261. Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
261. Thus have I heard: On one occasion the Blessed One was dwelling in Sāvatthī, at Jetavana, Anāthapiṇḍika’s monastery.
261. Tôi nghe như vầy: Một thời, Thế Tôn trú tại Xá-vệ, trong rừng Kỳ-đà, tại tịnh xá của ông Cấp Cô Độc.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti.
There the Blessed One addressed the bhikkhus thus: “Bhikkhus!”
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu!”
‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.
“Venerable sir!” replied those bhikkhus to the Blessed One.
Các Tỳ-khưu ấy vâng đáp Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn!”
Bhagavā etadavoca –
The Blessed One said this:
Thế Tôn đã nói như sau:
‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, dve agārā sadvārā* , tattha cakkhumā puriso majjhe ṭhito passeyya manusse gehaṃ pavisantepi nikkhamantepi anucaṅkamantepi anuvicarantepi; evameva kho ahaṃ, bhikkhave, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi – ‘ime vata bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā.
“Just as, bhikkhus, there might be two houses with facing doors, and a clear-sighted man standing in the middle would see people entering the house, exiting, walking about, and moving around; in the same way, bhikkhus, with the divine eye, purified and surpassing that of humans, I see beings passing away and reappearing, inferior and superior, beautiful and ugly, in a good destination and in a bad destination, and I understand beings according to their kamma: ‘These good sirs, endowed with good bodily conduct, good verbal conduct, and good mental conduct, not revilers of Noble Ones, holding right view, and undertaking actions in accordance with right view, at the breaking up of the body, after death, have reappeared in a good destination, in a heavenly world.
“Này các Tỳ-khưu, ví như có hai ngôi nhà có cửa đối diện nhau, một người có mắt đứng ở giữa có thể thấy những người đi vào nhà, đi ra khỏi nhà, đi tới đi lui, đi qua đi lại; cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Ta với thiên nhãn thanh tịnh, siêu việt loài người, thấy các chúng sinh đang chết đi, đang sinh lại, thấp kém, cao quý, tốt đẹp, xấu xí, sinh vào cõi lành, sinh vào cõi dữ, Ta biết rõ các chúng sinh tùy theo nghiệp của họ: ‘Than ôi, những chúng sinh này đã thực hành thân thiện hạnh, thực hành khẩu thiện hạnh, thực hành ý thiện hạnh, không phỉ báng các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ trì các nghiệp chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào cõi thiện, cõi trời.
Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manussesu upapannā.
Or these good sirs, endowed with good bodily conduct, good verbal conduct, and good mental conduct, not revilers of Noble Ones, holding right view, and undertaking actions in accordance with right view, at the breaking up of the body, after death, have reappeared among humans.
Hoặc than ôi, những chúng sinh này đã thực hành thân thiện hạnh, thực hành khẩu thiện hạnh, thực hành ý thiện hạnh, không phỉ báng các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ trì các nghiệp chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào cõi người.
Ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pettivisayaṃ upapannā.
Or these good sirs, endowed with bad bodily conduct, bad verbal conduct, and bad mental conduct, revilers of Noble Ones, holding wrong view, and undertaking actions in accordance with wrong view, at the breaking up of the body, after death, have reappeared in the realm of hungry ghosts.
Than ôi, những chúng sinh này đã thực hành thân ác hạnh, thực hành khẩu ác hạnh, thực hành ý ác hạnh, phỉ báng các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì các nghiệp tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào cảnh giới ngạ quỷ.
Ime vā pana bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā tiracchānayoniṃ upapannā.
Or these good sirs, endowed with bad bodily conduct, bad verbal conduct, and bad mental conduct, revilers of Noble Ones, holding wrong view, and undertaking actions in accordance with wrong view, at the breaking up of the body, after death, have reappeared in the animal realm.
Hoặc than ôi, những chúng sinh này đã thực hành thân ác hạnh, thực hành khẩu ác hạnh, thực hành ý ác hạnh, phỉ báng các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì các nghiệp tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào loài súc sinh.
Ime vā pana bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā’’’ti.
Or these good sirs, endowed with bad bodily conduct, bad verbal conduct, and bad mental conduct, revilers of Noble Ones, holding wrong view, and undertaking actions in accordance with wrong view, at the breaking up of the body, after death, have reappeared in a state of deprivation, a bad destination, the lower realms, in hell.’”
Hoặc than ôi, những chúng sinh này đã thực hành thân ác hạnh, thực hành khẩu ác hạnh, thực hành ý ác hạnh, phỉ báng các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì các nghiệp tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ sinh vào cõi đọa lạc, ác thú, đường khổ, địa ngục.’”
262. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā nānābāhāsu gahetvā yamassa rañño dassenti – ‘ayaṃ, deva, puriso amatteyyo apetteyyo asāmañño abrāhmañño, na kule jeṭṭhāpacāyī.
262. “Then, bhikkhus, the hell-guards seize him by both arms and present him to King Yama, saying: ‘This man, Your Majesty, was unfilial to his mother, unfilial to his father, disrespectful to ascetics, disrespectful to brahmins, and did not honor his elders in the family.
262. “Này các Tỳ-khưu, các ngục tốt địa ngục nắm lấy cánh tay của người ấy và trình lên vua Yama: ‘Bạch Thiên vương, người này không hiếu thảo với mẹ, không hiếu thảo với cha, không kính trọng Sa-môn, không kính trọng Bà-la-môn, không tôn kính người lớn trong gia đình.
Imassa devo daṇḍaṃ paṇetū’ti.
May Your Majesty inflict punishment upon him.’
Xin Thiên vương hãy ra hình phạt cho người này’.
Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā paṭhamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu paṭhamaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
Then, bhikkhus, King Yama questions, interrogates, and cross-examines him concerning the first divine messenger: ‘Good sir, did you not see the first divine messenger appear among humans?’
Này các Tỳ-khưu, vua Yama hỏi, tra vấn, và chất vấn người ấy về thiên sứ thứ nhất: ‘Này người kia, ngươi có thấy thiên sứ thứ nhất xuất hiện giữa loài người không?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’ti.
He replies: ‘No, venerable sir, I did not.’
Người ấy đáp: ‘Bạch Ngài, tôi không thấy’.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu daharaṃ kumāraṃ mandaṃ uttānaseyyakaṃ sake muttakarīse palipannaṃ semāna’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘Good sir, did you not see among humans a young, helpless infant lying prone in its own urine and excrement?’
“Này các Tỳ-khưu, vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, ngươi có thấy giữa loài người một đứa trẻ sơ sinh, yếu ớt, chỉ biết nằm ngửa, đang nằm vấy bẩn trong nước tiểu và phân của chính mình không?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘Yes, venerable sir, I did.’”
Người ấy đáp: ‘Bạch Ngài, tôi có thấy’.”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi jātidhammo, jātiṃ anatīto.
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘Good sir, when you were mature and discerning, did it not occur to you: “I too am subject to birth, not beyond birth.
“Này các Tỳ-khưu, vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, khi ngươi đã có trí tuệ và đã trưởng thành, điều này không xảy ra với ngươi sao: “Ta cũng là người phải chịu sinh, không thoát khỏi sinh.
Handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
Let me now perform wholesome deeds by body, by speech, and by mind”?’
Vậy ta hãy làm điều lành bằng thân, bằng lời, bằng ý”?’
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante, pamādassaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘I could not, venerable sir; I was negligent, venerable sir.’”
Người ấy đáp: ‘Bạch Ngài, tôi không thể làm được, bạch Ngài, tôi đã phóng dật’.”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādavatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama says to him: ‘Good sir, because of your negligence, you did not perform wholesome deeds by body, by speech, and by mind.
“Này các Tỳ-khưu, vua Yama nói với người ấy: ‘Này người kia, vì phóng dật mà ngươi đã không làm điều lành bằng thân, bằng lời, bằng ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Surely, good sir, they will do to you according to your negligence.
Này người kia, chắc chắn họ sẽ đối xử với ngươi theo cách mà ngươi đã phóng dật.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ* neva mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ, tayāvetaṃ pāpakammaṃ* kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
For this evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brother, nor by your sister, nor by your friends and companions, nor by your relatives, nor by ascetics and brahmins, nor by deities; this evil deed was done by you, and you yourself will experience its result.’”
Quả thật, ác nghiệp này của ngươi không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh em làm, không phải do chị em làm, không phải do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư thiên làm, mà chính ngươi đã làm ác nghiệp này, chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó’.”
263. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā paṭhamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā dutiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu dutiyaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
263. “Then, bhikkhus, King Yama, having questioned, interrogated, and cross-examined him concerning the first divine messenger, questions, interrogates, and cross-examines him concerning the second divine messenger: ‘Good sir, did you not see the second divine messenger appear among humans?’
263. “Này các Tỳ-khưu, sau khi hỏi, tra vấn, và chất vấn người ấy về thiên sứ thứ nhất, vua Yama hỏi, tra vấn, và chất vấn người ấy về thiên sứ thứ hai: ‘Này người kia, ngươi có thấy thiên sứ thứ hai xuất hiện giữa loài người không?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He replies: ‘No, venerable sir, I did not.’”
Người ấy đáp: ‘Bạch Ngài, tôi không thấy’.”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā ( )* jiṇṇaṃ gopānasivaṅkaṃ bhoggaṃ daṇḍaparāyanaṃ pavedhamānaṃ gacchantaṃ āturaṃ gatayobbanaṃ khaṇḍadantaṃ palitakesaṃ vilūnaṃ khalitasiraṃ* valinaṃ tilakāhatagatta’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did you not see among humans a woman or a man, old, stooped like a roof-rafter, bent, relying on a staff, trembling as they walked, afflicted, past their youth, with broken teeth, gray hair, thinning or bald head, wrinkled, and a body blotched like sesame-seed spots?’
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy trong loài người, một người phụ nữ hay một người đàn ông già yếu, lưng còng như đòn tay mái nhà, thân thể suy yếu, phải nương tựa gậy, run rẩy bước đi, đau ốm, tuổi trẻ đã qua, răng gãy, tóc bạc, đầu hói, da nhăn nheo, thân thể đốm vằn sao?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘Yes, venerable sir, I did.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi jarādhammo, jaraṃ anatīto.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did it not occur to you, being discerning and mature: “I too am subject to old age, not beyond old age.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, khi ngươi đã có trí tuệ và lớn tuổi như vậy, há không nghĩ rằng: “Ta cũng phải chịu già, không thoát khỏi già. Thôi, ta hãy làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý” sao?’
Handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
Let me now perform wholesome deeds by body, speech, and mind”?’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thể làm được, tôi đã lơ là, thưa Đại vương.’”
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante, pamādassaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘I was not able, venerable sir; I was negligent, venerable sir.’
Y nói rằng: ‘Bạch Ngài, con đã không thể, bạch Ngài, con đã lơ là’.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādavatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, because of your negligence, you did not perform wholesome deeds by body, speech, and mind.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, vì sự lơ là của ngươi, ngươi đã không làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, good sir, they will treat you according to your negligence.
Chắc chắn, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi theo sự lơ là của ngươi.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ, tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
This evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brother, nor by your sister, nor by your friends and associates, nor by your relatives, nor by ascetics and brahmins, nor by devas; this evil deed was done by you alone, and you alone will experience its result.’
Nghiệp ác này của ngươi không phải do mẹ ngươi làm, không phải do cha ngươi làm, không phải do anh em ngươi làm, không phải do chị em ngươi làm, không phải do bạn bè thân hữu ngươi làm, không phải do bà con huyết thống ngươi làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do các vị trời làm; chính ngươi đã làm nghiệp ác này, và chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó.’”
264. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā dutiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā tatiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu tatiyaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
“Having thus questioned, examined, and admonished him concerning the second divine messenger, bhikkhus, King Yama then questions, examines, and admonishes him concerning the third divine messenger: ‘Good sir, did you not see among humans the third divine messenger appear?’
264. “Này các Tỳ-khưu, sau khi đã chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ hai, Vua Yama lại chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ ba rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy vị sứ giả của chư thiên thứ ba xuất hiện trong loài người sao?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘No, venerable sir, I did not.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā ābādhikaṃ dukkhitaṃ bāḷhagilānaṃ sake muttakarīse palipannaṃ semānaṃ aññehi vuṭṭhāpiyamānaṃ aññehi saṃvesiyamāna’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did you not see among humans a woman or a man, afflicted, suffering, gravely ill, lying in their own urine and feces, being lifted up by others, being put to bed by others?’
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy trong loài người, một người phụ nữ hay một người đàn ông bệnh tật, đau khổ, ốm nặng, nằm lăn lóc trong phân và nước tiểu của chính mình, được người khác nâng dậy, được người khác đặt nằm xuống sao?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘Yes, venerable sir, I did.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi byādhidhammo, byādhiṃ anatīto.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did it not occur to you, being discerning and mature: “I too am subject to illness, not beyond illness.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, khi ngươi đã có trí tuệ và lớn tuổi như vậy, há không nghĩ rằng: “Ta cũng phải chịu bệnh tật, không thoát khỏi bệnh tật. Thôi, ta hãy làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý” sao?’
Handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
Let me now perform wholesome deeds by body, speech, and mind”?’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thể làm được, tôi đã lơ là, thưa Đại vương.’”
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante, pamādassaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘I was not able, venerable sir; I was negligent, venerable sir.’
Y nói rằng: ‘Bạch Ngài, con đã không thể, bạch Ngài, con đã lơ là’.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādavatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, because of your negligence, you did not perform wholesome deeds by body, speech, and mind.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, vì sự lơ là của ngươi, ngươi đã không làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, good sir, they will treat you according to your negligence.
Chắc chắn, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi theo sự lơ là của ngươi.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ, tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
This evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brother, nor by your sister, nor by your friends and associates, nor by your relatives, nor by ascetics and brahmins, nor by devas; this evil deed was done by you alone, and you alone will experience its result.’
Nghiệp ác này của ngươi không phải do mẹ ngươi làm, không phải do cha ngươi làm, không phải do anh em ngươi làm, không phải do chị em ngươi làm, không phải do bạn bè thân hữu ngươi làm, không phải do bà con huyết thống ngươi làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do các vị trời làm; chính ngươi đã làm nghiệp ác này, và chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó.’”
265. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā tatiyaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā catutthaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu catutthaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
“Having thus questioned, examined, and admonished him concerning the third divine messenger, bhikkhus, King Yama then questions, examines, and admonishes him concerning the fourth divine messenger: ‘Good sir, did you not see among humans the fourth divine messenger appear?’
265. “Này các Tỳ-khưu, sau khi đã chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ ba, Vua Yama lại chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ tư rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy vị sứ giả của chư thiên thứ tư xuất hiện trong loài người sao?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘No, venerable sir, I did not.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu rājāno coraṃ āgucāriṃ gahetvā vividhā kammakāraṇā kārente – kasāhipi tāḷente vettehipi tāḷente addhadaṇḍakehipi tāḷente hatthampi chindante pādampi chindante hatthapādampi chindante kaṇṇampi chindante nāsampi chindante kaṇṇanāsampi chindante bilaṅgathālikampi karonte saṅkhamuṇḍikampi karonte rāhumukhampi karonte jotimālikampi karonte hatthapajjotikampi karonte erakavattikampi karonte cīrakavāsikampi karonte eṇeyyakampi karonte baḷisamaṃsikampi karonte kahāpaṇikampi karonte khārāpatacchikampi karonte palighaparivattikampi karonte palālapīṭhakampi karonte tattenapi telena osiñcante sunakhehipi khādāpente jīvantampi sūle uttāsente asināpi sīsaṃ chindante’ti?
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did you not see kings having caught a thief, a wrongdoer, inflicting various tortures: flogging with whips, beating with canes, striking with half-staves, cutting off hands, cutting off feet, cutting off hands and feet, cutting off ears, cutting off noses, cutting off ears and noses, inflicting the “gruel pot” punishment, the “conch-shell scalp” punishment, the “Rāhu’s mouth” punishment, the “garland of fire” punishment, the “burning hand” punishment, the “bark-strip” punishment, the “deer-skin” punishment, the “fish-hook” punishment, the “coin-shaving” punishment, the “alkaline-cleansing” punishment, the “pivot” punishment, the “straw mat” punishment, drenching with boiling oil, being made to be eaten by dogs, impaling alive on stakes, or beheading with a sword?’
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy các vị vua bắt giữ kẻ trộm cắp, kẻ phạm tội, và thi hành nhiều hình phạt khác nhau: đánh bằng roi, đánh bằng gậy, đánh bằng dùi cui, chặt tay, chặt chân, chặt cả tay lẫn chân, cắt tai, cắt mũi, cắt cả tai lẫn mũi, biến thành nồi cám, biến thành đầu vỏ ốc, biến thành mặt quỷ Rāhu, biến thành vòng lửa, biến thành đèn tay, biến thành vòng tai bằng lá cây eraka, biến thành áo vỏ cây, biến thành nai, biến thành thịt móc câu, biến thành đồng tiền, biến thành dao bào kiềm, biến thành trục quay, biến thành đống rơm, dội dầu sôi, cho chó ăn, đóng cọc xuyên người khi còn sống, và chém đầu bằng gươm sao?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘Yes, venerable sir, I did.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ye kira, bho, pāpakāni kammāni karonti te diṭṭheva dhamme evarūpā vividhā kammakāraṇā karīyanti, kimaṅgaṃ* pana parattha!
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did it not occur to you, being discerning and mature: “Indeed, good sirs, those who commit evil deeds are inflicted with such various tortures right here in this very life; how much more so in the next life!
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, khi ngươi đã có trí tuệ và lớn tuổi như vậy, há không nghĩ rằng: “Than ôi! Những kẻ làm ác nghiệp thì ngay trong đời này đã phải chịu những hình phạt khác nhau như vậy, huống chi ở đời sau! Thôi, ta hãy làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý” sao?’
Handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
Let me now perform wholesome deeds by body, speech, and mind”?’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thể làm được, tôi đã lơ là, thưa Đại vương.’”
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante, pamādassaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘I was not able, venerable sir; I was negligent, venerable sir.’
Y nói rằng: ‘Bạch Ngài, con đã không thể, bạch Ngài, con đã lơ là’.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādavatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, because of your negligence, you did not perform wholesome deeds by body, speech, and mind.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, vì sự lơ là của ngươi, ngươi đã không làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, good sir, they will treat you according to your negligence.
Chắc chắn, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi theo sự lơ là của ngươi.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ, tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
This evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brother, nor by your sister, nor by your friends and associates, nor by your relatives, nor by ascetics and brahmins, nor by devas; this evil deed was done by you alone, and you alone will experience its result.’
Nghiệp ác này của ngươi không phải do mẹ ngươi làm, không phải do cha ngươi làm, không phải do anh em ngươi làm, không phải do chị em ngươi làm, không phải do bạn bè thân hữu ngươi làm, không phải do bà con huyết thống ngươi làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do các vị trời làm; chính ngươi đã làm nghiệp ác này, và chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó.’”
266. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā catutthaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā pañcamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjati samanugāhati samanubhāsati – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu pañcamaṃ devadūtaṃ pātubhūta’nti?
“Having thus questioned, examined, and admonished him concerning the fourth divine messenger, bhikkhus, King Yama then questions, examines, and admonishes him concerning the fifth divine messenger: ‘Good sir, did you not see among humans the fifth divine messenger appear?’
266. “Này các Tỳ-khưu, sau khi đã chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ tư, Vua Yama lại chất vấn, tra hỏi, và giải thích về vị sứ giả của chư thiên thứ năm rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy vị sứ giả của chư thiên thứ năm xuất hiện trong loài người sao?’
So evamāha – ‘nāddasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘No, venerable sir, I did not.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, na tvaṃ addasa manussesu itthiṃ vā purisaṃ vā ekāhamataṃ vā dvīhamataṃ vā tīhamataṃ vā uddhumātakaṃ vinīlakaṃ vipubbakajāta’nti?
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did you not see among humans a woman or a man, dead for one day, or two days, or three days, bloated, discolored, putrefying?’
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, ngươi há không thấy trong loài người, một người phụ nữ hay một người đàn ông đã chết một ngày, hai ngày, hoặc ba ngày, thân thể trương phình, xanh xám, và đầy mủ sao?’
So evamāha – ‘addasaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘Yes, venerable sir, I did.’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi có thấy.’”
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, tassa te viññussa sato mahallakassa na etadahosi – ahampi khomhi maraṇadhammo, maraṇaṃ anatīto.
“Then, bhikkhus, King Yama said to that man: ‘Good sir, did it not occur to you, being discerning and mature: “I too am subject to death, not beyond death.
“Này các Tỳ-khưu, Vua Yama hỏi người ấy rằng: ‘Này người kia, khi ngươi đã có trí tuệ và lớn tuổi như vậy, há không nghĩ rằng: “Ta cũng phải chịu chết, không thoát khỏi chết. Thôi, ta hãy làm điều thiện bằng thân, khẩu, ý” sao?’
Handāhaṃ kalyāṇaṃ karomi kāyena vācāya manasā’ti?
Let me now perform wholesome deeds by body, speech, and mind”?’
Người ấy đáp: ‘Thưa Đại vương, tôi không thể làm được, tôi đã lơ là, thưa Đại vương.’”
So evamāha – ‘nāsakkhissaṃ, bhante, pamādassaṃ, bhante’’’ti.
He said: ‘I was not able, venerable sir; I was negligent, venerable sir.’
Y nói rằng: ‘Bạch Ngài, con đã không thể, bạch Ngài, con đã lơ là’.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā evamāha – ‘ambho purisa, pamādavatāya na kalyāṇamakāsi kāyena vācāya manasā.
‘‘Monks, King Yama then says to that person: ‘O man, due to heedlessness, you did not do good by body, speech, or mind.
Này các Tỳ-kheo, Vua Diêm-ma nói với người ấy rằng: ‘Này người kia, do sự phóng dật, ngươi đã không làm điều thiện bằng thân, lời nói và ý nghĩ.
Taggha tvaṃ, ambho purisa, tathā karissanti yathā taṃ pamattaṃ.
Indeed, O man, they will treat you as one who was heedless.
Quả thật, này người kia, họ sẽ đối xử với ngươi theo cách của kẻ phóng dật.
Taṃ kho pana te etaṃ pāpakammaṃ neva mātarā kataṃ na pitarā kataṃ na bhātarā kataṃ na bhaginiyā kataṃ na mittāmaccehi kataṃ na ñātisālohitehi kataṃ na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ na devatāhi kataṃ, tayāvetaṃ pāpakammaṃ kataṃ, tvaññevetassa vipākaṃ paṭisaṃvedissasī’’’ti.
This evil deed of yours was not done by your mother, nor by your father, nor by your brother, nor by your sister, nor by your friends and associates, nor by your relatives by blood, nor by ascetics and brahmins, nor by devas; this evil deed was done by you alone, and you alone will experience its result.’’’
Này, ác nghiệp này của ngươi không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh em làm, không phải do chị em làm, không phải do bạn bè, người thân làm, không phải do bà con dòng họ làm, không phải do các Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do các thiên nhân làm; ác nghiệp này là do chính ngươi làm, và chính ngươi sẽ cảm thọ quả báo của nó’.
267. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, yamo rājā pañcamaṃ devadūtaṃ samanuyuñjitvā samanugāhitvā samanubhāsitvā tuṇhī hoti.
267. ‘‘Monks, King Yama, having questioned, investigated, and addressed that person about the fifth deva-messenger, remains silent.
267. Này các Tỳ-kheo, Vua Diêm-ma sau khi đã chất vấn, đã tra xét, đã thuyết giảng về sứ giả của chư thiên thứ năm cho người ấy, thì im lặng.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā pañcavidhabandhanaṃ nāma kammakāraṇaṃ karonti – tattaṃ ayokhilaṃ hatthe gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ dutiye hatthe gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ pāde gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ dutiye pāde gamenti, tattaṃ ayokhilaṃ majjheurasmiṃ gamenti.
Monks, the guardians of hell then inflict upon him the fivefold fetter: they drive a red-hot iron stake through one hand, a red-hot iron stake through the other hand, a red-hot iron stake through one foot, a red-hot iron stake through the other foot, and a red-hot iron stake through the middle of his chest.
Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt làm cho người ấy sự trừng phạt gọi là “năm hình thức trói buộc” – họ đóng một cây đinh sắt nung nóng vào một bàn tay, đóng một cây đinh sắt nung nóng vào bàn tay thứ hai, đóng một cây đinh sắt nung nóng vào một bàn chân, đóng một cây đinh sắt nung nóng vào bàn chân thứ hai, đóng một cây đinh sắt nung nóng vào giữa ngực.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṃ karoti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Người ấy ở đó cảm thọ những cảm giác đau đớn, dữ dội, thô bạo, cay độc, và người ấy chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā saṃvesetvā kuṭhārīhi tacchanti…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā vāsīhi tacchanti…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā rathe yojetvā ādittāya pathaviyā sampajjalitāya sajotibhūtāya sārentipi, paccāsārentipi…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā mahantaṃ aṅgārapabbataṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ āropentipi oropentipi…pe… tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā uddhaṃpādaṃ adhosiraṃ gahetvā tattāya lohakumbhiyā pakkhipanti ādittāya sampajjalitāya sajotibhūtāya.
Monks, the guardians of hell then lay him down and hack him with axes…pe… Monks, the guardians of hell then seize him, head down and feet up, and plane him with adzes…pe… Monks, the guardians of hell then yoke him to a chariot and make him go back and forth on a blazing, flaming, glowing earth…pe… Monks, the guardians of hell then make him ascend and descend a great mountain of blazing, flaming, glowing coals…pe… Monks, the guardians of hell then seize him, head down and feet up, and throw him into a red-hot iron cauldron, blazing, flaming, and glowing.
Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt sau khi đã đặt người ấy nằm xuống, dùng rìu đẽo gọt… (tương tự như trên)… Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt nắm chân người ấy ngửa lên, đầu chúc xuống, dùng dao bào đẽo gọt… (tương tự như trên)… Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt cho người ấy vào xe, kéo đi và kéo lại trên mặt đất đang cháy, bừng bừng, rực lửa… (tương tự như trên)… Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt đẩy người ấy lên và kéo xuống một ngọn núi than lớn đang cháy, bừng bừng, rực lửa… (tương tự như trên)… Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt nắm chân người ấy ngửa lên, đầu chúc xuống, ném vào một cái vạc sắt nung nóng, đang cháy, bừng bừng, rực lửa.
So tattha pheṇuddehakaṃ paccati.
There he boils, bubbling with foam.
Người ấy ở đó sôi sùng sục như bọt.
So tattha pheṇuddehakaṃ paccamāno sakimpi uddhaṃ gacchati, sakimpi adho gacchati, sakimpi tiriyaṃ gacchati.
As he boils, bubbling with foam, he rises to the top sometimes, sinks to the bottom sometimes, and moves sideways sometimes.
Người ấy ở đó khi sôi sùng sục, có lúc trồi lên, có lúc chìm xuống, có lúc trôi ngang.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Người ấy ở đó cảm thọ những cảm giác đau đớn, dữ dội, thô bạo, cay độc, và người ấy chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā mahāniraye pakkhipanti.
Monks, the guardians of hell then throw him into the Mahāniraya.
Này các Tỳ-kheo, các ngục tốt ném người ấy vào đại địa ngục.
So kho pana, bhikkhave, mahānirayo –
Monks, that Mahāniraya –
Này các Tỳ-kheo, đại địa ngục ấy –
268. ‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, mahānirayassa puratthimāya bhittiyā acci uṭṭhahitvā pacchimāya bhittiyā paṭihaññati, pacchimāya bhittiyā acci uṭṭhahitvā puratthimāya bhittiyā paṭihaññati, uttarāya bhittiyā acci uṭṭhahitvā dakkhiṇāya bhittiyā paṭihaññati, dakkhiṇāya bhittiyā acci uṭṭhahitvā uttarāya bhittiyā paṭihaññati, heṭṭhā acci uṭṭhahitvā upari paṭihaññati, uparito acci uṭṭhahitvā heṭṭhā paṭihaññati.
268. ‘‘Monks, from the eastern wall of that Mahāniraya, a flame rises and strikes the western wall; from the western wall, a flame rises and strikes the eastern wall; from the northern wall, a flame rises and strikes the southern wall; from the southern wall, a flame rises and strikes the northern wall; from below, a flame rises and strikes above; from above, a flame rises and strikes below.
268. ‘‘Này các Tỳ-khưu, lửa từ bức tường phía đông của đại địa ngục đó bốc lên và đập vào bức tường phía tây; lửa từ bức tường phía tây bốc lên và đập vào bức tường phía đông; lửa từ bức tường phía bắc bốc lên và đập vào bức tường phía nam; lửa từ bức tường phía nam bốc lên và đập vào bức tường phía bắc; lửa từ bên dưới bốc lên và đập vào bên trên; lửa từ bên trên bốc lên và đập vào bên dưới.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Ở đó, kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ khổ đau tột cùng, khốc liệt, cay đắng, và không chết cho đến khi ác nghiệp đó chưa tiêu tan.
‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena tassa mahānirayassa puratthimaṃ dvāraṃ apāpurīyati* .
‘‘Monks, there comes a time, on some rare occasion, after a long period, when the eastern door of that Mahāniraya opens.
‘‘Này các Tỳ-khưu, có một thời điểm, đôi khi, sau một thời gian dài, cánh cửa phía đông của đại địa ngục đó được mở ra.
So tattha sīghena javena dhāvati.
There he runs with swift speed.
Kẻ ấy liền chạy với tốc độ nhanh chóng.
Tassa sīghena javena dhāvato chavimpi ḍayhati, cammampi ḍayhati, maṃsampi ḍayhati, nhārumpi ḍayhati, aṭṭhīnipi sampadhūpāyanti, ubbhataṃ tādisameva hoti.
As he runs with swift speed, his skin burns, his hide burns, his flesh burns, his sinews burn, his bones smolder, and he looks just the same as when he stepped out.
Khi kẻ ấy chạy với tốc độ nhanh chóng, da bị cháy, thịt bị cháy, gân bị cháy, xương cũng bốc khói, và cứ như thế khi nhấc chân lên.
Yato ca kho so, bhikkhave, bahusampatto hoti, atha taṃ dvāraṃ pidhīyati* .
But when, monks, he has reached a certain distance, that door closes.
Này các Tỳ-khưu, khi kẻ ấy đã đi được một quãng xa, thì cánh cửa đó đóng lại.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Ở đó, kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ khổ đau tột cùng, khốc liệt, cay đắng, và không chết cho đến khi ác nghiệp đó chưa tiêu tan.
‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena tassa mahānirayassa pacchimaṃ dvāraṃ apāpurīyati…pe… uttaraṃ dvāraṃ apāpurīyati…pe… dakkhiṇaṃ dvāraṃ apāpurīyati.
‘‘Monks, there comes a time, on some rare occasion, after a long period, when the western door of that Mahāniraya opens…pe… the northern door opens…pe… the southern door opens.
‘‘Này các Tỳ-khưu, có một thời điểm, đôi khi, sau một thời gian dài, cánh cửa phía tây của đại địa ngục đó được mở ra… cánh cửa phía bắc được mở ra… cánh cửa phía nam được mở ra.
So tattha sīghena javena dhāvati.
There he runs with swift speed.
Kẻ ấy liền chạy với tốc độ nhanh chóng.
Tassa sīghena javena dhāvato chavimpi ḍayhati, cammampi ḍayhati, maṃsampi ḍayhati, nhārumpi ḍayhati, aṭṭhīnipi sampadhūpāyanti, ubbhataṃ tādisameva hoti.
As he runs with swift speed, his skin burns, his hide burns, his flesh burns, his sinews burn, his bones smolder, and he looks just the same as when he stepped out.
Khi kẻ ấy chạy với tốc độ nhanh chóng, da bị cháy, thịt bị cháy, gân bị cháy, xương cũng bốc khói, và cứ như thế khi nhấc chân lên.
Yato ca kho so, bhikkhave, bahusampatto hoti, atha taṃ dvāraṃ pidhīyati.
But when, monks, he has reached a certain distance, that door closes.
Này các Tỳ-khưu, khi kẻ ấy đã đi được một quãng xa, thì cánh cửa đó đóng lại.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Ở đó, kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ khổ đau tột cùng, khốc liệt, cay đắng, và không chết cho đến khi ác nghiệp đó chưa tiêu tan.
‘‘Hoti kho so, bhikkhave, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena tassa mahānirayassa puratthimaṃ dvāraṃ apāpurīyati.
‘‘Monks, there comes a time, on some rare occasion, after a long period, when the eastern door of that Mahāniraya opens.
‘‘Này các Tỳ-khưu, có một thời điểm, đôi khi, sau một thời gian dài, cánh cửa phía đông của đại địa ngục đó được mở ra.
So tattha sīghena javena dhāvati.
There he runs with swift speed.
Kẻ ấy liền chạy với tốc độ nhanh chóng.
Tassa sīghena javena dhāvato chavimpi ḍayhati, cammampi ḍayhati, maṃsampi ḍayhati, nhārumpi ḍayhati, aṭṭhīnipi sampadhūpāyanti, ubbhataṃ tādisameva hoti.
As he runs with swift speed, his skin burns, his hide burns, his flesh burns, his sinews burn, his bones smolder, and he looks just the same as when he stepped out.
Khi kẻ ấy chạy với tốc độ nhanh chóng, da bị cháy, thịt bị cháy, gân bị cháy, xương cũng bốc khói, và cứ như thế khi nhấc chân lên.
So tena dvārena nikkhamati.
He exits through that door.
Kẻ ấy thoát ra qua cánh cửa đó.
269. ‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, mahānirayassa samanantarā sahitameva mahanto gūthanirayo.
269. ‘‘Monks, immediately after that Mahāniraya, there is a great Gūthaniraya (hell of excrement) right next to it.
269. Này các Tỳ-kheo, ngay sau đại địa ngục đó, liền có một đại ngục phân uế rộng lớn.
So tattha patati.
He falls into it.
Kẻ ấy rơi vào đó.
Tasmiṃ kho pana, bhikkhave, gūthaniraye sūcimukhā pāṇā chaviṃ chindanti, chaviṃ chetvā cammaṃ chindanti, cammaṃ chetvā maṃsaṃ chindanti, maṃsaṃ chetvā nhāruṃ chindanti, nhāruṃ chetvā aṭṭhiṃ chindanti, aṭṭhiṃ chetvā aṭṭhimiñjaṃ khādanti.
Monks, in that Gūthaniraya, needle-mouthed creatures pierce his skin, having pierced the skin, they pierce the hide, having pierced the hide, they pierce the flesh, having pierced the flesh, they pierce the sinews, having pierced the sinews, they pierce the bone, and having pierced the bone, they devour the bone marrow.
Này các Tỳ-kheo, trong ngục phân uế đó, những chúng sinh có miệng như kim xuyên thủng da mỏng, xuyên thủng da mỏng rồi xuyên thủng da dày, xuyên thủng da dày rồi xuyên thủng thịt, xuyên thủng thịt rồi xuyên thủng gân, xuyên thủng gân rồi xuyên thủng xương, xuyên thủng xương rồi ăn tủy xương.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khốc liệt, cay đắng ở đó, và không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, gūthanirayassa samanantarā sahitameva mahanto kukkulanirayo.
‘‘Monks, immediately after that Gūthaniraya, there is a great Kukkulaniraya (hell of hot ashes) right next to it.
Này các Tỳ-kheo, ngay sau ngục phân uế đó, liền có một đại ngục tro nóng (kukkulaniraya) rộng lớn.
So tattha patati.
He falls into it.
Kẻ ấy rơi vào đó.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khốc liệt, cay đắng ở đó, và không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, kukkulanirayassa samanantarā sahitameva mahantaṃ simbalivanaṃ uddhaṃ* yojanamuggataṃ soḷasaṅgulakaṇṭakaṃ* ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ.
‘‘Monks, immediately after that Kukkulaniraya, there is a great Simbalivana (silk-cotton tree forest) right next to it, rising one league high, with sixteen-finger-long thorns, blazing, flaming, and glowing.
Này các Tỳ-kheo, ngay sau ngục tro nóng đó, liền có một khu rừng Simbalī rộng lớn, cao một dojana, với những gai dài mười sáu đốt ngón tay, bốc cháy, rực sáng, chói lòa.
Tattha āropentipi oropentipi.
There they make him ascend and descend.
Ở đó, họ bị đẩy lên và bị kéo xuống.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, severe, and bitter feelings, and he does not die until that evil deed is exhausted.
Kẻ ấy chịu đựng những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khốc liệt, cay đắng ở đó, và không chết chừng nào ác nghiệp đó chưa chấm dứt.
‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, simbalivanassa samanantarā sahitameva mahantaṃ asipattavanaṃ.
“And immediately after that silk-cotton tree forest, monks, there is indeed a great sword-leaf forest.
Này chư Tỳ-khưu, ngay sau khu rừng bông gòn ấy là một khu rừng lá kiếm rộng lớn, dày đặc.
So tattha pavisati.
He enters there.
Người ấy đi vào đó.
Tassa vāteritāni pattāni patitāni hatthampi chindanti, pādampi chindanti, hatthapādampi chindanti, kaṇṇampi chindanti, nāsampi chindanti, kaṇṇanāsampi chindanti.
Its leaves, stirred by the wind, fall and cut off his hands, cut off his feet, cut off his hands and feet, cut off his ears, cut off his nose, cut off his ears and nose.
Những chiếc lá bị gió thổi rụng xuống, cắt đứt cả tay, cắt đứt cả chân, cắt đứt cả tay và chân, cắt đứt cả tai, cắt đứt cả mũi, cắt đứt cả tai và mũi của người ấy.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, harsh, bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy chịu những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng ở đó, nhưng chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
‘‘Tassa kho pana, bhikkhave, asipattavanassa samanantarā sahitameva mahatī khārodakā nadī* .
“And immediately after that sword-leaf forest, monks, there is indeed a great river of caustic water.
Này chư Tỳ-khưu, ngay sau khu rừng lá kiếm ấy là một con sông nước kiềm (khārodakā nadī) rộng lớn, dày đặc.
So tattha patati.
He falls there.
Người ấy rơi xuống đó.
So tattha anusotampi vuyhati, paṭisotampi vuyhati, anusotapaṭisotampi vuyhati.
There he is carried downstream, he is carried upstream, he is carried both downstream and upstream.
Người ấy bị cuốn trôi xuôi dòng, bị cuốn trôi ngược dòng, bị cuốn trôi xuôi dòng và ngược dòng ở đó.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, harsh, bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy chịu những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng ở đó, nhưng chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
270. ‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā balisena uddharitvā thale patiṭṭhāpetvā evamāhaṃsu – ‘ambho purisa, kiṃ icchasī’ti?
270. “Then, monks, the guardians of hell lift him out with an iron hook, place him on dry ground, and say: ‘Hey man, what do you wish for?’
270. Này chư Tỳ-khưu, những người cai ngục địa ngục dùng lưỡi câu kéo người ấy lên, đặt lên bờ và hỏi: ‘Này người kia, ngươi muốn gì?’
So evamāha – ‘jighacchitosmi, bhante’ti.
He says: ‘I am hungry, sirs.’
Người ấy đáp: ‘Thưa các ngài, tôi đói.’
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā tattena ayosaṅkunā mukhaṃ vivaritvā ādittena sampajjalitena sajotibhūtena tattaṃ lohaguḷaṃ mukhe pakkhipanti ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ.
Then, monks, the guardians of hell prise open his mouth with a burning, blazing, glowing iron spike and cast a burning, blazing, glowing hot iron ball into his mouth.
Này chư Tỳ-khưu, những người cai ngục địa ngục dùng một cây đinh sắt nung đỏ, cháy sáng rực rỡ, mở miệng người ấy ra, rồi ném một cục sắt nung đỏ, cháy sáng rực rỡ vào miệng người ấy.
So tassa* oṭṭhampi dahati* , mukhampi dahati, kaṇṭhampi dahati, urampi* dahati, antampi antaguṇampi ādāya adhobhāgā nikkhamati.
That burns his lips, burns his mouth, burns his throat, burns his chest, and carrying his intestines and mesentery, it passes out from below.
Cục sắt ấy đốt cháy môi, đốt cháy miệng, đốt cháy cổ họng, đốt cháy ngực, mang theo ruột và màng ruột, rồi thoát ra từ phía dưới.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, harsh, bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy chịu những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng ở đó, nhưng chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
‘‘Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā evamāhaṃsu – ‘ambho purisa, kiṃ icchasī’ti?
“Then, monks, the guardians of hell say to him: ‘Hey man, what do you wish for?’
Này chư Tỳ-khưu, những người cai ngục địa ngục hỏi người ấy: ‘Này người kia, ngươi muốn gì?’
So evamāha – ‘pipāsitosmi, bhante’ti.
He says: ‘I am thirsty, sirs.’
Người ấy đáp: ‘Thưa các ngài, tôi khát.’
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā tattena ayosaṅkunā mukhaṃ vivaritvā ādittena sampajjalitena sajotibhūtena tattaṃ tambalohaṃ mukhe āsiñcanti ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ.
Then, monks, the guardians of hell prise open his mouth with a burning, blazing, glowing iron spike and pour burning, blazing, glowing hot molten copper into his mouth.
Này chư Tỳ-khưu, những người cai ngục địa ngục dùng một cây đinh sắt nung đỏ, cháy sáng rực rỡ, mở miệng người ấy ra, rồi đổ đồng nóng chảy nung đỏ, cháy sáng rực rỡ vào miệng người ấy.
Taṃ tassa* oṭṭhampi dahati, mukhampi dahati, kaṇṭhampi dahati, urampi dahati, antampi antaguṇampi ādāya adhobhāgā nikkhamati.
That burns his lips, burns his mouth, burns his throat, burns his chest, and carrying his intestines and mesentery, it passes out from below.
Chất lỏng ấy đốt cháy môi, đốt cháy miệng, đốt cháy cổ họng, đốt cháy ngực, mang theo ruột và màng ruột, rồi thoát ra từ phía dưới.
So tattha dukkhā tibbā kharā kaṭukā vedanā vedeti, na ca tāva kālaṅkaroti, yāva na taṃ pāpakammaṃ byantīhoti.
There he experiences painful, sharp, harsh, bitter feelings, and he does not die until that evil kamma is exhausted.
Người ấy chịu những cảm thọ đau đớn, dữ dội, khắc nghiệt, cay đắng ở đó, nhưng chưa chết chừng nào ác nghiệp ấy chưa chấm dứt.
Tamenaṃ, bhikkhave, nirayapālā puna mahāniraye pakkhipanti.
Then, monks, the guardians of hell throw him back into the Great Hell.
Này chư Tỳ-khưu, những người cai ngục địa ngục lại ném người ấy vào đại địa ngục.
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, yamassa rañño etadahosi – ‘ye kira, bho, loke pāpakāni akusalāni kammāni karonti te evarūpā vividhā kammakāraṇā karīyanti.
“Formerly, monks, this thought occurred to King Yama: ‘Indeed, sirs, those who commit evil, unwholesome deeds in the world undergo such various modes of torment.
Này chư Tỳ-khưu, thuở xưa, vua Yama đã có ý nghĩ này: ‘Những kẻ nào trên đời làm các ác nghiệp, bất thiện nghiệp, thì sẽ chịu những hình phạt đa dạng như thế này.
Aho vatāhaṃ manussattaṃ labheyyaṃ.
Oh, if only I could attain human existence.
Ôi, ước gì ta được làm người.
Tathāgato ca loke uppajjeyya arahaṃ sammāsambuddho.
And if only a Tathāgata, an Arahant, a Perfectly Self-Enlightened One, would arise in the world.
Và một vị Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên đời.
Tañcāhaṃ bhagavantaṃ payirupāseyyaṃ.
And if only I could attend upon that Blessed One.
Và ta sẽ phụng sự vị Thế Tôn ấy.
So ca me bhagavā dhammaṃ deseyya.
And if only that Blessed One would teach me the Dhamma.
Và vị Thế Tôn ấy sẽ thuyết Pháp cho ta.
Tassa cāhaṃ bhagavato dhammaṃ ājāneyya’nti.
And if only I could understand the Dhamma of that Blessed One.’
Và ta sẽ hiểu Pháp của vị Thế Tôn ấy.’
Taṃ kho panāhaṃ, bhikkhave, nāññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā sutvā vadāmi, api ca yadeva sāmaṃ ñātaṃ sāmaṃ diṭṭhaṃ sāmaṃ viditaṃ tadevāhaṃ vadāmī’’ti.
“And this, monks, I do not say having heard it from any other ascetic or brahman; but rather, what I myself have known, myself seen, myself understood, that alone I declare.”
Này chư Tỳ-khưu, ta nói điều này không phải do nghe từ một vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác, mà chính là điều ta tự mình biết, tự mình thấy, tự mình chứng ngộ, ta nói điều đó.”