Table of Contents

Aṭṭhakanipātapāḷi

Edit
4

1. Paṭhamapaṇṇāsakaṃ

1. The First Fifty

1. Phần Thứ Nhất

5

1. Mettāvaggo

1. The Chapter on Loving-kindness

1. Phẩm Từ Bi

6
1. Mettāsuttaṃ
1. The Discourse on Loving-kindness
1. Kinh Từ Bi
7
1. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
1. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, at Jetavana, Anāthapiṇḍika’s Park.
1. Tôi nghe như vầy – một thời Đức Thế Tôn đang trú tại Sāvatthī, trong khu vườn Jetavana của ông Anāthapiṇḍika.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti.
There the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: “Bhikkhus.”
Tại đó, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu.”
‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
“Venerable sir,” those bhikkhus replied to the Blessed One.
“Bạch Ngài,” các Tỳ-khưu ấy vâng lời Đức Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca –
The Blessed One spoke thus:
Đức Thế Tôn nói như sau –
8
* ‘‘Mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya aṭṭhānisaṃsā pāṭikaṅkhā.
“Bhikkhus, when the cetovimutti of mettā is cultivated, developed, frequently practiced, made a vehicle, made a basis, established, consolidated, and properly undertaken, eight benefits are to be expected.
“Này các Tỳ-khưu, khi tâm giải thoát từ bi (mettā-cetovimutti) được thực hành, được phát triển, được làm cho sung mãn, được làm thành cỗ xe, được làm thành căn cứ, được kiên trì, được quen thuộc, được khởi sự tốt đẹp, thì tám lợi ích được mong đợi.
Katame aṭṭha?
What are these eight?
Tám điều nào?
Sukhaṃ supati, sukhaṃ paṭibujjhati, na pāpakaṃ supinaṃ passati, manussānaṃ piyo hoti, amanussānaṃ piyo hoti, devatā rakkhanti, nāssa aggi vā visaṃ vā satthaṃ vā kamati, uttariṃ appaṭivijjhanto brahmalokūpago hoti.
One sleeps happily, wakes happily, does not see bad dreams, is dear to human beings, is dear to non-human beings, devas protect one, fire, poison, or weapons do not affect one, and if one does not penetrate to a higher attainment, one is reborn in the Brahma-world.
Người ấy ngủ an lành, thức dậy an lành, không thấy ác mộng, được loài người yêu mến, được phi nhân yêu mến, chư thiên bảo hộ, lửa, thuốc độc hoặc vũ khí không thể làm hại người ấy, và nếu không chứng đắc quả vị cao hơn, người ấy sẽ sanh về cõi Phạm thiên.
Mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya ime aṭṭhānisaṃsā pāṭikaṅkhā’’ti.
Bhikkhus, when the cetovimutti of mettā is cultivated, developed, frequently practiced, made a vehicle, made a basis, established, consolidated, and properly undertaken, these eight benefits are to be expected.”
Này các Tỳ-khưu, khi tâm giải thoát từ bi được thực hành, được phát triển, được làm cho sung mãn, được làm thành cỗ xe, được làm thành căn cứ, được kiên trì, được quen thuộc, được khởi sự tốt đẹp, thì tám lợi ích này được mong đợi.”
9
‘‘Yo ca mettaṃ bhāvayati, appamāṇaṃ paṭissato* ;
“One who cultivates mettā, limitless and mindful,
“Ai tu tập tâm từ, không giới hạn, với tâm niệm tỉnh giác;
10
Tanū saṃyojanā honti, passato upadhikkhayaṃ.
Having seen the destruction of defilements, his fetters become attenuated.
Các kiết sử của người ấy trở nên yếu ớt, khi thấy sự đoạn diệt của các uẩn chấp.
11
‘‘Ekampi ce pāṇamaduṭṭhacitto,
“If one, with a mind free from ill-will,
Nếu một người với tâm không sân hận,
12
Mettāyati kusalī tena hoti;
Cultivates mettā towards even a single living being, one becomes skilled thereby;
Tu tập tâm từ, người ấy trở thành người có nhiều thiện nghiệp;
13
Sabbe ca pāṇe manasānukampī,
One who feels compassion in mind for all living beings,
Và với tâm thương xót tất cả chúng sanh,
14
Pahūtamariyo pakaroti puññaṃ.
Performs abundant noble merit.
Vị Thánh nhân ấy tạo ra vô lượng phước đức.
15
‘‘Ye sattasaṇḍaṃ pathaviṃ vijetvā,
“Those royal sages who, having conquered the whole earth inhabited by beings,
Những vị vua hiền đức đã chinh phục bảy vùng đất,
16
Rājisayo yajamānā anupariyagā;
Performed sacrifices and wandered about;
Đã thực hiện các lễ tế và đi khắp nơi;
17
Assamedhaṃ purisamedhaṃ,
The horse sacrifice, the human sacrifice,
Lễ tế ngựa (Assamedha), lễ tế người (Purisamedha),
18
Sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷaṃ.
The sammāpāsa, the vājapeyya, the niraggaḷa.
Lễ tế Sammapāsa, lễ tế Vajapeyya, lễ tế Niraggaḷa.
19
‘‘Mettassa cittassa subhāvitassa,
“Compared to a mind of mettā, well-developed,
So với tâm từ được tu tập tốt đẹp,
20
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
They do not partake of even a sixteenth part;
Tất cả những lễ tế ấy không đáng một phần mười sáu;
21
Candappabhā tāragaṇāva sabbe,
Just as all the stars do not equal the moon’s radiance,
Như ánh trăng và tất cả các vì sao,
22
Yathā na agghanti kalampi soḷasiṃ* .
They do not equal even a sixteenth part.
Không đáng một phần mười sáu.
23
‘‘Yo na hanti na ghāteti, na jināti na jāpaye;
“One who neither harms nor causes to harm, neither conquers nor causes to conquer;
Ai không hại, không giết, không chiến thắng, không làm cho tiêu diệt;
24
Mettaṃso sabbabhūtānaṃ, veraṃ tassa na kenacī’’ti.
Having a share of mettā for all beings, he has no enmity with anyone.”
Với tâm từ đối với tất cả chúng sanh, người ấy không có oán thù với ai.”
paṭhamaṃ;
The First;
Kinh thứ nhất;
25
2. Paññāsuttaṃ
2. The Discourse on Wisdom
2. Kinh Trí Tuệ
26
2. ‘‘Aṭṭhime, bhikkhave, hetū aṭṭha paccayā ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattanti.
2. “Bhikkhus, there are these eight reasons, eight conditions for the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if not yet acquired; and for its increase, growth, development, and perfection, if already acquired.
2. “Này các Tỳ-khưu, có tám nguyên nhân, tám điều kiện này để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh (ādibrahmacariyika paññā) chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
Katame aṭṭha?
What are the eight?
Tám điều nào?
Idha, bhikkhave, bhikkhu satthāraṃ upanissāya viharati aññataraṃ vā garuṭṭhāniyaṃ sabrahmacāriṃ, yatthassa tibbaṃ hirottappaṃ paccupaṭṭhitaṃ hoti pemañca gāravo ca.
Here, bhikkhus, a bhikkhu dwells relying on the Teacher, or on some venerable fellow-celibate, towards whom he has intense shame and fear of wrongdoing, and also affection and reverence.
Này các Tỳ-khưu, ở đây, một Tỳ-khưu sống nương tựa vào Đức Bổn Sư hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng kính, nơi mà sự hổ thẹn và ghê sợ (hirottappa) mãnh liệt, cùng với tình yêu mến và lòng tôn kính, hiện hữu nơi người ấy.
Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo hetu paṭhamo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the first reason, the first condition for the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if not yet acquired; and for its increase, growth, development, and perfection, if already acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ nhất, điều kiện thứ nhất để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
27
‘‘So taṃ satthāraṃ upanissāya viharanto aññataraṃ vā garuṭṭhāniyaṃ sabrahmacāriṃ, yatthassa tibbaṃ hirottappaṃ paccupaṭṭhitaṃ hoti pemaṃ gāravo ca, te kālena kālaṃ upasaṅkamitvā paripucchati paripañhati – ‘idaṃ, bhante, kathaṃ; imassa ko attho’ti?
“Dwelling relying on that Teacher, or on some venerable fellow-celibate, towards whom he has intense shame and fear of wrongdoing, and also affection and reverence, he approaches them from time to time and questions them, asking: ‘Venerable sir, how is this? What is the meaning of this?’
Người ấy, khi sống nương tựa vào Đức Bổn Sư hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng kính, nơi mà sự hổ thẹn và ghê sợ mãnh liệt, cùng với tình yêu mến và lòng tôn kính, hiện hữu nơi người ấy, thì thỉnh thoảng đến gần và hỏi han, thưa hỏi: “Bạch Ngài, điều này là như thế nào? Ý nghĩa của điều này là gì?”
Tassa te āyasmanto avivaṭañceva vivaranti, anuttānīkatañca uttānī karonti, anekavihitesu ca kaṅkhāṭhāniyesu dhammesu kaṅkhaṃ paṭivinodenti.
Those venerable ones then reveal what has not been revealed, make plain what has not been made plain, and dispel his doubts about various doubtful points of Dhamma.
Các Tôn giả ấy bèn mở ra những điều chưa được mở, làm cho sáng tỏ những điều chưa được sáng tỏ, và giải tỏa những nghi ngờ về các pháp có thể gây nghi ngờ theo nhiều cách khác nhau cho người ấy.
Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo hetu dutiyo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the second reason, the second condition for the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if not yet acquired; and for its increase, growth, development, and perfection, if already acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ hai, điều kiện thứ hai để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
28
‘‘So taṃ dhammaṃ sutvā dvayena vūpakāsena sampādeti – kāyavūpakāsena ca cittavūpakāsena ca.
“Having heard that Dhamma, he perfects himself in two kinds of seclusion: seclusion of body and seclusion of mind.
Người ấy, sau khi nghe pháp ấy, tự hoàn thiện mình bằng hai sự ly viễn: ly viễn thân và ly viễn tâm.
Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo hetu tatiyo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the third reason, the third condition for the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if not yet acquired; and for its increase, growth, development, and perfection, if already acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ ba, điều kiện thứ ba để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
29
‘‘Sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.
He is virtuous, dwells restrained by the Pātimokkha restraint, is complete in conduct and resort, sees danger in the slightest faults, and undertakes and trains in the training rules.
Người ấy có giới hạnh, sống với sự phòng hộ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ oai nghi và phạm vi hành động, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, và thọ trì học giới.
Ayaṃ, bhikkhave, catuttho hetu catuttho paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the fourth cause, the fourth condition, that conduces to the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if it has not yet been acquired; and for its increase, growth, development, and fulfillment, if it has been acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ tư, điều kiện thứ tư để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
30
‘‘Bahussuto hoti sutadharo sutasannicayo.
He is learned, a preserver of what he has heard, a collector of what he has heard.
Người ấy là bậc đa văn, thọ trì những điều đã nghe, tích lũy những điều đã nghe.
Ye te dhammā ādikalyāṇā majjhekalyāṇā pariyosānakalyāṇā sātthaṃ sabyañjanaṃ* kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ abhivadanti, tathārūpāssa dhammā bahussutā honti dhātā* vacasā paricitā manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā.
Those teachings that declare the holy life to be good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and with letter, entirely perfect and pure—such teachings are much heard by him, retained, recited verbally, contemplated mentally, and well penetrated by understanding.
Những pháp nào là thiện ở phần đầu, thiện ở phần giữa, thiện ở phần cuối, tuyên bố phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh, có nghĩa và có văn, những pháp như vậy người ấy đã nghe nhiều, đã ghi nhớ, đã quen thuộc bằng lời nói, đã quán sát bằng tâm, đã thấu hiểu bằng chánh kiến.
Ayaṃ, bhikkhave, pañcamo hetu pañcamo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the fifth cause, the fifth condition, that conduces to the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if it has not yet been acquired; and for its increase, growth, development, and fulfillment, if it has been acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ năm, điều kiện thứ năm để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
31
‘‘Āraddhavīriyo viharati akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya, kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu.
He dwells with aroused energy for the abandoning of unwholesome states and for the acquisition of wholesome states; he is strong, firm in effort, not laying aside the burden in wholesome states.
Người ấy sống với tinh tấn kiên trì để đoạn trừ các pháp bất thiện, để thành tựu các pháp thiện, có sức mạnh, có nỗ lực kiên cố, không bỏ gánh nặng trong các pháp thiện.
Ayaṃ, bhikkhave, chaṭṭho hetu chaṭṭho paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the sixth cause, the sixth condition, that conduces to the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if it has not yet been acquired; and for its increase, growth, development, and fulfillment, if it has been acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ sáu, điều kiện thứ sáu để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
32
‘‘Saṅghagato kho pana anānākathiko hoti atiracchānakathiko.
When he goes to the Saṅgha, he does not engage in various kinds of talk or worldly talk.
Khi đến hội chúng Tăng-già, người ấy không nói những chuyện tạp nham, không nói những chuyện tầm thường.
Sāmaṃ vā dhammaṃ bhāsati paraṃ vā ajjhesati ariyaṃ vā tuṇhībhāvaṃ nātimaññati.
He either speaks Dhamma himself, or requests another to speak, or he does not disparage the noble silence.
Người ấy hoặc tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh cầu người khác thuyết pháp, hoặc không xem thường sự im lặng cao quý (ariya tuṇhībhāva).
Ayaṃ, bhikkhave, sattamo hetu sattamo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the seventh cause, the seventh condition, that conduces to the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if it has not yet been acquired; and for its increase, growth, development, and fulfillment, if it has been acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ bảy, điều kiện thứ bảy để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
33
‘‘Pañcasu kho pana upādānakkhandhesu udayabbayānupassī viharati – ‘iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo; iti vedanā, iti vedanāya samudayo, iti vedanāya atthaṅgamo; iti saññā…pe… iti saṅkhārā…pe… iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamo’ti.
He dwells contemplating the rise and fall in the five aggregates of clinging: ‘Such is form, such is the origin of form, such is the cessation of form; such is feeling, such is the origin of feeling, such is the cessation of feeling; such is perception… such are volitional formations… such is consciousness, such is the origin of consciousness, such is the cessation of consciousness.’
Người ấy sống quán sát sự sanh diệt trong năm uẩn chấp thủ – ‘Đây là sắc, đây là sự sanh khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc; đây là thọ, đây là sự sanh khởi của thọ, đây là sự diệt tận của thọ; đây là tưởng… (tương tự)… đây là hành… (tương tự)… đây là thức, đây là sự sanh khởi của thức, đây là sự diệt tận của thức’.
Ayaṃ, bhikkhave, aṭṭhamo hetu aṭṭhamo paccayo ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattati.
This, bhikkhus, is the eighth cause, the eighth condition, that conduces to the acquisition of wisdom pertaining to the beginning of the holy life, if it has not yet been acquired; and for its increase, growth, development, and fulfillment, if it has been acquired.
Này các Tỳ-khưu, đây là nguyên nhân thứ tám, điều kiện thứ tám để chứng đắc trí tuệ sơ khởi của phạm hạnh chưa được chứng đắc, để phát triển thêm, để mở rộng, để tu tập, để viên mãn trí tuệ đã chứng đắc.
34
‘‘Tamenaṃ sabrahmacārī evaṃ sambhāventi – ‘ayaṃ kho āyasmā satthāraṃ upanissāya viharati aññataraṃ vā garuṭṭhāniyaṃ sabrahmacāriṃ, yatthassa tibbaṃ hirottappaṃ paccupaṭṭhitaṃ hoti pemañca gāravo ca.
His companions in the holy life commend him thus: ‘This venerable one lives dependent on the Teacher, or on some venerable companion in the holy life, in whom he has intense shame and dread, and affection and respect.
Các vị đồng phạm hạnh của người ấy ca ngợi như vầy: ‘Vị Tôn giả này sống nương tựa vào Đức Bổn Sư hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng kính, nơi mà sự hổ thẹn và ghê sợ mãnh liệt, cùng với tình yêu mến và lòng tôn kính, hiện hữu nơi người ấy.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Indeed, this venerable one knows what is to be known, sees what is to be seen!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya* bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This state, too, conduces to being loved, to being respected, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
35
‘‘‘Taṃ kho panāyamāyasmā satthāraṃ upanissāya viharanto aññataraṃ vā garuṭṭhāniyaṃ sabrahmacāriṃ, yatthassa tibbaṃ hirottappaṃ paccupaṭṭhitaṃ hoti pemañca gāravo ca, te kālena kālaṃ upasaṅkamitvā paripucchati paripañhati – idaṃ, bhante, kathaṃ; imassa ko atthoti?
‘This venerable one, living dependent on the Teacher, or on some venerable companion in the holy life, in whom he has intense shame and dread, and affection and respect, approaches them from time to time and questions and inquires: “Venerable sir, how is this? What is the meaning of this?”
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này nương tựa vị Đạo sư hoặc một vị đồng Phạm hạnh đáng tôn kính nào đó, nơi mà vị ấy có sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi mãnh liệt, có tình yêu thương và sự tôn kính, vị ấy đến hỏi han, thưa thỉnh các vị ấy đúng lúc – “Bạch Ngài, điều này là gì? Ý nghĩa của điều này là gì?”
Tassa te āyasmanto avivaṭañceva vivaranti, anuttānīkatañca uttānī karonti, anekavihitesu ca kaṅkhāṭhāniyesu dhammesu kaṅkhaṃ paṭivinodenti.
Then those venerable ones reveal what is unrevealed to him, make clear what is unclear, and resolve his doubts regarding various states of uncertainty.
Các Tôn giả ấy bèn mở bày điều chưa được mở bày, làm cho rõ ràng điều chưa được làm cho rõ ràng, và giải tỏa sự nghi ngờ trong các pháp đáng nghi ngờ bằng nhiều cách khác nhau.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Indeed, this venerable one knows what is to be known, sees what is to be seen!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This state, too, conduces to being loved, to being respected, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
36
‘‘‘Taṃ kho panāyamāyasmā dhammaṃ sutvā dvayena vūpakāsena sampādeti – kāyavūpakāsena ca cittavūpakāsena ca.
‘This venerable one, having heard the Dhamma, perfects himself in two kinds of seclusion: seclusion of body and seclusion of mind.
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này sau khi nghe pháp, thực hành hai loại viễn ly – viễn ly thân và viễn ly tâm.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Indeed, this venerable one knows what is to be known, sees what is to be seen!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
37
‘‘‘Sīlavā kho panāyamāyasmā pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.
“‘This venerable one is indeed virtuous, dwells restrained by the Pātimokkha restraint, endowed with good conduct and resort, seeing danger in the slightest faults, and undertakes and trains in the training rules.
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này giữ giới, sống chế ngự trong sự phòng hộ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ oai nghi và phạm hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Surely this venerable one knows what he knows and sees what he sees!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
38
‘‘‘Bahussuto kho panāyamāyasmā sutadharo sutasannicayo.
“‘This venerable one is indeed learned, a holder of the Suttas, a collector of the Suttas.
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này là bậc đa văn, thọ trì những điều đã nghe, tích lũy những điều đã nghe.
Ye te dhammā ādikalyāṇā majjhekalyāṇā pariyosānakalyāṇā sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ abhivadanti, tathārūpāssa dhammā bahussutā honti dhātā vacasā paricitā manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā.
Those teachings that are good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and with phrasing, proclaiming the entirely complete and purified holy life—such teachings are much heard by him, held, recited by word, contemplated by mind, and well-penetrated by understanding.
Những pháp nào tốt đẹp ở đoạn đầu, tốt đẹp ở đoạn giữa, tốt đẹp ở đoạn cuối, có nghĩa lý, có văn tự, tuyên bố đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, những pháp như vậy vị ấy đã nghe nhiều, đã thọ trì bằng lời nói, đã quen thuộc bằng tâm ý, đã thấu hiểu sâu sắc bằng chánh kiến.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Surely this venerable one knows what he knows and sees what he sees!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
39
‘‘‘Āraddhavīriyo kho panāyamāyasmā viharati akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya, kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu.
“‘This venerable one dwells with aroused energy for the abandoning of unwholesome states, for the acquisition of wholesome states, steadfast, firm in exertion, not laying down the burden in wholesome states.
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này tinh tấn, siêng năng để đoạn trừ các pháp bất thiện, để thành tựu các pháp thiện, có sức mạnh, có sự nỗ lực kiên cố, không từ bỏ gánh nặng trong các pháp thiện.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Surely this venerable one knows what he knows and sees what he sees!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
40
‘‘‘Saṅghagato kho panāyamāyasmā anānākathiko hoti atiracchānakathiko.
“‘This venerable one, when he goes to the Saṅgha, does not engage in diverse talk or animal talk.
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này khi đến hội chúng Tăng, không nói những lời vô ích, không nói những lời tầm thường.
Sāmaṃ vā dhammaṃ bhāsati paraṃ vā ajjhesati ariyaṃ vā tuṇhībhāvaṃ nātimaññati.
He either speaks the Dhamma himself or invites another to speak, or he does not disparage the noble silence.
Vị ấy tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh cầu người khác thuyết pháp, hoặc không xem thường sự im lặng cao quý.
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Surely this venerable one knows what he knows and sees what he sees!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
41
‘‘‘Pañcasu kho panāyamāyasmā upādānakkhandhesu udayabbayānupassī viharati – iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo; iti vedanā…pe… iti saññā…pe… iti saṅkhārā…pe… iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamoti.
“‘This venerable one dwells contemplating the rise and fall in the five clinging-aggregates: ‘Such is form, such is the origin of form, such is the passing away of form; such is feeling… such is perception… such are volitional formations… such is consciousness, such is the origin of consciousness, such is the passing away of consciousness.’
“Này các Tỳ-khưu, vị Tôn giả này sống quán sát sự sanh diệt trong năm uẩn chấp thủ – ‘Đây là sắc, đây là sự sanh khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc; đây là thọ… này là tưởng… này là hành… này là thức, đây là sự sanh khởi của thức, đây là sự diệt tận của thức.’
Addhā ayamāyasmā jānaṃ jānāti passaṃ passatī’ti!
Surely this venerable one knows what he knows and sees what he sees!’
Chắc chắn vị Tôn giả này biết điều đáng biết, thấy điều đáng thấy!
Ayampi dhammo piyattāya garuttāya bhāvanāya sāmaññāya ekībhāvāya saṃvattati.
This dhamma also conduces to affection, to respect, to development, to harmony, to unity.
Pháp này cũng dẫn đến sự được yêu mến, được tôn trọng, được phát triển, sự hòa hợp, sự nhất trí.
42
‘‘Ime kho, bhikkhave, aṭṭha hetū aṭṭha paccayā ādibrahmacariyikāya paññāya appaṭiladdhāya paṭilābhāya, paṭiladdhāya bhiyyobhāvāya vepullāya bhāvanāya pāripūriyā saṃvattantī’’ti.
“These, bhikkhus, are the eight reasons, the eight causes, for the acquisition of unacquired wisdom pertaining to the holy life, and for the growth, plenitude, development, and fulfillment of acquired wisdom.”
Này các Tỳ-khưu, đây là tám nhân, tám duyên dẫn đến sự thành tựu trí tuệ sơ khởi về Phạm hạnh chưa được thành tựu, và sự tăng trưởng, phát triển, tu tập, viên mãn của trí tuệ đã thành tựu.”
Dutiyaṃ.
The Second.
Bài kinh thứ hai.
43
3. Paṭhamaappiyasuttaṃ
3. First Discourse on the Unpleasant
3. Kinh Không Được Yêu Mến (1)
44
3. ‘‘Aṭṭhahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ appiyo ca hoti amanāpo ca agaru ca abhāvanīyo ca.
“Bhikkhus, a bhikkhu endowed with eight qualities is unpleasant to his fellow monastics, disagreeable, not respected, and not to be developed.
3. “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp thì không được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, không vừa lòng, không được tôn trọng, không được phát triển.
Katamehi aṭṭhahi?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu appiyapasaṃsī ca hoti, piyagarahī ca, lābhakāmo ca, sakkārakāmo ca, ahiriko ca, anottappī ca, pāpiccho ca, micchādiṭṭhi ca.
Here, bhikkhus, a bhikkhu praises the unpleasant, criticizes the pleasant, desires gain, desires honor, is shameless, is fearless of wrongdoing, has evil wishes, and has wrong view.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ấy tán thán người không được yêu mến, chê bai người được yêu mến, tham cầu lợi lộc, tham cầu danh tiếng, không biết hổ thẹn, không biết ghê sợ tội lỗi, có ác dục, và có tà kiến.
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ appiyo ca hoti amanāpo ca agaru ca abhāvanīyo ca.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these eight qualities is unpleasant to his fellow monastics, disagreeable, not respected, and not to be developed.
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp này thì không được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, không vừa lòng, không được tôn trọng, không được phát triển.
45
‘‘Aṭṭhahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo ca.
“Bhikkhus, a bhikkhu endowed with eight qualities is pleasant to his fellow monastics, agreeable, respected, and to be developed.
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp thì được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, vừa lòng, được tôn trọng, được phát triển.
Katamehi aṭṭhahi?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu na appiyapasaṃsī ca hoti, na piyagarahī ca, na lābhakāmo ca, na sakkārakāmo ca, hirīmā ca hoti, ottappī ca, appiccho ca, sammādiṭṭhi ca.
Here, bhikkhus, a bhikkhu does not praise the unpleasant, does not criticize the pleasant, does not desire gain, does not desire honor, is conscientious, is fearful of wrongdoing, has few wishes, and has right view.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ấy không tán thán người không được yêu mến, không chê bai người được yêu mến, không tham cầu lợi lộc, không tham cầu danh tiếng, có hổ thẹn, có ghê sợ tội lỗi, ít dục, và có chánh kiến.
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo cā’’ti.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these eight qualities is pleasant to his fellow monastics, agreeable, respected, and to be developed.”
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp này thì được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, vừa lòng, được tôn trọng, được phát triển.”
Tatiyaṃ.
The Third.
Bài kinh thứ ba.
46
4. Dutiyaappiyasuttaṃ
4. Second Discourse on the Unpleasant
4. Kinh Không Được Yêu Mến (2)
47
4. ‘‘Aṭṭhahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ appiyo ca hoti amanāpo ca agaru ca abhāvanīyo ca.
“Bhikkhus, a bhikkhu endowed with eight qualities is unpleasant to his fellow monastics, disagreeable, not respected, and not to be developed.
4. “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp thì không được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, không vừa lòng, không được tôn trọng, không được phát triển.
Katamehi aṭṭhahi?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu lābhakāmo ca hoti, sakkārakāmo ca, anavaññattikāmo ca, akālaññū ca, amattaññū ca, asuci ca, bahubhāṇī ca, akkosakaparibhāsako ca sabrahmacārīnaṃ.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is desirous of gain, desirous of honor, desirous of not being despised, does not know the proper time (to speak), does not know the measure (regarding requisites), is impure, is talkative, and is abusive and reviling towards his fellow bhikkhus.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ấy tham cầu lợi lộc, tham cầu danh tiếng, tham cầu được người khác không khinh thường, không biết thời, không biết lượng, không thanh tịnh, nói nhiều, và mắng nhiếc, phỉ báng các vị đồng Phạm hạnh.
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ appiyo ca hoti amanāpo ca agaru ca abhāvanīyo ca.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these eight qualities becomes disliked by his fellow bhikkhus, displeasing, not respected, and not to be esteemed.
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp này thì không được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, không vừa lòng, không được tôn trọng, không được phát triển.
48
‘‘Aṭṭhahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo ca.
“Bhikkhus, a bhikkhu endowed with eight qualities becomes dear to his fellow bhikkhus, pleasing, respected, and to be esteemed.
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp thì được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, vừa lòng, được tôn trọng, được phát triển.
Katamehi aṭṭhahi?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Idha, bhikkhave, bhikkhu na lābhakāmo ca hoti, na sakkārakāmo ca, na anavaññattikāmo ca, kālaññū ca, mattaññū ca, suci ca, na bahubhāṇī ca, anakkosakaparibhāsako ca sabrahmacārīnaṃ.
Here, bhikkhus, a bhikkhu is not desirous of gain, not desirous of honor, not desirous of not being despised, knows the proper time (to speak), knows the measure (regarding requisites), is pure, is not talkative, and is not abusive or reviling towards his fellow bhikkhus.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ấy không tham cầu lợi lộc, không tham cầu danh tiếng, không tham cầu được người khác không khinh thường, biết thời, biết lượng, thanh tịnh, không nói nhiều, và không mắng nhiếc, phỉ báng các vị đồng Phạm hạnh.
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi dhammehi samannāgato bhikkhu sabrahmacārīnaṃ piyo ca hoti manāpo ca garu ca bhāvanīyo cā’’ti.
Bhikkhus, a bhikkhu endowed with these eight qualities becomes dear to his fellow bhikkhus, pleasing, respected, and to be esteemed.”
Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nào đầy đủ tám pháp này thì được các vị đồng Phạm hạnh yêu mến, vừa lòng, được tôn trọng, được phát triển.”
Catutthaṃ.
The Fourth.
Bài kinh thứ tư.
49
5. Paṭhamalokadhammasuttaṃ
5. First Discourse on Worldly Conditions
5. Kinh Thế Gian Pháp (1)
50
5. ‘‘Aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca aṭṭha lokadhamme anuparivattati.
5. “Bhikkhus, these eight worldly conditions revolve around the world, and the world revolves around these eight worldly conditions.
5. “Này các Tỳ-khưu, tám pháp thế gian này xoay vần theo thế gian, và thế gian xoay vần theo tám pháp thế gian này.
Katame aṭṭha?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Lābho ca, alābho ca, yaso ca, ayaso ca, nindā ca, pasaṃsā ca, sukhañca, dukkhañca.
Gain and loss, fame and disrepute, censure and praise, happiness and suffering.
Đó là: lợi lộc và không lợi lộc, danh tiếng và không danh tiếng, khiển trách và tán thán, lạc và khổ.
Ime kho, bhikkhave, aṭṭha lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca ime aṭṭha lokadhamme anuparivattatī’’ti.
Bhikkhus, these eight worldly conditions revolve around the world, and the world revolves around these eight worldly conditions.”
Này các Tỳ-khưu, tám pháp thế gian này xoay vần theo thế gian, và thế gian xoay vần theo tám pháp thế gian này.”
51
‘‘Lābho alābho ca yasāyaso ca,
“Gain and loss, fame and disrepute,
Lợi lộc và không lợi lộc, danh tiếng và không danh tiếng,
52
Nindā pasaṃsā ca sukhaṃ dukhañca;
Censure and praise, happiness and suffering;
Khiển trách và tán thán, lạc và khổ;
53
Ete aniccā manujesu dhammā,
These conditions among humans are impermanent,
Những pháp này là vô thường giữa loài người,
54
Asassatā vipariṇāmadhammā.
Not eternal, subject to change.
Không thường còn, có tính chất biến hoại.
55
‘‘Ete ca ñatvā satimā sumedho,
“Knowing these, the mindful and wise one,
Biết được những điều này, người có niệm, bậc thiện trí,
56
Avekkhati vipariṇāmadhamme;
Contemplates conditions subject to change;
Quán sát những pháp có tính chất biến hoại;
57
Iṭṭhassa dhammā na mathenti cittaṃ,
Desirable conditions do not disturb his mind,
Đối với người ấy, những pháp khả ái không làm xáo động tâm trí,
58
Aniṭṭhato no paṭighātameti.
And he does not react with aversion to undesirable ones.
Do các pháp bất khả ái, tâm không rơi vào sự phiền muộn.
59
‘‘Tassānurodhā atha vā virodhā,
“His attachments and aversions,
Những sự thuận theo hay chống đối của người ấy,
60
Vidhūpitā atthaṅgatā na santi;
Are dispelled, set to rest, and no longer exist;
Đã được xua tan, đã biến mất, không còn tồn tại nữa;
61
Padañca ñatvā virajaṃ asokaṃ,
Having known the stainless, sorrowless state,
Sau khi đã biết được cảnh giới không ô nhiễm, không sầu muộn,
62
Sammappajānāti bhavassa pāragū’’ti.
The one who has crossed to the far shore of existence rightly understands.”
Người đã qua bờ của sinh hữu, hiểu biết đúng đắn.”
pañcamaṃ;
The Fifth.
Thứ năm;
63
6. Dutiyalokadhammasuttaṃ
6. Second Discourse on Worldly Conditions
6. Kinh Lokadhamma thứ hai
64
6. ‘‘Aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca aṭṭha lokadhamme anuparivattati.
6. “Bhikkhus, these eight worldly conditions revolve around the world, and the world revolves around these eight worldly conditions.
6. “Này các Tỳ-khưu, có tám pháp thế gian này xoay vần theo thế gian, và thế gian xoay vần theo tám pháp thế gian này.
Katame aṭṭha?
Which eight?
Tám pháp nào?
Lābho ca, alābho ca, yaso ca, ayaso ca, nindā ca, pasaṃsā ca, sukhañca, dukkhañca.
Gain and loss, fame and disrepute, censure and praise, happiness and suffering.
Đó là lợi lộc và không lợi lộc, danh tiếng và không danh tiếng, lời chê và lời khen, lạc thú và khổ đau.
Ime kho, bhikkhave, aṭṭha lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca ime aṭṭha lokadhamme anuparivattati.
Bhikkhus, these eight worldly conditions revolve around the world, and the world revolves around these eight worldly conditions.
Này các Tỳ-khưu, tám pháp thế gian này xoay vần theo thế gian, và thế gian xoay vần theo tám pháp thế gian này.
65
‘‘Assutavato, bhikkhave, puthujjanassa uppajjati lābhopi alābhopi yasopi ayasopi nindāpi pasaṃsāpi sukhampi dukkhampi.
Bhikkhus, for the untaught ordinary person, there arises gain, loss, fame, disrepute, censure, praise, happiness, and suffering.
Này các Tỳ-khưu, đối với phàm nhân không được nghe giáo pháp, lợi lộc cũng khởi lên, không lợi lộc cũng khởi lên, danh tiếng cũng khởi lên, không danh tiếng cũng khởi lên, lời chê cũng khởi lên, lời khen cũng khởi lên, lạc thú cũng khởi lên, khổ đau cũng khởi lên.
Sutavatopi, bhikkhave, ariyasāvakassa uppajjati lābhopi alābhopi yasopi ayasopi nindāpi pasaṃsāpi sukhampi dukkhampi.
And, bhikkhus, for the well-taught noble disciple, there also arises gain, loss, fame, disrepute, censure, praise, happiness, and suffering.
Này các Tỳ-khưu, đối với đệ tử Thánh đã được nghe giáo pháp, lợi lộc cũng khởi lên, không lợi lộc cũng khởi lên, danh tiếng cũng khởi lên, không danh tiếng cũng khởi lên, lời chê cũng khởi lên, lời khen cũng khởi lên, lạc thú cũng khởi lên, khổ đau cũng khởi lên.
Tatra, bhikkhave, ko viseso ko adhippayāso* kiṃ nānākaraṇaṃ sutavato ariyasāvakassa assutavatā puthujjanenā’’ti?
Bhikkhus, what then is the distinction, what is the special effort, what is the difference between the well-taught noble disciple and the untaught ordinary person?”
Này các Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, có sự khác biệt gì, có sự cố gắng đặc biệt gì, có sự phân biệt gì giữa đệ tử Thánh đã được nghe giáo pháp và phàm nhân không được nghe giáo pháp?”
‘‘Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā.
“Venerable Sir, our teachings have the Blessed One as their root, the Blessed One as their guide, the Blessed One as their refuge.
“Bạch Thế Tôn, các pháp của chúng con có Thế Tôn làm gốc, có Thế Tôn dẫn dắt, có Thế Tôn làm nơi nương tựa.
Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho.
It would be good, Venerable Sir, if the Blessed One himself would clarify the meaning of this statement.
Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy tự mình giải thích ý nghĩa của lời nói này.
Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī’’ti.
Having heard it from the Blessed One, the bhikkhus will remember it.”
Sau khi nghe từ Thế Tôn, các Tỳ-khưu sẽ ghi nhớ.”
66
‘‘Tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmī’’ti.
“In that case, bhikkhus, listen and pay close attention; I shall speak.”
“Vậy thì, này các Tỳ-khưu, hãy lắng nghe, hãy chú ý kỹ; Ta sẽ thuyết giảng.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
“Yes, Venerable Sir,” replied those bhikkhus to the Blessed One.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỳ-khưu ấy vâng lời Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca – ‘‘assutavato, bhikkhave, puthujjanassa uppajjati lābho.
The Blessed One said this: “Bhikkhus, for the untaught ordinary person, gain arises.
Thế Tôn nói như sau: “Này các Tỳ-khưu, đối với phàm nhân không được nghe giáo pháp, lợi lộc khởi lên.
So na iti paṭisañcikkhati – ‘uppanno kho me ayaṃ lābho; so ca kho anicco dukkho vipariṇāmadhammo’ti yathābhūtaṃ nappajānāti.
He does not reflect thus: ‘This gain that has arisen for me is impermanent, suffering, and subject to change,’ he does not understand it as it actually is.
Người ấy không quán xét như vầy: ‘Lợi lộc này đã khởi lên cho ta; nhưng nó là vô thường, khổ, có tính chất biến hoại’ – người ấy không hiểu biết đúng như thật.
Uppajjati alābho…pe… uppajjati yaso… uppajjati ayaso… uppajjati nindā… uppajjati pasaṃsā… uppajjati sukhaṃ… uppajjati dukkhaṃ.
Loss arises… fame arises… disrepute arises… censure arises… praise arises… happiness arises… suffering arises.
Không lợi lộc khởi lên… danh tiếng khởi lên… không danh tiếng khởi lên… lời chê khởi lên… lời khen khởi lên… lạc thú khởi lên… khổ đau khởi lên.
So na iti paṭisañcikkhati – ‘uppannaṃ kho me idaṃ dukkhaṃ; tañca kho aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhamma’nti yathābhūtaṃ nappajānāti’’.
He does not reflect thus: ‘This suffering that has arisen for me is impermanent, suffering, and subject to change,’ he does not understand it as it actually is.”
Người ấy không quán xét như vầy: ‘Khổ đau này đã khởi lên cho ta; nhưng nó là vô thường, khổ, có tính chất biến hoại’ – người ấy không hiểu biết đúng như thật.”
67
‘‘Tassa lābhopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, alābhopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, yasopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, ayasopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, nindāpi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, pasaṃsāpi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, sukhampi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, dukkhampi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati.
Gain overwhelms his mind and remains, loss overwhelms his mind and remains, fame overwhelms his mind and remains, disrepute overwhelms his mind and remains, blame overwhelms his mind and remains, praise overwhelms his mind and remains, pleasure overwhelms his mind and remains, pain overwhelms his mind and remains.
“Đối với người ấy, lợi lộc cũng chi phối tâm, không lợi lộc cũng chi phối tâm, danh tiếng cũng chi phối tâm, không danh tiếng cũng chi phối tâm, lời chê cũng chi phối tâm, lời khen cũng chi phối tâm, lạc thú cũng chi phối tâm, khổ đau cũng chi phối tâm.
So uppannaṃ lābhaṃ anurujjhati, alābhe paṭivirujjhati; uppannaṃ yasaṃ anurujjhati, ayase paṭivirujjhati; uppannaṃ pasaṃsaṃ anurujjhati, nindāya paṭivirujjhati; uppannaṃ sukhaṃ anurujjhati, dukkhe paṭivirujjhati.
He delights in arisen gain, he resists loss; he delights in arisen fame, he resists disrepute; he delights in arisen praise, he resists blame; he delights in arisen pleasure, he resists pain.
Người ấy thuận theo lợi lộc đã khởi lên, chống đối không lợi lộc; thuận theo danh tiếng đã khởi lên, chống đối không danh tiếng; thuận theo lời khen đã khởi lên, chống đối lời chê; thuận theo lạc thú đã khởi lên, chống đối khổ đau.
So evaṃ anurodhavirodhasamāpanno na parimuccati jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi.
Thus, being caught in delight and resistance, he is not liberated from birth, aging, death, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair.
Người ấy, do bị chi phối bởi sự thuận theo và chống đối như vậy, không được giải thoát khỏi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
‘Na parimuccati dukkhasmā’ti vadāmi’’.
‘He is not liberated from suffering,’ I say.”
Ta nói rằng: ‘Người ấy không được giải thoát khỏi khổ đau’.”
68
‘‘Sutavato ca kho, bhikkhave, ariyasāvakassa uppajjati lābho.
“But for a well-instructed noble disciple, bhikkhus, gain arises for him.
“Này các Tỳ-khưu, đối với đệ tử Thánh đã được nghe giáo pháp, lợi lộc khởi lên.
So iti paṭisañcikkhati – ‘uppanno kho me ayaṃ lābho; so ca kho anicco dukkho vipariṇāmadhammo’ti yathābhūtaṃ pajānāti.
He reflects thus: ‘This gain that has arisen for me is impermanent, unsatisfactory, subject to change,’ and he understands it as it actually is.
Người ấy quán xét như vầy: ‘Lợi lộc này đã khởi lên cho ta; nhưng nó là vô thường, khổ, có tính chất biến hoại’ – người ấy hiểu biết đúng như thật.
Uppajjati alābho…pe… uppajjati yaso… uppajjati ayaso… uppajjati nindā… uppajjati pasaṃsā… uppajjati sukhaṃ… uppajjati dukkhaṃ.
Loss arises…fame arises…disrepute arises…blame arises…praise arises…pleasure arises…pain arises.
Không lợi lộc khởi lên… danh tiếng khởi lên… không danh tiếng khởi lên… lời chê khởi lên… lời khen khởi lên… lạc thú khởi lên… khổ đau khởi lên.
So iti paṭisañcikkhati – ‘uppannaṃ kho me idaṃ dukkhaṃ; tañca kho aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhamma’nti yathābhūtaṃ pajānāti’’.
He reflects thus: ‘This pain that has arisen for me is impermanent, unsatisfactory, subject to change,’ and he understands it as it actually is.”
Người ấy quán xét như vầy: ‘Khổ đau này đã khởi lên cho ta; nhưng nó là vô thường, khổ, có tính chất biến hoại’ – người ấy hiểu biết đúng như thật.”
69
‘‘Tassa lābhopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, alābhopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, yasopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, ayasopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, nindāpi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, pasaṃsāpi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, sukhampi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, dukkhampi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.
“Gain does not overwhelm his mind and remain, loss does not overwhelm his mind and remain, fame does not overwhelm his mind and remain, disrepute does not overwhelm his mind and remain, blame does not overwhelm his mind and remain, praise does not overwhelm his mind and remain, pleasure does not overwhelm his mind and remain, pain does not overwhelm his mind and remain.
“Đối với người ấy, lợi lộc cũng không chi phối tâm, không lợi lộc cũng không chi phối tâm, danh tiếng cũng không chi phối tâm, không danh tiếng cũng không chi phối tâm, lời chê cũng không chi phối tâm, lời khen cũng không chi phối tâm, lạc thú cũng không chi phối tâm, khổ đau cũng không chi phối tâm.
So uppannaṃ lābhaṃ nānurujjhati, alābhe nappaṭivirujjhati; uppannaṃ yasaṃ nānurujjhati, ayase nappaṭivirujjhati; uppannaṃ pasaṃsaṃ nānurujjhati, nindāya nappaṭivirujjhati; uppannaṃ sukhaṃ nānurujjhati, dukkhe nappaṭivirujjhati.
He does not delight in arisen gain, he does not resist loss; he does not delight in arisen fame, he does not resist disrepute; he does not delight in arisen praise, he does not resist blame; he does not delight in arisen pleasure, he does not resist pain.
Người ấy không thuận theo lợi lộc đã khởi lên, không chống đối không lợi lộc; không thuận theo danh tiếng đã khởi lên, không chống đối không danh tiếng; không thuận theo lời khen đã khởi lên, không chống đối lời chê; không thuận theo lạc thú đã khởi lên, không chống đối khổ đau.
So evaṃ anurodhavirodhavippahīno parimuccati jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi.
Thus, being rid of delight and resistance, he is liberated from birth, aging, death, sorrow, lamentation, pain, displeasure, and despair.
Người ấy, do đã từ bỏ sự thuận theo và chống đối như vậy, được giải thoát khỏi sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
‘Parimuccati dukkhasmā’ti vadāmi.
‘He is liberated from suffering,’ I say.
Ta nói rằng: ‘Người ấy được giải thoát khỏi khổ đau’.
Ayaṃ kho, bhikkhave, viseso ayaṃ adhippayāso idaṃ nānākaraṇaṃ sutavato ariyasāvakassa assutavatā puthujjanenā’’ti.
This, bhikkhus, is the distinction, this is the difference, this is the disparity between a well-instructed noble disciple and an uninstructed ordinary person.”
Này các Tỳ-khưu, đây chính là sự khác biệt, đây là sự cố gắng đặc biệt, đây là sự phân biệt giữa đệ tử Thánh đã được nghe giáo pháp và phàm nhân không được nghe giáo pháp.”
70
‘‘Lābho alābho ca yasāyaso ca,
Gain and loss, fame and disrepute,
Lợi lộc và không lợi lộc, danh tiếng và không danh tiếng,
71
Nindā pasaṃsā ca sukhaṃ dukhañca;
Blame and praise, pleasure and pain—
Lời chê và lời khen, lạc thú và khổ đau;
72
Ete aniccā manujesu dhammā,
These are impermanent conditions among humans,
Những pháp này nơi con người là vô thường,
73
Asassatā vipariṇāmadhammā.
Not lasting, subject to change.
Không thường hằng, có tính chất biến hoại.
74
‘‘Ete ca ñatvā satimā sumedho,
Having known these, the mindful, wise one,
Người có chánh niệm, có trí tuệ, sau khi biết những điều này,
75
Avekkhati vipariṇāmadhamme;
Contemplates conditions subject to change;
Quán xét những pháp có tính chất biến hoại;
76
Iṭṭhassa dhammā na mathenti cittaṃ,
Pleasant conditions do not overwhelm his mind,
Đối với người ấy, những pháp khả ái không làm xáo động tâm trí,
77
Aniṭṭhato no paṭighātameti.
Nor does he react with aversion to unpleasant ones.
Do các pháp bất khả ái, tâm không rơi vào sự phiền muộn.
78
‘‘Tassānurodhā atha vā virodhā,
For him, delight or resistance,
Những sự thuận theo hay chống đối của người ấy,
79
Vidhūpitā atthaṅgatā na santi;
Are dispelled, gone, they do not exist;
Đã được xua tan, đã biến mất, không còn tồn tại nữa;
80
Padañca ñatvā virajaṃ asokaṃ,
Having known the stainless, sorrowless state,
Sau khi đã biết được cảnh giới không ô nhiễm, không sầu muộn,
81
Sammappajānāti bhavassa pāragū’’ti.
The one who has crossed over existence fully comprehends it.
Người đã qua bờ của sinh hữu, hiểu biết đúng đắn.”
chaṭṭhaṃ;
The Sixth.
Thứ sáu;
82
7. Devadattavipattisuttaṃ
7. Devadatta’s Downfall Sutta
7. Kinh Devadatta Vipatti
83
7. Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante devadatte.
At one time the Blessed One was staying in Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain, not long after Devadatta had departed.
7. Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa, không lâu sau khi Devadatta đã rời đi.
Tatra bhagavā devadattaṃ ārabbha bhikkhū āmantesi – ‘‘sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti.
There the Blessed One addressed the bhikkhus concerning Devadatta: “It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect from time to time on his own downfall.
Tại đó, Thế Tôn, nhân việc Devadatta, gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của chính mình là tốt.
Sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect from time to time on the downfall of others.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác là tốt.
Sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ attasampattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect from time to time on his own success.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của chính mình là tốt.
Sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ parasampattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect from time to time on the success of others.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của người khác là tốt.
Aṭṭhahi, bhikkhave, asaddhammehi abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho’’.
Devadatta, bhikkhus, overcome and with his mind seized by eight ignoble qualities, is destined for a woeful state, for hell, to remain for an eon, incurable.”
Này các Tỳ-khưu, Devadatta, bị tám pháp ác chi phối, tâm bị chiếm đoạt, sẽ rơi vào các cõi đọa, vào địa ngục, trú trong kiếp, không thể cứu chữa.”
84
* ‘‘Katamehi aṭṭhahi?
“Which eight?
“Tám pháp nào?
Lābhena hi, bhikkhave, abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
Overcome and with his mind seized by gain, bhikkhus, Devadatta is destined for a woeful state, for hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, Devadatta, bị lợi lộc chi phối, tâm bị chiếm đoạt, sẽ rơi vào các cõi đọa, vào địa ngục, trú trong kiếp, không thể cứu chữa.
Alābhena, bhikkhave…pe… yasena, bhikkhave… ayasena, bhikkhave… sakkārena, bhikkhave… asakkārena, bhikkhave… pāpicchatāya, bhikkhave… pāpamittatāya, bhikkhave, abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
O bhikkhus, Devadatta, overcome by gain…pe… by fame, O bhikkhus… by no fame, O bhikkhus… by honor, O bhikkhus… by no honor, O bhikkhus… by evil wishes, O bhikkhus… by evil friendship, O bhikkhus, with his mind overwhelmed, is destined for the lower realms, destined for hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, không lợi lộc… danh tiếng… không danh tiếng… sự cung kính… sự không cung kính… ác dục… ác hữu, này các Tỳ-khưu, bị chi phối, tâm bị chiếm đoạt, Devadatta sẽ rơi vào các cõi đọa, vào địa ngục, trú trong kiếp, không thể cứu chữa.”
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi asaddhammehi abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
Indeed, O bhikkhus, Devadatta, overcome by these eight unwholesome states and with his mind overwhelmed, is destined for the lower realms, destined for hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, với tám pháp bất thiện này, Devadatta đã bị chế ngự, tâm bị chiếm đoạt, là kẻ đọa lạc, bị đọa địa ngục, ở trong địa ngục suốt một kiếp, không thể cứu chữa.
85
‘‘Sādhu, bhikkhave, bhikkhu uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ … uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya.
“It is good, O bhikkhus, for a bhikkhu to dwell having overcome and repeatedly overcome arisen gain; having overcome and repeatedly overcome arisen no gain…pe… arisen fame… arisen no fame… arisen honor… arisen no honor… arisen evil wishes… arisen evil friendship.
Này các Tỳ-khưu, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu sống chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, chế ngự được sự không lợi lộc đã khởi lên... chế ngự được danh tiếng đã khởi lên... chế ngự được sự vô danh đã khởi lên... chế ngự được sự tôn kính đã khởi lên... chế ngự được sự không tôn kính đã khởi lên... chế ngự được ác dục đã khởi lên... chế ngự được ác hữu đã khởi lên.
86
‘‘Kiñca* , bhikkhave, bhikkhu atthavasaṃ paṭicca uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya?
“And for what purpose, O bhikkhus, should a bhikkhu dwell having overcome and repeatedly overcome arisen gain; having overcome and repeatedly overcome arisen no gain…pe… arisen fame… arisen no fame… arisen honor… arisen no honor… arisen evil wishes… arisen evil friendship?
Này các Tỳ-khưu, vì lợi ích gì mà một Tỳ-khưu nên sống chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, chế ngự được sự không lợi lộc đã khởi lên... chế ngự được danh tiếng đã khởi lên... chế ngự được sự vô danh đã khởi lên... chế ngự được sự tôn kính đã khởi lên... chế ngự được sự không tôn kính đã khởi lên... chế ngự được ác dục đã khởi lên... chế ngự được ác hữu đã khởi lên?
87
‘‘Yaṃ hissa, bhikkhave, uppannaṃ lābhaṃ anabhibhuyya* viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya* viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti.
“For if, O bhikkhus, while dwelling without overcoming arisen gain, defilements, vexations, and fevers would arise for him, then by dwelling having overcome arisen gain, those defilements, vexations, and fevers do not arise for him.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người sống mà không chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và khổ đau sẽ khởi lên cho người ấy. Nhưng nếu sống chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, thì những lậu hoặc, phiền não và khổ đau ấy sẽ không còn nữa.
Yaṃ hissa, bhikkhave, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ anabhibhuyya viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti.
For if, O bhikkhus, while dwelling without overcoming arisen no gain…pe… arisen fame… arisen no fame… arisen honor… arisen no honor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, defilements, vexations, and fevers would arise for him, then by dwelling having overcome arisen evil friendship, those defilements, vexations, and fevers do not arise for him.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người sống mà không chế ngự được sự không lợi lộc đã khởi lên... sự danh tiếng đã khởi lên... sự vô danh đã khởi lên... sự tôn kính đã khởi lên... sự không tôn kính đã khởi lên... ác dục đã khởi lên... ác hữu đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và khổ đau sẽ khởi lên cho người ấy. Nhưng nếu sống chế ngự được ác hữu đã khởi lên, thì những lậu hoặc, phiền não và khổ đau ấy sẽ không còn nữa.
Idaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu atthavasaṃ paṭicca uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ … uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya.
It is for this purpose, O bhikkhus, that a bhikkhu should dwell having overcome and repeatedly overcome arisen gain; having overcome and repeatedly overcome arisen no gain…pe… arisen fame… arisen no fame… arisen honor… arisen no honor… arisen evil wishes… arisen evil friendship.
Này các Tỳ-khưu, chính vì lợi ích này mà một Tỳ-khưu nên sống chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, chế ngự được sự không lợi lộc đã khởi lên... chế ngự được danh tiếng đã khởi lên... chế ngự được sự vô danh đã khởi lên... chế ngự được sự tôn kính đã khởi lên... chế ngự được sự không tôn kính đã khởi lên... chế ngự được ác dục đã khởi lên... chế ngự được ác hữu đã khởi lên.
88
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya viharissāma, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya viharissāmā’ti.
“Therefore, O bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell having overcome and repeatedly overcome arisen gain; we will dwell having overcome and repeatedly overcome arisen no gain…pe… arisen fame… arisen no fame… arisen honor… arisen no honor… arisen evil wishes… arisen evil friendship.’
Vì vậy, này các Tỳ-khưu, các ngươi phải học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ sống chế ngự được sự lợi lộc đã khởi lên, chế ngự được sự không lợi lộc đã khởi lên... chế ngự được danh tiếng đã khởi lên... chế ngự được sự vô danh đã khởi lên... chế ngự được sự tôn kính đã khởi lên... chế ngự được sự không tôn kính đã khởi lên... chế ngự được ác dục đã khởi lên... chế ngự được ác hữu đã khởi lên.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.
Thus, O bhikkhus, should you train yourselves.”
Này các Tỳ-khưu, các ngươi phải học tập như vậy.
Sattamaṃ.
The Seventh.
Pháp thứ bảy.
89
8. Uttaravipattisuttaṃ
8. Uttaravipatta Sutta
8. Kinh Uttaravipatti
90
8. Ekaṃ samayaṃ āyasmā uttaro mahisavatthusmiṃ viharati saṅkheyyake pabbate vaṭajālikāyaṃ* .
8. On one occasion, Venerable Uttara was dwelling in Mahisavatthu, on Saṅkheyyaka Mountain, in Vaṭajālikā.
8. Một thời, Tôn giả Uttara trú tại Mahisavatthu, trên núi Saṅkheyya, trong rừng Vaṭajālikā.
Tatra kho āyasmā uttaro bhikkhū āmantesi – ‘‘sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti.
There, Venerable Uttara addressed the bhikkhus, saying: “It is good, friends, for a bhikkhu to review his own shortcomings from time to time.
Tại đó, Tôn giả Uttara gọi các Tỳ-khưu và nói: “Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của bản thân.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review the shortcomings of others from time to time.
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attasampattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review his own accomplishments from time to time.
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của bản thân.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ parasampattiṃ paccavekkhitā hotī’’ti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review the accomplishments of others from time to time.”
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của người khác.”
91
Tena kho pana samayena vessavaṇo mahārājā uttarāya disāya dakkhiṇaṃ disaṃ gacchati kenacideva karaṇīyena.
Now at that time, King Vessavaṇa was traveling from the northern direction to the southern direction for some purpose.
Vào lúc đó, Đại vương Vessavaṇa đang đi từ phương Bắc xuống phương Nam vì một công việc nào đó.
Assosi kho vessavaṇo mahārājā āyasmato uttarassa mahisavatthusmiṃ saṅkheyyake pabbate vaṭajālikāyaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ desentassa – ‘‘sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti.
King Vessavaṇa heard Venerable Uttara teaching the Dhamma to the bhikkhus in Mahisavatthu, on Saṅkheyyaka Mountain, in Vaṭajālikā, as follows: “It is good, friends, for a bhikkhu to review his own shortcomings from time to time.
Đại vương Vessavaṇa nghe Tôn giả Uttara đang thuyết pháp cho các Tỳ-khưu tại Mahisavatthu, trên núi Saṅkheyya, trong rừng Vaṭajālikā, rằng: “Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của bản thân.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review the shortcomings of others from time to time.
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attasampattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review his own accomplishments from time to time.
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của bản thân.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ parasampattiṃ paccavekkhitā hotī’’ti.
It is good, friends, for a bhikkhu to review the accomplishments of others from time to time.”
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự thành tựu của người khác.”
92
Atha kho vessavaṇṇo mahārājā – seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ* vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya* , evamevaṃ mahisavatthusmiṃ saṅkheyyake pabbate vaṭajālikāyaṃ antarahito devesu tāvatiṃsesu pāturahosi.
Then, at that time, King Vessavaṇa, the Great King, just as a strong man would extend a bent arm or bend an extended arm, even so, having disappeared from among the Tāvatiṃsa devas, appeared in the Vaṭajālikā on Saṅkheyyaka Mountain in Mahisavatthu.
Rồi Đại vương Vessavaṇa, cũng như một người lực sĩ co cánh tay đang duỗi ra, hoặc duỗi cánh tay đang co lại, liền biến mất khỏi Mahisavatthu, trên núi Saṅkheyya, trong rừng Vaṭajālikā, và hiện ra giữa các chư thiên Tāvatiṃsa.
Atha kho vessavaṇṇo mahārājā yena sakko devānamindo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca – ‘‘yagghe mārisa, jāneyyāsi!
Then, King Vessavaṇa approached Sakka, king of devas; having approached, he said this to Sakka, king of devas: “Sir, please know this!
Rồi Đại vương Vessavaṇa đi đến chỗ Sakka, chúa tể của các chư thiên; sau khi đến, ông ta thưa với Sakka, chúa tể của các chư thiên, rằng: “Thưa Tôn giả, xin Ngài hãy biết!
Eso āyasmā uttaro mahisavatthusmiṃ saṅkheyyake pabbate vaṭajālikāyaṃ bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti – ‘sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti.
This Venerable Uttara is teaching the Dhamma to the bhikkhus in the Vaṭajālikā on Saṅkheyyaka Mountain in Mahisavatthu thus: ‘It is good, friend, for a bhikkhu to reflect on his own failures from time to time.
Tôn giả Uttara đang thuyết pháp cho các Tỳ-khưu tại Mahisavatthu, trên núi Saṅkheyya, trong rừng Vaṭajālikā, rằng: ‘Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của bản thân.
Sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ…pe… attasampattiṃ… parasampattiṃ paccavekkhitā hotī’’’ti.
It is good, friend, for a bhikkhu to reflect on the failures of others… on his own success… on the success of others from time to time.’”
Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác... sự thành tựu của bản thân... sự thành tựu của người khác.’”
93
Atha kho sakko devānamindo seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, evamevaṃ devesu tāvatiṃsesu antarahito mahisavatthusmiṃ saṅkheyyake pabbate vaṭajālikāyaṃ āyasmato uttarassa sammukhe pāturahosi.
Then, Sakka, king of devas, just as a strong man would extend a bent arm or bend an extended arm, even so, having disappeared from among the Tāvatiṃsa devas, appeared before the Venerable Uttara in the Vaṭajālikā on Saṅkheyyaka Mountain in Mahisavatthu.
Rồi Sakka, chúa tể của các chư thiên, cũng như một người lực sĩ co cánh tay đang duỗi ra, hoặc duỗi cánh tay đang co lại, liền biến mất khỏi các chư thiên Tāvatiṃsa, và hiện ra trước mặt Tôn giả Uttara tại Mahisavatthu, trên núi Saṅkheyya, trong rừng Vaṭajālikā.
Atha kho sakko devānamindo yenāyasmā uttaro tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ uttaraṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.
Then, Sakka, king of devas, approached the Venerable Uttara; having approached and paid homage to the Venerable Uttara, he stood to one side.
Rồi Sakka, chúa tể của các chư thiên, đi đến chỗ Tôn giả Uttara; sau khi đến, ông ta đảnh lễ Tôn giả Uttara và đứng sang một bên.
Ekamantaṃ ṭhito kho sakko devānamindo āyasmantaṃ uttaraṃ etadavoca –
Standing to one side, Sakka, king of devas, said this to the Venerable Uttara:
Đứng sang một bên, Sakka, chúa tể của các chư thiên, thưa với Tôn giả Uttara rằng:
94
‘‘Saccaṃ kira, bhante, āyasmā uttaro bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ desesi – ‘sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti, sādhāvuso, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ…pe… attasampattiṃ… parasampattiṃ paccavekkhitā hotī’’’ ti?
“Is it true, Venerable Sir, that the Venerable Uttara taught the Dhamma to the bhikkhus thus: ‘It is good, friend, for a bhikkhu to reflect on his own failures from time to time; it is good, friend, for a bhikkhu to reflect on the failures of others… on his own success… on the success of others from time to time’?”
“Bạch Tôn giả, có thật Tôn giả Uttara đã thuyết pháp cho các Tỳ-khưu như sau: ‘Này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của bản thân, này các Hiền giả, thật tốt lành thay nếu một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác... sự thành tựu của bản thân... sự thành tựu của người khác’ phải không ạ?”
‘‘Evaṃ, devānamindā’’ti.
“Yes, king of devas.”
“Đúng vậy, thưa chúa tể của các chư thiên.”
‘‘Kiṃ panidaṃ* , bhante, āyasmato uttarassa sakaṃ paṭibhānaṃ* , udāhu tassa bhagavato vacanaṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti?
“Venerable Sir, is this the Venerable Uttara’s own inspiration, or is it the word of that Blessed One, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One?”
“Bạch Tôn giả, đây là lời tự phát của Tôn giả Uttara, hay là lời của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác?”
‘‘Tena hi, devānaminda, upamaṃ te karissāmi.
“In that case, king of devas, I shall give you an analogy.
“Vậy thì, thưa chúa tể của các chư thiên, tôi sẽ kể cho Ngài một ví dụ.
Upamāya midhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājāna’’nti.
By means of an analogy, some discerning men here understand the meaning of what is said.”
Qua ví dụ, một số người trí ở đây sẽ hiểu được ý nghĩa của lời nói.”
95
‘‘Seyyathāpi, devānaminda, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahādhaññarāsi.
“Just as, king of devas, there might be a large heap of grain not far from a village or a town.
“Thưa chúa tể của các chư thiên, ví như không xa một làng hay một thị trấn có một đống ngũ cốc lớn.
Tato mahājanakāyo dhaññaṃ āhareyya – kājehipi piṭakehipi ucchaṅgehipi añjalīhipi.
From that, a great crowd of people would carry grain – with shoulder-poles, with baskets, in their laps, and with cupped hands.
Từ đó, nhiều người mang ngũ cốc đi — bằng gánh, bằng giỏ, bằng vạt áo, bằng hai tay chụm lại.
Yo nu kho, devānaminda, taṃ mahājanakāyaṃ upasaṅkamitvā evaṃ puccheyya – ‘kuto imaṃ dhaññaṃ āharathā’ti, kathaṃ byākaramāno nu kho, devānaminda, so mahājanakāyo sammā byākaramāno byākareyyā’’ti?
If, king of devas, someone were to approach that great crowd of people and ask: ‘Where do you carry this grain from?’, how would that great crowd of people, king of devas, answer correctly if they were to answer?”
Này chúa tể của các chư thiên, nếu có ai đến hỏi những người ấy rằng: ‘Các người mang ngũ cốc này từ đâu đến?’, thì những người ấy trả lời như thế nào mới là trả lời đúng, thưa chúa tể của các chư thiên?”
‘‘‘Amumhā mahādhaññarāsimhā āharāmā’ti kho, bhante, so mahājanakāyo sammā byākaramāno byākareyyā’’ti.
“‘We carry it from that great heap of grain,’ Venerable Sir, that great crowd of people would answer correctly if they were to answer.”
“Bạch Tôn giả, những người ấy trả lời rằng: ‘Chúng tôi mang từ đống ngũ cốc lớn kia đến’ mới là trả lời đúng.”
‘‘Evamevaṃ kho, devānaminda, yaṃ kiñci subhāsitaṃ sabbaṃ taṃ tassa bhagavato vacanaṃ arahato sammāsambuddhassa.
“Even so, king of devas, whatever is well-spoken, all of it is the word of that Blessed One, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One.
“Này Thiên chủ, cũng vậy, bất cứ lời nói hay nào, tất cả đều là lời dạy của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy.
Tato upādāyupādāya mayaṃ caññe ca bhaṇāmā’’ti.
Taking from that, we and others speak.”
Từ đó, chúng tôi và những người khác nương theo mà thuyết giảng.”
96
‘‘Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ bhante!
“Wonderful, Venerable Sir! Amazing, Venerable Sir!
“Thật hy hữu thay, bạch Đại đức! Thật vi diệu thay, bạch Đại đức!
Yāva subhāsitaṃ cidaṃ āyasmatā uttarena – ‘yaṃ kiñci subhāsitaṃ sabbaṃ taṃ tassa bhagavato vacanaṃ arahato sammāsambuddhassa.
How well-spoken is this by the Venerable Uttara – ‘Whatever is well-spoken, all of it is the word of that Blessed One, the Arahant, the Perfectly Self-Enlightened One.
Lời này của Tôn giả Uttara thật là thiện thuyết: ‘Bất cứ lời nói hay nào, tất cả đều là lời dạy của Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy.
Tato upādāyupādāya mayaṃ caññe ca bhaṇāmā’ti.
Taking from that, we and others speak.’
Từ đó, chúng tôi và những người khác nương theo mà thuyết giảng.’
Ekamidaṃ, bhante uttara, samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate acirapakkante devadatte.
On one occasion, Venerable Uttara, the Blessed One was dwelling in Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain, not long after Devadatta had departed.
Thưa Đại đức Uttara, một thời Đức Thế Tôn đang trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa, sau khi Devadatta vừa rời đi không lâu.
Tatra kho bhagavā devadattaṃ ārabbha bhikkhū āmantesi –
There, concerning Devadatta, the Blessed One addressed the bhikkhus thus:
Tại đó, Đức Thế Tôn đã gọi các Tỳ-khưu và nói về Devadatta:
97
‘‘Sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ attavipattiṃ paccavekkhitā hoti.
“It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect on his own failures from time to time.
“Này các Tỳ-khưu, thật tốt lành khi một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của chính mình.
Sādhu, bhikkhave, bhikkhu kālena kālaṃ paravipattiṃ…pe… attasampattiṃ… parasampattiṃ paccavekkhitā hoti.
It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to reflect on the failures of others… on his own success… on the success of others from time to time.
Này các Tỳ-khưu, thật tốt lành khi một Tỳ-khưu thỉnh thoảng quán xét sự suy đồi của người khác… (và) sự thành tựu của chính mình… sự thành tựu của người khác.
Aṭṭhahi, bhikkhave, asaddhammehi abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
Devadatta, overcome by eight ignoble qualities, with his mind consumed, has fallen to a woeful state, to hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, Devadatta bị tám pháp bất thiện chế ngự, tâm bị chi phối, sẽ rơi vào khổ cảnh, địa ngục, ở đó suốt một kiếp, không thể cứu chữa.
Katamehi aṭṭhahi?
Which eight?
Tám pháp ấy là gì?
Lābhena hi, bhikkhave, abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho; alābhena, bhikkhave…pe… yasena, bhikkhave … ayasena, bhikkhave… sakkārena, bhikkhave… asakkārena, bhikkhave… pāpicchatāya, bhikkhave… pāpamittatāya, bhikkhave, abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
Indeed, bhikkhus, Devadatta, overcome by gain, with his mind consumed, is bound for a woeful state, for hell, to remain for an eon, incurable; by loss, bhikkhus… and so on… by fame, bhikkhus… by disrepute, bhikkhus… by honor, bhikkhus… by dishonor, bhikkhus… by evil wishes, bhikkhus… by evil friendship, bhikkhus, overcome, with his mind consumed, Devadatta is bound for a woeful state, for hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, Devadatta bị lợi lộc chế ngự, tâm bị chi phối, sẽ rơi vào khổ cảnh, địa ngục, ở đó suốt một kiếp, không thể cứu chữa; bị không lợi lộc chế ngự… bị danh tiếng… bị không danh tiếng… bị sự cung kính… bị sự không cung kính… bị ác dục… bị ác hữu chế ngự, tâm bị chi phối, sẽ rơi vào khổ cảnh, địa ngục, ở đó suốt một kiếp, không thể cứu chữa.
Imehi kho, bhikkhave, aṭṭhahi asaddhammehi abhibhūto pariyādinnacitto devadatto āpāyiko nerayiko kappaṭṭho atekiccho.
Indeed, bhikkhus, Devadatta, overcome by these eight ignoble dhammas, with his mind consumed, is bound for a woeful state, for hell, to remain for an eon, incurable.
Này các Tỳ-khưu, Devadatta bị tám pháp bất thiện này chế ngự, tâm bị chi phối, sẽ rơi vào khổ cảnh, địa ngục, ở đó suốt một kiếp, không thể cứu chữa.
98
‘‘Sādhu, bhikkhave, bhikkhu uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya; uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya.
‘‘It is good, bhikkhus, for a bhikkhu to dwell having overcome, having overcome arisen gain; arisen loss… and so on… arisen fame… arisen disrepute… arisen honor… arisen dishonor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, having overcome, having overcome, he should dwell.
Này các Tỳ-khưu, thật tốt lành khi một Tỳ-khưu sống chế ngự được lợi lộc đã khởi lên; chế ngự được không lợi lộc đã khởi lên… chế ngự được danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được không danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được sự cung kính đã khởi lên… chế ngự được sự không cung kính đã khởi lên… chế ngự được ác dục đã khởi lên… chế ngự được ác hữu đã khởi lên.
99
‘‘Kiñca, bhikkhave, bhikkhu atthavasaṃ paṭicca uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya; uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya?
‘‘And for what purpose, bhikkhus, should a bhikkhu dwell having overcome, having overcome arisen gain; arisen loss… and so on… arisen fame… arisen disrepute… arisen honor… arisen dishonor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, having overcome, having overcome?
Này các Tỳ-khưu, vì mục đích gì mà một Tỳ-khưu nên sống chế ngự được lợi lộc đã khởi lên; chế ngự được không lợi lộc đã khởi lên… chế ngự được danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được không danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được sự cung kính đã khởi lên… chế ngự được sự không cung kính đã khởi lên… chế ngự được ác dục đã khởi lên… chế ngự được ác hữu đã khởi lên?
100
‘‘Yaṃ hissa, bhikkhave, uppannaṃ lābhaṃ anabhibhuyya viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti.
‘‘For, bhikkhus, if he were to dwell without overcoming arisen gain, defilements, vexations, and fevers would arise in him; but dwelling having overcome arisen gain, those defilements, vexations, and fevers do not arise in him.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người sống không chế ngự được lợi lộc đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và sự khổ não sẽ khởi lên; nếu sống chế ngự được lợi lộc đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và sự khổ não ấy sẽ không khởi lên.
Yaṃ hissa, bhikkhave, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ anabhibhuyya viharato uppajjeyyuṃ āsavā vighātapariḷāhā, uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya viharato evaṃsa te āsavā vighātapariḷāhā na honti.
For, bhikkhus, if he were to dwell without overcoming arisen loss… and so on… arisen fame… arisen disrepute… arisen honor… arisen dishonor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, defilements, vexations, and fevers would arise in him; but dwelling having overcome arisen evil friendship, those defilements, vexations, and fevers do not arise in him.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người sống không chế ngự được không lợi lộc đã khởi lên… không chế ngự được danh tiếng… không chế ngự được không danh tiếng… không chế ngự được sự cung kính… không chế ngự được sự không cung kính… không chế ngự được ác dục… không chế ngự được ác hữu đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và sự khổ não sẽ khởi lên; nếu sống chế ngự được ác hữu đã khởi lên, thì các lậu hoặc, sự phiền não và sự khổ não ấy sẽ không khởi lên.
Idaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu atthavasaṃ paṭicca uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya; uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ … uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya vihareyya.
This, bhikkhus, is the purpose for which a bhikkhu should dwell having overcome, having overcome arisen gain; arisen loss… and so on… arisen fame… arisen disrepute… arisen honor… arisen dishonor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, having overcome, having overcome.
Này các Tỳ-khưu, vì mục đích này mà một Tỳ-khưu nên sống chế ngự được lợi lộc đã khởi lên; chế ngự được không lợi lộc đã khởi lên… chế ngự được danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được không danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được sự cung kính đã khởi lên… chế ngự được sự không cung kính đã khởi lên… chế ngự được ác dục… chế ngự được ác hữu đã khởi lên.
101
‘‘Tasmātiha, bhikkhave, evaṃ sikkhitabbaṃ – uppannaṃ lābhaṃ abhibhuyya abhibhuyya viharissāma, uppannaṃ alābhaṃ…pe… uppannaṃ yasaṃ… uppannaṃ ayasaṃ… uppannaṃ sakkāraṃ… uppannaṃ asakkāraṃ… uppannaṃ pāpicchataṃ… uppannaṃ pāpamittataṃ abhibhuyya abhibhuyya viharissāmāti.
‘‘Therefore, bhikkhus, you should train yourselves thus: ‘We will dwell having overcome, having overcome arisen gain; arisen loss… and so on… arisen fame… arisen disrepute… arisen honor… arisen dishonor… arisen evil wishes… arisen evil friendship, having overcome, having overcome.’
Do đó, này các Tỳ-khưu, các con nên học tập như sau: ‘Chúng ta sẽ sống chế ngự được lợi lộc đã khởi lên, chế ngự được không lợi lộc đã khởi lên… chế ngự được danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được không danh tiếng đã khởi lên… chế ngự được sự cung kính đã khởi lên… chế ngự được sự không cung kính đã khởi lên… chế ngự được ác dục… chế ngự được ác hữu đã khởi lên.’
Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.
Thus, bhikkhus, should you train yourselves.’’
Này các Tỳ-khưu, các con nên học tập như vậy.”
102
‘‘Ettāvatā, bhante uttara, manussesu catasso parisā – bhikkhū, bhikkhuniyo, upāsakā, upāsikāyo.
“Venerable Uttara, there are four assemblies among humans: bhikkhus, bhikkhunis, male lay followers, and female lay followers.
“Bạch Đại đức Uttara, trong loài người có bốn hội chúng: Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
Nāyaṃ dhammapariyāyo kismiñci upaṭṭhito* .
This discourse did not originate in any of them.
Pháp môn này không phải do bất kỳ ai trong số họ thuyết giảng.
Uggaṇhatu, bhante, āyasmā uttaro imaṃ dhammapariyāyaṃ.
Venerable sir, let Venerable Uttara learn this discourse by heart.
Bạch Đại đức, xin Tôn giả Uttara hãy học thuộc pháp môn này.
Pariyāpuṇātu, bhante, āyasmā uttaro imaṃ dhammapariyāyaṃ.
Venerable sir, let Venerable Uttara master this discourse by recitation.
Bạch Đại đức, xin Tôn giả Uttara hãy thọ trì pháp môn này.
Dhāretu, bhante, āyasmā uttaro imaṃ dhammapariyāyaṃ.
Venerable sir, let Venerable Uttara retain this discourse.
Bạch Đại đức, xin Tôn giả Uttara hãy ghi nhớ pháp môn này.
Atthasaṃhito ayaṃ, bhante, dhammapariyāyo ādibrahmacariyako’’ti* .
Venerable sir, this discourse is connected with the goal, it is fundamental to the holy life.”
Bạch Đại đức, pháp môn này hữu ích, là khởi đầu cho Phạm hạnh.”
Aṭṭhamaṃ.
The eighth.
Tám.
103
9. Nandasuttaṃ
9. Nandasutta
9. Kinh Nanda
104
9. ‘‘‘Kulaputto’ti, bhikkhave, nandaṃ sammā vadamāno vadeyya.
9. ‘‘Bhikkhus, one who rightly calls Nanda a ‘man of good family’ would be speaking correctly.
“Này các Tỳ-khưu, nếu nói đúng về Nanda, thì nên nói ‘là thiện gia nam tử’.
‘Balavā’ti, bhikkhave, nandaṃ sammā vadamāno vadeyya.
Bhikkhus, one who rightly calls Nanda ‘strong’ would be speaking correctly.
Này các Tỳ-khưu, nếu nói đúng về Nanda, thì nên nói ‘là người có sức mạnh’.
‘Pāsādiko’ti, bhikkhave, nandaṃ sammā vadamāno vadeyya.
Bhikkhus, one who rightly calls Nanda ‘charming’ would be speaking correctly.
Này các Tỳ-khưu, nếu nói đúng về Nanda, thì nên nói ‘là người đáng kính’.
‘Tibbarāgo’ti, bhikkhave, nandaṃ sammā vadamāno vadeyya.
Bhikkhus, one who rightly calls Nanda ‘intensely passionate’ would be speaking correctly.
Này các Tỳ-khưu, nếu nói đúng về Nanda, thì nên nói ‘là người có dục vọng mạnh mẽ’.
Kimaññatra, bhikkhave, nando indriyesu guttadvāro, bhojane mattaññū, jāgariyaṃ anuyutto, satisampajaññena samannāgato, yehi* nando sakkoti paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carituṃ!
What else, bhikkhus, is there to say about Nanda, who has his sense doors guarded, is moderate in eating, devoted to wakefulness, endowed with mindfulness and clear comprehension, by which Nanda is able to lead the holy life perfectly and purely!
Này các Tỳ-khưu, còn gì khác nữa? Nanda là người hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn uống, tinh cần tỉnh thức, thành tựu chánh niệm và tỉnh giác, nhờ đó Nanda có thể sống Phạm hạnh một cách đầy đủ và hoàn toàn thanh tịnh!
Tatridaṃ, bhikkhave, nandassa indriyesu guttadvāratāya hoti.
Among these, bhikkhus, this is Nanda’s guarding of the sense doors.
Này các Tỳ-khưu, đây là cách Nanda hộ trì các căn.
Sace, bhikkhave, nandassa puratthimā disā āloketabbā hoti, sabbaṃ cetasā samannāharitvā nando puratthimaṃ disaṃ āloketi – ‘evaṃ me puratthimaṃ disaṃ ālokayato nābhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantī’ti.
Monks, if Nanda is to look at the eastern direction, Nanda, having fully brought everything to mind, looks at the eastern direction, thinking: ‘As I look at the eastern direction in this way, wicked, unwholesome states of covetousness and displeasure will not flow into me.’
Này các Tỳ-khưu, nếu Nanda cần nhìn về hướng đông, Nanda sẽ tập trung toàn bộ tâm ý và nhìn về hướng đông, với suy nghĩ: ‘Khi ta nhìn về hướng đông như vậy, các pháp bất thiện, ác độc như tham lam và buồn rầu sẽ không xâm nhập ta.’
Itiha tattha sampajāno hoti.
Thus, he is clearly comprehending in that regard.
Như vậy, tại đó, vị ấy sống với sự tỉnh giác.
105
‘‘Sace, bhikkhave, nandassa pacchimā disā āloketabbā hoti…pe… uttarā disā āloketabbā hoti… dakkhiṇā disā āloketabbā hoti… uddhaṃ ulloketabbā hoti… adho oloketabbā hoti… anudisā anuviloketabbā hoti, sabbaṃ cetasā samannāharitvā nando anudisaṃ anuviloketi – ‘evaṃ me anudisaṃ anuvilokayato nābhijjhādomanassā pāpakā akusalā dhammā anvāssavissantī’ti.
“Monks, if Nanda is to look at the western direction… if he is to look at the northern direction… if he is to look at the southern direction… if he is to look upwards… if he is to look downwards… if he is to look around the intermediate directions, Nanda, having fully brought everything to mind, looks around the intermediate directions, thinking: ‘As I look around the intermediate directions in this way, wicked, unwholesome states of covetousness and displeasure will not flow into me.’
Này các Tỳ-khưu, nếu Nanda cần nhìn về hướng tây… hướng bắc… hướng nam… cần nhìn lên trên… nhìn xuống dưới… cần nhìn về các hướng phụ, Nanda sẽ tập trung toàn bộ tâm ý và nhìn về các hướng phụ, với suy nghĩ: ‘Khi ta nhìn về các hướng phụ như vậy, các pháp bất thiện, ác độc như tham lam và buồn rầu sẽ không xâm nhập ta.’
Itiha tattha sampajāno hoti.
Thus, he is clearly comprehending in that regard.
Như vậy, tại đó, vị ấy sống với sự tỉnh giác.
Idaṃ kho, bhikkhave, nandassa indriyesu guttadvāratāya hoti.
This, monks, is Nanda’s guarding of the sense-doors.
Này các Tỳ-khưu, đây là cách Nanda hộ trì các căn.
106
‘‘Tatridaṃ, bhikkhave, nandassa bhojane mattaññutāya hoti.
“Herein, monks, this is Nanda’s moderation in eating.
Này các Tỳ-khưu, đây là cách Nanda biết tiết độ trong ăn uống.
Idha, bhikkhave, nando paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti – ‘neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro cā’ti.
Here, monks, Nanda, having reflected wisely, takes food: ‘Not for sport, not for indulgence, not for adornment, not for beautification, but only for the maintenance and sustenance of this body, for the cessation of harm, and for the support of the holy life, thinking: “I will thus put an end to the old feeling and will not give rise to a new feeling, and there will be for me sustenance, blamelessness, and a comfortable abiding.”’
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Nanda quán xét kỹ lưỡng và thọ dụng thức ăn, không phải để vui chơi, không phải để say đắm, không phải để trang sức, không phải để làm đẹp, mà chỉ để duy trì thân này, để tiếp tục cuộc sống, để chấm dứt sự tổn hại, để hỗ trợ Phạm hạnh. Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy, ta sẽ loại bỏ cảm giác cũ (đói), và không tạo ra cảm giác mới (no quá); cuộc sống của ta sẽ được duy trì, không có lỗi lầm, và sống được an lạc.’
Idaṃ kho, bhikkhave, nandassa bhojane mattaññutāya hoti.
This, monks, is Nanda’s moderation in eating.
Này các Tỳ-khưu, đây là cách Nanda biết tiết độ trong ăn uống.
107
‘‘Tatridaṃ, bhikkhave, nandassa jāgariyānuyogasmiṃ hoti.
“Herein, monks, this is Nanda’s devotion to wakefulness.
Này các Tỳ-khưu, đây là cách Nanda tinh cần tỉnh thức.
Idha, bhikkhave, nando divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti; rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti; rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā; rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti.
Here, monks, Nanda purifies his mind from obstructive states by walking and sitting during the day; during the first watch of the night, he purifies his mind from obstructive states by walking and sitting; during the middle watch of the night, he lies down on his right side in the lion’s posture, placing one foot on the other, mindful and clearly comprehending, having fixed in his mind the perception of rising; during the last watch of the night, he rises and purifies his mind from obstructive states by walking and sitting.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Nanda thanh lọc tâm mình khỏi những pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền vào ban ngày; vào canh đầu của đêm, thanh lọc tâm mình khỏi những pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền; vào canh giữa của đêm, nằm thế sư tử, nghiêng bên phải, đặt chân này lên chân kia, với chánh niệm và tỉnh giác, chú tâm vào ý niệm thức dậy; vào canh cuối của đêm, thức dậy và thanh lọc tâm mình khỏi những pháp chướng ngại bằng cách đi kinh hành và ngồi thiền.
Idaṃ kho, bhikkhave, nandassa jāgariyānuyogasmiṃ hoti.
This, monks, is Nanda’s devotion to wakefulness.
Này các Tỳ-khưu, đây chính là sự tinh cần thức tỉnh của Nanda.
108
‘‘Tatridaṃ, bhikkhave, nandassa satisampajaññasmiṃ hoti.
“Herein, monks, this is Nanda’s mindfulness and clear comprehension.
‘‘Này các Tỳ-khưu, đây chính là chánh niệm và tỉnh giác của Nanda.
Idha, bhikkhave, nandassa viditā vedanā uppajjanti, viditā upaṭṭhahanti, viditā abbhatthaṃ gacchanti; viditā saññā…pe… viditā vitakkā…pe… abbhatthaṃ gacchanti.
Here, monks, Nanda’s feelings arise known, they persist known, they cease known; his perceptions… his thoughts… cease known.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, Nanda biết rõ các cảm thọ khởi lên, biết rõ chúng tồn tại, biết rõ chúng biến mất; biết rõ các tưởng… biết rõ các tầm… biến mất.
Idaṃ kho, bhikkhave, nandassa satisampajaññasmiṃ hoti.
This, monks, is Nanda’s mindfulness and clear comprehension.
Này các Tỳ-khưu, đây chính là chánh niệm và tỉnh giác của Nanda.
109
‘‘Kimaññatra, bhikkhave, nando indriyesu guttadvāro, bhojane mattaññū, jāgariyaṃ anuyutto, satisampajaññena samannāgato, yehi nando sakkoti paripuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ caritu’’nti!
What else, monks, is there for Nanda—who guards the sense-doors, is moderate in eating, devoted to wakefulness, and endowed with mindfulness and clear comprehension—by which he is able to lead the holy life fully and purely?
‘‘Này các Tỳ-khưu, Nanda có thể thực hành phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh, trọn vẹn, nếu không phải là người hộ trì các căn, biết tiết độ trong ăn uống, tinh cần thức tỉnh, và đầy đủ chánh niệm, tỉnh giác thì là gì?”
Navamaṃ.
The Ninth.
Bài thứ chín.
110
10. Kāraṇḍavasuttaṃ
10. Kāraṇḍava Sutta
10. Kāraṇḍavasuttaṃ
111
10. Ekaṃ samayaṃ bhagavā campāyaṃ viharati gaggarāya pokkharaṇiyā tīre.
At one time the Blessed One was staying in Campā, on the bank of Gaggarā’s lotus pond.
Một thời, Đức Thế Tôn trú tại Campā, bên bờ hồ Gaggarā.
Tena kho pana samayena bhikkhū bhikkhuṃ āpattiyā codenti.
Now at that time, monks were accusing a monk of an offense.
Khi ấy, các Tỳ-khưu cáo buộc một Tỳ-khưu về một lỗi.
So bhikkhu bhikkhūhi āpattiyā codiyamāno aññenāññaṃ paṭicarati, bahiddhā kathaṃ apanāmeti, kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti.
That monk, being accused of an offense by the monks, would turn away to another matter, would divert the conversation externally, and would manifest anger, ill will, and displeasure.
Tỳ-khưu ấy, khi bị các Tỳ-khưu cáo buộc về một lỗi, lại nói quanh co, đưa chuyện ra ngoài, biểu lộ sự tức giận, oán hờn và bất mãn.
112
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘niddhamathetaṃ, bhikkhave, puggalaṃ; niddhamathetaṃ, bhikkhave, puggalaṃ.
Then the Blessed One addressed the monks: “Expel this person, monks; expel this person, monks.
Rồi Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu và dạy: ‘‘Này các Tỳ-khưu, hãy trục xuất người này; này các Tỳ-khưu, hãy trục xuất người này.
Apaneyyeso* , bhikkhave, puggalo.
This person, monks, is to be expelled.
Này các Tỳ-khưu, người này đáng bị trục xuất.
Kiṃ vo tena paraputtena visodhitena* !
What good is there for you in this outsider, this one to be purified?
Các ông thanh lọc đứa con của người ngoài này để làm gì?
Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ – yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti.
Here, monks, the going forward, the turning back, the looking forward, the looking around, the bending, the stretching, the wearing of the outer robe, bowl, and robes of a certain person is just like that of other good monks—as long as the monks do not see his offense.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, có một số người có dáng đi tới, đi lui, nhìn ngắm, ngó nghiêng, co duỗi tay chân, mang y, bát như những Tỳ-khưu tốt khác—cho đến khi các Tỳ-khưu chưa thấy lỗi của người ấy.
Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti – ‘samaṇadūsīvāyaṃ* samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti* .
However, when bhikkhus see an offense of that bhikkhu, they know him thus: ‘This bhikkhu is indeed a corrupting bhikkhu, a bhikkhu like chaff, a bhikkhu like rubbish.’
Nhưng khi các Tỳ-khưu thấy lỗi của người ấy, họ biết người ấy như sau: ‘Đây là kẻ làm hư hoại Sa-môn, là Sa-môn vỏ trấu, là Sa-môn rơm rác’.
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti.
Having known him thus, they cast him out.
Biết vậy, họ trục xuất người ấy ra ngoài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesī’’ti!
‘Lest he corrupt other good bhikkhus!’
Để người ấy không làm hư hoại các Tỳ-khưu tốt khác!”
113
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, sampanne yavakaraṇe yavadūsī* jāyetha yavapalāpo yavakāraṇḍavoti.
“Bhikkhus, just as in a field of ripe barley, a barley-corrupting plant, a barley-chaff plant, a barley-rubbish plant might arise.
‘‘Ví như, này các Tỳ-khưu, trong một cánh đồng lúa mạch đã chín, có một cây lúa mạch hư hại, một cây lúa mạch vỏ trấu, một cây lúa mạch rơm rác mọc lên.
Tassa tādisaṃyeva mūlaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ; tādisaṃyeva nāḷaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ; tādisaṃyeva pattaṃ hoti, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ yavānaṃ – yāvassa sīsaṃ na nibbattati.
As long as its head has not emerged, its root is just like that of other good barley plants; its stalk is just like that of other good barley plants; its leaf is just like that of other good barley plants.
Rễ của nó cũng giống như rễ của những cây lúa mạch tốt khác; thân của nó cũng giống như thân của những cây lúa mạch tốt khác; lá của nó cũng giống như lá của những cây lúa mạch tốt khác—cho đến khi bông lúa chưa trổ ra.
Yato ca khvassa sīsaṃ nibbattati, tamenaṃ evaṃ jānanti – ‘yavadūsīvāyaṃ yavapalāpo yavakāraṇḍavo’ti.
But when its head emerges, they know it thus: ‘This is a barley-corrupting plant, a barley-chaff plant, a barley-rubbish plant.’
Nhưng khi bông lúa của nó trổ ra, người ta biết nó như sau: ‘Đây là cây lúa mạch hư hại, là cây lúa mạch vỏ trấu, là cây lúa mạch rơm rác’.
Tamenaṃ iti viditvā samūlaṃ uppāṭetvā bahiddhā yavakaraṇassa chaḍḍenti.
Having known it thus, they pull it out by the root and cast it outside the barley field.
Biết vậy, người ta nhổ nó tận gốc và vứt ra ngoài cánh đồng lúa mạch.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake yave dūsesīti!
‘Lest it corrupt other good barley plants!’
Để nó không làm hư hoại những cây lúa mạch tốt khác!
114
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ – yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti.
“Even so, bhikkhus, in this teaching, the going forth and returning, looking and glancing, bending and stretching, and the wearing of the outer robe, bowl, and inner robe of a certain individual is just like that of other good bhikkhus—as long as bhikkhus do not see his offense.
‘‘Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, có một số người có dáng đi tới, đi lui, nhìn ngắm, ngó nghiêng, co duỗi tay chân, mang y, bát như những Tỳ-khưu tốt khác—cho đến khi các Tỳ-khưu chưa thấy lỗi của người ấy.
Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti – ‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.
However, when bhikkhus see an offense of that bhikkhu, they know him thus: ‘This bhikkhu is indeed a corrupting bhikkhu, a bhikkhu like chaff, a bhikkhu like rubbish.’
Nhưng khi các Tỳ-khưu thấy lỗi của người ấy, họ biết người ấy như sau: ‘Đây là kẻ làm hư hoại Sa-môn, là Sa-môn vỏ trấu, là Sa-môn rơm rác’.
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti.
Having known him thus, they cast him out.
Biết vậy, họ trục xuất người ấy ra ngoài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.
‘Lest he corrupt other good bhikkhus!’
Để người ấy không làm hư hoại các Tỳ-khưu tốt khác!
115
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, mahato dhaññarāsissa phuṇamānassa* tattha yāni tāni dhaññāni daḷhāni sāravantāni tāni ekamantaṃ puñjaṃ hoti, yāni pana tāni dhaññāni dubbalāni palāpāni tāni vāto ekamantaṃ apavahati* .
“Bhikkhus, just as when a large pile of grain is winnowed, those grains that are firm and full of essence form one heap, while those grains that are weak and chaff-like are blown away by the wind to one side.
‘‘Ví như, này các Tỳ-khưu, khi một đống ngũ cốc lớn đang được sàng sảy, những hạt ngũ cốc chắc và có chất lượng tốt được chất thành một đống riêng, còn những hạt ngũ cốc yếu, vỏ trấu thì gió thổi dạt sang một bên.
Tamenaṃ sāmikā sammajjaniṃ gahetvā bhiyyosomattāya apasammajjanti.
Then the owners take a broom and sweep them away even more thoroughly.
Các chủ nhân dùng chổi quét dọn chúng ra xa hơn nữa.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake dhaññe dūsesīti!
‘Lest they corrupt other good grains!’
Để chúng không làm hư hoại những hạt ngũ cốc tốt khác!
Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ – yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti.
Even so, bhikkhus, in this teaching, the going forth and returning, looking and glancing, bending and stretching, and the wearing of the outer robe, bowl, and inner robe of a certain individual is just like that of other good bhikkhus—as long as bhikkhus do not see his offense.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, có một số người có dáng đi tới, đi lui, nhìn ngắm, ngó nghiêng, co duỗi tay chân, mang y, bát như những Tỳ-khưu tốt khác—cho đến khi các Tỳ-khưu chưa thấy lỗi của người ấy.
Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti – ‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.
However, when bhikkhus see an offense of that bhikkhu, they know him thus: ‘This bhikkhu is indeed a corrupting bhikkhu, a bhikkhu like chaff, a bhikkhu like rubbish.’
Nhưng khi các Tỳ-khưu thấy lỗi của người ấy, họ biết người ấy như sau: ‘Đây là kẻ làm hư hoại Sa-môn, là Sa-môn vỏ trấu, là Sa-môn rơm rác’.
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti.
Having known him thus, they cast him out.
Biết vậy, họ trục xuất người ấy ra ngoài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesīti.
‘Lest he corrupt other good bhikkhus!’
Để người ấy không làm hư hoại các Tỳ-khưu tốt khác!
116
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, puriso udapānapanāḷiyatthiko tiṇhaṃ kuṭhāriṃ* ādāya vanaṃ paviseyya.
“Bhikkhus, just as a man, desiring a water-channel for a well, might take a sharp axe and enter a forest.
‘‘Ví như, này các Tỳ-khưu, một người đàn ông muốn làm ống dẫn nước từ giếng, mang theo một chiếc rìu sắc bén và đi vào rừng.
So yaṃ yadeva rukkhaṃ kuṭhāripāsena ākoṭeyya tattha yāni tāni rukkhāni daḷhāni sāravantāni tāni kuṭhāripāsena ākoṭitāni kakkhaḷaṃ paṭinadanti; yāni pana tāni rukkhāni antopūtīni avassutāni kasambujātāni tāni kuṭhāripāsena ākoṭitāni daddaraṃ paṭinadanti.
Whatever tree he strikes with the back of his axe, those trees that are firm and full of essence resound with a hard sound when struck with the back of the axe; but those trees that are rotten inside, oozing, and full of refuse resound with a crumbling sound when struck with the back of the axe.
Bất cứ cây nào ông ta dùng cán rìu gõ vào, những cây chắc chắn, có lõi tốt sẽ phát ra âm thanh cứng rắn khi bị gõ; còn những cây mục ruỗng bên trong, ẩm ướt, đầy rác rưởi sẽ phát ra âm thanh mục nát, vỡ vụn khi bị gõ.
Tamenaṃ mūle chindati, mūle chinditvā agge chindati, agge chinditvā anto suvisodhitaṃ visodheti, anto suvisodhitaṃ visodhetvā udapānapanāḷiṃ yojeti.
Then he cuts it at the root; having cut it at the root, he cuts it at the top; having cut it at the top, he thoroughly cleans out the inside; having thoroughly cleaned out the inside, he fits it as a water-channel for the well.
Ông ta chặt cây đó ở gốc, chặt ở gốc xong lại chặt ở ngọn, chặt ở ngọn xong lại làm sạch bên trong thật kỹ càng, làm sạch bên trong thật kỹ càng xong rồi lắp đặt thành ống dẫn nước từ giếng.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekaccassa puggalassa tādisaṃyeva hoti abhikkantaṃ paṭikkantaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ samiñjitaṃ pasāritaṃ saṅghāṭipattacīvaradhāraṇaṃ, seyyathāpi aññesaṃ bhaddakānaṃ bhikkhūnaṃ – yāvassa bhikkhū āpattiṃ na passanti.
Even so, bhikkhus, in this teaching, the going forth and returning, looking and glancing, bending and stretching, and the wearing of the outer robe, bowl, and inner robe of a certain individual is just like that of other good bhikkhus—as long as bhikkhus do not see his offense.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, ở đây, có một số người có dáng đi tới, đi lui, nhìn ngắm, ngó nghiêng, co duỗi tay chân, mang y, bát như những Tỳ-khưu tốt khác—cho đến khi các Tỳ-khưu chưa thấy lỗi của người ấy.
Yato ca khvassa bhikkhū āpattiṃ passanti, tamenaṃ evaṃ jānanti – ‘samaṇadūsīvāyaṃ samaṇapalāpo samaṇakāraṇḍavo’ti.
However, when bhikkhus see an offense of that bhikkhu, they know him thus: ‘This bhikkhu is indeed a corrupting bhikkhu, a bhikkhu like chaff, a bhikkhu like rubbish.’
Nhưng khi các Tỳ-khưu thấy lỗi của người ấy, họ biết người ấy như sau: ‘Đây là kẻ làm hư hoại Sa-môn, là Sa-môn vỏ trấu, là Sa-môn rơm rác’.
Tamenaṃ iti viditvā bahiddhā nāsenti.
Having known him thus, they expel him outside.
Biết vậy, họ trục xuất người ấy ra ngoài.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì lý do gì?
Mā aññe bhaddake bhikkhū dūsesī’’ti.
"Lest he corrupt other good bhikkhus."
Để người ấy không làm hư hoại các Tỳ-khưu tốt khác!”
117
‘‘Saṃvāsāyaṃ vijānātha, pāpiccho kodhano iti;
“By association, know this one: ‘He is evil-willed and wrathful;
‘‘Do sống chung, các ông hãy biết rằng: ‘Người này có ý muốn xấu xa, hay giận dữ;
118
Makkhī thambhī paḷāsī ca, issukī maccharī saṭho.
Malicious, stubborn, arrogant, envious, stingy, and deceitful.’
Người này hay che giấu lỗi lầm, cứng đầu, ganh tị, bỏn xẻn, xảo quyệt.”
119
‘‘Santavāco janavati, samaṇo viya bhāsati;
“Gentle-spoken in public, he speaks like a samaṇa;
“Lời nói hiền hòa giữa mọi người, nói năng như một vị Sa-môn;
120
Raho karoti karaṇaṃ, pāpadiṭṭhi anādaro.
But in secret, he does deeds, with wrong views, disrespectful.
Nơi vắng vẻ làm việc ác, tà kiến, không kính trọng.
121
‘‘Saṃsappī ca musāvādī, taṃ viditvā yathātathaṃ;
“Creeping and a liar, having truly known him thus,
Và người đó hay lay động, nói dối. Sau khi biết rõ sự thật về người ấy,
122
Sabbe samaggā hutvāna, abhinibbajjayātha* naṃ.
All of you, being united, should expel him.
Tất cả hãy hòa hợp lại, và trục xuất người ấy ra.
123
‘‘Kāraṇḍavaṃ* niddhamatha, kasambuṃ apakassatha* ;
“Cast out the refuse, remove the dregs;
Hãy loại bỏ kẻ cặn bã, hãy kéo ra kẻ dơ bẩn;
124
Tato palāpe vāhetha, assamaṇe samaṇamānine.
Then sweep away the chaff, those who are not samaṇas but pretend to be.
Rồi hãy quét sạch những hạt lép, những kẻ không phải Sa-môn mà tự xưng Sa-môn.
125
‘‘Niddhamitvāna pāpicche, pāpaācāragocare;
“Having expelled the evil-willed, those with evil conduct and resort,
Sau khi đã trục xuất những kẻ có ác ý, có hành vi và trú xứ bất thiện,
126
Suddhāsuddhehi saṃvāsaṃ, kappayavho patissatā;
You, being mindful, should live in harmony with the pure among the pure;
Các ngươi hãy sống chung với những người thanh tịnh, chánh niệm;
127
Tato samaggā nipakā, dukkhassantaṃ karissathā’’ti.
Then, united and discerning, you will make an end of suffering.”
Rồi các ngươi, hòa hợp và khôn ngoan, sẽ chấm dứt khổ đau.”
dasamaṃ;
The Tenth.
Thứ mười;
128
Tassuddānaṃ –
The Summary of that:
Tóm tắt:
129
Mettaṃ paññā ca dve piyā, dve lokā dve vipattiyo;
Mettā, Paññā, and two Piyā, two Lokas, two Vipattis;
Metta, Paññā và hai Piyā, hai Lokā, hai Vipattiyo;
130
Devadatto ca uttaro, nando kāraṇḍavena cāti.
Devadatta and Uttara, Nanda, and Kāraṇḍava.
Devadatta và Uttara, Nanda cùng Kāraṇḍava.
Next Page →