31. ‘‘Sabrahmakāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
“Those families, bhikkhus, are with Brahmā, in whose homes the parents are honored by their children.
31. “Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà cha mẹ được con cái tôn kính trong nhà, thì những gia đình ấy có Phạm Thiên.
Sapubbācariyakāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
Those families, bhikkhus, are with former teachers, in whose homes the parents are honored by their children.
Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà cha mẹ được con cái tôn kính trong nhà, thì những gia đình ấy có các bậc đạo sư thuở trước.
Sāhuneyyāni, bhikkhave, tāni kulāni yesaṃ puttānaṃ mātāpitaro ajjhāgāre pūjitā honti.
Those families, bhikkhus, are worthy of offerings, in whose homes the parents are honored by their children.
Này các Tỳ-khưu, những gia đình nào mà con cái kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ ngay trong nhà mình, thì những gia đình ấy xứng đáng được cúng dường.
‘Brahmā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ.
‘Brahmā,’ bhikkhus, is an appellation for parents.
Này các Tỳ-khưu, ‘Phạm Thiên’ là danh xưng của cha mẹ.
‘Pubbācariyā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ.
‘Former teachers,’ bhikkhus, is an appellation for parents.
Này các Tỳ-khưu, ‘Bậc Thầy Đầu Tiên’ là danh xưng của cha mẹ.
‘Āhuneyyā’ti, bhikkhave, mātāpitūnaṃ etaṃ adhivacanaṃ.
‘Worthy of offerings,’ bhikkhus, is an appellation for parents.
Này các Tỳ-khưu, ‘Bậc Đáng Cúng Dường’ là danh xưng của cha mẹ.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì sao thế?
Bahukārā, bhikkhave, mātāpitaro puttānaṃ, āpādakā posakā, imassa lokassa dassetāroti.
Parents, bhikkhus, are of great help to their children, they are their producers, their nourishers, the revealers of this world.”
Này các Tỳ-khưu, cha mẹ là những người có công lớn đối với con cái, là người sinh thành, nuôi dưỡng, và là người chỉ lối cho chúng vào đời này.
32. Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Then Venerable Ānanda approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
32. Rồi Tôn giả Ānanda đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn, Tôn giả ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca –
Seated to one side, Venerable Ānanda said this to the Blessed One:
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn rằng:
‘‘Siyā nu kho, bhante, bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu; yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā’’ti?
‘‘Venerable Sir, is it possible for a bhikkhu to attain such a concentration that in this conscious body, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and externally, in all signs, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit? And could he dwell having attained that liberation of mind and liberation by wisdom, by dwelling in which there are no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit?"
‘‘Bạch Thế Tôn, có thể nào một Tỳ-khưu đạt được định như vậy, mà trong thân có thức này không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và đối với tất cả các tướng bên ngoài cũng không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và vị ấy sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn không?’’
‘‘Siyā, ānanda, bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu; yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā’’ti.
‘‘It is possible, Ānanda, for a bhikkhu to attain such a concentration that in this conscious body, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and externally, in all signs, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit. And he could dwell having attained that liberation of mind and liberation by wisdom, by dwelling in which there are no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit."
‘‘Này Ānanda, có thể một Tỳ-khưu đạt được định như vậy, mà trong thân có thức này không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và đối với tất cả các tướng bên ngoài cũng không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và vị ấy sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn.’’
‘‘Yathā kathaṃ pana, bhante, siyā bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu; yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā’’ti?
‘‘But how, Venerable Sir, is it possible for a bhikkhu to attain such a concentration that in this conscious body, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and externally, in all signs, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit? And how could he dwell having attained that liberation of mind and liberation by wisdom, by dwelling in which there are no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit?"
‘‘Bạch Thế Tôn, vậy bằng cách nào một Tỳ-khưu có thể đạt được định như vậy, mà trong thân có thức này không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và đối với tất cả các tướng bên ngoài cũng không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và vị ấy sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn?’’
‘‘Idhānanda, bhikkhuno evaṃ hoti – ‘etaṃ santaṃ etaṃ paṇītaṃ yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbāna’nti.
‘‘Here, Ānanda, it occurs to a bhikkhu: ‘This is peaceful, this is sublime, namely, the stilling of all formations, the relinquishment of all attachments, the destruction of craving, dispassion, cessation, Nibbāna.’
‘‘Này Ānanda, ở đây, một Tỳ-khưu nghĩ rằng: ‘Điều này là an tịnh, điều này là thù thắng, tức là sự an tịnh tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả các uẩn, sự đoạn diệt khát ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, Niết-bàn.’
Evaṃ kho, ānanda, siyā bhikkhuno tathārūpo samādhipaṭilābho yathā imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā nāssu; yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja vihareyyā’’ti.
It is in this way, Ānanda, that a bhikkhu could attain such a concentration that in this conscious body, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and externally, in all signs, there would be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit. And he could dwell having attained that liberation of mind and liberation by wisdom, by dwelling in which there are no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit."
Này Ānanda, bằng cách này, một Tỳ-khưu có thể đạt được định như vậy, mà trong thân có thức này không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và đối với tất cả các tướng bên ngoài cũng không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và vị ấy sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn.’’
33. Atha kho āyasmā sāriputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
33. Then Venerable Sāriputta approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
33. Rồi Tôn giả Sāriputta đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn, Tôn giả ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhagavā etadavoca – ‘‘saṃkhittenapi kho ahaṃ, sāriputta, dhammaṃ deseyyaṃ; vitthārenapi kho ahaṃ, sāriputta, dhammaṃ deseyyaṃ; saṃkhittavitthārenapi kho ahaṃ, sāriputta, dhammaṃ deseyyaṃ; aññātāro ca dullabhā’’ti.
To Venerable Sāriputta, sitting to one side, the Blessed One said this: ‘‘Sāriputta, I could teach the Dhamma concisely; I could teach the Dhamma in detail; I could teach the Dhamma both concisely and in detail; but those who understand are rare.’’
Thế Tôn nói với Tôn giả Sāriputta đang ngồi một bên rằng: ‘‘Này Sāriputta, Ta có thể thuyết pháp một cách tóm tắt; Ta cũng có thể thuyết pháp một cách rộng rãi; Ta cũng có thể thuyết pháp một cách tóm tắt và rộng rãi; nhưng những người hiểu biết thì khó tìm.’’
‘‘Etassa, bhagavā, kālo, etassa, sugata, kālo yaṃ bhagavā saṃkhittenapi dhammaṃ deseyya, vitthārenapi dhammaṃ deseyya, saṃkhittavitthārenapi dhammaṃ deseyya.
‘‘Now is the time, Blessed One, now is the time, Sugata, for the Blessed One to teach the Dhamma concisely, to teach the Dhamma in detail, to teach the Dhamma both concisely and in detail.
‘‘Bạch Thế Tôn, đã đến lúc rồi, Thiện Thệ, đã đến lúc rồi để Thế Tôn thuyết pháp một cách tóm tắt, thuyết pháp một cách rộng rãi, thuyết pháp một cách tóm tắt và rộng rãi.
Bhavissanti dhammassa aññātāro’’ti.
There will be those who understand the Dhamma.’’
Sẽ có những người hiểu biết Giáo Pháp.’’
‘‘Tasmātiha, sāriputta, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na bhavissanti, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na bhavissanti, yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharissāmā’ti.
‘‘Therefore, Sāriputta, you should train yourselves thus: ‘In this conscious body, there will be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and externally, in all signs, there will be no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit; and we will dwell having attained that liberation of mind and liberation by wisdom, by dwelling in which there are no underlying tendencies of 'I-making,' 'mine-making,' and conceit.’
‘‘Vì vậy, này Sāriputta, các con phải học tập như sau: ‘Trong thân có thức này, sẽ không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và đối với tất cả các tướng bên ngoài cũng sẽ không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; và chúng ta sẽ sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn.’
Evañhi kho, sāriputta, sikkhitabbaṃ.
This is how, Sāriputta, you should train yourselves.
Này Sāriputta, các con phải học tập như vậy.
‘‘Yato ca kho, sāriputta, bhikkhuno imasmiñca saviññāṇake kāye ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti, bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti, yañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharato ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na honti tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ upasampajja viharati; ayaṃ vuccati, sāriputta – ‘bhikkhu acchecchi* taṇhaṃ, vivattayi* saṃyojanaṃ, sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassa’.
“But when, Sāriputta, a bhikkhu has no ‘I-making’, ‘mine-making’, or ‘conceit-tendencies’ regarding this conscious body, and no ‘I-making’, ‘mine-making’, or ‘conceit-tendencies’ regarding all external signs, and he dwells having attained that liberation of mind and liberation through wisdom where there are no ‘I-making’, ‘mine-making’, or ‘conceit-tendencies’; then, Sāriputta, it is said of this bhikkhu: ‘He has cut off craving, he has rolled back the fetters, and by rightly comprehending conceit, he has made an end of suffering.’
‘‘Này Sāriputta, khi một Tỳ-khưu không còn ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn trong thân có thức này, và không còn ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn đối với tất cả các tướng bên ngoài, và vị ấy sống thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát mà không có ngã mạn, ngã sở mạn, và các tùy miên ngã mạn, ngã sở mạn; thì này Sāriputta, vị ấy được gọi là ‘Tỳ-khưu đã cắt đứt khát ái, đã phá tan các kiết sử, đã chấm dứt khổ đau bằng cách đoạn trừ hoàn toàn ngã mạn’.
Idañca pana metaṃ, sāriputta, sandhāya bhāsitaṃ pārāyane* udayapañhe –
And, Sāriputta, it was with reference to this that it was said in the Pārāyana, in the Udaya’s Question:
Này Sāriputta, điều này Ta đã nói trong câu hỏi của Udaya trong kinh Pārāyana:
34. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, nidānāni kammānaṃ samudayāya.
“Monks, there are these three causes for the arising of kamma.
34. “Này các tỳ khưu, có ba nhân duyên này cho sự khởi lên của các nghiệp.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Ba điều đó là gì?
Lobho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, doso nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, moho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya.
Greed is a cause for the arising of kamma, hatred is a cause for the arising of kamma, delusion is a cause for the arising of kamma.
Tham (lobha) là nhân duyên cho sự khởi lên của các nghiệp, sân (dosa) là nhân duyên cho sự khởi lên của các nghiệp, si (moha) là nhân duyên cho sự khởi lên của các nghiệp.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, lobhapakataṃ kammaṃ lobhajaṃ lobhanidānaṃ lobhasamudayaṃ, yatthassa attabhāvo nibbattati tattha taṃ kammaṃ vipaccati.
“Monks, that kamma performed out of greed, born of greed, originating in greed, arising from greed—wherever that person’s existence is reborn, there that kamma ripens.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do tham, sinh khởi từ tham, có nhân duyên là tham, có nguồn gốc là tham, thì nơi nào thân hữu của người ấy tái sinh, nghiệp ấy sẽ chín muồi ở đó.
Yattha taṃ kammaṃ vipaccati tattha tassa kammassa vipākaṃ paṭisaṃvedeti, diṭṭhe vā dhamme upapajja vā* apare vā* pariyāye.
Wherever that kamma ripens, there that person experiences the result of that kamma, either in this very life, or by being reborn, or in some subsequent existence.
Nơi nào nghiệp ấy chín muồi, ở đó người ấy sẽ cảm thọ quả báo của nghiệp ấy, hoặc trong đời này, hoặc trong đời kế tiếp, hoặc trong một kiếp sau nữa.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, dosapakataṃ kammaṃ dosajaṃ dosanidānaṃ dosasamudayaṃ, yatthassa attabhāvo nibbattati tattha taṃ kammaṃ vipaccati.
“Monks, that kamma performed out of hatred, born of hatred, originating in hatred, arising from hatred—wherever that person’s existence is reborn, there that kamma ripens.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do sân, sinh khởi từ sân, có nhân duyên là sân, có nguồn gốc là sân, thì nơi nào thân hữu của người ấy tái sinh, nghiệp ấy sẽ chín muồi ở đó.
Yattha taṃ kammaṃ vipaccati tattha tassa kammassa vipākaṃ paṭisaṃvedeti, diṭṭhe vā dhamme upapajja vā apare vā pariyāye.
Wherever that kamma ripens, there that person experiences the result of that kamma, either in this very life, or by being reborn, or in some subsequent existence.
Nơi nào nghiệp ấy chín muồi, ở đó người ấy sẽ cảm thọ quả báo của nghiệp ấy, hoặc trong đời này, hoặc trong đời kế tiếp, hoặc trong một kiếp sau nữa.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, mohapakataṃ kammaṃ mohajaṃ mohanidānaṃ mohasamudayaṃ, yatthassa attabhāvo nibbattati tattha taṃ kammaṃ vipaccati.
“Monks, that kamma performed out of delusion, born of delusion, originating in delusion, arising from delusion—wherever that person’s existence is reborn, there that kamma ripens.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do si, sinh khởi từ si, có nhân duyên là si, có nguồn gốc là si, thì nơi nào thân hữu của người ấy tái sinh, nghiệp ấy sẽ chín muồi ở đó.
Yattha taṃ kammaṃ vipaccati tattha tassa kammassa vipākaṃ paṭisaṃvedeti, diṭṭhe vā dhamme upapajja vā apare vā pariyāye.
Wherever that kamma ripens, there that person experiences the result of that kamma, either in this very life, or by being reborn, or in some subsequent existence.
Nơi nào nghiệp ấy chín muưuồi, ở đó người ấy sẽ cảm thọ quả báo của nghiệp ấy, hoặc trong đời này, hoặc trong đời kế tiếp, hoặc trong một kiếp sau nữa.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, bījāni akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sārādāni sukhasayitāni sukhette suparikammakatāya bhūmiyā nikkhittāni.
“Just as, monks, seeds that are unbroken, unspoiled, not damaged by wind and sun, full of sap, well-preserved, are placed in a good field on well-prepared ground.
“Ví như, này các tỳ khưu, những hạt giống không bị vỡ, không bị thối, không bị gió và nắng làm hư hại, còn nguyên vẹn, được cất giữ tốt, được gieo trên một mảnh đất tốt đã được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Devo ca sammādhāraṃ anuppaveccheyya.
And the sky would pour down rain at the right time.
Và mưa cũng rơi đúng lúc.
Evassu tāni, bhikkhave, bījāni vuddhiṃ viruḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyyuṃ.
Then, monks, those seeds would attain growth, increase, and full development.
Như vậy, này các tỳ khưu, những hạt giống ấy sẽ tăng trưởng, nảy mầm và phát triển.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, yaṃ lobhapakataṃ kammaṃ lobhajaṃ lobhanidānaṃ lobhasamudayaṃ, yatthassa attabhāvo nibbattati tattha taṃ kammaṃ vipaccati.
In the same way, monks, that kamma performed out of greed, born of greed, originating in greed, arising from greed—wherever that person’s existence is reborn, there that kamma ripens.
Cũng vậy, này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do tham, sinh khởi từ tham, có nhân duyên là tham, có nguồn gốc là tham, thì nơi nào thân hữu của người ấy tái sinh, nghiệp ấy sẽ chín muồi ở đó.
Yattha taṃ kammaṃ vipaccati tattha tassa kammassa vipākaṃ paṭisaṃvedeti, diṭṭhe vā dhamme upapajja vā apare vā pariyāye.
Wherever that kamma ripens, there that person experiences the result of that kamma, either in this very life, or by being reborn, or in some subsequent existence.
Nơi nào nghiệp ấy chín muồi, ở đó người ấy sẽ cảm thọ quả báo của nghiệp ấy, hoặc trong đời này, hoặc trong đời kế tiếp, hoặc trong một kiếp sau nữa.
‘‘Yaṃ dosapakataṃ kammaṃ…pe… yaṃ mohapakataṃ kammaṃ mohajaṃ mohanidānaṃ mohasamudayaṃ, yatthassa attabhāvo nibbattati tattha taṃ kammaṃ vipaccati.
“That kamma performed out of hatred… That kamma performed out of delusion, born of delusion, originating in delusion, arising from delusion—wherever that person’s existence is reborn, there that kamma ripens.
“Nghiệp được tạo tác do sân… nghiệp được tạo tác do si, sinh khởi từ si, có nhân duyên là si, có nguồn gốc là si, thì nơi nào thân hữu của người ấy tái sinh, nghiệp ấy sẽ chín muồi ở đó.
Yattha taṃ kammaṃ vipaccati tattha tassa kammassa vipākaṃ paṭisaṃvedeti, diṭṭhe vā dhamme upapajja vā apare vā pariyāye.
Wherever that kamma ripens, there that person experiences the result of that kamma, either in this very life, or by being reborn, or in some subsequent existence.
Nơi nào nghiệp ấy chín muồi, ở đó người ấy sẽ cảm thọ quả báo của nghiệp ấy, hoặc trong đời này, hoặc trong đời kế tiếp, hoặc trong một kiếp sau nữa.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi nidānāni kammānaṃ samudayāya.
These, monks, are the three causes for the arising of kamma.
Này các tỳ khưu, đây là ba nhân duyên cho sự khởi lên của các nghiệp.
‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, nidānāni kammānaṃ samudayāya.
“Monks, there are these three causes for the arising of kamma.
“Này các tỳ khưu, có ba nhân duyên này cho sự chấm dứt của các nghiệp.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Ba điều đó là gì?
Alobho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, adoso nidānaṃ kammānaṃ samudayāya, amoho nidānaṃ kammānaṃ samudayāya.
Non-greed is a cause for the arising of kamma, non-hatred is a cause for the arising of kamma, non-delusion is a cause for the arising of kamma.
Không tham (alobha) là nhân duyên cho sự chấm dứt của các nghiệp, không sân (adosa) là nhân duyên cho sự chấm dứt của các nghiệp, không si (amoha) là nhân duyên cho sự chấm dứt của các nghiệp.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, alobhapakataṃ kammaṃ alobhajaṃ alobhanidānaṃ alobhasamudayaṃ, lobhe vigate evaṃ taṃ kammaṃ pahīnaṃ hoti ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.
“Monks, when a kamma is performed without greed, born of non-greed, having non-greed as its source, originating from non-greed, with the disappearance of greed, that kamma is thus abandoned, its root cut off, made like a palm-stump, rendered non-existent, and is not liable to arise in the future.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do không tham, sinh khởi từ không tham, có nhân duyên là không tham, có nguồn gốc là không tham, thì khi tham đã diệt trừ, nghiệp ấy được đoạn trừ, bị chặt đứt gốc rễ, trở thành như thân cây thốt nốt bị đốn ngã, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, adosapakataṃ kammaṃ adosajaṃ adosanidānaṃ adosasamudayaṃ, dose vigate evaṃ taṃ kammaṃ pahīnaṃ hoti ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.
“Monks, when a kamma is performed without hatred, born of non-hatred, having non-hatred as its source, originating from non-hatred, with the disappearance of hatred, that kamma is thus abandoned, its root cut off, made like a palm-stump, rendered non-existent, and is not liable to arise in the future.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do không sân, sinh khởi từ không sân, có nhân duyên là không sân, có nguồn gốc là không sân, thì khi sân đã diệt trừ, nghiệp ấy được đoạn trừ, bị chặt đứt gốc rễ, trở thành như thân cây thốt nốt bị đốn ngã, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
‘‘Yaṃ, bhikkhave, amohapakataṃ kammaṃ amohajaṃ amohanidānaṃ amohasamudayaṃ, mohe vigate evaṃ taṃ kammaṃ pahīnaṃ hoti ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.
“Monks, when a kamma is performed without delusion, born of non-delusion, having non-delusion as its source, originating from non-delusion, with the disappearance of delusion, that kamma is thus abandoned, its root cut off, made like a palm-stump, rendered non-existent, and is not liable to arise in the future.
“Này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do không si, sinh khởi từ không si, có nhân duyên là không si, có nguồn gốc là không si, thì khi si đã diệt trừ, nghiệp ấy được đoạn trừ, bị chặt đứt gốc rễ, trở thành như thân cây thốt nốt bị đốn ngã, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, bījāni akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sārādāni sukhasayitāni.
“Just as, monks, seeds that are unbroken, unrotted, not damaged by wind and sun, full of sap, and well-stored.
“Ví như, này các tỳ khưu, những hạt giống không bị vỡ, không bị thối, không bị gió và nắng làm hư hại, còn nguyên vẹn, được cất giữ tốt.
Tāni puriso agginā ḍaheyya.
A man might burn them with fire.
Một người đàn ông sẽ đốt cháy chúng bằng lửa.
Agginā ḍahitvā masiṃ kareyya.
Having burned them with fire, he might reduce them to ash.
Sau khi đốt cháy bằng lửa, người ấy sẽ biến chúng thành tro.
Masiṃ karitvā mahāvāte vā ophuṇeyya* nadiyā vā sīghasotāya pavāheyya.
Having reduced them to ash, he might scatter them in a strong wind or float them down a swift-flowing river.
Sau khi biến thành tro, người ấy sẽ tung chúng vào một cơn gió lớn hoặc thả trôi trên một dòng sông chảy xiết.
Evassu tāni, bhikkhave, bījāni ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni* āyatiṃ anuppādadhammāni.
Thus, monks, those seeds would have their roots cut off, be made like palm-stumps, rendered non-existent, and not liable to arise in the future.
Như vậy, này các tỳ khưu, những hạt giống ấy sẽ bị chặt đứt gốc rễ, trở thành như thân cây thốt nốt bị đốn ngã, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
Evamevaṃ kho, bhikkhave, yaṃ alobhapakataṃ kammaṃ alobhajaṃ alobhanidānaṃ alobhasamudayaṃ, lobhe vigate evaṃ taṃ kammaṃ pahīnaṃ hoti ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṅkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ.
Even so, monks, when a kamma is performed without greed, born of non-greed, having non-greed as its source, originating from non-greed, with the disappearance of greed, that kamma is thus abandoned, its root cut off, made like a palm-stump, rendered non-existent, and is not liable to arise in the future.
Cũng vậy, này các tỳ khưu, nghiệp được tạo tác do không tham, sinh khởi từ không tham, có nhân duyên là không tham, có nguồn gốc là không tham, thì khi tham đã diệt trừ, nghiệp ấy được đoạn trừ, bị chặt đứt gốc rễ, trở thành như thân cây thốt nốt bị đốn ngã, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
‘‘Yaṃ adosapakataṃ kammaṃ…pe… yaṃ amohapakataṃ kammaṃ amohajaṃ amohanidānaṃ amohasamudayaṃ, mohe vigate evaṃ taṃ kammaṃ pahīnaṃ hoti…pe… āyatiṃ anuppādadhammaṃ.
“When a kamma is performed without hatred… and when a kamma is performed without delusion, born of non-delusion, having non-delusion as its source, originating from non-delusion, with the disappearance of delusion, that kamma is thus abandoned… and is not liable to arise in the future.
“Nghiệp được tạo tác do không sân… nghiệp được tạo tác do không si, sinh khởi từ không si, có nhân duyên là không si, có nguồn gốc là không si, thì khi si đã diệt trừ, nghiệp ấy được đoạn trừ… không thể phát sinh trong tương lai.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi nidānāni kammānaṃ samudayāyā’’ti.
These, monks, are the three roots for the origination of kamma.”
Này các tỳ khưu, đây là ba nhân duyên cho sự chấm dứt của các nghiệp.”
35. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati gomagge siṃsapāvane paṇṇasanthare.
35. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling in Āḷavī, in the Siṃsapā Grove at Gomagga, on a bed of leaves.
35. Tôi nghe như vầy: Một thời Thế Tôn trú tại Āḷavī, trong rừng cây sāla ở Gomagga, trên một chiếc giường lá.
Atha kho hatthako āḷavako jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno addasa bhagavantaṃ gomagge siṃsapāvane paṇṇasanthare nisinnaṃ.
Then Hatthaka of Āḷavī, while walking for exercise, wandering about, saw the Blessed One seated on a bed of leaves in the Siṃsapā Grove at Gomagga.
Bấy giờ, Hatthaka, người Āḷavī, đi bộ lang thang, đi đây đi đó, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chiếc giường lá trong rừng cây sāla ở Gomagga.
Disvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Having seen him, he approached the Blessed One; having approached and paid homage to the Blessed One, he sat down to one side.
Sau khi thấy, ông đến gần Thế Tôn; sau khi đến gần và đảnh lễ Thế Tôn, ông ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinno kho hatthako āḷavako bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kacci, bhante, bhagavā sukhamasayitthā’’ti?
Having sat down to one side, Hatthaka of Āḷavī said to the Blessed One: “I hope, Venerable Sir, the Blessed One slept comfortably?”
Ngồi xuống một bên, Hatthaka, người Āḷavī, bạch Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có ngủ yên giấc không?”
‘‘Evaṃ, kumāra, sukhamasayitthaṃ.
“Yes, young man, I slept comfortably.
“Này Kumāra, Ta ngủ yên giấc.
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, ahaṃ tesaṃ aññataro’’ti.
I am one of those in the world who sleep comfortably.”
Và Ta là một trong những người ngủ yên giấc trên đời này.”
‘‘Sītā, bhante, hemantikā ratti, antaraṭṭhako himapātasamayo, kharā gokaṇṭakahatā bhūmi, tanuko paṇṇasantharo, viraḷāni rukkhassa pattāni, sītāni kāsāyāni vatthāni, sīto ca verambho vāto vāyati.
“Venerable Sir, it is a cold winter night, the time of frost between seasons, the ground is hard, trampled by cattle, the bed of leaves is thin, the tree leaves are sparse, the robes are cold, and a cold, violent wind is blowing.
“Bạch Thế Tôn, đêm đông lạnh lẽo, giữa mùa tuyết rơi, mặt đất cứng như gai bò, chiếc giường lá mỏng manh, lá cây thưa thớt, y ca-sa lạnh lẽo, và gió lạnh thổi mạnh.
Atha ca pana bhagavā evamāha – ‘evaṃ, kumāra, sukhamasayitthaṃ.
Yet the Blessed One says: ‘Yes, young man, I slept comfortably.
Thế mà Thế Tôn lại nói: ‘Này Kumāra, Ta ngủ yên giấc.
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, ahaṃ tesaṃ aññataro’’’ti.
I am one of those in the world who sleep comfortably.’”
Và Ta là một trong những người ngủ yên giấc trên đời này.’”
‘‘Tena hi, kumāra, taññevettha paṭipucchissāmi.
“In that case, young man, I will question you in return.
“Vậy thì, này Kumāra, Ta sẽ hỏi lại con về điều này.
Yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi.
You should answer as you see fit.
Con hãy trả lời theo cách con thấy thích hợp.
Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, idhassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā kūṭāgāraṃ ullittāvalittaṃ nivātaṃ phusitaggaḷaṃ pihitavātapānaṃ.
What do you think, young man? Suppose a householder or a householder’s son here has a gabled house, plastered inside and out, free from drafts, with bolts fastened, and windows closed.
Này Kumāra, con nghĩ sao, nếu một gia chủ hay con trai gia chủ có một ngôi nhà có mái, trát vữa kỹ lưỡng, không có gió lùa, chốt cửa chắc chắn, và cửa sổ đóng kín.
Tatrassa pallaṅko gonakatthato paṭikatthato paṭalikatthato kadalimigapavarapaccattharaṇo* sauttaracchado ubhato lohitakūpadhāno; telappadīpo cettha jhāyeyya* ; catasso ca* pajāpatiyo manāpāmanāpena paccupaṭṭhitā assu.
In it there is a couch covered with a woolen rug, a white woolen rug, an embroidered rug, a rug of antelope hide, with a canopy above and red pillows at both ends; an oil lamp is burning there; and four wives attend upon him with pleasing manners.
Ở đó, có một chiếc giường được trải thảm lông dài, thảm lông trắng, thảm lông nhiều màu, và tấm da hươu Kadali thượng hạng, có chăn phủ bên trên, hai gối kê đầu màu đỏ; một ngọn đèn dầu cháy sáng ở đó; và bốn người vợ xinh đẹp sẽ phục vụ chu đáo.
Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, sukhaṃ vā so sayeyya no vā?
What do you think, prince, would he sleep comfortably or not?
Này thanh niên, ngươi nghĩ sao, người ấy có ngủ an lành không, hay không?
Kathaṃ vā te ettha hotī’’ti?
Or how does it seem to you in this matter?
Hoặc ý ngươi về điều này là gì?”
‘‘Sukhaṃ so, bhante, sayeyya.
"He would sleep comfortably, Venerable Sir.
“Bạch Thế Tôn, người ấy sẽ ngủ an lành.
Ye ca pana loke sukhaṃ senti, so tesaṃ aññataro’’ti.
And he would be one of those in the world who sleep comfortably."
Và những ai ngủ an lành trên đời này, người ấy là một trong số họ.”
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, api nu tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā uppajjeyyuṃ rāgajā pariḷāhā kāyikā vā cetasikā vā yehi so rāgajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyyā’’ti?
"What do you think, prince, would there arise for that householder or householder's son, physical or mental fevers born of lust, burning with which fevers born of lust he would sleep miserably?"
“Này thanh niên, ngươi nghĩ sao, liệu những sự thiêu đốt do tham ái, hoặc thuộc về thân, hoặc thuộc về tâm, có phát sinh nơi gia chủ hay con trai gia chủ ấy không, mà do những sự thiêu đốt do tham ái ấy, người ấy phải nằm ngủ trong khổ sở?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, có ạ.”
‘‘Yehi kho so, kumāra, gahapati vā gahapatiputto vā rāgajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyya, so rāgo tathāgatassa pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo.
"Prince, that lust by which that householder or householder's son, burning with fevers born of lust, would sleep miserably—that lust has been abandoned by the Tathāgata, its root cut off, made like a palm-stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
“Này thanh niên, tham ái mà do đó gia chủ hay con trai gia chủ ấy phải nằm ngủ trong khổ sở, tham ái ấy đã được Như Lai đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như cây thốt nốt bị chặt đứt, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
Tasmāhaṃ sukhamasayitthaṃ.
Therefore, I slept comfortably."
Vì vậy, Ta đã ngủ an lành.”
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, kumāra, api nu tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā uppajjeyyuṃ dosajā pariḷāhā…pe… mohajā pariḷāhā kāyikā vā cetasikā vā yehi so mohajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyyā’’ti?
"What do you think, prince, would there arise for that householder or householder's son, fevers born of hatred... fevers born of delusion, physical or mental, burning with which fevers born of delusion he would sleep miserably?"
“Này thanh niên, ngươi nghĩ sao, liệu những sự thiêu đốt do sân hận… hoặc những sự thiêu đốt do si mê, hoặc thuộc về thân, hoặc thuộc về tâm, có phát sinh nơi gia chủ hay con trai gia chủ ấy không, mà do những sự thiêu đốt do si mê ấy, người ấy phải nằm ngủ trong khổ sở?”
‘‘Evaṃ, bhante’’ti.
"Yes, Venerable Sir."
“Bạch Thế Tôn, có ạ.”
‘‘Ye hi kho so, kumāra, gahapati vā gahapatiputto vā mohajehi pariḷāhehi pariḍayhamāno dukkhaṃ sayeyya, so moho tathāgatassa pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato āyatiṃ anuppādadhammo.
"Prince, that delusion by which that householder or householder's son, burning with fevers born of delusion, would sleep miserably—that delusion has been abandoned by the Tathāgata, its root cut off, made like a palm-stump, brought to non-existence, not liable to arise again in the future.
“Này thanh niên, si mê mà do đó gia chủ hay con trai gia chủ ấy phải nằm ngủ trong khổ sở, si mê ấy đã được Như Lai đoạn trừ, nhổ tận gốc rễ, làm cho như cây thốt nốt bị chặt đứt, không còn khả năng tái sinh, không thể phát sinh trong tương lai.
Tasmāhaṃ sukhamasayittha’’nti.
Therefore, I slept comfortably."
Vì vậy, Ta đã ngủ an lành.”
36. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, devadūtāni.
36. "Monks, these are three divine messengers.
36. “Này các Tỳ-khưu, có ba sứ giả của chúa tể cái chết.
Katamāni tīṇi?
Which three?
Thế nào là ba?
Idha, bhikkhave, ekacco kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati.
Here, monks, a certain one performs misconduct by body, performs misconduct by speech, performs misconduct by mind.
Ở đây, này các Tỳ-khưu, một số người thực hành ác hạnh bằng thân, thực hành ác hạnh bằng lời, thực hành ác hạnh bằng ý.
So kāyena duccaritaṃ caritvā, vācāya duccaritaṃ caritvā, manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Having performed misconduct by body, having performed misconduct by speech, having performed misconduct by mind, at the breaking up of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, a bad destination, a downfall, in hell.
Sau khi thực hành ác hạnh bằng thân, thực hành ác hạnh bằng lời, thực hành ác hạnh bằng ý, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy tái sinh vào cõi khổ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā nānābāhāsu gahetvā yamassa rañño dassenti – ‘ayaṃ, deva, puriso amatteyyo apetteyyo asāmañño abrahmañño, na kule jeṭṭhāpacāyī.
Then, monks, the hell-wardens, seizing him by various arms, show him to King Yama—'This person, O king, is disrespectful to his mother, disrespectful to his father, disrespectful to ascetics, disrespectful to brahmins, not honoring the elders in the family.
Này các Tỳ-khưu, các cai ngục địa ngục nắm lấy người ấy ở nhiều cánh tay và trình lên đức vua Yama: ‘Thưa Đại vương, người này không hiếu thảo với mẹ, không hiếu thảo với cha, không tôn kính các Sa-môn, không tôn kính các Bà-la-môn, không kính trọng người lớn tuổi trong gia đình.
Imassa devo daṇḍaṃ paṇetū’’’ti.
Let the king inflict punishment upon him.'"
Xin Đại vương hãy giáng hình phạt cho người này.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā paṭhamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho, purisa, na tvaṃ addasa manussesu paṭhamaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
"Then, monks, King Yama questions, examines, and addresses him concerning the first divine messenger—'O good man, did you not see the first divine messenger appear among humans?'
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama hỏi han, tra vấn, chất vấn người ấy về sứ giả đầu tiên của chúa tể cái chết: ‘Này người kia, ngươi có thấy sứ giả đầu tiên của chúa tể cái chết xuất hiện giữa loài người không?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He says, 'No, Venerable Sir.'"
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi không thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā āsītikaṃ vā nāvutikaṃ vā vassasatikaṃ vā* jātiyā jiṇṇaṃ gopānasivaṅkaṃ bhoggaṃ daṇḍaparāyaṇaṃ* pavedhamānaṃ gacchantaṃ āturaṃ gatayobbanaṃ khaṇḍadantaṃ palitakesaṃ vilūnaṃ khallitasiraṃ* valitaṃ tilakāhatagatta’nti?
"Then, monks, King Yama says to him—'O good man, did you not see among humans a woman or a man, eighty or ninety or a hundred years old by birth, aged, bent like a roof-rafter, stooping, leaning on a staff, trembling as they walked, afflicted, past their youth, with broken teeth, gray hair, sparse or bald head, wrinkled, with a body covered in liver spots?'
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, ngươi có thấy giữa loài người một người phụ nữ hay một người đàn ông, tám mươi, chín mươi, hay một trăm tuổi, đã già yếu, lưng còng như đòn gánh, khom lưng, phải chống gậy mà đi, run rẩy bước đi, đau ốm, tuổi trẻ đã qua, răng rụng, tóc bạc, đầu hói, da nhăn nheo, thân thể đầy đốm tàn nhang không?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He says, 'Yes, Venerable Sir.'"
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho, purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi jarādhammo jaraṃ anatīto, handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi, kāyena vācāya manasā’ti?
"Then, monks, King Yama says to him—'O good man, when you were discerning and old, did it not occur to you: "I too am subject to old age, not beyond old age; let me now do what is wholesome, by body, by speech, by mind"?'
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, khi ngươi còn là người có trí tuệ và đã lớn tuổi, lẽ nào ngươi không nghĩ rằng: “Ta cũng là người có bản chất già yếu, không thể tránh khỏi già yếu, vậy ta hãy làm điều thiện lành bằng thân, bằng lời, bằng ý”?’
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante.
He says, 'I could not, Venerable Sir.
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi không thể.
Pamādassaṃ, bhante’’’ti.
I was heedless, Venerable Sir.'"
Bạch đại vương, tôi đã lơ là.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho, purisa, pamādatāya* na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
"Then, monks, King Yama says to him—'O good man, because of your heedlessness, you did not do what was wholesome by body, by speech, by mind.
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, vì sự lơ là ấy, ngươi đã không làm điều thiện lành bằng thân, bằng lời, bằng ý.
Taggha tvaṃ* , ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ* pamattaṃ.
“Indeed, O man, they will deal with you as they deal with the negligent.
Thật vậy, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi như đối với người lơ là.
Taṃ kho pana te etaṃ* pāpakammaṃ* neva mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ; atha kho tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
Indeed, this evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brothers, nor by your sisters, nor by your friends and companions, nor by your kinsfolk, nor by deities, nor by recluses and brahmins; but truly, this evil deed was done by you alone, and you alone will experience its result.”
Hành vi ác nghiệp ấy của ngươi không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh em làm, không phải do chị em làm, không phải do bạn bè, người thân làm, không phải do bà con thân thuộc làm, không phải do chư thiên làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm; mà chính ngươi đã làm hành vi ác nghiệp ấy, chính ngươi sẽ gánh chịu quả báo của nó.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā paṭhamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā, dutiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu dutiyaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama, having questioned, examined, and admonished him regarding the first divine messenger, questions, examines, and admonishes him regarding the second divine messenger: ‘O man, did you not see the second divine messenger appearing among humans?’
“Này các Tỳ-khưu, sau khi hỏi han, tra vấn, chất vấn người ấy về sứ giả đầu tiên của chúa tể cái chết, đức vua Yama hỏi han, tra vấn, chất vấn người ấy về sứ giả thứ hai của chúa tể cái chết: ‘Này người kia, ngươi có thấy sứ giả thứ hai của chúa tể cái chết xuất hiện giữa loài người không?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’ti.
He replies: ‘I did not, venerable sir.’
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi không thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā ābādhikaṃ dukkhitaṃ bāḷhagilānaṃ, sake muttakarīse palipannaṃ semānaṃ, aññehi vuṭṭhāpiyamānaṃ, aññehi saṃvesiyamāna’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, did you not see among humans a woman or a man afflicted, suffering, gravely ill, lying in their own urine and feces, being lifted up by others, being put to bed by others?’
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, ngươi có thấy giữa loài người một người phụ nữ hay một người đàn ông đang bệnh tật, đau khổ, ốm nặng, nằm trên phân và nước tiểu của chính mình, được người khác nâng dậy, được người khác đặt nằm xuống không?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘I did, venerable sir.’”
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi byādhidhammo byādhiṃ anatīto, handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, when you were discerning and mature, did it not occur to you: “I too am subject to illness, not beyond illness; let me now do good by body, speech, and mind”?’
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, khi ngươi còn là người có trí tuệ và đã lớn tuổi, lẽ nào ngươi không nghĩ rằng: “Ta cũng là người có bản chất bệnh tật, không thể tránh khỏi bệnh tật, vậy ta hãy làm điều thiện lành bằng thân, bằng lời, bằng ý”?’
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante.
He replies: ‘I was unable, venerable sir.
Người ấy đáp: ‘Bạch đại vương, tôi không thể.
Pamādassaṃ, bhante’’’ti.
I was negligent, venerable sir.’”
Bạch đại vương, tôi đã lơ là.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, because of your negligence, you did not do good by body, speech, and mind.
“Này các Tỳ-khưu, đức vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, vì sự lơ là ấy, ngươi đã không làm điều thiện lành bằng thân, bằng lời, bằng ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, O man, they will deal with you as they deal with the negligent.
Thật vậy, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi như đối với người lơ là.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ; atha kho tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ.
Indeed, this evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brothers, nor by your sisters, nor by your friends and companions, nor by your kinsfolk, nor by deities, nor by recluses and brahmins; but truly, this evil deed was done by you alone.
Hành vi ác nghiệp ấy của ngươi không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh em làm, không phải do chị em làm, không phải do bạn bè, người thân làm, không phải do bà con thân thuộc làm, không phải do chư thiên làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm; mà chính ngươi đã làm hành vi ác nghiệp ấy.
Tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
You alone will experience its result.’”
Chính ngươi sẽ gánh chịu quả báo của nó.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā dutiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā, tatiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu tatiyaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama, having questioned, examined, and admonished him regarding the second divine messenger, questions, examines, and admonishes him regarding the third divine messenger: ‘O man, did you not see the third divine messenger appearing among humans?’
‘‘Này các Tỳ-khưu, Vua Yama sau khi thẩm vấn, điều tra, và chất vấn sứ giả thứ hai của chư Thiên, lại thẩm vấn, điều tra, và chất vấn sứ giả thứ ba của chư Thiên: ‘Này người kia, ngươi không thấy sứ giả thứ ba của chư Thiên xuất hiện giữa loài người sao?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘I did not, venerable sir.’”
Vị ấy trả lời: ‘Bạch ngài, tôi không thấy.’
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā ekāhamataṃ vā dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā uddhumātakaṃ vinīlakaṃ vipubbakajāta’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, did you not see among humans a woman or a man, dead for one day, or two days, or three days, bloated, discolored, festering?’
‘‘Này các Tỳ-khưu, Vua Yama nói với vị ấy: ‘Này người kia, ngươi không thấy giữa loài người một người đàn bà hay một người đàn ông chết một ngày, hai ngày, hay ba ngày, thân thể trương phình, xanh xám, đầy mủ sao?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘I did, venerable sir.’”
Vị ấy trả lời: ‘Bạch ngài, tôi có thấy.’
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi maraṇadhammo maraṇaṃ anatīto, handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, when you were discerning and mature, did it not occur to you: “I too am subject to death, not beyond death; let me now do good by body, speech, and mind”?’
‘‘Này các Tỳ-khưu, Vua Yama nói với vị ấy: ‘Này người kia, khi ngươi có trí tuệ và đã trưởng thành, ngươi không nghĩ rằng: “Ta cũng là người có bản chất phải chết, không thể thoát khỏi cái chết, vậy ta hãy làm điều lành bằng thân, khẩu, ý” sao?’
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante.
He replies: ‘I was unable, venerable sir.
Vị ấy trả lời: ‘Bạch ngài, tôi không thể.
Pamādassaṃ, bhante’’’ti.
I was negligent, venerable sir.’”
Bạch ngài, tôi đã phóng dật.’
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘O man, because of your negligence, you did not do good by body, speech, and mind.
‘‘Này các Tỳ-khưu, Vua Yama nói với vị ấy: ‘Này người kia, vì phóng dật nên ngươi đã không làm điều lành bằng thân, khẩu, ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, O man, they will deal with you as they deal with the negligent.
Này người kia, chắc chắn họ sẽ đối xử với ngươi như một kẻ phóng dật.’
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ; atha kho tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ.
Indeed, this evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brothers, nor by your sisters, nor by your friends and companions, nor by your kinsfolk, nor by deities, nor by recluses and brahmins; but truly, this evil deed was done by you alone.
“Này người ấy, ác nghiệp đó không phải do mẹ ngươi làm, không phải do cha ngươi làm, không phải do anh em ngươi làm, không phải do chị em ngươi làm, không phải do bạn bè thân hữu ngươi làm, không phải do bà con huyết thống ngươi làm, không phải do chư thiên làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm; mà ác nghiệp đó chính là do ngươi tự làm.
Tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
You alone will experience its result.’”
Chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó.””
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā tatiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā tuṇhī hoti.
“Then, bhikkhus, King Yama, having questioned, examined, and admonished him regarding the third divine messenger, remains silent.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama đã thẩm vấn, truy cứu, và khiển trách sứ giả chư thiên thứ ba đó xong, thì im lặng.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā pañcavidhabandhanaṃ nāma kāraṇaṃ karonti.
Monks, the hell-wardens inflict upon him a torment called the five-fold binding.
Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt liền thực hiện hình phạt gọi là “năm cách trói buộc” đối với người ấy.
Tattaṃ ayokhilaṃ hatthe gamenti.
They drive a heated iron stake into one hand.
Họ đóng một cây đinh sắt nung đỏ vào một bàn tay.
Tattaṃ ayokhilaṃ dutiyasmiṃ hatthe gamenti.
They drive a heated iron stake into the second hand.
Họ đóng một cây đinh sắt nung đỏ vào bàn tay thứ hai.
Tattaṃ ayokhilaṃ pāde gamenti.
They drive a heated iron stake into one foot.
Họ đóng một cây đinh sắt nung đỏ vào một bàn chân.
Tattaṃ ayokhilaṃ dutiyasmiṃ pāde gamenti.
They drive a heated iron stake into the second foot.
Họ đóng một cây đinh sắt nung đỏ vào bàn chân thứ hai.
Tattaṃ ayokhilaṃ majjhe urasmiṃ gamenti.
They drive a heated iron stake into the middle of his chest.
Họ đóng một cây đinh sắt nung đỏ vào giữa ngực.
So tattha dukkhā tibbā* kharā kaṭukā vedanā vediyati, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy ở đó cảm thọ những cảm giác khổ đau dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng; và người ấy không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā saṃvesetvā* kudhārīhi tacchanti.
“Monks, the hell-wardens lay him down and chop him with axes.
“Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt đặt người ấy nằm xuống và dùng rìu sắc bén đẽo gọt.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vediyati, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy ở đó cảm thọ những cảm giác khổ đau dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng; và người ấy không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā vāsīhi tacchanti…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā rathe yojetvā ādittāya bhūmiyā sampajjalitāya sajotibhūtāya* sārentipi paccāsārentipi…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā mahantaṃ aṅgārapabbataṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ āropentipi oropentipi…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā tattāya lohakumbhiyā pakkhipanti, ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya.
“Monks, the hell-wardens seize him by the feet, head downwards, and chop him with adzes… Monks, the hell-wardens yoke him to a chariot and make him go back and forth on a blazing, flaming, glowing ground… Monks, the hell-wardens make him ascend and descend a great mountain of glowing, blazing, flaming coals… Monks, the hell-wardens seize him by the feet, head downwards, and throw him into a heated, blazing, flaming iron cauldron.
“Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt nắm chân người ấy dốc ngược đầu xuống và dùng rìu đẽo gọt…pe… Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt cột người ấy vào xe và kéo đi, kéo lại trên một mặt đất đang bốc cháy, rực lửa, sáng chói…pe… Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt đưa người ấy lên và xuống một ngọn núi than hồng lớn đang bốc cháy, rực lửa, sáng chói…pe… Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt nắm chân người ấy dốc ngược đầu xuống và ném vào một cái vạc sắt nung đỏ, đang bốc cháy, rực lửa, sáng chói.
So tattha pheṇuddehakaṃ paccamāno sakimpi uddhaṃ gacchati, sakimpi adho gacchati, sakimpi tiriyaṃ gacchati.
There, as he is cooked, he rises to the top at one time, sinks to the bottom at another time, and moves sideways at another time, emitting foam.
Người ấy ở đó đang bị nấu sôi, nổi bọt, khi thì trồi lên, khi thì chìm xuống, khi thì trôi ngang.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vediyati, na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy ở đó cảm thọ những cảm giác khổ đau dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng; và người ấy không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā mahāniraye pakkhipanti.
Monks, the hell-wardens throw him into the Great Hell.
Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt ném người ấy vào đại địa ngục.
So kho pana, bhikkhave, mahānirayo –
And, monks, that Great Hell is—
Này các Tỳ-khưu, đại địa ngục đó –
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, yamassa rañño etadahosi – ‘ye kira, bho, loke pāpakāni kammāni karonti te evarūpā vividhā kammakāraṇā karīyanti.
“Monks, it happened once that King Yama thought: ‘Indeed, those who commit evil deeds in the world are subjected to such various torments.
“Này các Tỳ-kheo, thuở xưa, vua Yama đã có ý nghĩ này: ‘Hỡi chư vị, những kẻ nào làm các ác nghiệp trên đời thì sẽ bị hành hạ bằng những hình phạt nghiệp báo muôn hình vạn trạng như thế này.
Aho vatāhaṃ manussattaṃ labheyyaṃ, tathāgato ca loke uppajjeyya arahaṃ sammāsambuddho, tañcāhaṃ bhagavantaṃ payirupāseyyaṃ.
Oh, if only I could attain human existence, and a Tathāgata, an Arahant, a Perfectly Self-Enlightened One, would arise in the world, and I would attend upon that Blessed One.
Ôi, ước gì ta có thể đạt được thân người, và một vị Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên đời, và ta có thể phụng sự vị Thế Tôn ấy.
So ca me bhagavā dhammaṃ deseyya, tassa cāhaṃ bhagavato dhammaṃ ājāneyya’nti.
And that Blessed One would teach me the Dhamma, and I would understand the Dhamma of that Blessed One.’
Vị Thế Tôn ấy sẽ thuyết pháp cho ta, và ta sẽ thấu hiểu Pháp của vị Thế Tôn ấy.’
Taṃ kho panāhaṃ, bhikkhave, na aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā sutvā evaṃ vadāmi, api ca kho, bhikkhave, yadeva me sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadevāhaṃ vadāmī’’ti.
Monks, I do not say this having heard it from any other ascetic or brahmin; rather, monks, I say only what I myself have known, seen, and realized.”
Này các Tỳ-kheo, ta nói điều này không phải vì nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, mà này các Tỳ-kheo, ta chỉ nói những gì ta tự mình đã biết, tự mình đã thấy, tự mình đã chứng ngộ.”
37. ‘‘Aṭṭhamiyaṃ, bhikkhave, pakkhassa catunnaṃ mahārājānaṃ amaccā pārisajjā imaṃ lokaṃ anuvicaranti – ‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.
37. “Monks, on the eighth day of the fortnight, the ministers and councillors of the Four Great Kings wander through this world—‘Are there many people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to ascetics, devoted to brahmins, respectful to the elders in their family, who observe the Uposatha, keep vigil, and perform meritorious deeds?’
“Này các Tỳ-kheo, vào ngày mùng tám của nửa tháng, các quan đại thần và hội đồng của bốn vị Đại Thiên Vương tuần tra thế gian này để xem: ‘Có bao nhiêu người trong nhân loại hiếu thảo với mẹ, hiếu thảo với cha, kính trọng các Sa-môn, kính trọng các Bà-la-môn, tôn kính các trưởng lão trong gia đình, giữ giới Uposatha, thức đêm và làm các việc phước thiện?’
Cātuddasiṃ, bhikkhave, pakkhassa catunnaṃ mahārājānaṃ puttā imaṃ lokaṃ anuvicaranti – ‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.
On the fourteenth day of the fortnight, monks, the sons of the Four Great Kings wander about this world, thinking: ‘Are there many people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds?’
Này các Tỳ-kheo, vào ngày mười bốn của nửa tháng, các con trai của bốn vị Đại Thiên Vương tuần tra thế gian này để xem: ‘Có bao nhiêu người trong nhân loại hiếu thảo với mẹ, hiếu thảo với cha, kính trọng các Sa-môn, kính trọng các Bà-la-môn, tôn kính các trưởng lão trong gia đình, giữ giới Uposatha, thức đêm và làm các việc phước thiện?’
Tadahu, bhikkhave, uposathe pannarase cattāro mahārājāno sāmaññeva imaṃ lokaṃ anuvicaranti – ‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’’’ti.
On the fifteenth Uposatha day, monks, the Four Great Kings themselves wander about this world, thinking: ‘Are there many people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds?’
Này các Tỳ-kheo, vào ngày Uposatha rằm, bốn vị Đại Thiên Vương tự mình tuần tra thế gian này để xem: ‘Có bao nhiêu người trong nhân loại hiếu thảo với mẹ, hiếu thảo với cha, kính trọng các Sa-môn, kính trọng các Bà-la-môn, tôn kính các trưởng lão trong gia đình, giữ giới Uposatha, thức đêm và làm các việc phước thiện?’”
‘‘Sace, bhikkhave, appakā honti manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karonti.
“If, monks, there are few people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds,
“Này các Tỳ-kheo, nếu có ít người trong nhân loại hiếu thảo với mẹ, hiếu thảo với cha, kính trọng các Sa-môn, kính trọng các Bà-la-môn, tôn kính các trưởng lão trong gia đình, giữ giới Uposatha, thức đêm và làm các việc phước thiện.
Tamenaṃ, bhikkhave, cattāro mahārājāno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sudhammāya sabhāya sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ārocenti – ‘appakā kho, mārisā, manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.
then, monks, the Four Great Kings report this to the devas of Tāvatiṃsa, who are assembled and gathered in the Sudhammā assembly hall: ‘Sirs, there are few people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds.’
Này các Tỳ khưu, Tứ Đại Thiên Vương bèn trình báo điều ấy lên các chư thiên Tāvatiṃsa, khi họ đang ngồi họp trong pháp đường Sudhammā: ‘Thưa quý ngài, thật ít ỏi thay những người trong loài người biết hiếu kính mẹ, hiếu kính cha, kính trọng Sa-môn, kính trọng Bà-la-môn, tôn trọng bậc trưởng thượng trong gia đình, thực hành ngày Uposatha, tỉnh thức và làm các việc phước thiện.’
Tena kho, bhikkhave, devā tāvatiṃsā anattamanā honti – ‘dibbā vata, bho, kāyā parihāyissanti, paripūrissanti asurakāyā’’’ti.
Because of this, monks, the devas of Tāvatiṃsa are displeased: ‘Alas, the divine bodies will diminish, and the asura bodies will increase!’”
Do đó, này các Tỳ khưu, các chư thiên Tāvatiṃsa không hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Ôi, các thiên chúng sẽ suy giảm, còn các chúng a-tu-la sẽ tăng trưởng!’”
‘‘Sace pana, bhikkhave, bahū honti manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karonti.
“But if, monks, there are many people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds,
“Nhưng nếu, này các Tỳ khưu, có nhiều người trong loài người biết hiếu kính mẹ, hiếu kính cha, kính trọng Sa-môn, kính trọng Bà-la-môn, tôn trọng bậc trưởng thượng trong gia đình, thực hành ngày Uposatha, tỉnh thức và làm các việc phước thiện.
Tamenaṃ, bhikkhave, cattāro mahārājāno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sudhammāya sabhāya sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ārocenti – ‘bahū kho, mārisā, manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṃ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.
then, monks, the Four Great Kings report this to the devas of Tāvatiṃsa, who are assembled and gathered in the Sudhammā assembly hall: ‘Sirs, there are many people among humans who are devoted to their mothers, devoted to their fathers, devoted to recluses, devoted to brahmins, reverential to their elders in the family, who observe the Uposatha, who keep vigil, who perform meritorious deeds.’
Này các Tỳ khưu, Tứ Đại Thiên Vương bèn trình báo điều ấy lên các chư thiên Tāvatiṃsa, khi họ đang ngồi họp trong pháp đường Sudhammā: ‘Thưa quý ngài, thật nhiều thay những người trong loài người biết hiếu kính mẹ, hiếu kính cha, kính trọng Sa-môn, kính trọng Bà-la-môn, tôn trọng bậc trưởng thượng trong gia đình, thực hành ngày Uposatha, tỉnh thức và làm các việc phước thiện.’
Tena, bhikkhave, devā tāvatiṃsā attamanā honti – ‘dibbā vata, bho, kāyā paripūrissanti, parihāyissanti asurakāyā’’’ti.
Because of this, monks, the devas of Tāvatiṃsa are pleased: ‘Alas, the divine bodies will increase, and the asura bodies will diminish!’”
Do đó, này các Tỳ khưu, các chư thiên Tāvatiṃsa hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Ôi, các thiên chúng sẽ tăng trưởng, còn các chúng a-tu-la sẽ suy giảm!’”
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –
“Formerly, monks, Sakka, the lord of devas, admonishing the devas of Tāvatiṃsa, on that occasion uttered this verse:
“Này các Tỳ khưu, thuở xưa, Sakka, vua của các chư thiên, trong khi khuyến khích các chư thiên Tāvatiṃsa, vào lúc ấy đã nói lên bài kệ này:
‘‘Sā kho panesā, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthā duggītā na sugītā dubbhāsitā na subhāsitā.
“But, monks, that verse was ill-sung, not well-sung, ill-spoken, not well-spoken by Sakka, the lord of devas.
“Này các Tỳ khưu, bài kệ ấy của Sakka, vua của các chư thiên, là kệ được hát không hay, không phải hát hay; được nói không khéo, không phải nói khéo.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì cớ sao?
Sakko hi, bhikkhave, devānamindo avītarāgo avītadoso avītamoho.
Because, monks, Sakka, the lord of devas, is not free from lust, not free from hatred, not free from delusion.
Vì này các Tỳ khưu, Sakka, vua của các chư thiên, chưa đoạn trừ tham, chưa đoạn trừ sân, chưa đoạn trừ si.
‘‘Yo ca kho so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā brahmacariyo katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññā vimutto, tassa kho etaṃ, bhikkhave, bhikkhuno* kallaṃ vacanāya –
“But, monks, for that bhikkhu who is an arahant, whose taints are destroyed, who has lived the holy life, who has done what had to be done, who has laid down the burden, who has attained his own goal, whose fetters of existence are utterly destroyed, who is liberated by perfect knowledge, it is proper for that bhikkhu, monks, to say:
“Nhưng này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã sống đời phạm hạnh, đã làm việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy mới thích hợp để nói lên lời này:
38. ‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṃse anunayamāno tāyaṃ velāyaṃ imaṃ gāthaṃ abhāsi –
38. “Formerly, monks, Sakka, the lord of devas, admonishing the devas of Tāvatiṃsa, on that occasion uttered this verse:
38. “Này các Tỳ khưu, thuở xưa, Sakka, vua của các chư thiên, trong khi khuyến khích các chư thiên Tāvatiṃsa, vào lúc ấy đã nói lên bài kệ này:
‘‘Sā kho panesā, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthā duggītā na sugītā dubbhāsitā na subhāsitā.
“But, monks, that verse was ill-sung, not well-sung, ill-spoken, not well-spoken by Sakka, the lord of devas.
“Này các Tỳ khưu, bài kệ ấy của Sakka, vua của các chư thiên, là kệ được hát không hay, không phải hát hay; được nói không khéo, không phải nói khéo.
Taṃ kissa hetu?
For what reason?
Vì cớ sao?
Sakko hi, bhikkhave, devānamindo aparimutto jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi, aparimutto dukkhasmāti vadāmi.
Indeed, monks, Sakka, the lord of devas, is not freed from birth, aging, death, sorrows, lamentations, pains, displeasures, and despair; I say he is not freed from suffering.
Vì này các Tỳ khưu, Sakka, vua của các chư thiên, chưa giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng, vị ấy chưa giải thoát khỏi khổ.
‘‘Yo ca kho so, bhikkhave, bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññā vimutto, tassa kho etaṃ, bhikkhave, bhikkhuno kallaṃ vacanāya –
But, monks, for that bhikkhu who is an Arahant, whose taints are destroyed, who has lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, attained his own true goal, whose fetters of existence are destroyed, who is rightly liberated through final knowledge, it is fitting for that bhikkhu, monks, to say:
“Nhưng này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã sống đời phạm hạnh, đã làm việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích tối hậu, đã đoạn tận hữu kiết sử, đã giải thoát nhờ chánh trí, này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy mới thích hợp để nói lên lời này:
‘‘Taṃ kissa hetu?
‘For what reason?
“Vì cớ sao?
So hi, bhikkhave, bhikkhu parimutto jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi, parimutto dukkhasmāti vadāmī’’ti.
Indeed, monks, that bhikkhu is freed from birth, aging, death, sorrows, lamentations, pains, displeasures, and despair; I say he is freed from suffering.’
Vì này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy đã giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não; Ta nói rằng, vị ấy đã giải thoát khỏi khổ.”
Aṭṭhamaṃ.
The Eighth.
Thứ tám.
39. ‘‘Sukhumālo ahaṃ, bhikkhave, paramasukhumālo accantasukhumālo.
“Monks, I was delicate, exceedingly delicate, supremely delicate.
39. “Này các Tỳ khưu, Ta vốn tế nhị, vô cùng tế nhị, cực kỳ tế nhị.
Mama sudaṃ, bhikkhave, pitu nivesane pokkharaṇiyo kāritā honti.
Monks, in my father’s palace, ponds were made for me.
Này các Tỳ khưu, trong cung điện của phụ vương Ta, người ta đã cho làm những hồ sen.
Ekattha sudaṃ, bhikkhave, uppalaṃ vappati* , ekattha padumaṃ, ekattha puṇḍarīkaṃ, yāvadeva mamatthāya.
In one, monks, blue water lilies were planted; in another, white lotuses; in another, red lotuses, solely for my use.
Này các Tỳ khưu, một hồ trồng sen xanh, một hồ trồng sen hồng, một hồ trồng sen trắng, chỉ dành riêng cho Ta.
Na kho panassāhaṃ, bhikkhave, akāsikaṃ candanaṃ dhāremi* .
Monks, I did not wear sandalwood that was not from Kasi.
Này các Tỳ khưu, Ta không dùng loại gỗ chiên-đàn nào không phải từ xứ Kāsī.
Kāsikaṃ, bhikkhave, su me taṃ veṭhanaṃ hoti, kāsikā kañcukā, kāsikaṃ nivāsanaṃ, kāsiko uttarāsaṅgo.
Monks, my turban was from Kasi, my tunic from Kasi, my lower garment from Kasi, my upper robe from Kasi.
Này các Tỳ khưu, khăn vàn của Ta là từ xứ Kāsī, áo trong của Ta là từ xứ Kāsī, y phục của Ta là từ xứ Kāsī, thượng y của Ta là từ xứ Kāsī.
Rattindivaṃ* kho pana me su taṃ, bhikkhave, setacchattaṃ dhārīyati – ‘mā naṃ phusi sītaṃ vā uṇhaṃ vā tiṇaṃ vā rajo vā ussāvo vā’’’ti.
Monks, a white parasol was held over me day and night—‘May no cold, heat, grass, dust, or dew touch him.’”
Này các Tỳ khưu, cả ngày lẫn đêm, một chiếc lọng trắng luôn được che cho Ta, với ý nghĩ: ‘Mong rằng lạnh, nóng, cỏ, bụi hay sương đừng chạm vào người.’”
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, tayo pāsādā ahesuṃ – eko hemantiko, eko gimhiko, eko vassiko.
“Monks, I had three palaces—one for the winter, one for the summer, and one for the rainy season.
“Này các Tỳ khưu, Ta có ba cung điện: một cho mùa đông, một cho mùa hạ, và một cho mùa mưa.
So kho ahaṃ, bhikkhave, vassike pāsāde vassike cattāro māse nippurisehi tūriyehi paricārayamāno* na heṭṭhāpāsādaṃ orohāmi.
Monks, during the four months of the rainy season, I would stay in the rainy season palace, entertained by female musicians, and would not descend to the lower part of the palace.
Này các Tỳ khưu, tại cung điện mùa mưa, trong bốn tháng mùa mưa, Ta được các nhạc công nữ phục vụ, và Ta không hề đi xuống tầng dưới của cung điện.
Yathā kho pana, bhikkhave, aññesaṃ nivesane dāsakammakaraporisassa kaṇājakaṃ bhojanaṃ dīyati bilaṅgadutiyaṃ, evamevassu me, bhikkhave, pitu nivesane dāsakammakaraporisassa sālimaṃsodano dīyati.
Monks, just as in the homes of others, servants, laborers, and workers are given broken rice with sour gruel as a second dish, so too, monks, in my father’s palace, servants, laborers, and workers were given fine rice mixed with meat.”
Và này các Tỳ khưu, trong khi ở các gia đình khác, người hầu kẻ hạ được cho ăn cơm tấm với cháo chua, thì trong cung điện của phụ vương Ta, người hầu kẻ hạ được cho ăn cơm nấu bằng gạo thơm và thịt.
‘‘Tassa mayhaṃ, bhikkhave, evarūpāya iddhiyā samannāgatassa evarūpena ca sukhumālena etadahosi – ‘assutavā kho puthujjano attanā jarādhammo samāno jaraṃ anatīto paraṃ jiṇṇaṃ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṃyeva atisitvā, ahampi khomhi jarādhammo jaraṃ anatīto.
“Monks, for me, endowed with such prosperity and such delicacy, this thought arose: ‘Indeed, an untaught ordinary person, being subject to aging and not having overcome aging, seeing another who is old, is distressed, ashamed, and disgusted, overlooking himself. I too am subject to aging and have not overcome aging.
“Này các Tỳ khưu, được hưởng sự sung túc như vậy, với sự tế nhị như vậy, Ta đã suy nghĩ thế này: ‘Phàm phu ít nghe, dù tự mình có bản chất phải già, không thoát khỏi sự già, khi thấy người khác già, lại lo lắng, hổ thẹn, ghê tởm, mà quên mất chính mình. Ta cũng có bản chất phải già, không thoát khỏi sự già.
Ahañceva* kho pana jarādhammo samāno jaraṃ anatīto paraṃ jiṇṇaṃ disvā aṭṭīyeyyaṃ harāyeyyaṃ jiguccheyyaṃ na metaṃ assa patirūpa’nti.
If I, being subject to aging and not having overcome aging, were to see another who is old and be distressed, ashamed, and disgusted, that would not be proper for me.’
Nếu Ta, dù có bản chất phải già, không thoát khỏi sự già, lại lo lắng, hổ thẹn, ghê tởm khi thấy người khác già, thì điều đó không thích hợp với Ta.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo yobbane yobbanamado so sabbaso pahīyi.
Monks, as I reflected thus, whatever intoxication with youth there was in my youth was completely abandoned.
Này các Tỳ khưu, khi Ta quán xét như vậy, sự kiêu hãnh về tuổi trẻ trong Ta đã hoàn toàn biến mất.
‘‘Assutavā kho puthujjano attanā byādhidhammo samāno byādhiṃ anatīto paraṃ byādhitaṃ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṃyeva atisitvā – ‘ahampi khomhi byādhidhammo byādhiṃ anatīto, ahañceva kho pana byādhidhammo samāno byādhiṃ anatīto paraṃ byādhikaṃ disvā aṭṭīyeyyaṃ harāyeyyaṃ jiguccheyyaṃ, na metaṃ assa patirūpa’nti.
‘Indeed, an untaught ordinary person, being subject to sickness and not having overcome sickness, seeing another who is sick, is distressed, ashamed, and disgusted, overlooking himself. I too am subject to sickness and have not overcome sickness. If I, being subject to sickness and not having overcome sickness, were to see another who is sick and be distressed, ashamed, and disgusted, that would not be proper for me.’
“‘Phàm phu ít nghe, dù tự mình có bản chất phải bệnh, không thoát khỏi bệnh tật, khi thấy người khác bệnh, lại lo lắng, hổ thẹn, ghê tởm, mà quên mất chính mình. Ta cũng có bản chất phải bệnh, không thoát khỏi bệnh tật. Nếu Ta, dù có bản chất phải bệnh, không thoát khỏi bệnh tật, lại lo lắng, hổ thẹn, ghê tởm khi thấy người khác bệnh, thì điều đó không thích hợp với Ta.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo ārogye ārogyamado so sabbaso pahīyi.
Monks, as I reflected thus, whatever intoxication with health there was in my health was completely abandoned.
Này các Tỳ khưu, khi Ta quán xét như vậy, sự kiêu hãnh về sức khỏe trong Ta đã hoàn toàn biến mất.
‘‘Assutavā kho puthujjano attanā maraṇadhammo samāno maraṇaṃ anatīto paraṃ mataṃ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṃyeva atisitvā – ‘ahampi khomhi maraṇadhammo, maraṇaṃ anatīto, ahaṃ ceva kho pana maraṇadhammo samāno maraṇaṃ anatīto paraṃ mataṃ disvā aṭṭīyeyyaṃ harāyeyyaṃ jiguccheyyaṃ, na metaṃ assa patirūpa’nti.
‘Indeed, an untaught ordinary person, being subject to death and not having overcome death, seeing another who is dead, is distressed, ashamed, and disgusted, overlooking himself. I too am subject to death and have not overcome death. If I, being subject to death and not having overcome death, were to see another who is dead and be distressed, ashamed, and disgusted, that would not be proper for me.’
“Này chư Tỳ-khưu, một phàm nhân không có học vấn, tự mình là kẻ phải chết, chưa vượt thoát khỏi cái chết, khi thấy người khác đã chết thì cảm thấy đau khổ, hổ thẹn, ghê tởm, và tự nghĩ rằng: ‘Ta cũng là kẻ phải chết, chưa vượt thoát khỏi cái chết. Nếu ta, là kẻ phải chết, chưa vượt thoát khỏi cái chết, mà thấy người khác đã chết rồi lại cảm thấy đau khổ, hổ thẹn, ghê tởm, thì điều đó không phù hợp với ta.’
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo jīvite jīvitamado so sabbaso pahīyī’’ti.
Bhikkhus, as I reflected thus, the intoxication with life, which was in life, was completely abandoned by me."
Này chư Tỳ-khưu, khi ta quán xét như vậy, thì sự kiêu mạn về sự sống mà ta có đối với cuộc đời đã hoàn toàn được đoạn trừ.”
‘‘Tayome, bhikkhave, madā.
"Bhikkhus, there are these three intoxications.
“Này chư Tỳ-khưu, có ba loại kiêu mạn này.
Katame tayo?
Which three?
Ba loại nào?
Yobbanamado, ārogyamado, jīvitamado.
Intoxication with youth, intoxication with health, intoxication with life.
Kiêu mạn về tuổi trẻ, kiêu mạn về sức khỏe, kiêu mạn về sự sống.
Yobbanamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati.
Bhikkhus, an uninstructed ordinary person, intoxicated with youth, performs misconduct by body, by speech, and by mind.
Này chư Tỳ-khưu, một phàm nhân không có học vấn, bị say đắm bởi kiêu mạn về tuổi trẻ, hành động bất thiện bằng thân, hành động bất thiện bằng lời, hành động bất thiện bằng ý.
So kāyena duccaritaṃ caritvā, vācāya duccaritaṃ caritvā, manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Having performed misconduct by body, by speech, and by mind, upon the breaking up of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, a bad destination, a lower realm, hell.
Sau khi hành động bất thiện bằng thân, hành động bất thiện bằng lời, hành động bất thiện bằng ý, do thân hoại mạng chung, người ấy tái sinh vào cõi đọa xứ, ác thú, đường khổ, địa ngục.
Ārogyamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano…pe… jīvitamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati.
Bhikkhus, an uninstructed ordinary person, intoxicated with health…pe… Bhikkhus, an uninstructed ordinary person, intoxicated with life, performs misconduct by body, by speech, and by mind.
Hoặc này chư Tỳ-khưu, một phàm nhân không có học vấn, bị say đắm bởi kiêu mạn về sức khỏe… (như trên)… hoặc này chư Tỳ-khưu, một phàm nhân không có học vấn, bị say đắm bởi kiêu mạn về sự sống, hành động bất thiện bằng thân, hành động bất thiện bằng lời, hành động bất thiện bằng ý.
So kāyena duccaritaṃ caritvā, vācāya duccaritaṃ caritvā, manasā duccaritaṃ caritvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati.
Having performed misconduct by body, by speech, and by mind, upon the breaking up of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, a bad destination, a lower realm, hell.
Sau khi hành động bất thiện bằng thân, hành động bất thiện bằng lời, hành động bất thiện bằng ý, do thân hoại mạng chung, người ấy tái sinh vào cõi đọa xứ, ác thú, đường khổ, địa ngục.
‘‘Yobbanamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattati.
"Bhikkhus, a bhikkhu, intoxicated with youth, renounces the training and reverts to a lower state.
Này chư Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu bị say đắm bởi kiêu mạn về tuổi trẻ, từ bỏ giới luật, quay về đời sống thấp kém.
Ārogyamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu…pe… jīvitamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattatī’’ti.
Bhikkhus, a bhikkhu, intoxicated with health…pe… Bhikkhus, a bhikkhu, intoxicated with life, renounces the training and reverts to a lower state."
Này chư Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu bị say đắm bởi kiêu mạn về sức khỏe… (như trên)… một Tỳ-khưu bị say đắm bởi kiêu mạn về sự sống, từ bỏ giới luật, quay về đời sống thấp kém.”