Table of Contents

Tikanipātapāḷi

Edit
555
3. Venāgapurasuttaṃ
3. The Venāgapura Sutta
3. Kinh Venāgapura
556
64. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena venāgapuraṃ nāma kosalānaṃ brāhmaṇagāmo tadavasari.
At one time the Blessed One, while wandering in the Kosala country with a large community of bhikkhus, arrived at a brahmin village of the Kosalans named Venāgapura.
Một thời, Thế Tôn đang du hành trong xứ Kosala cùng với đại chúng Tỳ-khưu, Ngài đến một làng Bà-la-môn của dân Kosala tên là Venāgapura.
Assosuṃ kho venāgapurikā brāhmaṇagahapatikā – ‘‘samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito venāgapuraṃ anuppatto.
The brahmin householders of Venāgapura heard: “It is said that the recluse Gotama, a son of the Sakyans who has gone forth from the Sakyan clan, has arrived at Venāgapura.
Các Bà-la-môn gia chủ ở Venāgapura nghe nói: “Thưa quý vị, Sa-môn Gotama, con của dòng Sakya, đã xuất gia từ gia tộc Sakya, đã đến Venāgapura.
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti* .
Indeed, such a good report has spread concerning that Blessed Gotama: ‘That Blessed One is accomplished, fully enlightened, endowed with knowledge and conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed trainer of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Buddha, the Blessed One.’”
Tiếng tốt lành như vậy đã lan truyền về Tôn giả Gotama: ‘Đó là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ Minh Hạnh, Thiện Thệ, bậc Hiểu Biết Thế Gian, bậc Vô Thượng Điều Ngự Sĩ, bậc Đạo Sư của chư Thiên và loài người, bậc Phật, bậc Thế Tôn.’
So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ samārakaṃ sabrahmakaṃ sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti.
He, having directly known and realized this world—with its devas, Māra, Brahmā, ascetics and brahmins, and its generation of devas and humans—proclaims it.
Ngài tự mình chứng ngộ bằng thắng trí thế giới này cùng với chư Thiên, Ma-vương, Phạm Thiên, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, loài người và chư Thiên, rồi Ngài tuyên bố.
So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti.
He teaches the Dhamma that is good in the beginning, good in the middle, and good in the end, with meaning and with letter, and he proclaims the utterly complete and purified holy life.
Ngài thuyết pháp toàn hảo ở phần đầu, toàn hảo ở phần giữa, toàn hảo ở phần cuối, với ý nghĩa và văn tự, Ngài tuyên bố một đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn và thanh tịnh.
Sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’’ti.
"Indeed, it is good to see such Arahants."
Thật tốt lành khi được chiêm ngưỡng những bậc A-la-hán như vậy.”
557
Atha kho venāgapurikā brāhmaṇagahapatikā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce nāmagottaṃ sāvetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then the brahmin householders of Venāgapura approached the Blessed One. Having approached, some bowed to the Blessed One and sat down to one side. Some exchanged greetings with the Blessed One, and after an amiable and courteous conversation, sat down to one side. Some, raising their joined hands towards the Blessed One, sat down to one side. Some announced their name and clan and sat down to one side. Some remained silent and sat down to one side.
Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Venāgapura đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số người chào hỏi Thế Tôn, sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật và đáng nhớ, họ ngồi xuống một bên, một số người chắp tay hướng về Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên, một số người giữ im lặng rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho venāgapuriko vacchagotto brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
Seated to one side, the brahmin Vacchagotta of Venāgapura said to the Blessed One:
Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vaccha-gotta ở Venāgapura bạch Thế Tôn rằng:
558
‘‘Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama!
"It is wonderful, good Gotama, it is amazing, good Gotama!
“Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật phi thường thay, Tôn giả Gotama!
Yāvañcidaṃ bhoto gotamassa vippasannāni indriyāni, parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto.
How exceedingly clear are the good Gotama's faculties, how pure and radiant his complexion.
Các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, sắc da thật thanh tịnh, rạng rỡ.
Seyyathāpi, bho gotama, sāradaṃ badarapaṇḍuṃ* parisuddhaṃ hoti pariyodātaṃ; evamevaṃ bhoto gotamassa vippasannāni indriyāni parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto.
Just as, good Gotama, a ripe jujube fruit in autumn is pure and radiant, even so are the good Gotama's faculties exceedingly clear, and his complexion pure and radiant.
Cũng như, Tôn giả Gotama, một quả táo tàu chín vào mùa thu thì trong sáng và rạng rỡ; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, sắc da thật thanh tịnh, rạng rỡ.
Seyyathāpi, bho gotama, tālapakkaṃ sampati bandhanā pamuttaṃ* parisuddhaṃ hoti pariyodātaṃ; evamevaṃ bhoto gotamassa vippasannāni indriyāni parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto.
Just as, good Gotama, a ripe palm fruit, just released from its stalk, is pure and radiant, even so are the good Gotama's faculties exceedingly clear, and his complexion pure and radiant.
Cũng như, Tôn giả Gotama, một quả chà là vừa rụng khỏi cuống thì trong sáng và rạng rỡ; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, sắc da thật thanh tịnh, rạng rỡ.
Seyyathāpi, bho gotama, nekkhaṃ* jambonadaṃ dakkhakammāraputtasuparikammakataṃ ukkāmukhe sukusalasampahaṭṭhaṃ paṇḍukambale nikkhittaṃ bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṃ bhoto gotamassa vippasannāni indriyāni parisuddho chavivaṇṇo pariyodāto.
Just as, good Gotama, a piece of Jambu gold, well-worked by a skilled goldsmith's son, expertly hammered in the crucible, when placed on a yellow cloth, shines, blazes, and radiates, even so are the good Gotama's faculties exceedingly clear, and his complexion pure and radiant.
Cũng như, Tôn giả Gotama, một thỏi vàng Jambonada được con thợ kim hoàn lành nghề rèn giũa kỹ lưỡng, được nung chảy khéo léo trong lò, khi đặt trên tấm vải màu vàng nhạt thì tỏa sáng, rực rỡ và chói lọi; cũng vậy, các căn của Tôn giả Gotama thật trong sáng, sắc da thật thanh tịnh, rạng rỡ.”
Yāni tāni, bho gotama, uccāsayanamahāsayanāni, seyyathidaṃ – āsandi pallaṅko gonako cittako paṭikā paṭalikā tūlikā vikatikā uddalomī ekantalomī kaṭṭissaṃ koseyyaṃ kuttakaṃ hatthattharaṃ assattharaṃ rathattharaṃ ajinappaveṇī kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ* sauttaracchadaṃ ubhatolohitakūpadhānaṃ, evarūpānaṃ nūna bhavaṃ gotamo uccāsayanamahāsayanānaṃ nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti.
Those high and luxurious sleeping places, good Gotama, such as a couch, a divan, a goatskin rug, a variegated rug, a silk rug, a woolen rug, a cotton rug, a rug with long fleece, a rug with one-sided fleece, a rug embroidered with gems, a silk mattress, a rug woven with gold and silver threads, an elephant rug, a horse rug, a chariot rug, an antelope skin rug, a rug made of the finest antelope hides, with a canopy and red pillows at both ends—surely the good Gotama obtains such high and luxurious sleeping places at will, without difficulty, without trouble."
“Thưa Tôn giả Gotama, những loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá đó – cụ thể là: ghế dài (āsandi), ghế bành (pallaṅka), thảm lông dài (gonaka), thảm lông có hình thêu hoa văn (cittaka), thảm lông trắng (paṭikā), thảm lông có hoa văn thêu (paṭalikā), nệm bông (tūlikā), thảm lông thêu hình thú vật (vikatikā), thảm lông có lông mọc hai mặt (uddalomī), thảm lông có lông mọc một mặt (ekantalomī), thảm lụa thêu vàng (kaṭṭissaṃ), thảm lụa (koseyyaṃ), thảm trải có mười sáu vũ công (kuttakaṃ), thảm trải lưng voi (hatthattharaṃ), thảm trải lưng ngựa (assattharaṃ), thảm trải xe (rathattharaṃ), thảm da thú (ajinappaveṇī), thảm da hươu Kadalī tốt nhất (kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ), có tấm phủ trên (sauttaracchadaṃ), có hai gối đỏ ở hai đầu (ubhatolohitakūpadhānaṃ) – chắc hẳn Tôn giả Gotama được tùy ý thọ hưởng những loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá như vậy một cách dễ dàng, không khó khăn gì.”
559
‘‘Yāni kho pana tāni, brāhmaṇa, uccāsayanamahāsayanāni, seyyathidaṃ – āsandi pallaṅko gonako cittako paṭikā paṭalikā tūlikā vikatikā uddalomī ekantalomī kaṭṭissaṃ koseyyaṃ kuttakaṃ hatthattharaṃ assattharaṃ rathattharaṃ ajinappaveṇī kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ sauttaracchadaṃ ubhatolohitakūpadhānaṃ.
"Indeed, brahmin, those high and luxurious sleeping places, such as a couch, a divan, a goatskin rug, a variegated rug, a silk rug, a woolen rug, a cotton rug, a rug with long fleece, a rug with one-sided fleece, a rug embroidered with gems, a silk mattress, a rug woven with gold and silver threads, an elephant rug, a horse rug, a chariot rug, an antelope skin rug, a rug made of the finest antelope hides, with a canopy and red pillows at both ends—
“Tuy nhiên, này Bà La Môn, những loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá đó – cụ thể là: ghế dài (āsandi), ghế bành (pallaṅka), thảm lông dài (gonaka), thảm lông có hình thêu hoa văn (cittaka), thảm lông trắng (paṭikā), thảm lông có hoa văn thêu (paṭalikā), nệm bông (tūlikā), thảm lông thêu hình thú vật (vikatikā), thảm lông có lông mọc hai mặt (uddalomī), thảm lông có lông mọc một mặt (ekantalomī), thảm lụa thêu vàng (kaṭṭissaṃ), thảm lụa (koseyyaṃ), thảm trải có mười sáu vũ công (kuttakaṃ), thảm trải lưng voi (hatthattharaṃ), thảm trải lưng ngựa (assattharaṃ), thảm trải xe (rathattharaṃ), thảm da thú (ajinappaveṇī), thảm da hươu Kadalī tốt nhất (kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ), có tấm phủ trên (sauttaracchadaṃ), có hai gối đỏ ở hai đầu (ubhatolohitakūpadhānaṃ).
Dullabhāni tāni pabbajitānaṃ laddhā ca pana* na kappanti.
they are difficult for renunciants to obtain, and even if obtained, they are not permissible.
Những thứ đó khó có được đối với người xuất gia, và nếu có được cũng không hợp lệ.”
560
‘‘Tīṇi kho, imāni, brāhmaṇa, uccāsayanamahāsayanāni, yesāhaṃ etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.
"There are, brahmin, three high and luxurious sleeping places that I now obtain at will, without difficulty, without trouble.
“Này Bà La Môn, có ba loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá mà Ta hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Ba loại đó là gì?
Dibbaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, brahmaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, ariyaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ.
A divine high and luxurious sleeping place, a brahmic high and luxurious sleeping place, and a noble high and luxurious sleeping place.
Giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của chư Thiên (dibbaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ); giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của Phạm Thiên (brahmaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ); giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của bậc Thánh (ariyaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ).
Imāni kho, brāhmaṇa, tīṇi uccāsayanamahāsayanāni, yesāhaṃ etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti.
These, brahmin, are the three high and luxurious sleeping places that I now obtain at will, without difficulty, without trouble."
Này Bà La Môn, đây là ba loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá mà Ta hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì.”
561
‘‘Katamaṃ pana taṃ, bho gotama, dibbaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassa bhavaṃ gotamo etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti?
"Which, then, good Gotama, is that divine high and luxurious sleeping place, which the good Gotama now obtains at will, without difficulty, without trouble?"
“Vậy thưa Tôn giả Gotama, giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của chư Thiên mà Tôn giả Gotama hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì đó là gì?”
‘‘Idhāhaṃ, brāhmaṇa, yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharāmi, so pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya tameva gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisāmi.
“Here, brahmin, whatever village or town I dwell near, in the forenoon, having dressed and taken my bowl and robes, I enter that same village or town for alms.
“Này Bà La Môn, ở đây, Ta trú ngụ gần một làng hay một thị trấn nào đó, vào buổi sáng, Ta đắp y, mang bát và đi vào làng hay thị trấn đó để khất thực.
So pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vanantaññeva pavisāmi* .
After the meal, having returned from the alms-round, I enter the edge of a forest.
Sau bữa ăn, khi đã trở về từ cuộc khất thực, Ta đi vào rừng.
So yadeva tattha honti tiṇāni vā paṇṇāni vā tāni ekajjhaṃ saṅgharitvā nisīdāmi pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
Whatever grasses or leaves are there, I gather them together and sit down, having folded my legs crosswise, held my body erect, and established mindfulness in front of me.
Ở đó, Ta gom những cỏ và lá cây lại, rồi ngồi kiết già, giữ thân ngay thẳng, thiết lập niệm trước mặt.
So vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi; vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi; pītiyā ca virāgā upekkhako ca viharāmi sato ca sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedemi, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti – ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi; sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.
Then, quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, I enter and remain in the first jhāna, which is accompanied by vitakka and vicāra, with piti and sukha born of seclusion; with the subsiding of vitakka and vicāra, I enter and remain in the second jhāna, which has inner tranquillity and singleness of mind, without vitakka and vicāra, with piti and sukha born of concentration; with the fading away of piti, I dwell equanimous, mindful and clearly comprehending, and experience sukha with the body, of which the Noble Ones declare: ‘He dwells equanimous, mindful, and in a pleasant abiding’—I enter and remain in the third jhāna; with the abandoning of sukha and dukkha, and with the previous disappearance of joy and sorrow, I enter and remain in the fourth jhāna, which is neither painful nor pleasant, and has purity of mindfulness due to equanimity.
Ta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất có tầm có tứ, có hỷ lạc do viễn ly sinh; diệt tầm tứ, nội tĩnh nhất tâm, chứng và trú thiền thứ hai không tầm không tứ, có hỷ lạc do định sinh; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng và trú thiền thứ ba mà các bậc Thánh gọi là ‘xả niệm lạc trú’; xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu trước, chứng và trú thiền thứ tư không khổ không lạc, tịnh niệm xả.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto caṅkamāmi, dibbo me eso tasmiṃ samaye caṅkamo hoti.
If, brahmin, being such, I walk, that walking of mine at that time is divine.
Này Bà La Môn, nếu Ta đi kinh hành trong trạng thái như vậy, thì đó là sự kinh hành của chư Thiên đối với Ta vào lúc đó.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto tiṭṭhāmi, dibbaṃ me etaṃ tasmiṃ samaye ṭhānaṃ hoti.
If, brahmin, being such, I stand, that standing of mine at that time is divine.
Này Bà La Môn, nếu Ta đứng trong trạng thái như vậy, thì đó là sự đứng của chư Thiên đối với Ta vào lúc đó.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto nisīdāmi, dibbaṃ me etaṃ tasmiṃ samaye āsanaṃ hoti.
If, brahmin, being such, I sit, that sitting of mine at that time is a divine seat.
Này Bà La Môn, nếu Ta ngồi trong trạng thái như vậy, thì đó là chỗ ngồi của chư Thiên đối với Ta vào lúc đó.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto seyyaṃ kappemi, dibbaṃ me etaṃ tasmiṃ samaye uccāsayanamahāsayanaṃ hoti.
If, brahmin, being such, I lie down, that lying down of mine at that time is a divine high couch, a divine grand couch.
Này Bà La Môn, nếu Ta nằm trong trạng thái như vậy, thì đó là giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của chư Thiên đối với Ta vào lúc đó.
Idaṃ kho, brāhmaṇa, dibbaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassāhaṃ etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti.
This, brahmin, is the divine high couch, the divine grand couch, which I now obtain at will, without difficulty, without trouble.”
Này Bà La Môn, đây chính là giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của chư Thiên mà Ta hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì.”
562
‘‘Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama!
“It is wonderful, good Gotama, it is amazing, good Gotama!
“Thật kỳ diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật phi thường thay, thưa Tôn giả Gotama!
Ko cañño evarūpassa dibbassa uccāsayanamahāsayanassa nikāmalābhī bhavissati akicchalābhī akasiralābhī, aññatra bhotā gotamena!
Who else would obtain such a divine high couch, a divine grand couch, at will, without difficulty, without trouble, apart from the good Gotama!
Ai khác ngoài Tôn giả Gotama có thể tùy ý thọ hưởng một loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của chư Thiên như vậy một cách dễ dàng, không khó khăn gì!”
563
‘‘Katamaṃ pana taṃ, bho gotama, brahmaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassa bhavaṃ gotamo etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti?
“But what, good Gotama, is the Brahma high couch, the Brahma grand couch, which the good Gotama now obtains at will, without difficulty, without trouble?”
“Vậy thưa Tôn giả Gotama, giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của Phạm Thiên mà Tôn giả Gotama hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì đó là gì?”
‘‘Idhāhaṃ, brāhmaṇa, yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharāmi, so pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya tameva gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisāmi.
“Here, brahmin, whatever village or town I dwell near, in the forenoon, having dressed and taken my bowl and robes, I enter that same village or town for alms.
“Này Bà La Môn, ở đây, Ta trú ngụ gần một làng hay một thị trấn nào đó, vào buổi sáng, Ta đắp y, mang bát và đi vào làng hay thị trấn đó để khất thực.
So pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vanantaññeva pavisāmi.
After the meal, having returned from the alms-round, I enter the edge of a forest.
Sau bữa ăn, khi đã trở về từ cuộc khất thực, Ta đi vào rừng.
So yadeva tattha honti tiṇāni vā paṇṇāni vā tāni ekajjhaṃ saṅgharitvā nisīdāmi pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
Whatever grasses or leaves are there, I gather them together and sit down, having folded my legs crosswise, held my body erect, and established mindfulness in front of me.
Ở đó, Ta gom những cỏ và lá cây lại, rồi ngồi kiết già, giữ thân ngay thẳng, thiết lập niệm trước mặt.
So mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharāmi, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ, iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjhena* pharitvā viharāmi.
Then I dwell pervading one direction with a mind imbued with loving-kindness, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, everywhere, and in all ways, I dwell pervading the entire world with a mind imbued with loving-kindness, vast, exalted, immeasurable, without hostility, without ill-will.
Ta an trú, biến mãn một phương với tâm từ bi câu hữu, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Như vậy, Ta an trú, biến mãn khắp mọi nơi, toàn bộ thế giới, trên dưới ngang dọc, với tâm từ bi câu hữu, rộng lớn, vô lượng, vô sân, vô hại.
Karuṇāsahagatena cetasā…pe… muditāsahagatena cetasā…pe… upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharāmi, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ* , iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjhena pharitvā viharāmi.
I dwell pervading one direction with a mind imbued with compassion…pe… with a mind imbued with appreciative joy…pe… with a mind imbued with equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, everywhere, and in all ways, I dwell pervading the entire world with a mind imbued with equanimity, vast, exalted, immeasurable, without hostility, without ill-will.
Ta an trú, biến mãn một phương với tâm bi mẫn câu hữu… Ta an trú, biến mãn một phương với tâm hỷ lạc câu hữu… Ta an trú, biến mãn một phương với tâm xả ly câu hữu, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Như vậy, Ta an trú, biến mãn khắp mọi nơi, toàn bộ thế giới, trên dưới ngang dọc, với tâm xả ly câu hữu, rộng lớn, vô lượng, vô sân, vô hại.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto caṅkamāmi, brahmā me eso tasmiṃ samaye caṅkamo hoti.
If, brahmin, being such, I walk, that walking of mine at that time is Brahma-like.
Này Bà La Môn, nếu Ta đi kinh hành trong trạng thái như vậy, thì đó là sự kinh hành của Phạm Thiên đối với Ta vào lúc đó.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto tiṭṭhāmi…pe… nisīdāmi…pe… seyyaṃ kappemi, brahmaṃ me etaṃ tasmiṃ samaye uccāsayanamahāsayanaṃ hoti.
If, brahmin, being such, I stand…pe… I sit…pe… I lie down, that lying down of mine at that time is a Brahma high couch, a Brahma grand couch.
Này Bà La Môn, nếu Ta đứng trong trạng thái như vậy… Ta ngồi trong trạng thái như vậy… Ta nằm trong trạng thái như vậy, thì đó là giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của Phạm Thiên đối với Ta vào lúc đó.
Idaṃ kho, brāhmaṇa, brahmaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassāhaṃ etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti.
Indeed, brahmin, this is the divine high and grand couch, of which I am presently a gainer at will, without difficulty, without trouble."
Này Bà La Môn, đây chính là giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của Phạm Thiên mà Ta hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì.”
564
‘‘Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama!
"Wonderful, Venerable Gotama! Marvellous, Venerable Gotama!
“Thật kỳ diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật phi thường thay, thưa Tôn giả Gotama!
Ko cañño evarūpassa brahmassa uccāsayanamahāsayanassa nikāmalābhī bhavissati akicchalābhī akasiralābhī, aññatra bhotā gotamena!
Who else, apart from Venerable Gotama, will be a gainer at will, without difficulty, without trouble, of such a divine high and grand couch!
Ai khác ngoài Tôn giả Gotama có thể tùy ý thọ hưởng một loại giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của Phạm Thiên như vậy một cách dễ dàng, không khó khăn gì!”
565
‘‘Katamaṃ pana taṃ, bho gotama, ariyaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassa bhavaṃ gotamo etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti?
"But what, Venerable Gotama, is that noble high and grand couch, of which Venerable Gotama is presently a gainer at will, without difficulty, without trouble?"
“Vậy thưa Tôn giả Gotama, giường cao, ghế lớn, giường sang trọng, ghế quý giá của bậc Thánh mà Tôn giả Gotama hiện nay được tùy ý thọ hưởng một cách dễ dàng, không khó khăn gì đó là gì?”
‘‘Idhāhaṃ, brāhmaṇa, yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharāmi, so pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya tameva gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisāmi.
"Here, brahmin, whatever village or town I reside near, I dress in the morning, take my bowl and robe, and enter that same village or town for alms.
“Này Bà La Môn, ở đây, Ta trú ngụ gần một làng hay một thị trấn nào đó, vào buổi sáng, Ta đắp y, mang bát và đi vào làng hay thị trấn đó để khất thực.
So pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto vanantaññeva pavisāmi.
After the meal, having returned from my alms round, I enter the forest.
Sau bữa ăn, khi đã trở về từ cuộc khất thực, Ta đi vào rừng.
So yadeva tattha honti tiṇāni vā paṇṇāni vā tāni ekajjhaṃ saṅgharitvā nisīdāmi pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā.
Having gathered together whatever grasses or leaves are there, I sit down, folding my legs crosswise, holding my body erect, and establishing mindfulness in front of me.
Vị ấy, bất cứ cỏ hay lá nào có ở đó, tôi gom chúng lại một chỗ, ngồi kiết già, giữ thân ngay thẳng, an trú niệm trước mặt.
So evaṃ jānāmi – ‘rāgo me pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ anuppādadhammo; doso me pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo; moho me pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo’.
I know thus: ‘My lust is abandoned, its root cut off, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future; my hatred is abandoned, its root cut off, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future; my delusion is abandoned, its root cut off, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.’
Vị ấy, tôi biết như sau: ‘Tham ái của tôi đã được đoạn trừ, nhổ tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc, không còn khả năng sinh khởi, không còn tái sinh trong tương lai; sân hận của tôi đã được đoạn trừ, nhổ tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc, không còn khả năng sinh khởi, không còn tái sinh trong tương lai; si mê của tôi đã được đoạn trừ, nhổ tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc, không còn khả năng sinh khởi, không còn tái sinh trong tương lai’.
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto caṅkamāmi, ariyo me eso tasmiṃ samaye caṅkamo hoti.
If, brahmin, being such, I walk, that walking of mine at that time is noble.
Này Bà-la-môn, nếu tôi đi kinh hành trong trạng thái như vậy, thì sự đi kinh hành đó của tôi vào lúc ấy là cao quý (ariya).
So ce ahaṃ, brāhmaṇa, evaṃbhūto tiṭṭhāmi…pe… nisīdāmi…pe… seyyaṃ kappemi, ariyaṃ me etaṃ tasmiṃ samaye uccāsayanamahāsayanaṃ hoti.
If, brahmin, being such, I stand…pe… I sit…pe… I lie down, that high and grand couch of mine at that time is noble.
Này Bà-la-môn, nếu tôi đứng trong trạng thái như vậy... ngồi... nằm, thì sự nằm đó của tôi vào lúc ấy là giường nằm cao quý và chỗ nằm lớn cao quý.
Idaṃ kho, brāhmaṇa, ariyaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ, yassāhaṃ etarahi nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī’’ti.
Indeed, brahmin, this is the noble high and grand couch, of which I am presently a gainer at will, without difficulty, without trouble."
Này Bà-la-môn, đây là giường nằm cao quý và chỗ nằm lớn cao quý mà tôi hiện nay được hưởng tùy ý, không khó khăn, không vất vả.”
566
‘‘Acchariyaṃ, bho gotama, abbhutaṃ, bho gotama!
"Wonderful, Venerable Gotama! Marvellous, Venerable Gotama!
“Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama!
Ko cañño evarūpassa ariyassa uccāsayanamahāsayanassa nikāmalāmī bhavissati akicchalābhī akasiralābhī, aññatra bhotā gotamena!
Who else, apart from Venerable Gotama, will be a gainer at will, without difficulty, without trouble, of such a noble high and grand couch!
Ai khác ngoài Tôn giả Gotama có thể được hưởng tùy ý, không khó khăn, không vất vả một giường nằm cao quý và chỗ nằm lớn cao quý như vậy?
567
‘‘Abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama!
"Excellent, Venerable Gotama! Excellent, Venerable Gotama!
“Tuyệt diệu thay, Tôn giả Gotama! Tuyệt diệu thay, Tôn giả Gotama!
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ kho bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Just as, Venerable Gotama, one might set upright what was overturned, or reveal what was hidden, or point out the way to one who was lost, or carry a lamp into the darkness so that those with eyes might see forms; in the same way, the Dhamma has been made clear by Venerable Gotama in many ways.
Ví như, Tôn giả Gotama, người ta dựng đứng những gì bị lật úp, phơi bày những gì bị che giấu, chỉ đường cho người lạc lối, hoặc cầm đèn trong bóng tối để những người có mắt có thể thấy các sắc pháp; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama thuyết giảng bằng nhiều phương cách khác nhau.
Ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.
We go for refuge to Venerable Gotama, to the Dhamma, and to the Saṅgha of bhikkhus.
Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Giáo pháp và quy y Tăng đoàn.
Upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate’’ti.
May Venerable Gotama remember us as lay followers who have gone for refuge from this day forth as long as life lasts."
Xin Tôn giả Gotama hãy nhận chúng con là cận sự nam, những người đã quy y trọn đời kể từ hôm nay.”
Tatiyaṃ.
The Third.
Bài thứ ba.
568
4. Sarabhasuttaṃ
4. Sarabha Sutta
4. Kinh Sarabha
569
65. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
65. Thus have I heard: At one time the Blessed One was dwelling in Rājagaha, on Gijjhakūṭa Mountain.
65. Tôi nghe như vầy: Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha, trên núi Gijjhakūṭa.
Tena kho pana samayena sarabho nāma paribbājako acirapakkanto hoti imasmā dhammavinayā.
Now at that time, a wandering ascetic named Sarabha had recently departed from this Dhamma and Discipline.
Vào lúc ấy, du sĩ Sarabha vừa mới rời bỏ Giáo pháp và Giới luật này không lâu.
So rājagahe parisati* evaṃ vācaṃ bhāsati – ‘‘aññāto mayā samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo.
He was speaking thus in the assembly in Rājagaha: "I have understood the Dhamma of the Sakyan ascetics.
Vị ấy nói lời như sau trong hội chúng tại Rājagaha: “Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được tôi biết rõ.
Aññāya ca panāhaṃ samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammaṃ evāhaṃ tasmā dhammavinayā apakkanto’’ti.
And having understood the Dhamma of the Sakyan ascetics, I have departed from that Dhamma and Discipline."
Sau khi đã biết rõ Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử, tôi đã rời bỏ Giáo pháp và Giới luật đó.”
Atha kho sambahulā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pavisiṃsu.
Then a number of bhikkhus, having dressed in the morning, taken their bowls and robes, entered Rājagaha for alms.
Rồi nhiều Tỳ-khưu vào buổi sáng đắp y, mang bát và y vào Rājagaha để khất thực.
Assosuṃ kho te bhikkhū sarabhassa paribbājakassa rājagahe parisati evaṃ vācaṃ bhāsamānassa – ‘‘aññāto mayā samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo.
Those bhikkhus heard the wandering ascetic Sarabha speaking thus in the assembly in Rājagaha: "I have understood the Dhamma of the Sakyan ascetics.
Các Tỳ-khưu ấy nghe du sĩ Sarabha nói lời như sau trong hội chúng tại Rājagaha: “Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được tôi biết rõ.
Aññāya ca panāhaṃ samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammaṃ evāhaṃ tasmā dhammavinayā apakkanto’’ti.
And having understood the Dhamma of the Sakyan ascetics, I have departed from that Dhamma and Discipline."
Sau khi đã biết rõ Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử, tôi đã rời bỏ Giáo pháp và Giới luật đó.”
570
Atha kho te bhikkhū rājagahe piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then those bhikkhus, having wandered for alms in Rājagaha and returned from their alms round after the meal, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, they sat down to one side.
Rồi các Tỳ-khưu ấy, sau khi khất thực ở Rājagaha và trở về sau bữa ăn, đi đến chỗ Thế Tôn trú; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ – ‘‘sarabho nāma, bhante, paribbājako acirapakkanto imasmā dhammavinayā.
Those bhikkhus, having sat down to one side, said to the Blessed One, “Venerable sir, the wanderer named Sarabha has recently departed from this Dhamma and Vinaya.
Ngồi xuống một bên, các Tỳ-khưu ấy bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, du sĩ Sarabha vừa mới rời bỏ Giáo pháp và Giới luật này không lâu.
So rājagahe parisati evaṃ vācaṃ bhāsati – ‘aññāto mayā samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo.
He speaks thus in the assembly in Rājagaha: ‘I have understood the Dhamma of the Sakyan recluses.
Vị ấy nói lời như sau trong hội chúng tại Rājagaha: ‘Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được tôi biết rõ.
Aññāya ca panāhaṃ samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammaṃ evāhaṃ tasmā dhammavinayā apakkanto’ti.
Having understood the Dhamma of the Sakyan recluses, I have thus departed from that Dhamma and Vinaya.’
Sau khi đã biết rõ Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử, tôi đã rời bỏ Giáo pháp và Giới luật đó.’
Sādhu bhante, bhagavā yena sippinikātīraṃ* paribbājakārāmo yena sarabho paribbājako tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’ti.
Venerable sir, it would be good if the Blessed One, out of compassion, would approach the wanderers’ park on the bank of the Sippinikā, to Sarabha the wanderer.”
Bạch Thế Tôn, thật tốt lành nếu Thế Tôn vì lòng thương xót mà đi đến tu viện của các du sĩ bên bờ sông Sippinikā, đến chỗ du sĩ Sarabha.”
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
The Blessed One assented by remaining silent.
Thế Tôn im lặng chấp thuận.
571
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yena sippinikātīraṃ paribbājakārāmo yena sarabho paribbājako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Then, in the evening, the Blessed One, having emerged from seclusion, approached the wanderers’ park on the bank of the Sippinikā, to Sarabha the wanderer; having approached, he sat down on the seat that had been prepared.
Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, sau khi xuất khỏi thiền định, đi đến tu viện của các du sĩ bên bờ sông Sippinikā, đến chỗ du sĩ Sarabha; sau khi đến, Ngài ngồi xuống trên chỗ ngồi đã được sửa soạn.
Nisajja kho bhagavā sarabhaṃ paribbājakaṃ etadavoca – ‘‘saccaṃ kira tvaṃ, sarabha, evaṃ vadesi – ‘aññāto mayā samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo.
Having sat down, the Blessed One said to Sarabha the wanderer, “Is it true, Sarabha, that you speak thus: ‘I have understood the Dhamma of the Sakyan recluses.
Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha rằng: “Này Sarabha, có thật là ông nói như vầy không: ‘Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được tôi biết rõ.
Aññāya ca panāhaṃ samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammaṃ evāhaṃ tasmā dhammavinayā apakkanto’’’ti?
Having understood the Dhamma of the Sakyan recluses, I have thus departed from that Dhamma and Vinaya’?”
Sau khi đã biết rõ Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử, tôi đã rời bỏ Giáo pháp và Giới luật đó’?”
Evaṃ vutte sarabho paribbājako tuṇhī ahosi.
When this was said, Sarabha the wanderer remained silent.
Khi được hỏi như vậy, du sĩ Sarabha im lặng.
572
Dutiyampi kho, bhagavā sarabhaṃ paribbājakaṃ etadavoca – ‘‘vadehi, sarabha, kinti te aññāto samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo?
A second time, the Blessed One said to Sarabha the wanderer, “Speak, Sarabha, how have you understood the Dhamma of the Sakyan recluses?
Lần thứ hai, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha rằng: “Này Sarabha, hãy nói đi, Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được ông biết rõ như thế nào?
Sace te aparipūraṃ bhavissati, ahaṃ paripūressāmi.
If it is incomplete, I will complete it.
Nếu điều đó của ông chưa đầy đủ, tôi sẽ bổ sung.
Sace pana te paripūraṃ bhavissati, ahaṃ anumodissāmī’’ti.
But if it is complete, I will approve it.”
Nếu điều đó của ông đã đầy đủ, tôi sẽ tùy hỷ.”
Dutiyampi kho sarabho paribbājako tuṇhī ahosi.
A second time, Sarabha the wanderer remained silent.
Lần thứ hai, du sĩ Sarabha im lặng.
573
Tatiyampi kho bhagavā sarabhaṃ paribbājakaṃ etadavoca – (‘‘yo* kho sarabha paññāyati samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo)* ‘‘vadehi, sarabha, kinti te aññāto samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo?
A third time, the Blessed One said to Sarabha the wanderer, “Speak, Sarabha, how have you understood the Dhamma of the Sakyan recluses?
Lần thứ ba, Thế Tôn nói với du sĩ Sarabha rằng: “Này Sarabha, hãy nói đi, Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được ông biết rõ như thế nào?
Sace te aparipūraṃ bhavissati, ahaṃ paripūressāmi.
If it is incomplete, I will complete it.
Nếu điều đó của ông chưa đầy đủ, tôi sẽ bổ sung.
Sace pana te paripūraṃ bhavissati, ahaṃ anumodissāmī’’ti.
But if it is complete, I will approve it.”
Nếu điều đó của ông đã đầy đủ, tôi sẽ tùy hỷ.”
Tatiyampi kho sarabho paribbājako tuṇhī ahosi.
A third time, Sarabha the wanderer remained silent.
Lần thứ ba, du sĩ Sarabha im lặng.
574
Atha kho te paribbājakā sarabhaṃ paribbājakaṃ etadavocuṃ – ‘‘yadeva kho tvaṃ, āvuso sarabha, samaṇaṃ gotamaṃ yāceyyāsi tadeva te samaṇo gotamo pavāreti.
Then those wanderers said to Sarabha the wanderer, “Friend Sarabha, whatever you would ask of the recluse Gotama, that the recluse Gotama offers to you.
Rồi các du sĩ ấy nói với du sĩ Sarabha rằng: “Này Hiền giả Sarabha, điều mà Hiền giả muốn thỉnh cầu Sa-môn Gotama, chính Sa-môn Gotama đã cho phép Hiền giả.
Vadehāvuso sarabha, kinti te aññāto samaṇānaṃ sakyaputtikānaṃ dhammo?
Speak, friend Sarabha, how have you understood the Dhamma of the Sakyan recluses?
Này Hiền giả Sarabha, hãy nói đi, Giáo pháp của các Sa-môn Thích tử đã được ông biết rõ như thế nào?
Sace te aparipūraṃ bhavissati, samaṇo gotamo paripūressati.
If it is incomplete, the recluse Gotama will complete it.
Nếu điều đó của ông chưa đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ bổ sung.
Sace pana te paripūraṃ bhavissati, samaṇo gotamo anumodissatī’’ti.
But if it is complete, the recluse Gotama will approve it.”
Nếu điều đó của ông đã đầy đủ, Sa-môn Gotama sẽ tùy hỷ.”
Evaṃ vutte sarabho paribbājako tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
When this was said, Sarabha the wanderer sat silent, abashed, with slumped shoulders, downcast, brooding, and unable to reply.
Khi được nói như vậy, du sĩ Sarabha im lặng, xấu hổ, vai rũ xuống, mặt cúi gằm, trầm ngâm, không thể ứng đối mà ngồi đó.
575
Atha kho bhagavā sarabhaṃ paribbājakaṃ tuṇhībhūtaṃ maṅkubhūtaṃ pattakkhandhaṃ adhomukhaṃ pajjhāyantaṃ appaṭibhānaṃ viditvā te paribbājake etadavoca –
Then the Blessed One, knowing Sarabha the wanderer to be silent, abashed, with slumped shoulders, downcast, brooding, and unable to reply, said to those wanderers:
Rồi Thế Tôn, khi thấy du sĩ Sarabha im lặng, xấu hổ, vai rũ xuống, mặt cúi gằm, trầm ngâm, không thể ứng đối, liền nói với các du sĩ ấy:
576
‘‘Yo kho maṃ, paribbājakā* , evaṃ vadeyya – ‘sammāsambuddhassa te paṭijānato ime dhammā anabhisambuddhā’ti, tamahaṃ tattha sādhukaṃ samanuyuñjeyyaṃ samanugāheyyaṃ samanubhāseyyaṃ.
“If, wanderers, someone were to say to me: ‘These teachings have not been fully awakened to by you who claim to be a Sammāsambuddha,’ I would thoroughly question him, press him, and challenge him on that point.
“Này các du sĩ, ai nói với tôi rằng: ‘Những giáo pháp này chưa được Ngài, một bậc Chánh Đẳng Giác, giác ngộ’, thì tôi sẽ chất vấn, truy cứu, và tranh luận kỹ lưỡng với người ấy về điều đó.
So vata mayā sādhukaṃ samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ so tiṇṇaṃ ṭhānānaṃ nāññataraṃ* ṭhānaṃ nigaccheyya, aññena vā aññaṃ paṭicarissati, bahiddhā kathaṃ apanāmessati, kopañca dosañca appaccayañca pātukarissati, tuṇhībhūto maṅkubhūto* pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdissati, seyyathāpi sarabho paribbājako.
It is impossible, it is not possible, that one so thoroughly questioned, pressed, and challenged by me would not fall into one of three situations: he would either reply with something irrelevant, or deflect the conversation, or manifest anger, resentment, and displeasure, or sit silent, abashed, with slumped shoulders, downcast, brooding, and unable to reply, just like Sarabha the wanderer.”
Quả thật, khi bị Ta tra hỏi kỹ lưỡng, truy vấn sâu sắc, và đối thoại thấu đáo, thì không có trường hợp nào, không có cơ hội nào mà người ấy không rơi vào một trong ba tình huống sau: hoặc sẽ nói lạc sang chuyện khác, chuyển đề tài ra bên ngoài, hoặc sẽ biểu lộ sự tức giận, oán ghét và bất mãn, hoặc sẽ ngồi im lặng, xấu hổ, vai rũ, mặt cúi, trầm ngâm, không thể đối đáp, giống như du sĩ Sarabha.
577
‘‘Yo kho maṃ, paribbājakā, evaṃ vadeyya – ‘khīṇāsavassa te paṭijānato ime āsavā aparikkhīṇā’ti, tamahaṃ tattha sādhukaṃ samanuyuñjeyyaṃ samanugāheyyaṃ samanubhāseyyaṃ.
"Wanderers, if anyone were to say to me thus: ‘While you claim to be one whose taints (āsavā) are destroyed, these taints of yours are not destroyed,’ I would thoroughly question him there, I would thoroughly cross-examine him, I would thoroughly instruct him.
“Này các du sĩ, nếu có ai nói với Ta rằng: ‘Ngài tự xưng là một vị đã đoạn tận các lậu hoặc, nhưng những lậu hoặc này của Ngài vẫn chưa được đoạn tận’, thì Ta sẽ tra hỏi kỹ lưỡng, truy vấn sâu sắc, và đối thoại thấu đáo với người ấy về điều đó.
So vata mayā sādhukaṃ samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ so tiṇṇaṃ ṭhānānaṃ nāññataraṃ ṭhānaṃ nigaccheyya, aññena vā aññaṃ paṭicarissati, bahiddhā kathaṃ apanāmessati, kopañca dosañca appaccayañca pātukarissati, tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdissati, seyyathāpi sarabho paribbājako.
Indeed, when he is thoroughly questioned, thoroughly cross-examined, and thoroughly instructed by me, it is impossible, it is not feasible, that he would not arrive at one of three positions: he will either answer one thing for another, or divert the conversation outside the topic, or display anger, ill-will, and resentment, or sit silent, dismayed, with slumped shoulders, downcast, brooding, and devoid of ready wit, just like Sarabha the wanderer.
Quả thật, khi bị Ta tra hỏi kỹ lưỡng, truy vấn sâu sắc, và đối thoại thấu đáo, thì không có trường hợp nào, không có cơ hội nào mà người ấy không rơi vào một trong ba tình huống sau: hoặc sẽ nói lạc sang chuyện khác, chuyển đề tài ra bên ngoài, hoặc sẽ biểu lộ sự tức giận, oán ghét và bất mãn, hoặc sẽ ngồi im lặng, xấu hổ, vai rũ, mặt cúi, trầm ngâm, không thể đối đáp, giống như du sĩ Sarabha.
578
‘‘Yo kho maṃ, paribbājakā, evaṃ vadeyya – ‘yassa kho pana te atthāya dhammo desito, so na niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti, tamahaṃ tattha sādhukaṃ samanuyuñjeyyaṃ samanugāheyyaṃ samanubhāseyyaṃ.
"Wanderers, if anyone were to say to me thus: ‘The Dhamma taught by you, for the sake of which it was taught, does not lead to the complete destruction of suffering for one who practices it thus,’ I would thoroughly question him there, I would thoroughly cross-examine him, I would thoroughly instruct him.
“Này các du sĩ, nếu có ai nói với Ta rằng: ‘Pháp mà Ngài đã thuyết giảng, vì mục đích đó, không đưa đến sự đoạn tận khổ đau đúng đắn cho người thực hành’, thì Ta sẽ tra hỏi kỹ lưỡng, truy vấn sâu sắc, và đối thoại thấu đáo với người ấy về điều đó.
So vata mayā sādhukaṃ samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno aṭṭhānametaṃ anavakāso yaṃ so tiṇṇaṃ ṭhānānaṃ nāññataraṃ ṭhānaṃ nigaccheyya, aññena vā aññaṃ paṭicarissati, bahiddhā kathaṃ apanāmessati, kopañca dosañca appaccayañca pātukarissati, tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdissati, seyyathāpi sarabho paribbājako’’ti.
Indeed, when he is thoroughly questioned, thoroughly cross-examined, and thoroughly instructed by me, it is impossible, it is not feasible, that he would not arrive at one of three positions: he will either answer one thing for another, or divert the conversation outside the topic, or display anger, ill-will, and resentment, or sit silent, dismayed, with slumped shoulders, downcast, brooding, and devoid of ready wit, just like Sarabha the wanderer."
Quả thật, khi bị Ta tra hỏi kỹ lưỡng, truy vấn sâu sắc, và đối thoại thấu đáo, thì không có trường hợp nào, không có cơ hội nào mà người ấy không rơi vào một trong ba tình huống sau: hoặc sẽ nói lạc sang chuyện khác, chuyển đề tài ra bên ngoài, hoặc sẽ biểu lộ sự tức giận, oán ghét và bất mãn, hoặc sẽ ngồi im lặng, xấu hổ, vai rũ, mặt cúi, trầm ngâm, không thể đối đáp, giống như du sĩ Sarabha.”
Atha kho bhagavā sippinikātīre paribbājakārāme tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā vehāsaṃ pakkāmi.
Then the Blessed One, having roared a lion’s roar three times on the bank of the Sippinikā, in the wanderers’ park, departed into the air.
Sau đó, Thế Tôn đã ba lần rống tiếng sư tử tại tu viện của các du sĩ bên bờ sông Sippinikā, rồi bay lên không trung mà đi.
579
Atha kho te paribbājakā acirapakkantassa bhagavato sarabhaṃ paribbājakaṃ samantato vācāyasannitodakena* sañjambharimakaṃsu* – ‘‘seyyathāpi, āvuso sarabha, brahāraññe jarasiṅgālo ‘sīhanādaṃ nadissāmī’ti siṅgālakaṃyeva* nadati, bheraṇḍakaṃyeva nadati* ; evamevaṃ kho tvaṃ, āvuso sarabha, aññatreva samaṇena gotamena ‘sīhanādaṃ nadissāmī’ti siṅgālakaṃyeva nadasi bheraṇḍakaṃyeva nadasi.
Then, soon after the Blessed One had departed, those wanderers, with words like sharp goads, thoroughly shamed Sarabha the wanderer all around, saying: "Just as, friend Sarabha, an old jackal in a great forest, thinking, ‘I will roar a lion’s roar,’ only roars a jackal’s yelp, only roars a bheraṇḍaka’s cry; even so, friend Sarabha, you, apart from the ascetic Gotama, thinking, ‘I will roar a lion’s roar,’ only roar a jackal’s yelp, only roar a bheraṇḍaka’s cry.
Khi Thế Tôn vừa rời đi không lâu, các du sĩ đó liền vây quanh du sĩ Sarabha và dùng những lời lẽ như mũi nhọn đâm chọc, chế giễu ông ta: “Này hiền giả Sarabha, giống như một con chó rừng già trong rừng lớn, khi định rống tiếng sư tử thì nó chỉ hú tiếng chó rừng, chỉ hú tiếng chó rừng bheraṇḍaka; cũng vậy, này hiền giả Sarabha, khi không có Sa-môn Gotama ở đây, ngươi định rống tiếng sư tử nhưng ngươi chỉ hú tiếng chó rừng, chỉ hú tiếng chó rừng bheraṇḍaka.
Seyyathāpi, āvuso sarabha, ambukasañcarī* ‘purisakaravitaṃ* ravissāmī’ti ambukasañcariravitaṃyeva ravati; evamevaṃ kho tvaṃ, āvuso sarabha, aññatreva samaṇena gotamena ‘purisakaravitaṃ ravissāmī’ti, ambukasañcariravitaṃyeva ravasi.
Just as, friend Sarabha, a water-crow, thinking, ‘I will crow a man’s crow,’ only crows a water-crow’s crow; even so, friend Sarabha, you, apart from the ascetic Gotama, thinking, ‘I will crow a man’s crow,’ only crow a water-crow’s crow.
Này hiền giả Sarabha, giống như một con gà mái nhỏ, khi định gáy tiếng gà trống thì nó chỉ gáy tiếng gà mái nhỏ; cũng vậy, này hiền giả Sarabha, khi không có Sa-môn Gotama ở đây, ngươi định gáy tiếng gà trống nhưng ngươi chỉ gáy tiếng gà mái nhỏ.
Seyyathāpi, āvuso sarabha, usabho suññāya gosālāya gambhīraṃ naditabbaṃ maññati; evamevaṃ kho tvaṃ, āvuso sarabha, aññatreva samaṇena gotamena gambhīraṃ naditabbaṃ maññasī’’ti.
Just as, friend Sarabha, a bull in an empty cowshed thinks he is roaring deeply; even so, friend Sarabha, you, apart from the ascetic Gotama, think you are roaring deeply."
Này hiền giả Sarabha, giống như một con bò đực nghĩ rằng mình có thể rống tiếng lớn trong chuồng bò trống; cũng vậy, này hiền giả Sarabha, khi không có Sa-môn Gotama ở đây, ngươi nghĩ mình có thể rống tiếng lớn.”
Atha kho te paribbājakā sarabhaṃ paribbājakaṃ samantato vācāyasannitodakena sañjambharimakaṃsūti.
Then those wanderers, with words like sharp goads, thoroughly shamed Sarabha the wanderer all around.
Sau đó, các du sĩ đó đã vây quanh du sĩ Sarabha và dùng những lời lẽ như mũi nhọn đâm chọc, chế giễu ông ta.
Catutthaṃ.
The Fourth.
Sutta thứ tư.
580
5. Kesamuttisuttaṃ
5. The Kesamutti Sutta
5. Kesamuttisutta
581
66. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena kesamuttaṃ* nāma kālāmānaṃ nigamo tadavasari.
Thus have I heard. At one time the Blessed One, while on a tour through the Kosala country with a large community of bhikkhus, arrived at a Kālāma town called Kesamutta.
66. Tôi nghe như vầy: Một thời, Thế Tôn đang du hành trong xứ Kosala với một đại chúng Tỳ-khưu, Ngài đến một thị trấn của người Kālāma tên là Kesamutta.
Assosuṃ kho kesamuttiyā kālāmā – ‘‘samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kesamuttaṃ anuppatto.
The Kālāmas of Kesamutta heard: "It is said, sirs, that the ascetic Gotama, a son of the Sakyas, who has gone forth from the Sakya clan, has arrived at Kesamutta.
Người Kālāma ở Kesamutta nghe nói: “Thưa các vị, Sa-môn Gotama, con của dòng dõi Sakya, đã xuất gia từ dòng dõi Sakya, đã đến Kesamutta.
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato – ‘itipi so bhagavā…pe… sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’’’ti.
Indeed, such a good report has spread about that Blessed Gotama: ‘That Blessed One is indeed Arahant… (and so on)… it is good to see such Arahants.’"
Tiếng đồn tốt đẹp về Ngài Gotama ấy đã lan truyền như sau: ‘Thật vậy, Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán… (v.v.)… Thật tốt lành khi được thấy những bậc A-la-hán như vậy.’”
582
Atha kho kesamuttiyā kālāmā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce nāmagottaṃ sāvetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu, appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then the Kālāmas of Kesamutta approached the Blessed One; having approached, some saluted the Blessed One and sat down to one side, some exchanged greetings with the Blessed One, and after exchanging courteous and memorable talk, sat down to one side, some, having bowed to the Blessed One with clasped hands, sat down to one side, some announced their name and clan and sat down to one side, some remained silent and sat down to one side.
Sau đó, người Kālāma ở Kesamutta đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người chào hỏi Thế Tôn, sau khi trao đổi những lời chào hỏi thân mật và đáng ghi nhớ, họ ngồi xuống một bên; một số người chắp tay hướng về Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số người xưng tên và dòng họ rồi ngồi xuống một bên; một số người im lặng ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnā kho te kesamuttiyā kālāmā bhagavantaṃ etadavocuṃ –
Seated to one side, those Kālāmas of Kesamutta said to the Blessed One this:
Khi đã ngồi xuống một bên, người Kālāma ở Kesamutta bạch với Thế Tôn rằng:
583
‘‘Santi, bhante, eke samaṇabrāhmaṇā kesamuttaṃ āgacchanti.
"Venerable sir, some ascetics and brahmins come to Kesamutta.
“Bạch Thế Tôn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn đến Kesamutta.
Te sakaṃyeva vādaṃ dīpenti jotenti, parappavādaṃ pana khuṃsenti vambhenti paribhavanti omakkhiṃ* karonti.
They expound and illuminate only their own doctrine, but they disparage, scorn, revile, and belittle the doctrines of others.
Họ chỉ thuyết giảng và làm sáng tỏ quan điểm của riêng mình, còn những quan điểm của người khác thì họ chỉ trích, phỉ báng, khinh miệt và hạ thấp.
Aparepi, bhante, eke samaṇabrāhmaṇā kesamuttaṃ āgacchanti.
And other ascetics and brahmins, Venerable sir, also come to Kesamutta.
Bạch Thế Tôn, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng đến Kesamutta.
Tepi sakaṃyeva vādaṃ dīpenti jotenti, parappavādaṃ pana khuṃsenti vambhenti paribhavanti omakkhiṃ karonti.
They too expound and illuminate only their own doctrine, but they disparage, scorn, revile, and belittle the doctrines of others.
Họ cũng chỉ thuyết giảng và làm sáng tỏ quan điểm của riêng mình, còn những quan điểm của người khác thì họ cũng chỉ trích, phỉ báng, khinh miệt và hạ thấp.
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ hoteva kaṅkhā hoti vicikicchā – ‘ko su nāma imesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ saccaṃ āha, ko musā’’’ti?
For us, Venerable sir, there is indeed doubt and perplexity—‘Who among these venerable ascetics and brahmins speaks the truth, and who speaks falsehood?’"
Bạch Thế Tôn, do đó chúng con luôn có sự nghi ngờ, hoài nghi: ‘Trong số các Sa-môn, Bà-la-môn đáng kính này, ai nói sự thật, ai nói dối?’”
‘‘Alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṃ alaṃ vicikicchituṃ.
"It is proper for you, Kālāmas, to doubt, to be perplexed.
“Này các Kālāma, các ngươi có quyền nghi ngờ, có quyền hoài nghi.
Kaṅkhanīyeva pana* vo ṭhāne vicikicchā uppannā’’.
Perplexity has arisen in you concerning a matter that is indeed doubtful."
Quả thật, sự hoài nghi đã phát sinh trong một trường hợp đáng nghi ngờ cho các ngươi.”
584
‘‘Etha tumhe, kālāmā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
"Come, Kālāmas, do not go by oral tradition, by lineage, by hearsay, by scriptural collections, by reasoning, by inference, by reflection on appearances, by the acceptance of a view after pondering it, by the seeming competence of a speaker, or because ‘the ascetic is our guru’.
“Này các Kālāma, các ngươi đừng tin theo lời truyền khẩu, đừng tin theo truyền thống, đừng tin theo tin đồn, đừng tin theo kinh điển, đừng tin theo lý luận, đừng tin theo suy đoán logic, đừng tin theo sự suy tư về hình tướng, đừng tin theo sự chấp nhận quan điểm do suy xét, đừng tin theo vẻ bề ngoài có khả năng, đừng tin vì ‘Sa-môn này là bậc thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, kālāmā, attanāva jāneyyātha – ‘ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā* ahitāya dukkhāya saṃvattantī’’’ti, atha tumhe, kālāmā, pajaheyyātha.
But when you yourselves know, Kālāmas, ‘These things are unwholesome; these things are blameworthy; these things are censured by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to harm and suffering’—then, Kālāmas, you should abandon them."
Này các Kālāma, khi nào các ngươi tự mình biết rõ: ‘Những pháp này là bất thiện, những pháp này là đáng trách, những pháp này bị người trí khiển trách, những pháp này khi được thực hành và chấp nhận sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau’, thì này các Kālāma, các ngươi hãy từ bỏ chúng.”
585
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, lobho purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, when greed arises within a person, does it arise for their benefit or for their harm?"
“Này các Kālāma, các ngươi nghĩ sao, khi tham ái khởi lên bên trong một người, nó khởi lên vì lợi ích hay vì bất lợi?”
586
‘‘Ahitāya, bhante’’.
"For their harm, Venerable sir."
“Bạch Thế Tôn, vì bất lợi.”
587
‘‘Luddho panāyaṃ, kālāmā, purisapuggalo lobhena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya* samādapeti, yaṃ sa* hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
"A greedy person, Kālāmas, overcome by greed, with their mind possessed, kills living beings, takes what is not given, goes to another’s wife, speaks falsehoods, and encourages others to do likewise; this leads to their harm and suffering for a long time."
“Này các Kālāma, người này là một cá nhân tham lam, bị tham ái chế ngự, tâm bị chiếm đoạt, còn giết hại sinh vật, còn lấy của không cho, còn tà hạnh trong các dục, còn nói dối, còn xúi giục người khác làm như vậy, điều này sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho người ấy trong một thời gian dài.”
588
‘‘Evaṃ, bhante’’.
"Yes, Venerable sir."
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
589
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, doso purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, when hatred arises within a person, does it arise for their benefit or for their harm?"
“Này các Kālāma, các ông nghĩ sao, khi tham ái sinh khởi trong một người, nó sinh khởi vì lợi ích hay vì bất lợi?”
590
‘‘Ahitāya, bhante’’.
"For their harm, Venerable sir."
“Vì bất lợi, bạch Thế Tôn.”
591
‘‘Duṭṭho panāyaṃ, kālāmā, purisapuggalo dosena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati* , adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
"A hateful person, Kālāmas, overcome by hatred, with their mind possessed, kills living beings, takes what is not given, goes to another’s wife, speaks falsehoods, and encourages others to do likewise; this leads to their harm and suffering for a long time."
“Này các Kālāma, người này là một cá nhân sân hận, bị sân hận chế ngự, tâm bị chiếm đoạt, còn giết hại sinh vật, còn lấy của không cho, còn tà hạnh trong các dục, còn nói dối, còn xúi giục người khác làm như vậy, điều này sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho người ấy trong một thời gian dài.”
592
‘‘Evaṃ, bhante’’.
"Yes, Venerable sir."
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
593
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, moho purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, when delusion arises within a person, does it arise for their benefit or for their harm?"
“Này các Kālāma, các ông nghĩ sao, khi si mê sinh khởi trong một người, nó sinh khởi vì lợi ích hay vì bất lợi?”
594
‘‘Ahitāya, bhante’’.
"For their harm, Venerable sir."
“Vì bất lợi, bạch Thế Tôn.”
595
‘‘Mūḷho panāyaṃ, kālāmā, purisapuggalo mohena abhibhūto pariyādinnacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
"A deluded person, Kālāmas, overcome by delusion, with their mind possessed, kills living beings, takes what is not given, goes to another’s wife, speaks falsehoods, and encourages others to do likewise; this leads to their harm and suffering for a long time."
“Này các Kālāma, người này là một cá nhân si mê, bị si mê chế ngự, tâm bị chiếm đoạt, còn giết hại sinh vật, còn lấy của không cho, còn tà hạnh trong các dục, còn nói dối, còn xúi giục người khác làm như vậy, điều này sẽ đưa đến bất lợi và khổ đau cho người ấy trong một thời gian dài.”
596
‘‘Evaṃ, bhante’’.
"Yes, Venerable sir."
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
597
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, are these things wholesome or unwholesome?"
“Này các Kālāma, các ông nghĩ sao, những pháp này là thiện hay bất thiện?”
598
‘‘Akusalā, bhante’’.
"Unwholesome, Venerable sir."
“Là bất thiện, bạch Thế Tôn.”
599
‘‘Sāvajjā vā anavajjā vā’’ti?
"Blameworthy or blameless?"
“Là có lỗi hay không có lỗi?”
600
‘‘Sāvajjā, bhante’’.
"Blameworthy, Venerable sir."
“Là có lỗi, bạch Thế Tôn.”
601
‘‘Viññugarahitā vā viññuppasatthā vā’’ti?
"Censured by the wise or praised by the wise?"
“Bị người trí khiển trách hay được người trí tán thán?”
602
‘‘Viññugarahitā, bhante’’.
"Censured by the wise, Venerable sir."
“Bị người trí khiển trách, bạch Thế Tôn.”
603
‘‘Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti, no vā?
"When undertaken and practiced, do they lead to harm and suffering, or not?
“Khi được thực hành và chấp nhận, chúng có đưa đến bất lợi và khổ đau không, hay không?
Kathaṃ vā* ettha hotī’’ti?
What do you think about this?"
Các ông nghĩ sao về điều này?”
604
‘‘Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti.
"When undertaken and practiced, Venerable Sir, they lead to harm and suffering.
“Bạch Thế Tôn, khi được thực hành và chấp nhận, chúng đưa đến bất lợi và khổ đau.”
Evaṃ no ettha hotī’’ti.
This is what we think about this."
Đối với chúng con, điều đó là như vậy.”
605
‘‘Iti kho, kālāmā, yaṃ taṃ avocumhā* – ‘etha tumhe, kālāmā!
"So then, Kālāmas, what we said—'Come, Kālāmas!
“Này các thiện nam tử Kālāma, điều mà chúng ta đã nói — ‘Này các thiện nam tử Kālāma, hãy đến đây!
Mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
Do not go by oral tradition, nor by lineage, nor by hearsay, nor by collection of scriptures, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because 'the ascetic is our venerable teacher.'
Đừng theo truyền thuyết, đừng theo truyền thống, đừng theo tin đồn, đừng theo kinh điển, đừng theo lý luận, đừng theo suy diễn, đừng theo suy tư về hình tướng, đừng theo sự chấp nhận quan điểm sau khi đã suy xét, đừng theo vẻ bề ngoài của người nói, đừng vì ‘Sa-môn này là Thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe kālāmā attanāva jāneyyātha – ‘ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti, atha tumhe, kālāmā, pajaheyyāthā’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
When you yourselves, Kālāmas, know: 'These things are unwholesome; these things are blameworthy; these things are censured by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to harm and suffering'—then, Kālāmas, you should abandon them'—it was with reference to this that this was said.
Khi nào, này các thiện nam tử Kālāma, chính các ông tự mình biết rõ: ‘Những pháp này là bất thiện, những pháp này là đáng bị quở trách, những pháp này bị người trí khiển trách, những pháp này nếu được thực hành và chấp nhận sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau’ – thì này các thiện nam tử Kālāma, các ông hãy từ bỏ chúng’ – điều đã được nói đó là để chỉ điều này.”
606
‘‘Etha tumhe, kālāmā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
"Come, Kālāmas! Do not go by oral tradition, nor by lineage, nor by hearsay, nor by collection of scriptures, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because 'the ascetic is our venerable teacher.'
“Này các thiện nam tử Kālāma, hãy đến đây! Đừng theo truyền thuyết, đừng theo truyền thống, đừng theo tin đồn, đừng theo kinh điển, đừng theo lý luận, đừng theo suy diễn, đừng theo suy tư về hình tướng, đừng theo sự chấp nhận quan điểm sau khi đã suy xét, đừng theo vẻ bề ngoài của người nói, đừng vì ‘Sa-môn này là Thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, kālāmā, attanāva jāneyyātha – ‘ime dhammā kusalā, ime dhammā anavajjā, ime dhammā viññuppasatthā, ime dhammā samattā samādinnā hitāya sukhāya saṃvattantī’ti, atha tumhe, kālāmā, upasampajja vihareyyātha.
When you yourselves, Kālāmas, know: 'These things are wholesome; these things are blameless; these things are praised by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to welfare and happiness'—then, Kālāmas, you should undertake them and abide in them.
Khi nào, này các thiện nam tử Kālāma, chính các ông tự mình biết rõ: ‘Những pháp này là thiện, những pháp này là không đáng bị quở trách, những pháp này được người trí ca ngợi, những pháp này nếu được thực hành và chấp nhận sẽ dẫn đến lợi ích và an lạc’ – thì này các thiện nam tử Kālāma, các ông hãy thành tựu và an trú trong chúng.”
607
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, alobho purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati hitāya vā ahitāya vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, when non-greed arises within a person, does it arise for welfare or for harm?"
“Này các thiện nam tử Kālāma, các ông nghĩ sao, khi không tham ái (alobha) khởi lên trong một người, nó khởi lên vì lợi ích hay vì bất lợi?”
608
‘‘Hitāya, bhante’’.
"For welfare, Venerable Sir."
“Vì lợi ích, bạch Thế Tôn.”
609
‘‘Aluddho panāyaṃ, kālāmā, purisapuggalo lobhena anabhibhūto apariyādinnacitto neva pāṇaṃ hanati, na adinnaṃ ādiyati, na paradāraṃ gacchati, na musā bhaṇati, na parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
"Indeed, Kālāmas, a person who is not greedy, whose mind is not overcome by greed, not obsessed by it, does not kill living beings, does not take what is not given, does not go to another's wife, does not speak falsehoods, nor does he encourage others to do likewise; this leads to his long-term welfare and happiness."
“Này các thiện nam tử Kālāma, một người không tham lam, không bị tham ái chế ngự, tâm không bị tham ái chiếm đoạt, sẽ không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và cũng không khuyến khích người khác làm những điều tương tự; điều đó sẽ mang lại lợi ích và an lạc lâu dài.”
610
‘‘Evaṃ, bhante’’.
"So it is, Venerable Sir."
“Đúng vậy, bạch Thế Tôn.”
611
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, adoso purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati…pe… amoho purisassa ajjhattaṃ uppajjamāno uppajjati…pe… hitāya sukhāyā’’ti.
"What do you think, Kālāmas, when non-hatred arises within a person, does it arise... (as before)... when non-delusion arises within a person, does it arise... (as before)... for welfare and happiness?"
“Này các thiện nam tử Kālāma, các ông nghĩ sao, khi không sân hận (adosa) khởi lên trong một người, nó khởi lên… (tương tự như trên)… khi không si mê (amoha) khởi lên trong một người, nó khởi lên… (tương tự như trên)… vì lợi ích và an lạc?”
612
‘‘Evaṃ bhante’’.
"So it is, Venerable Sir."
“Đúng vậy, bạch Thế Tôn.”
613
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vā’’ti?
"What do you think, Kālāmas, are these things wholesome or unwholesome?"
“Này các thiện nam tử Kālāma, các ông nghĩ sao, những pháp này là thiện hay bất thiện?”
614
‘‘Kusalā, bhante’’.
"Wholesome, Venerable Sir."
“Thiện, bạch Thế Tôn.”
615
‘‘Sāvajjā vā anavajjā vā’’ti?
"Blameworthy or blameless?"
“Đáng bị quở trách hay không đáng bị quở trách?”
616
‘‘Anavajjā, bhante’’.
"Blameless, Venerable Sir."
“Không đáng bị quở trách, bạch Thế Tôn.”
617
‘‘Viññugarahitā vā viññuppasatthā vā’’ti?
"Censured by the wise or praised by the wise?"
“Bị người trí khiển trách hay được người trí ca ngợi?”
618
‘‘Viññuppasatthā, bhante’’.
"Praised by the wise, Venerable Sir."
“Được người trí ca ngợi, bạch Thế Tôn.”
619
‘‘Samattā samādinnā hitāya sukhāya saṃvattanti no vā?
"When undertaken and practiced, do they lead to welfare and happiness, or not?
“Nếu được thực hành và chấp nhận, chúng có dẫn đến lợi ích và an lạc hay không?
Kathaṃ vā ettha hotī’’ti?
What do you think about this?"
Về điều này, các ông nghĩ sao?”
620
‘‘Samattā, bhante, samādinnā hitāya sukhāya saṃvattanti.
"When undertaken and practiced, Venerable Sir, they lead to welfare and happiness.
“Bạch Thế Tôn, nếu được thực hành và chấp nhận, chúng sẽ dẫn đến lợi ích và an lạc.
Evaṃ no ettha hotī’’ti.
This is what we think about this."
Đối với chúng con, điều đó là như vậy.”
621
‘‘Iti kho, kālāmā, yaṃ taṃ avocumhā – ‘etha tumhe, kālāmā!
"So then, Kālāmas, what we said—'Come, Kālāmas!
“Này các thiện nam tử Kālāma, điều mà chúng ta đã nói — ‘Này các thiện nam tử Kālāma, hãy đến đây!
Mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
Do not go by oral tradition, nor by lineage, nor by hearsay, nor by collection of scriptures, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because 'the ascetic is our venerable teacher.'
Đừng theo truyền thuyết, đừng theo truyền thống, đừng theo tin đồn, đừng theo kinh điển, đừng theo lý luận, đừng theo suy diễn, đừng theo suy tư về hình tướng, đừng theo sự chấp nhận quan điểm sau khi đã suy xét, đừng theo vẻ bề ngoài của người nói, đừng vì ‘Sa-môn này là Thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, kālāmā, attanāva jāneyyātha – ime dhammā kusalā, ime dhammā anavajjā, ime dhammā viññuppasatthā, ime dhammā samattā samādinnā hitāya sukhāya saṃvattantīti, atha tumhe, kālāmā, upasampajja vihareyyāthā’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
When you yourselves, Kālāmas, know: 'These things are wholesome; these things are blameless; these things are praised by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to welfare and happiness'—then, Kālāmas, you should undertake them and abide in them'—it was with reference to this that this was said.
Khi nào, này các thiện nam tử Kālāma, chính các ông tự mình biết rõ: ‘Những pháp này là thiện, những pháp này là không đáng bị quở trách, những pháp này được người trí ca ngợi, những pháp này nếu được thực hành và chấp nhận sẽ dẫn đến lợi ích và an lạc’ – thì này các thiện nam tử Kālāma, các ông hãy thành tựu và an trú trong chúng’ – điều đã được nói đó là để chỉ điều này.”
622
‘‘Sa kho so* , kālāmā, ariyasāvako evaṃ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno patissato* mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ, iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjhena pharitvā viharati.
"That noble disciple, Kālāmas, thus free from covetousness, free from ill will, undeluded, clearly comprehending, and mindful, abides pervading one direction with a mind imbued with loving-kindness; likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, around, everywhere, to all as to himself, he abides pervading the entire world with a mind imbued with loving-kindness, vast, exalted, immeasurable, without hostility, without ill will."
“Này các thiện nam tử Kālāma, vị Thánh đệ tử ấy, đã loại bỏ tham ái, đã loại bỏ sân hận, không còn si mê, có chánh niệm và tỉnh giác, an trú với tâm tràn đầy từ ái, trải rộng đến một phương; cũng vậy đến phương thứ hai, cũng vậy đến phương thứ ba, cũng vậy đến phương thứ tư. Như vậy, hướng lên, hướng xuống, ngang qua, khắp mọi nơi, trong toàn thể thế giới, vị ấy an trú với tâm tràn đầy từ ái, quảng đại, vô lượng, không hận thù, không ác ý, trải rộng khắp nơi.
Karuṇāsahagatena cetasā…pe… muditāsahagatena cetasā…pe… upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ, iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjhena pharitvā viharati.
He dwells pervading one direction with a mind imbued with compassion… with a mind imbued with sympathetic joy… with a mind imbued with equanimity. Likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, and across, everywhere, in all ways, he dwells pervading the entire world with a mind imbued with equanimity, vast, exalted, immeasurable, without hostility, without ill will.
Với tâm tràn đầy bi mẫn… (tương tự như trên)… với tâm tràn đầy hỷ lạc… (tương tự như trên)… với tâm tràn đầy xả ly, trải rộng đến một phương; cũng vậy đến phương thứ hai, cũng vậy đến phương thứ ba, cũng vậy đến phương thứ tư. Như vậy, hướng lên, hướng xuống, ngang qua, khắp mọi nơi, trong toàn thể thế giới, vị ấy an trú với tâm tràn đầy xả ly, quảng đại, vô lượng, không hận thù, không ác ý, trải rộng khắp nơi.”
623
‘‘Sa* kho so, kālāmā, ariyasāvako evaṃ averacitto evaṃ abyāpajjhacitto evaṃ asaṃkiliṭṭhacitto evaṃ visuddhacitto.
“Kālāmas, if that noble disciple is thus without hostility in mind, thus without ill will in mind, thus uncorrupted in mind, thus purified in mind,
“Này các thiện nam tử Kālāma, vị Thánh đệ tử ấy, với tâm không hận thù, với tâm không ác ý, với tâm không bị ô nhiễm, với tâm hoàn toàn thanh tịnh.
Tassa diṭṭheva dhamme cattāro assāsā adhigatā honti.
he has gained four assurances in this very life.
Trong hiện tại, vị ấy đạt được bốn sự an ủi.”
‘Sace kho pana atthi paro loko, atthi sukatadukkaṭānaṃ* kammānaṃ phalaṃ vipāko, athāhaṃ* kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissāmī’ti, ayamassa paṭhamo assāso adhigato hoti.
‘If there is indeed another world, and there is fruit and result of good and bad deeds, then it is possible that after the breakup of the body, after death, I shall reappear in a good destination, a heavenly world.’ This is his first assurance gained.
‘Nếu quả thật có đời sau, có quả báo và sự chín muồi của các nghiệp thiện và ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được tái sinh vào cảnh giới lành, cõi trời.’ Đây là sự an ủi thứ nhất mà người ấy đạt được.
624
‘‘‘Sace kho pana natthi paro loko, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, athāhaṃ* diṭṭheva dhamme averaṃ abyāpajjhaṃ anīghaṃ sukhiṃ* attānaṃ pariharāmī’ti, ayamassa dutiyo assāso adhigato hoti.
‘If there is indeed no other world, and there is no fruit and result of good and bad deeds, then in this very life I maintain myself free from hostility, free from ill will, free from trouble, and happy.’ This is his second assurance gained.
‘‘‘Nếu quả thật không có đời sau, không có quả báo và sự chín muồi của các nghiệp thiện và ác, thì ngay trong hiện tại này, ta vẫn sống không thù hận, không oán hại, không phiền não, và giữ cho tự thân được an lạc.’ Đây là sự an ủi thứ hai mà người ấy đạt được.
625
‘‘‘Sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi.
‘If indeed evil is done by one who acts, yet I do not intend evil for anyone.
‘‘‘Nếu quả thật người làm ác phải chịu ác báo, thì ta không hề có ác ý với bất cứ ai.
Akarontaṃ kho pana maṃ pāpakammaṃ kuto dukkhaṃ phusissatī’ti, ayamassa tatiyo assāso adhigato hoti.
Since I do no evil deed, how can suffering touch me?’ This is his third assurance gained.
Vì ta không làm ác nghiệp, thì làm sao khổ có thể chạm đến ta được?’ Đây là sự an ủi thứ ba mà người ấy đạt được.
626
‘‘‘Sace kho pana karoto na karīyati pāpaṃ, athāhaṃ ubhayeneva visuddhaṃ attānaṃ samanupassāmī’ti, ayamassa catuttho assāso adhigato hoti.
‘If indeed evil is not done by one who acts, then I see myself as purified in both ways.’ This is his fourth assurance gained.
‘‘‘Nếu quả thật người làm ác không phải chịu ác báo, thì ta thấy tự thân mình trong cả hai trường hợp đều thanh tịnh.’ Đây là sự an ủi thứ tư mà người ấy đạt được.
627
‘‘Sa kho so, kālāmā, ariyasāvako evaṃ averacitto evaṃ abyāpajjhacitto evaṃ asaṃkiliṭṭhacitto evaṃ visuddhacitto.
Kālāmas, that noble disciple, being thus without hostility in mind, thus without ill will in mind, thus uncorrupted in mind, thus purified in mind,
‘‘Này các Kālāma, vị Thánh đệ tử ấy có tâm không thù hận, có tâm không oán hại, có tâm không ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như vậy.
Tassa diṭṭheva dhamme ime cattāro assāsā adhigatā hontī’’ti.
has gained these four assurances in this very life.”
Ngay trong hiện tại này, người ấy đã đạt được bốn sự an ủi này.”
628
‘‘Evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata!
“So it is, Venerable Sir! So it is, Sugata!
‘‘Bạch Thế Tôn, đúng vậy! Bạch Thiện Thệ, đúng vậy!
Sa kho so, bhante, ariyasāvako evaṃ averacitto evaṃ abyāpajjhacitto evaṃ asaṃkiliṭṭhacitto evaṃ visuddhacitto.
Venerable Sir, that noble disciple, being thus without hostility in mind, thus without ill will in mind, thus uncorrupted in mind, thus purified in mind,
Bạch Thế Tôn, vị Thánh đệ tử ấy có tâm không thù hận, có tâm không oán hại, có tâm không ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như vậy.
Tassa diṭṭheva dhamme cattāro assāsā adhigatā honti.
has gained four assurances in this very life.
Ngay trong hiện tại này, người ấy đã đạt được bốn sự an ủi.
‘Sace kho pana atthi paro loko, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, athāhaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissāmī’ti, ayamassa paṭhamo assāso adhigato hoti.
‘If there is indeed another world, and there is fruit and result of good and bad deeds, then it is possible that after the breakup of the body, after death, I shall reappear in a good destination, a heavenly world.’ This is his first assurance gained.
‘Nếu quả thật có đời sau, có quả báo và sự chín muồi của các nghiệp thiện và ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ được tái sinh vào cảnh giới lành, cõi trời.’ Đây là sự an ủi thứ nhất mà người ấy đạt được.
629
‘‘‘Sace kho pana natthi paro loko, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, athāhaṃ diṭṭheva dhamme averaṃ abyāpajjhaṃ anīghaṃ sukhiṃ attānaṃ pariharāmī’ti, ayamassa dutiyo assāso adhigato hoti.
‘If there is indeed no other world, and there is no fruit and result of good and bad deeds, then in this very life I maintain myself free from hostility, free from ill will, free from trouble, and happy.’ This is his second assurance gained.
‘‘‘Nếu quả thật không có đời sau, không có quả báo và sự chín muồi của các nghiệp thiện và ác, thì ngay trong hiện tại này, ta vẫn sống không thù hận, không oán hại, không phiền não, và giữ cho tự thân được an lạc.’ Đây là sự an ủi thứ hai mà người ấy đạt được.
630
‘‘Sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ – kassaci pāpaṃ cetemi, akarontaṃ kho pana maṃ pāpakammaṃ kuto dukkhaṃ phusissatī’ti, ayamassa tatiyo assāso adhigato hoti.
‘If indeed evil is done by one who acts, yet I do not intend evil for anyone. Since I do no evil deed, how can suffering touch me?’ This is his third assurance gained.
‘‘‘Nếu quả thật người làm ác phải chịu ác báo, thì ta không hề có ác ý với bất cứ ai. Vì ta không làm ác nghiệp, thì làm sao khổ có thể chạm đến ta được?’ Đây là sự an ủi thứ ba mà người ấy đạt được.
631
‘‘‘Sace kho pana karoto na karīyati pāpaṃ, athāhaṃ ubhayeneva visuddhaṃ attānaṃ samanupassāmī’ti, ayamassa catuttho assāso adhigato hoti.
‘If indeed evil is not done by one who acts, then I see myself as purified in both ways.’ This is his fourth assurance gained.
‘‘‘Nếu quả thật người làm ác không phải chịu ác báo, thì ta thấy tự thân mình trong cả hai trường hợp đều thanh tịnh.’ Đây là sự an ủi thứ tư mà người ấy đạt được.
632
‘‘Sa kho so, bhante, ariyasāvako evaṃ averacitto evaṃ abyāpajjhacitto evaṃ asaṃkiliṭṭhacitto evaṃ visuddhacitto.
Venerable Sir, that noble disciple, being thus without hostility in mind, thus without ill will in mind, thus uncorrupted in mind, thus purified in mind,
‘‘Bạch Thế Tôn, vị Thánh đệ tử ấy có tâm không thù hận, có tâm không oán hại, có tâm không ô nhiễm, có tâm thanh tịnh như vậy.
Tassa diṭṭheva dhamme ime cattāro assāsā adhigatā honti.
has gained these four assurances in this very life.
Ngay trong hiện tại này, người ấy đã đạt được bốn sự an ủi này.
633
‘‘Abhikkantaṃ, bhante…pe… ete mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Excellent, Venerable Sir… We, Venerable Sir, go for refuge to the Blessed One, to the Dhamma, and to the Saṅgha of bhikkhus.
‘‘Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn… (văn tắt)… Bạch Thế Tôn, chúng con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, và quy y Tăng.
Upāsake no, bhante, bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupete saraṇaṃ gate’’ti.
May the Blessed One remember us as lay followers who have gone for refuge from this day forth as long as life lasts.”
Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy nhận chúng con làm Ưu-bà-tắc, từ nay cho đến trọn đời, chúng con xin nương tựa Ngài.”
Pañcamaṃ.
The Fifth.
Phẩm thứ năm.
634
6. Sāḷhasuttaṃ
6. Sāḷha Sutta
6. Sāḷhasuttaṃ
635
67. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ āyasmā nandako sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
Thus have I heard: On one occasion, the Venerable Nandaka was dwelling in Sāvatthī, in the Eastern Park, at Migāramātupāsāda.
67. Tôi nghe như vầy: Một thời, Tôn giả Nandaka trú tại Sāvatthī, trong tinh xá Pubbārāma, tại cung điện của Migāramātā.
Atha kho sāḷho ca migāranattā sāṇo ca sekhuniyanattā* yenāyasmā nandako tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ nandakaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Then Sāḷha, Migāra’s grandson, and Sāṇa, Sekhuniya’s grandson, approached the Venerable Nandaka. Having approached, they paid homage to the Venerable Nandaka and sat down to one side.
Rồi Sāḷha, cháu của Migāra, và Sāṇa, cháu của Sekhunī, đi đến chỗ Tôn giả Nandaka; sau khi đến, họ đảnh lễ Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho sāḷhaṃ migāranattāraṃ āyasmā nandako etadavoca –
To Sāḷha, Migāra’s grandson, who was sitting to one side, the Venerable Nandaka said this:
Khi Sāḷha, cháu của Migāra, đã ngồi xuống một bên, Tôn giả Nandaka nói với họ điều này:
636
‘‘Etha tumhe, sāḷhā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
“Come, Sāḷhas, do not go by hearsay, nor by tradition, nor by rumor, nor by scriptural collection, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because ‘the ascetic is our teacher.’
‘‘Này các Sāḷha, các ông hãy đến đây, đừng dựa vào truyền thuyết, đừng dựa vào truyền thống, đừng dựa vào lời đồn đại, đừng dựa vào kinh điển, đừng dựa vào lý luận suông, đừng dựa vào suy đoán, đừng dựa vào suy tư về hình tướng, đừng dựa vào sự chấp nhận một quan điểm đã được suy xét, đừng dựa vào vẻ bề ngoài đáng tin, đừng dựa vào ý nghĩ ‘vị Sa-môn này là Thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, sāḷhā, attanāva jāneyyātha ‘ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantī’ti, atha tumhe sāḷhā pajaheyyātha.
When you yourselves, Sāḷhas, know: ‘These things are unwholesome; these things are blameworthy; these things are censured by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to harm and suffering,’ then, Sāḷhas, you should abandon them.
Này các Sāḷha, khi nào chính các ông tự biết: ‘Những pháp này là bất thiện, những pháp này là đáng bị quở trách, những pháp này bị người trí khiển trách, những pháp này nếu được thực hành và chấp giữ sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau’, thì này các Sāḷha, các ông hãy từ bỏ chúng.
637
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi lobho’’ti?
“What do you think, Sāḷhas, is there greed?”
‘‘Này các Sāḷha, các ông nghĩ sao, có tham (lobha) không?”
638
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, có.”
639
‘‘Abhijjhāti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Greed, Sāḷhas, is what I call covetousness.
‘‘Này các Sāḷha, ta gọi tham là tham lam (abhijjhā).
Luddho kho ayaṃ, sāḷhā, abhijjhālu pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
A greedy person, Sāḷhas, full of covetousness, kills living beings, takes what is not given, goes with another’s wife, speaks falsehood, and encourages others to do likewise, which is for his long-term harm and suffering.”
Này các Sāḷha, người tham lam, đầy tham ái, sẽ sát hại chúng sinh, sẽ lấy của không cho, sẽ tà dâm với vợ người, sẽ nói dối, và sẽ khuyến khích người khác làm những điều tương tự, điều đó sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau lâu dài.”
640
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, đúng vậy.”
641
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi doso’’ti?
“What do you think, Sāḷhas, is there hatred?”
‘‘Này các Sāḷha, các ông nghĩ sao, có sân (dosa) không?”
642
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, có.”
643
‘‘Byāpādoti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Hatred, Sāḷhas, is what I call ill will.
‘‘Này các Sāḷha, ta gọi sân là ác ý (byāpāda).
Duṭṭho kho ayaṃ, sāḷhā, byāpannacitto pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
A hateful person, Sāḷhas, with a mind full of ill will, kills living beings, takes what is not given, goes with another’s wife, speaks falsehood, and encourages others to do likewise, which is for his long-term harm and suffering.”
Này các Sāḷha, người sân hận, có tâm ác ý, sẽ sát hại chúng sinh, sẽ lấy của không cho, sẽ tà dâm với vợ người, sẽ nói dối, và sẽ khuyến khích người khác làm những điều tương tự, điều đó sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau lâu dài.”
644
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, đúng vậy.”
645
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi moho’’ti?
“What do you think, Sāḷhas, is there delusion?”
‘‘Này các Sāḷha, các ông nghĩ sao, có si (moha) không?”
646
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, có.”
647
‘‘Avijjāti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Delusion, Sāḷhas, is what I call ignorance.
‘‘Này các Sāḷha, ta gọi si là vô minh (avijjā).
Mūḷho kho ayaṃ, sāḷhā, avijjāgato pāṇampi hanati, adinnampi ādiyati, paradārampi gacchati, musāpi bhaṇati, parampi tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’’ti.
A deluded person, Sāḷhas, overcome by ignorance, kills living beings, takes what is not given, goes with another’s wife, speaks falsehood, and encourages others to do likewise, which is for his long-term harm and suffering.”
Này các Sāḷha, người si mê, bị vô minh che lấp, sẽ sát hại chúng sinh, sẽ lấy của không cho, sẽ tà dâm với vợ người, sẽ nói dối, và sẽ khuyến khích người khác làm những điều tương tự, điều đó sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau lâu dài.”
648
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, đúng vậy.”
649
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, ime dhammā kusalā vā akusalā vā’’ti?
“What do you think, Sāḷhas, are these things wholesome or unwholesome?”
‘‘Này các Sāḷha, các ông nghĩ sao, những pháp này là thiện hay bất thiện?”
650
‘‘Akusalā, bhante’’.
“Unwholesome, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, là bất thiện.”
651
‘‘Sāvajjā vā anavajjā vā’’ti?
“Blameworthy or blameless?”
‘‘Là đáng bị quở trách hay không đáng bị quở trách?”
652
‘‘Sāvajjā, bhante’’.
“Blameworthy, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, là đáng bị quở trách.”
653
‘‘Viññugarahitā vā viññuppasatthā vā’’ti?
“Censured by the wise or praised by the wise?”
‘‘Bị người trí khiển trách hay được người trí tán thán?”
654
‘‘Viññugarahitā, bhante’’.
“Censured by the wise, venerable sir.”
‘‘Bạch Tôn giả, bị người trí khiển trách.”
655
‘‘Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti, no vā?
“When undertaken and practiced, do they lead to harm and suffering, or not?
‘‘Nếu được thực hành và chấp giữ, chúng có dẫn đến bất lợi và khổ đau không, hay là không?
Kathaṃ vā ettha hotī’’ti?
How is it in this case?”
Ở đây, điều đó như thế nào?”
656
‘‘Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti.
“When undertaken and practiced, venerable sir, they lead to harm and suffering.
‘‘Bạch Tôn giả, nếu được thực hành và chấp giữ, chúng sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau.
Evaṃ no ettha hotī’’ti.
This is how it is in this case for us.”
Ở đây, chúng con nghĩ như vậy.”
657
‘‘Iti kho, sāḷhā, yaṃ taṃ avocumhā – ‘etha tumhe, sāḷhā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
“Thus, Sāḷhas, what we said: ‘Come, Sāḷhas, do not go by hearsay, nor by tradition, nor by rumor, nor by scriptural collection, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because “the ascetic is our teacher.”
‘‘Như vậy đó, này các Sāḷha, điều ta đã nói: ‘Này các Sāḷha, các ông hãy đến đây, đừng dựa vào truyền thuyết, đừng dựa vào truyền thống, đừng dựa vào lời đồn đại, đừng dựa vào kinh điển, đừng dựa vào lý luận suông, đừng dựa vào suy đoán, đừng dựa vào suy tư về hình tướng, đừng dựa vào sự chấp nhận một quan điểm đã được suy xét, đừng dựa vào vẻ bề ngoài đáng tin, đừng dựa vào ý nghĩ ‘vị Sa-môn này là Thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, sāḷhā, attanāva jāneyyātha – ime dhammā akusalā, ime dhammā sāvajjā, ime dhammā viññugarahitā, ime dhammā samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattantīti, atha tumhe, sāḷhā, pajaheyyāthā’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
When you yourselves, Sāḷhas, know: “These things are unwholesome; these things are blameworthy; these things are censured by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to harm and suffering,” then, Sāḷhas, you should abandon them’—it was with reference to this that it was said.
Này các Sāḷha, khi nào chính các ông tự biết: ‘Những pháp này là bất thiện, những pháp này là đáng bị quở trách, những pháp này bị người trí khiển trách, những pháp này nếu được thực hành và chấp giữ sẽ dẫn đến bất lợi và khổ đau’, thì này các Sāḷha, các ông hãy từ bỏ chúng’, điều đã nói ấy chính là nói về điều này.
658
‘‘Etha tumhe, sāḷhā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
“Come, Sāḷhas, do not go by hearsay, nor by tradition, nor by rumor, nor by scriptural collection, nor by logical reasoning, nor by inference, nor by reflection on appearances, nor by the acceptance of a view after pondering it, nor by the seeming competence of a speaker, nor because ‘the ascetic is our teacher.’
"Này các Sāḷhā, chớ vội tin theo lời đồn, chớ vội tin theo truyền thống, chớ vội tin theo tin đồn, chớ vội tin theo kinh điển truyền tụng, chớ vội tin theo lý luận, chớ vội tin theo suy đoán, chớ vội tin theo sự cân nhắc hình tướng, chớ vội tin theo sự chấp nhận quan điểm đã được suy tư, chớ vội tin vì thấy có vẻ hợp lý, chớ vội tin vì ‘vị Sa-môn này là bậc thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, sāḷhā, attanāva jāneyyātha – ‘ime dhammā kusalā, ime dhammā anavajjā, ime dhammā viññuppasatthā, ime dhammā samattā samādinnā hitāya sukhāya saṃvattantī’ti, atha tumhe, sāḷhā, upasampajja vihareyyātha.
When you yourselves, Sāḷhas, know: ‘These things are wholesome; these things are blameless; these things are praised by the wise; these things, when undertaken and practiced, lead to welfare and happiness,’ then, Sāḷhas, you should undertake and abide in them.
Này các Sāḷhā, khi nào chính các ông tự biết: ‘Những pháp này là thiện, những pháp này không đáng bị khiển trách, những pháp này được người trí ca ngợi, những pháp này nếu được thực hành và chấp nhận sẽ đưa đến lợi ích và hạnh phúc’, thì này các Sāḷhā, các ông hãy sống với sự thực hành và chấp nhận chúng."
659
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi alobho’’ti?
“What do you think, Sāḷhas, is there non-greed?”
"Này các Sāḷhā, các ông nghĩ sao, có vô tham không?"
660
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, venerable sir.”
"Bạch Thế Tôn, có."
661
‘‘Anabhijjhāti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Non-greed, Sāḷhas, is what I call non-covetousness.
"Này các Sāḷhā, Ta nói về ý nghĩa này là không tham lam (anabhijjhā)."
Aluddho kho ayaṃ, sāḷhā, anabhijjhālu neva pāṇaṃ hanati, na adinnaṃ ādiyati, na paradāraṃ gacchati, na musā bhaṇati, parampi na tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
Indeed, Sāḷhā, this person is ungreedy, not covetous; he neither kills living beings, nor takes what is not given, nor goes to another's wife, nor speaks falsely, nor does he induce others to do likewise, which is for their long-term welfare and happiness.
Này các Sāḷhā, người không tham lam (aluddho), không tham lam quá mức (anabhijjhālu) này không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, cũng không khuyến khích người khác làm như vậy, điều đó sẽ là lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho người ấy."
662
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, đúng vậy."
663
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi adoso’’ti?
“What do you think, Sāḷhā, is there non-hatred?”
"Này các Sāḷhā, các ông nghĩ sao, có vô sân không?"
664
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, có."
665
‘‘Abyāpādoti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Sāḷhā, I call this meaning ‘non-ill-will’ (abyāpāda).
"Này các Sāḷhā, Ta nói về ý nghĩa này là không ác ý (abyāpāda)."
Aduṭṭho kho ayaṃ, sāḷhā, abyāpannacitto neva pāṇaṃ hanati, na adinnaṃ ādiyati, na paradāraṃ gacchati, na musā bhaṇati, parampi na tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
Indeed, Sāḷhā, this person, uncorrupted, with a mind free from ill-will, neither kills living beings, nor takes what is not given, nor goes to another's wife, nor speaks falsely, nor does he induce others to do likewise, which is for their long-term welfare and happiness.”
Này các Sāḷhā, người không sân hận (aduṭṭho), không có tâm ác ý (abyāpannacitto) này không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, cũng không khuyến khích người khác làm như vậy, điều đó sẽ là lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho người ấy."
666
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, đúng vậy."
667
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, atthi amoho’’ti?
“What do you think, Sāḷhā, is there non-delusion?”
"Này các Sāḷhā, các ông nghĩ sao, có vô si không?"
668
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, có."
669
‘‘Vijjāti kho ahaṃ, sāḷhā, etamatthaṃ vadāmi.
“Sāḷhā, I call this meaning ‘wisdom’ (vijjā).
"Này các Sāḷhā, Ta nói về ý nghĩa này là minh (vijjā)."
Amūḷho kho ayaṃ, sāḷhā, vijjāgato neva pāṇaṃ hanati, na adinnaṃ ādiyati, na paradāraṃ gacchati, na musā bhaṇati, parampi na tathattāya samādapeti, yaṃ sa hoti dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
Indeed, Sāḷhā, this person, undeluded, possessing wisdom, neither kills living beings, nor takes what is not given, nor goes to another's wife, nor speaks falsely, nor does he induce others to do likewise, which is for their long-term welfare and happiness.”
Này các Sāḷhā, người không si mê (amūḷho), đã đạt được minh (vijjāgato) này không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, cũng không khuyến khích người khác làm như vậy, điều đó sẽ là lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho người ấy."
670
‘‘Evaṃ, bhante’’.
“Yes, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, đúng vậy."
671
‘‘Taṃ kiṃ maññatha, sāḷhā, ime dhammā kusalā vā akusalā vā’’ti?
“What do you think, Sāḷhā, are these qualities wholesome or unwholesome?”
"Này các Sāḷhā, các ông nghĩ sao, những pháp này là thiện hay bất thiện?"
672
‘‘Kusalā, bhante’’.
“Wholesome, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, là thiện."
673
‘‘Sāvajjā vā anavajjā vā’’ti?
“Blameworthy or blameless?”
"Là đáng bị khiển trách hay không đáng bị khiển trách?"
674
‘‘Anavajjā, bhante’’.
“Blameless, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, không đáng bị khiển trách."
675
‘‘Viññugarahitā vā viññuppasatthā vā’’ti?
“Censured by the wise or praised by the wise?”
"Bị người trí chê bai hay được người trí ca ngợi?"
676
‘‘Viññuppasatthā, bhante’’.
“Praised by the wise, Venerable Sir.”
"Bạch Thế Tôn, được người trí ca ngợi."
677
‘‘Samattā samādinnā hitāya sukhāya saṃvattanti, no vā?
“When undertaken and practiced, do they lead to welfare and happiness, or not?
"Được thực hành và chấp nhận có đưa đến lợi ích và hạnh phúc không, hay như thế nào?"
Kathaṃ vā ettha hotī’’ti?
How is it in this case?”
Về điều này thì như thế nào?"
678
‘‘Samattā, bhante, samādinnā hitāya sukhāya saṃvattantīti.
“When undertaken and practiced, Venerable Sir, they lead to welfare and happiness.
"Bạch Thế Tôn, được thực hành và chấp nhận sẽ đưa đến lợi ích và hạnh phúc.
Evaṃ no ettha hotī’’ti.
That is how it is in this case for us.”
Về điều này, chúng con nghĩ như vậy."
679
‘‘Iti kho, sāḷhā, yaṃ taṃ avocumhā – ‘etha tumhe, sāḷhā, mā anussavena, mā paramparāya, mā itikirāya, mā piṭakasampadānena, mā takkahetu, mā nayahetu, mā ākāraparivitakkena, mā diṭṭhinijjhānakkhantiyā, mā bhabbarūpatāya, mā samaṇo no garūti.
“Thus, Sāḷhā, what we said—‘Come, Sāḷhā, do not go by oral tradition, by lineage, by hearsay, by the collection of scriptures, by reasoning, by inference, by reflection on appearances, by the acceptance of a view after pondering it, by the seeming competence of a speaker, nor because ‘the ascetic is our teacher’.
"Này các Sāḷhā, như vậy, điều Ta đã nói: ‘Này các Sāḷhā, chớ vội tin theo lời đồn, chớ vội tin theo truyền thống, chớ vội tin theo tin đồn, chớ vội tin theo kinh điển truyền tụng, chớ vội tin theo lý luận, chớ vội tin theo suy đoán, chớ vội tin theo sự cân nhắc hình tướng, chớ vội tin theo sự chấp nhận quan điểm đã được suy tư, chớ vội tin vì thấy có vẻ hợp lý, chớ vội tin vì ‘vị Sa-môn này là bậc thầy của chúng ta’.
Yadā tumhe, sāḷhā, attanāva jāneyyātha – ime dhammā kusalā, ime dhammā anavajjā, ime dhammā viññuppasatthā, ime dhammā samattā samādinnā dīgharattaṃ hitāya sukhāya saṃvattantīti, atha tumhe, sāḷhā, upasampajja vihareyyāthā’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.
But when you yourselves know, Sāḷhā: ‘These qualities are wholesome; these qualities are blameless; these qualities are praised by the wise; these qualities, when undertaken and practiced, lead to long-term welfare and happiness’—then, Sāḷhā, you should enter upon and abide in them’—that which was said was said with reference to this.
Này các Sāḷhā, khi nào chính các ông tự biết: những pháp này là thiện, những pháp này không đáng bị khiển trách, những pháp này được người trí ca ngợi, những pháp này nếu được thực hành và chấp nhận sẽ đưa đến lợi ích và hạnh phúc lâu dài, thì này các Sāḷhā, các ông hãy sống với sự thực hành và chấp nhận chúng’, điều đã nói đó là dựa vào điều này mà nói."
680
‘‘Sa kho so, sāḷhā, ariyasāvako evaṃ vigatābhijjho vigatabyāpādo asammūḷho sampajāno patissato mettāsahagatena cetasā…pe… karuṇā…pe… muditā…pe… upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ, iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjhena pharitvā viharati.
“Indeed, Sāḷhā, that noble disciple, having abandoned covetousness, having abandoned ill-will, undeluded, clearly comprehending, and mindful, abides pervading one direction with a mind imbued with loving-kindness…pe… with compassion…pe… with appreciative joy…pe… with equanimity; likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; thus above, below, across, everywhere, in all circumstances, he abides pervading the entire world with a mind imbued with equanimity, abundant, exalted, immeasurable, without hostility, without ill-will.
"Này các Sāḷhā, vị Thánh đệ tử ấy, đã đoạn trừ tham lam, đã đoạn trừ ác ý, không si mê, có chánh niệm, có tỉnh giác, sống trải khắp một phương với tâm câu hữu với từ… (tương tự như vậy) …bi… (tương tự như vậy) …hỷ… (tương tự như vậy) …xả, rồi phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Như vậy, hướng lên, hướng xuống, hướng ngang, khắp mọi nơi, khắp cả thế giới, vị ấy sống trải khắp với tâm câu hữu với xả, rộng lớn, vô lượng, không hận thù, không ác ý.
So evaṃ pajānāti – ‘atthi idaṃ, atthi hīnaṃ, atthi paṇītaṃ, atthi imassa saññāgatassa uttari* nissaraṇa’nti.
He thus understands: ‘This exists, this is inferior, this is excellent, there is a further escape beyond this perception.’
Vị ấy biết như sau: ‘Có điều này, có điều thấp kém, có điều cao thượng, có sự giải thoát vượt lên trên nhận thức này’.
Tassa evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
When he thus knows and sees, his mind is liberated from the taint of sensual desire, from the taint of existence, and from the taint of ignorance; with liberation comes the knowledge: ‘It is liberated.’
Khi vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc dục, tâm vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc hữu, tâm vị ấy được giải thoát khỏi lậu hoặc vô minh; khi được giải thoát, trí tuệ biết rằng đã giải thoát khởi lên.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
He understands: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what was to be done has been done, there is no more for this state of being.’
Vị ấy biết: ‘Sự sinh đã tận, đời sống Phạm hạnh đã hoàn thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa’."
681
‘‘So evaṃ pajānāti – ‘ahu pubbe lobho, tadahu akusalaṃ, so etarahi natthi, iccetaṃ kusalaṃ; ahu pubbe doso…pe… ahu pubbe moho, tadahu akusalaṃ, so etarahi natthi, iccetaṃ kusala’nti.
“He thus understands: ‘There was greed formerly, that was unwholesome; it is not present now, this is wholesome; there was hatred formerly…pe… there was delusion formerly, that was unwholesome; it is not present now, this is wholesome.’
"Vị ấy biết như sau: ‘Trước kia có tham lam, đó là bất thiện, nay không còn nữa, đây là thiện; trước kia có sân hận… (tương tự như vậy) …trước kia có si mê, đó là bất thiện, nay không còn nữa, đây là thiện’.
So diṭṭheva dhamme nicchāto nibbuto sītibhūto sukhappaṭisaṃvedī brahmabhūtena attanā viharatī’’ti.
He abides in this very life, quenched, extinguished, cooled, experiencing happiness, with a mind become divine.”
Vị ấy sống ngay trong hiện tại, không còn khao khát, đã tịch tịnh, đã mát mẻ, cảm nhận được hạnh phúc, với tự ngã đã trở thành Phạm thiên."
Chaṭṭhaṃ.
The Sixth.
Thứ sáu.
682
7. Kathāvatthusuttaṃ
7. Discourse on Topics of Discussion
7. Kinh Kathāvatthu (Những chủ đề đàm luận)
683
68. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, kathāvatthūni.
68. “Monks, there are these three topics of discussion.
"Này các Tỳ-khưu, có ba chủ đề đàm luận này.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Thế nào là ba?
Atītaṃ vā, bhikkhave, addhānaṃ ārabbha kathaṃ katheyya – ‘evaṃ ahosi atītamaddhāna’nti.
Monks, one might speak a discourse concerning the past—‘Thus it was in the past.’
Này các Tỳ-khưu, có thể đàm luận về thời quá khứ – ‘Thời quá khứ đã xảy ra như thế này’.
Anāgataṃ vā, bhikkhave, addhānaṃ ārabbha kathaṃ katheyya – ‘evaṃ bhavissati anāgatamaddhāna’nti.
Or, bhikkhus, one might speak a discourse concerning the future time, saying: ‘Thus will it be in the future time.’
Này các Tỳ-khưu, có thể đàm luận về thời vị lai – ‘Thời vị lai sẽ xảy ra như thế này’.
Etarahi vā, bhikkhave, paccuppannaṃ addhānaṃ ārabbha kathaṃ katheyya – ‘evaṃ hoti etarahi paccuppannamaddhāna’’’nti* .
Or, bhikkhus, one might speak a discourse concerning the present time, saying: ‘Thus it is now in the present time.’
Hoặc này các Tỳ-khưu, có thể đàm luận về thời hiện tại – ‘Thời hiện tại đang xảy ra như thế này’."
684
‘‘Kathāsampayogena, bhikkhave, puggalo veditabbo yadi vā kaccho yadi vā akacchoti.
‘‘By the engagement in conversation, bhikkhus, a person is to be known, whether he is tractable or intractable.
"Này các Tỳ-khưu, một người được biết là khéo léo hay không khéo léo qua cách đàm luận của người ấy.
Sacāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno ekaṃsabyākaraṇīyaṃ pañhaṃ na ekaṃsena byākaroti, vibhajjabyākaraṇīyaṃ pañhaṃ na vibhajja byākaroti, paṭipucchābyākaraṇīyaṃ pañhaṃ na paṭipucchā byākaroti, ṭhapanīyaṃ pañhaṃ na ṭhapeti* , evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo akaccho hoti.
If, bhikkhus, a person, when asked a question, does not answer a question requiring a categorical answer categorically, does not answer a question requiring an analytical answer analytically, does not answer a question requiring a counter-question with a counter-question, does not set aside a question requiring to be set aside, then, bhikkhus, such a person is intractable.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người khi được hỏi một câu hỏi, không trả lời dứt khoát một câu hỏi cần trả lời dứt khoát, không phân tích một câu hỏi cần phân tích, không hỏi lại một câu hỏi cần hỏi lại, không gác lại một câu hỏi cần gác lại, thì này các Tỳ-khưu, người ấy là không khéo léo.
Sace panāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno ekaṃsabyākaraṇīyaṃ pañhaṃ ekaṃsena byākaroti, vibhajjabyākaraṇīyaṃ pañhaṃ vibhajja byākaroti, paṭipucchābyākaraṇīyaṃ pañhaṃ paṭipucchā byākaroti, ṭhapanīyaṃ pañhaṃ ṭhapeti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo kaccho hoti.
But if, bhikkhus, a person, when asked a question, answers a question requiring a categorical answer categorically, answers a question requiring an analytical answer analytically, answers a question requiring a counter-question with a counter-question, sets aside a question requiring to be set aside, then, bhikkhus, such a person is tractable.
Nhưng này các Tỳ-khưu, nếu một người khi được hỏi một câu hỏi, trả lời dứt khoát một câu hỏi cần trả lời dứt khoát, phân tích một câu hỏi cần phân tích, hỏi lại một câu hỏi cần hỏi lại, gác lại một câu hỏi cần gác lại, thì này các Tỳ-khưu, người ấy là khéo léo."
685
‘‘Kathāsampayogena, bhikkhave, puggalo veditabbo yadi vā kaccho yadi vā akacchoti.
‘‘By the engagement in conversation, bhikkhus, a person is to be known, whether he is tractable or intractable.
"Này các Tỳ-khưu, một người được biết là khéo léo hay không khéo léo qua cách đàm luận của người ấy.
Sacāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno ṭhānāṭhāne na saṇṭhāti parikappe na saṇṭhāti aññātavāde* na saṇṭhāti paṭipadāya na saṇṭhāti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo akaccho hoti.
If, bhikkhus, a person, when asked a question, does not stand firm on what is possible and impossible, does not stand firm on conjectures, does not stand firm on other doctrines, does not stand firm on the practice, then, bhikkhus, such a person is intractable.
Này các Tỳ-khưu, nếu một người khi được hỏi một câu hỏi, không giữ vững lập trường về đúng hay sai, không giữ vững lập trường về các giả định, không giữ vững lập trường về các quan điểm đã biết, không giữ vững lập trường về con đường thực hành, thì này các Tỳ-khưu, người ấy là không khéo léo.
Sace panāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno ṭhānāṭhāne saṇṭhāti parikappe saṇṭhāti aññātavāde saṇṭhāti paṭipadāya saṇṭhāti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo kaccho hoti.
But if, bhikkhus, a person, when asked a question, stands firm on what is possible and impossible, stands firm on conjectures, stands firm on other doctrines, stands firm on the practice, then, bhikkhus, such a person is tractable.
Nhưng này các Tỳ-khưu, nếu một người khi được hỏi một câu hỏi, giữ vững lập trường về đúng hay sai, giữ vững lập trường về các giả định, giữ vững lập trường về các quan điểm đã biết, giữ vững lập trường về con đường thực hành, thì này các Tỳ-khưu, người ấy là khéo léo."
686
‘‘Kathāsampayogena, bhikkhave, puggalo veditabbo yadi vā kaccho yadi vā akacchoti.
‘‘By the engagement in conversation, bhikkhus, a person is to be known, whether he is tractable or intractable.
“Này các Tỳ-khưu, qua sự giao tiếp bằng lời nói, một người được biết là có thể giao tiếp hay không thể giao tiếp.
Sacāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno aññenaññaṃ paṭicarati, bahiddhā kathaṃ apanāmeti, kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo akaccho hoti.
If, bhikkhus, a person, when asked a question, replies with something irrelevant, diverts the conversation outwards, and manifests anger, ill-will, and displeasure, then, bhikkhus, such a person is intractable.
Này các Tỳ-khưu, nếu người ấy, khi được hỏi một câu hỏi, lại trả lời lạc đề, lái câu chuyện sang chuyện khác, và biểu lộ sự giận dữ, sân hận, và bất mãn, thì người ấy, này các Tỳ-khưu, là người không thể giao tiếp.
Sace panāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno na aññenaññaṃ paṭicarati na bahiddhā kathaṃ apanāmeti, na kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo kaccho hoti.
But if, bhikkhus, a person, when asked a question, does not reply with something irrelevant, does not divert the conversation outwards, and does not manifest anger, ill-will, or displeasure, then, bhikkhus, such a person is tractable.
Nhưng nếu người ấy, này các Tỳ-khưu, khi được hỏi một câu hỏi, không trả lời lạc đề, không lái câu chuyện sang chuyện khác, và không biểu lộ sự giận dữ, sân hận, và bất mãn, thì người ấy, này các Tỳ-khưu, là người có thể giao tiếp.
687
‘‘Kathāsampayogena, bhikkhave, puggalo veditabbo yadi vā kaccho yadi vā akacchoti.
‘‘By the engagement in conversation, bhikkhus, a person is to be known, whether he is tractable or intractable.
“Này các Tỳ-khưu, qua sự giao tiếp bằng lời nói, một người được biết là có thể giao tiếp hay không thể giao tiếp.
Sacāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno abhiharati abhimaddati anupajagghati* khalitaṃ gaṇhāti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo akaccho hoti.
If, bhikkhus, a person, when asked a question, attacks, crushes, ridicules, and seizes upon faults, then, bhikkhus, such a person is intractable.
Này các Tỳ-khưu, nếu người ấy, khi được hỏi một câu hỏi, lại áp đảo, đè bẹp, chế giễu, và nắm bắt lỗi lầm, thì người ấy, này các Tỳ-khưu, là người không thể giao tiếp.
Sace panāyaṃ, bhikkhave, puggalo pañhaṃ puṭṭho samāno nābhiharati nābhimaddati na anupajagghati na khalitaṃ gaṇhāti, evaṃ santāyaṃ, bhikkhave, puggalo kaccho hoti.
But if, bhikkhus, a person, when asked a question, does not attack, does not crush, does not ridicule, and does not seize upon faults, then, bhikkhus, such a person is tractable.
Nhưng nếu người ấy, này các Tỳ-khưu, khi được hỏi một câu hỏi, không áp đảo, không đè bẹp, không chế giễu, và không nắm bắt lỗi lầm, thì người ấy, này các Tỳ-khưu, là người có thể giao tiếp.
688
‘‘Kathāsampayogena, bhikkhave, puggalo veditabbo yadi vā saupaniso yadi vā anupanisoti.
‘‘By the engagement in conversation, bhikkhus, a person is to be known, whether he has supporting conditions or not.
“Này các Tỳ-khưu, qua sự giao tiếp bằng lời nói, một người được biết là có căn duyên hay không có căn duyên.
Anohitasoto, bhikkhave, anupaniso hoti, ohitasoto saupaniso hoti.
One who does not pay attention, bhikkhus, has no supporting conditions; one who pays attention has supporting conditions.
Này các Tỳ-khưu, người không lắng tai là không có căn duyên, người lắng tai là có căn duyên.
So saupaniso samāno abhijānāti ekaṃ dhammaṃ, parijānāti ekaṃ dhammaṃ, pajahati ekaṃ dhammaṃ, sacchikaroti ekaṃ dhammaṃ.
Having supporting conditions, he comprehends one Dhamma, fully understands one Dhamma, abandons one Dhamma, realizes one Dhamma.
Người có căn duyên ấy, thấu hiểu một pháp, thấu triệt một pháp, từ bỏ một pháp, chứng ngộ một pháp.
So abhijānanto ekaṃ dhammaṃ, parijānanto ekaṃ dhammaṃ, pajahanto ekaṃ dhammaṃ, sacchikaronto ekaṃ dhammaṃ sammāvimuttiṃ phusati.
Comprehending one Dhamma, fully understanding one Dhamma, abandoning one Dhamma, realizing one Dhamma, he touches right liberation.
Người ấy, khi thấu hiểu một pháp, thấu triệt một pháp, từ bỏ một pháp, chứng ngộ một pháp, thì đạt được giải thoát hoàn toàn.
Etadatthā, bhikkhave, kathā; etadatthā mantanā; etadatthā upanisā; etadatthaṃ sotāvadhānaṃ, yadidaṃ anupādā cittassa vimokkhoti.
For this purpose, bhikkhus, is conversation; for this purpose is deliberation; for this purpose are supporting conditions; for this purpose is paying attention, namely, the liberation of the mind through non-clinging.
Này các Tỳ-khưu, đây là mục đích của lời nói; đây là mục đích của sự bàn bạc; đây là mục đích của căn duyên; đây là mục đích của sự lắng tai, đó là sự giải thoát tâm không chấp thủ.
689
‘‘Ye viruddhā sallapanti, viniviṭṭhā samussitā;
‘‘Those who converse in opposition, established in hostility, exalted,
Những ai tranh cãi, cố chấp, kiêu căng,
690
Anariyaguṇamāsajja, aññoññavivaresino.
having resorted to ignoble qualities, seeking each other’s flaws.
Tìm kiếm lỗi lầm của nhau, dựa vào phẩm chất không cao thượng.
691
‘‘Dubbhāsitaṃ vikkhalitaṃ, sampamohaṃ* parājayaṃ;
‘‘Ill-spoken words, a slip, utter confusion, defeat;
Những lời nói xấu, lỗi lầm, sự mê muội, sự thất bại;
692
Aññoññassābhinandanti, tadariyo kathanācare* .
They delight in each other's (faults); how would a noble one act thus?
Họ vui mừng với nhau, điều đó bậc Thánh không nên làm.
693
‘‘Sace cassa kathākāmo, kālamaññāya paṇḍito;
‘‘If a wise person desires to speak, knowing the proper time,
Nếu một người trí muốn nói chuyện, biết thời điểm thích hợp;
694
Dhammaṭṭhapaṭisaṃyuttā, yā ariyacaritā* kathā.
Let that be talk connected with Dhamma, noble conduct, and rooted in Dhamma.
Thì đó là lời nói liên quan đến Pháp, là hành vi của bậc Thánh.
695
‘‘Taṃ kathaṃ kathaye dhīro, aviruddho anussito;
‘‘That talk should the wise one utter, without animosity, without arrogance,
Người trí nên nói lời ấy, không xung đột, không kiêu căng;
696
Anunnatena manasā, apaḷāso asāhaso.
With an unexalted mind, without rivalry, without aggression.
Với tâm không tự mãn, không khoe khoang, không bạo động.
697
‘‘Anusūyāyamāno so, sammadaññāya bhāsati;
‘‘Not envious, he speaks, understanding rightly;
Người ấy không ganh tị, nói năng đúng đắn;
698
Subhāsitaṃ anumodeyya, dubbhaṭṭhe nāpasādaye* .
He should approve of well-spoken words, and not disparage those that are ill-spoken.
Nên tán thành lời nói hay, không chê bai lời nói dở.
699
‘‘Upārambhaṃ na sikkheyya, khalitañca na gāhaye* ;
‘‘He should not practice fault-finding, nor seize upon a slip;
Không nên học cách chỉ trích, không nên nắm bắt lỗi lầm;
700
Nābhihare nābhimadde, na vācaṃ payutaṃ bhaṇe.
He should not overpower, nor crush, nor utter mixed speech.
Không nên áp đảo, không nên đè bẹp, không nên nói lời giả dối.
701
‘‘Aññātatthaṃ pasādatthaṃ, sataṃ ve hoti mantanā;
‘‘Indeed, the counsel of the good is for understanding and for clarity;
Này các Tỳ-khưu, sự bàn bạc của bậc thiện nhân là để hiểu biết và để thanh tịnh;
702
Evaṃ kho ariyā mantenti, esā ariyāna mantanā;
Thus do the noble ones counsel; this is the counsel of the noble ones;
Đó là cách các bậc Thánh bàn bạc, đó là sự bàn bạc của các bậc Thánh;
703
Etadaññāya medhāvī, na samusseyya mantaye’’ti.
Knowing this, a wise one should not counsel with arrogance.’’
Người có trí tuệ hiểu điều này, không nên kiêu căng khi bàn bạc.”
sattamaṃ;
Seventh.
Thứ bảy;
704
8. Aññatitthiyasuttaṃ
8. Aññatitthiyasutta — With Other Sectarians
8. Kinh Với Các Ngoại Đạo
705
69. ‘‘Sace, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ – ‘tayome, āvuso, dhammā.
69. ‘‘Monks, if other sectarian wanderers were to ask you thus: ‘Friends, there are these three things.
69. “Này các Tỳ-khưu, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các ông như sau: ‘Thưa các bạn, có ba pháp này.
Katame tayo?
Which three?
Ba pháp nào?
Rāgo, doso, moho – ime kho, āvuso, tayo dhammā.
Greed, hatred, delusion — these, friends, are the three things.
Tham, sân, si – thưa các bạn, đây là ba pháp này.
Imesaṃ, āvuso, tiṇṇaṃ dhammānaṃ ko viseso ko adhippayāso* kiṃ nānākaraṇa’nti?
What is the distinction, what is the difference, what is the differentiation among these three things, friends?’
Thưa các bạn, sự khác biệt, sự đặc thù, sự phân biệt của ba pháp này là gì?’
Evaṃ puṭṭhā tumhe, bhikkhave, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ kinti byākareyyāthā’’ti?
When thus asked, monks, how would you answer those other sectarian wanderers?’’
Này các Tỳ-khưu, khi được hỏi như vậy, các ông sẽ trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như thế nào?”
‘‘Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā.
‘‘Our teachings, Venerable Sir, are rooted in the Blessed One, guided by the Blessed One, and have the Blessed One as their refuge.
“Bạch Thế Tôn, các pháp của chúng con có Thế Tôn làm gốc, có Thế Tôn dẫn dắt, có Thế Tôn làm nơi nương tựa.
Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho.
It would be good, Venerable Sir, if the Blessed One himself would clarify the meaning of this statement.
Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy giải thích ý nghĩa của lời nói này.
Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī’’ti.
Having heard from the Blessed One, the monks will remember it.’’
Sau khi nghe từ Thế Tôn, các Tỳ-khưu sẽ ghi nhớ.”
‘‘Tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha; bhāsissāmī’’ti.
‘‘In that case, monks, listen, pay close attention; I will speak.’’
“Vậy thì, này các Tỳ-khưu, hãy lắng nghe, hãy chú ý kỹ; Ta sẽ nói.”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
‘‘Yes, Venerable Sir,’’ those monks replied to the Blessed One.
“Vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỳ-khưu ấy trả lời Thế Tôn.
Bhagavā etadavoca –
The Blessed One spoke this:
Thế Tôn nói như sau:
706
‘‘Sace, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ – ‘tayome, āvuso, dhammā.
‘‘Monks, if other sectarian wanderers were to ask you thus: ‘Friends, there are these three things.
“Này các Tỳ-khưu, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các ông như sau: ‘Thưa các bạn, có ba pháp này.
Katame tayo?
Which three?
Ba pháp nào?
Rāgo, doso, moho – ime kho, āvuso, tayo dhammā; imesaṃ, āvuso, tiṇṇaṃ dhammānaṃ ko viseso ko adhippayāso kiṃ nānākaraṇa’nti?
Greed, hatred, delusion — these, friends, are the three things; what is the distinction, what is the difference, what is the differentiation among these three things, friends?’
Tham, sân, si – thưa các bạn, đây là ba pháp này; thưa các bạn, sự khác biệt, sự đặc thù, sự phân biệt của ba pháp này là gì?’
Evaṃ puṭṭhā tumhe, bhikkhave, tesaṃ aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ evaṃ byākareyyātha – ‘rāgo kho, āvuso, appasāvajjo dandhavirāgī, doso mahāsāvajjo khippavirāgī, moho mahāsāvajjo dandhavirāgī’’’ ti.
When thus asked, monks, you should answer those other sectarian wanderers thus: ‘Greed, friends, has little fault and is slow to fade; hatred has great fault and is quick to fade; delusion has great fault and is slow to fade.’’
Khi được hỏi như vậy, này các Tỳ-khưu, các ông hãy trả lời các du sĩ ngoại đạo ấy như sau: ‘Thưa các bạn, tham ít tội lỗi nhưng khó đoạn trừ, sân nhiều tội lỗi nhưng dễ đoạn trừ, si nhiều tội lỗi và khó đoạn trừ.’”
707
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā rāgo uppajjati uppanno vā rāgo bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’ti?
‘‘‘But what, friends, is the cause, what is the condition, for unarisen greed to arise, or for arisen greed to increase and grow?’
“‘Thưa các bạn, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến tham chưa sinh lại sinh khởi, tham đã sinh lại tăng trưởng và phát triển?’
‘Subhanimittantissa vacanīyaṃ.
‘The beautiful object should be stated as the cause.
‘Đó là tướng khả ái (subhanimitta).’
Tassa subhanimittaṃ ayoniso manasi karoto anuppanno vā rāgo uppajjati uppanno vā rāgo bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattati.
When one attends unwisely to a beautiful object, unarisen greed arises, or arisen greed increases and grows.
Khi người ấy tác ý không đúng cách đến tướng khả ái, thì tham chưa sinh lại sinh khởi, tham đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno vā rāgo uppajjati uppanno vā rāgo bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’’’ti.
This, friends, is the cause, this is the condition, for unarisen greed to arise, or for arisen greed to increase and grow.’’
Thưa các bạn, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến tham chưa sinh lại sinh khởi, tham đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.’”
708
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā doso uppajjati uppanno vā doso bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’ti?
‘‘‘But what, friends, is the cause, what is the condition, for unarisen hatred to arise, or for arisen hatred to increase and grow?’
“‘Thưa các bạn, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến sân chưa sinh lại sinh khởi, sân đã sinh lại tăng trưởng và phát triển?’
‘Paṭighanimittaṃ tissa vacanīyaṃ.
‘The irritating object should be stated as the cause.
‘Đó là tướng chướng ngại (paṭighanimitta).’
Tassa paṭighanimittaṃ ayoniso manasi karoto anuppanno vā doso uppajjati uppanno vā doso bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattati.
When one attends unwisely to an irritating object, unarisen hatred arises, or arisen hatred increases and grows.
Khi người ấy tác ý không đúng cách đến tướng chướng ngại, thì sân chưa sinh lại sinh khởi, sân đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno vā doso uppajjati uppanno vā doso bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’’’ti.
This, friends, is the cause, this is the condition, for unarisen hatred to arise, or for arisen hatred to increase and grow.’’
Thưa các bạn, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến sân chưa sinh lại sinh khởi, sân đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.’”
709
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno vā moho uppajjati uppanno vā moho bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’ti?
‘‘‘But what, friends, is the cause, what is the condition, for unarisen delusion to arise, or for arisen delusion to increase and grow?’
“‘Thưa các bạn, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến si chưa sinh lại sinh khởi, si đã sinh lại tăng trưởng và phát triển?’
‘Ayoniso manasikāro tissa vacanīyaṃ.
‘Unwise attention should be stated as the cause.
‘Đó là tác ý không đúng cách (ayoniso manasikāra).’
Tassa ayoniso manasi karoto anuppanno vā moho uppajjati uppanno vā moho bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattati.
When one attends unwisely, unarisen delusion arises, or arisen delusion increases and grows.
Khi người ấy tác ý không đúng cách, thì si chưa sinh lại sinh khởi, si đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno vā moho uppajjati uppanno vā moho bhiyyobhāvāya vepullāya saṃvattatī’’’ti.
Friends, this is the cause, this is the condition, by which unarisen delusion arises, and arisen delusion leads to further increase and development."
Thưa các bạn, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến si chưa sinh lại sinh khởi, si đã sinh lại tăng trưởng và phát triển.’”
710
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno ceva rāgo nuppajjati uppanno ca rāgo pahīyatī’ti?
"‘But friends, what is the cause, what is the condition, by which unarisen lust does not arise, and arisen lust is abandoned?’
“‘Thưa các bạn, nguyên nhân nào, điều kiện nào khiến tham chưa sinh không sinh khởi, và tham đã sinh được đoạn trừ?’
‘Asubhanimittantissa vacanīyaṃ.
‘The sign of impurity (asubhanimitta) is to be stated as its cause.
‘Đó là tướng bất tịnh (asubhanimitta).’
Tassa asubhanimittaṃ yoniso manasi karoto anuppanno ceva rāgo nuppajjati uppanno ca rāgo pahīyati.
When one attends properly to the sign of impurity, unarisen lust does not arise, and arisen lust is abandoned.
Khi người ấy tác ý đúng cách đến tướng bất tịnh, thì tham chưa sinh không sinh khởi, và tham đã sinh được đoạn trừ.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno ceva rāgo nuppajjati uppanno ca rāgo pahīyatī’’’ti.
Friends, this is the cause, this is the condition, by which unarisen lust does not arise, and arisen lust is abandoned.’"
Thưa các bạn, đây là nguyên nhân, đây là điều kiện khiến tham chưa sinh không sinh khởi, và tham đã sinh được đoạn trừ.’”
711
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno ceva doso nuppajjati uppanno ca doso pahīyatī’ti?
"‘But friends, what is the cause, what is the condition, by which unarisen ill-will does not arise, and arisen ill-will is abandoned?’
‘‘‘Thưa chư Hiền, nhân nào, duyên nào khiến cho sân chưa sanh thì không sanh khởi, và sân đã sanh thì được đoạn trừ?’
‘Mettā cetovimuttī tissa vacanīyaṃ.
‘The liberation of mind by loving-kindness (mettā cetovimutti) is to be stated as its cause.
‘Giải thoát tâm từ (mettā cetovimutti) là điều cần phải nói.
Tassa mettaṃ cetovimuttiṃ yoniso manasi karoto anuppanno ceva doso nuppajjati uppanno ca doso pahīyati.
When one attends properly to the liberation of mind by loving-kindness, unarisen ill-will does not arise, and arisen ill-will is abandoned.
Khi người ấy tác ý đúng đắn giải thoát tâm từ, thì sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn trừ.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno ceva doso nuppajjati uppanno ca doso pahīyatī’’’ti.
Friends, this is the cause, this is the condition, by which unarisen ill-will does not arise, and arisen ill-will is abandoned.’"
Thưa chư Hiền, đây chính là nhân, đây chính là duyên khiến cho sân chưa sanh không sanh khởi, và sân đã sanh được đoạn trừ.’’’
712
‘‘‘Ko panāvuso, hetu ko paccayo yena anuppanno ceva moho nuppajjati uppanno ca moho pahīyatī’ti?
"‘But friends, what is the cause, what is the condition, by which unarisen delusion does not arise, and arisen delusion is abandoned?’
‘‘‘Thưa chư Hiền, nhân nào, duyên nào khiến cho si mê chưa sanh thì không sanh khởi, và si mê đã sanh thì được đoạn trừ?’
‘Yonisomanasikāro tissa vacanīyaṃ.
‘Proper attention (yonisomanasikāra) is to be stated as its cause.
‘Sự tác ý đúng đắn (yonisomanasikāra) là điều cần phải nói.
Tassa yoniso manasi karoto anuppanno ceva moho nuppajjati uppanno ca moho pahīyati.
When one attends properly, unarisen delusion does not arise, and arisen delusion is abandoned.
Khi người ấy tác ý đúng đắn, thì si mê chưa sanh không sanh khởi, và si mê đã sanh được đoạn trừ.
Ayaṃ kho, āvuso, hetu ayaṃ paccayo yena anuppanno vā moho nuppajjati uppanno ca moho pahīyatī’’’ti.
Friends, this is the cause, this is the condition, by which unarisen delusion does not arise, and arisen delusion is abandoned.’"
Thưa chư Hiền, đây chính là nhân, đây chính là duyên khiến cho si mê chưa sanh không sanh khởi, và si mê đã sanh được đoạn trừ.’’’
Aṭṭhamaṃ.
The Eighth.
Bài thứ tám.
713
9. Akusalamūlasuttaṃ
9. The Discourse on the Roots of Unwholesome Actions
9. Kinh Căn Bản Bất Thiện (Akusalamūlasuttaṃ)
714
70. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, akusalamūlāni.
70. “Monks, there are these three roots of unwholesome actions.
70. ‘‘Này các Tỳ-khưu, có ba căn bản bất thiện này.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Thế nào là ba?
Lobho akusalamūlaṃ, doso akusalamūlaṃ, moho akusalamūlaṃ.
Greed is a root of unwholesome action, ill-will is a root of unwholesome action, delusion is a root of unwholesome action.
Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si mê là căn bản bất thiện.
715
‘‘Yadapi, bhikkhave, lobho tadapi akusalamūlaṃ* ; yadapi luddho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi akusalaṃ* ; yadapi luddho lobhena abhibhūto pariyādinnacitto parassa asatā dukkhaṃ uppādayati* vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi akusalaṃ* .
“Whatever, monks, is greed, that is a root of unwholesome action; whatever a greedy person performs, whether by body, speech, or mind, that is unwholesome; whatever a greedy person, overcome by greed, with mind engrossed, inflicts suffering upon another without cause, whether by striking, by binding, by loss, by censure, by banishment, thinking ‘I am powerful, I am strong’—that too is unwholesome.
‘‘Này các Tỳ-khưu, phàm điều gì là tham, điều ấy cũng là căn bản bất thiện; phàm điều gì người tham lam tạo tác bằng thân, khẩu, ý, điều ấy cũng là bất thiện; phàm điều gì người tham lam bị tham lấn át, tâm bị chi phối, gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’, điều ấy cũng là bất thiện.
Itissame lobhajā lobhanidānā lobhasamudayā lobhapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many evil unwholesome states arise, born of greed, originating from greed, arising from greed, conditioned by greed.
Như vậy, nhiều pháp ác bất thiện sanh khởi do tham, có gốc rễ từ tham, có nguồn gốc từ tham, có duyên từ tham.
716
‘‘Yadapi, bhikkhave, doso tadapi akusalamūlaṃ; yadapi duṭṭho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi akusalaṃ; yadapi duṭṭho dosena abhibhūto pariyādinnacitto parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi akusalaṃ.
“Whatever, monks, is ill-will, that is a root of unwholesome action; whatever an ill-willed person performs, whether by body, speech, or mind, that is unwholesome; whatever an ill-willed person, overcome by ill-will, with mind engrossed, inflicts suffering upon another without cause, whether by striking, by binding, by loss, by censure, by banishment, thinking ‘I am powerful, I am strong’—that too is unwholesome.
‘‘Này các Tỳ-khưu, phàm điều gì là sân, điều ấy cũng là căn bản bất thiện; phàm điều gì người sân hận tạo tác bằng thân, khẩu, ý, điều ấy cũng là bất thiện; phàm điều gì người sân hận bị sân lấn át, tâm bị chi phối, gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’, điều ấy cũng là bất thiện.
Itissame dosajā dosanidānā dosasamudayā dosapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many evil unwholesome states arise, born of ill-will, originating from ill-will, arising from ill-will, conditioned by ill-will.
Như vậy, nhiều pháp ác bất thiện sanh khởi do sân, có gốc rễ từ sân, có nguồn gốc từ sân, có duyên từ sân.
717
‘‘Yadapi, bhikkhave, moho tadapi akusalamūlaṃ; yadapi mūḷho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi akusalaṃ; yadapi mūḷho mohena abhibhūto pariyādinnacitto parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi akusalaṃ.
“Whatever, monks, is delusion, that is a root of unwholesome action; whatever a deluded person performs, whether by body, speech, or mind, that is unwholesome; whatever a deluded person, overcome by delusion, with mind engrossed, inflicts suffering upon another without cause, whether by striking, by binding, by loss, by censure, by banishment, thinking ‘I am powerful, I am strong’—that too is unwholesome.
‘‘Này các Tỳ-khưu, phàm điều gì là si mê, điều ấy cũng là căn bản bất thiện; phàm điều gì người si mê tạo tác bằng thân, khẩu, ý, điều ấy cũng là bất thiện; phàm điều gì người si mê bị si mê lấn át, tâm bị chi phối, gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’, điều ấy cũng là bất thiện.
Itissame mohajā mohanidānā mohasamudayā mohapaccayā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many evil unwholesome states arise, born of delusion, originating from delusion, arising from delusion, conditioned by delusion.
Như vậy, nhiều pháp ác bất thiện sanh khởi do si mê, có gốc rễ từ si mê, có nguồn gốc từ si mê, có duyên từ si mê.
Evarūpo cāyaṃ, bhikkhave, puggalo vuccati akālavādītipi, abhūtavādītipi, anatthavādītipi, adhammavādītipi, avinayavādītipi.
And such a person, monks, is called one who speaks at the wrong time, one who speaks falsely, one who speaks unbeneficially, one who speaks against the Dhamma, one who speaks against the Vinaya.
Này các Tỳ-khưu, hạng người như vậy được gọi là kẻ nói không đúng lúc, kẻ nói không đúng sự thật, kẻ nói không có lợi ích, kẻ nói không đúng Pháp, kẻ nói không đúng Luật.
718
‘‘Kasmā cāyaṃ, bhikkhave, evarūpo puggalo vuccati akālavādītipi, abhūtavādītipi, anatthavādītipi, adhammavādītipi, avinayavādītipi?
“Why, monks, is such a person called one who speaks at the wrong time, one who speaks falsely, one who speaks unbeneficially, one who speaks against the Dhamma, one who speaks against the Vinaya?
‘‘Vì sao, này các Tỳ-khưu, hạng người như vậy được gọi là kẻ nói không đúng lúc, kẻ nói không đúng sự thật, kẻ nói không có lợi ích, kẻ nói không đúng Pháp, kẻ nói không đúng Luật?
Tathāhāyaṃ, bhikkhave, puggalo parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi.
Because, monks, such a person inflicts suffering upon another without cause, whether by striking, by binding, by loss, by censure, by banishment, thinking ‘I am powerful, I am strong’.
Vì, này các Tỳ-khưu, hạng người như vậy gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’.
Bhūtena kho pana vuccamāno avajānāti, no paṭijānāti; abhūtena vuccamāno na ātappaṃ karoti, tassa nibbeṭhanāya itipetaṃ atacchaṃ itipetaṃ abhūtanti.
When spoken to with what is true, he disparages, he does not acknowledge; when spoken to with what is untrue, he makes no effort to refute it, (thinking) 'this is not factual, this is not real'.
Khi được nói điều chân thật, người ấy khinh thường, không chấp nhận; khi được nói điều không chân thật, người ấy không cố gắng để gỡ bỏ nó, nghĩ rằng ‘điều này không đúng, điều này không phải sự thật’.
Tasmā evarūpo puggalo vuccati akālavādītipi, abhūtavādītipi, anatthavādītipi, adhammavādītipi, avinayavādītipi.
Therefore, such a person is called one who speaks at the wrong time, one who speaks what is untrue, one who speaks what is unbeneficial, one who speaks contrary to Dhamma, one who speaks contrary to Vinaya.
Vì vậy, hạng người như vậy được gọi là kẻ nói không đúng lúc, kẻ nói không đúng sự thật, kẻ nói không có lợi ích, kẻ nói không đúng Pháp, kẻ nói không đúng Luật.
719
‘‘Evarūpo, bhikkhave, puggalo lobhajehi pāpakehi akusalehi dhammehi abhibhūto pariyādinnacitto diṭṭhe ceva dhamme dukkhaṃ viharati, savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ.
“Monks, such a person, overcome by evil, unwholesome states born of greed, with his mind overwhelmed, dwells in suffering in this very life, with affliction, with distress, with fever.
‘‘Này các Tỳ-khưu, hạng người như vậy, bị các pháp ác bất thiện sanh khởi do tham lấn át, tâm bị chi phối, sống khổ đau ngay trong hiện tại, với sự phiền não, ưu phiền, và sự thiêu đốt.
Kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
And at the breaking up of the body, after death, a bad destination is to be expected.
Và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú được mong đợi.
720
‘‘Dosajehi…pe… mohajehi pāpakehi akusalehi dhammehi abhibhūto pariyādinnacitto diṭṭhe ceva dhamme dukkhaṃ viharati, savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ.
“Overcome by evil, unwholesome states born of hatred…pe… born of delusion, with his mind overwhelmed, he dwells in suffering in this very life, with affliction, with distress, with fever.
‘‘Bị các pháp ác bất thiện sanh khởi do sân… do si mê lấn át, tâm bị chi phối, sống khổ đau ngay trong hiện tại, với sự phiền não, ưu phiền, và sự thiêu đốt.
Kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
And at the breaking up of the body, after death, a bad destination is to be expected.
Và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú được mong đợi.
Seyyathāpi, bhikkhave, sālo vā dhavo vā phandano vā tīhi māluvālatāhi uddhasto pariyonaddho anayaṃ āpajjati, byasanaṃ āpajjati, anayabyasanaṃ āpajjati; evamevaṃ kho, bhikkhave, evarūpo puggalo lobhajehi pāpakehi akusalehi dhammehi abhibhūto pariyādinnacitto diṭṭhe ceva dhamme dukkhaṃ viharati, savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ.
Just as, monks, a sal tree, or a dhavā tree, or a phandanā tree, when overgrown and entwined by three māluvā creepers, falls into ruin, falls into disaster, falls into ruin and disaster; even so, monks, such a person, overcome by evil, unwholesome states born of greed, with his mind overwhelmed, dwells in suffering in this very life, with affliction, with distress, with fever.
Ví như, này các Tỳ-khưu, một cây sala, một cây dhavā, hoặc một cây phandanā, bị ba loại dây leo quấn chặt, bao phủ, sẽ rơi vào cảnh suy tàn, rơi vào cảnh hoại diệt, rơi vào cảnh suy tàn hoại diệt; cũng vậy, này các Tỳ-khưu, hạng người như vậy, bị các pháp ác bất thiện sanh khởi do tham lấn át, tâm bị chi phối, sống khổ đau ngay trong hiện tại, với sự phiền não, ưu phiền, và sự thiêu đốt.
Kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
And at the breaking up of the body, after death, a bad destination is to be expected.
Và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú được mong đợi.
721
‘‘Dosajehi…pe… mohajehi pāpakehi akusalehi dhammehi abhibhūto pariyādinnacitto diṭṭhe ceva dhamme dukkhaṃ viharati savighātaṃ saupāyāsaṃ sapariḷāhaṃ.
“Overcome by evil, unwholesome states born of hatred…pe… born of delusion, with his mind overwhelmed, he dwells in suffering in this very life, with affliction, with distress, with fever.
‘‘Bị các pháp ác bất thiện sanh khởi do sân… do si mê lấn át, tâm bị chi phối, sống khổ đau ngay trong hiện tại, với sự phiền não, ưu phiền, và sự thiêu đốt.
Kāyassa ca bhedā paraṃ maraṇā duggati pāṭikaṅkhā.
And at the breaking up of the body, after death, a bad destination is to be expected.
Và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú được mong đợi.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi akusalamūlānīti.
These, monks, are the three roots of unwholesome states.”
Này các Tỳ-khưu, đây là ba căn bản bất thiện.
722
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, kusalamūlāni.
“Monks, these are the three roots of wholesome states.
‘‘Này các Tỳ-khưu, có ba căn bản thiện này.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Thế nào là ba?
Alobho kusalamūlaṃ, adoso kusalamūlaṃ, amoho kusalamūlaṃ.
Non-greed is a root of wholesome states, non-hatred is a root of wholesome states, non-delusion is a root of wholesome states.
Không tham là căn bản thiện, không sân là căn bản thiện, không si mê là căn bản thiện.
723
‘‘Yadapi, bhikkhave, alobho tadapi kusalamūlaṃ* ; yadapi aluddho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi kusalaṃ* ; yadapi aluddho lobhena anabhibhūto apariyādinnacitto na parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi kusalaṃ.
“Whatever, monks, is non-greed, that is a root of wholesome states; whatever one performs by body, speech, or mind, being ungreedy, that is wholesome; whatever one does not inflict suffering on another through killing, or binding, or loss, or blame, or banishment, being ungreedy, not overcome by greed, with an unoverwhelmed mind, (thinking) 'I am powerful, I am strong', that too is wholesome.
‘‘Này các Tỳ-khưu, phàm điều gì là không tham, điều ấy cũng là căn bản thiện; phàm điều gì người không tham lam tạo tác bằng thân, khẩu, ý, điều ấy cũng là thiện; phàm điều gì người không tham lam, không bị tham lấn át, tâm không bị chi phối, không gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc không nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’, điều ấy cũng là thiện.
Itissame alobhajā alobhanidānā alobhasamudayā alobhapaccayā aneke kusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many wholesome states arise from non-greed, having non-greed as their source, their origin, their condition.
Như vậy, nhiều pháp thiện sanh khởi do không tham, có gốc rễ từ không tham, có nguồn gốc từ không tham, có duyên từ không tham.
724
‘‘Yadapi, bhikkhave, adoso tadapi kusalamūlaṃ; yadapi aduṭṭho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi kusalaṃ; yadapi aduṭṭho dosena anabhibhūto apariyādinnacitto na parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi kusalaṃ.
“Whatever, monks, is non-hatred, that is a root of wholesome states; whatever one performs by body, speech, or mind, being unhateful, that is wholesome; whatever one does not inflict suffering on another through killing, or binding, or loss, or blame, or banishment, being unhateful, not overcome by hatred, with an unoverwhelmed mind, (thinking) 'I am powerful, I am strong', that too is wholesome.
‘‘Này các Tỳ-khưu, phàm điều gì là không sân, điều ấy cũng là căn bản thiện; phàm điều gì người không sân hận tạo tác bằng thân, khẩu, ý, điều ấy cũng là thiện; phàm điều gì người không sân hận, không bị sân lấn át, tâm không bị chi phối, không gây ra khổ đau cho người khác bằng cách giết hại, trói buộc, tổn thất, phỉ báng, trục xuất, hoặc không nghĩ ‘ta mạnh, ta có sức mạnh’, điều ấy cũng là thiện.
Itissame adosajā adosanidānā adosasamudayā adosapaccayā aneke kusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many wholesome states arise from non-hatred, having non-hatred as their source, their origin, their condition.
Như vậy, nhiều pháp thiện sanh khởi do không sân, có gốc rễ từ không sân, có nguồn gốc từ không sân, có duyên từ không sân.
725
‘‘Yadapi, bhikkhave, amoho tadapi kusalamūlaṃ; yadapi amūḷho abhisaṅkharoti kāyena vācāya manasā tadapi kusalaṃ; yadapi amūḷho mohena anabhibhūto apariyādinnacitto na parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi tadapi kusalaṃ.
“Whatever, monks, is non-delusion, that is a root of wholesome states; whatever one performs by body, speech, or mind, being undeluded, that is wholesome; whatever one does not inflict suffering on another through killing, or binding, or loss, or blame, or banishment, being undeluded, not overcome by delusion, with an unoverwhelmed mind, (thinking) 'I am powerful, I am strong', that too is wholesome.
Này các Tỳ-khưu, khi không si mê, đó cũng là cội rễ của điều thiện; khi không si mê, tạo tác bằng thân, lời, ý, đó cũng là điều thiện; khi không si mê, không bị si mê chi phối, tâm không bị chiếm đoạt, không gây khổ cho người khác một cách vô cớ bằng cách đánh đập, trói buộc, tổn hại, khiển trách, trục xuất, hoặc nói ‘ta mạnh mẽ, ta có quyền lực’, đó cũng là điều thiện.
Itissame amohajā amohanidānā amohasamudayā amohapaccayā aneke kusalā dhammā sambhavanti.
Thus, many wholesome states arise from non-delusion, having non-delusion as their source, their origin, their condition.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, nhiều pháp thiện này sinh khởi từ sự không si mê, có nguyên nhân là không si mê, có nguồn gốc là không si mê, có duyên là không si mê.
Evarūpo cāyaṃ, bhikkhave, puggalo vuccati kālavādītipi, bhūtavādītipi, atthavādītipi, dhammavādītipi, vinayavādītipi.
And such a person, monks, is called one who speaks at the right time, one who speaks what is true, one who speaks what is beneficial, one who speaks in accordance with Dhamma, one who speaks in accordance with Vinaya.
Này các Tỳ-khưu, một người như vậy được gọi là người nói đúng lúc, người nói đúng sự thật, người nói đúng mục đích, người nói đúng Pháp, người nói đúng Luật.
726
‘‘Kasmā cāyaṃ, bhikkhave, evarūpo puggalo vuccati kālavādītipi, bhūtavādītipi, atthavādītipi, dhammavādītipi, vinayavādītipi?
“And why, monks, is such a person called one who speaks at the right time, one who speaks what is true, one who speaks what is beneficial, one who speaks in accordance with Dhamma, one who speaks in accordance with Vinaya?
Này các Tỳ-khưu, vì sao một người như vậy được gọi là người nói đúng lúc, người nói đúng sự thật, người nói đúng mục đích, người nói đúng Pháp, người nói đúng Luật?
Tathāhāyaṃ, bhikkhave, puggalo na parassa asatā dukkhaṃ uppādayati vadhena vā bandhanena vā jāniyā vā garahāya vā pabbājanāya vā balavamhi balattho itipi.
Furthermore, bhikkhus, such a person does not inflict suffering upon another through what is not real, through killing, or imprisonment, or loss, or blame, or banishment, nor does he say, 'I am powerful, I seek power.'
Này các Tỳ-khưu, bởi vì người này không gây khổ cho người khác một cách vô cớ bằng cách đánh đập, trói buộc, tổn hại, khiển trách, trục xuất, hoặc nói ‘ta mạnh mẽ, ta có quyền lực’.
Bhūtena kho pana vuccamāno paṭijānāti no avajānāti; abhūtena vuccamāno ātappaṃ karoti tassa nibbeṭhanāya – ‘itipetaṃ atacchaṃ, itipetaṃ abhūta’nti.
But when spoken to with what is true, he acknowledges it, he does not deny it; when spoken to with what is not true, he makes an effort to refute it—'This is incorrect, this is untrue.'
Khi được nói về sự thật, người ấy thừa nhận chứ không phủ nhận; khi được nói về điều không thật, người ấy nỗ lực làm sáng tỏ điều đó – ‘điều này không đúng, điều này không thật’.
Tasmā evarūpo puggalo vuccati kālavādītipi, atthavādītipi, dhammavādītipi, vinayavādītipi.
Therefore, such a person is called one who speaks at the right time, one who speaks of the goal, one who speaks of the Dhamma, one who speaks of the Vinaya.
Vì vậy, một người như vậy được gọi là người nói đúng lúc, người nói đúng mục đích, người nói đúng Pháp, người nói đúng Luật.
727
‘‘Evarūpassa, bhikkhave, puggalassa lobhajā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
For such a person, bhikkhus, evil unwholesome states born of greed are abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Này các Tỳ-khưu, đối với người như vậy, các ác pháp bất thiện sinh từ tham đã được đoạn trừ, tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc không còn khả năng tái sinh, không còn hiện hữu trong tương lai.
Diṭṭheva dhamme sukhaṃ viharati avighātaṃ anupāyāsaṃ apariḷāhaṃ.
In this very life, he dwells happily, without vexation, without distress, without feverishness.
Ngay trong hiện tại, người ấy sống an lạc, không chướng ngại, không phiền não, không khổ sở.
Diṭṭheva dhamme parinibbāyati.
In this very life, he attains final Nibbāna.
Ngay trong hiện tại, người ấy nhập Niết-bàn.
728
‘‘Dosajā…pe… parinibbāyati.
Evil unwholesome states born of hatred…he attains final Nibbāna.
Sinh từ sân…pe… nhập Niết-bàn.
Mohajā…pe… parinibbāyati.
Evil unwholesome states born of delusion…he attains final Nibbāna.
Sinh từ si…pe… nhập Niết-bàn.
Seyyathāpi bhikkhave, sālo vā dhavo vā phandano vā tīhi māluvālatāhi uddhasto pariyonaddho.
Just as, bhikkhus, a sal tree or a dhavā tree or a phandanā tree might be overgrown and entwined by three māluvā creepers.
Ví như, này các Tỳ-khưu, một cây sala, cây dhavo hoặc cây phandana bị ba dây māluvā quấn chặt, bao phủ.
Atha puriso āgaccheyya kuddāla-piṭakaṃ* ādāya.
Then a man would come with a spade and a basket.
Rồi có một người đến mang theo cuốc và giỏ.
So taṃ māluvālataṃ mūle chindeyya, mūle chetvā palikhaṇeyya, palikhaṇitvā mūlāni uddhareyya, antamaso usīranāḷimattānipi* .
He would cut that māluvā creeper at its root, having cut it at the root, he would dig it up, having dug it up, he would extract the roots, even down to the size of a usīra fibre.
Người ấy chặt dây māluvā ở gốc, sau khi chặt ở gốc thì đào lên, sau khi đào lên thì nhổ rễ, ngay cả những rễ nhỏ như sợi cỏ usīra.
So taṃ māluvālataṃ khaṇḍākhaṇḍikaṃ chindeyya, khaṇḍākhaṇḍikaṃ chetvā phāleyya, phāletvā sakalikaṃ sakalikaṃ kareyya, sakalikaṃ sakalikaṃ karitvā vātātape visoseyya, vātātape visosetvā agginā ḍaheyya, agginā ḍahitvā masiṃ kareyya, masiṃ karitvā mahāvāte vā ophuṇeyya nadiyā vā sīghasotāya pavāheyya.
He would cut that māluvā creeper into pieces, having cut it into pieces, he would split it, having split it, he would make it into splinters, having made it into splinters, he would dry it in the wind and sun, having dried it in the wind and sun, he would burn it with fire, having burned it with fire, he would make it into ash, having made it into ash, he would scatter it in a strong wind or float it away in a swiftly flowing river.
Người ấy chặt dây māluvā thành từng mảnh nhỏ, sau khi chặt thành từng mảnh nhỏ thì xé ra, sau khi xé ra thì làm thành từng sợi, sau khi làm thành từng sợi thì phơi khô dưới nắng gió, sau khi phơi khô dưới nắng gió thì đốt bằng lửa, sau khi đốt bằng lửa thì làm thành tro, sau khi làm thành tro thì rắc vào gió lớn hoặc thả trôi theo dòng nước chảy xiết của sông.
Evamassa* tā, bhikkhave, māluvālatā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
In this way, bhikkhus, those māluvā creepers would be cut off at the root, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, những dây māluvā đó đã bị đoạn trừ tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc không còn khả năng tái sinh, không còn hiện hữu trong tương lai.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, evarūpassa puggalassa lobhajā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
Even so, bhikkhus, for such a person, evil unwholesome states born of greed are abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, đối với người như vậy, các ác pháp bất thiện sinh từ tham đã được đoạn trừ, tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc không còn khả năng tái sinh, không còn hiện hữu trong tương lai.
Diṭṭheva dhamme sukhaṃ viharati avighātaṃ anupāyāsaṃ apariḷāhaṃ.
In this very life, he dwells happily, without vexation, without distress, without feverishness.
Ngay trong hiện tại, người ấy sống an lạc, không chướng ngại, không phiền não, không khổ sở.
Diṭṭheva dhamme parinibbāyati.
In this very life, he attains final Nibbāna.
Ngay trong hiện tại, người ấy nhập Niết-bàn.
729
‘‘Dosajā …pe… mohajā pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
Evil unwholesome states born of hatred…evil unwholesome states born of delusion are abandoned, cut off at the root, made like a palm stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
Sinh từ sân…pe… các ác pháp bất thiện sinh từ si đã được đoạn trừ, tận gốc, như cây thốt nốt bị chặt tận gốc không còn khả năng tái sinh, không còn hiện hữu trong tương lai.
Diṭṭheva dhamme sukhaṃ viharati avighātaṃ anupāyāsaṃ apariḷāhaṃ.
In this very life, he dwells happily, without vexation, without distress, without feverishness.
Ngay trong hiện tại, người ấy sống an lạc, không chướng ngại, không phiền não, không khổ sở.
Diṭṭheva dhamme parinibbāyati.
In this very life, he attains final Nibbāna.
Ngay trong hiện tại, người ấy nhập Niết-bàn.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi kusalamūlānī’’ti.
These, bhikkhus, are the three roots of skillfulness.”
Này các Tỳ-khưu, đây là ba cội rễ của điều thiện.”
Navamaṃ.
The Ninth.
Pháp thứ chín.
730
10. Uposathasuttaṃ
10. The Uposatha Sutta
10. Kinh Uposatha
731
71. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
71. Thus have I heard—On one occasion the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, in the Eastern Park, in Migāra’s mother’s palace.
71. Tôi nghe như vầy – Một thời Thế Tôn trú tại Sāvatthī, ở Đông Viên, trong Lâu đài của Migāra Mātā.
Atha kho visākhā migāramātā tadahuposathe yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then, on that Uposatha day, Visākhā, Migāra’s mother, approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, she sat down to one side.
Rồi, vào ngày Uposatha đó, Visākhā Migāra Mātā đi đến chỗ Thế Tôn; sau khi đảnh lễ Thế Tôn, bà ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho visākhaṃ migāramātaraṃ bhagavā etadavoca – ‘‘handa kuto nu tvaṃ, visākhe, āgacchasi divā divassā’’ti?
The Blessed One then said to Visākhā, Migāra’s mother, as she was sitting to one side, “Now, Visākhā, from where have you come so early in the day?”
Thế Tôn nói với Visākhā Migāra Mātā đang ngồi một bên rằng: “Này Visākhā, hôm nay con từ đâu đến vào ban ngày như thế này?”
‘‘Uposathāhaṃ, bhante, ajja upavasāmī’’ti.
“Venerable sir, I am observing the Uposatha today,” she replied.
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con đang giữ giới Uposatha.”
732
‘‘Tayo khome, visākhe, uposathā.
“There are, Visākhā, these three Uposathas.
“Này Visākhā, có ba loại Uposatha này.
Katame tayo?
Which three?
Ba loại nào?
Gopālakuposatho, nigaṇṭhuposatho, ariyuposatho.
The Cowherd Uposatha, the Nigaṇṭha Uposatha, and the Noble Uposatha.
Uposatha của người chăn bò, Uposatha của Ni-kiền-tử, Uposatha của bậc Thánh.
Kathañca, visākhe, gopālakuposatho hoti?
And how, Visākhā, is the Cowherd Uposatha observed?
Này Visākhā, Uposatha của người chăn bò là như thế nào?
Seyyathāpi, visākhe, gopālako sāyanhasamaye sāmikānaṃ gāvo niyyātetvā iti paṭisañcikkhati – ‘ajja kho gāvo amukasmiñca amukasmiñca padese cariṃsu, amukasmiñca amukasmiñca padese pānīyāni piviṃsu; sve dāni gāvo amukasmiñca amukasmiñca padese carissanti, amukasmiñca amukasmiñca padese pānīyāni pivissantī’ti; evamevaṃ kho, visākhe, idhekacco uposathiko iti paṭisañcikkhati – ‘ahaṃ khvajja idañcidañca khādanīyaṃ khādiṃ, idañcidañca bhojanīyaṃ bhuñjiṃ; sve dānāhaṃ idañcidañca khādanīyaṃ khādissāmi, idaṃ cidañca bhojanīyaṃ bhuñjissāmī’ti.
Just as, Visākha, a cowherd, having led the cows to their owners in the evening, reflects thus: ‘Today the cows grazed in such and such a place, and drank water in such and such a place; tomorrow the cows will graze in such and such a place, and drink water in such and such a place’; in the same way, Visākha, some uposatha observer reflects thus: ‘Today I ate such and such solid food, and consumed such and such soft food; tomorrow I will eat such and such solid food, and consume such and such soft food.’
Ví như, này Visākhā, một người chăn bò vào buổi chiều đưa bò về cho chủ rồi suy nghĩ: ‘Hôm nay bò đã ăn cỏ ở chỗ này và chỗ này, đã uống nước ở chỗ này và chỗ này; ngày mai bò sẽ ăn cỏ ở chỗ này và chỗ này, sẽ uống nước ở chỗ này và chỗ này’; cũng vậy, này Visākhā, ở đây một người giữ giới Uposatha suy nghĩ: ‘Hôm nay ta đã ăn món này và món này, đã dùng bữa này và bữa này; ngày mai ta sẽ ăn món này và món này, sẽ dùng bữa này và bữa này’.
So tena abhijjhāsahagatena cetasā divasaṃ atināmeti.
He passes the day with a mind accompanied by covetousness.
Người ấy trải qua một ngày với tâm ý đầy tham ái như vậy.
Evaṃ kho visākhe, gopālakuposatho hoti.
Thus, Visākha, is the cowherd's uposatha.
Này Visākhā, Uposatha của người chăn bò là như thế đó.
Evaṃ upavuttho kho, visākhe, gopālakuposatho na mahapphalo hoti na mahānisaṃso na mahājutiko na mahāvipphāro.
An uposatha thus observed, Visākha, is not of great fruit, not of great benefit, not of great splendor, not of great pervasive power.
Này Visākhā, Uposatha của người chăn bò được giữ như vậy không mang lại đại quả, không mang lại đại lợi ích, không có đại uy lực, không có đại quang huy.
733
‘‘Kathañca, visākhe, nigaṇṭhuposatho hoti?
"And how, Visākha, is the Nigaṇṭha uposatha?
“Này Visākhā, Uposatha của Ni-kiền-tử là như thế nào?
Atthi, visākhe, nigaṇṭhā nāma samaṇajātikā.
There are, Visākha, ascetics called Nigaṇṭhas.
Này Visākhā, có những Sa-môn gọi là Ni-kiền-tử.
Te sāvakaṃ evaṃ samādapenti – ‘ehi tvaṃ, ambho purisa, ye puratthimāya disāya pāṇā paraṃ yojanasataṃ tesu daṇḍaṃ nikkhipāhi; ye pacchimāya disāya pāṇā paraṃ yojanasataṃ tesu daṇḍaṃ nikkhipāhi; ye uttarāya disāya pāṇā paraṃ yojanasataṃ tesu daṇḍaṃ nikkhipāhi; ye dakkhiṇāya disāya pāṇā paraṃ yojanasataṃ tesu daṇḍaṃ nikkhipāhī’ti.
They instruct a disciple thus: ‘Come, good man, lay down the rod towards beings a hundred leagues to the east; lay down the rod towards beings a hundred leagues to the west; lay down the rod towards beings a hundred leagues to the north; lay down the rod towards beings a hundred leagues to the south.’
Họ khuyên đệ tử như vầy: ‘Này người kia, hãy từ bỏ việc sát hại các loài hữu tình ở phía đông xa hơn một trăm do-tuần; hãy từ bỏ việc sát hại các loài hữu tình ở phía tây xa hơn một trăm do-tuần; hãy từ bỏ việc sát hại các loài hữu tình ở phía bắc xa hơn một trăm do-tuần; hãy từ bỏ việc sát hại các loài hữu tình ở phía nam xa hơn một trăm do-tuần’.
Iti ekaccānaṃ pāṇānaṃ anuddayāya anukampāya samādapenti, ekaccānaṃ pāṇānaṃ nānuddayāya nānukampāya samādapenti.
Thus, they instruct with compassion and sympathy for some beings, but not with compassion and sympathy for other beings.
Như vậy, họ khuyên đệ tử với lòng từ bi, thương xót đối với một số loài hữu tình, nhưng không từ bi, không thương xót đối với một số loài hữu tình khác.
Te tadahuposathe sāvakaṃ evaṃ samādapenti – ‘ehi tvaṃ, ambho purisa, sabbacelāni* nikkhipitvā evaṃ vadehi – nāhaṃ kvacani kassaci kiñcanatasmiṃ* , na ca mama kvacani katthaci kiñcanatatthī’ti.
On that uposatha day, they instruct a disciple thus: ‘Come, good man, having laid aside all garments, speak thus: I am not anywhere anyone's anything, nor is there anywhere anything of mine for anyone.’
Vào ngày Uposatha đó, họ khuyên đệ tử như vầy: ‘Này người kia, hãy cởi bỏ tất cả y phục và nói rằng: Ta không có bất cứ thứ gì của bất kỳ ai ở bất cứ đâu, và bất cứ thứ gì của bất kỳ ai ở bất cứ đâu cũng không phải của ta’.
Jānanti kho panassa mātāpitaro – ‘ayaṃ amhākaṃ putto’ti; sopi jānāti – ‘ime mayhaṃ mātāpitaro’ti.
But his parents know: ‘This is our son’; and he also knows: ‘These are my parents.’
Cha mẹ của người ấy biết: ‘Đây là con của chúng ta’; và người ấy cũng biết: ‘Đây là cha mẹ của ta’.
Jānāti kho panassa puttadāro – ‘ayaṃ mayhaṃ bhattā’ti; sopi jānāti – ‘ayaṃ mayhaṃ puttadāro’ti.
And his wife and children know: ‘This is our husband’; and he also knows: ‘These are my wife and children.’
Vợ con của người ấy biết: ‘Đây là chồng của chúng ta’; và người ấy cũng biết: ‘Đây là vợ con của ta’.
Jānanti kho panassa dāsakammakaraporisā – ‘ayaṃ amhākaṃ ayyo’ti; sopi jānāti – ‘ime mayhaṃ dāsakammakaraporisā’ti.
And his slaves, workers, and servants know: ‘This is our master’; and he also knows: ‘These are my slaves, workers, and servants.’
Nô lệ, người làm công, người hầu của người ấy biết: ‘Đây là chủ của chúng ta’; và người ấy cũng biết: ‘Đây là nô lệ, người làm công, người hầu của ta’.
Iti yasmiṃ samaye sacce samādapetabbā musāvāde tasmiṃ samaye samādapenti.
Thus, at the very time they should be instructed in truth, they are instructed in falsehood.
Như vậy, vào thời điểm đáng lẽ phải hướng dẫn về sự thật, họ lại hướng dẫn về lời nói dối.
Idaṃ tassa musāvādasmiṃ vadāmi.
This I say concerning his false speech.
Đây là điều Ta nói về lời nói dối của người ấy.
So tassā rattiyā accayena bhoge adinnaṃyeva paribhuñjati.
When that night has passed, he enjoys possessions that were not given to him.
Người ấy, sau đêm đó, thọ dụng tài sản mà không được cho.
Idaṃ tassa adinnādānasmiṃ vadāmi.
This I say concerning his taking what is not given.
Đây là điều Ta nói về sự trộm cắp của người ấy.
Evaṃ kho, visākhe, nigaṇṭhuposatho hoti.
Thus, Visākha, is the Nigaṇṭha uposatha.
Này Visākha, đó là cách mà Uposatha của Nigaṇṭha diễn ra.
Evaṃ upavuttho kho, visākhe, nigaṇṭhuposatho na mahapphalo hoti na mahānisaṃso na mahājutiko na mahāvipphāro.
An uposatha thus observed, Visākha, is not of great fruit, not of great benefit, not of great splendor, not of great pervasive power.
Này Visākha, Uposatha của Nigaṇṭha được giữ như vậy không có đại quả, không có đại lợi ích, không có đại uy lực, không có đại ảnh hưởng.
734
‘‘Kathañca, visākhe, ariyuposatho hoti?
"And how, Visākha, is the Noble One's uposatha?
“Này Visākha, Uposatha của bậc Thánh diễn ra như thế nào?
Upakkiliṭṭhassa, visākhe, cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
By effort, Visākha, there is the purification of a defiled mind.
Này Visākha, đó là sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực.
Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā* hoti?
And how, Visākha, is there the purification of a defiled mind by effort?
Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako tathāgataṃ anussarati – ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the Tathāgata: ‘Indeed, that Blessed One is an Arahant, perfectly enlightened, endowed with knowledge and conduct, a Fortunate One, knower of the world, unsurpassed leader of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Buddha, the Blessed One.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Đức Tathāgata: ‘Đức Thế Tôn ấy thật là bậc Arahant, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ Minh Hạnh, Thiện Thệ, bậc am hiểu thế gian, Vô Thượng Sĩ, bậc điều ngự những người đáng được điều ngự, Bậc Đạo Sư của chư Thiên và loài người, bậc Giác Ngộ, Đức Thế Tôn’.
Tassa tathāgataṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati.
As he recollects the Tathāgata, his mind becomes clear, joy arises.
Khi niệm tưởng về Đức Tathāgata, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh.
Ye cittassa upakkilesā te pahīyanti, seyyathāpi, visākhe, upakkiliṭṭhassa sīsassa upakkamena pariyodapanā hoti.
The defilements of the mind are abandoned, just as, Visākha, by effort there is the purification of a defiled head.
Những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ, ví như, này Visākha, sự thanh lọc cái đầu bị ô nhiễm bằng nỗ lực.
735
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa sīsassa upakkamena pariyodapanā hoti?
"And how, Visākha, is there the purification of a defiled head by effort?
“Này Visākha, sự thanh lọc cái đầu bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Kakkañca paṭicca mattikañca paṭicca udakañca paṭicca purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca, evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa sīsassa upakkamena pariyodapanā hoti.
By means of soap-nut powder, by means of clay, by means of water, and by a person's appropriate exertion, thus, Visākha, is there the purification of a defiled head by effort.
Nhờ có bột gội đầu, nhờ có đất sét, nhờ có nước, và nhờ có sự cố gắng thích hợp của người, như vậy, này Visākha, sự thanh lọc cái đầu bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Evamevaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Even so, Visākha, through exertion, purification of the defiled mind takes place.
Cũng vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
736
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visākha, does purification of the defiled mind take place through exertion?
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako tathāgataṃ anussarati – ‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the Tathāgata: ‘Indeed, that Blessed One is Arahant, Perfectly Enlightened, endowed with knowledge and conduct, the Fortunate One, knower of the worlds, unsurpassed trainer of persons to be tamed, teacher of devas and humans, the Buddha, the Blessed One.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Đức Tathāgata: ‘Đức Thế Tôn ấy thật là bậc Arahant, Chánh Đẳng Giác, đầy đủ Minh Hạnh, Thiện Thệ, bậc am hiểu thế gian, Vô Thượng Sĩ, bậc điều ngự những người đáng được điều ngự, Bậc Đạo Sư của chư Thiên và loài người, bậc Giác Ngộ, Đức Thế Tôn’.
Tassa tathāgataṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti.
As he recollects the Tathāgata, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.
Khi niệm tưởng về Đức Tathāgata, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ.
Ayaṃ vuccati, visākhe – ‘ariyasāvako brahmuposathaṃ upavasati, brahmunā saddhiṃ saṃvasati, brahmañcassa* ārabbha cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti’.
This, Visākha, is called: ‘The noble disciple observes the Brahmā-Uposatha, dwells with Brahmā, and concerning Brahmā, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.’
Này Visākha, đây được gọi là: ‘Đệ tử của bậc Thánh giữ Uposatha Phạm Thiên, sống cùng với Phạm Thiên, và nhờ Phạm Thiên mà tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ’.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
It is in this way, Visākha, that purification of the defiled mind takes place through exertion.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
737
‘‘Upakkiliṭṭhassa, visākhe, cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
“Purification of the defiled mind takes place through exertion, Visākha.
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
And how, Visākha, does purification of the defiled mind take place through exertion?
Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako dhammaṃ anussarati – ‘svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the Dhamma: ‘The Dhamma is well-expounded by the Blessed One, directly visible, immediate, inviting one to come and see, applicable, to be personally realized by the wise.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Pháp: ‘Pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng khéo léo, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình chứng nghiệm’.
Tassa dhammaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti, seyyathāpi, visākhe, upakkiliṭṭhassa kāyassa upakkamena pariyodapanā hoti.
As he recollects the Dhamma, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned, just as, Visākha, purification of a defiled body takes place through exertion.
Khi niệm tưởng về Pháp, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ, ví như, này Visākha, sự thanh lọc thân thể bị ô nhiễm bằng nỗ lực.
738
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa kāyassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visākha, does purification of a defiled body take place through exertion?
“Này Visākha, sự thanh lọc thân thể bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Sottiñca paṭicca, cuṇṇañca paṭicca, udakañca paṭicca, purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca.
By means of a scrub brush, by means of soap powder, by means of water, and by means of a person’s appropriate effort.
Nhờ có xà phòng, nhờ có bột, nhờ có nước, và nhờ có sự cố gắng thích hợp của người.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa kāyassa upakkamena pariyodapanā hoti.
It is in this way, Visākha, that purification of a defiled body takes place through exertion.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc thân thể bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Evamevaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Even so, Visākha, purification of the defiled mind takes place through exertion.
Cũng vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
739
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visākha, does purification of the defiled mind take place through exertion?
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako dhammaṃ anussarati – ‘svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the Dhamma: ‘The Dhamma is well-expounded by the Blessed One, directly visible, immediate, inviting one to come and see, applicable, to be personally realized by the wise.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Pháp: ‘Pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng khéo léo, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình chứng nghiệm’.
Tassa dhammaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti.
As he recollects the Dhamma, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.
Khi niệm tưởng về Pháp, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ.
Ayaṃ vuccati, visākhe, ‘ariyasāvako dhammuposathaṃ upavasati, dhammena saddhiṃ saṃvasati, dhammañcassa ārabbha cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti’.
This, Visākha, is called: ‘The noble disciple observes the Dhamma-Uposatha, dwells with the Dhamma, and concerning the Dhamma, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.’
Này Visākha, đây được gọi là: ‘Đệ tử của bậc Thánh giữ Uposatha Pháp, sống cùng với Pháp, và nhờ Pháp mà tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ’.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
It is in this way, Visākha, that purification of the defiled mind takes place through exertion.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
740
‘‘Upakkiliṭṭhassa, visākhe, cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
“Purification of the defiled mind takes place through exertion, Visākha.
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
And how, Visākha, does purification of the defiled mind take place through exertion?
Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako saṅghaṃ anussarati – ‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the Saṅgha: ‘The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is practicing well, practicing uprightly, practicing for the sake of knowledge, practicing properly; that is, the four pairs of persons, the eight types of individuals—this Saṅgha of the Blessed One’s disciples is worthy of offerings, worthy of hospitality, worthy of gifts, worthy of reverential salutation, an unsurpassed field of merit for the world.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Tăng đoàn: ‘Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị thực hành chân chánh, Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị thực hành ngay thẳng, Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị thực hành theo Chánh Đạo, Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị thực hành đúng đắn; tức là bốn đôi tám bậc Thánh nhân, Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị đáng được cúng dường, đáng được hiếu kính, đáng được dâng lễ vật, đáng được chắp tay cung kính, là ruộng phước vô thượng của thế gian’.
Tassa saṅghaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti, seyyathāpi, visākhe, upakkiliṭṭhassa vatthassa upakkamena pariyodapanā hoti.
As he recollects the Saṅgha, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned, just as, Visākha, purification of a defiled cloth takes place through exertion.
Khi niệm tưởng về Tăng đoàn, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ, ví như, này Visākha, sự thanh lọc tấm vải bị ô nhiễm bằng nỗ lực.
741
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa vatthassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visākha, does purification of a defiled cloth take place through exertion?
“Này Visākha, sự thanh lọc tấm vải bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Usmañca* paṭicca, khārañca paṭicca, gomayañca paṭicca, udakañca paṭicca, purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca.
Dependent on heat, dependent on alkali, dependent on cow dung, dependent on water, and dependent on a person’s appropriate effort.
Nhờ có muối kiềm, nhờ có tro, nhờ có phân bò, nhờ có nước, và nhờ có sự cố gắng thích hợp của người.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa vatthassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a soiled cloth.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc tấm vải bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Evamevaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Even so, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a defiled mind.
Cũng vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
742
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visakha, by exertion, is there purification of a defiled mind?
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra như thế nào?
Idha, visākhe, ariyasāvako saṅghaṃ anussarati – ‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
Here, Visakha, a noble disciple recollects the Saṅgha: ‘The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is practicing well…pe… it is the unsurpassed field of merit for the world.’
Này Visākha, ở đây, một đệ tử của bậc Thánh niệm tưởng về Tăng đoàn: ‘Tăng đoàn đệ tử của Đức Thế Tôn là những vị thực hành chân chánh… cho đến… là ruộng phước vô thượng của thế gian’.
Tassa saṅghaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti.
As he recollects the Saṅgha, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.
Khi niệm tưởng về Tăng đoàn, tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ.
Ayaṃ vuccati, visākhe, ‘ariyasāvako saṅghuposathaṃ upavasati, saṅghena saddhiṃ saṃvasati, saṅghañcassa ārabbha cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti’.
This, Visakha, is called ‘a noble disciple observes the Saṅgha-Uposatha, he dwells with the Saṅgha, and focusing on the Saṅgha, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.’
Này Visākha, đây được gọi là: ‘Đệ tử của bậc Thánh giữ Uposatha Tăng, sống cùng với Tăng, và nhờ Tăng mà tâm người ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm được đoạn trừ’.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a defiled mind.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
743
‘‘Upakkiliṭṭhassa, visākhe, cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
“By exertion, Visakha, there is purification of a defiled mind.
“Này Visākha, sự thanh lọc tâm bị ô nhiễm bằng nỗ lực diễn ra.
Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
And how, Visakha, by exertion, is there purification of a defiled mind?
Này Visākha, và như thế nào sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực?
Idha, visākhe, ariyasāvako attano sīlāni anussarati akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni bhujissāni viññuppasatthāni aparāmaṭṭhāni samādhisaṃvattanikāni.
Here, Visakha, a noble disciple recollects his own virtues: unbroken, untorn, unblemished, unspotted, liberating, praised by the wise, untainted, conducive to concentration.
Ở đây, này Visākha, một vị Thánh đệ tử hồi tưởng về giới của mình: không bị phá hoại, không bị khuyết thủng, không bị lốm đốm, không bị ô uế, đưa đến sự tự do, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến định.
Tassa sīlaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti, seyyathāpi, visākhe, upakkiliṭṭhassa ādāsassa upakkamena pariyodapanā hoti.
As he recollects his virtues, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned, just as, Visakha, by exertion, there is purification of a soiled mirror.
Khi vị ấy hồi tưởng về giới, tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ, ví như, này Visākha, sự thanh lọc của một tấm gương bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực.
744
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa ādāsassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visakha, by exertion, is there purification of a soiled mirror?
“Này Visākha, và như thế nào sự thanh lọc của một tấm gương bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực?
Telañca paṭicca, chārikañca paṭicca, vālaṇḍupakañca paṭicca, purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca.
Dependent on oil, dependent on ash, dependent on a brush, and dependent on a person’s appropriate effort.
Do dầu, do tro, do búi lông đuôi ngựa, và do sự tinh tấn thích hợp của người.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa ādāsassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a soiled mirror.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc của một tấm gương bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực.
Evamevaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Even so, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a defiled mind.
Cũng vậy, này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực.
745
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
“And how, Visakha, by exertion, is there purification of a defiled mind?
“Này Visākha, và như thế nào sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực?
Idha, visākhe, ariyasāvako attano sīlāni anussarati akhaṇḍāni…pe… samādhisaṃvattanikāni.
Here, Visakha, a noble disciple recollects his own virtues: unbroken…pe… conducive to concentration.
Ở đây, này Visākha, một vị Thánh đệ tử hồi tưởng về giới của mình: không bị phá hoại…pe… đưa đến định.
Tassa sīlaṃ anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti.
As he recollects his virtues, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.
Khi vị ấy hồi tưởng về giới, tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ.
Ayaṃ vuccati, visākhe, ‘ariyasāvako sīluposathaṃ upavasati, sīlena saddhiṃ saṃvasati, sīlañcassa ārabbha cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti’.
This, Visakha, is called ‘a noble disciple observes the Sīla-Uposatha, he dwells with sīla, and focusing on sīla, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.’
Này Visākha, điều này được gọi là ‘vị Thánh đệ tử giữ giới Uposatha, sống hòa hợp với giới, do giới mà tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ’.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, indeed, Visakha, by exertion, there is purification of a defiled mind.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực.
746
‘‘Upakkiliṭṭhassa, visākhe, cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
“By exertion, Visakha, there is purification of a defiled mind.
“Này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực.
Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
And how, Visakha, by exertion, is there purification of a defiled mind?
Và như thế nào, này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực?
Idha visākhe, ariyasāvako devatā anussarati – ‘santi devā cātumahārājikā* , santi devā tāvatiṃsā, santi devā yāmā, santi devā tusitā, santi devā nimmānaratino, santi devā paranimmitavasavattino, santi devā brahmakāyikā, santi devā tatuttari* .
Here, Visakha, a noble disciple recollects the devas: ‘There are devas of the Cātumahārājika realm, there are devas of the Tāvatiṃsa realm, there are devas of the Yāma realm, there are devas of the Tusita realm, there are devas of the Nimmānaratī realm, there are devas of the Paranimmitavasavattī realm, there are devas of the Brahmakāyika realm, there are devas beyond that.
Ở đây, này Visākha, một vị Thánh đệ tử hồi tưởng về các vị trời – ‘Có các vị trời Tứ Đại Thiên Vương, có các vị trời Đao Lợi, có các vị trời Dạ Ma, có các vị trời Đâu Suất, có các vị trời Hóa Lạc, có các vị trời Tha Hóa Tự Tại, có các vị trời Phạm Thiên, có các vị trời cao hơn thế nữa.
Yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā* , mayhampi tathārūpā saddhā saṃvijjati.
With such faith as those devas were endowed, they passed away from here and reappeared there; such faith is present in me.
Với đức tin như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có đức tin như thế ấy.
Yathārūpena sīlena samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpaṃ sīlaṃ saṃvijjati.
With such virtue as those devas were endowed, they passed away from here and reappeared there; such virtue is present in me.
Với giới hạnh như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có giới hạnh như thế ấy.
Yathārūpena sutena samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpaṃ sutaṃ saṃvijjati.
"Endowed with such learning, those devas, having passed away from here, were reborn there; I too possess such learning.
Với sự đa văn như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có sự đa văn như thế ấy.
Yathārūpena cāgena samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpo cāgo saṃvijjati.
Endowed with such generosity, those devas, having passed away from here, were reborn there; I too possess such generosity.
Với sự bố thí như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có sự bố thí như thế ấy.
Yathārūpāya paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpā paññā saṃvijjatī’ti.
Endowed with such wisdom, those devas, having passed away from here, were reborn there; I too possess such wisdom."
Với trí tuệ như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có trí tuệ như thế ấy’.
Tassa attano ca tāsañca devatānaṃ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti, seyyathāpi, visākhe, upakkiliṭṭhassa jātarūpassa upakkamena pariyodapanā hoti.
As he recollects his own faith, virtue, learning, generosity, and wisdom, and those of the devas, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned, just as, Visākha, defiled gold is purified by effort.
Khi vị ấy hồi tưởng về đức tin, giới hạnh, sự đa văn, sự bố thí, và trí tuệ của mình và của các vị trời ấy, tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ, ví như, này Visākha, sự thanh lọc của vàng ròng bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực.
747
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa jātarūpassa upakkamena pariyodapanā hoti?
"And how, Visākha, is defiled gold purified by effort?
“Này Visākha, và như thế nào sự thanh lọc của vàng ròng bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực?
Ukkañca paṭicca, loṇañca paṭicca, gerukañca paṭicca, nāḷikasaṇḍāsañca* paṭicca, purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca.
It is by means of a furnace, and salt, and red chalk, and tongs, and a man's appropriate exertion.
Do lò nung, do muối, do đất đỏ, do ống thổi và kẹp, và do sự tinh tấn thích hợp của người.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa jātarūpassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, Visākha, is defiled gold purified by effort.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc của vàng ròng bị ô uế xảy ra bằng nỗ lực.
Evamevaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Even so, Visākha, is a defiled mind purified by effort.
Cũng vậy, này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực.
748
‘‘Kathañca, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti?
"And how, Visākha, is a defiled mind purified by effort?
“Này Visākha, và như thế nào sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực?
Idha, visākhe, ariyasāvako devatā anussarati – ‘santi devā cātumahārājikā, santi devā tāvatiṃsā…pe… santi devā tatuttari.
Here, Visākha, a noble disciple recollects the devas: 'There are devas of the Cātumahārājika realm, there are devas of Tāvatiṃsa…pe… there are devas higher than that.
Ở đây, này Visākha, một vị Thánh đệ tử hồi tưởng về các vị trời – ‘Có các vị trời Tứ Đại Thiên Vương, có các vị trời Đao Lợi…pe… có các vị trời cao hơn thế nữa.
Yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpā saddhā saṃvijjati.
Endowed with such faith, those devas, having passed away from here, were reborn there; I too possess such faith.
Với đức tin như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có đức tin như thế ấy.
Yathārūpena sīlena…pe… sutena…pe… cāgena…pe… paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tatthupapannā, mayhampi tathārūpā paññā saṃvijjatī’ti.
Endowed with such virtue…pe… learning…pe… generosity…pe… wisdom, those devas, having passed away from here, were reborn there; I too possess such wisdom.'
Với giới hạnh như thế nào…pe… sự đa văn như thế nào…pe… sự bố thí như thế nào…pe… trí tuệ như thế nào mà các vị trời ấy từ đây sinh về đó, thì tôi cũng có trí tuệ như thế ấy’.
Tassa attano ca tāsañca devatānaṃ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca anussarato cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti.
As he recollects his own faith, virtue, learning, generosity, and wisdom, and those of the devas, his mind becomes clear, joy arises, and the defilements of his mind are abandoned.
Khi vị ấy hồi tưởng về đức tin, giới hạnh, sự đa văn, sự bố thí, và trí tuệ của mình và của các vị trời ấy, tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ.
Ayaṃ vuccati, visākhe, ‘ariyasāvako devatuposathaṃ upavasati, devatāhi saddhiṃ saṃvasati, devatā ārabbha cittaṃ pasīdati, pāmojjaṃ uppajjati, ye cittassa upakkilesā te pahīyanti’.
This, Visākha, is called 'a noble disciple observing the devatuposatha, dwelling together with the devas, his mind becoming clear concerning the devas, joy arising, and the defilements of his mind being abandoned.'
Này Visākha, điều này được gọi là ‘vị Thánh đệ tử giữ Uposatha của chư thiên, sống hòa hợp với chư thiên, do chư thiên mà tâm vị ấy trở nên thanh tịnh, niềm hoan hỷ phát sinh, những ô nhiễm của tâm vị ấy bị đoạn trừ’.
Evaṃ kho, visākhe, upakkiliṭṭhassa cittassa upakkamena pariyodapanā hoti.
Thus, Visākha, is a defiled mind purified by effort.
Như vậy, này Visākha, sự thanh lọc của tâm bị ô nhiễm xảy ra bằng nỗ lực.
749
‘‘Sa kho so, visākhe, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati – ‘yāvajīvaṃ arahanto pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭiviratā nihitadaṇḍā nihitasatthā lajjī dayāpannā sabbapāṇabhūtahitānukampī viharanti; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato nihitadaṇḍo nihitasattho lajjī dayāpanno sabbapāṇabhūtahitānukampī viharāmi.
"That noble disciple, Visākha, reflects thus: 'Throughout their lives, Arahants abandon the taking of life, abstaining from the taking of life, having laid aside rod and weapon, conscientious, compassionate, dwelling with sympathy for all living beings; I too, this night and day, abandon the taking of life, abstaining from the taking of life, having laid aside rod and weapon, conscientious, compassionate, dwelling with sympathy for all living beings.
“Này Visākha, vị Thánh đệ tử ấy suy xét như sau – ‘Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, đã đặt gậy xuống, đã đặt vũ khí xuống, có lòng hổ thẹn, có lòng từ bi, sống với lòng thương xót đối với tất cả chúng sinh; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, đã đặt gậy xuống, đã đặt vũ khí xuống, có lòng hổ thẹn, có lòng từ bi, sống với lòng thương xót đối với tất cả chúng sinh.
Imināpi* aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this limb, I imitate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi gương các bậc A-la-hán, và Uposatha của tôi sẽ được giữ trọn.
750
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭiviratā dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī, athenena sucibhūtena attanā viharanti; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ adinnādānaṃ pahāya adinnādānā paṭivirato dinnādāyī dinnapāṭikaṅkhī, athenena sucibhūtena attanā viharāmi.
"Throughout their lives, Arahants abandon the taking of what is not given, abstaining from the taking of what is not given, taking only what is given, expecting only what is given, dwelling with a pure self, not as a thief; I too, this night and day, abandon the taking of what is not given, abstaining from the taking of what is not given, taking only what is given, expecting only what is given, dwelling with a pure self, not as a thief.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, là người nhận của được cho, mong đợi của được cho, sống với tự ngã thanh tịnh không trộm cắp; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, là người nhận của được cho, mong đợi của được cho, sống với tự ngã thanh tịnh không trộm cắp.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this limb, I imitate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi gương các bậc A-la-hán, và Uposatha của tôi sẽ được giữ trọn.
751
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī ārācārī* viratā methunā gāmadhammā; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ abrahmacariyaṃ pahāya brahmacārī ārācārī virato methunā gāmadhammā.
"Throughout their lives, Arahants abandon unchastity, living chastely, far removed from sexual intercourse, the village-practice; I too, this night and day, abandon unchastity, living chastely, far removed from sexual intercourse, the village-practice.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ phi phạm hạnh, sống phạm hạnh, sống xa cách, tránh xa dâm dục, pháp làng; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ phi phạm hạnh, sống phạm hạnh, sống xa cách, tránh xa dâm dục, pháp làng.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this limb, I imitate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi gương các bậc A-la-hán, và Uposatha của tôi sẽ được giữ trọn.
752
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭiviratā saccavādī saccasandhā thetā paccayikā avisaṃvādakā lokassa; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ musāvādaṃ pahāya musāvādā paṭivirato saccavādī saccasandho theto paccayiko avisaṃvādako lokassa.
‘‘For as long as they live, Arahants abandon false speech, abstaining from false speech. They are speakers of truth, truthful, firm, reliable, and not deceptive to the world. Today, for this night and this day, I too abandon false speech, abstaining from false speech. I am a speaker of truth, truthful, firm, reliable, and not deceptive to the world.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ lời nói dối, tránh xa lời nói dối, nói lời chân thật, giữ lời chân thật, đáng tin cậy, đáng tin tưởng, không lừa dối thế gian; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ lời nói dối, tránh xa lời nói dối, nói lời chân thật, giữ lời chân thật, đáng tin cậy, đáng tin tưởng, không lừa dối thế gian.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this factor, too, I emulate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi theo các bậc A-la-hán, và ngày Uposatha của tôi sẽ được thực hành.
753
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ pahāya surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato.
‘‘For as long as they live, Arahants abandon the taking of intoxicants, which is the basis for heedlessness, abstaining from intoxicants, which are the basis for heedlessness. Today, for this night and this day, I too abandon the taking of intoxicants, which is the basis for heedlessness, abstaining from intoxicants, which are the basis for heedlessness.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ rượu, bia, các chất say làm nguyên nhân phóng dật, tránh xa rượu, bia, các chất say làm nguyên nhân phóng dật; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ rượu, bia, các chất say làm nguyên nhân phóng dật, tránh xa rượu, bia, các chất say làm nguyên nhân phóng dật.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this factor, too, I emulate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi theo các bậc A-la-hán, và ngày Uposatha của tôi sẽ được thực hành.
754
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto ekabhattikā rattūparatā viratā vikālabhojanā; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ ekabhattiko rattūparato virato vikālabhojanā.
‘‘For as long as they live, Arahants are one-meal-eaters, abstaining from food at night, refraining from untimely eating. Today, for this night and this day, I too am a one-meal-eater, abstaining from food at night, refraining from untimely eating.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán chỉ ăn một bữa, tránh ăn ban đêm, tránh ăn phi thời; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng chỉ ăn một bữa, tránh ăn ban đêm, tránh ăn phi thời.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this factor, too, I emulate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi theo các bậc A-la-hán, và ngày Uposatha của tôi sẽ được thực hành.
755
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭiviratā; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ naccagītavāditavisūkadassanamālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā paṭivirato.
‘‘For as long as they live, Arahants abstain from dancing, singing, music, and dramatic spectacles; from wearing garlands, scents, and ointments; and from adornment and beautification. Today, for this night and this day, I too abstain from dancing, singing, music, and dramatic spectacles; from wearing garlands, scents, and ointments; and from adornment and beautification.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán tránh xa việc ca múa, hát xướng, nhạc cụ, xem kịch, đeo vòng hoa, dùng hương liệu, dầu thoa, trang sức, điểm tô; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng tránh xa việc ca múa, hát xướng, nhạc cụ, xem kịch, đeo vòng hoa, dùng hương liệu, dầu thoa, trang sức, điểm tô.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissati.
By this factor, too, I emulate the Arahants, and my Uposatha will be observed.
Với chi phần này, tôi noi theo các bậc A-la-hán, và ngày Uposatha của tôi sẽ được thực hành.
756
‘‘Yāvajīvaṃ arahanto uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭiviratā nīcaseyyaṃ kappenti mañcake vā tiṇasanthārake vā; ahampajja imañca rattiṃ imañca divasaṃ uccāsayanamahāsayanaṃ pahāya uccāsayanamahāsayanā paṭivirato nīcaseyyaṃ kappemi mañcake vā tiṇasanthārake vā.
‘‘For as long as they live, Arahants abandon high and luxurious beds, abstaining from high and luxurious beds, and they sleep on a low couch or a bed of grass. Today, for this night and this day, I too abandon high and luxurious beds, abstaining from high and luxurious beds, and I sleep on a low couch or a bed of grass.
“Suốt đời, các bậc A-la-hán từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn, nằm trên giường thấp, trên chõng hoặc trên ổ rơm; hôm nay, trong đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ giường cao, giường lớn, tránh xa giường cao, giường lớn, nằm trên giường thấp, trên chõng hoặc trên ổ rơm.
Imināpi aṅgena arahataṃ anukaromi, uposatho ca me upavuttho bhavissatī’’ti.
By this factor, too, I emulate the Arahants, and my Uposatha will be observed.’’
Với chi phần này, tôi noi theo các bậc A-la-hán, và ngày Uposatha của tôi sẽ được thực hành.”
757
‘‘Evaṃ kho, visākhe, ariyuposatho hoti.
‘‘This is how, Visakha, the Ariyan Uposatha is observed.
“Này Visākha, Uposatha của bậc Thánh là như vậy đó.
Evaṃ upavuttho kho, visākhe, ariyuposatho mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro’’.
When observed in this way, Visakha, the Ariyan Uposatha is greatly fruitful, greatly beneficial, greatly splendid, and greatly pervasive.’’
Này Visākha, Uposatha của bậc Thánh được thực hành như vậy sẽ có đại quả, đại lợi ích, đại rực rỡ, đại lan tỏa.”
758
‘‘Kīvamahapphalo hoti kīvamahānisaṃso kīvamahājutiko kīvamahāvipphāro’’?
‘‘How greatly fruitful, how greatly beneficial, how greatly splendid, how greatly pervasive is it?’’
“Có đại quả, đại lợi ích, đại rực rỡ, đại lan tỏa đến mức nào?”
‘‘Seyyathāpi, visākhe, yo imesaṃ soḷasannaṃ mahājanapadānaṃ pahūtarattaratanānaṃ* issariyādhipaccaṃ rajjaṃ kāreyya, seyyathidaṃ – aṅgānaṃ, magadhānaṃ, kāsīnaṃ, kosalānaṃ, vajjīnaṃ, mallānaṃ, cetīnaṃ, vaṅgānaṃ, kurūnaṃ, pañcālānaṃ, macchānaṃ* , sūrasenānaṃ, assakānaṃ, avantīnaṃ, gandhārānaṃ, kambojānaṃ, aṭṭhaṅgasamannāgatassa uposathassa etaṃ* kalaṃ nāgghati soḷasiṃ.
‘‘Suppose, Visakha, one were to rule over these sixteen great kingdoms, abundant in precious jewels—namely, Anga, Magadha, Kasi, Kosala, Vajji, Malla, Ceti, Vanga, Kuru, Pañcala, Maccha, Surasena, Assaka, Avanti, Gandhara, Kamboja—that is not worth a sixteenth part of the Uposatha endowed with eight factors.
“Này Visākha, ví như có người thống trị vương quốc của mười sáu đại quốc có nhiều loại châu báu quý giá, đó là: Anga, Magadha, Kāsī, Kosala, Vajji, Malla, Ceti, Vanga, Kuru, Pañcāla, Maccha, Sūrasena, Assaka, Avanti, Gandhāra, Kamboja, thì giá trị của vương quốc đó cũng không bằng một phần mười sáu của Uposatha đầy đủ tám chi phần.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao vậy?
Kapaṇaṃ, visākhe, mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’.
Human kingship, Visakha, is wretched compared to divine happiness.’’
Này Visākha, vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên.”
759
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni paññāsa vassāni, cātumahārājikānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo* .
‘‘Fifty human years, Visakha, are one day and night for the Devas of the Cātumahārājika realm.
“Này Visākha, năm mươi năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Tứ Đại Thiên Vương.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make one month.
Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make one year.
Mười hai tháng như vậy là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbāni pañca vassasatāni cātumahārājikānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Five hundred such divine years are the lifespan of the Devas of the Cātumahārājika realm.
Năm trăm năm chư thiên là tuổi thọ của chư thiên Tứ Đại Thiên Vương.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
It is possible, Visakha, that a woman or a man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, may, upon the dissolution of the body, after death, reappear in the company of the Devas of the Cātumahārājika realm.
Này Visākha, có trường hợp một người nam hoặc người nữ nào đó đã thực hành Uposatha đầy đủ tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sinh vào cõi chư thiên Tứ Đại Thiên Vương.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
It was with this in mind, Visakha, that it was said: ‘Human kingship is wretched compared to divine happiness.’’’
Này Visākha, chính vì điều này mà lời nói ‘vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên’ đã được nói ra.”
760
‘‘Yaṃ, visākhe, mānusakaṃ vassasataṃ, tāvatiṃsānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
‘‘One hundred human years, Visakha, are one day and night for the Devas of Tāvatiṃsa.
“Này Visākha, một trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Tam Thập Tam Thiên.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make one month.
Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make one year.
Mười hai tháng như vậy là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbaṃ vassasahassaṃ tāvatiṃsānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
By that year, a divine thousand years is the lifespan of the Tāvatiṃsa devas.
Một ngàn năm chư thiên là tuổi thọ của chư thiên Tam Thập Tam Thiên.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tāvatiṃsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Indeed, Visākhā, it is possible that some woman or man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, after the dissolution of the body, after death, might be reborn into the companionship of the Tāvatiṃsa devas.
Này Visākha, có trường hợp một người nam hoặc người nữ nào đó đã thực hành Uposatha đầy đủ tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sinh vào cõi chư thiên Tam Thập Tam Thiên.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
It was with this in mind, Visākhā, that it was said: ‘Human sovereignty is wretched compared to divine happiness.’
Này Visākha, chính vì điều này mà lời nói ‘vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên’ đã được nói ra.”
761
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni dve vassasatāni, yāmānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
“Visākhā, what are two hundred human years, that is one day and night for the Yāmā devas.
“Này Visākha, hai trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Yāma.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make a month.
Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make a year.
Mười hai tháng như vậy là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbāni dve vassasahassāni yāmānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
By that year, a divine two thousand years is the lifespan of the Yāmā devas.
Hai ngàn năm chư thiên là tuổi thọ của chư thiên Yāma.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā yāmānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Indeed, Visākhā, it is possible that some woman or man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, after the dissolution of the body, after death, might be reborn into the companionship of the Yāmā devas.
Này Visākha, có trường hợp một người nam hoặc người nữ nào đó đã thực hành Uposatha đầy đủ tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sinh vào cõi chư thiên Yāma.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
It was with this in mind, Visākhā, that it was said: ‘Human sovereignty is wretched compared to divine happiness.’
Này Visākha, chính vì điều này mà lời nói ‘vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên’ đã được nói ra.”
762
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni cattāri vassasatāni, tusitānaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
“Visākhā, what are four hundred human years, that is one day and night for the Tusita devas.
“Này Visākha, bốn trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Tusita.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make a month.
Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make a year.
Mười hai tháng như vậy là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbāni cattāri vassasahassāni tusitānaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
By that year, a divine four thousand years is the lifespan of the Tusita devas.
Bốn ngàn năm chư thiên là tuổi thọ của chư thiên Tusita.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tusitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Indeed, Visākhā, it is possible that some woman or man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, after the dissolution of the body, after death, might be reborn into the companionship of the Tusita devas.
Này Visākha, có trường hợp một người nam hoặc người nữ nào đó đã thực hành Uposatha đầy đủ tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sinh vào cõi chư thiên Tusita.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
It was with this in mind, Visākhā, that it was said: ‘Human sovereignty is wretched compared to divine happiness.’
Này Visākha, chính vì điều này mà lời nói ‘vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên’ đã được nói ra.”
763
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni aṭṭha vassasatāni, nimmānaratīnaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
“Visākhā, what are eight hundred human years, that is one day and night for the Nimmānaratī devas.
“Này Visākha, tám trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Nimmānaratī.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make a month.
Ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make a year.
Mười hai tháng như vậy là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbāni aṭṭha vassasahassāni nimmānaratīnaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
By that year, a divine eight thousand years is the lifespan of the Nimmānaratī devas.
Tám ngàn năm chư thiên là tuổi thọ của chư thiên Nimmānaratī.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā nimmānaratīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Indeed, Visākhā, it is possible that some woman or man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, after the dissolution of the body, after death, might be reborn into the companionship of the Nimmānaratī devas.
Này Visākha, có trường hợp một người nam hoặc người nữ nào đó đã thực hành Uposatha đầy đủ tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sinh vào cõi chư thiên Nimmānaratī.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāya’’’.
It was with this in mind, Visākhā, that it was said: ‘Human sovereignty is wretched compared to divine happiness.’
Này Visākha, chính vì điều này mà lời nói ‘vương quốc của loài người thật nghèo nàn so với hạnh phúc của chư thiên’ đã được nói ra.”
764
‘‘Yāni, visākhe, mānusakāni soḷasa vassasatāni, paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ eso eko rattindivo.
“Visākhā, what are sixteen hundred human years, that is one day and night for the Paranimmitavasavattī devas.
“Này Visākha, mười sáu trăm năm của loài người là một ngày đêm của chư thiên Paranimmitavasavattī.
Tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso.
Thirty such nights make a month.
Với đêm đó, ba mươi đêm là một tháng.
Tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo.
Twelve such months make a year.
Với tháng đó, mười hai tháng là một năm.
Tena saṃvaccharena dibbāni soḷasa vassasahassāni paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ āyuppamāṇaṃ.
By that year, a divine sixteen thousand years is the lifespan of the Paranimmitavasavattī devas.
Với năm đó, mười sáu ngàn năm cõi trời là tuổi thọ của chư thiên Paranimmitavasavattī.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, visākhe, vijjati yaṃ idhekacco itthī vā puriso vā aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasitvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā paranimmitavasavattīnaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjeyya.
Indeed, Visākhā, it is possible that some woman or man, having observed the Uposatha endowed with eight factors, after the dissolution of the body, after death, might be reborn into the companionship of the Paranimmitavasavattī devas.
Này Visākhā, điều này có thể xảy ra, rằng một số người phụ nữ hay đàn ông ở đây, sau khi giữ giới Uposatha với tám chi phần, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ tái sanh làm bạn với chư thiên Paranimmitavasavattī.
Idaṃ kho panetaṃ, visākhe, sandhāya bhāsitaṃ – ‘kapaṇaṃ mānusakaṃ rajjaṃ dibbaṃ sukhaṃ upanidhāyā’’’ti.
It was with this in mind, Visākhā, that it was said: ‘Human sovereignty is wretched compared to divine happiness.’ ”
Này Visākhā, chính vì điều này mà ta đã nói: ‘Vương quốc loài người thật khốn khổ khi so sánh với hạnh phúc cõi trời’”.
765
‘‘Pāṇaṃ na haññe* na cadinnamādiye,
“One should not kill a living being, nor take what is not given;
“Không sát sanh, không trộm cắp,
766
Musā na bhāse na ca majjapo siyā;
One should not speak falsehoods, nor should one drink intoxicants.
Không nói dối, không uống rượu say;
767
Abrahmacariyā virameyya methunā,
One should abstain from unchaste conduct, from sexual intercourse,
Xa lìa tà hạnh, hành dâm,
768
Rattiṃ na bhuñjeyya vikālabhojanaṃ.
One should not eat at night, nor eat at the wrong time.
Ban đêm không ăn, không ăn phi thời.
769
‘‘Mālaṃ na dhāre na ca gandhamācare,
“One should not wear garlands, nor apply perfumes;
Không đeo vòng hoa, không thoa hương liệu,
770
Mañce chamāyaṃ va sayetha santhate;
One should lie on a bed on the ground or on a mat;
Nằm trên giường thấp hoặc trên chiếu trải;
771
Etañhi aṭṭhaṅgikamāhuposathaṃ,
This indeed is called the eight-factored Uposatha,
Đây chính là Uposatha tám chi phần,
772
Buddhena dukkhantagunā pakāsitaṃ.
Declared by the Buddha, who has gone to the end of suffering.
Được Đức Phật, bậc đã chứng đạt sự chấm dứt khổ đau, tuyên thuyết.
773
‘‘Cando ca sūriyo ca ubho sudassanā,
“Both the moon and the sun are beautiful to behold,
Cả mặt trăng và mặt trời đều rực rỡ,
774
Obhāsayaṃ anupariyanti yāvatā;
They illuminate as far as they wander;
Chiếu sáng khắp nơi chúng đi qua;
775
Tamonudā te pana antalikkhagā,
They are dispellers of darkness, moving through the sky,
Chúng xua tan bóng tối, bay trên không trung,
776
Nabhe pabhāsanti disāvirocanā.
Shining in the heavens, illuminating the directions.
Phát sáng trên bầu trời, rực rỡ khắp các phương.
777
‘‘Etasmiṃ yaṃ vijjati antare dhanaṃ,
“Whatever wealth exists within this sphere,
Trong không gian đó, có những của cải,
778
Muttā maṇi veḷuriyañca bhaddakaṃ;
Pearls, gems, and excellent lapis lazuli;
Ngọc trai, ngọc báu, và ngọc bích tốt lành;
779
Siṅgī suvaṇṇaṃ atha vāpi kañcanaṃ,
Gold called Siṅgī, or even gold from the mountains,
Vàng Siṅgī, hoặc vàng Kañcana,
780
Yaṃ jātarūpaṃ haṭakanti vuccati.
Which is called jātarūpa gold or haṭaka gold.
Và vàng Jātarūpa, còn gọi là Haṭaka.
781
‘‘Aṭṭhaṅgupetassa uposathassa,
“Even a sixteenth part of the Uposatha
Đối với Uposatha với tám chi phần,
782
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Possessing eight factors, they do not attain;
Tất cả những thứ đó không đáng một phần mười sáu,
783
Candappabhā tāragaṇā ca sabbe.
Neither the moon's radiance nor all the hosts of stars.
Như ánh trăng so với tất cả các vì sao.
784
‘‘Tasmā hi nārī ca naro ca sīlavā,
“Therefore, both women and men who are virtuous,
Do đó, cả người nữ và người nam có giới hạnh,
785
Aṭṭhaṅgupetaṃ upavassuposathaṃ;
Should observe the Uposatha day with its eight factors;
Hãy giữ giới Uposatha với tám chi phần;
786
Puññāni katvāna sukhudrayāni,
Having performed deeds of merit that bring happiness,
Sau khi đã làm những việc phước thiện mang lại hạnh phúc,
787
Aninditā saggamupenti ṭhāna’’nti.
They, unblamed, go to the heavenly realm.”
Không bị chỉ trích, họ sẽ lên cõi trời.”
dasamaṃ;
The Tenth.
Thứ mười;
788
Tassuddānaṃ –
Summary:
Tóm tắt:
789
Titthabhayañca venāgo, sarabho kesamuttiyā;
Tittha, Bhaya, Venāga, Sarabha, Kesamuttiyā;
Titthabhaya và Venāga, Sarabha với Kesamuttiyā;
790
Sāḷho cāpi kathāvatthu, titthiyamūluposathoti.
Sāḷha and Kathāvatthu, Titthiya, Mūla, Uposatha.
Sāḷha và Kathāvatthu, Titthiyamūluposatha.
Next Page →