na sakkā idaṃ kātuṃ, kiṃ nu kho karissāmā’’ti paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
The villagers asked the wise man, "We cannot do this. What shall we do?"
Những người dân làng nói: “Việc này không thể làm được, chúng ta phải làm gì đây?” bèn hỏi vị hiền trí.
So ‘‘iminā ekena pañhapaṭibhāgena bhavitabba’’nti cintetvā ‘‘sakkhissatha panekaṃ raññā saddhiṃ kathanasamatthaṃ visāradaṃ purisaṃ laddhu’’nti pucchi.
He thought, "This must be a riddle," and asked, "Can you find a confident man capable of speaking with the king?"
Vị ấy nghĩ: “Đây chắc hẳn là một câu đố,” rồi hỏi: “Các ngươi có thể tìm được một người đàn ông dạn dĩ, có khả năng đối thoại với đức vua không?”
‘‘Na garu etaṃ, paṇḍitā’’ti.
"That is not difficult, wise one," they replied.
“Điều đó không khó, thưa Ngài hiền trí.”
‘‘Tena hi naṃ pakkosathā’’ti.
"Then summon him," he said.
“Vậy thì hãy gọi anh ta đến.”
Te pakkosiṃsu.
They summoned him.
Họ đã gọi anh ta đến.
Atha naṃ mahāsatto ‘‘ehi, bho purisa, tvaṃ tava kese piṭṭhiyaṃ vikiritvā nānappakāraṃ balavaparidevaṃ paridevanto rājadvāraṃ gaccha, aññehi pucchitopi kiñci avatvāva parideva, raññā pana pakkosāpetvā paridevakāraṇaṃ pucchitova samāno ‘pitā me deva vijāyituṃ na sakkoti, ajja sattamo divaso, paṭisaraṇaṃ me hohi, vijāyanupāyamassa karohī’ti vatvā raññā ‘kiṃ vilapasi aṭṭhānametaṃ, purisā nāma vijāyantā natthī’ti vutte ‘sace deva, evaṃ natthi, atha kasmā pācīnayavamajjhakagāmavāsino kathaṃ maṅgalausabhaṃ vijāyāpessantī’ti vadeyyāsī’’ti āha.
Then the Great Being said to him, "Come, good man, scatter your hair over your back and go to the royal palace wailing various powerful laments. If others ask, say nothing, just lament. But when the king has you summoned and asks the reason for your lament, say, 'My father, O king, cannot give birth; today is the seventh day. Be my refuge, arrange for his delivery.' And when the king says, 'Why do you babble? This is impossible; men do not give birth,' you should say, 'If, O king, that is so, then how will the villagers of Pācīnayavamajjhaka make the auspicious bull give birth?'"
Rồi Đại Bồ Tát nói với anh ta: “Này anh bạn, hãy đi đến cổng hoàng cung, xõa tóc ra sau lưng, than khóc thảm thiết đủ kiểu. Khi người khác hỏi, đừng nói gì cả, chỉ than khóc. Khi đức vua sai gọi vào và hỏi lý do than khóc, hãy nói: ‘Thưa đức vua, cha con không thể sinh nở được, hôm nay là ngày thứ bảy rồi. Xin đức vua hãy là nơi nương tựa cho con, hãy tìm cách cho cha con sinh nở.’ Khi đức vua nói: ‘Ngươi than vãn cái gì vậy? Điều đó là vô lý, đàn ông không thể sinh nở được!’ thì hãy nói: ‘Thưa đức vua, nếu đúng là không thể như vậy, thì tại sao những người dân làng Pācīnayavamajjhaka lại phải làm cho con bò đực may mắn sinh nở?’”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tathā akāsi.
He agreed, saying, "Very well," and did so.
Anh ta nói: “Vâng,” và làm theo như vậy.
Rājā ‘‘kenidaṃ pañhapaṭibhāgaṃ cintita’’nti pucchitvā ‘‘mahosadhapaṇḍitenā’’ti sutvā tussi.
The king asked, "Who devised this riddle?" and was pleased upon hearing, "The wise Mahosadha."
Đức vua hỏi: “Ai đã nghĩ ra câu đố này?” Khi nghe nói “Vị hiền trí Mahosadha,” đức vua rất hài lòng.
Odananti aparasmiṃ divase ‘‘paṇḍitaṃ vīmaṃsissāmā’’ti ‘‘pācīnayavamajjhakagāmavāsino amhākaṃ aṭṭhaṅgasamannāgataṃ ambilodanaṃ pacitvā pesentu.
Rice Porridge: On another day, intending to test the wise man, they sent a message saying, "Let the villagers of Pācīnayavamajjhaka cook and send us sour rice porridge endowed with eight characteristics.
Cơm chua Một ngày khác, để thử thách vị hiền trí, họ gửi thông điệp: “Hỡi những người dân làng Pācīnayavamajjhaka, hãy nấu và gửi cho chúng tôi món cơm chua tám thành phần.
Tatrimāni aṭṭhaṅgāni – na taṇḍulehi, na udakena, na ukkhaliyā, na uddhanena, na agginā, na dārūhi, na itthiyā na purisena, na maggenāti.
These are the eight characteristics: not with rice, not with water, not in a pot, not on a hearth, not with fire, not with firewood, not by a woman, not by a man, and not by a road.
Tám thành phần đó là: không dùng gạo, không dùng nước, không dùng nồi, không dùng bếp lò, không dùng lửa, không dùng củi, không dùng phụ nữ, không dùng đàn ông, không đi đường lớn.”
Apesentānaṃ sahassadaṇḍo’’ti pahiṇiṃsu.
Those who fail to send it will incur a fine of a thousand."
Những ai không gửi sẽ bị phạt một ngàn đồng.
Gāmavāsino taṃ kāraṇaṃ ajānantā paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
The villagers, not knowing the reason, asked the wise man.
Những người dân làng không biết sự việc đó, bèn hỏi vị hiền trí.
So ‘‘mā cintayitthā’’ti vatvā ‘‘na taṇḍulehīti kaṇikaṃ gāhāpetvā, na udakenāti himaṃ gāhāpetvā, na ukkhaliyāti aññaṃ navamattikābhājanaṃ gāhāpetvā, na uddhanenāti khāṇuke koṭṭāpetvā, na aggināti pakatiaggiṃ pahāya araṇiaggiṃ gāhāpetvā, na dārūhīti paṇṇāni gāhāpetvā ambilodanaṃ pacāpetvā navabhājane pakkhipitvā lañchitvā, na itthiyā na purisenāti paṇḍakena ukkhipāpetvā, na maggenāti mahāmaggaṃ pahāya jaṅghamaggena rañño pesethā’’ti āha.
He said, "Do not worry," and then instructed: "For 'not with rice,' have them take broken rice; for 'not with water,' have them take snow; for 'not in a pot,' have them take another new clay vessel; for 'not on a hearth,' have them pound it on a tree stump; for 'not with fire,' abandoning ordinary fire, have them take fire from a fire-stick; for 'not with firewood,' have them take leaves; have them cook sour rice porridge, place it in a new vessel, seal it; for 'not by a woman, not by a man,' have a eunuch carry it; and for 'not by a road,' abandoning the main road, send it to the king by a foot-path."
Vị ấy nói: “Đừng lo lắng,” rồi nói: “Không dùng gạo, thì hãy lấy tấm. Không dùng nước, thì hãy lấy tuyết. Không dùng nồi, thì hãy lấy một cái bình đất sét mới khác. Không dùng bếp lò, thì hãy đập vào gốc cây. Không dùng lửa, thì hãy bỏ lửa thông thường mà lấy lửa từ cây araṇī. Không dùng củi, thì hãy lấy lá cây. Hãy nấu cơm chua, cho vào bình mới, niêm phong lại. Không dùng phụ nữ, không dùng đàn ông, thì hãy sai người hoạn khiêng đi. Không đi đường lớn, thì hãy bỏ đường lớn mà đi đường mòn đến dâng lên đức vua.”
Te tathā kariṃsu.
They did so.
Họ đã làm theo như vậy.
Rājā ‘‘kena panesa pañho ñāto’’ti pucchitvā ‘‘mahosadhapaṇḍitenā’’ti sutvā tussi.
The king asked, "Who knew this riddle?" and was pleased upon hearing, "The wise Mahosadha."
Đức vua hỏi: “Ai đã biết câu đố này?” Khi nghe nói “Vị hiền trí Mahosadha,” đức vua rất hài lòng.
Vālukanti aparasmiṃ divase paṇḍitassa vīmaṃsanatthaṃ gāmavāsīnaṃ pahiṇiṃsu ‘‘rājā dolāya kīḷitukāmo, rājakule purāṇayottaṃ chinnaṃ, ekaṃ vālukayottaṃ vaṭṭetvā pesentu, apesentānaṃ sahassadaṇḍo’’ti.
Regarding the sand-rope, on another day, to test the wise one, they sent word to the villagers: "The king wishes to play on a swing. The old rope in the royal palace is broken. Make and send a sand-rope. Those who do not send it will be fined a thousand."
Dây cát Một ngày khác, để thử thách vị hiền trí, họ gửi thông điệp đến dân làng: “Đức vua muốn chơi xích đu, sợi dây cũ trong hoàng cung đã đứt. Hãy xoắn một sợi dây cát và gửi đến. Những ai không gửi sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Te paṇḍitaṃ pucchiṃsu.
They asked the wise one.
Họ đã hỏi vị hiền trí.
Paṇḍito ‘‘imināpi pañhapaṭibhāgeneva bhavitabba’’nti gāmavāsino assāsetvā vacanakusale dve tayo purise pakkosāpetvā ‘‘gacchatha tumhe, rājānaṃ vadetha ‘deva, gāmavāsino tassa yottassa tanukaṃ vā thūlaṃ vā pamāṇaṃ na jānanti, purāṇavālukayottato vidatthimattaṃ vā caturaṅgulamattaṃ vā khaṇḍaṃ pesetha, taṃ oloketvā tena pamāṇena vaṭṭessantī’ti.
The wise one, reassuring the villagers that "this too must be a counter-question," summoned two or three eloquent men and said, "Go, and tell the king: 'Your Majesty, the villagers do not know the thinness or thickness of that rope. Please send a piece, a span or four finger-breadths, from an old sand-rope. After observing it, they will make one of that size.'"
Vị hiền trí nghĩ: “Đây cũng chắc hẳn là một câu đố,” trấn an dân làng, rồi sai gọi hai ba người khéo ăn nói đến và nói: “Các ngươi hãy đi nói với đức vua: ‘Thưa đức vua, những người dân làng không biết sợi dây đó nên làm to hay nhỏ. Xin đức vua hãy gửi một đoạn dây cát cũ dài một gang tay hoặc bốn ngón tay. Chúng tôi sẽ xem xét nó và xoắn dây theo kích thước đó.’”
Sace, vo rājā ‘amhākaṃ ghare vālukayottaṃ nāma na kadāci sutapubba’nti vadati, atha naṃ ‘sace, mahārāja, vo evarūpaṃ na sakkā kātuṃ, pācīnayavamajjhakagāmavāsino kathaṃ karissantī’ti vadeyyāthā’’ti pesesi.
"If the king tells you, 'A sand-rope has never been heard of in our house,' then you should say to him, 'If, Your Majesty, such a thing cannot be done by you, how will the villagers of Pācīnayavamajjhaka do it?'" Having said this, he sent them.
“Nếu đức vua nói: ‘Trong nhà chúng ta chưa bao giờ nghe nói có dây cát,’ thì các ngươi hãy nói: ‘Thưa Đại vương, nếu đức vua không thể làm được như vậy, thì những người dân làng Pācīnayavamajjhaka sẽ làm thế nào?’”
Te tathā kariṃsu.
They did as he instructed.
Họ đã làm theo như vậy.
Rājā ‘‘kena cintitaṃ pañhapaṭibhāga’’nti pucchitvā ‘‘mahosadhapaṇḍitenā’’ti sutvā tussi.
The king asked, "By whom was this counter-question conceived?" and was pleased when he heard, "By the wise Mahosadha."
Đức vua hỏi: “Ai đã nghĩ ra câu đố này?” Khi nghe nói “Vị hiền trí Mahosadha,” đức vua rất hài lòng.
Taḷākanti aparasmiṃ divase paṇḍitassa vīmaṃsanatthaṃ ‘‘rājā udakakīḷaṃ kīḷitukāmo, pañcavidhapadumasacchannaṃ pokkharaṇiṃ pesentu, apesentānaṃ sahassadaṇḍo’’ti gāmavāsīnaṃ pesayiṃsu.
Regarding the pond, on another day, to test the wise one, they sent word to the villagers: "The king wishes to play in the water. Send a pond covered with five kinds of lotuses. Those who do not send it will be fined a thousand."
Ao Một ngày khác, để thử thách vị hiền trí, họ gửi thông điệp đến dân làng: “Đức vua muốn chơi trò chơi dưới nước, hãy gửi một cái ao sen có năm loại hoa sen. Những ai không gửi sẽ bị phạt một ngàn đồng.”
Te paṇḍitassa ārocesuṃ.
They reported this to the wise one.
Họ đã báo cho vị hiền trí.
So ‘‘imināpi pañhapaṭibhāgeneva bhavitabba’’nti cintetvā vacanakusale katipaye manusse pakkosāpetvā ‘‘etha tumhe udakakīḷaṃ kīḷitvā akkhīni rattāni katvā allakesā allavatthā kaddamamakkhitasarīrā yottadaṇḍaleḍḍuhatthā rājadvāraṃ gantvā dvāre ṭhitabhāvaṃ rañño ārocāpetvā katokāsā pavisitvā ‘mahārāja, tumhehi kira pācīnayavamajjhakagāmavāsino pokkharaṇiṃ pesentūti pahitā mayaṃ tumhākaṃ anucchavikaṃ mahantaṃ pokkharaṇiṃ ādāya āgatā.
Thinking, "This too must be a counter-question," he reassured them, summoned several eloquent men, and said, "Go, and after playing in the water, with red eyes, wet hair, wet clothes, bodies smeared with mud, holding ropes, sticks, and clods of earth in your hands, go to the royal gate. Announce your presence at the gate to the king, and when granted permission, enter and say: 'Your Majesty, we, the villagers of Pācīnayavamajjhaka, were sent to bring a pond. We have brought a large pond suitable for you.
Vị ấy nghĩ: “Đây cũng chắc hẳn là một câu đố,” rồi sai gọi một vài người khéo ăn nói đến và nói: “Các ngươi hãy đi chơi trò chơi dưới nước, làm cho mắt đỏ hoe, tóc ướt, quần áo ướt, thân thể lấm bùn, tay cầm dây, gậy, đá, đến cổng hoàng cung, báo cho đức vua biết rằng các ngươi đang đứng ở cổng. Khi được phép vào, hãy nói: ‘Thưa Đại vương, đức vua đã sai những người dân làng Pācīnayavamajjhaka gửi một cái ao sen. Chúng tôi đã mang đến một cái ao lớn phù hợp với đức vua.
Sā pana araññavāsikattā nagaraṃ disvā dvārapākāraparikhāaṭṭālakādīni oloketvā bhītatasitā yottāni chinditvā palāyitvā araññameva paviṭṭhā, mayaṃ leḍḍudaṇḍādīhi pothentāpi nivattetuṃ na sakkhimhā, tumhākaṃ araññā ānītaṃ purāṇapokkharaṇiṃ pesetha, tāya saddhiṃ yojetvā harissāmā’ti vatvā raññāna kadāci mama araññato ānītapokkharaṇī nāma bhūtapubbā, na ca mayā kassaci yojetvā āharaṇatthāya pokkharaṇī pesitapubbā’ti vutte ‘sace, deva, vo evaṃ na sakkā kātuṃ, pācīnayavamajjhakagāmavāsino kathaṃ pokkharaṇiṃ pesessantī’ti vadeyyāthā’’ti vatvā pesesi.
However, being forest dwellers, upon seeing the city, and observing the gates, walls, moats, and watchtowers, it became frightened and terrified, broke its ropes, fled, and re-entered the forest. Even though we beat it with clods and sticks, we could not make it return. Please send an old pond brought from your forest, and we will attach it and bring it.' If the king says, 'Your Majesty, no pond has ever been brought from my forest, nor have I ever sent a pond to be attached and brought by anyone,' then you should say, 'If, Your Majesty, such a thing cannot be done by you, how will the villagers of Pācīnayavamajjhaka send a pond?'" Having said this, he sent them.
Nhưng vì nó quen sống trong rừng, khi nhìn thấy thành phố, nhìn thấy cổng thành, tường thành, hào nước, tháp canh, v.v., nó đã sợ hãi và kinh hoàng, cắt đứt dây thừng và bỏ trốn vào rừng. Chúng tôi đã dùng đá, gậy, v.v., đánh nó nhưng không thể làm nó quay lại. Xin đức vua hãy gửi cái ao cũ đã được mang từ rừng về, chúng tôi sẽ buộc nó lại và mang đi.’ Khi đức vua nói: ‘Chưa bao giờ có cái ao nào được mang từ rừng về cho ta, và ta cũng chưa bao giờ sai ai mang ao đi buộc lại,’ thì các ngươi hãy nói: ‘Thưa đức vua, nếu đức vua không thể làm được như vậy, thì những người dân làng Pācīnayavamajjhaka sẽ gửi ao bằng cách nào?’”
Te tathā kariṃsu.
They did as he instructed.
Họ đã làm theo như vậy.
Rājā paṇḍitena ñātabhāvaṃ sutvā tussi.
The king was pleased when he heard that it was known by the wise one.
Đức vua nghe nói vị hiền trí đã biết, rất hài lòng.
Uyyānanti punekadivasaṃ ‘‘mayaṃ uyyānakīḷaṃ kīḷitukāmā, amhākañca purāṇauyyānaṃ parijiṇṇaṃ, obhaggaṃ jātaṃ, pācīnayavamajjhakagāmavāsino supupphitataruṇarukkhasañchannaṃ navauyyānaṃ pesentū’’ti pahiṇiṃsu.
Regarding the pleasure garden, on yet another day, they sent word: "We wish to play in a pleasure garden. Our old garden is dilapidated and broken down. Let the villagers of Pācīnayavamajjhaka send a new pleasure garden covered with blossoming young trees."
Vườn Rồi một ngày khác, họ gửi thông điệp: “Chúng tôi muốn chơi trong vườn, và khu vườn cũ của chúng tôi đã hư hỏng, đổ nát. Hỡi những người dân làng Pācīnayavamajjhaka, hãy gửi một khu vườn mới với những cây non đang nở hoa rực rỡ.”
Gāmavāsino paṇḍitassa ārocesuṃ.
The villagers reported this to the wise one.
Những người dân làng đã báo cho vị hiền trí.
Paṇḍito ‘‘imināpi pañhapaṭibhāgeneva bhavitabba’’nti te samassāsetvā manusse pesetvā purimanayeneva kathāpesi.
The wise one, thinking, "This too must be a counter-question," reassured them and sent men to speak in the same manner as before.
Vị hiền giả an ủi họ rằng: “Đây ắt hẳn cũng là một phần của vấn đề,” rồi sai người đi và cho họ nói chuyện theo cách cũ.
Tadāpi rājā tussitvā senakaṃ pucchi ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti.
Then too, the king was pleased and asked Senaka, "Senaka, shall we bring the wise one?"
Khi đó, nhà vua lại hài lòng và hỏi Senaka: “Này Senaka, chúng ta có nên thỉnh vị hiền giả đến không?”
So lābhamacchariyena ‘‘ettakena paṇḍito nāma na hoti, āgametha, devā’’ti āha.
He, out of avarice for gain, said, "By so little, one is not called a wise one. Wait, Your Majesty."
Do lòng tham lam và keo kiệt, ông ta nói: “Với chừng đó thì không thể gọi là hiền giả được, xin bệ hạ hãy chờ đã.”
Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rājā cintesi ‘‘mahosadhapaṇḍito sattadārakapañhehi mama manaṃ gaṇhi, evarūpesupissa guyhapañhavissajjanesu ceva pañhapaṭibhāgesu ca buddhassa viya byākaraṇaṃ, senako evarūpaṃ paṇḍitaṃ ānetuṃ na deti, kiṃ me senakena, ānessāmi na’’nti.
Hearing his words, the king thought, "The wise Mahosadha has won my heart with the seven children's questions. And in such secret questions and counter-questions, his explanation is like that of a Buddha. Senaka does not want to bring such a wise one. What good is Senaka to me? I will bring him."
Nghe lời ấy, nhà vua nghĩ: “Hiền giả Mahosadha đã chiếm được lòng ta bằng những câu hỏi của bảy đứa trẻ, và trong việc giải đáp những câu hỏi bí ẩn cũng như những vấn đề khó khăn như thế, ông ấy có khả năng giải thích như một vị Phật. Senaka không cho thỉnh một vị hiền giả như vậy đến. Ta cần Senaka làm gì chứ? Ta sẽ thỉnh ông ấy đến.”
So mahantena parivārena taṃ gāmaṃ pāyāsi.
So, with a large retinue, he set out for that village.
Vậy là, với đoàn tùy tùng đông đảo, nhà vua khởi hành đến ngôi làng đó.
Tassa maṅgalaassaṃ abhiruhitvā gacchantassa assassa pādo phalitabhūmiyā antaraṃ pavisitvā bhijji.
As he was going, having mounted that auspicious horse, the horse's leg entered a crevice in the cracked ground and broke.
Khi nhà vua cưỡi con ngựa tốt lành đang đi, chân ngựa bị gãy do lọt vào khe nứt trên mặt đất.
Rājā tatova nivattitvā nagaraṃ pāvisi.
The king returned from there and entered the city.
Nhà vua quay về từ đó và đi vào thành phố.
Atha naṃ senako upasaṅkamitvā pucchi ‘‘mahārāja, paṇḍitaṃ kiṃ ānetuṃ pācīnayavamajjhakagāmaṃ agamitthā’’ti.
Then Senaka approached him and asked, "Great King, did you go to the village of Pācīnayavamajjhaka to bring the wise man?"
Khi đó, Senaka đến gần và hỏi nhà vua: “Đại vương, bệ hạ đã đi đến làng Pācīnayavamajjhaka để thỉnh vị hiền giả sao?”
‘‘Āma, paṇḍitā’’ti.
"Yes, wise one," he replied.
“Đúng vậy, hiền giả.”
‘‘Mahārāja, tumhe maṃ anatthakāmaṃ katvā passatha, ‘āgametha tāvā’ti vuttepi atituritā nikkhamittha, paṭhamagamaneneva maṅgalaassassa pādo bhinno’’ti.
"Great King, you regard me as one who wishes you ill. Even when I said, ‘Wait a moment,’ you departed too hastily. On your very first journey, the auspicious horse’s leg was broken."
“Đại vương, bệ hạ đã xem thường lời khuyên của thần, khi thần nói ‘xin hãy chờ đã’ mà bệ hạ lại vội vàng xuất phát, ngay chuyến đi đầu tiên chân của con ngựa tốt lành đã bị gãy.”
So tassa vacanaṃ sutvā tuṇhī hutvā punekadivasaṃ tena saddhiṃ mantesi ‘‘kiṃ, senaka, ānema paṇḍita’’nti.
Having heard his words, the king remained silent, and then on another day, he consulted with him, "Senaka, how shall we bring the wise man?"
Nghe lời ông ta nói, nhà vua im lặng, rồi một ngày nọ lại bàn bạc với ông ta: “Này Senaka, chúng ta có nên thỉnh vị hiền giả đến không?”
Deva, sayaṃ agantvā dūtaṃ pesetha ‘‘paṇḍita, amhākaṃ tava santikaṃ āgacchantānaṃ assassa pādo bhinno, assataraṃ vā no pesetu seṭṭhataraṃ vā’’ti.
"Sire, do not go yourself, but send a messenger, saying, ‘Wise one, the leg of the horse of those of us who came to you was broken. Please send us either a mule or a superior one.’"
“Bệ hạ, đừng tự mình đi, hãy sai sứ giả đến nói: ‘Này hiền giả, khi chúng tôi đến chỗ ngài, chân ngựa đã bị gãy. Xin ngài hãy gửi cho chúng tôi một con la hay một con ngựa tốt hơn.’”
‘‘Yadi assataraṃ pesessati, sayaṃ āgamissati.
"If he sends a mule, he will come himself.
“Nếu ngài ấy gửi một con la, thì ngài ấy sẽ tự mình đến.
Seṭṭhataraṃ pesento pitaraṃ pesessati, ayameko no pañho bhavissatī’’ti.
If he sends a superior one, he will send his father. This will be one of our questions."
Nếu ngài ấy gửi một con ngựa tốt hơn, thì ngài ấy sẽ gửi cha mình, đó sẽ là một vấn đề đối với chúng ta.”
Rājā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā tathā katvā dūtaṃ pesesi.
The king, saying "Good," agreed, and having done so, sent a messenger.
Nhà vua chấp thuận “Được rồi,” rồi làm theo và sai sứ giả đi.
Paṇḍito dūtassa vacanaṃ sutvā ‘‘rājā mamañceva pitarañca passitukāmo’’ti cintetvā pitu santikaṃ gantvā vanditvā ‘‘tāta, rājā tumhe ceva mamañca daṭṭhukāmo, tumhe paṭhamataraṃ seṭṭhisahassaparivutā gacchatha, gacchantā ca tucchahatthā agantvā navasappipūraṃ candanakaraṇḍakaṃ ādāya gacchatha.
The wise man, having heard the messenger's words, thought, "The king wishes to see both me and my father," and going to his father, he paid homage and said, "Father, the king wishes to see both you and me. You should go first, accompanied by a thousand merchants. And as you go, do not go empty-handed, but take a sandalwood casket full of fresh ghee.
Vị hiền giả nghe lời sứ giả nói, nghĩ rằng “Nhà vua muốn gặp cả ta và cha ta,” rồi đến chỗ cha mình, đảnh lễ và nói: “Cha ơi, nhà vua muốn gặp cả cha và con. Cha hãy đi trước, cùng với một ngàn vị trưởng giả tùy tùng, và khi đi đừng đi tay không, hãy mang theo một hộp gỗ đàn hương đầy bơ sữa mới.
Rājā tumhehi saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘gahapati patirūpaṃ āsanaṃ ñatvā nisīdāhī’ti vakkhati, atha tumhe tathārūpaṃ āsanaṃ ñatvā nisīdeyyātha.
The king will greet you and say, ‘Householder, knowing the appropriate seat, sit down.’ Then you should recognize such a seat and sit down.
Nhà vua sẽ chào hỏi cha và nói: ‘Gia chủ, hãy biết chỗ ngồi thích hợp và ngồi xuống.’ Khi đó, cha hãy biết chỗ ngồi thích hợp và ngồi xuống.
Tumhākaṃ nisinnakāle ahaṃ āgamissāmi, rājā mayāpi saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘paṇḍita, tavānurūpaṃ āsanaṃ ñatvā nisīdā’ti vakkhati, athāhaṃ tumhe olokessāmi, tumhe tāya saññāya āsanā vuṭṭhāya ‘tāta mahosadha, imasmiṃ āsane nisīdā’ti vadeyyātha, ajja no eko pañho matthakaṃ pāpuṇissatī’’ti āha.
When you are seated, I will come. The king will also greet me and say, ‘Wise one, knowing the seat appropriate for you, sit down.’ Then I will look at you, and you, understanding that sign, should rise from your seat and say, ‘Son Mahosadha, sit on this seat.’ Today, one of our questions will be concluded."
Khi cha đã ngồi, con sẽ đến. Nhà vua cũng sẽ chào hỏi con và nói: ‘Này hiền giả, hãy biết chỗ ngồi phù hợp với con và ngồi xuống.’ Khi đó con sẽ nhìn cha, và cha, hiểu được dấu hiệu đó, hãy đứng dậy khỏi chỗ ngồi và nói: ‘Này con Mahosadha, hãy ngồi xuống chỗ này.’ Hôm nay, một vấn đề của chúng ta sẽ được giải quyết.”
So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā vuttanayeneva gantvā attano dvāre ṭhitabhāvaṃ rañño ārocāpetvā ‘‘pavisatū’’ti vutte pavisitvā rājānaṃ vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
He, saying "Good," agreed and went as instructed. Having informed the king of his presence at the royal gate, and being told "Enter," he entered, paid homage to the king, and stood to one side.
Ông ấy chấp thuận “Được rồi,” rồi đi theo cách đã nói, báo cho nhà vua biết mình đang đứng trước cửa, và khi được nói “Hãy vào,” ông ấy vào, đảnh lễ nhà vua và đứng sang một bên.
Rājā tena saddhiṃ paṭisanthāraṃ katvā ‘‘gahapati, tavaputto mahosadhapaṇḍito kuhi’’nti pucchi.
The king, having greeted him, asked, "Householder, where is your son, the wise Mahosadha?"
Nhà vua chào hỏi ông ấy và hỏi: “Gia chủ, con trai của ngài, hiền giả Mahosadha, đang ở đâu?”
‘‘Pacchato āgacchati, devā’’ti.
"He is coming behind, Sire," he replied.
“Đang đến phía sau, bệ hạ.”
Rājā ‘‘pacchato āgacchatī’’ti sutvā tuṭṭhamānaso hutvā ‘‘mahāseṭṭhi attano yuttāsanaṃ ñatvā nisīdā’’ti āha.
The king, hearing "He is coming behind," was delighted and said, "Great merchant, knowing your appropriate seat, sit down."
Nghe “đang đến phía sau,” nhà vua vui mừng và nói: “Đại trưởng giả, hãy biết chỗ ngồi thích hợp của mình và ngồi xuống.”
So attano yuttāsanaṃ ñatvā ekamantaṃ nisīdi.
He, knowing his appropriate seat, sat to one side.
Ông ấy biết chỗ ngồi thích hợp của mình và ngồi sang một bên.
Mahāsattopi alaṅkatapaṭiyatto dārakasahassaparivuto alaṅkatarathe nisīditvā nagaraṃ pavisanto parikhāpiṭṭhe caramānaṃ ekaṃ gadrabhaṃ disvā thāmasampanne māṇave pesesi ‘‘ambho, etaṃ gadrabhaṃ anubandhitvā yathā saddaṃ na karoti, evamassa mukhabandhanaṃ katvā kilañjena veṭhetvā tasmiṃ ekenattharaṇena paṭicchādetvā aṃsenādāya āgacchathā’’ti.
The Great Being, adorned and prepared, accompanied by a thousand youths, mounted an adorned chariot and entered the city. Seeing a donkey walking on the moat's edge, he sent strong young men, saying, "Hey, follow this donkey, and so that it makes no sound, tie its mouth, wrap it in a mat, cover it with one rug, and carry it on your shoulders."
Đại Bồ Tát, đã trang điểm và chuẩn bị sẵn sàng, ngồi trên cỗ xe được trang hoàng lộng lẫy, cùng với một ngàn đứa trẻ tùy tùng, khi vào thành phố, thấy một con lừa đang đi trên bờ hào, liền sai các thanh niên khỏe mạnh đuổi theo con lừa đó, bịt miệng nó lại để nó không kêu, quấn nó trong một tấm chiếu, phủ lên bằng một tấm vải, rồi vác trên vai mang đến.
Te tathā kariṃsu.
They did so.
Họ đã làm như vậy.
Bodhisattopi mahantena parivārena nagaraṃ pāvisi.
The Bodhisatta also entered the city with a large retinue.
Bồ Tát cũng vào thành phố với đoàn tùy tùng đông đảo.
Mahājano ‘‘esa kira sirivaḍḍhanaseṭṭhino putto mahosadhapaṇḍito nāma, esa kira jāyamāno osadhaghaṭikaṃ hatthena gahetvā jāto, iminā kira ettakānaṃ vīmaṃsanapañhānaṃ pañhapaṭibhāgo ñāto’’ti mahāsattaṃ abhitthavanto olokentopi tittiṃ na gacchati.
The great multitude, praising the Great Being, saying, "This is indeed Sirivaḍḍhana the merchant's son, named the wise Mahosadha. It is said that he was born holding a medicine vial in his hand. It is said that by him, the answers to so many difficult questions have been known," could not get enough of looking at him.
Đại chúng tán thán Đại Bồ Tát rằng: “Đây chính là con trai của trưởng giả Sirivaḍḍhana, tên là hiền giả Mahosadha. Nghe nói khi sinh ra, ông ấy đã cầm một lọ thuốc trong tay. Nghe nói ông ấy đã biết cách giải đáp những vấn đề khó khăn như vậy,” và họ nhìn mãi không chán.
So rājadvāraṃ gantvā paṭivedesi.
He went to the royal gate and announced his arrival.
Ông ấy đến cửa cung điện và báo tin.
Rājā sutvāva haṭṭhatuṭṭho ‘‘mama putto mahosadhapaṇḍito khippaṃ āgacchatū’’ti āha.
The king, as soon as he heard, was overjoyed and said, "My son, the wise Mahosadha, let him come quickly!"
Nhà vua vừa nghe đã vui mừng khôn xiết và nói: “Con trai ta, hiền giả Mahosadha, hãy mau đến đây!”
So dārakasahassaparivuto pāsādaṃ abhiruhitvā rājānaṃ vanditvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
He, accompanied by a thousand youths, ascended the palace, paid homage to the king, and stood to one side.
Ông ấy cùng với một ngàn đứa trẻ tùy tùng lên cung điện, đảnh lễ nhà vua và đứng sang một bên.
Rājā taṃ disvāva somanassappatto hutvā madhurapaṭisanthāraṃ katvā ‘‘paṇḍita, patirūpaṃ āsanaṃ ñatvā nisīdā’’ti āha.
The king, seeing him, was filled with joy, and after a sweet greeting, said, "Wise one, knowing the appropriate seat, sit down."
Nhà vua vừa thấy ông ấy đã vui mừng, chào hỏi thân mật và nói: “Này hiền giả, hãy biết chỗ ngồi phù hợp và ngồi xuống.”
Atha so pitaraṃ olokesi.
Then he looked at his father.
Khi đó, ông ấy nhìn cha mình.
Athassa pitāpi olokitasaññāya uṭṭhāya ‘‘paṇḍita, imasmiṃ āsane nisīdā’’ti āha.
Then his father also rose with a sign of having been observed and said, "Wise one, sit on this seat."
Khi đó, cha ông ấy cũng hiểu được dấu hiệu nhìn đó, đứng dậy và nói: “Này hiền giả, hãy ngồi xuống chỗ này.”
So tasmiṃ āsane nisīdi.
He sat on that seat.
Ông ấy ngồi xuống chỗ đó.
Taṃ tattha nisinnaṃ disvāva senakapukkusakāmindadevindā ceva aññe ca andhabālā pāṇiṃ paharitvā mahāhasitaṃ hasitvā ‘‘imaṃ andhabālaṃ ‘paṇḍito’ti vadiṃsu, so pitaraṃ āsanā vuṭṭhāpetvā sayaṃ nisīdati, imaṃ ‘paṇḍito’ti vattuṃ ayutta’’nti parihāsaṃ kariṃsu.
Seeing him seated there, Senaka, Pukkusaka, Kāminda, Devinda, and other foolish ones clapped their hands, laughed loudly, and ridiculed him, saying, "They called this foolish one 'wise,' and he makes his father rise from his seat and sits down himself. It is improper to call him 'wise'."
Vừa thấy ông ấy ngồi xuống đó, Senaka, Pukkusa, Kāminda, Devinda và những kẻ ngu dốt khác vỗ tay cười lớn và nói: “Họ gọi kẻ ngu dốt này là ‘hiền giả,’ hắn lại bắt cha mình đứng dậy khỏi chỗ ngồi để mình ngồi xuống. Gọi kẻ này là ‘hiền giả’ thật không đúng,” và họ chế nhạo.
Rājāpi dummukho anattamano ahosi.
The king too was displeased and unhappy.
Nhà vua cũng buồn bã và không vui.
Atha naṃ mahāsatto pucchi ‘‘kiṃ, mahārāja, dummukhatthā’’ti?
Then the Great Being asked him, "Why are you displeased, great king?"
Khi đó, Đại Bồ Tát hỏi nhà vua: “Đại vương, sao bệ hạ lại buồn bã?”
‘‘Āma paṇḍita, dummukhomhi, savanameva te manāpaṃ, dassanaṃ pana amanāpaṃ jāta’’nti.
"Yes, wise one, I am displeased; your words are pleasing, but your sight has become unpleasing."
“Đúng vậy, hiền giả, ta đang buồn bã. Nghe nói về con thì ta vui, nhưng nhìn thấy con thì lại không vui.”
‘‘Kiṃ kāraṇā, mahārājā’’ti?
"For what reason, great king?"
“Vì lý do gì, Đại vương?”
‘‘Pitaraṃ āsanā vuṭṭhāpetvā nisinnattā’’ti.
"Because you made your father rise from his seat and sat down."
“Vì con đã bắt cha mình đứng dậy khỏi chỗ ngồi để ngồi xuống.”
‘‘Kiṃ pana tvaṃ, mahārāja, ‘sabbaṭṭhānesu puttehi pitarova uttamā’ti maññasī’’ti.
"But, great king, do you think that 'fathers are superior to sons in all respects'?"
“Nhưng, Đại vương, bệ hạ có nghĩ rằng ‘ở mọi nơi, cha mẹ đều cao quý hơn con cái’ không?”
‘‘Āma, paṇḍitā’’ti.
"Yes, wise one," he said.
“Đúng vậy, hiền giả.”
Atha mahāsatto ‘‘nanu, mahārāja, tumhehi amhākaṃ ‘assataraṃ vā pesetu seṭṭhataraṃ vā’ti sāsanaṃ pahita’’nti vatvā āsanā vuṭṭhāya te māṇave oloketvā ‘‘tumhehi gahitaṃ gadrabhaṃ ānethā’’ti āṇāpetvā rañño pādamūle nipajjāpetvā ‘‘mahārāja, ayaṃ gadrabho kiṃ agghatī’’ti pucchi.
Then the Great Being said, "Great king, didn't you send a message saying, 'Send either a mule or a superior one'?" Having said that, he rose from his seat, looked at those young men, and commanded, "Bring the donkey you caught." He made it lie down at the king's feet and asked, "Great king, what is this donkey worth?"
Khi đó, Đại Bồ Tát nói: “Đại vương, chẳng phải bệ hạ đã gửi sứ đi cho chúng tôi rằng ‘hãy gửi một con la hay một con ngựa tốt hơn’ sao?” rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nhìn các thanh niên và ra lệnh: “Hãy mang con lừa mà các ngươi đã bắt đến!” rồi đặt nó nằm dưới chân nhà vua và hỏi: “Đại vương, con lừa này trị giá bao nhiêu?”
‘‘Paṇḍita, sace upakārako, aṭṭha kahāpaṇe agghatī’’ti.
"Wise one, if it is useful, it is worth eight kahāpaṇas."
“Này hiền giả, nếu nó hữu dụng, thì trị giá tám đồng kahāpaṇa.”
‘‘Imaṃ paṭicca jāto ājānīyavaḷavāya kucchimhi vuṭṭhaassataro kiṃ agghatī’’ti?
"What is a mule born from this, conceived in the womb of a thoroughbred mare, worth?"
“Một con la được sinh ra từ bụng của một con ngựa cái quý tộc do con lừa này mà ra thì trị giá bao nhiêu?”
‘‘Anaggho paṇḍitā’’ti.
"It is priceless, wise one," he said.
“Vô giá, hiền giả.”
‘‘Deva, kasmā evaṃ kathetha, nanu tumhehi idāneva vuttaṃ ‘sabbaṭṭhānesu puttehi pitarova uttamā’ti.
"Deva, why do you speak thus? Didn't you just say, 'fathers are superior to sons in all respects'? If that is true, then according to your statement, the donkey would be superior to the mule. But, great king, why do your wise men, unable to understand even this much, clap their hands and laugh? Oh, what wisdom your wise men possess! Where did you get them?" Thus ridiculing the four wise men, he addressed the king with this verse from the Ekakanipāta:
“Bệ hạ, sao bệ hạ lại nói như vậy? Chẳng phải bệ hạ vừa nói ‘ở mọi nơi, cha mẹ đều cao quý hơn con cái’ sao?
Sace taṃ saccaṃ, tumhākaṃ vāde assatarato gadrabhova uttamo hoti, kiṃ pana, mahārāja, tumhākaṃ paṇḍitā ettakampi jānituṃ asakkontā pāṇiṃ paharitvā hasanti, aho tumhākaṃ paṇḍitānaṃ paññāsampatti, kuto vo ete laddhā’’ti cattāro paṇḍite parihasitvā rājānaṃ imāya ekakanipāte gāthāya ajjhabhāsi –
If that is true, then in your doctrine, a donkey is superior to a mule. Why then, great king, do your wise men, unable to understand even this much, strike their palms and laugh? Oh, the wisdom of your wise men! Where did you get them?” Thus, having ridiculed the four wise men, he addressed the king with this verse from the Ekakanipāta –
Nếu điều đó là thật, thì theo lời bệ hạ, con lừa còn cao quý hơn con la. Nhưng, Đại vương, các vị hiền giả của bệ hạ không thể biết được điều đơn giản này mà lại vỗ tay cười. Ôi, trí tuệ của các vị hiền giả của bệ hạ! Bệ hạ đã tìm được họ ở đâu vậy?” Sau khi chế nhạo bốn vị hiền giả, Đại Bồ Tát nói với nhà vua bằng bài kệ trong Ekakanipāta này:
Evañca pana vatvā mahāsatto āha – ‘‘mahārāja, sace puttato pitā seyyo, mama pitaraṃ gaṇhatha.
Having said this, the Great Being said, "Great king, if the father is superior to the son, take my father.
Sau khi nói như vậy, Đại Bồ Tát nói: “Đại vương, nếu cha cao quý hơn con, hãy giữ cha tôi.
Sace pitito putto seyyo, maṃ gaṇhatha tumhākaṃ atthāyā’’ti.
If the son is superior to the father, take me for your benefit."
Nếu con cao quý hơn cha, hãy giữ tôi cho mục đích của bệ hạ.”
Rājā somanassappatto ahosi.
The king was delighted.
Nhà vua vui mừng khôn xiết.
Sabbā rājaparisāpi ‘‘sukathito paṇḍitena pañho’’ti unnadantā sādhukārasahassāni adaṃsu, aṅguliphoṭā ceva celukkhepā ca pavattiṃsu.
All the royal assembly also shouted, "The problem has been well-explained by the wise one!" and gave thousands of acclamations; finger snaps and waving of clothes occurred.
Toàn thể hội đồng hoàng gia cũng hô vang “Vị hiền giả đã giải quyết vấn đề thật khéo léo!” và vỗ tay tán thưởng hàng ngàn lần, tiếng búng ngón tay và vẫy khăn áo vang lên.
Cattāro paṇḍitāpi dummukhā pajjhāyantāva ahesuṃ.
The four wise men remained displeased and brooding.
Bốn vị hiền giả thì buồn bã và chìm trong suy tư.
Nanu mātāpitūnaṃ guṇaṃ jānanto bodhisattena sadiso nāma natthi, atha so kasmā evamakāsīti?
Is there no one like the Bodhisatta who knows the virtues of parents, then why did he act thus?
Chẳng phải không có ai sánh bằng Bồ Tát trong việc hiểu biết công đức của cha mẹ sao? Vậy tại sao ông ấy lại làm như vậy?
Na so pitu avamānanatthāya, raññā pana ‘‘assataraṃ vā pesetu seṭṭhataraṃ vā’’ti pesitaṃ, tasmā tasseva pañhassa āvibhāvatthaṃ attano ca paṇḍitabhāvassa ñāpanatthaṃ catunnañca paṇḍitānaṃ appaṭibhānakaraṇatthaṃ evamakāsīti.
He did not do it to disrespect his father. But the king had sent word, "Send either a mule or a superior one." Therefore, to reveal that very problem, and to make known his own wisdom, and to render the four wise men speechless, he did so.
Ngài làm vậy không phải để khinh thường cha, mà vì nhà vua đã sai người đến nói: “Hãy cử một người kém hơn hoặc một người giỏi hơn,” cho nên để làm sáng tỏ vấn đề đó, để cho thấy sự thông thái của mình, và để làm cho bốn vị học giả kia không thể ứng đối.